SlideShare a Scribd company logo
1 of 167
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------------------------
TỐNG THỊ HƯỜNG
MẠCH LẠC TRONG
VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TIẾNG VIỆT
Ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9 22 90 20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM VĂN TÌNH
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả trong luận án là trung thực, chưa từng được một ai công bố ở đâu và trong bất
kì công trình nào khác.
Tác giả luận án
Tống Thị Hường
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận án xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Học viện Khoa học xã
hội, lãnh đạo khoa Ngôn ngữ học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt
quá trình học tập, triển khai đề tài nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Phạm Văn
Tình, người hướng dẫn khoa học đã luôn tận tình hướng dẫn cho tôi trong quá
trình quá trình học tập, nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Trường Đại học Hải Phòng, Ban
chủ nhiệm khoa Ngữ văn - Địa lí đã luôn tạo điều kiện thuận lợi để tôi trong học
tập và hoàn thành luận án.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn quan tâm, động viên và
tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận án này.
Tác giả luận án
Tống Thị Hường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN .............. 6
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu................................................................................................ 6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về mạch lạc trong văn bản.........................................................6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu mạch lạc trong văn bản nghị luận tiếng Việt .........................12
1.2. Cơ sở lí thuyết .......................................................................................................................13
1.2.1. Văn bản và một số vấn đề liên quan............................................................................13
1.2.2. Cơ sở lí thuyết về mạch lạc ..........................................................................................33
1.2.3. Văn bản nghị luận.........................................................................................................41
1.3. Tiểu kết...................................................................................................................................51
CHƯƠNG 2. MẠCH LẠC TRONG SỰ THỐNG NHẤT ĐỀ TÀI - CHỦ ĐỀ Ở VĂN
BẢN NGHỊ LUẬN TIẾNG VIỆT..........................................................................................53
2.1. Mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề ở văn bản nghị luận thể hiện qua kết cấu văn
bản..................................................................................................................................................53
2.1.1. Đảm bảo kết cấu rõ ràng, hợp lí ......................................................................................53
2.1.2. Sử dụng kiểu quan hệ kết cấu phù hợp........................................................................57
2.2. Mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề ở văn bản nghị luận thể hiện qua các phép
liên kết ...........................................................................................................................................61
2.2.1. Các phép liên kết duy trì đề tài-chủ đề tạo mạch lạc trong văn bản nghị luận
tiếng Việt. ............................................................................................................. 62
2.2.2. Các phép liên kết phát triển đề tài-chủ đề tạo mạch lạc cho văn bản nghị luận tiếng
Việt ...........................................................................................................................................81
2.3. Phân tích trường hợp: Mạch lạc trong thống nhất đề tài-chủ đề qua một số văn
bản cụ thể..................................................................................................................89
2.4. Tiểu kết.................................................................................................................................101
CHƯƠNG 3 MẠCH LẠC TRONG QUAN HỆ LẬP LUẬN Ở VĂN BẢN NGHỊ
LUẬN TIẾNG VIỆT...............................................................................................................103
3.1. Mạch lạc biểu hiện qua việc sử dụng kiểu lập luận phù hợp..........................................103
3.1.1. Lập luận theo logic hình thức của luận cứ và kết luận ...........................................103
3.1.2. Lập luận tường minh và lập luận hàm ẩn .................................................................112
3.1.3. Lập luận phức .............................................................................................................115
3.2. Mạch lạc biểu hiện qua đặc điểm của các thành lập luận ...............................................117
3.2.1. Đặc điểm của luận cứ.................................................................................................118
3.2.2. Đặc điểm của kết luận trong lập luận của văn bản nghị luận.................................121
3.3. Mạch lạc biểu hiện qua các yếu tố có giá trị lập luận ở văn bản nghị luận...................126
3.3.1. Kết tử lập luận trong văn bản nghị luận ...................................................................126
3.3.2. Một số biện pháp tu từ có giá trị lập luận trong văn bản nghị luậnError! Bookmark not defined
3.3.3. Các từ ngữ xưng hô ....................................................................................................130
3.4. Hiện tượng đa thanh trong lập luận ở văn bản nghị luận................................................132
3.4.1. Hiện tượng đa thanh trong lập luận đồng hướng.....................................................132
3.4.2. Hiện tượng đa thanh trong lập luận nghịch hướng..................................................138
3.5. Tiểu kết.................................................................................................................................139
KẾT LUẬN ...............................................................................................................................148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, MÔ HÌNH
Bảng 2.1. Thống kê kiểu kết cấu văn bản nghị luận .....................................................54
Bảng 2.2. Thống kê về kiểu quan hệ kết cấu ở cấp độ văn bản trong VBNL...............57
Bảng 2.3. Thống kê về tần suất xuất hiện của các phép liên kết trong VBNL .............61
Bảng 2.4. Thống kê về tần suất xuất hiện phép lặp từ vựng trong văn bản nghị luận
tiếng Việt .......................................................................................................................62
Bảng 2.5. Thống kê về tần suất xuất hiện phép thế trong văn bản nghị luận tiếng Việt66
Bảng 2.6. Thống kê về tần suất xuất hiện phép tỉnh lược trong VBNL tiếng Việt.......68
Bảng 2.7. Thống kê về tần suất xuất hiện phép dùng từ ngữ đồng nghĩa trong VBNL
tiếng Việt .......................................................................................................................72
Bảng 2. 8. Bảng thống kê về tần suất xuất hiện phép quy chiếu trong VBNL tiếng Việt75
Bảng 2.9. Bảng thống kê về tần suất xuất hiện phép phối hợp từ ngữ trong văn bản nghị
luận tiếng Việt ................................................................................................................81
Bảng 2.10. Bảng thống kê về tần suất xuất hiện phép dùng từ ngữ trái nghĩa trong
VBNL tiếng Việt ...........................................................................................................85
Bảng 3.1. Thống kê về tần suất xuất hiện kiểu lập luận.........................................103
Mô hình 2.1. Mô hình kết cấu của văn bản nghị luận ...................................................54
Mô hình 2.2. Mô hình kết cấu của văn bản Tuyên ngôn độc lập ..................................91
Mô hình 2.3. Mô hình kết cấu của văn bản Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong
văn nghệ của dân tộc....................................................................................................95
Mô hình 2.4. Mô hình kết cấu của văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới.........99
Mô hình 3.1. Mô hình cấu trúc lập luận của văn bản Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao
sáng trong văn nghệ của dân tộc................................................................................145
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
1.1. Liên kết (cohesion) và mạch lạc (coherence) là hai vấn đề liên quan tới đặc
trưng của mọi loại thể văn bản. Một văn bản "chính danh" muốn đạt được hiệu quả
giao tiếp tốt nhất phải có mạch lạc. Mạch lạc có vai trò vô cùng quan trọng, quyết định
“chất văn bản” của văn bản. Mạch lạc là yếu tố quyết định việc tạo thành văn bản,
trong đó nổi rõ lên việc tạo thành tính thống nhất chủ đề của văn bản. Trước đây, các
nhà nghiên cứu ngữ pháp văn bản thường xem mạch lạc là một mặt biểu hiện của liên
kết nội dung. Gần đây, khi ngữ pháp chức năng ra đời, mạch lạc được nghiên cứu và
được xem như một bộ phận quan trọng cấu thành văn bản. Diệp Quang Ban đã tiếp thu
quan điểm, tinh thần của ngữ pháp chức năng vào nghiên cứu văn bản tiếng Việt trong
[7], [8], [11], [12]. Trong các công trình này, Diệp Quang Ban đã nhắc tới vai trò của
mạch lạc trong văn bản: “chính mạch lạc là cái làm cho văn bản là một văn bản. (...)
và mạch lạc cũng là yếu tố có mặt trong văn bản lập luận như một yếu tố bắt buộc”[8,
tr. 293]. Mạch lạc tuy là yếu tố khó xác định rạch ròi nhưng việc thể hiện nó ở những
loại hình văn bản khác nhau có những điểm đặc trưng đáng chú ý. Vì thế, việc hiểu rõ
về mạch lạc (về vai trò và những biểu hiện) gắn với đặc trưng loại hình là vô cùng cần
thiết khi tạo lập hay tiếp nhận một văn bản nào đó.
1.2. Văn bản nghị luận (VBNL) là loại văn bản dùng để trình bày, bình luận,
đánh giá theo một quan điểm nhất định các vấn đề trong các lĩnh vực chính trị - xã hội,
thực hiện chức năng thuyết phục, lôi cuốn, động viên. VBNL thể hiện quan điểm, “bản
lĩnh” của người viết khi trình bày, bình giá về một sự kiện, một vấn đề chính trị - xã
hội cụ thể. VBNL thể hiện rất rõ ràng tính bình giá công khai, tính lập luận chặt chẽ và
tính truyền cảm mạnh mẽ. VBNL là loại văn bản quan trọng trong xã hội xưa (với các
thể loại như hịch, cáo, chiếu, biểu) và thường gặp trong cuộc sống hàng ngày ở xã hội
nay (các bài bình luận, xã luận trên các phương tiện thông tin đại chúng). Hơn nữa,
trong nhà trường, VBNL có một vị trí quan trọng, được giới thiệu và giảng dạy từ bậc
trung học cơ sở đến bậc trung học phổ thông (lớp 7 - lớp 12). Văn nghị luận trong nhà
trường là thể loại giúp học sinh rèn luyện tư duy, lập luận một cách logic, chặt chẽ, thể
hiện được cách nhìn nhận, đánh giá mang tính thuyết phục một vấn đề nào đó về hai
lĩnh vực xã hội và văn học. VBNL có mạch lạc mới đạt được mục đích và thực hiện
được chức năng của nó. Vậy một VBNL mạch lạc là một văn bản như thế nào và
những biểu hiện nào của mạch lạc gắn với đặc trưng thể loại mà khi tiếp nhận hoặc tạo
2
lập VBNL cần chú ý? Đây là câu hỏi mà chúng tôi mong muốn có được câu trả lời khi
chọn đề tài nghiên cứu, bởi vì, theo sự tìm hiểu của chúng tôi, đến nay, chưa có ai đi
sâu vào nghiên cứu mạch lạc trong VBNL (những nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở hai
hoặc ba văn bản hoặc là nghiên cứu riêng về một tác giả nghị luận nào đó). Do đó, việc
tìm hiểu mạch lạc và những biểu hiện của nó gắn với đặc trưng thể loại trong VBNL,
theo chúng tôi, là một việc làm hết sức cần thiết cho những ai quan tâm đến VBNL,
đặc biệt là giáo viên, học sinh và sinh viên.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Mạch lạc trong văn bản nghị
luận tiếng Việt” nhằm góp phần khẳng định vai trò, tầm quan trọng của mạch lạc
trong các loại văn bản nói chung và VBNL nói riêng, đồng thời khẳng định những biểu
hiện “đậm nét” mang tính đặc trưng của mạch lạc trong VBNL, từ đó giúp cho việc
tìm hiểu, nghiên cứu, giảng dạy và tạo lập VBNL trong nhà trường đạt được hiệu quả
như mong muốn.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là mạch lạc và
biểu hiện của mạch lạc trong VBNL tiếng Việt.
2.2. Phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
2.2.1. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án được xác định là mạch lạc và một số biểu hiện
của mạch lạc trong VBNL tiếng Việt, cụ thể là hai biểu hiện: Mạch lạc trong sự thống
nhất đề tài-chủ đề và mạch lạc trong quan hệ lập luận. Lí do lựa chọn hai biểu hiện
này của mạch lạc để nghiên cứu trong VBNL được luận án trình bày cụ thể ở mục
1.2.2.3. (Các biểu hiện của mạch lạc).
2.2.2. Phạm vi về nguồn ngữ liệu
Văn bản nghị luận tiếng Việt rất phong phú về kiểu loại, đồ sộ về số lượng, cho
nên để đảm bảo tính đại diện, tính chọn lọc và độ tin cậy, luận án xác định ngữ liệu
nghiên cứu là 326 VBNL được lấy từ các nguồn sau:
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3
7. Tập nghiên cứu và bình luận văn học chọn lọc (2000), tập I + II + III + IV +
V + VI, Đỗ Quang Lưu tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Hà Nội.
8. Tuyển tập văn chính luận Hồ Chí Minh, (1997), Lữ Huy Nguyên tuyển chọn
và giới thiệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Văn chính luận - quyển V) (2003), Mai Quốc
Liên - Nguyễn Văn Lưu (chủ biên), Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Xã luận báo Nhân dân, từ số thứ sáu, ngày 18/11/2013 đến số thứ bảy, ngày
13/6/2017.
Sở dĩ luận án chọn ngữ liệu từ các nguồn trên vì một số lí do: thứ nhất, các
VBNL tiếng Việt trong sách giáo khoa là những văn bản tiêu biểu, đã được chọn lọc
theo các giai đoạn từ văn học trung đại đến văn học hiện đại (chỉ chọn những VBNL
hoàn chỉnh); thứ hai, các VBNL xã hội ở các nguồn như Văn học Việt Nam thế kỉ XX
(Văn chính luận - quyển V, Tuyển tập văn chính luận Hồ Chí Minh là những văn bản
tiêu biểu của Hồ Chí Minh, của một số cây bút nghị luận tiêu biểu đầu thế kỉ XX như
Phan Kế Bính, Nguyễn An Ninh, Phan Khôi, Phạm Quỳnh,...và một số VBNL xã hội
đương thời trên Xã luận báo Nhân dân; thứ ba là các VBNL văn học trong Tập nghiên
cứu và bình luận văn học chọn lọc (bộ 6 tập) là những văn bản được tuyển chọn của
các nhà phê bình văn học nổi tiếng như Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình
Thi, Nguyễn Hoành Khung, Phạm Văn Đồng,... Từ các VBNL chọn lọc, tiêu biểu ở
các nguồn ngữ liệu này, luận án có cơ sở để phân tích, đánh giá về biểu hiện của mạch
lạc mang tính đặc trưng thể loại của VBNL, từ đó giúp cho việc tiếp nhận và tạo lập
loại văn bản này đạt hiệu quả giao tiếp như mong muốn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc khảo sát, thống kê, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong
VBNL tiếng Việt, luận án nhằm mục đích làm rõ một số biểu hiện nổi trội của mạch
lạc gắn với đặc trưng thể loại VBNL tiếng Việt, qua đó góp phần khẳng định vai trò
của mạch lạc trong việc tiếp nhận và tạo lập loại văn bản này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích và phạm vi nghiên cứu đã được xác định, luận án đặt ra
các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Một là hệ thống lại một cách khái quát những vấn đề lí thuyết liên quan đến nội dung
của đề tài luận án.
4
Hai là khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong
sự thống nhất đề tài-chủ đề ở phương diện kết cấu và các phép liên kết ở VBNL tiếng Việt.
Ba là khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong
quan hệ lập luận ở phương diện: kiểu lập luận, đặc điểm các thành phần lập luận, tính đa
thanh trong lập luận ở VBNL tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp nghiên
cứu là phương pháp phân tích diễn ngôn, phương pháp miêu tả và phương pháp phân
tích ngữ nghĩa.
Phương pháp phân tích diễn ngôn: là phương pháp chủ đạo của luận án. Phương
pháp này nhằm thực hiện việc miêu tả, tìm hiểu và giải thích các biểu hiện mang tính
đặc trưng nổi trội của mạch lạc trong VBNL.
Phương pháp miêu tả: được sử dụng để miêu tả cấu trúc văn bản, các phép liên
kết, các kiểu lập luận, ngôn ngữ lập luận,... trong vai trò thể hiện mạch lạc ở VBNL.
Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: được vận dụng để phân tích nội dung văn
bản, nội dung của lập luận, từ đó có cơ sở đánh giá mạch lạc trong sự thống nhất đề
tài-chủ đề và mạch lạc trong quan hệ lập luận ở VBNL.
Bên cạnh đó, luận án đã sử dụng một số thủ pháp sau:
Thủ pháp thống kê, phân loại: được vận dụng để thống kê các kiểu cấu trúc của
VBNL các phép liên kết đề tài-chủ đề, các kiểu lập luận,...
Thủ pháp so sánh: được dùng để đối chiếu, so sánh việc sử dụng kiểu cấu trúc,
các phép liên kết tạo mạch lạc và lập luận trong ngữ liệu và trong một số loại văn bản
khác để từ đó đánh giá được mạch lạc trong VBNL.
Thủ pháp phân tích, tổng hợp: được vận dụng để phân tích số liệu, ngữ liệu
từ đó có sơ sở khái quát những biểu hiện nổi bật mang tính đặc trưng của mạch lạc
trong VBNL.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thông qua việc vận dụng lí thuyết về mạch lạc vào nghiên cứu biểu hiện của mạch
lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề và trong quan hệ lập luận ở VBNL tiếng Việt, luận án
góp phần khẳng định vai trò quan trong của mạch lạc trong văn bản.
Khảo sát, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong quan hệ lập luận qua kết
cấu và các phép liên kết,... ở VBNL và chỉ ra được những điểm nổi bật của mạch lạc trong
loại văn bản này.
5
Khảo sát, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong quan hệ lập luận ở kiểu
lập luận, đặc điểm các thành phần lập luận, tính đa thanh... ở VBNL và chỉ ra đặc điểm nổi
bật mang tính đặc trưng của mạch lạc ở loại văn bản này.
6. Ý nghĩa và đóng góp của luận án
6.1. Đóng góp về phương diện lí luận
Luận án góp phần làm rõ hơn những vấn đề lí luận của ngôn ngữ học văn bản
và lí thuyết phân tích diễn ngôn dựa vào kết quả nghiên cứu về mạch lạc trong VBNL
tiếng Việt, từ đó khẳng định tầm quan trọng của mạch lạc trong việc tạo lập và phân
tích văn bản nói chung và VBNL nói riêng.
6.2. Đóng góp về phương diện thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần chỉ ra một số biểu hiện quan trọng,
nổi bật của mạch lạc trong VBNL tiếng Việt là mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ
đề và mạch lạc trong quan hệ lập luận, từ đó mong muốn góp phần vào việc làm cho
quá trình tiếp nhận và tạo lập VBNL đạt hiệu quả giao tiếp tốt nhất.
Luận án là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu, phân tích
VBNL về phương diện ngôn ngữ.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lí thuyết
Phần tổng quan vấn đề nghiên cứu, luận án hệ thống lại các công trình, quan
điểm nghiên cứu về mạch lạc và mạch lạc trong văn bản nghị luận. Phần cơ sở lí
thuyết, luận án đề cập đến các vấn đề là văn bản và một số vấn đề liên quan, mạch lạc
và văn bản nghị luận.
Chương 2. Mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề ở văn bản nghị
luận tiếng Việt
Chương này làm nhiệm vụ phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong
sự thống nhất đề tài-chủ đề ở ở VBNL trên hai phương diện là kết cấu văn bản và
các phép liên kết.
Chương 3. Mạch lạc trong quan hệ lập luận ở văn bản nghị luận Việt
Chương này làm nhiệm vụ phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong
quan hệ lập luận ở VBNL trên các phương diện: kiểu lập luận, đặc điểm của các
thành phần lập luận, tính đa thanh trong lập luận.
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về mạch lạc trong văn bản
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu mạch lạc trên thế giới
Mạch lạc là vấn đề được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đề cập đến từ giữa thế kỉ
XX. Do sự phức tạp và tính chất “mơ hồ” khó nhận diện nên mạch lạc đã nhận được
sự quan tâm nghiên cứu của không ít nhà ngôn ngữ học.
Trên thế giới, mạch lạc được nghiên cứu trong các công trình của T. Todorov,
V. Dijk, M.A.K. Halliday & R. Hasan, H.G Widdowson, G. Llian Brown & George
Yule, G.M. Green, D. Nunan, … Dưới đây, luận án điểm lại những công trình tiêu
biểu đã đề cập đến mạch lạc ở các phương diện như quan niệm, vai trò và sự thể hiện
của mạch lạc trong văn bản/diễn ngôn.
Trước tiên, phải nói đến cuốn Cohesion in English (Liên kết trong tiếng Anh)
xuất bản năm 1976 của M.A.K. Halliday & R. Hasan. Trong cuốn sách này, mạch lạc
tuy không được nghiên cứu một cách trực tiếp nhưng những kết quả nghiên cứu,
những phát biểu của các tác giả lại khơi gợi cho các nghiên cứu về mạch lạc sau này.
Trong cuốn sách này, mạch lạc đã được phát biểu như sau: “Mạch lạc là tập hợp
những quan hệ có ý nghĩa dùng chung cho mọi văn bản, phân biệt văn bản với phi văn
bản”. Các tác giả nhấn mạnh: “Mạch lạc không nêu văn bản thông báo gì mà nêu văn
bản được tổ chức thành chỉnh thể ngữ nghĩa như thế nào”. Và “…Chất văn bản bao
gồm nhiều hơn, không chỉ là sự có mặt của những quan hệ nghĩa thuộc loại mà chúng
tôi quy về quan hệ liên kết - sự phụ thuộc của yếu tố này vào yếu tố khác để giải thích
được nó. Nó bao gồm một chừng mực nào đó của mạch lạc trong các ý nghĩa được
diễn đạt: không chỉ hoặc không phải chủ yếu là ở nội dung, mà ở sự lựa chọn toàn bộ
các nguồn ý nghĩa của ngôn ngữ đó, bao gồm cả các thành tố liên nhân khác nhau, các
thức, các tình thái, các độ mạnh và những hình thái khác nữa mà người nói nhồi nhét
vào trong các tình huống nói”. Các tác giả M.A.K. Halliday & R. Hasan đã chỉ ra hai
điều kiện để đảm bảo cho một văn bản mạch lạc là văn bản phải phù hợp với ngữ cảnh
và phải có sự liên kết.
Tiếp theo là cuốn Văn bản và ngữ cảnh (Text and Context) xuất bản năm 1977
của T.A. Van Dijk. Trong cuốn sách, tác giả đã dành riêng một chương để viết về
mạch lạc (Chapter 4: Coherence). Trong đó, mạch lạc được quan niệm “là một thuộc
7
tính ngữ nghĩa của diễn ngôn, dựa trên việc giải thích các câu riêng lẻ trong mối tương
quan với các câu khác trong văn bản” [109, tr. 93] . T.A. Van Dijk cho rằng trong mỗi
diễn ngôn chứa một cấu trúc vĩ mô (cấu trúc ngữ nghĩa tổng thể) thể hiện ngữ nghĩa của
diễn ngôn và cấu trúc ngữ nghĩa của một diễn ngôn được tổ chức phân cấp ở nhiều cấp độ
phân tích (cấu trúc vĩ mô của một diễn ngôn chi phối, kéo theo các cấu trúc vĩ mô khác
chi phối toàn bộ diễn ngôn và chính cấu trúc vĩ mô quyết định tính mạch lạc tổng thể của
một diễn ngôn). Bên cạnh đó, các yếu tố như thứ tự thực tế và thứ tự trình tự, nghĩa tường
minh và nghĩa hàm ẩn, chủ đề, bình luận,.. và vai trò của chúng trong diễn ngôn cũng là
những yếu tố quan trọng cần chú ý khi phân tích mạch lạc trong diễn ngôn.
Năm 1981, I. R. Gal'perin viết Văn bản với tư cách là đối tượng nghiên cứu của
ngôn ngữ học (Bản dịch tiếng Việt của Hoàng Lộc năm 1987). Trong cuốn sách này,
tác giả quan niệm: “Mạch lạc là những hình thức liên kết riêng biệt đảm bảo thể liên
tục (về thời gian hoặc không gian), sự lệ thuộc lẫn nhau giữa các thông báo, sự kiện,
hành động cụ thể” [31, tr.148]. I. R. Gal'perin còn khẳng định mạch lạc chính là đặc
trưng của văn bản, là những hình thức liên kết ngữ pháp, ngữ nghĩa, từ vựng giữa
những phần cụ thể của văn bản định ra bước chuyển tiếp từ cách phân chia biến thể
ngữ cảnh này sang cách phân chia khác.
Năm 1983, trong Phân tích diễn ngôn (Bản dịch tiếng Việt của Trần Thuần,
2002), Gillian Brown & George Yulle đã dành hẳn một chương (chương 7: Tính mạch
lạc trong việc giải thuyết diễn ngôn) để nghiên cứu về mạch lạc. Các tác giả đã nhận
định: “Giả định về tính mạch lạc sẽ chỉ tạo ra một giải thuyết nhất định trong đó các
yếu tố của thông điệp được xem như nối kết với nhau, có hoặc không có các nối kết
ngôn ngữ công khai giữa các yếu tố ấy. (…) Cái quan trọng nhất trong số đó là nỗ lực
của người đọc (hay người nghe) nhằm đạt đến ý định giao tiếp của người viết hay
người nói khi tạo ra một thông điệp ngôn ngữ.” [10, tr. 348]. Các nhà nghiên cứu này
cho rằng người tiếp nhận muốn giải thuyết ý định giao tiếp của người viết phải dựa
vào mạch lạc, nguyên lý loại suy, giải thuyết cục bộ, các đặc điểm chung của ngữ
cảnh, các quy tắc kết cấu diễn ngôn và các đặc điểm theo quy tắc của tổ chức kết cấu
thông tin. Gillian Brown & George Yulle cũng đã phân định ba bình diện của tiến trình
giải thuyết ý nghĩa theo dự định của người nói/ người viết khi tạo ra diễn ngôn, bao
gồm “giải thuật chức năng giao tiếp (tiếp nhận thông điệp như thế nào), sử dụng kiến
thức văn hóa xã hội nói chung (sự kiện về thế giới) và xác định luận suy nào cần phải
thực hiện” [10, tr. 349]. Như vậy mạch lạc là yếu tố quan trọng, phải được xem xét đến
trong quá trình tiếp nhận, phân tích diễn ngôn (giải thuyết diễn ngôn).
8
Năm 1993, cuốn Dẫn nhập phân tích diễn ngôn của D. Nunan được xuất bản
(Bản dịch tiếng Việt của Hồ Mĩ Huyền và Trúc Thanh, 1997). Trong cuốn sách này, D.
Nunan khẳng định: “Mạch lạc (coherence) là cái tầm rộng mà ở đó các lời nói được
tiếp nhận là có mắc vào nhau chứ không phải là một tập hợp câu nói không có liên
