SlideShare a Scribd company logo
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN KHOA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 62 22 03 15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. ĐOÀN MINH HUẤN
2. PGS.TS. TRẦN TRỌNG THƠ
HÀ NỘI – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, chính
xác, đảm bảo khách quan, khoa học, có nguồn gốc xuất xứ rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Khoa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 6
1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án 6
1.2. Đánh giá kết quả các công trình đã được công bố và những vấn
đề luận án tập trung làm rõ 23
Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ
PHÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 26
2.1. Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp (2001- 2005) 26
2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ
tư pháp (2001 - 2005) 41
Chương 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ
PHÁP TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2011 64
3.1. Những nhân tố tác động và chủ trương của Đảng về xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp (2005 - 2011) 64
3.2 Quá trình chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
(2005 - 2011) 75
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 99
4.1. Nhận xét quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp từ năm 2001 đến năm 2011 99
4.2. Một số kinh nghiệm 124
KẾT LUẬN 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 171
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất kỳ hình thức tổ chức bộ máy nhà nước nào, dù theo chế độ phân
quyền hay tập quyền, thì tư pháp vẫn được coi là một bộ phận cấu thành quyền
lực công, thể hiện quyền uy của Nhà nước đối với xã hội cũng như năng lực bảo
vệ công lý. V.I.Lênin đã từng khẳng định: Một nền tư pháp tồi, xã hội sẽ phải trả
một giá đắt. Luận điểm này cho thấy, công tác tư pháp luôn giữ vai trò quan
trọng trong các phương diện hoạt động của Nhà nước. Trong Thư gửi Hội nghị
Tư pháp toàn quốc lần thứ IV vào tháng 2 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng đã khẳng định: “Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính quyền góp
phần mình thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của nhân dân,
bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Đồng thời, ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu,
phá hoại chế độ, phá hoại lợi ích của nhân dân” [8, tr.10]. Công tác tư pháp trong
tiến trình cách mạng Việt Nam đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc. Bước vào công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, công tác tư
pháp càng được coi trọng, nó phản ánh tính dân chủ và pháp quyền, là công cụ
xây dựng một thể chế chính trị trong sạch, vững mạnh, dân chủ, bảo vệ công lý
và các quyền con người trong thế giới văn minh. Tuy nhiên chất lượng công tác
tư pháp chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường
hợp bỏ lọt tội phạm, còn án oan, án sai, vi phạm các quyền con người, quyền
công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và nền
pháp trị. Những thành tựu cũng như những hạn chế trong lĩnh vực tư pháp đều
lên quan đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn quan tâm đến công tác cán bộ, trong đó chú trọng đến công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh. Đội ngũ cán bộ tư pháp đã có
bước phát triển mới về chất lượng và số lượng, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp đổi mới, song vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
của đời sống xã hội. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
2
Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về “Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020”, nhận định: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ
nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí một số
cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp” [50, tr.1]. Bên
cạnh đó, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học vào nghiên cứu luật pháp quốc tế
phục vụ cho hoạt động xét xử của đội ngũ cán bộ tư pháp cũng còn hạn chế.Từ
đó dẫn tới tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử, xâm phạm và làm
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nhiều vấn đề liên quan
đến xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài, sỡ hữu trí tuệ, thương mại quốc tế,
các loại tội phạm hình sự xuyên quốc gia còn bất cập, khả năng sử dụng ngoại
ngữ, tin học vào nghiên cứu luật pháp quốc tế phục vụ cho hoạt động xét xử đối
với đội ngũ cán bộ tư pháp còn hạn chế. Đó là chưa kể yêu cầu xây dựng đạo
đức nghề nghiệp tư pháp cũng rất đặc thù, ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, đạo đức
của Đảng cầm quyền. Thực tế cho thấy, nếu như tham nhũng trong các lĩnh vực
lập pháp, hành pháp gây nhức nhối trong xã hội thì tham nhũng trong lĩnh vực tư
pháp thường bị đánh giá thiếu đạo đức hơn nhiều lần, do nó làm thay đổi cán cân
công lý, đụng chạm đến những quyền tư pháp của con người. Nghiên cứu nội
dung Đảng lãnh đạo công tác tư pháp, trong đó có lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp làm sâu sắc thêm vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với
công cuộc đổi mới nói chung cũng như trong lĩnh vực tư pháp, trong xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp phục vụ công cuộc đổi mới.
Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, việc xây dựng được một đội
ngũ cán bộ tư pháp có trình độ, có năng lực toàn diện và phẩm chất tốt để giải
quyết tốt những yêu cầu xét xử do công cuộc cải cách tư pháp trong thời kỳ hội
nhập quốc tế là một yêu cầu bức thiết. Đến nay, vẫn còn thiếu những nghiên cứu
khoa học làm cơ sở cho những giải pháp thực sự rõ ràng, đồng bộ, hiệu quả để
thực hiện cải cách tư pháp. Đặc biệt với cơ chế quản lý cán bộ theo các ngành
hiện nay, bảo đảm đồng bộ hóa về chất lượng cán bộ tư pháp là điều rất khó
thực hiện. Trong khi đó, nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, trước hết và đột
3
phá phải bắt đầu từ nâng cao chất lượng cán bộ tư pháp. Muốn thực hiện đạt kết
quả tốt nhất, rất cần phải nghiên cứu có hệ thống quá trình Đảng lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp để có một cách nhìn toàn diện về thành công, hạn
chế, đúc kết những kinh nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn hiện nay.
Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ
tư pháp có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng trong quá trình nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Chính vì
vậy, tác giả chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến
sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Làm sáng rõ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội
ngũ cán bộ tư pháp, đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng đội
ngũ cán bộ tư pháp trong công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Làm rõ yêu cầu khách quan và những yếu tố tác động đến quá trình Đảng
lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011.
- Phân tích, luận giải, làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp qua hai giai đoạn: 2001-2005 và 2005- 2011.
- Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân từ quá trình Đảng lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn 2001-2011
- Đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án tập trung nghiên cứu tiến trình, chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến
năm 2011.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quan điểm, chủ trương và sự
chỉ đạo của Đảng về các mặt công tác đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn, bổ nhiệm;
chính sách đối với cán bộ tư pháp; kết quả và tác động của công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ đối với nền tư pháp cũng như với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Nội hàm cán bộ tư pháp bao gồm nhiều đối tượng, luận án tiếp cận đối
tượng cán bộ tư pháp là thẩm phán trong cơ quan Toà án và kiểm sát viên trong
cơ quan Viện kiểm sát.
- Về thời gian: Nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011. Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh sử dụng một số tư liệu liên quan
trước năm 2001 và sau năm 2011.
- Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi cả nước, song, tập trung khảo
sát một số cơ quan đơn vị liên quan trực tiếp đến công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp ở Trung ương và một số địa phương.
4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng về tư pháp gắn với xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, về cán bộ và công tác cán bộ.
4.2. Nguồn tư liệu nghiên cứu
- Luận án khai thác một số tác phẩm kinh điển của C.Mác và V.I. Lênin;
đặc biệt các tác phẩm của Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước về
tư pháp và cán bộ tư pháp.
- Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI
của Đảng Cộng sản Việt Nam; các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương; các Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung
ương Đảng về công tác tư pháp và cải cách tư pháp; một số bộ luật, luật, pháp
lệnh, chỉ thị của Nhà nước và Chính phủ về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.
5
- Các kế hoạch, chương trình hành động; các đề án cụ thể; báo cáo tổng kết
của các cơ quan tư pháp như Toà án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Tư pháp và của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, những
tổng kết của các cơ sở đào tạo cán bộ tư pháp.
- Các sách tham khảo, chuyên khảo, luận án, luận văn, hội thảo, kỷ yếu, đề
tài khoa học, các bài báo trên các tạp chí nghiên cứu đã công bố liên quan đến
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị giúp việc
hoàn thành các nội dung nghiên cứu của luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc và kết
hợp chặt chẽ hai phương pháp đó. Đồng thời còn sử dụng một số phương pháp
phổ dụng khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... nhằm sáng tỏ những
vấn đề luận án đặt ra cần giải quyết.
5. Đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hoá chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp, qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Định dạng một số đặc trưng trong tiến trình lãnh đạo của Đảng đối với
xây dựng cán bộ tư pháp, một lĩnh vực phải giải quyết mâu thuẫn giữa bảo đảm
tính lãnh đạo thống nhất của Đảng với tôn trọng nguyên tắc độc lập tương đối
của lĩnh vực tư pháp.
