SlideShare a Scribd company logo
1 of 119
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI QUANG VINH
LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN ĐỂ PHẠM TỘI
VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI QUANG VINH
LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN ĐỂ PHẠM TỘI
VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản
Hà nội - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Bïi Quang Vinh
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH TIẾT TĂNG
NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ "LỢI DỤNG CHỨC
VỤ, QUYỀN HẠN" ĐỂ PHẠM TỘI TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự và phân biệt tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
với các tình tiết khác có liên quan
7
1.1.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 7
1.1.2. Đặc điểm của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 13
1.1.3. Phân biệt các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với các
tình tiết khác có liên quan của vụ án
15
1.2. Khái niệm, đặc điểm của tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền
hạn và sự cần thiết quy định tình tiết lợi dụng chức vụ quyền
hạn là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình
sự Việt Nam
21
1.2.1. Khái niệm chức vụ, quyền hạn và người có chức vụ, quyền hạn 21
1.2.2. Khái niệm lợi dụng chức vụ, quyền hạn và các hình thức lợi
dụng chức vụ, quyền hạn
30
1.2.3. Phân biệt lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lạm dụng chức vụ
quyền hạn
35
5
1.2.4. Phân biệt khái niệm chức vụ, quyền hạn trong tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ quyền hạn để
phạm tội" với khái niệm chức vụ, quyền hạn trong các tội
phạm về chức vụ quy định tại Chương XXI Bộ luật hình sự
38
1.3. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc quy định tình tiết lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để phạm tội là tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam
40
1.3.1. Sự cần thiết của việc quy định tình tiết lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự trong Luật hình sự Việt Nam
40
1.3.2 Ý nghĩa của việc quy định tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
trong Luật hình sự Việt Nam
46
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ "LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN" ĐỂ
PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
50
2.1. Khái quát vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội
trong pháp luật hình sự Việt Nam
50
2.1.1. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam 50
2.1.2. Vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội trong pháp
luật hình sự Việt Nam thời phong kiến (trước năm 1945)
52
2.1.3. Vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội trong các
văn bản pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước
khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời
56
2.1.4. Vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội trong Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1985
61
2.1.5. Vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội trong Bộ luật
hình sự Việt Nam năm 1999
63
2.2. Quy định của bộ luật hình sự việt nam năm 1999 về tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn"
64
6
2.2.1. Sự thể hiện tình tiết tăng nặng "lợi dụng chức vụ, quyền hạn"
với tư cách là tình tiết tăng nặng chung quy định tại Phần
chung Bộ luật hình sự năm 1999
65
2.2.2. Sự thể hiện tình tiết "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" với tư
cách là tình tiết tăng nặng định khung, tình tiết định tội quy
định tại Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999
67
2.3. So sánh với bộ luật hình sự nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa 72
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
HOÀN THIỆN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA TÌNH TIẾT
TĂNG NẶNG "LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN"
ĐỂ PHẠM TỘI
75
3.1. Thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi
dụng chức vụ, quyền hạn"
75
3.2. Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" và nguyên nhân
của nó
89
3.3. Một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
"lợi dụng chức vụ, quyền hạn"
95
3.3.1. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện quy định về tình tiết
tăng nặng "lợi dụng chức vụ, quyền hạn"
95
3.3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn"
98
KẾT LUẬN 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
11 Một số cặp đối lập giữa các tình tiết tăng nặng và tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
17
3.1 Tổng số vụ án hình sự và tổng số bị cáo trong 3 năm
(2011-2013)
75
3.2 Tổng số vụ án và số bị cáo phạm các tội liên quan đến
chức vụ trong 3 năm (2011-2013)
76
3.3 Tổng số vụ án và số bị cáo phạm các tội mà tội danh đó
có quy định tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm
hình sự là "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" trong 3 năm
(2011-2013)
76
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật nguy hiểm nhất cho xã hội,
được chủ thể có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi,
trái với pháp luật hình sự và do đó phải gánh chịu hậu quả pháp lý nghiêm
khắc nhất là hình phạt. Tội phạm là hiện tượng xã hội rất đa dạng, phức tạp
mà sự khác biệt chủ yếu được phân biệt qua tính chất, mức độ nguy hiểm cho
xã hội của nó. Tùy theo tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
người ta phân chia tội phạm thành các nhóm, các tội danh cụ thể và áp dụng
các khung hình phạt khác nhau trong cùng một tội danh, cũng như cá thể hóa
hình phạt trong mỗi khung hình phạt đối với từng trường hợp cụ thể.
Chúng ta biết rằng mức độ nguy hiểm của tội phạm được quy định bởi
nhiều thuộc tính, yếu tố như: tầm quan trọng của mối quan hệ xã hội bị xâm
hại, mức độ lỗi, động cơ, mục đích, nhân thân của chủ thể, thủ đoạn phạm tội,
thời gian, địa điểm phạm tội, hậu quả thiệt hại xảy ra... Tổng hợp tất cả những
yếu tố đó cho phép xác định mức độ nguy hiểm nhất định của tội phạm cụ thể,
làm cơ sở cho việc quy định tội phạm trong luật, cũng như trong các trường
hợp cụ thể là cơ sở quyết định trách nhiệm hình sự mà người thực hiện tội
phạm phải gánh chịu.
Trong số những người thực hiện hành vi phạm tội có một nhóm người
có đặc điểm là họ được trao quyền lực nhất định trong các quan hệ xã hội, thể
hiện dưới hình thức một chức vụ, quyền hạn nào đó. Nói cách khác họ có "ưu
thế" hơn những người khác trong việc tiếp cận, thực hiện hành vi xâm phạm
đến các quan hệ xã hội mà pháp luật hình sự bảo vệ, cũng như có khả năng
cao hơn trong việc che giấu trốn tránh trách nhiệm khi xâm hại các quan hệ xã
hội đó. Chính vì vậy trong một số trường hợp nhất định, nếu tội phạm được
thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn thì bị coi là có tính chất và mức độ
9
nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với người bình thường. Đó chính là cơ sở
khác quan để Bộ luật hình sự nước ta quy định tình tiết "lợi dụng chức vụ,
quyền hạn" là một tình tiết tăng nặng, đồng thời trong một số tội phạm cụ thể
còn lấy làm tình tiết tăng nặng định khung. Việc quy định như vậy một mặt
thể hiện quan điểm khoa học: lấy tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm làm "thước đo" chủ yếu cho trách nhiệm hình sự và hình phạt, mặt
khác thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là Nhà nước "của
dân, do dân, vì dân", cán bộ công chức, tức là những người thường mang một
chức vụ, quyền hạn nhất định, là công bộc của nhân dân, nếu lợi dụng điều
này để phạm tội phải bị coi là nguy hiểm hơn, phải chịu trách nhiệm hình sự
cao hơn người bình thường.
Trong thực tiễn, các tội phạm xuất hiện tình tiết "lợi dụng chức vụ,
quyền hạn" không phải hiếm và thường là những vụ án phức tạp, điều tra khó
khăn, áp dụng pháp luật có nhiều quan điểm khác nhau. Đặc biệt trong điều
kiện hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với những chuyển biến rất
quan trọng về kinh tế - xã hội, thì nhận thức về tình tiết "lợi dụng chức vụ,
quyền hạn" cũng phải mang những nội dung mới: yếu tố chức vụ quyền hạn
được hiểu như thế nào trong hệ thống các quan hệ xã hội của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong các mô hình như tổ chức đa sở
hữu, đơn vị sự nghiệp, đơn vị công ích? Việc làm rõ các vấn đề này có ý
nghĩa quan trọng cả về nhận thức lý luận và về thực tiễn đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung, tội phạm có yếu tố lợi dụng chức vụ quyền hạn
nói riêng.
Những vấn đề nêu trên tuy không mới mẻ nhưng đến nay vẫn chưa
được giải quyết toàn diện, thấu đáo. Chưa có công trình khoa học nào nghiên
cứu một cách sâu sắc, đầy đủ và riêng biệt về việc lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để phạm tội với tính chất là một tình tiết tăng nặng trong luật hình sự
Việt Nam.
10
Chính vì vậy tác giả quyết định chọn đề tài "Lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để phạm tội với tư cách là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
trong luật hình sự Việt Nam" để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khoa học pháp lý hình sự trong những năm qua đã có nhiều công trình
nghiên cứu, nhiều bài viết của nhiều tác giả có liên quan đến đề tài này như:
"Tìm hiểu về khái niệm người có chức vụ và lợi dụng chức vụ để phạm tội -
trong luật hình sự Việt Nam" của thạc sĩ Phan Thị Bích Hiền - Trường Đại
học Cảnh sát nhân dân; "Vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội"
của PGS.TS Trần Văn Độ - Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án
Tòa án Quân sự Trung ương; Đề tài khoa học mã số KXBD 02 về "đấu tranh
chống tham những - những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Ban Nội chính
Trung ương; các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu của TS. Nguyễn Mạnh Kháng,
TS.Nguyễn Ngọc Chí, GS.TS Đỗ Ngọc Quang, PGS.TS Võ Khánh Vinh…
Tuy nhiên điểm chung của các công trình này là nghiên cứ lý luận,
thực tiễn vấn đề lợi dụng chức, quyền hạn để phạm tội nói chung, đi sâu
nghiên cứu các tội phạm về tham nhũng và chức vụ mà chưa đi sâu nghiên
cứu về lý luận và thức tiễn vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội
với tư cách là tình tiết tăng nặng.
Xuất phát từ thực tế này cho thấy việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa
về lý luận và thực tiễn vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư
cách là tình tiết tăng nặng nhằm từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động cá
thể hóa trách nhiệm hình sự và hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự là
việc làm cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với
tư cách là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt
Nam" nhằm đạt được những mục đích như sau:
11
- Củng cố tri thức về cơ sở khoa học của việc quy định tình tiết "Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn" là tình tiết tăng nặng.
- Nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống các quy định của pháp
luật hình sự nước ta liên quan đến vai trò của tình tiết "Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn" đối với việc định khung và quyết định hình phạt.
- Nghiên cứu những vấn đề phát sinh trong thực tiễn áp dụng tình tiết
trên để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm, trên cơ sở đó đề
xuất một số kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật hình sự.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Luận văn cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học cụ
thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp điều tra khảo sát, phương pháp thống kê.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hình
sự về vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết
tăng nặng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu quy định tại phần
chung, cụ thể là điểm c khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự quy định vấn đề lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng nói
chung, các quy định về vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với
tư cách là tình tiết tăng nặng định khung tại một số tội phạm cụ thể quy định
tại phần riêng của Bộ luật hình sự và thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng lợi
12
dụng chức vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng trong thời gian từ
năm 2000 đến khi luận văn hoàn thành.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên
cứu về vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết
tăng nặng. Luận văn nghiên cứu toàn diện và có hệ thống vấn đề lợi dụng
chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng nói chung
và tình tiết tăng nặng định khung tại một số tội phạm cụ thể, nghiên cứu thực
tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng này từ đó đề ra những kiến nghị, giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng tình tiết tăng nặng này trong quá trình
quyết định hình phạt của cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong luận văn này, lần đầu tiên:
- Có sự nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về khái niệm
chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phân biệt các trường hợp
lợi dụng chức vụ, quyền hạn. So sách để chi ra điểm giống và khác nhau giữa
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng nói
chung quy định tại điểm c khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự với lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng định khung quy
định tại một số tội phạm cụ thể cũng như phân biệt giữa lợi dụng chức vụ,
quyền hạn với tư cách là tình tiết tăng nặng với lợi dụng chức vụ, quyền hạn
với tư cách là tình tiết định tội trong nhóm các tội phạm về chức vụ.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến khi luận văn hoàn thành.
- Kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự và hướng dẫn áp dụng quy định về tình tiết tăng nặng "lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để phạm tội".
13
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về lý
luận và thực tiễn sau đây:
- Ý nghĩa lý luận: Với các kết quả nghiên cứu nêu trên, luận văn có
giá trị tham khảo hữu ích cho cán bộ làm công tác thực tiễn áp dụng pháp
luật, cán bộ làm công tác nghiên cứu và cán bộ giáo viên, sinh viên các trường
Đại học.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, góp
phần thiết thực trong việc nâng cao nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm về chức vụ quyền hạn nói riêng
trong điều kiện tình hình mới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" để phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi
dụng chức vụ, quyền hạn" để phạm tội trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức
vụ, quyền hạn" để phạm tội.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ "LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN"
ĐỂ PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ PHÂN BIỆT TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ VỚI CÁC TÌNH TIẾT KHÁC CÓ LIÊN QUAN
1.1.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Để hiểu được sâu sắc khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự, trước hết cần phải nhận thức được khái niệm
trách nhiệm hình sự và khái niệm tình tiết hình sự.
* Khái niệm trách nhiệm hình sự: Theo Từ điển tiếng Việt thuật ngữ
"trách nhiệm" được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa thứ nhất "trách nhiệm là phần
việc được giao cho hoặc coi như giao cho phải làm tròn, nếu kết quả không tốt
phải gánh chịu hậu quả", nghĩa thứ hai "trách nhiệm là sự ràng buộc với lời nói
hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu hậu quả".
Trong lĩnh vực pháp luật, thuật ngữ "trách nhiệm" cũng được hiểu
theo hai nghĩa, theo nghĩa tích cực là chức trách bổn phận pháp luật quy định
phải làm hoặc theo nghĩa tiêu cực là hậu quả pháp lý của việc vi phạm pháp
luật. Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý, ngoài ra trách
nhiệm pháp lý còn bao gồm trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính,
trách nhiệm kỷ luật.
Theo quan niệm truyền thống người ta thường hiểu trách nhiệm hình
sự theo nghĩa thứ hai, tức đó là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay có một
số quan điểm chính.
15
Theo GS.TSKH Lê Cảm thì "Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý
của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người
phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà nước do luật hình sự
quy định" [8]. GS.TS Đỗ Ngọc Quang thì cho rằng:
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý,
là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi
do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi mà người đó đã thực hiện [40].
Còn theo quan điểm của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS Lê Thị
Sơn thì "Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm
nghĩa vụ phải chịu tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu
bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện
pháp tư pháp) và chịu án tích" [32].
Các quan điểm nói trên đều nêu bật lên được bản chất của trách nhiệm
hình sự chính là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của
việc phạm tội, là sự phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm.
Từ đó ta có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự
như sau:
- Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, nếu
không có việc thực hiện tội phạm thì không xuất hiện vấn đề trách nhiệm hình
sự. Vì thế ta có thể khẳng định cơ sở của trách nhiệm hình sự chính là tội phạm.
- Trách nhiệm hình sự luôn xuất hiện trong phạm vi quan hệ giữa hai
bên, một bên là nhà nước với tư cách là bên có quyền xử lý người phạm tội và
bên kia là người phạm tội có nghĩa vụ chịu sự xử lý của nhà nước.
- Trách nhiệm hình sự chỉ được xác định bằng một trình tự đặc biệt
bởi cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền và trình tự đó do pháp luật tố tụng
hình sự quy định.
16
- Trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện trong bản án kết tội có hiệu
lực của Tòa án. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
- Trách nhiệm hình sự chỉ mang tính cá nhân, nhà nước ta chưa quy
định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.
Nội dung của trách nhiệm hình sự hay nói cách khác là các dạng của
trách nhiệm hình sự chính là các biện pháp cưỡng chế của nhà nước, thể hiện
cho sự lên án của nhà nước đối với người phạm tội bao gồm: hình phạt, biện
pháp tư pháp và án tích.
Tóm lại trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là