quan với nhau”. Cách hiểu này về mạch lạc của Nunan được Diệp Quang Ban cho là
cách phát biểu dung dị và bao quát về mạch lạc, được sử dụng phổ biến trong nhà
trường bởi tính chất tiện dụng của nó. D. Nunan đã phân biệt văn bản mạch lạc với
chuỗi câu ngẫu nhiên, tình cờ đứng cạnh nhau có sử dụng phương tiện liên kết hình
thức. Theo Nunan, đối với văn bản, cần phải xác định được sự liên kết giữa các câu
ngoài việc hiểu biết về ngữ pháp và từ vựng của văn bản. Một văn bản mạch lạc phụ
thuộc phần lớn vào phương tiện tạo văn bản cách sắp xếp trật tự câu và sử dụng từ
ngữ. Và ngữ cảnh là yếu tố quan trọng trong việc giải thích mạch lạc khi coi diễn ngôn
là “giao tiếp trong ngữ cảnh”.
Có thể nói khái quát rằng, các công trình tiêu biểu nói trên của một số nhà ngôn
ngữ học nước ngoài, mạch lạc được đề cập một cách gián tiếp hoặc trực tiếp thông qua
việc nghiên cứu về liên kết, về cấu trúc, khung truyện, về nội dung ngữ nghĩa văn bản
và các thành tố liên quan đến tình huống nói, về khả năng dung hợp nhau giữa các
hành động nói… Tuy không phải là những công trình nghiên cứu riêng biệt về mạch
lạc song đây là những cuốn sách thể hiện quan điểm của các tác giả về vai trò và các
biểu hiện của mạch lạc trong văn bản/diễn ngôn. Điểm đồng nhất giữa các nhà nghiên
cứu là đều khẳng định vai trò quan trọng, tính chất quyết định của mạch lạc trong việc
làm cho một chuỗi câu thành một thể thống nhất - văn bản. Có thể nói, những công
trình nghiên cứu trên đây là cơ sở lí thuyết quan trọng, tin cậy cho các thế hệ sau tiếp
tục làm sáng rõ hơn về vấn đề được coi là mơ hồ, khó nhận diện - mạch lạc.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu mạch lạc ở Việt Nam
Ở Việt Nam, mạch lạc được nghiên cứu muộn hơn. Có thể xem công trình đầu
tiên nghiên cứu về mạch lạc ra đời năm 1985 là Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt
của Trần Ngọc Thêm. Trong công trình này, ở cấp độ phân tích văn bản, Trần Ngọc
Thêm nghiên cứu và chỉ ra vai trò của liên kết và hệ thống liên kết trong văn bản tiếng
Việt, trong đó liên kết nội dung được đề cập chi tiết trong việc phân tích biểu hiện ở
liên kết chủ đề và liên kết logic. Tuy không đề cập và gọi tên một cách trực tiếp nhưng
có thể coi liên kết nội dung trong công trình này là biểu hiện cho tính mạch lạc của văn
bản. Đây cũng là hướng đề cập đến tính mạch lạc của văn bản thông qua liên kết nội
dung của tác giả Đỗ Hữu Châu (1996) trong [14] và [17].
9
Trong các nghiên cứu về mạch lạc, không thể không kể đến các công trình của
tác giả Diệp Quang Ban. Đây là nhà nghiên cứu có nhiều công trình đề cập đến mạch
lạc nhất. Năm 1998, trong [6], mạch lạc được gọi tên và nghiên cứu khá cụ thể từ khái
niệm đến phạm vi biểu hiện của nó dựa trên các kết quả nghiên cứu của các nhà ngôn
ngữ học khác trên thế giới. Các phạm vi biểu hiện của mạch lạc trong công trình là:
mạch lạc trong triển khai mệnh đề, mạch lạc trong chức năng và mạch lạc theo nguyên
tắc cộng tác. Trong các công trình tiếp theo [5], [6], [8], mạch lạc tiếp tục được Diệp
Quang Ban nghiên cứu, bổ sung, nhấn mạnh về vai trò và biểu hiện của nó trong quá
trình tạo lập văn bản. Mạch lạc được tác giả khẳng định là cái làm cho văn bản là một
văn bản. Qua các công trình nói trên của Diệp Quang Ban, mạch lạc được trình bày rõ
ràng, chi tiết từ khái niệm đến các biểu hiện của nó trong văn bản, đồng thời mạch lạc
cũng được phân biệt với liên kết hình thức. Mạch lạc đã được Diệp Quang Ban định
nghĩa như sau: Mạch lạc là sự nối kết có tính chất hợp lí về mặt nghĩa và về mặt chức
năng, được trình bày trong quá trình triển khai một văn bản (như một truyện kể, một
cuộc thoại, một bài nói hay bài viết…) nhằm tạo ra những sự kiện nối kết với nhau
hơn là sự kiện liên kết câu với câu [8, tr. 297]. Diệp Quang Ban cũng đã chỉ ra 8 biểu
hiện của mạch lạc để người đọc có thể nắm bắt được một cách thuận lợi hơn vấn đề
vốn được xem là có ngoại diên rất rộng và mơ hồ này. Diệp Quang Ban cũng đã công
bố kết quả nghiên cứu về của mạch lạc trên một số tạp chí chuyên ngành như các bài
[4], [7]. Có thể nói, những kết quả nghiên cứu của Diệp Quang Ban về mạch lạc được
vận dụng rộng rãi vào việc tiếp nhận và tạo lập văn bản (diễn ngôn).
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khác cũng đề cập đến mạch lạc như [22]
(1998) của Nguyễn Đức Dân, [33] (2000), [34] (2008) và [36] (2016) của Nguyễn
Thiện Giáp, [85] (2001) của Nguyễn Thị Việt Thanh, [50] (2002) của Nguyễn Hoà.
Trong các công trình nghiên cứu này, mạch lạc được các nhà nghiên cứu tiếp tục
khẳng định vai trò và cách thể hiện, nhận diện nó trong văn bản.
Trong [33] và [34] và [36], Nguyễn Thiện Giáp đề cập đến vai trò quan trọng
của mạch lạc trong văn bản. Ông khẳng định: Cái quyết định để một sản phẩm ngôn
ngữ trở thành một diễn ngôn hay văn bản chính là mạch lạc. Một diễn ngôn hoặc một
văn bản gồm các câu có quan hệ về nghĩa với nhau, cùng hướng vào một chủ đề nhất
định là một diễn ngôn hoặc một văn bản có mạch lạc [36, tr.270].
Năm 2002, trong [50], Nguyễn Hoà cho rằng trong phân tích diễn ngôn, cần
phải phân tích những tính chất của diễn ngôn như tính giao tiếp, tính tương thích, tính
mạch lạc và tính quan yếu. Nguyễn Hoà khẳng định mạch lạc là vấn đề cốt yếu của lí
10
luận phân tích diễn ngôn. Theo tác giả, những phương thức chính tạo mạch lạc trong
diễn ngôn là mạch lạc trong liên kết, mạch lạc trong cấu trúc và mạch lạc trong quan
yếu. Vấn đề này được giải thích như sau: trong một diễn ngôn, nếu thiếu liên kết hình
thức thì sự nối kết về mặt nghĩa và về mặt chức năng giữa các câu trong văn bản sẽ mờ
nhạt, không rõ ràng, chặt chẽ; nếu giữa các câu thiếu sự tổ chức chặt chẽ, logic thì diễn
ngôn sẽ trở nên lộn xộn, mất đi tính mạch lạc; nếu thiếu yếu tố quan yếu thì cấu trúc
quan yếu lỏng lẻo và diễn ngôn sẽ thiếu tính mạch lạc. Để chứng minh cho vấn đề lí
luận và phương pháp của mình, Nguyễn Hoà đã vận dụng lý thuyết phân tích diễn
ngôn, trong đó có mạch lạc để phân tích cụ thể một số thể loại diễn ngôn trong tiếng
Anh và tiếng Việt.
Có thể nói, mạch lạc đã được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ trong và ngoài
nước quan tâm và đã có những kết quả nghiên cứu về các mặt của mạch lạc từ khái
niệm đến vai trò và biểu hiện của nó trong văn bản. Điều này càng chứng tỏ vai trò của
mạch lạc trong nghiên cứu ngôn ngữ, trong tạo lập và phân tích văn bản/diễn ngôn.
Những nghiên cứu về mạch lạc nói trên là cơ sở lí thuyết quan trọng để chúng tôi vận
dụng vào đề tài nghiên cứu.
Mạch lạc tuy là yếu tố khá mơ hồ, khó nhận diện nhưng lại có vai trò quan
trọng đối với văn bản/diễn ngôn. Vì thế, ở trong nước, đã có những luận văn tốt
nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ vận dụng lí thuyết về mạch lạc vào việc nghiên
cứu, phân tích văn bản. Đồng thời, việc vận dụng lí thuyết về mạch lạc vào việc
nghiên cứu các đề tài cụ thể cũng làm cho mạch lạc được biểu hiện rõ ràng, sâu sắc
hơn, khẳng định được vai trò của nó trong văn bản.
Nghiên cứu về mạch lạc được các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ vận dụng
nghiên cứu ở các thể loại văn bản nghệ thuật, văn bản hành chính, văn bản báo chí,…
Các đề tài nghiên cứu thường tìm hiểu mạch lạc trong một loại văn bản/một văn bản
cụ thể nào đó (phóng sự, truyện ngắn, kịch,…); hoặc đi sâu vào nghiên cứu những biểu
hiện tiêu biểu của mạch lạc trong văn bản của một tác giả cụ thể (quan hệ nguyên nhân
trong truyện ngắn Nam Cao, theo ngữ pháp truyện một số truyện ngắn trào phúng của
Nguyễn Công Hoan, …), từ đó khẳng định vai trò quan trọng của mạch lạc trong việc tạo
lập và phân tích diễn ngôn.
Trong việc vận dụng lí thuyết mạch lạc vào nghiên cứu thuộc mảng này, đáng
chú ý là luận án tiến sĩ của Trần Thị Vân Anh [3], Nguyễn Thị Hường [58], Phan Thị
Ai [1] và Nguyễn Hương Giang [32].
11
Luận án [3] Mạch lạc trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du tìm hiểu tính hệ
thống trong mạch lạc của truyện, do đó, mạch lạc được tập trung nghiên cứu ở một số
tuyến mạch lạc trong truyện (tuyến quan hệ nguyên nhân, tuyến quan hệ thời gian)
nhằm làm sáng tỏ bố cục và triển khai truyện với tư cách là tài tổ chức truyện kể. Kết
quả nghiên cứu của luận án đã khẳng định vai trò của mạch lạc đối với việc tạo lập và
giải mã nội dung truyện, qua đó, tác giả luận án đã đề xuất một số cách khai thác và
ứng dụng lí thuyết về mạch lạc như là một bộ phận của phân tích diễn ngôn vào việc
tiếp nhận văn bản.
Luận án [58] (2010) của Nguyễn Thị Hường đi sâu vào khảo sát và phân tích biểu
hiện mang tính đặc thù của mạch lạc trong văn bản hành chính ở hai tiểu loại là báo cáo
và tờ trình qua một số loại quan hệ: quan hệ nguyên nhân - hệ quả trong văn bản báo cáo,
quan hệ lập luận trong văn bản tờ trình. Tác giả luận án đã chỉ ra được lỗi thường gặp về
mạch lạc và đề xuất một số giải pháp khắc phục khiếm khuyết về mạch lạc khi soạn thảo
các loại văn bản này. Những kết quả nghiên cứu trong luận án của Nguyễn Thị Hường
góp phần quan trọng trong việc quy phạm hóa văn bản báo cáo và tờ trình.
Trong luận án [1], Nguyễn Thị Ai đã trình bày một cách có hệ thống những vấn
đề về mạch lạc trong bài làm văn của học sinh, các lỗi về mạch lạc ở các đơn vị câu,
đoạn văn, văn bản và bước đầu xác định những yếu tố tạo mạch lạc cho văn bản tập
làm văn của học sinh phổ thông. Những kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham
khảo hữu ích cho giáo viên và học sinh trong việc dạy và học tốt phân môn Tập làm
văn trong nhà trường.
Năm 2017, trong [32], Nguyễn Hương Giang đã hệ thống hóa được lí thuyết về
mạch lạc của các nhà ngôn ngữ trong và ngoài nước, từ đó vận dụng vào việc nghiên
cứu mạch lạc qua các phép liên kết và qua các mối quan hệ trong văn bản như: quan hệ
giữa các từ ngữ trong một câu, quan hệ về chủ đề giữa các câu, quan hệ thời gian, quan
hệ lập luận, quan hệ nhân quả, quan hệ điều kiện và quan hệ ngoại chiếu. Luận án
khẳng định: do đặc điểm diễn ngôn của thể loại văn bản hợp đồng kinh tế đòi hỏi tính
chính xác, rõ ràng nên mạch lạc tuy được thể hiện qua tất cả các phép liên kết nhưng tần
suất xuất hiện nhiều nhất là phép lặp, phép nối và phép thế (đối chiếu văn bản tiếng Anh
và tiếng Việt). Trong văn bản hợp đồng kinh tế tiếng Anh và tiếng Việt, các mối quan hệ
tạo mạch lạc có điểm giống và khác nhau, đặc biệt như: mạch lạc trong quan hệ ngoại
chiếu được thể hiện ở những vị trí khác nhau trong văn bản, mạch lạc qua quan hệ lập
luận không được thể hiện trong văn bản tiếng Anh nhưng lại được thể hiện trong văn bản
tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng rõ hơn phương diện lí
12
thuyết về mạch lạc trong văn bản hợp đồng kinh tế tiếng Anh và tiếng Việt, đặc biệt nhằm
ứng dụng vào thực tiễn soạn thảo và biên dịch các hợp đồng kinh tế.
Có thể nói, mạch lạc trong văn bản được rất nhiều người nghiên cứu quan tâm,
dù là chuyên sâu hay chỉ là một phần trong công trình nghiên cứu. Điều này đã chứng
tỏ vai trò quan trọng của mạch lạc trong văn bản.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu mạch lạc trong văn bản nghị luận
Ngoài việc được vận dụng nghiên cứu, tìm hiểu trong các loại văn bản nghệ
thuật, báo chí, hành chính (đã đề cập đến ở mục 1.1.1.2), mạch lạc cũng đã được xem
xét, nghiên cứu trong VBNL. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy việc nghiên cứu mạch lạc
trong VBNL được triển khai trong các đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ và luận án
tiến sĩ.
Các đề tài thạc sĩ chủ yếu tập trung nghiên cứu biểu hiện của mạch lạc qua quan
hệ lập luận. Các đề tài luận văn thạc sĩ của Trương Công Nghị (2006): Mạch lạc theo
quan hệ lập luận trong một số văn bản chính luận, của Nguyễn Mai Lan (2009): Mạch
lạc theo quan hệ lập luận qua ba văn bản “Tái dụ Vương Thông”, “Hiền tài là nguyên
khí của quốc gia”, “Một thời đại trong thi ca”, của Nguyễn Anh Tuấn (2010): Khảo
sát mạch lạc theo quan hệ lập luận qua ba văn bản “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ”
và “Đại cáo bình ngô”, của Phạm Thị Huệ (2011): Mạch lạc theo quan hệ lập luận
qua ba văn bản chính luận của Trường Chinh, của Vũ Như Nguyệt (2011): Mạch lạc
theo quan hệ lập luận qua hai văn bản: “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (Phạm
Văn Đồng), “Tiếng Việt – một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc” (Đặng Thai
Mai),... đều nghiên cứu mạch lạc trong quan hệ lập luận ở 2 hoặc 3 VBNL cụ thể nào
đó theo hướng phân tích cấu trúc nội dung và cấu trúc lập luận của toàn văn bản. Các
đề tài nghiên cứu đều nhận định rằng trong các VBNL, lập luận là một biểu hiện rõ rệt
của mạch lạc và có vai trò vô cùng quan trọng trong loại văn bản này. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, việc tìm hiểu mạch lạc theo hướng này chỉ phù hợp với đề tài có số lượng
văn bản khiêm tốn (2 hoặc 3 văn bản).
Trong một số luận án tiến sĩ, mạch lạc được xem xét là một bộ phận trong việc
vận dụng lí thuyết phân tích diễn ngôn vào nghiên cứu VBNL. Đề tài "Hồ Chí Minh -
về vấn đề giáo dục" từ cách tiếp cận của phân tích diễn ngôn (2016) của Dương Thị
Bích Hạnh đề cập đến mạch lạc với tư cách là một vấn đề quan trọng của phân tích
diễn ngôn cùng với đặc trưng về trường và không khí. Theo đó, mạch lạc được nghiên
cứu tập trung qua quan hệ liên kết và quan hệ lập luận.
13
Những nội dung và kết quả nghiên cứu về mạch lạc nói chung và mạch lạc
trong một số VBNL nói riêng giúp chúng tôi có một cái nhìn hệ thống, toàn diện về
mạch lạc, đặc biệt là vai trò của nó trong văn bản, đồng thời gợi mở việc xác định
những nội dung nghiên cứu về mạch lạc trong luận án này.
1.2. Cơ sở lí thuyết
Để phục vụ cho mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án đã xác định những
cơ sở lí thuyết cơ bản là văn bản, mạch lạc và văn bản nghị luận.
1.2.1. Văn bản và một số vấn đề liên quan
1.2.1.1. Văn bản và diễn ngôn. Phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn
a. Văn bản và diễn ngôn
Hiện nay, trong ngôn ngữ học tồn tại hai thuật ngữ văn bản và diễn ngôn. Vậy
văn bản và diễn ngôn được hiểu và sử dụng như thế nào? Trước hết, có thể thấy hai
thuật ngữ này được sử dụng khác nhau trong từng giai đoạn cụ thể.
"Ở giai đoạn đầu, do trọng tâm nghiên cứu tập trung ở sản phẩm ngôn ngữ bằng
chữ viết nên tên gọi văn bản được dùng đại diện để chỉ chung những sự kiện nói viết
và sự kiện nói miệng có mạch lạc và liên kết.
Ở giai đoạn thứ hai, do ngôn ngữ nói được quan tâm nhiều hơn nên hai tên gọi
diễn ngôn và văn bản được sử dụng song song, văn bản được dùng để chỉ sản phẩm
ngôn ngữ bằng chữ viết còn diễn ngôn chỉ sản phẩm ngôn ngữ nói miệng. Giai đoạn
này phân biệt rõ hai tên gọi diễn ngôn và văn bản.
Ở giai đoạn hiện nay, tên gọi diễn ngôn được dùng để chỉ chung cả sản phẩm
ngôn ngữ bằng chữ viết và sản phẩm ngôn ngữ nói như tên gọi văn bản ở giai đoạn
đầu, có nghĩa thuật ngữ diễn ngôn đã bao hàm cả văn bản. Điều này ngụ ý rằng sự kiện
nói miệng là cái có tính nguyên cấp." [8, tr.199]
Các nhà nghiên cứu sử dụng thuật ngữ văn bản hay diễn ngôn tuỳ theo quan
điểm. Có nhà nghiên cứu ngôn ngữ trong quá trình nghiên cứu không nhắc đến tên
“văn bản”, có người lại không nhắc đến tên “diễn ngôn”. Có nhà nghiên cứu hiểu và
sử dụng thuật ngữ văn bản như diễn ngôn, chẳng hạn, Halliday và Hasan cho rằng văn
bản có thể là bất kỳ đoạn văn nào, viết hay nói, dài hay ngắn, tạo nên một chỉnh thể
thống nhất hoàn chỉnh... Rồi Văn bản là một đơn vị ngôn ngữ hành chức. Cách hiểu
này về văn bản của Halliday và Hasan theo cách hiểu văn bản ở giai đoạn đầu.
Trong [8], Diệp Quang Ban đã dành hẳn một chương (chương 5) để bàn về văn
bản và các đặc trưng của văn bản. Ở chương này, trong mục 5.1, Diệp Quang Ban
thông qua việc tìm hiểu tên gọi diễn ngôn và văn bản trong lịch sử phân tích đơn vị
14
trên câu của các nhà ngôn ngữ trên thế giới đã phân biệt văn bản và diễn ngôn. Theo
Diệp Quang Ban, nhiều nhà nghiên cứu cố gắng phân biệt văn bản và diễn ngôn như
Barthes (1970), Ballert (1971), Cook (1989), Crystal (1992). Ballert (1971) quan niệm
tên gọi “diễn ngôn” bao gồm cả văn bản. Cook (1989) phân biệt: văn bản là bề mặt từ
ngữ, chưa tính đến ngữ cảnh và mục đích người sử dụng như ở diễn ngôn. Crystal
(1992) cho rằng: diễn ngôn là một chuỗi ngôn ngữ (đặc biệt là ngôn ngữ nói) liên tục
lớn hơn câu, thường tạo nên một đơn vị có mạch lạc, như bài truyền giáo, một lý lẽ,
một câu chuyện tiếu lâm hay một câu chuyện kể, còn văn bản là một đoạn diễn ngôn
nói hay viết, hoặc thể hiện ở dạng kí hiệu sử dụng tự nhiên, được xác định để phân
tích, thường là một đơn vị ngôn ngữ có một chức năng giao tiếp có thể xác định được
như một cuộc thoại hay tấm áp phích;... Cũng theo Diệp Quang Ban, khi định nghĩa về
văn bản/ diễn ngôn, nổi lên một cách định nghĩa khá đặc biệt là đối chiếu văn bản/diễn
ngôn như là hai thể trạng: một thể trạng trong hoạt động và một thể trạng tĩnh tại. Đó
là Hjelmsler (1953), Hausenblas (1966): diễn ngôn có thể hiểu hoặc như quá trình,
hoặc như kết quả; Brown và Yule (1983): diễn ngôn là quá trình, văn bản là sản phẩm;
Halliday (1985 và 1995): lấy quá trình (ngôn ngữ nói) làm xuất phát điểm và văn bản
viết là sản phẩm; Lyons (1995): diễn ngôn có dạng nói và dạng viết, cả hai dạng này
đều có ý-sản phẩm và ý-quá trình, văn bản là ý - sản phẩm của diễn ngôn viết, có
nghĩa là diễn ngôn bao hàm văn bản [8, tr 202-209]. Nhiều nhà phân tích diễn ngôn
sau này chủ yếu theo quan điểm của Brown & Yule (1983) và Lyons (1995) trong việc
phân biệt văn bản với diễn ngôn nhưng văn bản được hiểu giản dị hơn: “mặt từ ngữ
trong” trong tài liệu ngôn ngữ, và từ ngữ đó có thể được diễn đạt bằng chữ viết hoặc
bằng âm thanh. Ưu thế của cách hiểu như vậy trước hết là phân biệt được sự phân tích
diễn ngôn (nghĩa-logic và chức năng) với sự phân tích văn bản (từ ngữ với các nội
dung gắn liền với chúng) như là hai diện khác nhau tồn tại trong một tài liệu ngôn
ngữ; sau nữa là tránh được việc coi văn bản và diễn ngôn như là hai thực thể tách rời
khỏi nhau mà trên thực tế không bao giờ có thể phân biệt được với nhau [8, tr. 210].
Như vậy, cách hiểu, tên gọi, sự phân biệt và cách dùng hai thuật ngữ văn bản và
diễn ngôn của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã trải qua một quá trình khá dài, đến giai
đoạn hiện nay đã đạt đến sự phân biệt rõ ràng: văn bản - bề mặt từ ngữ và diễn ngôn -
ngữ cảnh tình huống. Nguyễn Hoà [50] cho rằng sự phân biệt văn bản và diễn ngôn chỉ
là tương đối bởi trong thực tế rất khó phân biệt rạch ròi diễn ngôn và văn bản vì trong
văn bản sẽ có cái diễn ngôn và trong diễn ngôn sẽ có cái văn bản. Diễn ngôn và văn
bản không phải là hai thực thể tách biệt mà chỉ là một thực thể biểu hiện của ngôn ngữ
15
hành chức trong bối cảnh giao tiếp xã hội, do đó, việc sử dụng hai khái niệm này để
thay thế cho nhau mà thực sự không có sự phân biệt rạch ròi là điều dễ hiểu.
Từ những quan điểm nói trên, có thể hiểu diễn ngôn là thuật ngữ chỉ sự kiện
giao tiếp (nói hoặc viết) có mục đích, thống nhất, có mạch lạc được ghi lại bằng văn
bản. Cách hiểu này cho thấy rõ sự gắn bó chặt chẽ giữa văn bản và diễn ngôn.
Trong luận án, chúng tôi sử dụng thuật ngữ văn bản để chỉ các sự kiện nói và
viết được ghi lại bằng chữ viết, như tên gọi của văn bản ở giai đoạn đầu và theo thói
quen hiện nay ở Việt Nam.
Trong [8], Diệp Quang Ban đã hệ thống lại các quan niệm về văn bản của các
nhà nghiên cứu như Hjelmslevf (1953), Nikolaeva, Loseva,... M.A.K Halliday và R.
Hasan (1976), cho rằng: Một văn bản là một đơn vị của ngôn ngữ trong sử dụng. Nó
không phải là một đơn vị ngữ pháp loại như một mệnh đề hay một câu mà nó cũng
không được xác định bằng kích cỡ của nó. [Dẫn theo 8, 194-197]. Ở Việt Nam, văn
bản được Trần Ngọc Thêm quan niệm: Nói một cách chung nhất thì văn bản là một hệ
thống mà trong đó các câu nói mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu - phần tử, trong
hệ thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và
những mối quan hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn
văn bản nói chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy [91, tr.
19]. Đỗ Hữu Châu định nghĩa: Văn bản là một thể hoàn chỉnh về hình thức, trọn vẹn
về nội dung, thống nhất về cấu trúc và độc lập về giao tiếp, là một biến thể dạng viết
liên tục của ngôn bản, thực hiện một hoặc một số đích nhất định, nhằm vào những
người giao tiếp nhất định thường là không có mặt khi văn bản được sản sinh [14,
tr.10]
Trong luận án, sau khi tham khảo các quan điểm khác nhau, chúng tôi đưa ra
định nghĩa về văn bản như sau: Văn bản là sản phẩm giao tiếp bằng ngôn ngữ được
ghi lại bằng chữ viết, có cấu trúc hoàn chỉnh và truyền tải một nội dung ngữ nghĩa
trọn vẹn.
b. Phân tích diễn ngôn và phân tích văn bản
Việc phân biệt văn bản với diễn ngôn của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ như đã
trình bày trên cũng nhằm mục đích tìm ra cách tiếp cận phương pháp luận tối ưu đối
với văn bản và diễn ngôn.
Theo Diệp Quang ban (2009), khi nói đến phân tích văn bản và phân tích diễn
ngôn cũng là đề cập đến hai giai đoạn hiểu, phân biệt và sử dụng hai thuật ngữ văn bản và
diễn ngôn.
16
Giai đoạn đầu, văn bản được hiểu như câu (dĩ nhiên lớn hơn câu) cho nên người
nghiên cứu sử dụng các phương pháp cũng như các công cụ lý thuyết của câu theo quan
điểm cấu trúc hình thức vào việc nghiên cứu văn bản và diễn ngôn, mặc dù tên gọi phân
tích diễn ngôn đã xuất hiện. Đây chính là giai đoạn xuất hiện các tên gọi: “cú pháp văn
bản”, “ngữ pháp văn bản”, “ngữ pháp liên câu”, “chỉnh thể cú pháp trên câu”.
Giai đoạn sau, văn bản được hiểu như đơn vị của nghĩa không phải là đơn vị
của ngữ pháp nên tên gọi diễn ngôn được sử dụng nhiều hơn và “phân tích diễn ngôn”
được chọn thay thế cho “ngữ pháp văn bản”. Thuật ngữ “văn bản” vẫn được dùng khi
phân tích bề mặt từ ngữ của sự kiện nói trong phân tích diễn ngôn. Việc giải thích các
từ ngữ bằng mối quan hệ của chúng với tình huống vật lý và xã hội bên ngoài văn bản
và ý định của người phát thuộc về diễn ngôn và là một phần quan trọng trong phân tích
diễn ngôn.
Trong quá trình hình thành tên gọi và xác định đối tượng, phương pháp tiếp cận
của “phân tích văn bản” và “phân tích diễn ngôn”, đáng chú ý là quan điểm của Brown
và Yule (1983), Guy Cook (1989) và Lyons (1995) về cách hiểu văn bản (mặt từ ngữ
lý giải được có thể được diễn đạt bằng chữ viết hoặc âm thanh của một tài liệu ngôn
ngữ) và diễn ngôn (nghĩa-logic và chức năng gắn liền với ngữ cảnh). Nunan phân biệt:
phân tích văn bản là xem xét các đặc điểm hình thức của văn bản tách rời ngữ cảnh
ngoài ngôn ngữ; phân tích diễn ngôn quan tâm tới mặt chức năng. Cách hiểu nói trên
của các nhà nghiên cứu đã phân biệt được phân tích văn bản (tìm hiểu, phân tích từ
ngữ với các nội dung gắn liền với chúng - văn bản là ý-sản phẩm) và phân tích diễn
ngôn (nghĩa-logic và chức năng: giải thích các từ ngữ đặt trong mối quan hệ với tình
huống vật lí, xã hội ngoài văn bản, mục đích của người phát - diễn ngôn là ý-quá trình,
tức là phải phân tích ngôn ngữ hành chức). Như vậy, phân tích văn bản cũng là một bộ
phận trong phân tích diễn ngôn.
Nguyễn Hoà (2002) cũng theo quan điểm của Nunan cho rằng phân tích văn
bản có thể đối lập với phân tích diễn ngôn. Tuy nhiên, Nguyễn Hoà cũng thấy rằng
khó có thể có sự phân tích hình thức thuần tuý tách ra khỏi chức năng và ngược lại,
nghĩa là khó có thể tách biệt phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn. Bởi, cũng
giống như mối quan hệ giữa diễn ngôn và văn bản, phân tích diễn ngôn và phân tích
văn bản không phải là hai bộ phận khác biệt, mà chỉ là hai mặt của ngôn ngữ hành
chức trong hoàn cảnh giao tiếp xã hội. [50, tr.34]. Theo đó, phân tích văn bản sẽ bao
gồm các yếu tố như liên kết, cấu trúc đề -thuyết, cấu trúc thông tin, kiểu loại diễn
17
ngôn; còn phân tích diễn ngôn sẽ bao gồm mạch lạc, các hành động nói, sử dụng kiến
thức nền trong quá trình sản sinh và hiểu diễn ngôn, cách xử lý từ trên xuống,…
Như vậy, qua hai giai đoạn của phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn, qua
quan điểm của các nhà nghiên cứu thì có thể thấy phân tích văn bản và phân tích diễn
ngôn có những điểm rõ ràng cần phân biệt. Nếu như phân tích văn bản chỉ phân tích bề
mặt từ ngữ tách rời ngữ cảnh (hình thức ngôn ngữ) thì phân tích diễn ngôn lại nhằm
làm nổi bật mối quan hệ giữa từ ngữ trong văn bản với những yếu tố ngoài văn bản
(mặt sử dụng của từ ngữ). Ở đây, do cách sử dụng thuật ngữ “văn bản” ở giai đoạn đầu
và theo thói quen ở Việt Nam nên mạch lạc mà chúng tôi nghiên cứu trong VBNL sẽ
thuộc về vấn đề cốt yếu của phân tích diễn ngôn.
1.2.1.2. Đặc trưng của văn bản
Cùng với việc đưa ra quan niệm về văn bản, các nhà nghiên cứu cũng đồng thời
chỉ ra những đặc trưng của văn bản - cái quyết định tính chất "là một văn bản" của văn
bản. Diệp Quang Ban đã hệ thống lại quan niệm của một số nhà nghiên cứu trên thế
giới như K. Hausenblas (1966), H. Isenberg 91974), M.A.K. Halliday và R. Hasan
(1994) về đặc trưng của văn bản trong [6]. Đáng chú ý là quan niệm về đặc trưng văn
bản của M.A.K. Halliday và R. Hasan. Hai nhà nghiên cứu cho rằng yếu tố làm nên
"chất văn bản" của một văn bản là phương diện nội tại (với hai thành tố liên kết và cấu
trúc văn bản nội tại) và phương diện ngoại tại (chính là "cấu trúc vĩ mô" của diễn ngôn