- Phân tích, đánh giá, rút ra được các nhận xét, kết luận về Đảng lãnh đạo
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp; tổng kết một số kinh nghiệm có ý nghĩa cho
vận dụng vào giai đoạn mới.
6. Bố cục của luận án
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội
dung của luận án gồm 4 chương 8 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Do vị trí, tầm quan trọng của vấn đề, trong những năm qua, giới khoa học
trong nước và ngoài nước đã nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể
phân chia thành các nhóm sau.
1.1.1. Nhóm nghiên cứu chung về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
- Các nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp gắn với cải cách tư
pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Cuốn “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” của Trần Đình Thắng [151] là công
trình nghiên cứu công phu, toàn diện dưới góc độ luật học về xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Bắt đầu từ trình bày
khái niệm, định dạng đặc điểm, phân loại, nhiệm vụ, quyền hạn, khái lược những
vấn đề lịch sử, phân tích thực trạng,... Công trình đã xác định những yêu cầu và
đề xuất giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam
Tác giả Đào Trí Úc trong cuốn “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” [183] đã đề cập đến khái niệm tư pháp, nhiệm vụ, nguyên
tắc cải cách tư pháp; đổi mới chế độ thẩm phán và đội ngũ thẩm phán; thực
trạng đội ngũ thẩm phán toà án nhân dân địa phương. Cuốn “Góp phần tìm
nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền” của Bùi Ngọc Sơn [121] trong
trình bày những vấn đề chung về Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền, đã dành
một phần bài về toà án trong nhà nước pháp quyền với tính độc lập trong xét xử
trong hoạt động; vai trò độc lập toà án trong việc bảo đảm thực hiện các yêu cầu
nhà nước pháp quyền; yêu cầu tăng trách nhiệm và nâng cao chất lượng, quan
tâm đúng mức đời sống vật chất cho các thẩm phán.
7
Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí trong cuốn:“Cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” [27] đã đề cập một số
khía cạnh đáng quan tâm. Đây là công trình nghiên cứu về cải cách tư pháp từ
sau khi có Nghị quyết 08 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp. Công trình đã phân tích, khái quát một số vấn đề chung
trong cải cách tư pháp như mục tiêu, đối tượng, phương hướng và các giải pháp
cơ bản thực hiện của cải cách tư pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền; đặc
biệt đề cập đến lương tâm của người thẩm phán trong xét xử đảm bảo quyền con
người trong cải cách tư pháp.
Tác giả Nguyễn Đăng Dung trong cuốn “Thể chế tư pháp trong nhà
nước pháp quyền” [30] đã đi sâu làm rõ vị trí, vai trò của thể chế tư pháp trong
Nhà nước pháp quyền; thể chế tư pháp ở một số quốc gia và đặc biệt làm rõ một
số vấn đề thể chế tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến các vấn đề như: quá trình hình thành và phát
triển của hệ thống Toà án ở Việt Nam gắn liền với hoạt động của đội ngũ thẩm
phán, nghiên cứu nhiệm kỳ của thẩm phán, vấn đề thay thế chế định bầu cử thẩm
phán bằng bổ nhiệm theo Hiến pháp 1992, vấn đề tuyển chọn thẩm phán, vấn đề
trách nhiệm, nâng cao chất lượng, biện pháp ổn định công tác cho đội ngũ thẩm phán.
Tác giả Phạm Quý Tỵ với bài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà
án nhân dân” [147] đã khái quát mô hình toà án được tổ chức theo thẩm quyền
xét xử; đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử; phân định rõ ràng thẩm quyền quản
lý và thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan toà án; đặc biệt đề cập đến đổi mới
trình tự thủ tục bổ nhiệm thẩm phán theo hướng thẩm phán được bổ nhiệm dài
hạn, không theo nhiệm kỳ; Nhà nước cần phải đảm bảo về cơ sở vật chất, điều
kiện làm việc, chế độ đãi ngộ cho thẩm phán, tạo điều kiện để thẩm phán độc lập
khi xét xử.