hậu quả của việc phạm tội, nội dung của trách nhiệm hình sự bao gồm hình
phạt, biện pháp tư pháp và án tích.
* Khái niệm tình tiết hình sự: Thuật ngữ "tình tiết" theo như từ điển
tiếng Việt được hiểu là sự việc nhỏ trong quá trình diễn biến của sự kiện, tâm
trạng. Vì thế tình tiết hình sự có thể hiểu là những biểu hiện của tội phạm bao
gồm những biểu hiện của hành vi phạm tội, những điều kiện, đặc điểm của
người phạm tội, những hoàn cảnh, tình huống, đối tượng, hậu quả có ảnh
hưởng trực tiếp đến việc thực hiện tội phạm qua đó phản ánh tính nguy hiểm
của tội phạm, trách nhiệm hình sự của người phạm tội, phản ánh quan điểm
của Nhà nước ta về tội phạm cũng như chính sách hình sự của Nhà nước.
Người ta có thể có nhiều cách phân loại các "tình tiết hình sự", căn cứ
vào các biểu hiện của tội phạm thuộc các yếu tố cấu thành tội phạm có thể
phân biệt:
- Tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm như tính chất của hành
vi, thủ đoạn, phương tiện phạm tội, hậu quả xảy ra...Ví dụ: hành vi có tính
côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, dùng hung khí nguy hiểm có khả năng gây
hại cho nhiều người, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng...
17
- Tình tiết thuộc khách thể của tội phạm như đối tượng tác động, mối
quan hệ xã hội bị xâm hại... ví dụ: tài sản nhà nước, phạm tội đối với trẻ em,
người già, phụ nữa có thai...
- Tình tiết thuộc mặt chủ quan của tội phạm như lỗi, động cơ, mục
đích phạm tội... ví dụ: động cơ để hèn, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng
- Tình tiết thuộc chủ thể của tội phạm và nhân thân người phạm tội
như phạm tội lần đầu hay tái phạm nguy hiểm....
Căn cứ về ý nghĩa và tầm quan trọng của mỗi tình tiết đối với các
trường hợp phạm tội cụ thể ta có thể chia ra làm các tình tiết cơ bản sau:
- Tình tiết định tội.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
* Khái niệm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Hiện nay trong
pháp luật hình sự thực định nước ta mà cụ thể là Bộ luật hình sự năm 1999,
không ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự.
Từ nghĩa "tăng nặng" là làm tăng thêm trọng lượng, làm trầm trọng thêm
vấn đề, và dựa trên các khái niệm đã trình bày phần trên ta có thể hiểu khái
niệm "tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự" theo nghĩa đơn giản đó là những
biểu hiện của hành vi phạm tội, những điều kiện, đặc điểm của người phạm tội,
những hoàn cảnh, tình huống, đối tượng, hậu quả có ảnh hưởng trực tiếp đến
việc thực hiện tội phạm qua đó phản ánh tính nguy hiểm của tội phạm tăng
lên và từ đó làm tăng lên trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự chính là khái niệm chỉ tình tình tiết tăng nặng
trong luật hình sự để phân biệt với các tình tiết tăng nặng trong luật hành chính.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng có nhiều quan điểm khác
nhau xung quanh khái niệm "tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự" mà cụ
18
thể là: Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa "Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự là tình tiết làm cho mức độ nguy hiểm của trường hợp phạm tội cụ thể của
một loại tội phạm tăng lên so với trường hợp bình thường và do đó được coi là
căn cứ để tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội đó" [32].
Theo PGS.TS Kiều Đình Thụ:
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có ảnh hưởng
tới mức độ nguy hiểm của một tội phạm trong các trường hợp cụ
thể khác nhau và có ý nghĩa khi quyết định hình phạt vì chúng làm
tăng lên mức hình phạt cần áp dụng đối với tội phạm đã thực hiện
trong giới hạn khung hình phạt mà luật hình sự quy định với tội
phạm đó [54].
Thạc sĩ Đinh Văn Quế "Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là
những tình tiết trong một vụ án cụ thể làm tăng lên mức độ nghiêm trọng của
hành vi phạm tội và người phạm tội phải chịu một hình phạt nghiêm khắc hơn
trong một khung hình phạt" [43]. GS.TS Đỗ Ngọc Quang: "Những tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết làm cho một hành vi phạm tội hoặc
người phạm tội tăng lên mức độ nguy hiểm cho xã hội để từ đó cần áp dụng
hình phạt nặng hơn trong phạm vi một khung hình phạt đã được xác định" [39].
- Theo TS. Dương Tuyết Miên:
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình
tiết được quy định trong Bộ luật hình sự phản ánh mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải tạo giáo dục
của người phạm tội. Các tình tiết tăng nặng có ý nghĩa trong việc
quyết định hình phạt, làm tăng hình phạt trong giới hạn một khung
hình phạt [35].
- Theo TS Trịnh Tiến Việt:
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy
định trong Bộ luật hình sự với tính chất là tình tiết tăng nặng chung
19
và là một căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt đối với người
phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn trong phạm vi một khung
hình phạt nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này [74].
Các quan điểm trên ngoại trừ quan điểm của GS.TS Nguyễn Ngọc
Hòa thì đều có chung hai ý chính, đó là:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết phản ánh mức độ
nguy hiểm tăng lên của hành vi phạm tội;
- Là căn cứ để quyết định tăng mức hình phạt trong giới hạn một
khung hình phạt.
Vậy vấn đề đặt ra là những tình tiết định khung tăng nặng có được coi
là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay không khi nó cũng phản ánh
mức độ nguy hiểm tăng lên của hành vi phạm tội nhưng nó không phải là căn
cứ để tăng mức hình phạt trong giới hạn một khung hình phạt mà nó là căn cứ
để chuyển lên một khung hình phạt khác nặng hơn.
Theo ý kiến của tác giả thì tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ở
nghĩa là tình tiết tăng nặng chung là những tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 1999, các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự chung áp dụng cho tất cả các tội phạm và nó
làm tăng hình phạt trong giới hạn một khung hình phạt. Tuy nhiên trong một
số cấu thành tội phạm cụ thể, một số tình tiết tăng nặng chung này lại làm
tăng lên đáng kể mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, việc tăng hình phạt
lên hết giới hạn của khung hình phạt cũng chưa phản ánh hết được mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội. Vì thế đòi hỏi các nhà làm luật phải xây
dựng một khung hình phạt khác nặng hơn. Ngoài ra có một số tình tiết khác
tuy không được quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự là tình tiết tăng
nặng nhưng do đặc thù của một số cấu thành tội phạm thì các tình tiết này làm
tăng lên đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi nên các nhà làm
luật cũng xây dựng một khung hình phạt khác nặng hơn khi xuất hiện các tình
20
tiết này. Các tình tiết này là các tình tiết tăng nặng định khung và theo tác giả
thì cũng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Vì thế tác giả đồng quan
điểm với khái niệm do GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và TS. Trịnh Tiến Việt nêu
ra. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa đã đưa ra khái niệm tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự (bao gồm cả tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung và
tình tiết tăng nặng định khung) là các tình tiết phản ánh mức độ nguy hiểm
tăng lên của hành vi phạm tội vì thế là căn cứ tăng nặng trách nhiệm hình sự.
TS Trịnh Tiến Việt đưa ra khái niệm tình tiết tăng nặng chung được quy định
tại phần chung của Bộ luật hình sự là một căn cứ để Tòa án quyết định hình
phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn trong phạm vi một
khung hình phạt.
Tổng hợp những quan điểm nêu trên, đồng thời căn cứ vào các quy
định của pháp luật hình sự liên quan đến các tình tiết tăng nặng, theo quan
điểm của chúng tôi khái niệm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có thể
được hiểu như sau: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết làm
cho mức độ nguy hiểm của một hành vi phạm tội cụ thể tăng lên và là một
trong các căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo
hướng nghiêm khắc hơn.
1.1.2. Đặc điểm của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Xuất phát từ khái niệm và các quy định của Bộ luật hình sự ta có thể chỉ
ra một số đặc điểm cơ bản của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi xuất hiện chỉ làm thay
đổi theo hướng tăng lên mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
cụ thể, căn cứ vào đó Tòa án áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc hơn đối với
hành vi phạm tội cụ thể đó chứ nó không làm thay đổi được tính chất của tội
phạm đó.
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhất thiết phải được ghi nhận
trong Bộ luật hình sự, không thể được ghi nhận trong các văn bản pháp lý nào
21
khác. Tòa án khi quyết định hình phạt không thể tự động xem xét, nhận định
một tình tiết nào đó là tình tiết tăng nặng nếu nó không được ghi nhận trong
Bộ luật hình sự như đối với việc nhận định và áp dụng tình tiết giảm nhẹ. Đây
là điểm khác biệt rất quan trọng so với các tình tiết giảm nhẹ, vốn có thể "mở
rộng" theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
- Nếu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong một cấu thành
tội phạm cụ thể được quy định là tình tiết định tội, tức nó làm thay đổi tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thì khi quyết định hình phạt Tòa án
không được sử dụng nó với ý nghĩa là tình tiết tăng nặng nữa.
Ví dụ: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để phạm tội" là những tình tiết định tội được quy định tại các tội như:
Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng - điều 165; tội tham ô tài sản - Điều 278; tội nhận hối lộ - Điều 279... do
đó khi quyết định hình phạt đối với các tội này Tòa án không được áp dụng
tình tiết tăng nặng "lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội" quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 48 khi lượng hình.
- Khi một tình tiết tăng nặng đã sử dụng để định khung hình phạt tăng
nặng (tức coi nó là tình tiết tăng nặng định khung) thì không coi là tình tiết
tăng nặng chung nữa tức khi có những tình tiết: a. Có tổ chức; b. Có tính chất
chuyên nghiệp; c. Tái phạm nguy hiểm; d. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; đ. Dùng
thủ đoạn xảo quyệt và người phạm tội đã bị truy tố và xét xử theo khoản 2
Điều 139 Bộ luật hình sự thì khi xét xử không được coi các tình tiết đó là tình
tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự để quyết định
hình phạt nữa.
- Khi áp dụng các tình tiết tăng nặng phải xác định ý thức chủ quan
hay là lỗi của người phạm tội đối với tình tiết tăng nặng đó. Nếu họ không có
lỗi đối với việc để xảy ra tình tiết tăng nặng đó thì không thể áp dụng tình tiết
tăng nặng đó cho họ. Ví dụ: Một người phạm tội "Vi phạm quy định về điều
22
khiển phương tiện giao thông đường bộ" theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình
sự làm chết trẻ em thì không được áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm h
khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự đối với người đó vì người đó vô ý trong hậu
quả làm chết trẻ em.
- Trong vụ án có đồng phạm, tình tiết tăng nặng xảy ra với người
phạm tội nào thì Tòa án chỉ được phép áp dụng đối với người phạm tội đó khi
lượng hình mà nhất thiết không được áp dụng đối với những người đồng
phạm khác.
Ví dụ: A rủ B cùng đi trộm cắp tài sản trên 2.000.000đ thì bị bắt và bị
truy tố theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, trong khi B phạm tội lần đầu
thì A đã có 01 tiền án. Khi quyết định hình phạt Tòa án áp dụng tình tiết tăng
nặng tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự chỉ riêng với A và áp dụng tình
tiết giảm nhẹ theo điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự chỉ riêng với B. Vì
thế trong trường hợp này hình phạt của A sẽ phải cao hơn của B.
1.1.3. Phân biệt các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với
các tình tiết khác có liên quan của vụ án
* Phân biệt tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là các tình tiết phản ánh
mức độ nguy hiểm ít hơn của hành vi phạm tội và là cơ sở để người phạm tội
có thể chịu trách nhiệm hình sự ở mức thấp hơn. Tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự, trong các văn bản hướng
dẫn áp dụng pháp luật hoặc do Tòa án cân nhắc, xem xét quyết định trong quá
trình xét xử các vụ án cụ thể.
Điểm giống nhau giữa hai loại tình tiết này là chúng đều là căn cứ để
tòa án quyết định hình phạt, đều là những tình tiết mang tính chất riêng biệt
của trường hợp phạm tội cụ thể, là biểu hiện của hoàn cảnh, tình huống, cách
23
thức thực hiện tội phạm, nhân thân người phạm tội, hậu quả của tội phạm...
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự đều ảnh hưởng nhất định đến mức độ trách nhiệm hình sự, chúng
không làm thay đổi được tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà chỉ
làm thay đổi mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Xét về vị trí của các tình tiết này trong Bộ luật hình sự, chúng đều
được phân ra làm 02 nhóm là nhóm được quy định trong phần chung và nhóm
quy định trong phần các tội phạm. Trong phần chung Bộ luật hình sự thì các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48, các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 46. Trong phần
các tội phạm thì các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được gọi là các
tình tiết tăng nặng định khung được quy định tại các khung tăng nặng của các
điều luật quy định về các tội phạm cụ thể còn các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự gọi là các tình tiết giảm nhẹ định khung được quy định tại các
khung giảm nhẹ của các điều luật quy định về các tội phạm cụ thể. Các tình
tiết giảm nhẹ định khung, hiện nay, chỉ còn gặp trong một số ít loại tội phạm
thuộc nhóm "Các tội xâm phạm an ninh quốc gia" với các tình tiết là: có
nhiều tình tiết giảm nhẹ; người đồng phạm khác; phạm tội trong trường hợp ít
nghiêm trọng
Sự khác nhau của hai nhóm tình tiết này thể hiện ở một số khía cạnh sau:
- Tác dụng ngược chiều đến trách nhiệm hình sự:
Tuy nhiên điểm khác biệt cơ bản về nội dung là các tình tiết tăng nặng
làm tăng lên mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi trong hành vi phạm
tội đó xuất hiện tình tiết này, là ăn cứ để Tòa án tăng hình phạt, ngược lại tình
tiết giảm nhẹ lại làm giảm mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi nó
xuất hiện và là căn cứ để Tòa án giảm nhẹ hình phạt. Sự đối lập này tạo trên
thực tế tạo nên những cặp tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Nghiên cứu khoản 1 Điều 46 và khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự TS Trần Thị
24
Quang Vinh trong luận án tiến sĩ của mình đã chỉ ra một số cặp đối lập giữa
các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bảng 1.1: Một số cặp đối lập giữa các tình tiết tăng nặng
và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
TT
Các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự
Các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự
1 Phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm
nguy hiểm
Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng
2 Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc
gây thiệt hại không lớn
3 Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình
trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc
những khó khăn đặc biệt khác của xã hội
để phạm tội
Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
mà không phải do mình tự gây ra
4 Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm
bớt tác hại của tội phạm
5 Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai,
người già, người ở trong tình trạng
không thể tự vệ được hoặc đối với người
lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần,
công tác hoặc các mặt khác
Người phạm tội là phụ nữ có thai;
Người phạm tội là người già;Người
phạm tội là người có bệnh bị hạn chế
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình
6 Có hành động xảo quyệt, hung hãn
nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm
Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ
quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra
tội phạm
7 Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp Phạm tội do lạc hậu
Nguồn: [78].
- Về tác động của tình tiết đến trách nhiệm hình sự
Khi một hành vi phạm tội cụ thể có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự thì dù có bao nhiêu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đi chăng
nữa cũng không được tăng hình phạt quá giới hạn một khung hình phạt. Tuy
nhiên đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự lại cho phép phá vỡ giới
hạn tối thiểu của khung hình phạt. Khi có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì tòa án
25
có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà
điều luật đã quy định.
Sự khác biệt này thể hiện thái độ nhân đạo của nhà nước trong việc
giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Nhà nước thể
hiện thái độ cẩn trọng trong việc gia tăng trách nhiệm hình sự nhưng lại chấp
nhận mở rộng khoan hồng đối với người phạm tội.
- Về quy tắc vận dụng các tình tiết
Nếu các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định chặt
chẽ trong Bộ luật hình sự và tòa án chỉ được áp dụng các tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự đã được quy định trong Bộ luật hình sự để quyết định
hình phạt thì việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự lại được
vận dụng theo hướng mở rộng, tùy nghi. Tòa án có thể sử dụng các tình tiết
khác không được quy định trong Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự nhưng phải nhận định trong bản án.
Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng
nặng. Nếu một hành vi phạm tội có những tình tiết có thể làm tăng lên mức độ
nguy hiểm của hành vi tuy nhiên tình tiết đó chưa được kịp thời quy định là
tình tiết tăng nặng trong Bộ luật hình sự thì Tòa án không thể nhận định và áp
dụng như là tình tiết tăng nặng giống như đối với tình tiết giảm nhẹ.
- Về vị trí được quy định của các tình tiết
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ được quy định duy nhất
trong Bộ luật hình sự còn tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự còn được quy
định trong các văn bản dưới luật như tại điểm c, mục 5 Nghị quyết số
01/2000/NQ-HĐTP quy định các tình tiết sau được coi là tình tiết giảm nhẹ
khác: [62]
- Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công
với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh
26
hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ
Việt Nam anh hùng, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà
giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý
khác theo quy định của Nhà nước:
- Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha,
mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sĩ;
- Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công
tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Người bị hại cũng có lỗi;
- Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
- Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
- Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ
hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khỏe của người
bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
- Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như
đi chống bão, lụt, cấp cứu.
Ngoài ra tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự nước ta còn thể hiện tính
nhân đạo khi cho phép Tòa án sau khi nhận định trong bản án coi các tình tiết
khác nữa làm tình tiết giảm nhẹ.
* Phân biệ t tình tiế t tă ng nặ ng trách nhiệ m hình sự
và tình tiế t đ ị nh tộ i
Tình tiết định tội là tình tiết thực tế của vụ án cụ thể được sử dụng để
xác định người phạm tội trong vụ án đó đã phạm tội gì hay hiểu một cách cụ
thể là những tình tiết được phản ánh bởi các dấu hiệu trong cấu thành tội
phạm cơ bản dùng để mô tả một loại tội, là căn cứ để phân biệt tội phạm này
27
với tội phạm khác. Đó là những tình tiết thỏa mãn dấu hiệu định tội đã được
quy định trong luật.
Ví dụ: tình tiết dùng thủ đoạn lừa dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài
sản của người khác có giá trị trên 2.000.000đ là những tình tiết định tội của
tội "trộm cắp tài sản" hay tình tiết lợi dụng chức vụ để phạm tội là tình tiết
định tội của một số tội danh trong đó có nhóm tội phạm về tham nhũng quy
định tại Mục A chương XXI Bộ luật hình sự.
Tình tiết định tội là các tình tiết hình sự dùng để mô tả một loại tội, là
căn cứ để phân biệt loại tội này với loại tội khác vì thế sự xuất hiện của nó
làm thay đổi tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Ví dụ: A lén lút chiếm đoạt tài sản của B giá trị trên 2.000.000đ, khi bị
phát hiện A sẽ phạm tội "trộm cắp tài sản". Tuy nhiên xuất hiện tình huống
khi B phát hiện thì A đã tấn công B để chiếm đoạt tài sản bằng được, đây là
trường hợp xuất hiện tình tiết A dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức
khắc để chiếm đoạt tài sản của B (là tình tiết định tội của tội "cướp tài sản")
thì A sẽ phạm tội "cướp tài sản".
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng là các tình tiết hình
sự nhưng sự xuất hiện của nó chỉ làm thay đổi mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội, cụ thể là làm tăng lên mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,
không làm thay đổi tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội như các tình tiết
định tội.
Ví dụ: Cũng ví dụ như trên, A lén lút chiếm đoạt của B tài sản trị giá
trên 2.000.000đ, nhưng A đã có 01 tiền án là thuộc trường hợp tái phạm, đây
là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Sự
xuất hiện tình tiết này không làm thay đổi được tội danh "trộm cắp tài sản"
của A, nó chỉ làm tăng lên mức độ nguy hiểm trong hành vi trộm cắp tài sản
28
của A và vì thế khi quyết định hình phạt Tòa án sẽ căn cứ vào tình tiết đó (tái
phạm) để quyết định mức hình phạt nặng hơn mà thôi.
Về mặt hình thức các tình tiết định tội được phản ánh trong các cấu
thành tội phạm cơ bản trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự lại được quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật
hình sự (phần chung của Bộ luật hình sự) và quy định tại các cấu thành tăng
nặng của các tội danh tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TÌNH TIẾT LỢI DỤNG CHỨC VỤ,
QUYỀN HẠN VÀ SỰ CẦN THIẾT QUY ĐỊNH TÌNH TIẾT LỢI DỤNG CHỨC VỤ
QUYỀN HẠN LÀ TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm chức vụ, quyền hạn và người có chức vụ, quyền hạn
Bộ luật hình sự năm 1999 chưa có quy định khái niệm chung nhất về
chức vụ, quyền hạn. Tại Điều 277 Bộ luật hình sự có nói đến khái niệm người
có chức vụ trong các tội phạm về chức vụ.
Theo từ điển tiếng Việt thì chức vụ là nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng
với chức. Ta có thể hiểu là một vị trí công việc mà một cá nhân nào đó có được
do bổ nhiệm, bầu cử, ký hợp đồng hoặc hình thức khác, từ đó cá nhân đó có
được những quyền hạn để thực hiện những nhiệm vụ nhất định. Vậy chức vụ
sẽ đi kèm với một quyền hạn và nhằm để thực hiện nhiệm vụ nào đó [37].
Khái niệm "Quyền" theo Từ điển tiếng Việt là "điều mà pháp luật
hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm hoặc đòi hỏi, là những điều
do địa vị hay chức vụ mà được làm" [37]. Quyền hạn là quyền được xác định
về nội dung, mức độ, phạm vi. Nội dung, mức độ và phạm vi là thước đo ba
chiều của quyền hạn. Vậy trong khoa học pháp lý thì quyền hạn nghĩa là
những khả năng được pháp luật ghi nhận và cho phép một cá nhân khi thực
29
hiện một nhiệm vụ nào đó được thực hiện một số hành vi nhất định và mức độ
và phạm vi của hành vi được thực hiện.
Từ phân tích trên ta thấy nói đến chức vụ là ta nói đến hình thức thì
quyền hạn là nói đến nội dung. Một chức vụ phải có một quyền hạn đi kèm,
tuy nhiên quyền hạn lại không đồng nhất với chức vụ. Nghĩa là một người có
chức vụ thì phải có quyền hạn nào đó nhưng một người có quyền hạn thì
không nhất thiết phải có chức vụ.
Vậy người nào được coi là người có chức vụ, quyền hạn? Trong Bộ
luật hình sự năm 1999, các tội phạm do người có chức vụ, quyền hạn thực
hiện không chỉ bao gồm các tội phạm về chức vụ mà còn có các tội phạm
được quy định ở các chương khác. Mặt khác, công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện cho thấy còn gặp những
khó khăn vướng mắc nhất định, một số quy định của pháp luật về vấn đề này
còn trừu tượng, chung chung, khó giải thích, khó áp dụng nhất là trong tình
hình xã hội hiện nay đã có nhiều sự chuyển biến, thay đổi trên các phương
diện khác nhau, nhiều lĩnh vực đã được xã hội hóa, những công việc trước
đây chỉ có nhà nước đảm trách bây giờ đã được giao cho nhân dân cùng
làm… Vì vậy, về mặt nhận thức cần có sự thống nhất trong việc xác định thế
nào là người có chức vụ, quyền hạn.
Theo khoản 3, Điều 1 Luật phòng chống tham nhũng, những người
sau đây được coi là người có chức vụ, quyền hạn:
a) Cán bộ, công chức, viên chức
b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ
sĩ quan nghiệp vụ; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân
30
c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của nhà
nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của
nhà nước tại doanh nghiệp
d) Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền
hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó [49].
Theo quy định tại Điều 4 Luật cán bộ công chức, cán bộ công chức
bao gồm các đối tượng sau:
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn,
bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong có quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là
cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị quân đội
nhân dân mà không phải sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc công n nhân dân mà
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung
là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
31
đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cán bộ
cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm
kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư,
phó bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công
chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [50].
Theo Điều 2 Luật viên chức: Viên chức là công dân Việt Nam được
tuyển dụng theo vị trí làm việc, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo
chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật.
Vậy theo khái niệm trong Luật phòng chống tham nhũng thì chức vụ,
quyền hạn phải gắn liền với quyền lực nhà nước, Đảng cộng sản, các tổ chức
chính trị - xã hội hoặc được nhà nước ủy quyền thực hiện công vụ.
Theo Điều 277 Bộ luật hình sự khái niệm người có chức vụ được hiểu:
"Người có chức vụ nói trên đây là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp
đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương,
được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong
khi thực hiện công vụ" [48].
Theo khái niệm này, có rất nhiều căn cứ khác nhau để xác định một
người có chức vụ như do được bổ nhiệm, do hợp đồng hoặc do một hình thức
khác… Hình thức khác ở đây có thể hiểu là bất cứ hình thức nào mà gắn
những quyền năng nhất định của chủ thể với chức vụ mà họ có. Như vậy,
trong khái niệm này theo chúng tôi người có chức vụ có thể hiểu một cách
ngắn gọn là "người được giao thực hiện công vụ (mang tính hợp pháp) và có
32
quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ đó. Ví dụ: Bác sỹ được giao
nhiệm vụ khám sức khỏe để tuyển dụng cán bộ; viên chức, thủ kho được giao
nhiệm vụ quản lý kho hàng…Tất cả những người này đều được coi là người
có chức vụ bởi vì họ được giao nhiệm vụ thực hiện công vụ vì lợi ích chung
của toàn xã hội và có những quyền năng nhất định khi thi hành công vụ.
Tuy nhiên, trong khái niệm vẫn còn một vấn đề cần phải làm sáng tỏ
thêm thế nào là "công vụ"
Theo Từ điển tiếng Việt, "công vụ" là hoạt động do công chức nhân
danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo
vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội [37].
Theo khái niệm trong tài liệu thi bồi dưỡng chuyên viên cao cấp khối
Đảng, "Công vụ" là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do cán bộ,
công chức tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội.
Tuy nhiên trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, do đặc thù về thể chế chính trị
nên công vụ còn bao gồm cả hoạt động thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ
của cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan của Đảng, tổ chức chính
trị - xã hội.
Đặc điểm và tính chất của công vụ:
- Mục đích của công vụ là phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội.
- Nội dung hoạt động công vụ bao gồm các hoạt động thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước, của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội trong lãnh
đạo, quản lý và tham gia quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời tổ
chức cung ứng và phục vụ các nhu cầu chung của xã hội, của nhân dân không
vì mục đích lợi nhuận.
- Chủ thể thực thi công vụ là cán bộ, công chức.
33
- Hoạt động công vụ không chỉ thuần túy mang tính quyền lực nhà
nước, mà còn bao gồm cả hoạt động của các tổ chức do nhà nước thành lập
(được nhà nước ủy quyền) để phục vụ các nhu cầu của nhân dân. Các hoạt
động này đều do cán bộ, công chức nhân danh nhà nước tiến hành. Bao gồm
các hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước và các hoạt động của các tổ
chức được nhà nước ủy quyền. Ở các nước trên thế giới, khi đề cập đến công
vụ, người ta ít nói đến yếu tố quyền lực nhà nước mà thường chỉ nói tới công
chức nhân danh pháp luật hoặc nhân danh nhà nước mà thôi. Bởi lẽ, pháp
luật là công cụ chính, chủ yếu do nhà nước ban hành. Ngoài ra, ở Việt Nam
do đặc thù về thể chế chính trị nên hoạt động công vụ còn bao gồm cả hoạt
động của cán bộ, công chức trong các cơ quan của Đảng, của tổ chức chính
trị - xã hội.
- Công vụ được tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được
Nhà nước giao và tuân theo pháp luật.
- Hoạt động công vụ mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp.
Vậy nói đến "công vụ" là nói đến hoạt động của nhà nước, với nhiều
yếu tố hợp thành như thể chế công vụ, đội ngũ công chức, các cơ quan, tổ
chức, đơn vị của nhà nước... Một số tài liệu ở Việt Nam hiện nay quan niệm
công vụ là một loại lao động mang tính quyền lực và pháp lý được thực thi
bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chính sách của nhà nước trong quá
trình quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã hội hoặc coi công vụ là một
dạng của lao động xã hội chủ yếu do các công chức thực hiện. Hoạt động
công vụ được điểu chỉnh bởi ý chí nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ,
chức năng của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước và gắn với quyền lực nhà
nước, nhân danh nhà nước.
Trên thế giới hiện nay, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về công
vụ. Cộng hòa Pháp quan niệm khi nói về công vụ là chủ yếu nói về: toàn bộ
những người được Nhà nước hoặc cộng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào một công
34
việc thường xuyên trong một công sở hay một công sở tự quản, kể cả các
bệnh viện và được thực thụ vào một trong các ngạch của nền hành chính
công. Theo đó, từ điển Pratique du Francais 1987 định nghĩa rất gọn như sau:
"Công vụ là công việc của công chức". Các nhà nghiên cứu của đại học
Michigan - Hoa Kỳ quan niệm về công vụ là: một khái niệm chung miêu tả về
các nhân viên do Chính phủ tuyển dụng, những người cấu thành nên công vụ
theo chức nghiệp. Các công chức được tuyển dụng trên cơ sở thực tài, được
đánh giá định kỳ theo kết quả thực thi công tác của mình, được nâng bậc căn
cứ theo tính điểm hiệu quả và được bảo đảm về công việc. Tiến sĩ Jeanne-
Mariecol của Hoa Kỳ cũng cho rằng, nói tới công vụ là nói tới công chức,
những người làm việc theo chức nghiệp và do luật hay các quy định về công
chức điều chỉnh. Luật Công vụ của Liên bang Nga coi công vụ là hoạt động
có tính chuyên nghiệp nhằm đảm bảo thực thi thẩm quyền của các cơ quan
nhà nước.
Nghiên cứu các quan niệm về công vụ nêu trên, có thể thấy ở Việt
Nam và một số nước trên thế giới từ trước đến nay, nhiều nghiên cứu vẫn
thường quan niệm công vụ như một hoạt động do công chức thực hiện nhân
danh quyền lực nhà nước.
Như vậy khái niệm chức vụ, quyền hạn tại Luật phòng chống tham
nhũng và tại Điều 277 Bộ luật hình sự phải gắn liền với quyền lực nhà nước,
đảng và các tổ chức chính trị - xã hội và mục đích là phục vụ lợi ích nhà nước,
nhân dân và xã hội. Đó là vì Luật phòng chống tham nhũng và nhóm tội phạm
về chức vụ hướng đến việc bảo vệ hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức.
Tuy nhiên trong thời đại ngày nay, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của
nhà nước đã có nhiều thay đổi, theo hướng phục vụ nhân dân. Trong đó có
nhiệm vụ cung ứng các dịch vụ công phục vụ cho nhân dân. Do vai trò và tác
dụng ngày càng lớn của các dịch vụ công đối với sự phát triển giàu mạnh, văn
minh, hiện đại của từng quốc gia, cho nên các nhà nước ngày càng quan tâm
35
hơn tới việc phát triển các dịch vụ công (trong cả khu vực công lập và khu
vực ngoài công lập). Có rất nhiều lĩnh vực đã được tư nhân hóa, cổ phần hóa,
xã hội hóa như hoạt động công chứng tư, bệnh viện tư, trường học tư… Vậy
những người được giao những nhiệm vụ như quản lý bệnh viện tư, hiệu
trưởng trường học tư, công chứng viên của các phòng công chứng tư… có
được xem là những người có chức vụ, quyền hạn hay không, họ có được xem
là người thực hiện công vụ hay không? Những Tổng giám đốc, giám đốc, chủ
tịch Hội đồng quản trị các công ty, tổng công ty, tập đoàn lớn, lãnh đạo các tổ
chức phi chính phủ… có phải là người có chức vụ quyền hạn hay không?
Điều 277 Bộ luật hình sự nêu khái niệm chức vụ trong chương các tội
phạm về chức vụ có mục đích bảo vệ hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ
chức. Tuy nhiên trong Bộ luật hình sự còn có rất nhiều chương và hướng đến
bảo vệ các quan hệ xã hội khác vì thế không thể hiểu máy móc về khái niệm
chức vụ, quyền hạn như quy định tại Điều 277 Bộ luật hình sự được.
Từ ý nghĩa của tình tiết tăng nặng là những tình tiết làm tăng tính
nguy hiểm của một hành vi phạm tội cụ thể thì khái niệm chức vụ, quyền hạn
với ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 48 Bộ luật
hình sự và trong cấu thành tăng nặng của một số tội phạm cụ thể quy định tại
phần các tội phạm phải được hiểu theo nghĩa rộng không bó hẹp trong việc
phải gắn với quyền lực nhà nước, Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội nữa.
Bởi vì thực tế quyền lực của những lãnh đạo các công ty, tập đoàn, các tổ
chức phi chính phủ này cũng vô cùng lớn và việc lợi dụng nó để phạm tội
cũng làm tăng lên đáng kể tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Nó xuất phát từ thực tiễn nền kinh tế chúng ta đang xây dựng là nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với chính sách phát triển
kinh tế nhiều thành phần thì hiện nay có nhiều tổ chức kinh tế, công ty, xí
nghiệp với các hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động. Trong các tổ
chức kinh tế, công ty xí nghiệp này cũng có những người giữ vai trò quản lý,
36
điều hành và nếu họ lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để phạm tội thì
cũng nguy hiểm không kém hành vi của những người lợi dụng công quyền.
Từ những phân tích trên theo tác giả thì khái niệm người có chức vụ,
quyền hạn được hiểu như sau: Tất cả những cá nhân có một vị trí công việc
do bổ nhiệm, bầu cử, ký hợp đồng hoặc hình thức khác, từ đó cá nhân đó có
được những quyền hạn để thực hiện những nhiệm vụ nhất định liên quan đến
kợi ích cộng đồng hoặc cá nhân được cơ quan tổ chức nói chung ủy quyền
thực hiện nhiệm vụ và trao quyền để thực hiện nhiệm vụ và nhiệm vụ này có
liên quan đến lợi ích cộng đồng thì đều coi là có chức vụ, quyền hạn.
Vậy người có chức vụ, quyền hạn phải là người có quyền quyết định
liên quan đến lợi ích cộng đồng tức là quyền và lợi ích của người khác như
quyền được lao động, quyền được khen thưởng, quyền được bố trí vào những
vị trí theo đúng trình độ, khả năng....Chúng ta giới hạn những người có chức
vụ, quyền hạn là những người có quyền ra những quyết định liên quan đến
quyền và lợi ích của người khác. Ví dụ những người đại diện cho chính quyền
như đại diện Ủy ban nhân dân, công an, cán bộ tòa án...; những người thực
hiện chức năng quản lý như nhân viên hải quan, thuế vụ...; những người làm
công tác quản lý, lãnh đạo các doanh nghiệp, tập đoàn....
Chúng ta cần phân biệt giữa khái niệm chức vụ, quyền hạn và khái
niệm nghề nghiệp. Những người do đặc thù nghề nghiệp nên cũng được giao
thực hiện công vụ nhất định và có những quyền hạn nhất định nhưng các
quyền này do đặc thù nghề nghiệp của họ mang lại cho họ chứ không phải
do nhà nước, các cơ quan tổ chức trao cho họ nên khi họ lợi dụng để phạm
tội thì coi là lợi dụng nghề nghiệp, không bị coi là lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để phạm tội. Ví dụ về nghề nghiệp như bác sỹ, ký sư, kiến trúc sư, giáo