làm cho một văn bản thuộc về một loại riêng như hội thoại, truyện kể, trữ tình hay thư
tín,...) [6, tr 64-65]. Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu như Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh
Toán, Lê A, Diệp Quang Ban,... cũng đề cập đến đặc trưng của văn bản và đều chỉ ra
đặc trưng ở các phương diện cụ thể dễ nhận biết, xác định là đặc trưng về nội dung, về
hình thức, về liên kết và về lượng. Trong rất nhiều công trình nghiên cứu của mình về
văn bản, Diệp Quang Ban đều đề cập đến đặc trưng văn bản. Theo ông, văn bản có sáu
đặc trưng như sau:
Một là mục đích sử dụng văn bản. Mục đích sử dụng văn bản là mục tiêu hướng
tới của văn bản, trả lời cho câu hỏi: văn bản viết nhằm để làm gì? Mục đích của văn
bản có quan hệ với đề tài-chủ đề, lĩnh vực phản ánh, phương tiện truyền tải và chi phối
cách cấu tạo, tổ chức văn bản theo một cách thức nhất định (phong cách chức năng).
Hai là yếu tố nội dung. Yếu tố này thể hiện ở chỗ văn bản có đề tài - chủ đề xác
định, thống nhất, giúp phân biệt nó với chuỗi câu không phải là văn bản.
18
Ba là yếu tố cấu trúc. Yếu tố cấu trúc thể hiện ở cách tổ chức nội dung và hình
thức phù hợp với phong cách chức năng, thể loại và phương tiện truyền tải.
Bốn là mạch lạc và liên kết. Mạch lạc là yếu tố quyết định việc tạo thành văn
bản, trong đó nổi rõ lên việc tạo thành tính thống nhất đề tài-chủ đề văn bản. Mạch lạc
có thể sử dụng các phương tiện liên kết, giúp cho các quan hệ ngữ nghĩa trong văn bản
được thống nhất, mạch lạc, tường minh.
Năm là yếu tố chỉ lượng. Văn bản thường có nhiều câu-phát ngôn, cũng có
trường hợp văn bản chỉ có một câu.
Sáu là yếu tố định biên. Văn bản có biên giới đầu vào (phía trái) và biên giới
đầu ra (bên phải), tạo nên tính trọn vẹn tương đối cho văn bản.
Trong quá trình tìm hiểu, phân tích đặc trưng văn bản của các nhà nghiên cứu,
chúng tôi cho rằng quan niệm của Diệp Quang Ban về đặc trưng của văn bản là dễ tiếp
cận hơn cả. Sáu đặc trưng trên của văn bản giúp chúng ta xem xét, phân tích một cách
cụ thể, đa diện để xác định được một chuỗi câu nào đó có phải là văn bản hay không,
trong đó, yếu tố mạch lạc (đặc trưng thứ tư) được coi là đặc trưng quan trọng, quyết
định chất văn bản của một văn bản.
1.2.1.3. Đề tài-chủ đề và kết cấu của văn bản
a. Đề tài-chủ đề của văn bản
Theo Diệp Quang Ban, tên gọi đề tài và chủ đề trong ngôn ngữ học văn bản
không hoàn toàn trùng khớp với khái niệm chủ đề trong nghiên cứu văn học [6,
tr.114]. Đề tài của văn bản là phạm vi nội dung hiện thực được đề cập tới trong văn
bản đó. Có thể xác định đề tài văn bản bằng cách đặt và trả lời câu hỏi: Văn bản viết
về vấn đề gì? Hoặc có thể xác định bằng cách dựa vào một số yếu tố khác trong văn
bản như tên văn bản, các từ ngữ được lặp đi lặp lại trong văn bản, các từ ngữ đồng
nghĩa, những đại từ được dùng để thay thế, những từ ngữ tạo thành một hệ thống dựa
trên cơ sở liên tưởng nào đó, hay hiện tượng tỉnh lược.
Chủ đề của văn bản được hiểu là hiện thực được nói tới, thể hiện "ý đồ của
người viết hay đích hướng tới của văn bản " [93, tr.38]. Hay "chủ đề là hiện thực được
nói tới trong hoàn cảnh giao tiếp được phản ánh vào văn bản theo mục đích, một
hướng nào đó mà người viết đặt ra" [14, tr.18]. Theo Đỗ Hữu Châu, chủ đề văn bản
được coi là sợi chỉ đỏ, là hạt nhân ngữ nghĩa xâu chuỗi các câu tạo thành một mạng
lưới. Chủ đề văn bản là hệ quy chiếu lớn cho toàn bộ các thành tố ở các cấp độ khác
nhau trong văn bản như câu, đoạn, mục, chương, phần, tập,... chụm lại với nhau [14,
19
tr.19]. Như vậy, hiểu một cách khái quát, chủ đề là ý đồ, là quan điểm được bộc lộ qua
cách xử lí đề tài trong văn bản của tác giả.
Một văn bản có thể có một chủ đề chung và có nhiều chủ đề bộ phận. Chủ đề bộ
phận là chủ đề các chương, mục,... và cấp độ chứa chủ đề bộ phận nhỏ nhất là đoạn
văn (còn gọi là tiểu chủ đề).
Vai trò quan trọng của chủ đề khiến cho chúng ta khi tạo lập hay tiếp nhận văn
bản đều cần phải xác định rõ chủ đề của nó. Việc xác định chủ đề văn bản có thể dựa
vào từ khóa và hệ thống luận điểm được thể hiện ở hệ thống câu chủ đề của văn bản,
nghĩa là có thể xác định chủ đề văn bản qua kết cấu (cấu trúc) của văn bản đó. Theo
O.I.Moskal'skaja, sự thống nhất chủ đề của văn bản thường thể hiện ở tính truy hồi
(tính lặp lại thường xuyên) của các từ khóa có liên quan đến chủ đề. Đó có thể là sự
lặp lại nguyên văn của các từ khóa hoặc là việc sử dụng các từ gần về chủ đề và các từ
đồng nghĩa. Sự thống nhất chủ đề được đảm bảo bởi sự đồng nhất về quy chiếu của
các từ tương ứng [68; tr. 30-31] và kết cấu có chức năng bộc lộ chủ đề, tư tưởng của
tác phẩm [39, tr. 44]. Mỗi kiểu loại văn bản lại có kết cấu riêng (còn có kết cấu cụ thể
cho mỗi tiểu loại như: hịch, cáo, chiếu, bình luận, lời kêu gọi,... trong VBNL; tờ trình,
hợp đồng, đơn từ,... trong văn bản hành chính; thơ, kịch, kí, tiểu thuyết,... trong văn
bản văn chương,...), phù hợp với đặc trưng thể loại, do đó, cách thể hiện chủ đề văn bản
giữa các thể loại cũng không giống nhau. Có loại văn bản yêu cầu chủ đề của nó phải
tường minh (VBNL, văn bản khoa học, văn bản hành chính) nhưng có loại văn bản chủ đề
của nó có thể tường minh, có thể hàm ẩn (văn bản nghệ thuật). Chẳng hạn văn bản khoa
học thể hiện chủ đề qua mục đích nghiên cứu ở phần mở đầu, VBNL thể hiện chủ đề qua
phần nêu luận đề (phần mở) và phần kết luận. Các luận điểm ở các cấp độ khác nhau
chính là các chủ đề bộ phận. Có thể xác định chủ đề của văn bản thông qua kết cấu thể
loại văn bản, qua hệ thống luận điểm, hệ thống câu chủ đề trong văn bản.
Đề tài và chủ đề văn bản là hai khái niệm khác nhau, ở đây, luận án ghép hai
tên gọi này (đề tài-chủ đề) để thuận tiện cho việc sử dụng.
Trong một văn bản nếu các câu, các đoạn, các mục, các chương, các phần đều
có sự thống nhất về đề tài-chủ đề thì văn bản đó mạch lạc. Đồng thời, việc sử dụng các
phép liên kết hợp lí giữa các câu trong văn bản cũng có tác dụng tạo sự thống nhất đề
tài-chủ đề của văn bản.
1.2.1.4. Kết cấu của văn bản
Kết cấu (cấu trúc) của văn bản được hiểu là sự tổ chức, sắp xếp các phần, các
thành tố nội dung ở các cấp độ khác nhau (các luận điểm lớn nhỏ) trong văn bản để tạo
20
thành một thể thống nhất, hợp lí, mạch lạc theo một ý đồ nào đó để thể hiện chủ đề và
nội dung văn bản. Kết cấu của mỗi văn bản cho thấy vị trí, ý nghĩa và mối quan hệ của
các phần (các luận điểm ở các cấp độ khác nhau) trong việc thể hiện chủ đề, nội dung
văn bản. "Nếu tìm được một bản bố cục thỏa đáng thì công việc sẽ trôi chảy như trượt
trên băng" (Dẫn theo [12, tr. 158]). Nếu một văn bản mà các phần trong đó lộn xộn,
không logic thì văn bản đó sẽ mất đi tính mạch lạc.
Các nhà ngữ pháp văn bản và phân tích diễn ngôn đều thừa nhận kết cấu bao
hàm sự hiện diện của các yếu tố phát triển nội dung có vai trò quan trọng trong việc
tạo mạch lạc cho văn bản. T.A. Van Dijk cho rằng trong mỗi diễn ngôn chứa một cấu
trúc vĩ mô (cấu trúc ngữ nghĩa tổng thể) thể hiện ngữ nghĩa của diễn ngôn và cấu trúc
ngữ nghĩa của một diễn ngôn được tổ chức phân cấp ở nhiều cấp độ phân tích. Cấu
trúc vĩ mô của một diễn ngôn chi phối, kéo theo các cấu trúc vĩ mô khác chi phối toàn
bộ diễn ngôn và chính cấu trúc vĩ mô quyết định tính mạch lạc tổng thể của một diễn
ngôn. O.I.Moskal'skaja (1981) nhấn mạnh vai trò của nó trong việc khu biệt văn bản
với chuỗi câu không phải là văn bản: "Thật vậy, trước hết, nó (kết cấu) được sử dụng
trong lí thuyết chung về văn bản, lí thuyết này đã đưa ra dấu hiệu tính định hình kết
cấu như một trong những tiêu chí khu biệt văn bản với những chuỗi câu ngẫu nhiên
không tạo thành văn bản: trong khi văn bản có một kết cấu nhất định thì chuỗi câu
ngẫu nhiên không được định hình về mặt kết cấu [68, tr. 113]. O.I.Moskal'skaja còn
cho rằng tất cả những văn bản cực ngắn như ghi chép niên biểu, thông báo thời tiết,...
cũng được trình bày về mặt kết cấu. Dưới góc độ kết cấu, chúng được tổ chức bởi sự
có mặt của đầu đề.
Đỗ Hữu Châu cũng khẳng định: chính kết cấu của văn bản đảm bảo tính liên
kết, tính thống nhất, tính hoàn chỉnh cho nội dung. Tất cả sự phức tạp của vấn đề
trình bày nhờ được triển khai theo một kết cấu nhất định mà trở nên rõ ràng, rành
mạch [14, tr.81]. Như vậy chính kết cấu là một yếu tố để tạo mạch lạc trong sự thống
nhất đề tài-chủ đề văn bản. Hiểu cách khác, kết cấu là một yếu tố soi chiếu xem một
văn bản nào đó có mạch lạc hay không.
Kiểu kết cấu của văn bản nào đó phụ thuộc vào đặc trưng thể loại của nó. Tuy
mỗi loại văn bản có kết cấu riêng nhưng nhìn chung, các loại văn bản thường có kết
cấu theo trình tự: (1) tên văn bản (tiêu đề), (2) phần mở đầu , (3) phần triển khai, (4)
phần kết luận. Có những văn bản bắt buộc phải tuân theo khuôn mẫu nhất định với yêu
cầu cụ thể của từng tiểu loại như văn bản hành chính, một số tiểu loại của văn bản
khoa học.
21
Để thể hiện kết cấu văn bản nhằm tạo sự thống nhất đề tài-chủ đề, đảm bảo
quan hệ nghĩa và logic, có hai kiểu quan hệ đặc trưng cho kết cấu là kết cấu chuỗi và
kết cấu song song. Tùy thuộc vào nội dung, mục đích mà người tạo lập có thể lựa chọn
kiểu kết cấu và thủ pháp phù hợp. Hai kiểu kết cấu này có thể sử dụng để cấu tạo đoạn văn
hoặc toàn bộ văn bản.
Một là kết cấu chuỗi: là kiểu kết cấu mà các yếu tố có quan hệ ngữ nghĩa và
logic được thể hiện nối tiếp liên tục, yếu tố trước tạo tiền đề xuất hiện cho yếu tố
sau,... cứ tiếp nối quan hệ như vậy cho đến hết. Trong loại kết cấu này, các yếu tố
được xâu chuỗi với nhau, nội dung được phát triển theo một đường thẳng. Kết cấu
chuỗi thường dùng một số thủ pháp sau: liệt kê (liệt kê thông thường: các sự kiện đưa
ra liên tục, nối tiếp nhau; liệt kê tích lũy: liệt kê liên tục, chồng chất thêm sự kiện
nhằm nhấn mạnh hoặc phức tạp hóa một sự kiện nào đó), móc xích (sắp xếp các sự
kiện thành một chuỗi liên tục, sự kiện trước là tiền đề, nguyên nhân, sự kiện sau là kết
quả, các yếu tố đứng sau tiếp tục làm nhiệm vụ mở rộng và phát triển thêm), hỏi đáp
(triển khai toàn bộ nội dung dưới dạng những câu hỏi và câu trả lời), lập luận ba đoạn
(từ đại tiền đề và tiểu tiền đề suy ra kết luận phù hợp). Các thủ pháp trên giúp cho việc
triển khai đề tài-chủ đề được liên tục, thống nhất. Các thủ pháp này có thể được dùng
kết hợp, đan xen nhau để cùng thể hiện kết cấu chuỗi.
Hai là kết cấu song song: là thủ pháp kết cấu trong đó các yếu tố có quan hệ
nghĩa và logic được thể hiện trong sự đối chiếu, phát triển song song với nhau, có sự
móc nối, chồng chéo các nội dung. Cơ sở logic của kết cấu song song là sự đối chiếu
giữa các khái niệm. Kết cấu song song thường dùng một số thủ pháp: song hành (triển
khai các sự kiện, tính chất,... trong sự đối chiếu, thường sử dụng cách lặp từ ngữ hoặc
cấu trúc để làm nổi bật chủ đề, có song hành diễn dịch, song hành quy nạp và song
hành đơn thuần), tương phản (chứa ý nghĩa đối lập tương phản, thường sử dụng từ ngữ
có nghĩa tương phản, thủ pháp này được dùng để xây dựng kết cấu một đoạn văn, một
phần văn bản hoặc cả văn bản), sóng đôi (đối chiếu liên tục hai đối tượng trong suốt
đoạn văn hay văn bản)
1.2.1.5. Lập luận trong văn bản
a. Khái niệm lập luận
Theo Đỗ Hữu Châu, lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến
một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt tới. [23, tr. 155]
Diệp Quang Ban cho rằng: Trong việc trình bày các ý kiến, người ta có thể từ ý
kiến này rút ra ý kiến khác bằng những suy lý. Việc đưa ra những luận cứ (căn cứ để
22
lập luận) nhằm đạt đến một kết luận nào đó (mang tính thuyết phục) được gọi là lập
luận. [12, tr. 321]
Nguyễn Đức Dân quan niệm: Lập luận là một hành động ngôn từ. Bằng công
cụ ngôn ngữ, người ta đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một hệ thống
xác tín nào đó: rút ra một (/một số) kết luận hay chấp nhận một (/một số) kết luận
nào đó. [30, tr.165]
Dù có những cách định nghĩa khác nhau nhưng có thể hiểu lập luận cách đưa
ra luận cứ (lí lẽ và dẫn chứng) nhằm dẫn dắt người nghe/ người đọc đến một kết luận
nào đó mà người nói/ người viết muốn đạt tới một cách thuyết phục nhất.
b. Các thành phần của lập luận
Trong một lập luận, có ba bộ phận là luận cứ, kết luận và quan hệ lập luận.
Luận cứ là những căn cứ (tiền đề, cơ sở) được dùng làm chỗ dựa cho một mệnh
đề hay một lí thuyết (giữ vai trò kết luận) hoặc dùng để phản bác lại mệnh đề hay lí
thuyết đó. Luận cứ gồm hai loại là lí lẽ (điều suy luận hay một luận điểm, một nguyên
tắc đã được chứng minh) và dẫn chứng (chứng cứ, bằng chứng, vật chứng). Trong một
lập luận, luận cứ đưa ra phải cụ thể, chính xác, có độ tin cậy cao và phải được phân
tích, dẫn dắt bằng lời lẽ rõ ràng, mạch lạc, logic. Có như vậy kết luận rút ra mới mang sức
thuyết phục.
Kết luận là mệnh đề hay lí thuyết được chứng minh bằng các luận cứ. Trong
các bài thuộc kiểu văn nghị luận (như trong khoa học xã hội và nhân văn), cái tương
đương kết luận còn được gọi là luận đề và được hiểu là mệnh đề hay lí thuyết cụ thể
mà người ta lấy làm đúng và người ta đưa ra để bảo vệ nó bằng các luận cứ. Nói cách
khác, luận đề là ý kiến, lí thuyết đúng và được đưa ra làm đề tài bàn luận, chứng minh
bằng luận cứ [12, tr. 323]. Theo đó, trong VBNL, tên gọi luận đề đặt ở đầu lập luận
(phần mở của văn bản là phần nêu luận đề) và kết luận đặt ở cuối lập luận (phần kết
của văn bản là kết luận).
Quan hệ lập luận được hiểu là quan hệ giữa luận cứ với kết luận. Một kết luận
đúng, mang tính thuyết phục phải dựa trên những luận cứ đúng và được rút ra bằng
những quan hệ lập luận đúng. Ngoài quan hệ giữa luận cứ với kết luận, còn có quan hệ
giữa luận cứ với luận cứ (trong trường hợp một lập luận có nhiều luận cứ).
Nếu gọi p, q là các luận cứ, r là kết luận thì có mô hình sau: p, q - > r
Một lập luận đúng, giàu sức thuyết phục thì các luận cứ (p, q) phải được xác lập
đủ, đúng, được sắp xếp logic để phục vụ cho kết luận (r), hơn nữa các thành phần
trong lập luận phải có quan hệ hợp lí, phản ánh đúng vai trò của chúng trong lập luận,
nếu không lập luận đó không mang sức thuyết phục và dĩ nhiên không có giá trị.
23
c. Các kiểu lập luận
Lập luận có thể phân loại dựa vào các tiêu chí sau:
* Căn cứ vào độ phức tạp trong lập luận, có thể chia thành lập luận đơn và lập
luận phức.
Về lập luận đơn, Đỗ Hữu Châu quan niệm lập luận đơn là lập luận chỉ có một
kết luận, các thành phần còn lại đều là luận cứ [23, tr. 162]. Diệp Quang Ban lại cho
rằng lập luận giản đơn (lập luận trực tiếp) là lập luận trong đó chỉ có một luận cứ hay
có một số luận cứ đồng hạng với nhau (không phân biệt lớn hay nhỏ) và một kết luận.
[8, tr. 324]. Trong lập luận giản đơn chỉ có một kết luận, có thể có hai hoặc hơn hai
luận cứ. Các luận cứ có thể có quan hệ đồng hướng hoặc nghịch hướng với nhau. Luận
cứ đồng hướng được hiểu là các luận cứ cùng hướng đến và chấp nhận một kết luận.
Luận cứ nghịch hướng được hiểu là trong một lập luận có một/hơn một luận cứ hướng
đến và chấp nhận kết luận, còn luận cứ kia hướng đến phía không chấp nhận kết luận,
các luận cứ này nghịch hướng nhau trong quan hệ với kết luận.
Lập luận phức là loại lập luận ngược lại với lập luận đơn. Đây là loại lập luận
không phải chỉ có một kết luận mà có thể có một hoặc một số kết luận (r) được rút ra
trực tiếp từ luận cứ, và có một kết lớn (R) được rút ra từ (r). Đỗ Hữu Châu đã mô hình
hóa lập luận phức dưới hai dạng chính như sau:
Dạng 1: p1, q1 -> r1 -> r2 - > r3,...rn -> R
Ở dạng này p, q là luận cứ để rút ra kết luận (r1); r1 lại trở thành luận cứ để rút
ra kết luận r2; r2 lại là luận cứ để rút ra kết luận r3,..., cứ thể tiếp nối cho đến khi có
kết luận chung tổng thể R.
Dạng 2: p1, q1 - > r1
p2, q2 -> r2
p3, q3 -> r3 R
....
Pn, qn -> rn
Trong mô hình dạng 2, R là kết luận chung, r1, r2, r3.... rn là những kết luận bộ
phận được rút ra từ các luận cứ (p, q) tương ứng. Mô hình dạng này là một lập luận lớn
có các lập luận bộ phận nhỏ hơn, mỗi lập luận nhỏ đóng vai trò là một luận cứ để đi
đến kết luận lớn chung (R).
Diệp Quang Ban trong phân loại lập luận đã đối lập lập luận giản đơn (lập luận
trực tiếp) với lập luận phức tạp (lập luận gián tiếp) và theo đó, ông quan niệm về lập luận
phức hẹp hơn, nó là lập luận trong đó có hai luận cứ không ngang nhau về tính khái quát:
một luận cứ chỉ cái chung làm tiền đề lớn thường gọi là đại tiền đề, một luận cứ chỉ cái
24
riêng làm tiền đề nhỏ thường được gọi là tiểu tiền đề và một kết luận (về cái riêng) [8, tr.
325]. Theo Diệp Quang Ban, lập luận phức chính là tam đoạn luận, trong tam đoạn luận,
các luận cứ làm tiền đề phải có căn cứ thuyết phục được chứng minh theo logic hoặc theo
quy luật tự nhiên hoặc là những lẽ thường (topos - những tín điều, tập tục có quan hệ đến
văn hóa của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử nào đó). Tam đoạn luận điển hình thường
được dẫn trong các sách viết về logic là tam đoạn luận sau đây:
Đại tiền đề: Tất cả mọi người đều phải chết.
Tiểu tiền đề: Socratre là người.
Kết luận: Socratre phải chết.
* Căn cứ theo vị trí của các thành phần lập luận có thể chia thành: lập luận diễn
dịch, lập luận quy nạp, lập luận phối hợp diễn dịch-quy nạp
Lập luận diễn dịch là lập luận theo phương pháp suy lí đi từ nguyên lí chung
đến kết luận riêng bằng cách minh chứng những luận cứ cụ thể, có nghĩa là trong loại
lập luận này, kết luận (r) sẽ đứng trước và luận cứ (p), (q) sẽ được trình bày sau. Lập
luận này có mô hình: r - p, q
[9]: Thời gian là tri thức. Phải thường xuyên học tập thì mới giỏi. Học ngoại ngữ
mà bữa đực, bữa cái, thiếu kiên trì thì học mấy cũng không giỏi được. [123, tập 2, tr.37]
Trong lập luận này, câu (1) là kết luận, các câu (2) và (3) là luận cứ. Như vậy
hai thành phần của lập luận trong ví dụ trên được sắp xếp theo trình tự: r - p1, p2. Và
như vậy, lập luận này được tổ chức theo lối diễn dịch.
Lập luận quy nạp là lập luận theo phương pháp suy lí đi từ những hiện tượng
riêng, cụ thể đến nguyên lí, kết luận chung khái quát. Theo phương pháp suy lý này thì
các thành phần của lập luận sẽ có trình tự là luận cứ (p, q) đứng trước và kết luận (r) ở
vị trí cuối cùng trong lập luận. Lập luận quy nạp có mô hình như sau:
p1
p2
p3 r
....
pn
Theo Diệp Quang Ban, cách trình bày lập luận theo phương pháp diễn dịch và
quy nạp trong suy lí trực tiếp (trong lập luận giản đơn) khác với trong suy lí gián tiếp
(lập luận phức tạp - tam đoạn luận). Tam đoạn luận dù trình bày theo cách nào về bản
chất vẫn là lập luận diễn dịch.
25
Lập luận phối hợp diễn dịch-quy nạp: là kiểu lập luận mà việc trình bày các
luận cứ và kết luận là sự kết hợp của hai kiểu lập luận diễn dịch và lập luận quy nạp.
Hai thành phần của lập luận được sắp xếp theo mô hình như sau:
p1
p2
r1 p3 r2
....
pn
* Căn cứ vào sự có mặt hay vắng mặt của các thành phần lập luận, có thể chia
thành lập luận tường minh và lập luận hàm ẩn.
Lập luận tường minh là lập luận mà các thành phần của lập luận đều xuất hiện
đầy đủ trên bề mặt lập luận. Kết luận được suy ra trực tiếp từ các luận cứ có mặt trong
lập luận đó. Lập luận kiểu này có mô hình sau:
p1
p2
p3 r
...
pn
Lập luận hàm ẩn là trong lập luận thiếu vắng một hay một số luận cứ hoặc kết
luận trên bề mặt lập luận. Các luận cứ hay kết luận vắng mặt phải được người tiếp
nhận tự suy ra.
Trong giao tiếp, có ý nghĩa hàm ẩn tự nhiên và ý nghĩa hàm ẩn cố ý (không tự
nhiên). Ý nghĩa hàm ẩn cố ý được tạo ra nhờ các nguyên tắc, trong đó có sự vi phạm
các nguyên tắc lập luận, tức là trong một lập luận thông thường, phải xuất hiện đầy đủ
cả hai thành phần là luận cứ và kết luận, khi cố ý làm vắng mặt một trong hai thành
phần của lập luận là người nói, người viết đã cố ý tạo nghĩa hàm ẩn. Khi làm vắng mặt
luận cứ hoặc kết luận, người nói, người viết bao giờ cũng có lí do: không muốn nói
trực tiếp, tường minh một nội dung nào đó do lịch sự, ý nhị; hoặc do ngại ngần; hoặc
do khiêm tốn; hoặc do muốn người tiếp nhận tự rút ra kết luận sau khi đã chiêm
nghiệm,... Có thể hình dung mô hình lập luận hàm ẩn như sau:
p1
p2----
p3 ---- r
......
26
pn
(Đường gạch đứt biểu thị luận cứ hàm ẩn)
Các luận cứ (p1), (p2),…,(pn) và kết luận (r) có thể vắng mặt trên bề mặt lập luận.
Trong diễn ngôn nói chung và các lập luận nói riêng, lập luận hàm ẩn được sử
dụng nhằm muốn người nghe tự suy nghĩ, tự tìm ra luận cứ vắng mặt hoặc tự rút ra kết
luận mà người nói, người viết muốn hướng tới và trong những trường hợp cụ thể nó
còn nhằm tăng sức hấp dẫn, thuyết phục cho diễn ngôn.
d. Tác tử, kết tử lập luận và các yếu tố có giá trị lập luận khác
Trong một lập luận, ngoài những luận cứ xác đáng, tin cậy, ngoài quan hệ lập
luận logic, chặt chẽ thì một số yếu tố khác cũng có vai trò quan trọng tạo nên sức
thuyết phục cho lập luận. Đó chính là tác tử, kết tử lập luận, các yếu tố miêu tả được
lựa chọn, các từ ngữ xưng hô, các biện pháp tu từ và các từ đồng nghĩa,...
* Tác tử lập luận
Theo Đỗ Hữu Châu, tác tử lập luận là một yếu tố khi được đưa vào nội dung
miêu tả nào đấy sẽ làm thay đổi tiềm năng lập luận của nó, độc lập với thông tin miêu
tả vốn có của nó [23, tr. 180]. Nguyễn Đức Dân cũng quan niệm: Tác tử lập luận là
những yếu tố tác động vào một phát ngôn sẽ tạo ra một định hướng nghĩa tạo nên tiềm
năng lập luận của phát ngôn. [30, tr. 176]
Như vậy, theo cách hiểu của Đỗ Hữu Châu và Nguyễn Đức Dân thì tác tử lập
luận được thể hiện bằng các phụ từ như: đã, mới, vừa, cặp phụ từ: đã…rồi, vừa...đã
mới….thôi,… và các tiểu từ tình thái như: những, chỉ,...
* Kết tử lập luận
Trong một lập luận, giữa các luận cứ và kết luận thường có các từ ngữ làm
nhiệm vụ liên kết và chỉ ra mối quan hệ giữa chúng. Những từ ngữ làm nhiệm vụ này
gọi là các kết tử lập luận.
Theo Đỗ Hữu Châu, kết tử lập luận là các yếu tố (như các liên từ đẳng lập, liên
từ phụ thuộc, các trạng từ và các trạng ngữ…) phối hợp hai hay một số phát ngôn
thành một lập luận duy nhất. Nhờ kết tử mà các phát ngôn trở thành luận cứ hay kết
luận của một lập luận [23, tr. 184]. Nguyễn Đức Dân cho rằng: Kết tử lập luận là yếu
tố tác động vào một hay nhiều phát ngôn để làm thành một lập luận. Kết tử liên kết luận
cứ với kết luận [30, tr.177]. Nói cách khác, kết tử lập luận là yếu tố liên kết tiền đề với
kết đề trong một lập luận.
Kết tử lập luận sử dụng các kết từ/ cặp kết từ: nhưng, mà, và, rồi, còn, hay,
hoặc…; vì (do/ tại/ bởi/ nhờ,….)….nên (mà), nếu (hễ/ giá/ miễn…)…thì, tuy (dù/ mặc
dù/ dẫu,…)….nhưng, đến (mà) (cũng) còn…nữa là,... Nguyễn Đức Dân cho rằng
27
những từ tình thái thể hiện độ tin cậy, sự chắc chắn như tất nhiên, chắc chắn, đương
nhiên, nhất định, thế nào cũng,... cũng là các kết tử lập luận.
Trong lập luận, kết tử lập luận có vai trò quan trọng trong việc chỉ ra quan hệ
giữa các luận cứ (p, q) với kết luận (r), nhất là đối với những luận cứ ngược hướng. Sự
xuất hiện của các kết tử lập luận trong những quan hệ lập luận này là bắt buộc để chỉ
ra quan hệ giữa p, q với kết luận chung (R), để khẳng định p hay q có hiệu lực lập luận
đối với việc rút ra R.
Kết tử lập luận có kết tử hai vị trí và kết tử ba vị trí. Kết tử hai vị trí là những
kết tử chỉ cần hai phát ngôn là đủ lập thành một lập luận, không nhất thiết phải có
thêm một phát ngôn luận cứ thứ ba (mặc dù vẫn có thêm vào một hoặc một số phát
ngôn - câu, tức là luận cứ bổ sung đồng hướng). Kết tử ba vị trí là kết tử đòi hỏi phải
có ba phát ngôn mới có thể tạo nên một lập luận. Các kết tử nghịch hướng nhưng,
song, tuy nhiên, mà...và các kết tử đồng hướng và, vả lại, hơn nữa, thêm vào đó,... là
những kết tử ba vị trí. Khi nó xuất hiện, nhất thiết phải có ba phát ngôn trong lập luận.
* Các yếu tố có giá trị lập luận khác
Theo Đỗ Hữu Châu, ngoài các tác tử và kết tử lập luận thì trong lập luận còn có
các yếu tố khác có tác dụng chỉ dẫn lập luận. Các yếu tố này được hiểu là những yếu tố
có hiệu lực thay đổi giá trị lập luận của các nội dung miêu tả sử dụng chúng làm cái biểu
đạt. Các phương tiện thường được dùng là: các yếu tố của hiện thực được lựa chọn tạo
thành nội dung miêu tả, những thực từ được dùng để miêu tả và cách tổ chức sắp xếp
nội dung miêu tả. Ngoài ra, các từ đồng nghĩa, cách dùng từ xưng hô, các biện pháp tu
từ cũng có thể đóng vai trò dấu hiệu giá trị lập luận trong các lập luận. [23, tr. 184]
e. Lập luận và logic
Trong lập luận, tam đoạn luận là cấu trúc điển hình của lập luận diễn dịch logic.
Tam đoạn luận gồm một đại tiền đề, một tiểu tiền đề và một kết luận suy ra từ hai tiền
đề trên. Tính đúng sai của kết luận trong tam đoạn luận logic do tính đúng sai của các
tiền đề quyết định. Một kết luận logic chỉ có hai khả năng: hoặc đúng hoặc sai, đúng
hay sai không thể bác bỏ có nghĩa là nếu kết luận logic đã đúng thì không thể lập luận
hoặc chứng minh rằng nó sai và ngược lại, nếu nó đã sai thì không thể chứng minh rằng
nó đúng.
Tam đoạn luận đời thường không như vậy. Đại tiền đề không phải là một chân
lí khách quan, khoa học mà là một lẽ thường, là những chân lí thông thường có tính
kinh nghiệm, không có tính tất yếu, bắt buộc như các tiền đề logic [23, tr. 187]. Lẽ
thường có tính khái quát, có tính thang độ và tính chất chung. Chẳng hạn đại tiền đề:
Hàng hoá càng rẻ thì càng nên mua có thể bị phủ định bởi một đại tiền đề khác: “Của
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư
Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư

More Related Content

What's hot

Thiết kế tình huống dạy học hiệu quả trong môn Toán tiểu học
Thiết kế tình huống dạy học hiệu quả trong môn Toán tiểu họcThiết kế tình huống dạy học hiệu quả trong môn Toán tiểu học
Thiết kế tình huống dạy học hiệu quả trong môn Toán tiểu họcChau Phan
 
Ky yeu khoa_hoc_sinh_vien_lan_5_thang_03.2011
Ky yeu khoa_hoc_sinh_vien_lan_5_thang_03.2011Ky yeu khoa_hoc_sinh_vien_lan_5_thang_03.2011
Ky yeu khoa_hoc_sinh_vien_lan_5_thang_03.2011Duy Vọng
 
Luận văn: Logic mô tả và ứng dụng trong cơ sở dữ liệu, hAY
Luận văn: Logic mô tả và ứng dụng trong cơ sở dữ liệu, hAYLuận văn: Logic mô tả và ứng dụng trong cơ sở dữ liệu, hAY
Luận văn: Logic mô tả và ứng dụng trong cơ sở dữ liệu, hAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học, 9đ - Gửi miễn ph...
Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học, 9đ  - Gửi miễn ph...Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học, 9đ  - Gửi miễn ph...
Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học, 9đ - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (16)

Luận văn: Tính toán kết cấu bằng phương pháp so sánh, HAY
Luận văn: Tính toán kết cấu bằng phương pháp so sánh, HAYLuận văn: Tính toán kết cấu bằng phương pháp so sánh, HAY
Luận văn: Tính toán kết cấu bằng phương pháp so sánh, HAY
 
Luận văn: Sử dụng thí nghiệm hỗ trợ quá trình dạy học Vật lý 10
Luận văn: Sử dụng thí nghiệm hỗ trợ quá trình dạy học Vật lý 10Luận văn: Sử dụng thí nghiệm hỗ trợ quá trình dạy học Vật lý 10
Luận văn: Sử dụng thí nghiệm hỗ trợ quá trình dạy học Vật lý 10
 
Luận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOT
Luận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOTLuận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOT
Luận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOT
 
Luận án: Thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán, HAY
Luận án: Thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán, HAYLuận án: Thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán, HAY
Luận án: Thành ngữ có yếu tố chỉ loài vật trong tiếng Hán, HAY
 
Phân tích câu về cú pháp dựa vào thuộc tính kết trị của từ, HAY
Phân tích câu về cú pháp dựa vào thuộc tính kết trị của từ, HAYPhân tích câu về cú pháp dựa vào thuộc tính kết trị của từ, HAY
Phân tích câu về cú pháp dựa vào thuộc tính kết trị của từ, HAY
 
Thiết kế tình huống dạy học hiệu quả trong môn Toán tiểu học
Thiết kế tình huống dạy học hiệu quả trong môn Toán tiểu họcThiết kế tình huống dạy học hiệu quả trong môn Toán tiểu học
Thiết kế tình huống dạy học hiệu quả trong môn Toán tiểu học
 
Luận văn: Phương thức định danh của hệ thống từ ngữ nghề chè
Luận văn: Phương thức định danh của hệ thống từ ngữ nghề chèLuận văn: Phương thức định danh của hệ thống từ ngữ nghề chè
Luận văn: Phương thức định danh của hệ thống từ ngữ nghề chè
 
Kính ngữ tiếng Hàn và các phương tiện biểu hiện tương đương, HOT
Kính ngữ tiếng Hàn và các phương tiện biểu hiện tương đương, HOTKính ngữ tiếng Hàn và các phương tiện biểu hiện tương đương, HOT
Kính ngữ tiếng Hàn và các phương tiện biểu hiện tương đương, HOT
 
Luận án: Sử dụng phối hợp các loại hình thí nghiệm trong dạy học
Luận án: Sử dụng phối hợp các loại hình thí nghiệm trong dạy họcLuận án: Sử dụng phối hợp các loại hình thí nghiệm trong dạy học
Luận án: Sử dụng phối hợp các loại hình thí nghiệm trong dạy học
 
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu các văn bản tự sự văn học nước ngoài lớp 12
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu các văn bản tự sự văn học nước ngoài lớp 12Luận văn: Dạy học đọc - hiểu các văn bản tự sự văn học nước ngoài lớp 12
Luận văn: Dạy học đọc - hiểu các văn bản tự sự văn học nước ngoài lớp 12
 
Ky yeu khoa_hoc_sinh_vien_lan_5_thang_03.2011
Ky yeu khoa_hoc_sinh_vien_lan_5_thang_03.2011Ky yeu khoa_hoc_sinh_vien_lan_5_thang_03.2011
Ky yeu khoa_hoc_sinh_vien_lan_5_thang_03.2011
 
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luậnLuận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận
 
Luận văn: Logic mô tả và ứng dụng trong cơ sở dữ liệu, hAY
Luận văn: Logic mô tả và ứng dụng trong cơ sở dữ liệu, hAYLuận văn: Logic mô tả và ứng dụng trong cơ sở dữ liệu, hAY
Luận văn: Logic mô tả và ứng dụng trong cơ sở dữ liệu, hAY
 
Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học, 9đ - Gửi miễn ph...
Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học, 9đ  - Gửi miễn ph...Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học, 9đ  - Gửi miễn ph...
Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ từ góc nhìn văn bản học, 9đ - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Đánh giá tài nguyên đất đai quy hoạch cây công nghiệp dài ngày
Luận văn: Đánh giá tài nguyên đất đai quy hoạch cây công nghiệp dài ngàyLuận văn: Đánh giá tài nguyên đất đai quy hoạch cây công nghiệp dài ngày
Luận văn: Đánh giá tài nguyên đất đai quy hoạch cây công nghiệp dài ngày
 
Luận văn: Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ Hàn – việt có yếu tố chỉ tên gọi độn...
Luận văn: Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ Hàn – việt có yếu tố chỉ tên gọi độn...Luận văn: Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ Hàn – việt có yếu tố chỉ tên gọi độn...
Luận văn: Nghiên cứu đối chiếu thành ngữ Hàn – việt có yếu tố chỉ tên gọi độn...
 