Tác giả Trương Hoà Bình với bài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”
[6] đã khái quát thực trạng, những bất cập, hạn chế của đội ngũ cán bộ tư pháp
8
trong cơ quan Toà án nhân dân như số lượng, chất lượng, cơ cấu, biên chế. Đặc
biệt công trình đã đưa ra những định hướng lớn trong đổi mới hệ thống toà án
theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc đơn vị hành chính; làm rõ nguyên tắc
tổ chức, hoạt động và biên chế đội ngũ cán bộ của toà án sơ thẩm khu vực, Toà
án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm, Toà án tối cao, qua đó cũng kiến nghị về xây
dựng đội ngũ cán bộ cho phù hợp với từng loại toà án.
Nhóm công trình tiếp cận từ góc độ chính trị học hoặc luật học, bàn sâu
sắc các khía cạnh kỹ thuật tư pháp với những yêu cầu đặt ra cho đội ngũ cán bộ
tư pháp cả về phẩm chất và năng lực. Xây dựng cán bộ tư pháp trong các nghiên
cứu này gắn chặt với yêu cầu cải cách tư pháp theo đường lối, chủ trương của
Đảng. Tất nhiên, hạn chế của những nghiên cứu này là chưa cho thấy rõ tiến
trình lịch sử, vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư pháp, cơ sở lý thuyết của
các đề xuất này, thậm chí nhiều nghiên cứu chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi lý
thuyết cấu trúc quyền lực tư pháp trong các mô hình dân chủ phương Tây. Có
nghiên cứu lại bị ảnh hưởng nhiều cách tiếp cận của các lý thuyết về nhà nước
Xô-viết trước đây, sâu xa là nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, nên lĩnh vực
tư pháp nói chung và công chức tư pháp đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng
một cách xơ cứng.
- Các nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp.
Tác giả Đào Xuân Tiến với bài viết “Đào tạo thẩm phán” [145] đã khái
quát năng lực, trình độ chuyên môn của các thẩm phán. Tác giả nêu lên thực
trạng công tác đào tạo thẩm phán trước năm 2002 còn chồng chéo, nhiều cơ sở
đào tạo do nhiều cơ quan quản lý khác nhau; đưa ra hướng đổi mới như xây
dựng chương trình, đào tạo lại đội ngũ thẩm phán về chuyên môn nghiệp vụ và
bổ sung những kiến thức ngoại ngữ, tin học; kiến thức về sở hữu trí tuệ; tập
trung các cơ sở đào tạo thành một mối.
Bài viết “Về vấn đề đào tạo nguồn để bổ nhiệm các chức danh tư pháp ở
Việt Nam” của tác giả Phạm Mạnh Hùng [92] đã phân tích tính đặc thù của đào
9
tạo nguồn để bổ nhiệm đối với các chức danh tư pháp như thẩm phán, kiểm sát
viên; có so sánh với công tác đào tạo của một số nước; đặt ra yêu cầu chuyên
môn hoá của các ngành như đào tạo thẩm phán cần giao cho ngành toà án đảm
nhiệm và kiểm sát viên do ngành kiểm sát thực hiện.
Tác giả Nguyễn Hữu Hậu với bài viết “Một số suy nghĩ về định hướng đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm sát trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc
tế” [75] đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện đào tạo bồi dưỡng
cán bộ kiểm sát viên như sự chồng chéo giữa Học viện tư pháp với Trường Đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (nay là Đại học Kiểm sát); tình hình nhận thức
chưa đúng mức về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát là “đào tạo
nghề”-một loại hình đào tạo đặc thù ngành kiểm sát; chưa có Hội đồng thẩm
định chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát chính thống
theo chuẩn quốc gia. Từ đó, tác giả đề xuất một số định hướng về công tác đào
tạo, bồi dưỡng; về xây dựng chương trình, hoàn chỉnh giáo trình cho từng loại
hình; về đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng; về củng cố phát triển đội ngũ giảng
dạy; về cải tạo, nâng cấp cơ sở, vật chất phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của tác giả Phan Chí Hiếu “Cơ sở lý
luận và thực tiễn xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp
đến năm 2020” [17] đã nêu lên cơ sở lý luận xây dựng Chiến lược đào tạo, bồi
dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020. Trên cơ sở đó, đề tài khái quát thực
trạng đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp và hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ có chức danh tư pháp, đặc biệt nhấn mạnh đến đội ngũ thẩm phán và kiểm sát
viên như đội ngũ thẩm phán còn thiếu về số lượng; cơ cấu đội ngũ thẩm phán
chưa đảm bảo; chất lượng đội ngũ thẩm phán còn hạn chế về trình độ chuyên
môn, trình độ chính trị, trình độ ngoại ngữ tin học; đạo đức thẩm phán. Đề tài
khái quát thực trạng chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát các
hoạt động tư pháp; công tác đào tạo kiểm sát viên cũng có những bất cập như thay
đổi về tên gọi, chức năng nhiệm vụ của cơ sở đào tạo; còn chồng chéo trong hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng. Từ đó, đề tài đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng, trình
10
phê duyệt và tổ chức thực thi Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp
đến năm 2020, trong đó đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên là một bộ phận.