viên, thủy thủ, lái xe... Bác sĩ có quyền khám chữa bệnh, kê đơn thuốc cho
bệnh nhân, nhưng do mâu thuẫn đã kê sai đơn thuốc nhằm mục đích tước đoạt
sinh mạng của bệnh nhân thì sẽ bị xử tội "Giết người" nhưng không bị coi là
37
"lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội". Tương tự nếu lái xe, thủy thủ lợi
dụng phương tiện được giao buôn hàng lậu thì sẽ bị xử tội "buôn lậu" nhưng
cũng không bị áp dụng tình tiết tăng nặng là "lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
phạm tội".
Tuy nhiên trong trường hợp do nghề nghiệp nhưng lại được cơ quan tổ
chức giao quyền để thực hiện công vụ và lợi dụng để phạm tội thì phải bị coi
là lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Ví dụ khi bác sỹ được phân công khám sức
khỏe để tuyển dụng cán bộ, giáo viên được phân công chấm thi, kiến trúc sư,
kỹ sư xây dựng được phân công làm giám sát công trình mà lại lợi dụng làm
sai để nhận tiền thì phải bị coi là lợi dụng chức vụ, quyền hạn và phải bị truy
tố về tội "nhận hối lộ".
Chúng tôi không phủ nhận một điều là lợi dụng nghề nghiệp để phạm
tội cũng là yếu tố làm tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội và cần được
xử lý nghiêm khắc hơn. Đó là điểm chung giữa yếu tố lợi dụng chức vụ,
quyền hạn và yếu tố lợi dụng nghề nghiệp để phạm tội. Điều này giải thích vì
sao trong một số tình tiết tăng nặng định khung ở một số tội có sử dụng yếu tố
lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lợi dụng nghề nghiệp. Tuy nhiên hai yếu tố
trên có sự khác nhau tương đối căn bản, nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
phạm tội xâm phạm đến khách thể quan trọng là hoạt động bình thường, uy
tín của cơ quan, tổ chức thì việc lợi dụng nghề nghiệp không ảnh hưởng hoặc
ảnh hưởng không đáng kể đến khách thể trên.
1.2.2. Khái niệm lợi dụng chức vụ, quyền hạn và các hình thức lợi
dụng chức vụ, quyền hạn
* Về khái niệm niệm lợi dụng chức vụ, quyền hạn
So với Bộ luật hình sự năm 1985, tình tiết tăng nặng "lợi dụng chức
vụ, quyền hạn" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm
1999 là tình tiết được quy định mới. Tuy nhiên Bộ luật hình sự năm 1999
38
chưa định nghĩa thế nào là "lợi dụng" và thế nào là "lợi dụng chức vụ, quyền
hạn", do đó khái niệm này đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu.
Theo Từ điển tiếng Việt thì "lợi dụng" có hai nghĩa, một là dựa vào
điều kiện nào đó để làm việc có ích, nghĩa hai là thừa dịp thuận lợi để mưu lợi
ích riêng [37]. Như vậy chúng ta phải hiểu lợi dụng chức vụ, quyền hạn là dựa
vào điều kiện thuận lợi do chức vụ, quyền hạn mang lại để mưu lợi ích riêng
không chính đáng.
Vấn đề lợi dụng chức vụ quyền hạn từ lâu đã được nhiều nhà nghiện
cứu luật học đưa ra nhiều khái niệm khác nhau.
Theo tác giả thì lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là trên cơ sở
chức trách, công vụ được giao. Người có chức vụ, quyền hạn đã sử dụng chức
vụ, quyền hạn như một lợi thế, một phương thức, thủ đoạn để thực hiện hành
vi phạm tội. Ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A đã ký hợp đồng vay
mượn tiền của một số công dân trong phường A với danh nghĩa chủ tịch
phường, lấy tiền của người ngày trả lãi cho người kia và dùng ăn tiêu hết dẫn
đến mất khả năng chi trả. Ở đây chủ tịch phường A đã lợi dụng chức vụ của
mình để tạo uy tín với công dân trong phường nhằm mục đích vay mượn tiền.
Vì thế phải bị truy tố về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo
điểm b khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự.
Như vậy hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội có dấu hiệu
đặc trưng sau:
- Chủ thể của hành vi: Phải là người có chức vụ, quyền hạn
- Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn phải sử dụng chức vụ, quyền hạn
như một lợi thế, một phương thức hay một thủ đoạn để thực hiện tội phạm
Nếu một người có chức vụ, quyền hạn nhưng họ không sử dụng chức
vụ, quyền hạn khi thực hiện hành vi phạm tội thì không phải lợi dụng chức
vụ, quyền hạn để phạm tội.
39
Cũng tương tự các hành vi phạm tội khác, người lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để phạm tội cũng thực hiện hành vi dưới dạng hành động hoặc
không hành động.
Ở đây ta cũng cần phân biệt việc lợi dụng chức vụ với lợi dụng quyền
hạn: Như phân tích ở khái niệm chức vụ là vị trí công việc do bổ nhiệm, bầu
cử, ký hợp đồng hoặc hình thức khác, từ đó cá nhân đó có được những quyền
hạn để thực hiện những nhiệm vụ nhất định liên quan đến lợi ích cộng đồng,
còn người có quyền hạn là người được cơ quan, tổ chức ủy quyền thực hiện
một công vụ nhất định và trao cho quyền hạn để thực hiện công vụ đó. Từ đó ta
thấy người có chức vụ sẽ đương nhiên có một quyền hạn nào đó còn người có
quyền hạn chưa chắc đã có chức vụ. Vì vậy giữa lợi dụng chức vụ và lợi dụng
quyền hạn không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Lợi dụng quyền hạn là lợi dụng
quyền năng được giao để thực hiện tội phạm còn lợi dụng chức vụ cũng là lợi
dụng quyền năng mà chức vụ đó mang lại để phạm tội ngoài ra còn là lợi dụng
uy tín của chức vụ, tức là lợi dụng uy tín của vị trí công việc để phạm tội.
Tổng hợp các phân tích chúng tôi đưa ra khái niệm: Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để phạm tội là tội phạm xảy ra do người có chức vụ, quyền hạn
thực hiện và hành vi phạm tội đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền
hạn của họ. Nếu không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện
phạm tội; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực
hiện tội phạm một cách dễ dàng.
* Về các hình thức lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, có thể
phân chia như sau:
- Ở góc độ hình thức: Có thể chia việc "lợi dụng chức vụ, quyền hạn"
thành hai dạng là hành động và không hành động
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội dưới dạng hành động: là
người có chức vụ, quyền hạn sử dụng quyền hạn của mình để ra những quyết
40
định nhằm thực hiện ý đồ phạm tội. Đặc điểm của dạng này là người có chức
vụ, quyền hạn dưới danh nghĩa thi hành công vụ đã ra những quyết định, thực
hiện những hành vi theo chức trách nhưng nội dung các quyết định, các hành
vi đó lại theo ý đồ, mục đích phạm tội.
Ví dụ: Trưởng công an huyện ra quyết định tạm giam người có hành
vi vi phạm hành chính vì lý do có thù tức cá nhân từ trước.
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội dưới dạng không hành
động: là người có chức vụ, quyền hạn cố ý không làm những việc thuộc phạm
vi chức trách, công vụ mà mình phải làm với ý đồ phạm tội. Đặc điểm của
hình thức này là người có chức vụ, quyền hạn cố tình làm ngơ để cho những
kẻ làm ăn phi pháp hoạt động, cố tình trì hoãn việc ra những quyết định công
tác nhằm trục lợi cá nhân. Ví dụ: Thủ trưởng cơ quan điều tra lợi dụng chức
vụ, quyền hạn của mình không ban hành quyết định bắt tạm giam kịp thời đối
với tội phạm là người có mối quan hệ thân quen để tội phạm bỏ trốn gây khó
khăn cho công tác điều tra truy bắt tội phạm.
- Ở góc độ cách thức thực hiện hành vi: có thể chia việc "lợi dụng
chức vụ, quyền hạn" thành 03 dạng sau:
+ Trực tiếp người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm những
công việc thuộc chức trách, công vụ được giao với ý đồ phạm tội. Đây là dạng
phổ biến trong thực tiễn, đặc điểm của hình thức này là người có chức vụ,
quyền hạn dưới danh nghĩa là thực hiện công vụ để trực tiếp ra các quyết
định, thực hiện những hành vi (hành động hoặc không hành động) nhằm đạt
được mục đích phạm tội của mình.
Hình thức này thể hiện bằng những hành vi cụ thể như nhận hối lộ, ra
các quyết định bắt giam, giữ người trái pháp luật…Hình thức này thường thực
hiện dưới danh nghĩa cá nhân nhưng cũng có trường hợp một số người, một
số tập thể, đơn vị đồng mưu thống nhất với nhau dựa vào chức năng, quyền
41
hạn của đơn vị, tập thể được giao để mưu lợi cho những cá nhân trong đơn vị
một cách bất hợp pháp. Những lợi ích thu được phân chia cho các cá nhân
theo thỏa thuận.
Thực tiễn hiện nay việc "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" có tính chất tập
thể có xu hướng gia tăng. Bởi dưới danh nghĩa tập thể thì khó bị phát hiện,
khi bị phát hiện thì dùng danh nghĩa tập thể bao che, kháng cự, hợp thức hóa
những hành vi phạm tội.
+ Thông qua cấp dưới hoặc tập thể để hợp pháp hóa các hành vi, quyết
định theo ý đồ phạm tội. Khác với trường hợp trên, trường hợp này người có
chức vụ, quyền hạn không trực tiếp ra những quyết định, thực hiện những
hành vi thuộc thẩm quyền của mình mà họ gây áp lực để người dưới quyền
hiểu ý mà tiến hành thực hiện theo hướng của người có chức vụ, quyền hạn từ
đó làm lợi cho cá nhân của người có chức vụ, quyền hạn. Ngoài việc thông
qua cấp dưới, người có chức vụ, quyền hạn cũng có thể hợp pháp hóa quyết
định mưu lợi cho cá nhân dưới dạng các nghị quyết, quyết định tập thể bằng
cách đưa ra lấy ý kiến tập thể nhưng thực chất đó là quyết định cá nhân. Với
hình thức này người có chức vụ, quyền hạn tính toán, vạch kế hoạch để che
giấu ý đồ thực của mình bằng những ý kiến, kế hoạch mang tính tập thể.
Đây là hình thức rất tinh vi, khó xác định trách nhiệm đối với người
có chức vụ, quyền hạn. Thường trong thực tế khi gặp hành vi lợi dụng chức
vụ, quyền hạn loại này có nhiều ý kiến rất khác nhau trong việc xử lý.
Ví dụ:
(1) Vụ án "lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ"
liên quan đến quản lý đất đai ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Ông Vũ Đức Vận nguyên
bí thư thị ủy Đồ Sơn đã ký quyết định số 113,ngày 26/11/2002 về việc thành
lập hội đồng xét giao đất của thị ủy Đồ Sơn không đúng thảm quyền, để thị ủy
Đồ Sơn ra các thông báo số 57, ngày 25/12/2002 và thông báo số 60 ngày
42
4/3/2003 làm căn cứ để xét giao đất tái định cư mang tính đặc quyền đặc lợi,
dẫn đến việc 33 hộ không đúng đối thượng, không đủ tiêu chuẩn hưởng quỹ
đất tái định cư trong đó có người thân của mình. Ông Vũ Đức Vận sau đó bị
Tòa án xử về tội "lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ"
theo khoản 1 điều 281 Bộ luật hình sự
(2) Hành vi của đại tá Dương Tự Trọng - Phó giám đốc Công an thành
phố Hải Phòng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để buộc cấp dưới
của ông Trọng tại công an TP Hải Phòng phải cấp cho ông 01 chứng minh
nhân dân giả để ông Trọng lấy mang đi làm giấy khai sinh cho con riêng của
ông Trọng.
+ Dùng uy tín, ảnh hưởng do chức vụ, quyền hạn của mình tác động
đến những người khác hoặc người có chức vụ khác để họ làm những việc theo
ý đồ phạm tội của mình.
Đây là hành vi thông qua việc giữ chức vụ nhất là chức vụ cao trong
bộ máy nhà nước, người có chức vụ có mối quan hệ nhất định với những
người có chức vụ ở các cơ quan khác, địa phương khác. Lợi dụng quan hệ đan
xen này người có chức vụ, quyền hạn dùng ảnh hưởng của mình tác động tới
người có chức vụ, quyền hạn ở những nơi khác, địa phương khác, ngànhh
khác để họ làm việc theo yêu cầu của người có chức vụ, quyền hạn. Trường
hợp này chức vụ, quyền hạn của người "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" hoàn
toàn độc lập với chức vụ, quyền hạn của người bị tác động. Việc người bị tác
động làm những việc thuộc phạm vi trách nhiệm của mình theo yêu cầu của
người kia là do vị nể trong quan hệ có đi có lại.
Đây là dạng "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" ngày càng xảy ra phổ biến
và khó phát hiện, đấu tranh vì nó được che đậy bởi tình cảm, quan hệ công tác
giữa các đơn vị.
43
1.2.3. Phân biệt lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lạm dụng chức vụ
quyền hạn
Theo Từ điển Tiếng Việt thì "lạm dụng" được hiểu "là dùng, sử dụng
quá mức, quá hạn quy định".
Trong cuộc sống chúng ta thường gặp khái niệm lạm dụng như: lạm
dụng thuốc tân dược, lạm dụng thuốc trừ sâu...
Khái niệm lạm dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội và lợi dụng chức
vụ quyền hạn để phạm tội rất gần nhau và rất dễ nhầm lẫn. Trước đây có thời
kỳ hai khái niệm này được hiểu như nhau. Tại Pháp lệnh trừng trị các tội xâm
phạm tài sản công dân đã dùng thuật ngữ "lạm dụng chức quyền" để chỉ hành vi
phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản công dân (Điều 8)
và giải thích "lạm dụng chức quyền có thể là làm trong phạm vi quyền hạn
của mình hoặc vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của mình"
Quá trình phát triển của pháp luật hình sự và qua thực tiễn xét xử, các
nhà làm luật thấy cần phải phân biệt hai thuật ngữ lạm dụng chức vụ quyền
hạn và lợi dụng chức vụ quyền hạn. Vì nó có ý nghĩa trong việc xác định
trách nhiệm hình sự trong những trường hợp cụ thể.
Khái niệm lạm dụng chức vụ, quyền hạn theo tác giả là trường hợp
người có quyền hạn sử dụng quá mức quyền hạn của mình, người có chức vụ
có hành vi sử dụng quá mức quyền hạn mà chức vụ của mình được phép theo
quy định pháp luật. Các hành vi vượt quá quyền hạn của mình trong công tác
như: làm một việc thuộc chức năng, quyền hạn của người có chức vụ, quyền
hạn cấp trên; làm một việc thuộc chức năng, quyền hạn của người có chức vụ,
quyền hạn ở ngành khác; làm một việc thuộc chức năng, thẩm quyền của tập
thể. Ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường ra lệnh bắt người để tạm giữ,
tạm giam; Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân ký văn bản giấy tờ thuộc thẩm
quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân khi không được ủy quyền; Thủ trưởng
44
cơ quan cảnh sát điều tra ra lệnh bắt người tạm giam khi chưa được phê chuẩn
của Viện kiểm sát...
Vậy nói đến lạm dụng chức vụ, quyền hạn là ta nói đến khía cạnh lạm
quyền. Và nếu hành vi lạm quyền đó nhằm chiếm đoạt tài sản thì sẽ bị truy tố
về tội: "lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản" theo Điều 280 Bộ
luật hình sự.
Khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự quy định:
Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu
đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã
bị xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về một trong các
tội quy định tại Muc A Chương này, chưa được xóa án tích mà còn
vi phạm, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm [48].
Nếu hành vi lạm quyền đó vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân mà gây thiệt
hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì sẽ bị
truy tố về tội "lạm quyền trong khi thi hành công vụ" theo Điều 282 Bộ luật
hình sự.
Khoản 1 Điều 282 Bộ luật hình sự quy định: "Người nào vì vụ lợi
hoặc động cơ cá nhân nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái
công vụ gậy thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm" [48].
Còn lợi dụng chức vụ quyền hạn là người có chức vụ, quyền hạn đã sử
dụng chức vụ, quyền hạn như một lợi thế, một phương thức, thủ đoạn, công
cụ phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. Trong đó lợi dụng chức vụ là
nói đến bao gồm cả lợi dụng uy tín của chức vụ và lợi dụng quyền hạn mà
chức vụ đó có được để phạm tội. Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
45
sự về tội phạm tương ứng và có thể chịu tình tiết tăng nặng là lợi dụng chức
vụ quyền hạn để phạm tội.
Từ đây lại phát sinh một khía cạnh nữa là nếu một người lạm dụng
chức vụ để phạm tội thì chúng ta xử lý như thế nào. Truy tố người đó về tội
"Lạm quyền trong khi thi hành công vụ" theo Điều 282 Bộ luật hình sự hay
truy tố người đó về tội phạm tương ứng mà người đó đã gây ra với tình tiết
tăng nặng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội hay truy tố người đó cả
hai tội.
Theo như ý kiến của tác giả thì không thể truy tố người đó về hai tội
vì nguyên tắc một hành vi chỉ bị xử phạt một lần, mà cần truy tố người đó về
một trong hai tội là "Lạm quyền trong khi thi hành công vụ" theo Điều 282
Bộ luật hình sự hoặc truy tố người đó về tội phạm tương ứng mà người đó đã
gây ra với tình tiết tăng nặng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội theo
nguyên tắc thu hút tội tức sẽ truy tố về tội nào nặng hơn. Căn cứ để áp dụng
tình tiết tăng nặng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là bởi vì người đó
đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình không những thế còn lạm dụng nó
như một lợi thế, một phương thức, thủ đoạn, công cụ phương tiện để thực
hiện hành vi phạm tội.
1.2.4. Phân biệt khái niệm chức vụ, quyền hạn trong tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội" với
khái niệm chức vụ, quyền hạn trong các tội phạm về chức vụ quy định tại
Chương XXI Bộ luật hình sự
Khái niệm tội phạm về chức vụ quy định tại Điều 277 Bộ luật hình sự
như sau: "Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động
đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thi
hành công vụ" [48].
46
Dấu hiệu đặc trưng của các tội phạm về chức vụ quy định tại Chương
XXI Bộ luật hình sự là:
- Xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tổ chức
- Được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn
- Tội phạm thực hiện bằng cách lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi
thi hành công vụ
Vậy chủ thể của tội phạm trong chương XXI là những người có chức
vụ, quyền hạn. Tuy nhiên có một vài trường hợp chủ thể không phải là người
có chức vụ, quyền hạn nhưng đã lợi dụng người có chức vụ, quyền hạn như:
Tội đưa hối lộ (Điều 289 Bộ luật hình sự); Tội làm môi giới hối lộ (Điều 290
Bộ luật hình sự); Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền
hạn (Điều 291 Bộ luật hình sự).
Cũng theo Điều 277 Bộ luật hình sự "người có chức vụ" là người do
bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng
lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định
và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.
Theo như Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của tiến sĩ Trần Minh
Hưởng - Học viện cảnh sát nhân dân [33] thì một số người có quyền hạn như
thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, kế toán trưởng, thủ quỹ... của một số
loại hình thuộc tổ chức kinh tế như doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài... tuy họ cũng có cương vị và có quyền hạn nhất định
trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhưng không được coi là "người
có chức vụ" theo quy định của điều luật này, chương này và những nhân viên
được các tổ chức như doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài... phân công, ủy quyền thực hiện nhiệm vụ của tổ chức cũng không
được coi là thực hiện công vụ và cũng không được coi là "người có quyền
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY
Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (17)

Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt NamLuận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chuẩn bị phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà NộiLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
 
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH S...
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH S...ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH S...
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH S...
 
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAYLuận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
 
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAYLuận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận án: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túyLuận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOTLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOTLuận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
 
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOTVấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
 

Similar to Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY

Similar to Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY (20)

Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sảnĐề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
 
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOTDấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
Dấu hiệu chống người thi hành công vụ trong Luật Hình sự, HOT
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
 
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Loại Trừ Tính Chất Tội Phạm Của Hành Vi Theo P...
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Loại Trừ Tính Chất Tội Phạm Của Hành Vi Theo P...Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Loại Trừ Tính Chất Tội Phạm Của Hành Vi Theo P...
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Loại Trừ Tính Chất Tội Phạm Của Hành Vi Theo P...
 
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Loại Trừ Tính Chất Tội Phạm Của Hành Vi Theo P...
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Loại Trừ Tính Chất Tội Phạm Của Hành Vi Theo P...Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Loại Trừ Tính Chất Tội Phạm Của Hành Vi Theo P...
Cơ Sở Lý Luận Các Tình Tiết Loại Trừ Tính Chất Tội Phạm Của Hành Vi Theo P...
 
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
 
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
 
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại tỉnh Hòa Bình, 9đ
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại tỉnh Hòa Bình, 9đCác tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại tỉnh Hòa Bình, 9đ
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại tỉnh Hòa Bình, 9đ
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAYLuận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
 
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
 
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Chứa Mại Dâm Trên...
 
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHSLuận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận án: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài SảnCơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản
 
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài SảnCơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Kabala
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 

Recently uploaded (20)

Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 

Luận văn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách, HAY

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI QUANG VINH LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN ĐỂ PHẠM TỘI VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI QUANG VINH LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN ĐỂ PHẠM TỘI VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản Hà nội - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Bïi Quang Vinh
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ "LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN" ĐỂ PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và phân biệt tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với các tình tiết khác có liên quan 7 1.1.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 7 1.1.2. Đặc điểm của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự 13 1.1.3. Phân biệt các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với các tình tiết khác có liên quan của vụ án 15 1.2. Khái niệm, đặc điểm của tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn và sự cần thiết quy định tình tiết lợi dụng chức vụ quyền hạn là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam 21 1.2.1. Khái niệm chức vụ, quyền hạn và người có chức vụ, quyền hạn 21 1.2.2. Khái niệm lợi dụng chức vụ, quyền hạn và các hình thức lợi dụng chức vụ, quyền hạn 30 1.2.3. Phân biệt lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lạm dụng chức vụ quyền hạn 35
  • 5. 5 1.2.4. Phân biệt khái niệm chức vụ, quyền hạn trong tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội" với khái niệm chức vụ, quyền hạn trong các tội phạm về chức vụ quy định tại Chương XXI Bộ luật hình sự 38 1.3. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc quy định tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam 40 1.3.1. Sự cần thiết của việc quy định tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam 40 1.3.2 Ý nghĩa của việc quy định tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam 46 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ "LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN" ĐỂ PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 50 2.1. Khái quát vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam 50 2.1.1. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam 50 2.1.2. Vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam thời phong kiến (trước năm 1945) 52 2.1.3. Vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội trong các văn bản pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời 56 2.1.4. Vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 61 2.1.5. Vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 63 2.2. Quy định của bộ luật hình sự việt nam năm 1999 về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" 64
  • 6. 6 2.2.1. Sự thể hiện tình tiết tăng nặng "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" với tư cách là tình tiết tăng nặng chung quy định tại Phần chung Bộ luật hình sự năm 1999 65 2.2.2. Sự thể hiện tình tiết "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" với tư cách là tình tiết tăng nặng định khung, tình tiết định tội quy định tại Phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 1999 67 2.3. So sánh với bộ luật hình sự nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa 72 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG "LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN" ĐỂ PHẠM TỘI 75 3.1. Thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" 75 3.2. Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" và nguyên nhân của nó 89 3.3. Một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" 95 3.3.1. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện quy định về tình tiết tăng nặng "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" 95 3.3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" 98 KẾT LUẬN 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 11 Một số cặp đối lập giữa các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 17 3.1 Tổng số vụ án hình sự và tổng số bị cáo trong 3 năm (2011-2013) 75 3.2 Tổng số vụ án và số bị cáo phạm các tội liên quan đến chức vụ trong 3 năm (2011-2013) 76 3.3 Tổng số vụ án và số bị cáo phạm các tội mà tội danh đó có quy định tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự là "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" trong 3 năm (2011-2013) 76
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Tội phạm là hành vi vi phạm pháp luật nguy hiểm nhất cho xã hội, được chủ thể có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi, trái với pháp luật hình sự và do đó phải gánh chịu hậu quả pháp lý nghiêm khắc nhất là hình phạt. Tội phạm là hiện tượng xã hội rất đa dạng, phức tạp mà sự khác biệt chủ yếu được phân biệt qua tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó. Tùy theo tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi người ta phân chia tội phạm thành các nhóm, các tội danh cụ thể và áp dụng các khung hình phạt khác nhau trong cùng một tội danh, cũng như cá thể hóa hình phạt trong mỗi khung hình phạt đối với từng trường hợp cụ thể. Chúng ta biết rằng mức độ nguy hiểm của tội phạm được quy định bởi nhiều thuộc tính, yếu tố như: tầm quan trọng của mối quan hệ xã hội bị xâm hại, mức độ lỗi, động cơ, mục đích, nhân thân của chủ thể, thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm phạm tội, hậu quả thiệt hại xảy ra... Tổng hợp tất cả những yếu tố đó cho phép xác định mức độ nguy hiểm nhất định của tội phạm cụ thể, làm cơ sở cho việc quy định tội phạm trong luật, cũng như trong các trường hợp cụ thể là cơ sở quyết định trách nhiệm hình sự mà người thực hiện tội phạm phải gánh chịu. Trong số những người thực hiện hành vi phạm tội có một nhóm người có đặc điểm là họ được trao quyền lực nhất định trong các quan hệ xã hội, thể hiện dưới hình thức một chức vụ, quyền hạn nào đó. Nói cách khác họ có "ưu thế" hơn những người khác trong việc tiếp cận, thực hiện hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà pháp luật hình sự bảo vệ, cũng như có khả năng cao hơn trong việc che giấu trốn tránh trách nhiệm khi xâm hại các quan hệ xã hội đó. Chính vì vậy trong một số trường hợp nhất định, nếu tội phạm được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn thì bị coi là có tính chất và mức độ
  • 9. 9 nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với người bình thường. Đó chính là cơ sở khác quan để Bộ luật hình sự nước ta quy định tình tiết "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" là một tình tiết tăng nặng, đồng thời trong một số tội phạm cụ thể còn lấy làm tình tiết tăng nặng định khung. Việc quy định như vậy một mặt thể hiện quan điểm khoa học: lấy tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm làm "thước đo" chủ yếu cho trách nhiệm hình sự và hình phạt, mặt khác thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là Nhà nước "của dân, do dân, vì dân", cán bộ công chức, tức là những người thường mang một chức vụ, quyền hạn nhất định, là công bộc của nhân dân, nếu lợi dụng điều này để phạm tội phải bị coi là nguy hiểm hơn, phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn người bình thường. Trong thực tiễn, các tội phạm xuất hiện tình tiết "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" không phải hiếm và thường là những vụ án phức tạp, điều tra khó khăn, áp dụng pháp luật có nhiều quan điểm khác nhau. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với những chuyển biến rất quan trọng về kinh tế - xã hội, thì nhận thức về tình tiết "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" cũng phải mang những nội dung mới: yếu tố chức vụ quyền hạn được hiểu như thế nào trong hệ thống các quan hệ xã hội của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong các mô hình như tổ chức đa sở hữu, đơn vị sự nghiệp, đơn vị công ích? Việc làm rõ các vấn đề này có ý nghĩa quan trọng cả về nhận thức lý luận và về thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm có yếu tố lợi dụng chức vụ quyền hạn nói riêng. Những vấn đề nêu trên tuy không mới mẻ nhưng đến nay vẫn chưa được giải quyết toàn diện, thấu đáo. Chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ và riêng biệt về việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tính chất là một tình tiết tăng nặng trong luật hình sự Việt Nam.
  • 10. 10 Chính vì vậy tác giả quyết định chọn đề tài "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam" để nghiên cứu làm luận văn Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Khoa học pháp lý hình sự trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết của nhiều tác giả có liên quan đến đề tài này như: "Tìm hiểu về khái niệm người có chức vụ và lợi dụng chức vụ để phạm tội - trong luật hình sự Việt Nam" của thạc sĩ Phan Thị Bích Hiền - Trường Đại học Cảnh sát nhân dân; "Vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội" của PGS.TS Trần Văn Độ - Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án Quân sự Trung ương; Đề tài khoa học mã số KXBD 02 về "đấu tranh chống tham những - những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Ban Nội chính Trung ương; các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu của TS. Nguyễn Mạnh Kháng, TS.Nguyễn Ngọc Chí, GS.TS Đỗ Ngọc Quang, PGS.TS Võ Khánh Vinh… Tuy nhiên điểm chung của các công trình này là nghiên cứ lý luận, thực tiễn vấn đề lợi dụng chức, quyền hạn để phạm tội nói chung, đi sâu nghiên cứu các tội phạm về tham nhũng và chức vụ mà chưa đi sâu nghiên cứu về lý luận và thức tiễn vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng. Xuất phát từ thực tế này cho thấy việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa về lý luận và thực tiễn vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng nhằm từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự là việc làm cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam" nhằm đạt được những mục đích như sau:
  • 11. 11 - Củng cố tri thức về cơ sở khoa học của việc quy định tình tiết "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn" là tình tiết tăng nặng. - Nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống các quy định của pháp luật hình sự nước ta liên quan đến vai trò của tình tiết "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn" đối với việc định khung và quyết định hình phạt. - Nghiên cứu những vấn đề phát sinh trong thực tiễn áp dụng tình tiết trên để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Luận văn cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra khảo sát, phương pháp thống kê. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hình sự về vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu quy định tại phần chung, cụ thể là điểm c khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự quy định vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng nói chung, các quy định về vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng định khung tại một số tội phạm cụ thể quy định tại phần riêng của Bộ luật hình sự và thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng lợi
  • 12. 12 dụng chức vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng trong thời gian từ năm 2000 đến khi luận văn hoàn thành. 6. Những đóng góp mới của luận văn Đây là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng. Luận văn nghiên cứu toàn diện và có hệ thống vấn đề lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng nói chung và tình tiết tăng nặng định khung tại một số tội phạm cụ thể, nghiên cứu thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng này từ đó đề ra những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng tình tiết tăng nặng này trong quá trình quyết định hình phạt của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong luận văn này, lần đầu tiên: - Có sự nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về khái niệm chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phân biệt các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn. So sách để chi ra điểm giống và khác nhau giữa lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng nói chung quy định tại điểm c khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự với lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng định khung quy định tại một số tội phạm cụ thể cũng như phân biệt giữa lợi dụng chức vụ, quyền hạn với tư cách là tình tiết tăng nặng với lợi dụng chức vụ, quyền hạn với tư cách là tình tiết định tội trong nhóm các tội phạm về chức vụ. - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội với tư cách là tình tiết tăng nặng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến khi luận văn hoàn thành. - Kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự và hướng dẫn áp dụng quy định về tình tiết tăng nặng "lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội".
  • 13. 13 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Những kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn sau đây: - Ý nghĩa lý luận: Với các kết quả nghiên cứu nêu trên, luận văn có giá trị tham khảo hữu ích cho cán bộ làm công tác thực tiễn áp dụng pháp luật, cán bộ làm công tác nghiên cứu và cán bộ giáo viên, sinh viên các trường Đại học. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, góp phần thiết thực trong việc nâng cao nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm về chức vụ quyền hạn nói riêng trong điều kiện tình hình mới. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" để phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" để phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" để phạm tội.
  • 14. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ "LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN" ĐỂ PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ PHÂN BIỆT TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VỚI CÁC TÌNH TIẾT KHÁC CÓ LIÊN QUAN 1.1.1. Khái niệm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Để hiểu được sâu sắc khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, trước hết cần phải nhận thức được khái niệm trách nhiệm hình sự và khái niệm tình tiết hình sự. * Khái niệm trách nhiệm hình sự: Theo Từ điển tiếng Việt thuật ngữ "trách nhiệm" được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa thứ nhất "trách nhiệm là phần việc được giao cho hoặc coi như giao cho phải làm tròn, nếu kết quả không tốt phải gánh chịu hậu quả", nghĩa thứ hai "trách nhiệm là sự ràng buộc với lời nói hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu hậu quả". Trong lĩnh vực pháp luật, thuật ngữ "trách nhiệm" cũng được hiểu theo hai nghĩa, theo nghĩa tích cực là chức trách bổn phận pháp luật quy định phải làm hoặc theo nghĩa tiêu cực là hậu quả pháp lý của việc vi phạm pháp luật. Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý, ngoài ra trách nhiệm pháp lý còn bao gồm trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật. Theo quan niệm truyền thống người ta thường hiểu trách nhiệm hình sự theo nghĩa thứ hai, tức đó là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay có một số quan điểm chính.
  • 15. 15 Theo GS.TSKH Lê Cảm thì "Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà nước do luật hình sự quy định" [8]. GS.TS Đỗ Ngọc Quang thì cho rằng: Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện [40]. Còn theo quan điểm của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS Lê Thị Sơn thì "Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu án tích" [32]. Các quan điểm nói trên đều nêu bật lên được bản chất của trách nhiệm hình sự chính là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, là sự phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm. Từ đó ta có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự như sau: - Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, nếu không có việc thực hiện tội phạm thì không xuất hiện vấn đề trách nhiệm hình sự. Vì thế ta có thể khẳng định cơ sở của trách nhiệm hình sự chính là tội phạm. - Trách nhiệm hình sự luôn xuất hiện trong phạm vi quan hệ giữa hai bên, một bên là nhà nước với tư cách là bên có quyền xử lý người phạm tội và bên kia là người phạm tội có nghĩa vụ chịu sự xử lý của nhà nước. - Trách nhiệm hình sự chỉ được xác định bằng một trình tự đặc biệt bởi cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền và trình tự đó do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
  • 16. 16 - Trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện trong bản án kết tội có hiệu lực của Tòa án. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. - Trách nhiệm hình sự chỉ mang tính cá nhân, nhà nước ta chưa quy định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. Nội dung của trách nhiệm hình sự hay nói cách khác là các dạng của trách nhiệm hình sự chính là các biện pháp cưỡng chế của nhà nước, thể hiện cho sự lên án của nhà nước đối với người phạm tội bao gồm: hình phạt, biện pháp tư pháp và án tích. Tóm lại trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả của việc phạm tội, nội dung của trách nhiệm hình sự bao gồm hình phạt, biện pháp tư pháp và án tích. * Khái niệm tình tiết hình sự: Thuật ngữ "tình tiết" theo như từ điển tiếng Việt được hiểu là sự việc nhỏ trong quá trình diễn biến của sự kiện, tâm trạng. Vì thế tình tiết hình sự có thể hiểu là những biểu hiện của tội phạm bao gồm những biểu hiện của hành vi phạm tội, những điều kiện, đặc điểm của người phạm tội, những hoàn cảnh, tình huống, đối tượng, hậu quả có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện tội phạm qua đó phản ánh tính nguy hiểm của tội phạm, trách nhiệm hình sự của người phạm tội, phản ánh quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm cũng như chính sách hình sự của Nhà nước. Người ta có thể có nhiều cách phân loại các "tình tiết hình sự", căn cứ vào các biểu hiện của tội phạm thuộc các yếu tố cấu thành tội phạm có thể phân biệt: - Tình tiết thuộc mặt khách quan của tội phạm như tính chất của hành vi, thủ đoạn, phương tiện phạm tội, hậu quả xảy ra...Ví dụ: hành vi có tính côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, dùng hung khí nguy hiểm có khả năng gây hại cho nhiều người, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng...
  • 17. 17 - Tình tiết thuộc khách thể của tội phạm như đối tượng tác động, mối quan hệ xã hội bị xâm hại... ví dụ: tài sản nhà nước, phạm tội đối với trẻ em, người già, phụ nữa có thai... - Tình tiết thuộc mặt chủ quan của tội phạm như lỗi, động cơ, mục đích phạm tội... ví dụ: động cơ để hèn, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng - Tình tiết thuộc chủ thể của tội phạm và nhân thân người phạm tội như phạm tội lần đầu hay tái phạm nguy hiểm.... Căn cứ về ý nghĩa và tầm quan trọng của mỗi tình tiết đối với các trường hợp phạm tội cụ thể ta có thể chia ra làm các tình tiết cơ bản sau: - Tình tiết định tội. - Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. - Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. * Khái niệm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Hiện nay trong pháp luật hình sự thực định nước ta mà cụ thể là Bộ luật hình sự năm 1999, không ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Từ nghĩa "tăng nặng" là làm tăng thêm trọng lượng, làm trầm trọng thêm vấn đề, và dựa trên các khái niệm đã trình bày phần trên ta có thể hiểu khái niệm "tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự" theo nghĩa đơn giản đó là những biểu hiện của hành vi phạm tội, những điều kiện, đặc điểm của người phạm tội, những hoàn cảnh, tình huống, đối tượng, hậu quả có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện tội phạm qua đó phản ánh tính nguy hiểm của tội phạm tăng lên và từ đó làm tăng lên trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chính là khái niệm chỉ tình tình tiết tăng nặng trong luật hình sự để phân biệt với các tình tiết tăng nặng trong luật hành chính. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cũng có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh khái niệm "tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự" mà cụ
  • 18. 18 thể là: Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa "Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết làm cho mức độ nguy hiểm của trường hợp phạm tội cụ thể của một loại tội phạm tăng lên so với trường hợp bình thường và do đó được coi là căn cứ để tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội đó" [32]. Theo PGS.TS Kiều Đình Thụ: Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có ảnh hưởng tới mức độ nguy hiểm của một tội phạm trong các trường hợp cụ thể khác nhau và có ý nghĩa khi quyết định hình phạt vì chúng làm tăng lên mức hình phạt cần áp dụng đối với tội phạm đã thực hiện trong giới hạn khung hình phạt mà luật hình sự quy định với tội phạm đó [54]. Thạc sĩ Đinh Văn Quế "Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết trong một vụ án cụ thể làm tăng lên mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và người phạm tội phải chịu một hình phạt nghiêm khắc hơn trong một khung hình phạt" [43]. GS.TS Đỗ Ngọc Quang: "Những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết làm cho một hành vi phạm tội hoặc người phạm tội tăng lên mức độ nguy hiểm cho xã hội để từ đó cần áp dụng hình phạt nặng hơn trong phạm vi một khung hình phạt đã được xác định" [39]. - Theo TS. Dương Tuyết Miên: Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết được quy định trong Bộ luật hình sự phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải tạo giáo dục của người phạm tội. Các tình tiết tăng nặng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt, làm tăng hình phạt trong giới hạn một khung hình phạt [35]. - Theo TS Trịnh Tiến Việt: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy định trong Bộ luật hình sự với tính chất là tình tiết tăng nặng chung
  • 19. 19 và là một căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn trong phạm vi một khung hình phạt nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này [74]. Các quan điểm trên ngoại trừ quan điểm của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa thì đều có chung hai ý chính, đó là: - Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết phản ánh mức độ nguy hiểm tăng lên của hành vi phạm tội; - Là căn cứ để quyết định tăng mức hình phạt trong giới hạn một khung hình phạt. Vậy vấn đề đặt ra là những tình tiết định khung tăng nặng có được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay không khi nó cũng phản ánh mức độ nguy hiểm tăng lên của hành vi phạm tội nhưng nó không phải là căn cứ để tăng mức hình phạt trong giới hạn một khung hình phạt mà nó là căn cứ để chuyển lên một khung hình phạt khác nặng hơn. Theo ý kiến của tác giả thì tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ở nghĩa là tình tiết tăng nặng chung là những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 1999, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung áp dụng cho tất cả các tội phạm và nó làm tăng hình phạt trong giới hạn một khung hình phạt. Tuy nhiên trong một số cấu thành tội phạm cụ thể, một số tình tiết tăng nặng chung này lại làm tăng lên đáng kể mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, việc tăng hình phạt lên hết giới hạn của khung hình phạt cũng chưa phản ánh hết được mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Vì thế đòi hỏi các nhà làm luật phải xây dựng một khung hình phạt khác nặng hơn. Ngoài ra có một số tình tiết khác tuy không được quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự là tình tiết tăng nặng nhưng do đặc thù của một số cấu thành tội phạm thì các tình tiết này làm tăng lên đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi nên các nhà làm luật cũng xây dựng một khung hình phạt khác nặng hơn khi xuất hiện các tình