Similar to Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư

Luận văn:Dạy đọc hiểu văn bản văn học trung đại Việt Nam ở Ngữ văn 10 THPT th...
Luận văn:Dạy đọc hiểu văn bản văn học trung đại Việt Nam ở Ngữ văn 10 THPT th...Luận văn:Dạy đọc hiểu văn bản văn học trung đại Việt Nam ở Ngữ văn 10 THPT th...
Luận văn:Dạy đọc hiểu văn bản văn học trung đại Việt Nam ở Ngữ văn 10 THPT th...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ CHUYÊN NGÀNH VĂN H...
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ CHUYÊN NGÀNH VĂN H...THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ CHUYÊN NGÀNH VĂN H...
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ CHUYÊN NGÀNH VĂN H...nataliej4
 
THÀNH PHẦN PHỤ CỦA CÂU TIẾNG VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KẾT TRỊ CỦA TỪ.pdf
THÀNH PHẦN PHỤ CỦA CÂU TIẾNG VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KẾT TRỊ CỦA TỪ.pdfTHÀNH PHẦN PHỤ CỦA CÂU TIẾNG VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KẾT TRỊ CỦA TỪ.pdf
THÀNH PHẦN PHỤ CỦA CÂU TIẾNG VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KẾT TRỊ CỦA TỪ.pdfHanaTiti
 
Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa
Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa
Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa nataliej4
 
Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa _083013120...
Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa _083013120...Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa _083013120...
Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa _083013120...hanhha12
 
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPT
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPTLuận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPT
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPTDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư (20)

Luận án: Sự tình phát ngôn trong tiếng Anh, đối chiếu với tiếng Việt
Luận án: Sự tình phát ngôn trong tiếng Anh, đối chiếu với tiếng ViệtLuận án: Sự tình phát ngôn trong tiếng Anh, đối chiếu với tiếng Việt
Luận án: Sự tình phát ngôn trong tiếng Anh, đối chiếu với tiếng Việt
 
Luận án: Cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, HAY
Luận án: Cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, HAYLuận án: Cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, HAY
Luận án: Cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, HAY
 
Kính ngữ tiếng Hàn và biểu hiện tương đương trong tiếng Việt, HAY
Kính ngữ tiếng Hàn và biểu hiện tương đương trong tiếng Việt, HAYKính ngữ tiếng Hàn và biểu hiện tương đương trong tiếng Việt, HAY
Kính ngữ tiếng Hàn và biểu hiện tương đương trong tiếng Việt, HAY
 
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE...
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE...THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT  - TẢI FREE...
THÀNH NGỮ CÓ TỪ NGỮ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA THỜI TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT - TẢI FREE...
 
Vai trò của viện kiểm sát nhân dân tỉnh đăk nông trong bảo vệ quyền công dân.doc
Vai trò của viện kiểm sát nhân dân tỉnh đăk nông trong bảo vệ quyền công dân.docVai trò của viện kiểm sát nhân dân tỉnh đăk nông trong bảo vệ quyền công dân.doc
Vai trò của viện kiểm sát nhân dân tỉnh đăk nông trong bảo vệ quyền công dân.doc
 
Luận văn:Dạy đọc hiểu văn bản văn học trung đại Việt Nam ở Ngữ văn 10 THPT th...
Luận văn:Dạy đọc hiểu văn bản văn học trung đại Việt Nam ở Ngữ văn 10 THPT th...Luận văn:Dạy đọc hiểu văn bản văn học trung đại Việt Nam ở Ngữ văn 10 THPT th...
Luận văn:Dạy đọc hiểu văn bản văn học trung đại Việt Nam ở Ngữ văn 10 THPT th...
 
Luận văn: Đánh giá tài nguyên đất đai phục vụ quy hoạch cây công nghiệp dài n...
Luận văn: Đánh giá tài nguyên đất đai phục vụ quy hoạch cây công nghiệp dài n...Luận văn: Đánh giá tài nguyên đất đai phục vụ quy hoạch cây công nghiệp dài n...
Luận văn: Đánh giá tài nguyên đất đai phục vụ quy hoạch cây công nghiệp dài n...
 
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ cơ khí trong tiếng Anh và tiếng Việt
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ cơ khí trong tiếng Anh và tiếng ViệtLuận án: Đối chiếu thuật ngữ cơ khí trong tiếng Anh và tiếng Việt
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ cơ khí trong tiếng Anh và tiếng Việt
 
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ CHUYÊN NGÀNH VĂN H...
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ CHUYÊN NGÀNH VĂN H...THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ CHUYÊN NGÀNH VĂN H...
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ TRÊN KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH HUẾ CHUYÊN NGÀNH VĂN H...
 
Th s17.023 từ láy trong thơ văn nguyễn đình chiểu
Th s17.023 từ láy trong thơ văn nguyễn đình chiểuTh s17.023 từ láy trong thơ văn nguyễn đình chiểu
Th s17.023 từ láy trong thơ văn nguyễn đình chiểu
 
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ thời trang Anh Việt, HAY
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ thời trang Anh Việt, HAYLuận án: Đối chiếu thuật ngữ thời trang Anh Việt, HAY
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ thời trang Anh Việt, HAY
 
Luận văn: Dạy học các bài về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và phong cách ngôn...
Luận văn: Dạy học các bài về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và phong cách ngôn...Luận văn: Dạy học các bài về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và phong cách ngôn...
Luận văn: Dạy học các bài về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và phong cách ngôn...
 
Luận văn: Dạy học các bài về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và nghệ thuật
Luận văn: Dạy học các bài về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và nghệ thuậtLuận văn: Dạy học các bài về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và nghệ thuật
Luận văn: Dạy học các bài về phong cách ngôn ngữ sinh hoạt và nghệ thuật
 
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ xã hội học Anh- Việt, HAY
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ xã hội học Anh- Việt, HAYLuận án: Đối chiếu thuật ngữ xã hội học Anh- Việt, HAY
Luận án: Đối chiếu thuật ngữ xã hội học Anh- Việt, HAY
 
THÀNH PHẦN PHỤ CỦA CÂU TIẾNG VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KẾT TRỊ CỦA TỪ.pdf
THÀNH PHẦN PHỤ CỦA CÂU TIẾNG VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KẾT TRỊ CỦA TỪ.pdfTHÀNH PHẦN PHỤ CỦA CÂU TIẾNG VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KẾT TRỊ CỦA TỪ.pdf
THÀNH PHẦN PHỤ CỦA CÂU TIẾNG VIỆT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ KẾT TRỊ CỦA TỪ.pdf
 
Đề tài: Thành phần phụ của câu tiếng Việt từ kết trị của từ, HAY
Đề tài: Thành phần phụ của câu tiếng Việt từ kết trị của từ, HAYĐề tài: Thành phần phụ của câu tiếng Việt từ kết trị của từ, HAY
Đề tài: Thành phần phụ của câu tiếng Việt từ kết trị của từ, HAY
 
Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa
Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa
Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa
 
Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa _083013120...
Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa _083013120...Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa _083013120...
Đánh Giá Chất Lượng Nước Sông Mã Đoạn Chảy Qua Thành Phố Thanh Hóa _083013120...
 
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPT
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPTLuận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPT
Luận văn: Xây dựng và sử dụng mẫu trong dạy học làm văn nghị luận ở trường THPT
 
Luận án: Hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu phẩm báo chí, 9đ
Luận án: Hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu phẩm báo chí, 9đLuận án: Hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu phẩm báo chí, 9đ
Luận án: Hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu phẩm báo chí, 9đ
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 

Recently uploaded (20)