Ngoài ra còn có một số đề tài khoa học cấp cơ sở nghiên cứu về đào tạo đội
ngũ cán bộ tư pháp do Học viện Tư pháp tiến hành, với nhiều chủ đề khác nhau
như: “Những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn thẩm
phán”[80]; “Xây dựng chương trình đào tạo kiểm sát viên-Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” [81]; “Đào tạo các chức danh tư pháp phục vụ công cuộc cải cách
tư pháp” [83]. Ngoài ra, ngành Toà án, Kiểm sát, trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của ngành, cũng đã triển khai nghiên cứu các đề tài khoa học về đội
ngũ cán bộ của ngành như: “Đào tạo thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao”
do Toà án nhân dân tối cao thực hiện [127]. Nội dung của các đề tài này, dưới
nhiều góc độ, cách tiếp cận khác nhau, trên mức độ ít nhiều có đề cập đến việc
thực hiện chủ trương của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của từng ngành và
chủ yếu đi sâu khái quát thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
cán bộ tư pháp nói chung và đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo
pháp luật và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ chức danh tư pháp. Song, do quy mô
và tính chất là đề tài cấp cơ sở, hoặc do phạm vi nghiên cứu riêng của từng ngành,
nên các đề tài không thể triển khai một cách toàn diện và sâu sắc.
- Các nghiên cứu về sử dụng, tuyển chọn-bổ nhiệm đội ngũ cán bộ tư pháp.
Năm 2003, Trường Đại học Luật Hà Nội triển khai nghiên cứu đề tài khoa
học cấp bộ: “Điều tra cơ bản đánh giá thực trạng đào tạo, sử dụng cán bộ pháp
lý đối với sự phát triển của đất nước thế kỷ XX” [163]. Đề tài tập trung điều tra
việc sử dụng cử nhân luật sau khi tốt nghiệp đại học, trong đó ngành luật là một
lĩnh vực lớn. Đề tài tập trung khảo sát, đánh giá tình hình sử dụng cán bộ pháp lý
sau khi tốt nghiệp đại học, không nghiên cứu chuyên sâu sự lãnh đạo của Đảng
về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.
Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Xây
dựng cơ chế thi tuyển tư pháp quốc gia đáp ứng yêu cầu cải cách Tư pháp” [18]
đã làm rõ cơ chế thi tuyển tư pháp quốc gia, lợi thế cũng như vai trò của thi
11
tuyển tư pháp quốc gia trong mối quan hệ với các yêu cầu mà Đảng và Nhà nước
ta đặt ra trong bối cảnh cải cách tư pháp và đổi mới giáo dục đại học hiện nay;
tìm hiểu kinh nghiệm nước ngoài về thi tuyển đào tạo các chức danh tư pháp,
trên cơ sở tổng kết, đánh giá khả năng áp dụng vào mô hình tuyển sinh đào tạo
cán bộ tư pháp ở Việt Nam; tổng kết một cách toàn diện về thực trạng công tác
tuyển sinh để đào tạo các chức danh tư pháp tại Học viện Tư pháp từ trước đến
nay. Tác giả làm rõ cơ sở thực tiễn và sự cần thiết phải xây dựng kỳ thi tuyển
tư pháp quốc gia; xây dựng mô hình thi tuyển tư pháp quốc gia, trong đó xác
định rõ đối tượng dự thi, nội dung thi tuyển, hình thức thi tuyển, Hội đồng thi
tuyển tư pháp quốc gia; làm rõ các điều kiện đảm bảo cho việc thực thi mô hình
thi tuyển này trên thực tế. Đề tài sử dụng phương pháp khảo sát thực tiễn như
một công cụ nghiên cứu kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh kinh nghiệm.