  • 20. 20 tiết này. Các tình tiết này là các tình tiết tăng nặng định khung và theo tác giả thì cũng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Vì thế tác giả đồng quan điểm với khái niệm do GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và TS. Trịnh Tiến Việt nêu ra. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa đã đưa ra khái niệm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (bao gồm cả tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung và tình tiết tăng nặng định khung) là các tình tiết phản ánh mức độ nguy hiểm tăng lên của hành vi phạm tội vì thế là căn cứ tăng nặng trách nhiệm hình sự. TS Trịnh Tiến Việt đưa ra khái niệm tình tiết tăng nặng chung được quy định tại phần chung của Bộ luật hình sự là một căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn trong phạm vi một khung hình phạt. Tổng hợp những quan điểm nêu trên, đồng thời căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự liên quan đến các tình tiết tăng nặng, theo quan điểm của chúng tôi khái niệm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có thể được hiểu như sau: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tình tiết làm cho mức độ nguy hiểm của một hành vi phạm tội cụ thể tăng lên và là một trong các căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn. 1.1.2. Đặc điểm của các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Xuất phát từ khái niệm và các quy định của Bộ luật hình sự ta có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự như sau: - Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khi xuất hiện chỉ làm thay đổi theo hướng tăng lên mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cụ thể, căn cứ vào đó Tòa án áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc hơn đối với hành vi phạm tội cụ thể đó chứ nó không làm thay đổi được tính chất của tội phạm đó. - Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhất thiết phải được ghi nhận trong Bộ luật hình sự, không thể được ghi nhận trong các văn bản pháp lý nào
  • 21. 21 khác. Tòa án khi quyết định hình phạt không thể tự động xem xét, nhận định một tình tiết nào đó là tình tiết tăng nặng nếu nó không được ghi nhận trong Bộ luật hình sự như đối với việc nhận định và áp dụng tình tiết giảm nhẹ. Đây là điểm khác biệt rất quan trọng so với các tình tiết giảm nhẹ, vốn có thể "mở rộng" theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. - Nếu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định là tình tiết định tội, tức nó làm thay đổi tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thì khi quyết định hình phạt Tòa án không được sử dụng nó với ý nghĩa là tình tiết tăng nặng nữa. Ví dụ: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội" là những tình tiết định tội được quy định tại các tội như: Cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng - điều 165; tội tham ô tài sản - Điều 278; tội nhận hối lộ - Điều 279... do đó khi quyết định hình phạt đối với các tội này Tòa án không được áp dụng tình tiết tăng nặng "lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 48 khi lượng hình. - Khi một tình tiết tăng nặng đã sử dụng để định khung hình phạt tăng nặng (tức coi nó là tình tiết tăng nặng định khung) thì không coi là tình tiết tăng nặng chung nữa tức khi có những tình tiết: a. Có tổ chức; b. Có tính chất chuyên nghiệp; c. Tái phạm nguy hiểm; d. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; đ. Dùng thủ đoạn xảo quyệt và người phạm tội đã bị truy tố và xét xử theo khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự thì khi xét xử không được coi các tình tiết đó là tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt nữa. - Khi áp dụng các tình tiết tăng nặng phải xác định ý thức chủ quan hay là lỗi của người phạm tội đối với tình tiết tăng nặng đó. Nếu họ không có lỗi đối với việc để xảy ra tình tiết tăng nặng đó thì không thể áp dụng tình tiết tăng nặng đó cho họ. Ví dụ: Một người phạm tội "Vi phạm quy định về điều
  • 22. 22 khiển phương tiện giao thông đường bộ" theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự làm chết trẻ em thì không được áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm h khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự đối với người đó vì người đó vô ý trong hậu quả làm chết trẻ em. - Trong vụ án có đồng phạm, tình tiết tăng nặng xảy ra với người phạm tội nào thì Tòa án chỉ được phép áp dụng đối với người phạm tội đó khi lượng hình mà nhất thiết không được áp dụng đối với những người đồng phạm khác. Ví dụ: A rủ B cùng đi trộm cắp tài sản trên 2.000.000đ thì bị bắt và bị truy tố theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, trong khi B phạm tội lần đầu thì A đã có 01 tiền án. Khi quyết định hình phạt Tòa án áp dụng tình tiết tăng nặng tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự chỉ riêng với A và áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự chỉ riêng với B. Vì thế trong trường hợp này hình phạt của A sẽ phải cao hơn của B. 1.1.3. Phân biệt các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự với các tình tiết khác có liên quan của vụ án * Phân biệt tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là các tình tiết phản ánh mức độ nguy hiểm ít hơn của hành vi phạm tội và là cơ sở để người phạm tội có thể chịu trách nhiệm hình sự ở mức thấp hơn. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự, trong các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hoặc do Tòa án cân nhắc, xem xét quyết định trong quá trình xét xử các vụ án cụ thể. Điểm giống nhau giữa hai loại tình tiết này là chúng đều là căn cứ để tòa án quyết định hình phạt, đều là những tình tiết mang tính chất riêng biệt của trường hợp phạm tội cụ thể, là biểu hiện của hoàn cảnh, tình huống, cách
  • 23. 23 thức thực hiện tội phạm, nhân thân người phạm tội, hậu quả của tội phạm... Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đều ảnh hưởng nhất định đến mức độ trách nhiệm hình sự, chúng không làm thay đổi được tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà chỉ làm thay đổi mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Xét về vị trí của các tình tiết này trong Bộ luật hình sự, chúng đều được phân ra làm 02 nhóm là nhóm được quy định trong phần chung và nhóm quy định trong phần các tội phạm. Trong phần chung Bộ luật hình sự thì các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 46. Trong phần các tội phạm thì các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được gọi là các tình tiết tăng nặng định khung được quy định tại các khung tăng nặng của các điều luật quy định về các tội phạm cụ thể còn các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự gọi là các tình tiết giảm nhẹ định khung được quy định tại các khung giảm nhẹ của các điều luật quy định về các tội phạm cụ thể. Các tình tiết giảm nhẹ định khung, hiện nay, chỉ còn gặp trong một số ít loại tội phạm thuộc nhóm "Các tội xâm phạm an ninh quốc gia" với các tình tiết là: có nhiều tình tiết giảm nhẹ; người đồng phạm khác; phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng Sự khác nhau của hai nhóm tình tiết này thể hiện ở một số khía cạnh sau: - Tác dụng ngược chiều đến trách nhiệm hình sự: Tuy nhiên điểm khác biệt cơ bản về nội dung là các tình tiết tăng nặng làm tăng lên mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi trong hành vi phạm tội đó xuất hiện tình tiết này, là ăn cứ để Tòa án tăng hình phạt, ngược lại tình tiết giảm nhẹ lại làm giảm mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi nó xuất hiện và là căn cứ để Tòa án giảm nhẹ hình phạt. Sự đối lập này tạo trên thực tế tạo nên những cặp tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nghiên cứu khoản 1 Điều 46 và khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự TS Trần Thị
  • 24. 24 Quang Vinh trong luận án tiến sĩ của mình đã chỉ ra một số cặp đối lập giữa các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bảng 1.1: Một số cặp đối lập giữa các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự TT Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự 1 Phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng 2 Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn 3 Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra 4 Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm 5 Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác Người phạm tội là phụ nữ có thai; Người phạm tội là người già;Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình 6 Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm 7 Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp Phạm tội do lạc hậu Nguồn: [78]. - Về tác động của tình tiết đến trách nhiệm hình sự Khi một hành vi phạm tội cụ thể có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì dù có bao nhiêu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đi chăng nữa cũng không được tăng hình phạt quá giới hạn một khung hình phạt. Tuy nhiên đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự lại cho phép phá vỡ giới hạn tối thiểu của khung hình phạt. Khi có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự thì tòa án
  • 25. 25 có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định. Sự khác biệt này thể hiện thái độ nhân đạo của nhà nước trong việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Nhà nước thể hiện thái độ cẩn trọng trong việc gia tăng trách nhiệm hình sự nhưng lại chấp nhận mở rộng khoan hồng đối với người phạm tội. - Về quy tắc vận dụng các tình tiết Nếu các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định chặt chẽ trong Bộ luật hình sự và tòa án chỉ được áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đã được quy định trong Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt thì việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự lại được vận dụng theo hướng mở rộng, tùy nghi. Tòa án có thể sử dụng các tình tiết khác không được quy định trong Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng phải nhận định trong bản án. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng. Nếu một hành vi phạm tội có những tình tiết có thể làm tăng lên mức độ nguy hiểm của hành vi tuy nhiên tình tiết đó chưa được kịp thời quy định là tình tiết tăng nặng trong Bộ luật hình sự thì Tòa án không thể nhận định và áp dụng như là tình tiết tăng nặng giống như đối với tình tiết giảm nhẹ. - Về vị trí được quy định của các tình tiết Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chỉ được quy định duy nhất trong Bộ luật hình sự còn tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự còn được quy định trong các văn bản dưới luật như tại điểm c, mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP quy định các tình tiết sau được coi là tình tiết giảm nhẹ khác: [62] - Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh
  • 26. 26 hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước: - Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sĩ; - Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Người bị hại cũng có lỗi; - Thiệt hại do lỗi của người thứ ba; - Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo; - Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khỏe của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản; - Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu. Ngoài ra tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự nước ta còn thể hiện tính nhân đạo khi cho phép Tòa án sau khi nhận định trong bản án coi các tình tiết khác nữa làm tình tiết giảm nhẹ. * Phân biệ t tình tiế t tă ng nặ ng trách nhiệ m hình sự và tình tiế t đ ị nh tộ i Tình tiết định tội là tình tiết thực tế của vụ án cụ thể được sử dụng để xác định người phạm tội trong vụ án đó đã phạm tội gì hay hiểu một cách cụ thể là những tình tiết được phản ánh bởi các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm cơ bản dùng để mô tả một loại tội, là căn cứ để phân biệt tội phạm này
  • 27. 27 với tội phạm khác. Đó là những tình tiết thỏa mãn dấu hiệu định tội đã được quy định trong luật. Ví dụ: tình tiết dùng thủ đoạn lừa dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị trên 2.000.000đ là những tình tiết định tội của tội "trộm cắp tài sản" hay tình tiết lợi dụng chức vụ để phạm tội là tình tiết định tội của một số tội danh trong đó có nhóm tội phạm về tham nhũng quy định tại Mục A chương XXI Bộ luật hình sự. Tình tiết định tội là các tình tiết hình sự dùng để mô tả một loại tội, là căn cứ để phân biệt loại tội này với loại tội khác vì thế sự xuất hiện của nó làm thay đổi tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Ví dụ: A lén lút chiếm đoạt tài sản của B giá trị trên 2.000.000đ, khi bị phát hiện A sẽ phạm tội "trộm cắp tài sản". Tuy nhiên xuất hiện tình huống khi B phát hiện thì A đã tấn công B để chiếm đoạt tài sản bằng được, đây là trường hợp xuất hiện tình tiết A dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt tài sản của B (là tình tiết định tội của tội "cướp tài sản") thì A sẽ phạm tội "cướp tài sản". Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng là các tình tiết hình sự nhưng sự xuất hiện của nó chỉ làm thay đổi mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cụ thể là làm tăng lên mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, không làm thay đổi tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội như các tình tiết định tội. Ví dụ: Cũng ví dụ như trên, A lén lút chiếm đoạt của B tài sản trị giá trên 2.000.000đ, nhưng A đã có 01 tiền án là thuộc trường hợp tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Sự xuất hiện tình tiết này không làm thay đổi được tội danh "trộm cắp tài sản" của A, nó chỉ làm tăng lên mức độ nguy hiểm trong hành vi trộm cắp tài sản
  • 28. 28 của A và vì thế khi quyết định hình phạt Tòa án sẽ căn cứ vào tình tiết đó (tái phạm) để quyết định mức hình phạt nặng hơn mà thôi. Về mặt hình thức các tình tiết định tội được phản ánh trong các cấu thành tội phạm cơ bản trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự lại được quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự (phần chung của Bộ luật hình sự) và quy định tại các cấu thành tăng nặng của các tội danh tại phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. 1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA TÌNH TIẾT LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN VÀ SỰ CẦN THIẾT QUY ĐỊNH TÌNH TIẾT LỢI DỤNG CHỨC VỤ QUYỀN HẠN LÀ TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.2.1. Khái niệm chức vụ, quyền hạn và người có chức vụ, quyền hạn Bộ luật hình sự năm 1999 chưa có quy định khái niệm chung nhất về chức vụ, quyền hạn. Tại Điều 277 Bộ luật hình sự có nói đến khái niệm người có chức vụ trong các tội phạm về chức vụ. Theo từ điển tiếng Việt thì chức vụ là nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng với chức. Ta có thể hiểu là một vị trí công việc mà một cá nhân nào đó có được do bổ nhiệm, bầu cử, ký hợp đồng hoặc hình thức khác, từ đó cá nhân đó có được những quyền hạn để thực hiện những nhiệm vụ nhất định. Vậy chức vụ sẽ đi kèm với một quyền hạn và nhằm để thực hiện nhiệm vụ nào đó [37]. Khái niệm "Quyền" theo Từ điển tiếng Việt là "điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm hoặc đòi hỏi, là những điều do địa vị hay chức vụ mà được làm" [37]. Quyền hạn là quyền được xác định về nội dung, mức độ, phạm vi. Nội dung, mức độ và phạm vi là thước đo ba chiều của quyền hạn. Vậy trong khoa học pháp lý thì quyền hạn nghĩa là những khả năng được pháp luật ghi nhận và cho phép một cá nhân khi thực
  • 29. 29 hiện một nhiệm vụ nào đó được thực hiện một số hành vi nhất định và mức độ và phạm vi của hành vi được thực hiện. Từ phân tích trên ta thấy nói đến chức vụ là ta nói đến hình thức thì quyền hạn là nói đến nội dung. Một chức vụ phải có một quyền hạn đi kèm, tuy nhiên quyền hạn lại không đồng nhất với chức vụ. Nghĩa là một người có chức vụ thì phải có quyền hạn nào đó nhưng một người có quyền hạn thì không nhất thiết phải có chức vụ. Vậy người nào được coi là người có chức vụ, quyền hạn? Trong Bộ luật hình sự năm 1999, các tội phạm do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện không chỉ bao gồm các tội phạm về chức vụ mà còn có các tội phạm được quy định ở các chương khác. Mặt khác, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện cho thấy còn gặp những khó khăn vướng mắc nhất định, một số quy định của pháp luật về vấn đề này còn trừu tượng, chung chung, khó giải thích, khó áp dụng nhất là trong tình hình xã hội hiện nay đã có nhiều sự chuyển biến, thay đổi trên các phương diện khác nhau, nhiều lĩnh vực đã được xã hội hóa, những công việc trước đây chỉ có nhà nước đảm trách bây giờ đã được giao cho nhân dân cùng làm… Vì vậy, về mặt nhận thức cần có sự thống nhất trong việc xác định thế nào là người có chức vụ, quyền hạn. Theo khoản 3, Điều 1 Luật phòng chống tham nhũng, những người sau đây được coi là người có chức vụ, quyền hạn: a) Cán bộ, công chức, viên chức b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân
  • 30. 30 c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp d) Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó [49]. Theo quy định tại Điều 4 Luật cán bộ công chức, cán bộ công chức bao gồm các đối tượng sau: 1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong có quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị quân đội nhân dân mà không phải sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc công n nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
  • 31. 31 đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. 3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cán bộ cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, phó bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [50]. Theo Điều 2 Luật viên chức: Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí làm việc, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Vậy theo khái niệm trong Luật phòng chống tham nhũng thì chức vụ, quyền hạn phải gắn liền với quyền lực nhà nước, Đảng cộng sản, các tổ chức chính trị - xã hội hoặc được nhà nước ủy quyền thực hiện công vụ. Theo Điều 277 Bộ luật hình sự khái niệm người có chức vụ được hiểu: "Người có chức vụ nói trên đây là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ" [48]. Theo khái niệm này, có rất nhiều căn cứ khác nhau để xác định một người có chức vụ như do được bổ nhiệm, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác… Hình thức khác ở đây có thể hiểu là bất cứ hình thức nào mà gắn những quyền năng nhất định của chủ thể với chức vụ mà họ có. Như vậy, trong khái niệm này theo chúng tôi người có chức vụ có thể hiểu một cách ngắn gọn là "người được giao thực hiện công vụ (mang tính hợp pháp) và có
  • 32. 32 quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ đó. Ví dụ: Bác sỹ được giao nhiệm vụ khám sức khỏe để tuyển dụng cán bộ; viên chức, thủ kho được giao nhiệm vụ quản lý kho hàng…Tất cả những người này đều được coi là người có chức vụ bởi vì họ được giao nhiệm vụ thực hiện công vụ vì lợi ích chung của toàn xã hội và có những quyền năng nhất định khi thi hành công vụ. Tuy nhiên, trong khái niệm vẫn còn một vấn đề cần phải làm sáng tỏ thêm thế nào là "công vụ" Theo Từ điển tiếng Việt, "công vụ" là hoạt động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân và xã hội [37]. Theo khái niệm trong tài liệu thi bồi dưỡng chuyên viên cao cấp khối Đảng, "Công vụ" là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do cán bộ, công chức tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội. Tuy nhiên trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, do đặc thù về thể chế chính trị nên công vụ còn bao gồm cả hoạt động thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội. Đặc điểm và tính chất của công vụ: - Mục đích của công vụ là phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội. - Nội dung hoạt động công vụ bao gồm các hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội trong lãnh đạo, quản lý và tham gia quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời tổ chức cung ứng và phục vụ các nhu cầu chung của xã hội, của nhân dân không vì mục đích lợi nhuận. - Chủ thể thực thi công vụ là cán bộ, công chức.
  • 33. 33 - Hoạt động công vụ không chỉ thuần túy mang tính quyền lực nhà nước, mà còn bao gồm cả hoạt động của các tổ chức do nhà nước thành lập (được nhà nước ủy quyền) để phục vụ các nhu cầu của nhân dân. Các hoạt động này đều do cán bộ, công chức nhân danh nhà nước tiến hành. Bao gồm các hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước và các hoạt động của các tổ chức được nhà nước ủy quyền. Ở các nước trên thế giới, khi đề cập đến công vụ, người ta ít nói đến yếu tố quyền lực nhà nước mà thường chỉ nói tới công chức nhân danh pháp luật hoặc nhân danh nhà nước mà thôi. Bởi lẽ, pháp luật là công cụ chính, chủ yếu do nhà nước ban hành. Ngoài ra, ở Việt Nam do đặc thù về thể chế chính trị nên hoạt động công vụ còn bao gồm cả hoạt động của cán bộ, công chức trong các cơ quan của Đảng, của tổ chức chính trị - xã hội. - Công vụ được tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Nhà nước giao và tuân theo pháp luật. - Hoạt động công vụ mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp. Vậy nói đến "công vụ" là nói đến hoạt động của nhà nước, với nhiều yếu tố hợp thành như thể chế công vụ, đội ngũ công chức, các cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước... Một số tài liệu ở Việt Nam hiện nay quan niệm công vụ là một loại lao động mang tính quyền lực và pháp lý được thực thi bởi đội ngũ công chức nhằm thực hiện các chính sách của nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã hội hoặc coi công vụ là một dạng của lao động xã hội chủ yếu do các công chức thực hiện. Hoạt động công vụ được điểu chỉnh bởi ý chí nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước và gắn với quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước. Trên thế giới hiện nay, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về công vụ. Cộng hòa Pháp quan niệm khi nói về công vụ là chủ yếu nói về: toàn bộ những người được Nhà nước hoặc cộng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào một công