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 

Luận án: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự - đời tư

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------------------------ TỐNG THỊ HƯỜNG MẠCH LẠC TRONG VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TIẾNG VIỆT Ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 9 22 90 20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM VĂN TÌNH HÀ NỘI - 2019
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực, chưa từng được một ai công bố ở đâu và trong bất kì công trình nào khác. Tác giả luận án Tống Thị Hường
  • 3. LỜI CẢM ƠN Tác giả luận án xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Học viện Khoa học xã hội, lãnh đạo khoa Ngôn ngữ học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, triển khai đề tài nghiên cứu và hoàn thành luận án. Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Phạm Văn Tình, người hướng dẫn khoa học đã luôn tận tình hướng dẫn cho tôi trong quá trình quá trình học tập, nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận án. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Trường Đại học Hải Phòng, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn - Địa lí đã luôn tạo điều kiện thuận lợi để tôi trong học tập và hoàn thành luận án. Xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn quan tâm, động viên và tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận án này. Tác giả luận án Tống Thị Hường
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU........................................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN .............. 6 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu................................................................................................ 6 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về mạch lạc trong văn bản.........................................................6 1.1.2. Tình hình nghiên cứu mạch lạc trong văn bản nghị luận tiếng Việt .........................12 1.2. Cơ sở lí thuyết .......................................................................................................................13 1.2.1. Văn bản và một số vấn đề liên quan............................................................................13 1.2.2. Cơ sở lí thuyết về mạch lạc ..........................................................................................33 1.2.3. Văn bản nghị luận.........................................................................................................41 1.3. Tiểu kết...................................................................................................................................51 CHƯƠNG 2. MẠCH LẠC TRONG SỰ THỐNG NHẤT ĐỀ TÀI - CHỦ ĐỀ Ở VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TIẾNG VIỆT..........................................................................................53 2.1. Mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề ở văn bản nghị luận thể hiện qua kết cấu văn bản..................................................................................................................................................53 2.1.1. Đảm bảo kết cấu rõ ràng, hợp lí ......................................................................................53 2.1.2. Sử dụng kiểu quan hệ kết cấu phù hợp........................................................................57 2.2. Mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề ở văn bản nghị luận thể hiện qua các phép liên kết ...........................................................................................................................................61 2.2.1. Các phép liên kết duy trì đề tài-chủ đề tạo mạch lạc trong văn bản nghị luận tiếng Việt. ............................................................................................................. 62 2.2.2. Các phép liên kết phát triển đề tài-chủ đề tạo mạch lạc cho văn bản nghị luận tiếng Việt ...........................................................................................................................................81 2.3. Phân tích trường hợp: Mạch lạc trong thống nhất đề tài-chủ đề qua một số văn bản cụ thể..................................................................................................................89 2.4. Tiểu kết.................................................................................................................................101 CHƯƠNG 3 MẠCH LẠC TRONG QUAN HỆ LẬP LUẬN Ở VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TIẾNG VIỆT...............................................................................................................103 3.1. Mạch lạc biểu hiện qua việc sử dụng kiểu lập luận phù hợp..........................................103 3.1.1. Lập luận theo logic hình thức của luận cứ và kết luận ...........................................103 3.1.2. Lập luận tường minh và lập luận hàm ẩn .................................................................112 3.1.3. Lập luận phức .............................................................................................................115 3.2. Mạch lạc biểu hiện qua đặc điểm của các thành lập luận ...............................................117
  • 5. 3.2.1. Đặc điểm của luận cứ.................................................................................................118 3.2.2. Đặc điểm của kết luận trong lập luận của văn bản nghị luận.................................121 3.3. Mạch lạc biểu hiện qua các yếu tố có giá trị lập luận ở văn bản nghị luận...................126 3.3.1. Kết tử lập luận trong văn bản nghị luận ...................................................................126 3.3.2. Một số biện pháp tu từ có giá trị lập luận trong văn bản nghị luậnError! Bookmark not defined 3.3.3. Các từ ngữ xưng hô ....................................................................................................130 3.4. Hiện tượng đa thanh trong lập luận ở văn bản nghị luận................................................132 3.4.1. Hiện tượng đa thanh trong lập luận đồng hướng.....................................................132 3.4.2. Hiện tượng đa thanh trong lập luận nghịch hướng..................................................138 3.5. Tiểu kết.................................................................................................................................139 KẾT LUẬN ...............................................................................................................................148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  • 6. DANH MỤC BẢNG BIỂU, MÔ HÌNH Bảng 2.1. Thống kê kiểu kết cấu văn bản nghị luận .....................................................54 Bảng 2.2. Thống kê về kiểu quan hệ kết cấu ở cấp độ văn bản trong VBNL...............57 Bảng 2.3. Thống kê về tần suất xuất hiện của các phép liên kết trong VBNL .............61 Bảng 2.4. Thống kê về tần suất xuất hiện phép lặp từ vựng trong văn bản nghị luận tiếng Việt .......................................................................................................................62 Bảng 2.5. Thống kê về tần suất xuất hiện phép thế trong văn bản nghị luận tiếng Việt66 Bảng 2.6. Thống kê về tần suất xuất hiện phép tỉnh lược trong VBNL tiếng Việt.......68 Bảng 2.7. Thống kê về tần suất xuất hiện phép dùng từ ngữ đồng nghĩa trong VBNL tiếng Việt .......................................................................................................................72 Bảng 2. 8. Bảng thống kê về tần suất xuất hiện phép quy chiếu trong VBNL tiếng Việt75 Bảng 2.9. Bảng thống kê về tần suất xuất hiện phép phối hợp từ ngữ trong văn bản nghị luận tiếng Việt ................................................................................................................81 Bảng 2.10. Bảng thống kê về tần suất xuất hiện phép dùng từ ngữ trái nghĩa trong VBNL tiếng Việt ...........................................................................................................85 Bảng 3.1. Thống kê về tần suất xuất hiện kiểu lập luận.........................................103 Mô hình 2.1. Mô hình kết cấu của văn bản nghị luận ...................................................54 Mô hình 2.2. Mô hình kết cấu của văn bản Tuyên ngôn độc lập ..................................91 Mô hình 2.3. Mô hình kết cấu của văn bản Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc....................................................................................................95 Mô hình 2.4. Mô hình kết cấu của văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới.........99 Mô hình 3.1. Mô hình cấu trúc lập luận của văn bản Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc................................................................................145
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1.1. Liên kết (cohesion) và mạch lạc (coherence) là hai vấn đề liên quan tới đặc trưng của mọi loại thể văn bản. Một văn bản "chính danh" muốn đạt được hiệu quả giao tiếp tốt nhất phải có mạch lạc. Mạch lạc có vai trò vô cùng quan trọng, quyết định “chất văn bản” của văn bản. Mạch lạc là yếu tố quyết định việc tạo thành văn bản, trong đó nổi rõ lên việc tạo thành tính thống nhất chủ đề của văn bản. Trước đây, các nhà nghiên cứu ngữ pháp văn bản thường xem mạch lạc là một mặt biểu hiện của liên kết nội dung. Gần đây, khi ngữ pháp chức năng ra đời, mạch lạc được nghiên cứu và được xem như một bộ phận quan trọng cấu thành văn bản. Diệp Quang Ban đã tiếp thu quan điểm, tinh thần của ngữ pháp chức năng vào nghiên cứu văn bản tiếng Việt trong [7], [8], [11], [12]. Trong các công trình này, Diệp Quang Ban đã nhắc tới vai trò của mạch lạc trong văn bản: “chính mạch lạc là cái làm cho văn bản là một văn bản. (...) và mạch lạc cũng là yếu tố có mặt trong văn bản lập luận như một yếu tố bắt buộc”[8, tr. 293]. Mạch lạc tuy là yếu tố khó xác định rạch ròi nhưng việc thể hiện nó ở những loại hình văn bản khác nhau có những điểm đặc trưng đáng chú ý. Vì thế, việc hiểu rõ về mạch lạc (về vai trò và những biểu hiện) gắn với đặc trưng loại hình là vô cùng cần thiết khi tạo lập hay tiếp nhận một văn bản nào đó. 1.2. Văn bản nghị luận (VBNL) là loại văn bản dùng để trình bày, bình luận, đánh giá theo một quan điểm nhất định các vấn đề trong các lĩnh vực chính trị - xã hội, thực hiện chức năng thuyết phục, lôi cuốn, động viên. VBNL thể hiện quan điểm, “bản lĩnh” của người viết khi trình bày, bình giá về một sự kiện, một vấn đề chính trị - xã hội cụ thể. VBNL thể hiện rất rõ ràng tính bình giá công khai, tính lập luận chặt chẽ và tính truyền cảm mạnh mẽ. VBNL là loại văn bản quan trọng trong xã hội xưa (với các thể loại như hịch, cáo, chiếu, biểu) và thường gặp trong cuộc sống hàng ngày ở xã hội nay (các bài bình luận, xã luận trên các phương tiện thông tin đại chúng). Hơn nữa, trong nhà trường, VBNL có một vị trí quan trọng, được giới thiệu và giảng dạy từ bậc trung học cơ sở đến bậc trung học phổ thông (lớp 7 - lớp 12). Văn nghị luận trong nhà trường là thể loại giúp học sinh rèn luyện tư duy, lập luận một cách logic, chặt chẽ, thể hiện được cách nhìn nhận, đánh giá mang tính thuyết phục một vấn đề nào đó về hai lĩnh vực xã hội và văn học. VBNL có mạch lạc mới đạt được mục đích và thực hiện được chức năng của nó. Vậy một VBNL mạch lạc là một văn bản như thế nào và những biểu hiện nào của mạch lạc gắn với đặc trưng thể loại mà khi tiếp nhận hoặc tạo
  • 8. 2 lập VBNL cần chú ý? Đây là câu hỏi mà chúng tôi mong muốn có được câu trả lời khi chọn đề tài nghiên cứu, bởi vì, theo sự tìm hiểu của chúng tôi, đến nay, chưa có ai đi sâu vào nghiên cứu mạch lạc trong VBNL (những nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở hai hoặc ba văn bản hoặc là nghiên cứu riêng về một tác giả nghị luận nào đó). Do đó, việc tìm hiểu mạch lạc và những biểu hiện của nó gắn với đặc trưng thể loại trong VBNL, theo chúng tôi, là một việc làm hết sức cần thiết cho những ai quan tâm đến VBNL, đặc biệt là giáo viên, học sinh và sinh viên. Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Mạch lạc trong văn bản nghị luận tiếng Việt” nhằm góp phần khẳng định vai trò, tầm quan trọng của mạch lạc trong các loại văn bản nói chung và VBNL nói riêng, đồng thời khẳng định những biểu hiện “đậm nét” mang tính đặc trưng của mạch lạc trong VBNL, từ đó giúp cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, giảng dạy và tạo lập VBNL trong nhà trường đạt được hiệu quả như mong muốn. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là mạch lạc và biểu hiện của mạch lạc trong VBNL tiếng Việt. 2.2. Phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 2.2.1. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án được xác định là mạch lạc và một số biểu hiện của mạch lạc trong VBNL tiếng Việt, cụ thể là hai biểu hiện: Mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề và mạch lạc trong quan hệ lập luận. Lí do lựa chọn hai biểu hiện này của mạch lạc để nghiên cứu trong VBNL được luận án trình bày cụ thể ở mục 1.2.2.3. (Các biểu hiện của mạch lạc). 2.2.2. Phạm vi về nguồn ngữ liệu Văn bản nghị luận tiếng Việt rất phong phú về kiểu loại, đồ sộ về số lượng, cho nên để đảm bảo tính đại diện, tính chọn lọc và độ tin cậy, luận án xác định ngữ liệu nghiên cứu là 326 VBNL được lấy từ các nguồn sau: 1. Sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Sách giáo khoa Ngữ văn 8, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 3. Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 5. Sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1+2, (2008), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
  • 9. 3 7. Tập nghiên cứu và bình luận văn học chọn lọc (2000), tập I + II + III + IV + V + VI, Đỗ Quang Lưu tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Hà Nội. 8. Tuyển tập văn chính luận Hồ Chí Minh, (1997), Lữ Huy Nguyên tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 9. Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Văn chính luận - quyển V) (2003), Mai Quốc Liên - Nguyễn Văn Lưu (chủ biên), Nxb Văn học, Hà Nội. 10. Xã luận báo Nhân dân, từ số thứ sáu, ngày 18/11/2013 đến số thứ bảy, ngày 13/6/2017. Sở dĩ luận án chọn ngữ liệu từ các nguồn trên vì một số lí do: thứ nhất, các VBNL tiếng Việt trong sách giáo khoa là những văn bản tiêu biểu, đã được chọn lọc theo các giai đoạn từ văn học trung đại đến văn học hiện đại (chỉ chọn những VBNL hoàn chỉnh); thứ hai, các VBNL xã hội ở các nguồn như Văn học Việt Nam thế kỉ XX (Văn chính luận - quyển V, Tuyển tập văn chính luận Hồ Chí Minh là những văn bản tiêu biểu của Hồ Chí Minh, của một số cây bút nghị luận tiêu biểu đầu thế kỉ XX như Phan Kế Bính, Nguyễn An Ninh, Phan Khôi, Phạm Quỳnh,...và một số VBNL xã hội đương thời trên Xã luận báo Nhân dân; thứ ba là các VBNL văn học trong Tập nghiên cứu và bình luận văn học chọn lọc (bộ 6 tập) là những văn bản được tuyển chọn của các nhà phê bình văn học nổi tiếng như Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Hoành Khung, Phạm Văn Đồng,... Từ các VBNL chọn lọc, tiêu biểu ở các nguồn ngữ liệu này, luận án có cơ sở để phân tích, đánh giá về biểu hiện của mạch lạc mang tính đặc trưng thể loại của VBNL, từ đó giúp cho việc tiếp nhận và tạo lập loại văn bản này đạt hiệu quả giao tiếp như mong muốn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Qua việc khảo sát, thống kê, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong VBNL tiếng Việt, luận án nhằm mục đích làm rõ một số biểu hiện nổi trội của mạch lạc gắn với đặc trưng thể loại VBNL tiếng Việt, qua đó góp phần khẳng định vai trò của mạch lạc trong việc tiếp nhận và tạo lập loại văn bản này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Căn cứ vào mục đích và phạm vi nghiên cứu đã được xác định, luận án đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: Một là hệ thống lại một cách khái quát những vấn đề lí thuyết liên quan đến nội dung của đề tài luận án.
  • 10. 4 Hai là khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề ở phương diện kết cấu và các phép liên kết ở VBNL tiếng Việt. Ba là khảo sát, thống kê, phân loại, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong quan hệ lập luận ở phương diện: kiểu lập luận, đặc điểm các thành phần lập luận, tính đa thanh trong lập luận ở VBNL tiếng Việt. 4. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu là phương pháp phân tích diễn ngôn, phương pháp miêu tả và phương pháp phân tích ngữ nghĩa. Phương pháp phân tích diễn ngôn: là phương pháp chủ đạo của luận án. Phương pháp này nhằm thực hiện việc miêu tả, tìm hiểu và giải thích các biểu hiện mang tính đặc trưng nổi trội của mạch lạc trong VBNL. Phương pháp miêu tả: được sử dụng để miêu tả cấu trúc văn bản, các phép liên kết, các kiểu lập luận, ngôn ngữ lập luận,... trong vai trò thể hiện mạch lạc ở VBNL. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: được vận dụng để phân tích nội dung văn bản, nội dung của lập luận, từ đó có cơ sở đánh giá mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề và mạch lạc trong quan hệ lập luận ở VBNL. Bên cạnh đó, luận án đã sử dụng một số thủ pháp sau: Thủ pháp thống kê, phân loại: được vận dụng để thống kê các kiểu cấu trúc của VBNL các phép liên kết đề tài-chủ đề, các kiểu lập luận,... Thủ pháp so sánh: được dùng để đối chiếu, so sánh việc sử dụng kiểu cấu trúc, các phép liên kết tạo mạch lạc và lập luận trong ngữ liệu và trong một số loại văn bản khác để từ đó đánh giá được mạch lạc trong VBNL. Thủ pháp phân tích, tổng hợp: được vận dụng để phân tích số liệu, ngữ liệu từ đó có sơ sở khái quát những biểu hiện nổi bật mang tính đặc trưng của mạch lạc trong VBNL. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Thông qua việc vận dụng lí thuyết về mạch lạc vào nghiên cứu biểu hiện của mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề và trong quan hệ lập luận ở VBNL tiếng Việt, luận án góp phần khẳng định vai trò quan trong của mạch lạc trong văn bản. Khảo sát, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong quan hệ lập luận qua kết cấu và các phép liên kết,... ở VBNL và chỉ ra được những điểm nổi bật của mạch lạc trong loại văn bản này.
  • 11. 5 Khảo sát, phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong quan hệ lập luận ở kiểu lập luận, đặc điểm các thành phần lập luận, tính đa thanh... ở VBNL và chỉ ra đặc điểm nổi bật mang tính đặc trưng của mạch lạc ở loại văn bản này. 6. Ý nghĩa và đóng góp của luận án 6.1. Đóng góp về phương diện lí luận Luận án góp phần làm rõ hơn những vấn đề lí luận của ngôn ngữ học văn bản và lí thuyết phân tích diễn ngôn dựa vào kết quả nghiên cứu về mạch lạc trong VBNL tiếng Việt, từ đó khẳng định tầm quan trọng của mạch lạc trong việc tạo lập và phân tích văn bản nói chung và VBNL nói riêng. 6.2. Đóng góp về phương diện thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần chỉ ra một số biểu hiện quan trọng, nổi bật của mạch lạc trong VBNL tiếng Việt là mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề và mạch lạc trong quan hệ lập luận, từ đó mong muốn góp phần vào việc làm cho quá trình tiếp nhận và tạo lập VBNL đạt hiệu quả giao tiếp tốt nhất. Luận án là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu, phân tích VBNL về phương diện ngôn ngữ. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được trình bày trong 3 chương: Chương 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lí thuyết Phần tổng quan vấn đề nghiên cứu, luận án hệ thống lại các công trình, quan điểm nghiên cứu về mạch lạc và mạch lạc trong văn bản nghị luận. Phần cơ sở lí thuyết, luận án đề cập đến các vấn đề là văn bản và một số vấn đề liên quan, mạch lạc và văn bản nghị luận. Chương 2. Mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề ở văn bản nghị luận tiếng Việt Chương này làm nhiệm vụ phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề ở ở VBNL trên hai phương diện là kết cấu văn bản và các phép liên kết. Chương 3. Mạch lạc trong quan hệ lập luận ở văn bản nghị luận Việt Chương này làm nhiệm vụ phân tích, đánh giá biểu hiện của mạch lạc trong quan hệ lập luận ở VBNL trên các phương diện: kiểu lập luận, đặc điểm của các thành phần lập luận, tính đa thanh trong lập luận.
  • 12. 6 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về mạch lạc trong văn bản 1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu mạch lạc trên thế giới Mạch lạc là vấn đề được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đề cập đến từ giữa thế kỉ XX. Do sự phức tạp và tính chất “mơ hồ” khó nhận diện nên mạch lạc đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của không ít nhà ngôn ngữ học. Trên thế giới, mạch lạc được nghiên cứu trong các công trình của T. Todorov, V. Dijk, M.A.K. Halliday & R. Hasan, H.G Widdowson, G. Llian Brown & George Yule, G.M. Green, D. Nunan, … Dưới đây, luận án điểm lại những công trình tiêu biểu đã đề cập đến mạch lạc ở các phương diện như quan niệm, vai trò và sự thể hiện của mạch lạc trong văn bản/diễn ngôn. Trước tiên, phải nói đến cuốn Cohesion in English (Liên kết trong tiếng Anh) xuất bản năm 1976 của M.A.K. Halliday & R. Hasan. Trong cuốn sách này, mạch lạc tuy không được nghiên cứu một cách trực tiếp nhưng những kết quả nghiên cứu, những phát biểu của các tác giả lại khơi gợi cho các nghiên cứu về mạch lạc sau này. Trong cuốn sách này, mạch lạc đã được phát biểu như sau: “Mạch lạc là tập hợp những quan hệ có ý nghĩa dùng chung cho mọi văn bản, phân biệt văn bản với phi văn bản”. Các tác giả nhấn mạnh: “Mạch lạc không nêu văn bản thông báo gì mà nêu văn bản được tổ chức thành chỉnh thể ngữ nghĩa như thế nào”. Và “…Chất văn bản bao gồm nhiều hơn, không chỉ là sự có mặt của những quan hệ nghĩa thuộc loại mà chúng tôi quy về quan hệ liên kết - sự phụ thuộc của yếu tố này vào yếu tố khác để giải thích được nó. Nó bao gồm một chừng mực nào đó của mạch lạc trong các ý nghĩa được diễn đạt: không chỉ hoặc không phải chủ yếu là ở nội dung, mà ở sự lựa chọn toàn bộ các nguồn ý nghĩa của ngôn ngữ đó, bao gồm cả các thành tố liên nhân khác nhau, các thức, các tình thái, các độ mạnh và những hình thái khác nữa mà người nói nhồi nhét vào trong các tình huống nói”. Các tác giả M.A.K. Halliday & R. Hasan đã chỉ ra hai điều kiện để đảm bảo cho một văn bản mạch lạc là văn bản phải phù hợp với ngữ cảnh và phải có sự liên kết. Tiếp theo là cuốn Văn bản và ngữ cảnh (Text and Context) xuất bản năm 1977 của T.A. Van Dijk. Trong cuốn sách, tác giả đã dành riêng một chương để viết về mạch lạc (Chapter 4: Coherence). Trong đó, mạch lạc được quan niệm “là một thuộc
  • 13. 7 tính ngữ nghĩa của diễn ngôn, dựa trên việc giải thích các câu riêng lẻ trong mối tương quan với các câu khác trong văn bản” [109, tr. 93] . T.A. Van Dijk cho rằng trong mỗi diễn ngôn chứa một cấu trúc vĩ mô (cấu trúc ngữ nghĩa tổng thể) thể hiện ngữ nghĩa của diễn ngôn và cấu trúc ngữ nghĩa của một diễn ngôn được tổ chức phân cấp ở nhiều cấp độ phân tích (cấu trúc vĩ mô của một diễn ngôn chi phối, kéo theo các cấu trúc vĩ mô khác chi phối toàn bộ diễn ngôn và chính cấu trúc vĩ mô quyết định tính mạch lạc tổng thể của một diễn ngôn). Bên cạnh đó, các yếu tố như thứ tự thực tế và thứ tự trình tự, nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn, chủ đề, bình luận,.. và vai trò của chúng trong diễn ngôn cũng là những yếu tố quan trọng cần chú ý khi phân tích mạch lạc trong diễn ngôn. Năm 1981, I. R. Gal'perin viết Văn bản với tư cách là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học (Bản dịch tiếng Việt của Hoàng Lộc năm 1987). Trong cuốn sách này, tác giả quan niệm: “Mạch lạc là những hình thức liên kết riêng biệt đảm bảo thể liên tục (về thời gian hoặc không gian), sự lệ thuộc lẫn nhau giữa các thông báo, sự kiện, hành động cụ thể” [31, tr.148]. I. R. Gal'perin còn khẳng định mạch lạc chính là đặc trưng của văn bản, là những hình thức liên kết ngữ pháp, ngữ nghĩa, từ vựng giữa những phần cụ thể của văn bản định ra bước chuyển tiếp từ cách phân chia biến thể ngữ cảnh này sang cách phân chia khác. Năm 1983, trong Phân tích diễn ngôn (Bản dịch tiếng Việt của Trần Thuần, 2002), Gillian Brown & George Yulle đã dành hẳn một chương (chương 7: Tính mạch lạc trong việc giải thuyết diễn ngôn) để nghiên cứu về mạch lạc. Các tác giả đã nhận định: “Giả định về tính mạch lạc sẽ chỉ tạo ra một giải thuyết nhất định trong đó các yếu tố của thông điệp được xem như nối kết với nhau, có hoặc không có các nối kết ngôn ngữ công khai giữa các yếu tố ấy. (…) Cái quan trọng nhất trong số đó là nỗ lực của người đọc (hay người nghe) nhằm đạt đến ý định giao tiếp của người viết hay người nói khi tạo ra một thông điệp ngôn ngữ.” [10, tr. 348]. Các nhà nghiên cứu này cho rằng người tiếp nhận muốn giải thuyết ý định giao tiếp của người viết phải dựa vào mạch lạc, nguyên lý loại suy, giải thuyết cục bộ, các đặc điểm chung của ngữ cảnh, các quy tắc kết cấu diễn ngôn và các đặc điểm theo quy tắc của tổ chức kết cấu thông tin. Gillian Brown & George Yulle cũng đã phân định ba bình diện của tiến trình giải thuyết ý nghĩa theo dự định của người nói/ người viết khi tạo ra diễn ngôn, bao gồm “giải thuật chức năng giao tiếp (tiếp nhận thông điệp như thế nào), sử dụng kiến thức văn hóa xã hội nói chung (sự kiện về thế giới) và xác định luận suy nào cần phải thực hiện” [10, tr. 349]. Như vậy mạch lạc là yếu tố quan trọng, phải được xem xét đến trong quá trình tiếp nhận, phân tích diễn ngôn (giải thuyết diễn ngôn).
  • 14. 8 Năm 1993, cuốn Dẫn nhập phân tích diễn ngôn của D. Nunan được xuất bản (Bản dịch tiếng Việt của Hồ Mĩ Huyền và Trúc Thanh, 1997). Trong cuốn sách này, D. Nunan khẳng định: “Mạch lạc (coherence) là cái tầm rộng mà ở đó các lời nói được tiếp nhận là có mắc vào nhau chứ không phải là một tập hợp câu nói không có liên quan với nhau”. Cách hiểu này về mạch lạc của Nunan được Diệp Quang Ban cho là cách phát biểu dung dị và bao quát về mạch lạc, được sử dụng phổ biến trong nhà trường bởi tính chất tiện dụng của nó. D. Nunan đã phân biệt văn bản mạch lạc với chuỗi câu ngẫu nhiên, tình cờ đứng cạnh nhau có sử dụng phương tiện liên kết hình thức. Theo Nunan, đối với văn bản, cần phải xác định được sự liên kết giữa các câu ngoài việc hiểu biết về ngữ pháp và từ vựng của văn bản. Một văn bản mạch lạc phụ thuộc phần lớn vào phương tiện tạo văn bản cách sắp xếp trật tự câu và sử dụng từ ngữ. Và ngữ cảnh là yếu tố quan trọng trong việc giải thích mạch lạc khi coi diễn ngôn là “giao tiếp trong ngữ cảnh”. Có thể nói khái quát rằng, các công trình tiêu biểu nói trên của một số nhà ngôn ngữ học nước ngoài, mạch lạc được đề cập một cách gián tiếp hoặc trực tiếp thông qua việc nghiên cứu về liên kết, về cấu trúc, khung truyện, về nội dung ngữ nghĩa văn bản và các thành tố liên quan đến tình huống nói, về khả năng dung hợp nhau giữa các hành động nói… Tuy không phải là những công trình nghiên cứu riêng biệt về mạch lạc song đây là những cuốn sách thể hiện quan điểm của các tác giả về vai trò và các biểu hiện của mạch lạc trong văn bản/diễn ngôn. Điểm đồng nhất giữa các nhà nghiên cứu là đều khẳng định vai trò quan trọng, tính chất quyết định của mạch lạc trong việc làm cho một chuỗi câu thành một thể thống nhất - văn bản. Có thể nói, những công trình nghiên cứu trên đây là cơ sở lí thuyết quan trọng, tin cậy cho các thế hệ sau tiếp tục làm sáng rõ hơn về vấn đề được coi là mơ hồ, khó nhận diện - mạch lạc. 1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu mạch lạc ở Việt Nam Ở Việt Nam, mạch lạc được nghiên cứu muộn hơn. Có thể xem công trình đầu tiên nghiên cứu về mạch lạc ra đời năm 1985 là Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt của Trần Ngọc Thêm. Trong công trình này, ở cấp độ phân tích văn bản, Trần Ngọc Thêm nghiên cứu và chỉ ra vai trò của liên kết và hệ thống liên kết trong văn bản tiếng Việt, trong đó liên kết nội dung được đề cập chi tiết trong việc phân tích biểu hiện ở liên kết chủ đề và liên kết logic. Tuy không đề cập và gọi tên một cách trực tiếp nhưng có thể coi liên kết nội dung trong công trình này là biểu hiện cho tính mạch lạc của văn bản. Đây cũng là hướng đề cập đến tính mạch lạc của văn bản thông qua liên kết nội dung của tác giả Đỗ Hữu Châu (1996) trong [14] và [17].
  • 15. 9 Trong các nghiên cứu về mạch lạc, không thể không kể đến các công trình của tác giả Diệp Quang Ban. Đây là nhà nghiên cứu có nhiều công trình đề cập đến mạch lạc nhất. Năm 1998, trong [6], mạch lạc được gọi tên và nghiên cứu khá cụ thể từ khái niệm đến phạm vi biểu hiện của nó dựa trên các kết quả nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học khác trên thế giới. Các phạm vi biểu hiện của mạch lạc trong công trình là: mạch lạc trong triển khai mệnh đề, mạch lạc trong chức năng và mạch lạc theo nguyên tắc cộng tác. Trong các công trình tiếp theo [5], [6], [8], mạch lạc tiếp tục được Diệp Quang Ban nghiên cứu, bổ sung, nhấn mạnh về vai trò và biểu hiện của nó trong quá trình tạo lập văn bản. Mạch lạc được tác giả khẳng định là cái làm cho văn bản là một văn bản. Qua các công trình nói trên của Diệp Quang Ban, mạch lạc được trình bày rõ ràng, chi tiết từ khái niệm đến các biểu hiện của nó trong văn bản, đồng thời mạch lạc cũng được phân biệt với liên kết hình thức. Mạch lạc đã được Diệp Quang Ban định nghĩa như sau: Mạch lạc là sự nối kết có tính chất hợp lí về mặt nghĩa và về mặt chức năng, được trình bày trong quá trình triển khai một văn bản (như một truyện kể, một cuộc thoại, một bài nói hay bài viết…) nhằm tạo ra những sự kiện nối kết với nhau hơn là sự kiện liên kết câu với câu [8, tr. 297]. Diệp Quang Ban cũng đã chỉ ra 8 biểu hiện của mạch lạc để người đọc có thể nắm bắt được một cách thuận lợi hơn vấn đề vốn được xem là có ngoại diên rất rộng và mơ hồ này. Diệp Quang Ban cũng đã công bố kết quả nghiên cứu về của mạch lạc trên một số tạp chí chuyên ngành như các bài [4], [7]. Có thể nói, những kết quả nghiên cứu của Diệp Quang Ban về mạch lạc được vận dụng rộng rãi vào việc tiếp nhận và tạo lập văn bản (diễn ngôn). Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khác cũng đề cập đến mạch lạc như [22] (1998) của Nguyễn Đức Dân, [33] (2000), [34] (2008) và [36] (2016) của Nguyễn Thiện Giáp, [85] (2001) của Nguyễn Thị Việt Thanh, [50] (2002) của Nguyễn Hoà. Trong các công trình nghiên cứu này, mạch lạc được các nhà nghiên cứu tiếp tục khẳng định vai trò và cách thể hiện, nhận diện nó trong văn bản. Trong [33] và [34] và [36], Nguyễn Thiện Giáp đề cập đến vai trò quan trọng của mạch lạc trong văn bản. Ông khẳng định: Cái quyết định để một sản phẩm ngôn ngữ trở thành một diễn ngôn hay văn bản chính là mạch lạc. Một diễn ngôn hoặc một văn bản gồm các câu có quan hệ về nghĩa với nhau, cùng hướng vào một chủ đề nhất định là một diễn ngôn hoặc một văn bản có mạch lạc [36, tr.270]. Năm 2002, trong [50], Nguyễn Hoà cho rằng trong phân tích diễn ngôn, cần phải phân tích những tính chất của diễn ngôn như tính giao tiếp, tính tương thích, tính mạch lạc và tính quan yếu. Nguyễn Hoà khẳng định mạch lạc là vấn đề cốt yếu của lí
  • 16. 10 luận phân tích diễn ngôn. Theo tác giả, những phương thức chính tạo mạch lạc trong diễn ngôn là mạch lạc trong liên kết, mạch lạc trong cấu trúc và mạch lạc trong quan yếu. Vấn đề này được giải thích như sau: trong một diễn ngôn, nếu thiếu liên kết hình thức thì sự nối kết về mặt nghĩa và về mặt chức năng giữa các câu trong văn bản sẽ mờ nhạt, không rõ ràng, chặt chẽ; nếu giữa các câu thiếu sự tổ chức chặt chẽ, logic thì diễn ngôn sẽ trở nên lộn xộn, mất đi tính mạch lạc; nếu thiếu yếu tố quan yếu thì cấu trúc quan yếu lỏng lẻo và diễn ngôn sẽ thiếu tính mạch lạc. Để chứng minh cho vấn đề lí luận và phương pháp của mình, Nguyễn Hoà đã vận dụng lý thuyết phân tích diễn ngôn, trong đó có mạch lạc để phân tích cụ thể một số thể loại diễn ngôn trong tiếng Anh và tiếng Việt. Có thể nói, mạch lạc đã được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ trong và ngoài nước quan tâm và đã có những kết quả nghiên cứu về các mặt của mạch lạc từ khái niệm đến vai trò và biểu hiện của nó trong văn bản. Điều này càng chứng tỏ vai trò của mạch lạc trong nghiên cứu ngôn ngữ, trong tạo lập và phân tích văn bản/diễn ngôn. Những nghiên cứu về mạch lạc nói trên là cơ sở lí thuyết quan trọng để chúng tôi vận dụng vào đề tài nghiên cứu. Mạch lạc tuy là yếu tố khá mơ hồ, khó nhận diện nhưng lại có vai trò quan trọng đối với văn bản/diễn ngôn. Vì thế, ở trong nước, đã có những luận văn tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ vận dụng lí thuyết về mạch lạc vào việc nghiên cứu, phân tích văn bản. Đồng thời, việc vận dụng lí thuyết về mạch lạc vào việc nghiên cứu các đề tài cụ thể cũng làm cho mạch lạc được biểu hiện rõ ràng, sâu sắc hơn, khẳng định được vai trò của nó trong văn bản. Nghiên cứu về mạch lạc được các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ vận dụng nghiên cứu ở các thể loại văn bản nghệ thuật, văn bản hành chính, văn bản báo chí,… Các đề tài nghiên cứu thường tìm hiểu mạch lạc trong một loại văn bản/một văn bản cụ thể nào đó (phóng sự, truyện ngắn, kịch,…); hoặc đi sâu vào nghiên cứu những biểu hiện tiêu biểu của mạch lạc trong văn bản của một tác giả cụ thể (quan hệ nguyên nhân trong truyện ngắn Nam Cao, theo ngữ pháp truyện một số truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan, …), từ đó khẳng định vai trò quan trọng của mạch lạc trong việc tạo lập và phân tích diễn ngôn. Trong việc vận dụng lí thuyết mạch lạc vào nghiên cứu thuộc mảng này, đáng chú ý là luận án tiến sĩ của Trần Thị Vân Anh [3], Nguyễn Thị Hường [58], Phan Thị Ai [1] và Nguyễn Hương Giang [32].
  • 17. 11 Luận án [3] Mạch lạc trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du tìm hiểu tính hệ thống trong mạch lạc của truyện, do đó, mạch lạc được tập trung nghiên cứu ở một số tuyến mạch lạc trong truyện (tuyến quan hệ nguyên nhân, tuyến quan hệ thời gian) nhằm làm sáng tỏ bố cục và triển khai truyện với tư cách là tài tổ chức truyện kể. Kết quả nghiên cứu của luận án đã khẳng định vai trò của mạch lạc đối với việc tạo lập và giải mã nội dung truyện, qua đó, tác giả luận án đã đề xuất một số cách khai thác và ứng dụng lí thuyết về mạch lạc như là một bộ phận của phân tích diễn ngôn vào việc tiếp nhận văn bản. Luận án [58] (2010) của Nguyễn Thị Hường đi sâu vào khảo sát và phân tích biểu hiện mang tính đặc thù của mạch lạc trong văn bản hành chính ở hai tiểu loại là báo cáo và tờ trình qua một số loại quan hệ: quan hệ nguyên nhân - hệ quả trong văn bản báo cáo, quan hệ lập luận trong văn bản tờ trình. Tác giả luận án đã chỉ ra được lỗi thường gặp về mạch lạc và đề xuất một số giải pháp khắc phục khiếm khuyết về mạch lạc khi soạn thảo các loại văn bản này. Những kết quả nghiên cứu trong luận án của Nguyễn Thị Hường góp phần quan trọng trong việc quy phạm hóa văn bản báo cáo và tờ trình. Trong luận án [1], Nguyễn Thị Ai đã trình bày một cách có hệ thống những vấn đề về mạch lạc trong bài làm văn của học sinh, các lỗi về mạch lạc ở các đơn vị câu, đoạn văn, văn bản và bước đầu xác định những yếu tố tạo mạch lạc cho văn bản tập làm văn của học sinh phổ thông. Những kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo hữu ích cho giáo viên và học sinh trong việc dạy và học tốt phân môn Tập làm văn trong nhà trường. Năm 2017, trong [32], Nguyễn Hương Giang đã hệ thống hóa được lí thuyết về mạch lạc của các nhà ngôn ngữ trong và ngoài nước, từ đó vận dụng vào việc nghiên cứu mạch lạc qua các phép liên kết và qua các mối quan hệ trong văn bản như: quan hệ giữa các từ ngữ trong một câu, quan hệ về chủ đề giữa các câu, quan hệ thời gian, quan hệ lập luận, quan hệ nhân quả, quan hệ điều kiện và quan hệ ngoại chiếu. Luận án khẳng định: do đặc điểm diễn ngôn của thể loại văn bản hợp đồng kinh tế đòi hỏi tính chính xác, rõ ràng nên mạch lạc tuy được thể hiện qua tất cả các phép liên kết nhưng tần suất xuất hiện nhiều nhất là phép lặp, phép nối và phép thế (đối chiếu văn bản tiếng Anh và tiếng Việt). Trong văn bản hợp đồng kinh tế tiếng Anh và tiếng Việt, các mối quan hệ tạo mạch lạc có điểm giống và khác nhau, đặc biệt như: mạch lạc trong quan hệ ngoại chiếu được thể hiện ở những vị trí khác nhau trong văn bản, mạch lạc qua quan hệ lập luận không được thể hiện trong văn bản tiếng Anh nhưng lại được thể hiện trong văn bản tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng rõ hơn phương diện lí
  • 18. 12 thuyết về mạch lạc trong văn bản hợp đồng kinh tế tiếng Anh và tiếng Việt, đặc biệt nhằm ứng dụng vào thực tiễn soạn thảo và biên dịch các hợp đồng kinh tế. Có thể nói, mạch lạc trong văn bản được rất nhiều người nghiên cứu quan tâm, dù là chuyên sâu hay chỉ là một phần trong công trình nghiên cứu. Điều này đã chứng tỏ vai trò quan trọng của mạch lạc trong văn bản. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu mạch lạc trong văn bản nghị luận Ngoài việc được vận dụng nghiên cứu, tìm hiểu trong các loại văn bản nghệ thuật, báo chí, hành chính (đã đề cập đến ở mục 1.1.1.2), mạch lạc cũng đã được xem xét, nghiên cứu trong VBNL. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy việc nghiên cứu mạch lạc trong VBNL được triển khai trong các đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ. Các đề tài thạc sĩ chủ yếu tập trung nghiên cứu biểu hiện của mạch lạc qua quan hệ lập luận. Các đề tài luận văn thạc sĩ của Trương Công Nghị (2006): Mạch lạc theo quan hệ lập luận trong một số văn bản chính luận, của Nguyễn Mai Lan (2009): Mạch lạc theo quan hệ lập luận qua ba văn bản “Tái dụ Vương Thông”, “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, “Một thời đại trong thi ca”, của Nguyễn Anh Tuấn (2010): Khảo sát mạch lạc theo quan hệ lập luận qua ba văn bản “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ” và “Đại cáo bình ngô”, của Phạm Thị Huệ (2011): Mạch lạc theo quan hệ lập luận qua ba văn bản chính luận của Trường Chinh, của Vũ Như Nguyệt (2011): Mạch lạc theo quan hệ lập luận qua hai văn bản: “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (Phạm Văn Đồng), “Tiếng Việt – một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc” (Đặng Thai Mai),... đều nghiên cứu mạch lạc trong quan hệ lập luận ở 2 hoặc 3 VBNL cụ thể nào đó theo hướng phân tích cấu trúc nội dung và cấu trúc lập luận của toàn văn bản. Các đề tài nghiên cứu đều nhận định rằng trong các VBNL, lập luận là một biểu hiện rõ rệt của mạch lạc và có vai trò vô cùng quan trọng trong loại văn bản này. Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc tìm hiểu mạch lạc theo hướng này chỉ phù hợp với đề tài có số lượng văn bản khiêm tốn (2 hoặc 3 văn bản). Trong một số luận án tiến sĩ, mạch lạc được xem xét là một bộ phận trong việc vận dụng lí thuyết phân tích diễn ngôn vào nghiên cứu VBNL. Đề tài "Hồ Chí Minh - về vấn đề giáo dục" từ cách tiếp cận của phân tích diễn ngôn (2016) của Dương Thị Bích Hạnh đề cập đến mạch lạc với tư cách là một vấn đề quan trọng của phân tích diễn ngôn cùng với đặc trưng về trường và không khí. Theo đó, mạch lạc được nghiên cứu tập trung qua quan hệ liên kết và quan hệ lập luận.
  • 19. 13 Những nội dung và kết quả nghiên cứu về mạch lạc nói chung và mạch lạc trong một số VBNL nói riêng giúp chúng tôi có một cái nhìn hệ thống, toàn diện về mạch lạc, đặc biệt là vai trò của nó trong văn bản, đồng thời gợi mở việc xác định những nội dung nghiên cứu về mạch lạc trong luận án này. 1.2. Cơ sở lí thuyết Để phục vụ cho mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án đã xác định những cơ sở lí thuyết cơ bản là văn bản, mạch lạc và văn bản nghị luận. 1.2.1. Văn bản và một số vấn đề liên quan 1.2.1.1. Văn bản và diễn ngôn. Phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn a. Văn bản và diễn ngôn Hiện nay, trong ngôn ngữ học tồn tại hai thuật ngữ văn bản và diễn ngôn. Vậy văn bản và diễn ngôn được hiểu và sử dụng như thế nào? Trước hết, có thể thấy hai thuật ngữ này được sử dụng khác nhau trong từng giai đoạn cụ thể. "Ở giai đoạn đầu, do trọng tâm nghiên cứu tập trung ở sản phẩm ngôn ngữ bằng chữ viết nên tên gọi văn bản được dùng đại diện để chỉ chung những sự kiện nói viết và sự kiện nói miệng có mạch lạc và liên kết. Ở giai đoạn thứ hai, do ngôn ngữ nói được quan tâm nhiều hơn nên hai tên gọi diễn ngôn và văn bản được sử dụng song song, văn bản được dùng để chỉ sản phẩm ngôn ngữ bằng chữ viết còn diễn ngôn chỉ sản phẩm ngôn ngữ nói miệng. Giai đoạn này phân biệt rõ hai tên gọi diễn ngôn và văn bản. Ở giai đoạn hiện nay, tên gọi diễn ngôn được dùng để chỉ chung cả sản phẩm ngôn ngữ bằng chữ viết và sản phẩm ngôn ngữ nói như tên gọi văn bản ở giai đoạn đầu, có nghĩa thuật ngữ diễn ngôn đã bao hàm cả văn bản. Điều này ngụ ý rằng sự kiện nói miệng là cái có tính nguyên cấp." [8, tr.199] Các nhà nghiên cứu sử dụng thuật ngữ văn bản hay diễn ngôn tuỳ theo quan điểm. Có nhà nghiên cứu ngôn ngữ trong quá trình nghiên cứu không nhắc đến tên “văn bản”, có người lại không nhắc đến tên “diễn ngôn”. Có nhà nghiên cứu hiểu và sử dụng thuật ngữ văn bản như diễn ngôn, chẳng hạn, Halliday và Hasan cho rằng văn bản có thể là bất kỳ đoạn văn nào, viết hay nói, dài hay ngắn, tạo nên một chỉnh thể thống nhất hoàn chỉnh... Rồi Văn bản là một đơn vị ngôn ngữ hành chức. Cách hiểu này về văn bản của Halliday và Hasan theo cách hiểu văn bản ở giai đoạn đầu. Trong [8], Diệp Quang Ban đã dành hẳn một chương (chương 5) để bàn về văn bản và các đặc trưng của văn bản. Ở chương này, trong mục 5.1, Diệp Quang Ban thông qua việc tìm hiểu tên gọi diễn ngôn và văn bản trong lịch sử phân tích đơn vị
  • 20. 14 trên câu của các nhà ngôn ngữ trên thế giới đã phân biệt văn bản và diễn ngôn. Theo Diệp Quang Ban, nhiều nhà nghiên cứu cố gắng phân biệt văn bản và diễn ngôn như Barthes (1970), Ballert (1971), Cook (1989), Crystal (1992). Ballert (1971) quan niệm tên gọi “diễn ngôn” bao gồm cả văn bản. Cook (1989) phân biệt: văn bản là bề mặt từ ngữ, chưa tính đến ngữ cảnh và mục đích người sử dụng như ở diễn ngôn. Crystal (1992) cho rằng: diễn ngôn là một chuỗi ngôn ngữ (đặc biệt là ngôn ngữ nói) liên tục lớn hơn câu, thường tạo nên một đơn vị có mạch lạc, như bài truyền giáo, một lý lẽ, một câu chuyện tiếu lâm hay một câu chuyện kể, còn văn bản là một đoạn diễn ngôn nói hay viết, hoặc thể hiện ở dạng kí hiệu sử dụng tự nhiên, được xác định để phân tích, thường là một đơn vị ngôn ngữ có một chức năng giao tiếp có thể xác định được như một cuộc thoại hay tấm áp phích;... Cũng theo Diệp Quang Ban, khi định nghĩa về văn bản/ diễn ngôn, nổi lên một cách định nghĩa khá đặc biệt là đối chiếu văn bản/diễn ngôn như là hai thể trạng: một thể trạng trong hoạt động và một thể trạng tĩnh tại. Đó là Hjelmsler (1953), Hausenblas (1966): diễn ngôn có thể hiểu hoặc như quá trình, hoặc như kết quả; Brown và Yule (1983): diễn ngôn là quá trình, văn bản là sản phẩm; Halliday (1985 và 1995): lấy quá trình (ngôn ngữ nói) làm xuất phát điểm và văn bản viết là sản phẩm; Lyons (1995): diễn ngôn có dạng nói và dạng viết, cả hai dạng này đều có ý-sản phẩm và ý-quá trình, văn bản là ý - sản phẩm của diễn ngôn viết, có nghĩa là diễn ngôn bao hàm văn bản [8, tr 202-209]. Nhiều nhà phân tích diễn ngôn sau này chủ yếu theo quan điểm của Brown & Yule (1983) và Lyons (1995) trong việc phân biệt văn bản với diễn ngôn nhưng văn bản được hiểu giản dị hơn: “mặt từ ngữ trong” trong tài liệu ngôn ngữ, và từ ngữ đó có thể được diễn đạt bằng chữ viết hoặc bằng âm thanh. Ưu thế của cách hiểu như vậy trước hết là phân biệt được sự phân tích diễn ngôn (nghĩa-logic và chức năng) với sự phân tích văn bản (từ ngữ với các nội dung gắn liền với chúng) như là hai diện khác nhau tồn tại trong một tài liệu ngôn ngữ; sau nữa là tránh được việc coi văn bản và diễn ngôn như là hai thực thể tách rời khỏi nhau mà trên thực tế không bao giờ có thể phân biệt được với nhau [8, tr. 210]. Như vậy, cách hiểu, tên gọi, sự phân biệt và cách dùng hai thuật ngữ văn bản và diễn ngôn của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã trải qua một quá trình khá dài, đến giai đoạn hiện nay đã đạt đến sự phân biệt rõ ràng: văn bản - bề mặt từ ngữ và diễn ngôn - ngữ cảnh tình huống. Nguyễn Hoà [50] cho rằng sự phân biệt văn bản và diễn ngôn chỉ là tương đối bởi trong thực tế rất khó phân biệt rạch ròi diễn ngôn và văn bản vì trong văn bản sẽ có cái diễn ngôn và trong diễn ngôn sẽ có cái văn bản. Diễn ngôn và văn bản không phải là hai thực thể tách biệt mà chỉ là một thực thể biểu hiện của ngôn ngữ
  • 21. 15 hành chức trong bối cảnh giao tiếp xã hội, do đó, việc sử dụng hai khái niệm này để thay thế cho nhau mà thực sự không có sự phân biệt rạch ròi là điều dễ hiểu. Từ những quan điểm nói trên, có thể hiểu diễn ngôn là thuật ngữ chỉ sự kiện giao tiếp (nói hoặc viết) có mục đích, thống nhất, có mạch lạc được ghi lại bằng văn bản. Cách hiểu này cho thấy rõ sự gắn bó chặt chẽ giữa văn bản và diễn ngôn. Trong luận án, chúng tôi sử dụng thuật ngữ văn bản để chỉ các sự kiện nói và viết được ghi lại bằng chữ viết, như tên gọi của văn bản ở giai đoạn đầu và theo thói quen hiện nay ở Việt Nam. Trong [8], Diệp Quang Ban đã hệ thống lại các quan niệm về văn bản của các nhà nghiên cứu như Hjelmslevf (1953), Nikolaeva, Loseva,... M.A.K Halliday và R. Hasan (1976), cho rằng: Một văn bản là một đơn vị của ngôn ngữ trong sử dụng. Nó không phải là một đơn vị ngữ pháp loại như một mệnh đề hay một câu mà nó cũng không được xác định bằng kích cỡ của nó. [Dẫn theo 8, 194-197]. Ở Việt Nam, văn bản được Trần Ngọc Thêm quan niệm: Nói một cách chung nhất thì văn bản là một hệ thống mà trong đó các câu nói mới chỉ là các phần tử. Ngoài các câu - phần tử, trong hệ thống văn bản còn có cấu trúc. Cấu trúc của văn bản chỉ ra vị trí của mỗi câu và những mối quan hệ, liên hệ của nó với những câu xung quanh nói riêng và với toàn văn bản nói chung. Sự liên kết là mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy [91, tr. 19]. Đỗ Hữu Châu định nghĩa: Văn bản là một thể hoàn chỉnh về hình thức, trọn vẹn về nội dung, thống nhất về cấu trúc và độc lập về giao tiếp, là một biến thể dạng viết liên tục của ngôn bản, thực hiện một hoặc một số đích nhất định, nhằm vào những người giao tiếp nhất định thường là không có mặt khi văn bản được sản sinh [14, tr.10] Trong luận án, sau khi tham khảo các quan điểm khác nhau, chúng tôi đưa ra định nghĩa về văn bản như sau: Văn bản là sản phẩm giao tiếp bằng ngôn ngữ được ghi lại bằng chữ viết, có cấu trúc hoàn chỉnh và truyền tải một nội dung ngữ nghĩa trọn vẹn. b. Phân tích diễn ngôn và phân tích văn bản Việc phân biệt văn bản với diễn ngôn của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ như đã trình bày trên cũng nhằm mục đích tìm ra cách tiếp cận phương pháp luận tối ưu đối với văn bản và diễn ngôn. Theo Diệp Quang ban (2009), khi nói đến phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn cũng là đề cập đến hai giai đoạn hiểu, phân biệt và sử dụng hai thuật ngữ văn bản và diễn ngôn.
  • 22. 16 Giai đoạn đầu, văn bản được hiểu như câu (dĩ nhiên lớn hơn câu) cho nên người nghiên cứu sử dụng các phương pháp cũng như các công cụ lý thuyết của câu theo quan điểm cấu trúc hình thức vào việc nghiên cứu văn bản và diễn ngôn, mặc dù tên gọi phân tích diễn ngôn đã xuất hiện. Đây chính là giai đoạn xuất hiện các tên gọi: “cú pháp văn bản”, “ngữ pháp văn bản”, “ngữ pháp liên câu”, “chỉnh thể cú pháp trên câu”. Giai đoạn sau, văn bản được hiểu như đơn vị của nghĩa không phải là đơn vị của ngữ pháp nên tên gọi diễn ngôn được sử dụng nhiều hơn và “phân tích diễn ngôn” được chọn thay thế cho “ngữ pháp văn bản”. Thuật ngữ “văn bản” vẫn được dùng khi phân tích bề mặt từ ngữ của sự kiện nói trong phân tích diễn ngôn. Việc giải thích các từ ngữ bằng mối quan hệ của chúng với tình huống vật lý và xã hội bên ngoài văn bản và ý định của người phát thuộc về diễn ngôn và là một phần quan trọng trong phân tích diễn ngôn. Trong quá trình hình thành tên gọi và xác định đối tượng, phương pháp tiếp cận của “phân tích văn bản” và “phân tích diễn ngôn”, đáng chú ý là quan điểm của Brown và Yule (1983), Guy Cook (1989) và Lyons (1995) về cách hiểu văn bản (mặt từ ngữ lý giải được có thể được diễn đạt bằng chữ viết hoặc âm thanh của một tài liệu ngôn ngữ) và diễn ngôn (nghĩa-logic và chức năng gắn liền với ngữ cảnh). Nunan phân biệt: phân tích văn bản là xem xét các đặc điểm hình thức của văn bản tách rời ngữ cảnh ngoài ngôn ngữ; phân tích diễn ngôn quan tâm tới mặt chức năng. Cách hiểu nói trên của các nhà nghiên cứu đã phân biệt được phân tích văn bản (tìm hiểu, phân tích từ ngữ với các nội dung gắn liền với chúng - văn bản là ý-sản phẩm) và phân tích diễn ngôn (nghĩa-logic và chức năng: giải thích các từ ngữ đặt trong mối quan hệ với tình huống vật lí, xã hội ngoài văn bản, mục đích của người phát - diễn ngôn là ý-quá trình, tức là phải phân tích ngôn ngữ hành chức). Như vậy, phân tích văn bản cũng là một bộ phận trong phân tích diễn ngôn. Nguyễn Hoà (2002) cũng theo quan điểm của Nunan cho rằng phân tích văn bản có thể đối lập với phân tích diễn ngôn. Tuy nhiên, Nguyễn Hoà cũng thấy rằng khó có thể có sự phân tích hình thức thuần tuý tách ra khỏi chức năng và ngược lại, nghĩa là khó có thể tách biệt phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn. Bởi, cũng giống như mối quan hệ giữa diễn ngôn và văn bản, phân tích diễn ngôn và phân tích văn bản không phải là hai bộ phận khác biệt, mà chỉ là hai mặt của ngôn ngữ hành chức trong hoàn cảnh giao tiếp xã hội. [50, tr.34]. Theo đó, phân tích văn bản sẽ bao gồm các yếu tố như liên kết, cấu trúc đề -thuyết, cấu trúc thông tin, kiểu loại diễn