  • 34. 34 việc thường xuyên trong một công sở hay một công sở tự quản, kể cả các bệnh viện và được thực thụ vào một trong các ngạch của nền hành chính công. Theo đó, từ điển Pratique du Francais 1987 định nghĩa rất gọn như sau: "Công vụ là công việc của công chức". Các nhà nghiên cứu của đại học Michigan - Hoa Kỳ quan niệm về công vụ là: một khái niệm chung miêu tả về các nhân viên do Chính phủ tuyển dụng, những người cấu thành nên công vụ theo chức nghiệp. Các công chức được tuyển dụng trên cơ sở thực tài, được đánh giá định kỳ theo kết quả thực thi công tác của mình, được nâng bậc căn cứ theo tính điểm hiệu quả và được bảo đảm về công việc. Tiến sĩ Jeanne- Mariecol của Hoa Kỳ cũng cho rằng, nói tới công vụ là nói tới công chức, những người làm việc theo chức nghiệp và do luật hay các quy định về công chức điều chỉnh. Luật Công vụ của Liên bang Nga coi công vụ là hoạt động có tính chuyên nghiệp nhằm đảm bảo thực thi thẩm quyền của các cơ quan nhà nước. Nghiên cứu các quan niệm về công vụ nêu trên, có thể thấy ở Việt Nam và một số nước trên thế giới từ trước đến nay, nhiều nghiên cứu vẫn thường quan niệm công vụ như một hoạt động do công chức thực hiện nhân danh quyền lực nhà nước. Như vậy khái niệm chức vụ, quyền hạn tại Luật phòng chống tham nhũng và tại Điều 277 Bộ luật hình sự phải gắn liền với quyền lực nhà nước, đảng và các tổ chức chính trị - xã hội và mục đích là phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội. Đó là vì Luật phòng chống tham nhũng và nhóm tội phạm về chức vụ hướng đến việc bảo vệ hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên trong thời đại ngày nay, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước đã có nhiều thay đổi, theo hướng phục vụ nhân dân. Trong đó có nhiệm vụ cung ứng các dịch vụ công phục vụ cho nhân dân. Do vai trò và tác dụng ngày càng lớn của các dịch vụ công đối với sự phát triển giàu mạnh, văn minh, hiện đại của từng quốc gia, cho nên các nhà nước ngày càng quan tâm
  • 35. 35 hơn tới việc phát triển các dịch vụ công (trong cả khu vực công lập và khu vực ngoài công lập). Có rất nhiều lĩnh vực đã được tư nhân hóa, cổ phần hóa, xã hội hóa như hoạt động công chứng tư, bệnh viện tư, trường học tư… Vậy những người được giao những nhiệm vụ như quản lý bệnh viện tư, hiệu trưởng trường học tư, công chứng viên của các phòng công chứng tư… có được xem là những người có chức vụ, quyền hạn hay không, họ có được xem là người thực hiện công vụ hay không? Những Tổng giám đốc, giám đốc, chủ tịch Hội đồng quản trị các công ty, tổng công ty, tập đoàn lớn, lãnh đạo các tổ chức phi chính phủ… có phải là người có chức vụ quyền hạn hay không? Điều 277 Bộ luật hình sự nêu khái niệm chức vụ trong chương các tội phạm về chức vụ có mục đích bảo vệ hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên trong Bộ luật hình sự còn có rất nhiều chương và hướng đến bảo vệ các quan hệ xã hội khác vì thế không thể hiểu máy móc về khái niệm chức vụ, quyền hạn như quy định tại Điều 277 Bộ luật hình sự được. Từ ý nghĩa của tình tiết tăng nặng là những tình tiết làm tăng tính nguy hiểm của một hành vi phạm tội cụ thể thì khái niệm chức vụ, quyền hạn với ý nghĩa là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự và trong cấu thành tăng nặng của một số tội phạm cụ thể quy định tại phần các tội phạm phải được hiểu theo nghĩa rộng không bó hẹp trong việc phải gắn với quyền lực nhà nước, Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội nữa. Bởi vì thực tế quyền lực của những lãnh đạo các công ty, tập đoàn, các tổ chức phi chính phủ này cũng vô cùng lớn và việc lợi dụng nó để phạm tội cũng làm tăng lên đáng kể tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Nó xuất phát từ thực tiễn nền kinh tế chúng ta đang xây dựng là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần thì hiện nay có nhiều tổ chức kinh tế, công ty, xí nghiệp với các hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động. Trong các tổ chức kinh tế, công ty xí nghiệp này cũng có những người giữ vai trò quản lý,
  • 36. 36 điều hành và nếu họ lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để phạm tội thì cũng nguy hiểm không kém hành vi của những người lợi dụng công quyền. Từ những phân tích trên theo tác giả thì khái niệm người có chức vụ, quyền hạn được hiểu như sau: Tất cả những cá nhân có một vị trí công việc do bổ nhiệm, bầu cử, ký hợp đồng hoặc hình thức khác, từ đó cá nhân đó có được những quyền hạn để thực hiện những nhiệm vụ nhất định liên quan đến kợi ích cộng đồng hoặc cá nhân được cơ quan tổ chức nói chung ủy quyền thực hiện nhiệm vụ và trao quyền để thực hiện nhiệm vụ và nhiệm vụ này có liên quan đến lợi ích cộng đồng thì đều coi là có chức vụ, quyền hạn. Vậy người có chức vụ, quyền hạn phải là người có quyền quyết định liên quan đến lợi ích cộng đồng tức là quyền và lợi ích của người khác như quyền được lao động, quyền được khen thưởng, quyền được bố trí vào những vị trí theo đúng trình độ, khả năng....Chúng ta giới hạn những người có chức vụ, quyền hạn là những người có quyền ra những quyết định liên quan đến quyền và lợi ích của người khác. Ví dụ những người đại diện cho chính quyền như đại diện Ủy ban nhân dân, công an, cán bộ tòa án...; những người thực hiện chức năng quản lý như nhân viên hải quan, thuế vụ...; những người làm công tác quản lý, lãnh đạo các doanh nghiệp, tập đoàn.... Chúng ta cần phân biệt giữa khái niệm chức vụ, quyền hạn và khái niệm nghề nghiệp. Những người do đặc thù nghề nghiệp nên cũng được giao thực hiện công vụ nhất định và có những quyền hạn nhất định nhưng các quyền này do đặc thù nghề nghiệp của họ mang lại cho họ chứ không phải do nhà nước, các cơ quan tổ chức trao cho họ nên khi họ lợi dụng để phạm tội thì coi là lợi dụng nghề nghiệp, không bị coi là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Ví dụ về nghề nghiệp như bác sỹ, ký sư, kiến trúc sư, giáo viên, thủy thủ, lái xe... Bác sĩ có quyền khám chữa bệnh, kê đơn thuốc cho bệnh nhân, nhưng do mâu thuẫn đã kê sai đơn thuốc nhằm mục đích tước đoạt sinh mạng của bệnh nhân thì sẽ bị xử tội "Giết người" nhưng không bị coi là
  • 37. 37 "lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội". Tương tự nếu lái xe, thủy thủ lợi dụng phương tiện được giao buôn hàng lậu thì sẽ bị xử tội "buôn lậu" nhưng cũng không bị áp dụng tình tiết tăng nặng là "lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội". Tuy nhiên trong trường hợp do nghề nghiệp nhưng lại được cơ quan tổ chức giao quyền để thực hiện công vụ và lợi dụng để phạm tội thì phải bị coi là lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Ví dụ khi bác sỹ được phân công khám sức khỏe để tuyển dụng cán bộ, giáo viên được phân công chấm thi, kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng được phân công làm giám sát công trình mà lại lợi dụng làm sai để nhận tiền thì phải bị coi là lợi dụng chức vụ, quyền hạn và phải bị truy tố về tội "nhận hối lộ". Chúng tôi không phủ nhận một điều là lợi dụng nghề nghiệp để phạm tội cũng là yếu tố làm tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội và cần được xử lý nghiêm khắc hơn. Đó là điểm chung giữa yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn và yếu tố lợi dụng nghề nghiệp để phạm tội. Điều này giải thích vì sao trong một số tình tiết tăng nặng định khung ở một số tội có sử dụng yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lợi dụng nghề nghiệp. Tuy nhiên hai yếu tố trên có sự khác nhau tương đối căn bản, nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội xâm phạm đến khách thể quan trọng là hoạt động bình thường, uy tín của cơ quan, tổ chức thì việc lợi dụng nghề nghiệp không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể đến khách thể trên. 1.2.2. Khái niệm lợi dụng chức vụ, quyền hạn và các hình thức lợi dụng chức vụ, quyền hạn * Về khái niệm niệm lợi dụng chức vụ, quyền hạn So với Bộ luật hình sự năm 1985, tình tiết tăng nặng "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 là tình tiết được quy định mới. Tuy nhiên Bộ luật hình sự năm 1999
  • 38. 38 chưa định nghĩa thế nào là "lợi dụng" và thế nào là "lợi dụng chức vụ, quyền hạn", do đó khái niệm này đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu. Theo Từ điển tiếng Việt thì "lợi dụng" có hai nghĩa, một là dựa vào điều kiện nào đó để làm việc có ích, nghĩa hai là thừa dịp thuận lợi để mưu lợi ích riêng [37]. Như vậy chúng ta phải hiểu lợi dụng chức vụ, quyền hạn là dựa vào điều kiện thuận lợi do chức vụ, quyền hạn mang lại để mưu lợi ích riêng không chính đáng. Vấn đề lợi dụng chức vụ quyền hạn từ lâu đã được nhiều nhà nghiện cứu luật học đưa ra nhiều khái niệm khác nhau. Theo tác giả thì lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là trên cơ sở chức trách, công vụ được giao. Người có chức vụ, quyền hạn đã sử dụng chức vụ, quyền hạn như một lợi thế, một phương thức, thủ đoạn để thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A đã ký hợp đồng vay mượn tiền của một số công dân trong phường A với danh nghĩa chủ tịch phường, lấy tiền của người ngày trả lãi cho người kia và dùng ăn tiêu hết dẫn đến mất khả năng chi trả. Ở đây chủ tịch phường A đã lợi dụng chức vụ của mình để tạo uy tín với công dân trong phường nhằm mục đích vay mượn tiền. Vì thế phải bị truy tố về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo điểm b khoản 2 Điều 140 Bộ luật hình sự. Như vậy hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội có dấu hiệu đặc trưng sau: - Chủ thể của hành vi: Phải là người có chức vụ, quyền hạn - Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn phải sử dụng chức vụ, quyền hạn như một lợi thế, một phương thức hay một thủ đoạn để thực hiện tội phạm Nếu một người có chức vụ, quyền hạn nhưng họ không sử dụng chức vụ, quyền hạn khi thực hiện hành vi phạm tội thì không phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
  • 39. 39 Cũng tương tự các hành vi phạm tội khác, người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội cũng thực hiện hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành động. Ở đây ta cũng cần phân biệt việc lợi dụng chức vụ với lợi dụng quyền hạn: Như phân tích ở khái niệm chức vụ là vị trí công việc do bổ nhiệm, bầu cử, ký hợp đồng hoặc hình thức khác, từ đó cá nhân đó có được những quyền hạn để thực hiện những nhiệm vụ nhất định liên quan đến lợi ích cộng đồng, còn người có quyền hạn là người được cơ quan, tổ chức ủy quyền thực hiện một công vụ nhất định và trao cho quyền hạn để thực hiện công vụ đó. Từ đó ta thấy người có chức vụ sẽ đương nhiên có một quyền hạn nào đó còn người có quyền hạn chưa chắc đã có chức vụ. Vì vậy giữa lợi dụng chức vụ và lợi dụng quyền hạn không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Lợi dụng quyền hạn là lợi dụng quyền năng được giao để thực hiện tội phạm còn lợi dụng chức vụ cũng là lợi dụng quyền năng mà chức vụ đó mang lại để phạm tội ngoài ra còn là lợi dụng uy tín của chức vụ, tức là lợi dụng uy tín của vị trí công việc để phạm tội. Tổng hợp các phân tích chúng tôi đưa ra khái niệm: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là tội phạm xảy ra do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi phạm tội đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của họ. Nếu không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện phạm tội; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện tội phạm một cách dễ dàng. * Về các hình thức lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, có thể phân chia như sau: - Ở góc độ hình thức: Có thể chia việc "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" thành hai dạng là hành động và không hành động + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội dưới dạng hành động: là người có chức vụ, quyền hạn sử dụng quyền hạn của mình để ra những quyết
  • 40. 40 định nhằm thực hiện ý đồ phạm tội. Đặc điểm của dạng này là người có chức vụ, quyền hạn dưới danh nghĩa thi hành công vụ đã ra những quyết định, thực hiện những hành vi theo chức trách nhưng nội dung các quyết định, các hành vi đó lại theo ý đồ, mục đích phạm tội. Ví dụ: Trưởng công an huyện ra quyết định tạm giam người có hành vi vi phạm hành chính vì lý do có thù tức cá nhân từ trước. + Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội dưới dạng không hành động: là người có chức vụ, quyền hạn cố ý không làm những việc thuộc phạm vi chức trách, công vụ mà mình phải làm với ý đồ phạm tội. Đặc điểm của hình thức này là người có chức vụ, quyền hạn cố tình làm ngơ để cho những kẻ làm ăn phi pháp hoạt động, cố tình trì hoãn việc ra những quyết định công tác nhằm trục lợi cá nhân. Ví dụ: Thủ trưởng cơ quan điều tra lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình không ban hành quyết định bắt tạm giam kịp thời đối với tội phạm là người có mối quan hệ thân quen để tội phạm bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra truy bắt tội phạm. - Ở góc độ cách thức thực hiện hành vi: có thể chia việc "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" thành 03 dạng sau: + Trực tiếp người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm những công việc thuộc chức trách, công vụ được giao với ý đồ phạm tội. Đây là dạng phổ biến trong thực tiễn, đặc điểm của hình thức này là người có chức vụ, quyền hạn dưới danh nghĩa là thực hiện công vụ để trực tiếp ra các quyết định, thực hiện những hành vi (hành động hoặc không hành động) nhằm đạt được mục đích phạm tội của mình. Hình thức này thể hiện bằng những hành vi cụ thể như nhận hối lộ, ra các quyết định bắt giam, giữ người trái pháp luật…Hình thức này thường thực hiện dưới danh nghĩa cá nhân nhưng cũng có trường hợp một số người, một số tập thể, đơn vị đồng mưu thống nhất với nhau dựa vào chức năng, quyền
  • 41. 41 hạn của đơn vị, tập thể được giao để mưu lợi cho những cá nhân trong đơn vị một cách bất hợp pháp. Những lợi ích thu được phân chia cho các cá nhân theo thỏa thuận. Thực tiễn hiện nay việc "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" có tính chất tập thể có xu hướng gia tăng. Bởi dưới danh nghĩa tập thể thì khó bị phát hiện, khi bị phát hiện thì dùng danh nghĩa tập thể bao che, kháng cự, hợp thức hóa những hành vi phạm tội. + Thông qua cấp dưới hoặc tập thể để hợp pháp hóa các hành vi, quyết định theo ý đồ phạm tội. Khác với trường hợp trên, trường hợp này người có chức vụ, quyền hạn không trực tiếp ra những quyết định, thực hiện những hành vi thuộc thẩm quyền của mình mà họ gây áp lực để người dưới quyền hiểu ý mà tiến hành thực hiện theo hướng của người có chức vụ, quyền hạn từ đó làm lợi cho cá nhân của người có chức vụ, quyền hạn. Ngoài việc thông qua cấp dưới, người có chức vụ, quyền hạn cũng có thể hợp pháp hóa quyết định mưu lợi cho cá nhân dưới dạng các nghị quyết, quyết định tập thể bằng cách đưa ra lấy ý kiến tập thể nhưng thực chất đó là quyết định cá nhân. Với hình thức này người có chức vụ, quyền hạn tính toán, vạch kế hoạch để che giấu ý đồ thực của mình bằng những ý kiến, kế hoạch mang tính tập thể. Đây là hình thức rất tinh vi, khó xác định trách nhiệm đối với người có chức vụ, quyền hạn. Thường trong thực tế khi gặp hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn loại này có nhiều ý kiến rất khác nhau trong việc xử lý. Ví dụ: (1) Vụ án "lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ" liên quan đến quản lý đất đai ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Ông Vũ Đức Vận nguyên bí thư thị ủy Đồ Sơn đã ký quyết định số 113,ngày 26/11/2002 về việc thành lập hội đồng xét giao đất của thị ủy Đồ Sơn không đúng thảm quyền, để thị ủy Đồ Sơn ra các thông báo số 57, ngày 25/12/2002 và thông báo số 60 ngày
  • 42. 42 4/3/2003 làm căn cứ để xét giao đất tái định cư mang tính đặc quyền đặc lợi, dẫn đến việc 33 hộ không đúng đối thượng, không đủ tiêu chuẩn hưởng quỹ đất tái định cư trong đó có người thân của mình. Ông Vũ Đức Vận sau đó bị Tòa án xử về tội "lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ" theo khoản 1 điều 281 Bộ luật hình sự (2) Hành vi của đại tá Dương Tự Trọng - Phó giám đốc Công an thành phố Hải Phòng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để buộc cấp dưới của ông Trọng tại công an TP Hải Phòng phải cấp cho ông 01 chứng minh nhân dân giả để ông Trọng lấy mang đi làm giấy khai sinh cho con riêng của ông Trọng. + Dùng uy tín, ảnh hưởng do chức vụ, quyền hạn của mình tác động đến những người khác hoặc người có chức vụ khác để họ làm những việc theo ý đồ phạm tội của mình. Đây là hành vi thông qua việc giữ chức vụ nhất là chức vụ cao trong bộ máy nhà nước, người có chức vụ có mối quan hệ nhất định với những người có chức vụ ở các cơ quan khác, địa phương khác. Lợi dụng quan hệ đan xen này người có chức vụ, quyền hạn dùng ảnh hưởng của mình tác động tới người có chức vụ, quyền hạn ở những nơi khác, địa phương khác, ngànhh khác để họ làm việc theo yêu cầu của người có chức vụ, quyền hạn. Trường hợp này chức vụ, quyền hạn của người "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" hoàn toàn độc lập với chức vụ, quyền hạn của người bị tác động. Việc người bị tác động làm những việc thuộc phạm vi trách nhiệm của mình theo yêu cầu của người kia là do vị nể trong quan hệ có đi có lại. Đây là dạng "lợi dụng chức vụ, quyền hạn" ngày càng xảy ra phổ biến và khó phát hiện, đấu tranh vì nó được che đậy bởi tình cảm, quan hệ công tác giữa các đơn vị.
  • 43. 43 1.2.3. Phân biệt lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lạm dụng chức vụ quyền hạn Theo Từ điển Tiếng Việt thì "lạm dụng" được hiểu "là dùng, sử dụng quá mức, quá hạn quy định". Trong cuộc sống chúng ta thường gặp khái niệm lạm dụng như: lạm dụng thuốc tân dược, lạm dụng thuốc trừ sâu... Khái niệm lạm dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội và lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội rất gần nhau và rất dễ nhầm lẫn. Trước đây có thời kỳ hai khái niệm này được hiểu như nhau. Tại Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân đã dùng thuật ngữ "lạm dụng chức quyền" để chỉ hành vi phạm tội lợi dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt tài sản công dân (Điều 8) và giải thích "lạm dụng chức quyền có thể là làm trong phạm vi quyền hạn của mình hoặc vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của mình" Quá trình phát triển của pháp luật hình sự và qua thực tiễn xét xử, các nhà làm luật thấy cần phải phân biệt hai thuật ngữ lạm dụng chức vụ quyền hạn và lợi dụng chức vụ quyền hạn. Vì nó có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm hình sự trong những trường hợp cụ thể. Khái niệm lạm dụng chức vụ, quyền hạn theo tác giả là trường hợp người có quyền hạn sử dụng quá mức quyền hạn của mình, người có chức vụ có hành vi sử dụng quá mức quyền hạn mà chức vụ của mình được phép theo quy định pháp luật. Các hành vi vượt quá quyền hạn của mình trong công tác như: làm một việc thuộc chức năng, quyền hạn của người có chức vụ, quyền hạn cấp trên; làm một việc thuộc chức năng, quyền hạn của người có chức vụ, quyền hạn ở ngành khác; làm một việc thuộc chức năng, thẩm quyền của tập thể. Ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường ra lệnh bắt người để tạm giữ, tạm giam; Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân ký văn bản giấy tờ thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân khi không được ủy quyền; Thủ trưởng
  • 44. 44 cơ quan cảnh sát điều tra ra lệnh bắt người tạm giam khi chưa được phê chuẩn của Viện kiểm sát... Vậy nói đến lạm dụng chức vụ, quyền hạn là ta nói đến khía cạnh lạm quyền. Và nếu hành vi lạm quyền đó nhằm chiếm đoạt tài sản thì sẽ bị truy tố về tội: "lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản" theo Điều 280 Bộ luật hình sự. Khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự quy định: Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Muc A Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm [48]. Nếu hành vi lạm quyền đó vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân mà gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì sẽ bị truy tố về tội "lạm quyền trong khi thi hành công vụ" theo Điều 282 Bộ luật hình sự. Khoản 1 Điều 282 Bộ luật hình sự quy định: "Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái công vụ gậy thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm" [48]. Còn lợi dụng chức vụ quyền hạn là người có chức vụ, quyền hạn đã sử dụng chức vụ, quyền hạn như một lợi thế, một phương thức, thủ đoạn, công cụ phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. Trong đó lợi dụng chức vụ là nói đến bao gồm cả lợi dụng uy tín của chức vụ và lợi dụng quyền hạn mà chức vụ đó có được để phạm tội. Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
  • 45. 45 sự về tội phạm tương ứng và có thể chịu tình tiết tăng nặng là lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội. Từ đây lại phát sinh một khía cạnh nữa là nếu một người lạm dụng chức vụ để phạm tội thì chúng ta xử lý như thế nào. Truy tố người đó về tội "Lạm quyền trong khi thi hành công vụ" theo Điều 282 Bộ luật hình sự hay truy tố người đó về tội phạm tương ứng mà người đó đã gây ra với tình tiết tăng nặng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội hay truy tố người đó cả hai tội. Theo như ý kiến của tác giả thì không thể truy tố người đó về hai tội vì nguyên tắc một hành vi chỉ bị xử phạt một lần, mà cần truy tố người đó về một trong hai tội là "Lạm quyền trong khi thi hành công vụ" theo Điều 282 Bộ luật hình sự hoặc truy tố người đó về tội phạm tương ứng mà người đó đã gây ra với tình tiết tăng nặng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội theo nguyên tắc thu hút tội tức sẽ truy tố về tội nào nặng hơn. Căn cứ để áp dụng tình tiết tăng nặng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là bởi vì người đó đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình không những thế còn lạm dụng nó như một lợi thế, một phương thức, thủ đoạn, công cụ phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội. 1.2.4. Phân biệt khái niệm chức vụ, quyền hạn trong tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội" với khái niệm chức vụ, quyền hạn trong các tội phạm về chức vụ quy định tại Chương XXI Bộ luật hình sự Khái niệm tội phạm về chức vụ quy định tại Điều 277 Bộ luật hình sự như sau: "Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thi hành công vụ" [48].
  • 46. 46 Dấu hiệu đặc trưng của các tội phạm về chức vụ quy định tại Chương XXI Bộ luật hình sự là: - Xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tổ chức - Được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn - Tội phạm thực hiện bằng cách lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Vậy chủ thể của tội phạm trong chương XXI là những người có chức vụ, quyền hạn. Tuy nhiên có một vài trường hợp chủ thể không phải là người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã lợi dụng người có chức vụ, quyền hạn như: Tội đưa hối lộ (Điều 289 Bộ luật hình sự); Tội làm môi giới hối lộ (Điều 290 Bộ luật hình sự); Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn (Điều 291 Bộ luật hình sự). Cũng theo Điều 277 Bộ luật hình sự "người có chức vụ" là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Theo như Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của tiến sĩ Trần Minh Hưởng - Học viện cảnh sát nhân dân [33] thì một số người có quyền hạn như thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, kế toán trưởng, thủ quỹ... của một số loại hình thuộc tổ chức kinh tế như doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài... tuy họ cũng có cương vị và có quyền hạn nhất định trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhưng không được coi là "người có chức vụ" theo quy định của điều luật này, chương này và những nhân viên được các tổ chức như doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài... phân công, ủy quyền thực hiện nhiệm vụ của tổ chức cũng không được coi là thực hiện công vụ và cũng không được coi là "người có quyền