  • 23. 17 ngôn; còn phân tích diễn ngôn sẽ bao gồm mạch lạc, các hành động nói, sử dụng kiến thức nền trong quá trình sản sinh và hiểu diễn ngôn, cách xử lý từ trên xuống,… Như vậy, qua hai giai đoạn của phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn, qua quan điểm của các nhà nghiên cứu thì có thể thấy phân tích văn bản và phân tích diễn ngôn có những điểm rõ ràng cần phân biệt. Nếu như phân tích văn bản chỉ phân tích bề mặt từ ngữ tách rời ngữ cảnh (hình thức ngôn ngữ) thì phân tích diễn ngôn lại nhằm làm nổi bật mối quan hệ giữa từ ngữ trong văn bản với những yếu tố ngoài văn bản (mặt sử dụng của từ ngữ). Ở đây, do cách sử dụng thuật ngữ “văn bản” ở giai đoạn đầu và theo thói quen ở Việt Nam nên mạch lạc mà chúng tôi nghiên cứu trong VBNL sẽ thuộc về vấn đề cốt yếu của phân tích diễn ngôn. 1.2.1.2. Đặc trưng của văn bản Cùng với việc đưa ra quan niệm về văn bản, các nhà nghiên cứu cũng đồng thời chỉ ra những đặc trưng của văn bản - cái quyết định tính chất "là một văn bản" của văn bản. Diệp Quang Ban đã hệ thống lại quan niệm của một số nhà nghiên cứu trên thế giới như K. Hausenblas (1966), H. Isenberg 91974), M.A.K. Halliday và R. Hasan (1994) về đặc trưng của văn bản trong [6]. Đáng chú ý là quan niệm về đặc trưng văn bản của M.A.K. Halliday và R. Hasan. Hai nhà nghiên cứu cho rằng yếu tố làm nên "chất văn bản" của một văn bản là phương diện nội tại (với hai thành tố liên kết và cấu trúc văn bản nội tại) và phương diện ngoại tại (chính là "cấu trúc vĩ mô" của diễn ngôn làm cho một văn bản thuộc về một loại riêng như hội thoại, truyện kể, trữ tình hay thư tín,...) [6, tr 64-65]. Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu như Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán, Lê A, Diệp Quang Ban,... cũng đề cập đến đặc trưng của văn bản và đều chỉ ra đặc trưng ở các phương diện cụ thể dễ nhận biết, xác định là đặc trưng về nội dung, về hình thức, về liên kết và về lượng. Trong rất nhiều công trình nghiên cứu của mình về văn bản, Diệp Quang Ban đều đề cập đến đặc trưng văn bản. Theo ông, văn bản có sáu đặc trưng như sau: Một là mục đích sử dụng văn bản. Mục đích sử dụng văn bản là mục tiêu hướng tới của văn bản, trả lời cho câu hỏi: văn bản viết nhằm để làm gì? Mục đích của văn bản có quan hệ với đề tài-chủ đề, lĩnh vực phản ánh, phương tiện truyền tải và chi phối cách cấu tạo, tổ chức văn bản theo một cách thức nhất định (phong cách chức năng). Hai là yếu tố nội dung. Yếu tố này thể hiện ở chỗ văn bản có đề tài - chủ đề xác định, thống nhất, giúp phân biệt nó với chuỗi câu không phải là văn bản.
  • 24. 18 Ba là yếu tố cấu trúc. Yếu tố cấu trúc thể hiện ở cách tổ chức nội dung và hình thức phù hợp với phong cách chức năng, thể loại và phương tiện truyền tải. Bốn là mạch lạc và liên kết. Mạch lạc là yếu tố quyết định việc tạo thành văn bản, trong đó nổi rõ lên việc tạo thành tính thống nhất đề tài-chủ đề văn bản. Mạch lạc có thể sử dụng các phương tiện liên kết, giúp cho các quan hệ ngữ nghĩa trong văn bản được thống nhất, mạch lạc, tường minh. Năm là yếu tố chỉ lượng. Văn bản thường có nhiều câu-phát ngôn, cũng có trường hợp văn bản chỉ có một câu. Sáu là yếu tố định biên. Văn bản có biên giới đầu vào (phía trái) và biên giới đầu ra (bên phải), tạo nên tính trọn vẹn tương đối cho văn bản. Trong quá trình tìm hiểu, phân tích đặc trưng văn bản của các nhà nghiên cứu, chúng tôi cho rằng quan niệm của Diệp Quang Ban về đặc trưng của văn bản là dễ tiếp cận hơn cả. Sáu đặc trưng trên của văn bản giúp chúng ta xem xét, phân tích một cách cụ thể, đa diện để xác định được một chuỗi câu nào đó có phải là văn bản hay không, trong đó, yếu tố mạch lạc (đặc trưng thứ tư) được coi là đặc trưng quan trọng, quyết định chất văn bản của một văn bản. 1.2.1.3. Đề tài-chủ đề và kết cấu của văn bản a. Đề tài-chủ đề của văn bản Theo Diệp Quang Ban, tên gọi đề tài và chủ đề trong ngôn ngữ học văn bản không hoàn toàn trùng khớp với khái niệm chủ đề trong nghiên cứu văn học [6, tr.114]. Đề tài của văn bản là phạm vi nội dung hiện thực được đề cập tới trong văn bản đó. Có thể xác định đề tài văn bản bằng cách đặt và trả lời câu hỏi: Văn bản viết về vấn đề gì? Hoặc có thể xác định bằng cách dựa vào một số yếu tố khác trong văn bản như tên văn bản, các từ ngữ được lặp đi lặp lại trong văn bản, các từ ngữ đồng nghĩa, những đại từ được dùng để thay thế, những từ ngữ tạo thành một hệ thống dựa trên cơ sở liên tưởng nào đó, hay hiện tượng tỉnh lược. Chủ đề của văn bản được hiểu là hiện thực được nói tới, thể hiện "ý đồ của người viết hay đích hướng tới của văn bản " [93, tr.38]. Hay "chủ đề là hiện thực được nói tới trong hoàn cảnh giao tiếp được phản ánh vào văn bản theo mục đích, một hướng nào đó mà người viết đặt ra" [14, tr.18]. Theo Đỗ Hữu Châu, chủ đề văn bản được coi là sợi chỉ đỏ, là hạt nhân ngữ nghĩa xâu chuỗi các câu tạo thành một mạng lưới. Chủ đề văn bản là hệ quy chiếu lớn cho toàn bộ các thành tố ở các cấp độ khác nhau trong văn bản như câu, đoạn, mục, chương, phần, tập,... chụm lại với nhau [14,
  • 25. 19 tr.19]. Như vậy, hiểu một cách khái quát, chủ đề là ý đồ, là quan điểm được bộc lộ qua cách xử lí đề tài trong văn bản của tác giả. Một văn bản có thể có một chủ đề chung và có nhiều chủ đề bộ phận. Chủ đề bộ phận là chủ đề các chương, mục,... và cấp độ chứa chủ đề bộ phận nhỏ nhất là đoạn văn (còn gọi là tiểu chủ đề). Vai trò quan trọng của chủ đề khiến cho chúng ta khi tạo lập hay tiếp nhận văn bản đều cần phải xác định rõ chủ đề của nó. Việc xác định chủ đề văn bản có thể dựa vào từ khóa và hệ thống luận điểm được thể hiện ở hệ thống câu chủ đề của văn bản, nghĩa là có thể xác định chủ đề văn bản qua kết cấu (cấu trúc) của văn bản đó. Theo O.I.Moskal'skaja, sự thống nhất chủ đề của văn bản thường thể hiện ở tính truy hồi (tính lặp lại thường xuyên) của các từ khóa có liên quan đến chủ đề. Đó có thể là sự lặp lại nguyên văn của các từ khóa hoặc là việc sử dụng các từ gần về chủ đề và các từ đồng nghĩa. Sự thống nhất chủ đề được đảm bảo bởi sự đồng nhất về quy chiếu của các từ tương ứng [68; tr. 30-31] và kết cấu có chức năng bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm [39, tr. 44]. Mỗi kiểu loại văn bản lại có kết cấu riêng (còn có kết cấu cụ thể cho mỗi tiểu loại như: hịch, cáo, chiếu, bình luận, lời kêu gọi,... trong VBNL; tờ trình, hợp đồng, đơn từ,... trong văn bản hành chính; thơ, kịch, kí, tiểu thuyết,... trong văn bản văn chương,...), phù hợp với đặc trưng thể loại, do đó, cách thể hiện chủ đề văn bản giữa các thể loại cũng không giống nhau. Có loại văn bản yêu cầu chủ đề của nó phải tường minh (VBNL, văn bản khoa học, văn bản hành chính) nhưng có loại văn bản chủ đề của nó có thể tường minh, có thể hàm ẩn (văn bản nghệ thuật). Chẳng hạn văn bản khoa học thể hiện chủ đề qua mục đích nghiên cứu ở phần mở đầu, VBNL thể hiện chủ đề qua phần nêu luận đề (phần mở) và phần kết luận. Các luận điểm ở các cấp độ khác nhau chính là các chủ đề bộ phận. Có thể xác định chủ đề của văn bản thông qua kết cấu thể loại văn bản, qua hệ thống luận điểm, hệ thống câu chủ đề trong văn bản. Đề tài và chủ đề văn bản là hai khái niệm khác nhau, ở đây, luận án ghép hai tên gọi này (đề tài-chủ đề) để thuận tiện cho việc sử dụng. Trong một văn bản nếu các câu, các đoạn, các mục, các chương, các phần đều có sự thống nhất về đề tài-chủ đề thì văn bản đó mạch lạc. Đồng thời, việc sử dụng các phép liên kết hợp lí giữa các câu trong văn bản cũng có tác dụng tạo sự thống nhất đề tài-chủ đề của văn bản. 1.2.1.4. Kết cấu của văn bản Kết cấu (cấu trúc) của văn bản được hiểu là sự tổ chức, sắp xếp các phần, các thành tố nội dung ở các cấp độ khác nhau (các luận điểm lớn nhỏ) trong văn bản để tạo
  • 26. 20 thành một thể thống nhất, hợp lí, mạch lạc theo một ý đồ nào đó để thể hiện chủ đề và nội dung văn bản. Kết cấu của mỗi văn bản cho thấy vị trí, ý nghĩa và mối quan hệ của các phần (các luận điểm ở các cấp độ khác nhau) trong việc thể hiện chủ đề, nội dung văn bản. "Nếu tìm được một bản bố cục thỏa đáng thì công việc sẽ trôi chảy như trượt trên băng" (Dẫn theo [12, tr. 158]). Nếu một văn bản mà các phần trong đó lộn xộn, không logic thì văn bản đó sẽ mất đi tính mạch lạc. Các nhà ngữ pháp văn bản và phân tích diễn ngôn đều thừa nhận kết cấu bao hàm sự hiện diện của các yếu tố phát triển nội dung có vai trò quan trọng trong việc tạo mạch lạc cho văn bản. T.A. Van Dijk cho rằng trong mỗi diễn ngôn chứa một cấu trúc vĩ mô (cấu trúc ngữ nghĩa tổng thể) thể hiện ngữ nghĩa của diễn ngôn và cấu trúc ngữ nghĩa của một diễn ngôn được tổ chức phân cấp ở nhiều cấp độ phân tích. Cấu trúc vĩ mô của một diễn ngôn chi phối, kéo theo các cấu trúc vĩ mô khác chi phối toàn bộ diễn ngôn và chính cấu trúc vĩ mô quyết định tính mạch lạc tổng thể của một diễn ngôn. O.I.Moskal'skaja (1981) nhấn mạnh vai trò của nó trong việc khu biệt văn bản với chuỗi câu không phải là văn bản: "Thật vậy, trước hết, nó (kết cấu) được sử dụng trong lí thuyết chung về văn bản, lí thuyết này đã đưa ra dấu hiệu tính định hình kết cấu như một trong những tiêu chí khu biệt văn bản với những chuỗi câu ngẫu nhiên không tạo thành văn bản: trong khi văn bản có một kết cấu nhất định thì chuỗi câu ngẫu nhiên không được định hình về mặt kết cấu [68, tr. 113]. O.I.Moskal'skaja còn cho rằng tất cả những văn bản cực ngắn như ghi chép niên biểu, thông báo thời tiết,... cũng được trình bày về mặt kết cấu. Dưới góc độ kết cấu, chúng được tổ chức bởi sự có mặt của đầu đề. Đỗ Hữu Châu cũng khẳng định: chính kết cấu của văn bản đảm bảo tính liên kết, tính thống nhất, tính hoàn chỉnh cho nội dung. Tất cả sự phức tạp của vấn đề trình bày nhờ được triển khai theo một kết cấu nhất định mà trở nên rõ ràng, rành mạch [14, tr.81]. Như vậy chính kết cấu là một yếu tố để tạo mạch lạc trong sự thống nhất đề tài-chủ đề văn bản. Hiểu cách khác, kết cấu là một yếu tố soi chiếu xem một văn bản nào đó có mạch lạc hay không. Kiểu kết cấu của văn bản nào đó phụ thuộc vào đặc trưng thể loại của nó. Tuy mỗi loại văn bản có kết cấu riêng nhưng nhìn chung, các loại văn bản thường có kết cấu theo trình tự: (1) tên văn bản (tiêu đề), (2) phần mở đầu , (3) phần triển khai, (4) phần kết luận. Có những văn bản bắt buộc phải tuân theo khuôn mẫu nhất định với yêu cầu cụ thể của từng tiểu loại như văn bản hành chính, một số tiểu loại của văn bản khoa học.
  • 27. 21 Để thể hiện kết cấu văn bản nhằm tạo sự thống nhất đề tài-chủ đề, đảm bảo quan hệ nghĩa và logic, có hai kiểu quan hệ đặc trưng cho kết cấu là kết cấu chuỗi và kết cấu song song. Tùy thuộc vào nội dung, mục đích mà người tạo lập có thể lựa chọn kiểu kết cấu và thủ pháp phù hợp. Hai kiểu kết cấu này có thể sử dụng để cấu tạo đoạn văn hoặc toàn bộ văn bản. Một là kết cấu chuỗi: là kiểu kết cấu mà các yếu tố có quan hệ ngữ nghĩa và logic được thể hiện nối tiếp liên tục, yếu tố trước tạo tiền đề xuất hiện cho yếu tố sau,... cứ tiếp nối quan hệ như vậy cho đến hết. Trong loại kết cấu này, các yếu tố được xâu chuỗi với nhau, nội dung được phát triển theo một đường thẳng. Kết cấu chuỗi thường dùng một số thủ pháp sau: liệt kê (liệt kê thông thường: các sự kiện đưa ra liên tục, nối tiếp nhau; liệt kê tích lũy: liệt kê liên tục, chồng chất thêm sự kiện nhằm nhấn mạnh hoặc phức tạp hóa một sự kiện nào đó), móc xích (sắp xếp các sự kiện thành một chuỗi liên tục, sự kiện trước là tiền đề, nguyên nhân, sự kiện sau là kết quả, các yếu tố đứng sau tiếp tục làm nhiệm vụ mở rộng và phát triển thêm), hỏi đáp (triển khai toàn bộ nội dung dưới dạng những câu hỏi và câu trả lời), lập luận ba đoạn (từ đại tiền đề và tiểu tiền đề suy ra kết luận phù hợp). Các thủ pháp trên giúp cho việc triển khai đề tài-chủ đề được liên tục, thống nhất. Các thủ pháp này có thể được dùng kết hợp, đan xen nhau để cùng thể hiện kết cấu chuỗi. Hai là kết cấu song song: là thủ pháp kết cấu trong đó các yếu tố có quan hệ nghĩa và logic được thể hiện trong sự đối chiếu, phát triển song song với nhau, có sự móc nối, chồng chéo các nội dung. Cơ sở logic của kết cấu song song là sự đối chiếu giữa các khái niệm. Kết cấu song song thường dùng một số thủ pháp: song hành (triển khai các sự kiện, tính chất,... trong sự đối chiếu, thường sử dụng cách lặp từ ngữ hoặc cấu trúc để làm nổi bật chủ đề, có song hành diễn dịch, song hành quy nạp và song hành đơn thuần), tương phản (chứa ý nghĩa đối lập tương phản, thường sử dụng từ ngữ có nghĩa tương phản, thủ pháp này được dùng để xây dựng kết cấu một đoạn văn, một phần văn bản hoặc cả văn bản), sóng đôi (đối chiếu liên tục hai đối tượng trong suốt đoạn văn hay văn bản) 1.2.1.5. Lập luận trong văn bản a. Khái niệm lập luận Theo Đỗ Hữu Châu, lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói muốn đạt tới. [23, tr. 155] Diệp Quang Ban cho rằng: Trong việc trình bày các ý kiến, người ta có thể từ ý kiến này rút ra ý kiến khác bằng những suy lý. Việc đưa ra những luận cứ (căn cứ để
  • 28. 22 lập luận) nhằm đạt đến một kết luận nào đó (mang tính thuyết phục) được gọi là lập luận. [12, tr. 321] Nguyễn Đức Dân quan niệm: Lập luận là một hành động ngôn từ. Bằng công cụ ngôn ngữ, người ta đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một hệ thống xác tín nào đó: rút ra một (/một số) kết luận hay chấp nhận một (/một số) kết luận nào đó. [30, tr.165] Dù có những cách định nghĩa khác nhau nhưng có thể hiểu lập luận cách đưa ra luận cứ (lí lẽ và dẫn chứng) nhằm dẫn dắt người nghe/ người đọc đến một kết luận nào đó mà người nói/ người viết muốn đạt tới một cách thuyết phục nhất. b. Các thành phần của lập luận Trong một lập luận, có ba bộ phận là luận cứ, kết luận và quan hệ lập luận. Luận cứ là những căn cứ (tiền đề, cơ sở) được dùng làm chỗ dựa cho một mệnh đề hay một lí thuyết (giữ vai trò kết luận) hoặc dùng để phản bác lại mệnh đề hay lí thuyết đó. Luận cứ gồm hai loại là lí lẽ (điều suy luận hay một luận điểm, một nguyên tắc đã được chứng minh) và dẫn chứng (chứng cứ, bằng chứng, vật chứng). Trong một lập luận, luận cứ đưa ra phải cụ thể, chính xác, có độ tin cậy cao và phải được phân tích, dẫn dắt bằng lời lẽ rõ ràng, mạch lạc, logic. Có như vậy kết luận rút ra mới mang sức thuyết phục. Kết luận là mệnh đề hay lí thuyết được chứng minh bằng các luận cứ. Trong các bài thuộc kiểu văn nghị luận (như trong khoa học xã hội và nhân văn), cái tương đương kết luận còn được gọi là luận đề và được hiểu là mệnh đề hay lí thuyết cụ thể mà người ta lấy làm đúng và người ta đưa ra để bảo vệ nó bằng các luận cứ. Nói cách khác, luận đề là ý kiến, lí thuyết đúng và được đưa ra làm đề tài bàn luận, chứng minh bằng luận cứ [12, tr. 323]. Theo đó, trong VBNL, tên gọi luận đề đặt ở đầu lập luận (phần mở của văn bản là phần nêu luận đề) và kết luận đặt ở cuối lập luận (phần kết của văn bản là kết luận). Quan hệ lập luận được hiểu là quan hệ giữa luận cứ với kết luận. Một kết luận đúng, mang tính thuyết phục phải dựa trên những luận cứ đúng và được rút ra bằng những quan hệ lập luận đúng. Ngoài quan hệ giữa luận cứ với kết luận, còn có quan hệ giữa luận cứ với luận cứ (trong trường hợp một lập luận có nhiều luận cứ). Nếu gọi p, q là các luận cứ, r là kết luận thì có mô hình sau: p, q - > r Một lập luận đúng, giàu sức thuyết phục thì các luận cứ (p, q) phải được xác lập đủ, đúng, được sắp xếp logic để phục vụ cho kết luận (r), hơn nữa các thành phần trong lập luận phải có quan hệ hợp lí, phản ánh đúng vai trò của chúng trong lập luận, nếu không lập luận đó không mang sức thuyết phục và dĩ nhiên không có giá trị.
  • 29. 23 c. Các kiểu lập luận Lập luận có thể phân loại dựa vào các tiêu chí sau: * Căn cứ vào độ phức tạp trong lập luận, có thể chia thành lập luận đơn và lập luận phức. Về lập luận đơn, Đỗ Hữu Châu quan niệm lập luận đơn là lập luận chỉ có một kết luận, các thành phần còn lại đều là luận cứ [23, tr. 162]. Diệp Quang Ban lại cho rằng lập luận giản đơn (lập luận trực tiếp) là lập luận trong đó chỉ có một luận cứ hay có một số luận cứ đồng hạng với nhau (không phân biệt lớn hay nhỏ) và một kết luận. [8, tr. 324]. Trong lập luận giản đơn chỉ có một kết luận, có thể có hai hoặc hơn hai luận cứ. Các luận cứ có thể có quan hệ đồng hướng hoặc nghịch hướng với nhau. Luận cứ đồng hướng được hiểu là các luận cứ cùng hướng đến và chấp nhận một kết luận. Luận cứ nghịch hướng được hiểu là trong một lập luận có một/hơn một luận cứ hướng đến và chấp nhận kết luận, còn luận cứ kia hướng đến phía không chấp nhận kết luận, các luận cứ này nghịch hướng nhau trong quan hệ với kết luận. Lập luận phức là loại lập luận ngược lại với lập luận đơn. Đây là loại lập luận không phải chỉ có một kết luận mà có thể có một hoặc một số kết luận (r) được rút ra trực tiếp từ luận cứ, và có một kết lớn (R) được rút ra từ (r). Đỗ Hữu Châu đã mô hình hóa lập luận phức dưới hai dạng chính như sau: Dạng 1: p1, q1 -> r1 -> r2 - > r3,...rn -> R Ở dạng này p, q là luận cứ để rút ra kết luận (r1); r1 lại trở thành luận cứ để rút ra kết luận r2; r2 lại là luận cứ để rút ra kết luận r3,..., cứ thể tiếp nối cho đến khi có kết luận chung tổng thể R. Dạng 2: p1, q1 - > r1 p2, q2 -> r2 p3, q3 -> r3 R .... Pn, qn -> rn Trong mô hình dạng 2, R là kết luận chung, r1, r2, r3.... rn là những kết luận bộ phận được rút ra từ các luận cứ (p, q) tương ứng. Mô hình dạng này là một lập luận lớn có các lập luận bộ phận nhỏ hơn, mỗi lập luận nhỏ đóng vai trò là một luận cứ để đi đến kết luận lớn chung (R). Diệp Quang Ban trong phân loại lập luận đã đối lập lập luận giản đơn (lập luận trực tiếp) với lập luận phức tạp (lập luận gián tiếp) và theo đó, ông quan niệm về lập luận phức hẹp hơn, nó là lập luận trong đó có hai luận cứ không ngang nhau về tính khái quát: một luận cứ chỉ cái chung làm tiền đề lớn thường gọi là đại tiền đề, một luận cứ chỉ cái
  • 30. 24 riêng làm tiền đề nhỏ thường được gọi là tiểu tiền đề và một kết luận (về cái riêng) [8, tr. 325]. Theo Diệp Quang Ban, lập luận phức chính là tam đoạn luận, trong tam đoạn luận, các luận cứ làm tiền đề phải có căn cứ thuyết phục được chứng minh theo logic hoặc theo quy luật tự nhiên hoặc là những lẽ thường (topos - những tín điều, tập tục có quan hệ đến văn hóa của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử nào đó). Tam đoạn luận điển hình thường được dẫn trong các sách viết về logic là tam đoạn luận sau đây: Đại tiền đề: Tất cả mọi người đều phải chết. Tiểu tiền đề: Socratre là người. Kết luận: Socratre phải chết. * Căn cứ theo vị trí của các thành phần lập luận có thể chia thành: lập luận diễn dịch, lập luận quy nạp, lập luận phối hợp diễn dịch-quy nạp Lập luận diễn dịch là lập luận theo phương pháp suy lí đi từ nguyên lí chung đến kết luận riêng bằng cách minh chứng những luận cứ cụ thể, có nghĩa là trong loại lập luận này, kết luận (r) sẽ đứng trước và luận cứ (p), (q) sẽ được trình bày sau. Lập luận này có mô hình: r - p, q [9]: Thời gian là tri thức. Phải thường xuyên học tập thì mới giỏi. Học ngoại ngữ mà bữa đực, bữa cái, thiếu kiên trì thì học mấy cũng không giỏi được. [123, tập 2, tr.37] Trong lập luận này, câu (1) là kết luận, các câu (2) và (3) là luận cứ. Như vậy hai thành phần của lập luận trong ví dụ trên được sắp xếp theo trình tự: r - p1, p2. Và như vậy, lập luận này được tổ chức theo lối diễn dịch. Lập luận quy nạp là lập luận theo phương pháp suy lí đi từ những hiện tượng riêng, cụ thể đến nguyên lí, kết luận chung khái quát. Theo phương pháp suy lý này thì các thành phần của lập luận sẽ có trình tự là luận cứ (p, q) đứng trước và kết luận (r) ở vị trí cuối cùng trong lập luận. Lập luận quy nạp có mô hình như sau: p1 p2 p3 r .... pn Theo Diệp Quang Ban, cách trình bày lập luận theo phương pháp diễn dịch và quy nạp trong suy lí trực tiếp (trong lập luận giản đơn) khác với trong suy lí gián tiếp (lập luận phức tạp - tam đoạn luận). Tam đoạn luận dù trình bày theo cách nào về bản chất vẫn là lập luận diễn dịch.
  • 31. 25 Lập luận phối hợp diễn dịch-quy nạp: là kiểu lập luận mà việc trình bày các luận cứ và kết luận là sự kết hợp của hai kiểu lập luận diễn dịch và lập luận quy nạp. Hai thành phần của lập luận được sắp xếp theo mô hình như sau: p1 p2 r1 p3 r2 .... pn * Căn cứ vào sự có mặt hay vắng mặt của các thành phần lập luận, có thể chia thành lập luận tường minh và lập luận hàm ẩn. Lập luận tường minh là lập luận mà các thành phần của lập luận đều xuất hiện đầy đủ trên bề mặt lập luận. Kết luận được suy ra trực tiếp từ các luận cứ có mặt trong lập luận đó. Lập luận kiểu này có mô hình sau: p1 p2 p3 r ... pn Lập luận hàm ẩn là trong lập luận thiếu vắng một hay một số luận cứ hoặc kết luận trên bề mặt lập luận. Các luận cứ hay kết luận vắng mặt phải được người tiếp nhận tự suy ra. Trong giao tiếp, có ý nghĩa hàm ẩn tự nhiên và ý nghĩa hàm ẩn cố ý (không tự nhiên). Ý nghĩa hàm ẩn cố ý được tạo ra nhờ các nguyên tắc, trong đó có sự vi phạm các nguyên tắc lập luận, tức là trong một lập luận thông thường, phải xuất hiện đầy đủ cả hai thành phần là luận cứ và kết luận, khi cố ý làm vắng mặt một trong hai thành phần của lập luận là người nói, người viết đã cố ý tạo nghĩa hàm ẩn. Khi làm vắng mặt luận cứ hoặc kết luận, người nói, người viết bao giờ cũng có lí do: không muốn nói trực tiếp, tường minh một nội dung nào đó do lịch sự, ý nhị; hoặc do ngại ngần; hoặc do khiêm tốn; hoặc do muốn người tiếp nhận tự rút ra kết luận sau khi đã chiêm nghiệm,... Có thể hình dung mô hình lập luận hàm ẩn như sau: p1 p2---- p3 ---- r ......
  • 32. 26 pn (Đường gạch đứt biểu thị luận cứ hàm ẩn) Các luận cứ (p1), (p2),…,(pn) và kết luận (r) có thể vắng mặt trên bề mặt lập luận. Trong diễn ngôn nói chung và các lập luận nói riêng, lập luận hàm ẩn được sử dụng nhằm muốn người nghe tự suy nghĩ, tự tìm ra luận cứ vắng mặt hoặc tự rút ra kết luận mà người nói, người viết muốn hướng tới và trong những trường hợp cụ thể nó còn nhằm tăng sức hấp dẫn, thuyết phục cho diễn ngôn. d. Tác tử, kết tử lập luận và các yếu tố có giá trị lập luận khác Trong một lập luận, ngoài những luận cứ xác đáng, tin cậy, ngoài quan hệ lập luận logic, chặt chẽ thì một số yếu tố khác cũng có vai trò quan trọng tạo nên sức thuyết phục cho lập luận. Đó chính là tác tử, kết tử lập luận, các yếu tố miêu tả được lựa chọn, các từ ngữ xưng hô, các biện pháp tu từ và các từ đồng nghĩa,... * Tác tử lập luận Theo Đỗ Hữu Châu, tác tử lập luận là một yếu tố khi được đưa vào nội dung miêu tả nào đấy sẽ làm thay đổi tiềm năng lập luận của nó, độc lập với thông tin miêu tả vốn có của nó [23, tr. 180]. Nguyễn Đức Dân cũng quan niệm: Tác tử lập luận là những yếu tố tác động vào một phát ngôn sẽ tạo ra một định hướng nghĩa tạo nên tiềm năng lập luận của phát ngôn. [30, tr. 176] Như vậy, theo cách hiểu của Đỗ Hữu Châu và Nguyễn Đức Dân thì tác tử lập luận được thể hiện bằng các phụ từ như: đã, mới, vừa, cặp phụ từ: đã…rồi, vừa...đã mới….thôi,… và các tiểu từ tình thái như: những, chỉ,... * Kết tử lập luận Trong một lập luận, giữa các luận cứ và kết luận thường có các từ ngữ làm nhiệm vụ liên kết và chỉ ra mối quan hệ giữa chúng. Những từ ngữ làm nhiệm vụ này gọi là các kết tử lập luận. Theo Đỗ Hữu Châu, kết tử lập luận là các yếu tố (như các liên từ đẳng lập, liên từ phụ thuộc, các trạng từ và các trạng ngữ…) phối hợp hai hay một số phát ngôn thành một lập luận duy nhất. Nhờ kết tử mà các phát ngôn trở thành luận cứ hay kết luận của một lập luận [23, tr. 184]. Nguyễn Đức Dân cho rằng: Kết tử lập luận là yếu tố tác động vào một hay nhiều phát ngôn để làm thành một lập luận. Kết tử liên kết luận cứ với kết luận [30, tr.177]. Nói cách khác, kết tử lập luận là yếu tố liên kết tiền đề với kết đề trong một lập luận. Kết tử lập luận sử dụng các kết từ/ cặp kết từ: nhưng, mà, và, rồi, còn, hay, hoặc…; vì (do/ tại/ bởi/ nhờ,….)….nên (mà), nếu (hễ/ giá/ miễn…)…thì, tuy (dù/ mặc dù/ dẫu,…)….nhưng, đến (mà) (cũng) còn…nữa là,... Nguyễn Đức Dân cho rằng
  • 33. 27 những từ tình thái thể hiện độ tin cậy, sự chắc chắn như tất nhiên, chắc chắn, đương nhiên, nhất định, thế nào cũng,... cũng là các kết tử lập luận. Trong lập luận, kết tử lập luận có vai trò quan trọng trong việc chỉ ra quan hệ giữa các luận cứ (p, q) với kết luận (r), nhất là đối với những luận cứ ngược hướng. Sự xuất hiện của các kết tử lập luận trong những quan hệ lập luận này là bắt buộc để chỉ ra quan hệ giữa p, q với kết luận chung (R), để khẳng định p hay q có hiệu lực lập luận đối với việc rút ra R. Kết tử lập luận có kết tử hai vị trí và kết tử ba vị trí. Kết tử hai vị trí là những kết tử chỉ cần hai phát ngôn là đủ lập thành một lập luận, không nhất thiết phải có thêm một phát ngôn luận cứ thứ ba (mặc dù vẫn có thêm vào một hoặc một số phát ngôn - câu, tức là luận cứ bổ sung đồng hướng). Kết tử ba vị trí là kết tử đòi hỏi phải có ba phát ngôn mới có thể tạo nên một lập luận. Các kết tử nghịch hướng nhưng, song, tuy nhiên, mà...và các kết tử đồng hướng và, vả lại, hơn nữa, thêm vào đó,... là những kết tử ba vị trí. Khi nó xuất hiện, nhất thiết phải có ba phát ngôn trong lập luận. * Các yếu tố có giá trị lập luận khác Theo Đỗ Hữu Châu, ngoài các tác tử và kết tử lập luận thì trong lập luận còn có các yếu tố khác có tác dụng chỉ dẫn lập luận. Các yếu tố này được hiểu là những yếu tố có hiệu lực thay đổi giá trị lập luận của các nội dung miêu tả sử dụng chúng làm cái biểu đạt. Các phương tiện thường được dùng là: các yếu tố của hiện thực được lựa chọn tạo thành nội dung miêu tả, những thực từ được dùng để miêu tả và cách tổ chức sắp xếp nội dung miêu tả. Ngoài ra, các từ đồng nghĩa, cách dùng từ xưng hô, các biện pháp tu từ cũng có thể đóng vai trò dấu hiệu giá trị lập luận trong các lập luận. [23, tr. 184] e. Lập luận và logic Trong lập luận, tam đoạn luận là cấu trúc điển hình của lập luận diễn dịch logic. Tam đoạn luận gồm một đại tiền đề, một tiểu tiền đề và một kết luận suy ra từ hai tiền đề trên. Tính đúng sai của kết luận trong tam đoạn luận logic do tính đúng sai của các tiền đề quyết định. Một kết luận logic chỉ có hai khả năng: hoặc đúng hoặc sai, đúng hay sai không thể bác bỏ có nghĩa là nếu kết luận logic đã đúng thì không thể lập luận hoặc chứng minh rằng nó sai và ngược lại, nếu nó đã sai thì không thể chứng minh rằng nó đúng. Tam đoạn luận đời thường không như vậy. Đại tiền đề không phải là một chân lí khách quan, khoa học mà là một lẽ thường, là những chân lí thông thường có tính kinh nghiệm, không có tính tất yếu, bắt buộc như các tiền đề logic [23, tr. 187]. Lẽ thường có tính khái quát, có tính thang độ và tính chất chung. Chẳng hạn đại tiền đề: Hàng hoá càng rẻ thì càng nên mua có thể bị phủ định bởi một đại tiền đề khác: “Của