- Các nghiên cứu về giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán
bộ tư pháp.
Tác giả Trương Thị Hoà với bài viết “Cải cách tư pháp và việc nâng cao
đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn cho cán bộ cơ quan tư pháp” [78] đã
nêu lên thực trạng của hoạt động tư pháp như pháp luật không rõ ràng, minh
bạch tạo điều kiện cho tham nhũng; thực tiễn xét xử qua quá nhiều cấp, chưa
tuân thủ đúng nguyên tắc hai cấp xét xử. Tác giả khẳng định: Nâng cao đạo đức
nghề nghiệp, trình độ chuyên môn của cán bộ tư pháp là bộ phận quan trọng
trong nội dung cải cách tư pháp. Các biện pháp để nâng cao như cải tiến chương
trình đào tạo gắn với giáo dục đạo đức nghề nghiệp; tăng cường giám sát, thanh
tra, kiểm tra; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ tư pháp.
Tác giả Hoàng Văn Linh với bài viết “Một số suy nghĩ về đạo đức nghề
nghiệp của thẩm phán trong cải cách tư pháp hiện nay”[96] đã đưa ra quan
niệm về đạo đức người thẩm phán và nhấn mạnh đến việc xây dựng những phẩm
chất đạo đức người thẩm phán như: Luôn đề cao ý thức bảo vệ pháp chế xã hội
12
chủ nghĩa, bảo vệ công lý và công bằng xã hội; tận tâm phục vụ nhân dân; phẩm
chất về giao tiếp với công việc và đồng nghiệp; có lối sống lành mạnh, liêm
chính, có ý thức tổ chức kỷ luật, thường xuyên bồi duỡng nhân cách. Công trình
“Đạo đức Nghề luật”[87] là kết quả hợp tác giữa Học viện Tư pháp của Việt
Nam với Dự án phát triển tư pháp và sự tham gia từ cơ sở (JUDGE), tư vấn biên
soạn bởi GS.TREVOR C.W.FARROW và tài trợ bởi CIDA, đã khái quát đặc
điểm của nghề luật nói chung, đặc điểm nghề của các đội ngũ cán bộ tư pháp
như thẩm phán, kiểm sát viên. Các tác giả đã đưa ra kinh nghiệm của một số
nước như Canađa, Trung Quốc, Liên bang Nga, Cộng hoà Liên bang Đức, Hoa
Kỳ trong việc xây dựng quy tắc đạo đức và ứng xử trong thực tiễn truy tố, xét xử
của đội ngũ cán bộ tư pháp.
Nhóm nghiên cứu trên đây chủ yếu đi sâu vào những mặt công tác cụ thể
của xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp như đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn-bổ
nhiệm; khái quát thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; đưa ra các yêu cầu, tiêu
chí cũng như giải pháp thực hiện để xây dựng và hình thành các phẩm chất quan
trọng của người cán bộ tư pháp; kinh nghiệm nước ngoài về xây dựng bộ quy tắc
ứng xử đạo đức nghề nghiệp đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Một số lý thuyết
nhân học xã hội, lý thuyết hành vi, lý thuyết lựa chọn công, lý thuyết đạo đức
nhóm,... được tác giả nhóm nghiên cứu này sử dụng trong nghiên cứu. Hạn chế
của nhóm này là chưa dựa vào dữ liệu lịch sử để làm rõ các luận cứ, nhận xét; ít
đề cập đến mối quan hệ chính trị với tư pháp nói chung và mối quan hệ giữa
đường lối chính trị, tác động chính trị đối với nhân viên tư pháp trên các khâu tư
tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp, đào tạo.... Nhóm nghiên cứu này có thể kế
thừa một số nhận định, kết luận và rất có ý nghĩa khi xem xét thực tiễn xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp trên các chiều cạnh khác nhau từ tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng đến sử dụng công chức tư pháp.
13
1.1.2. Nhóm nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác tư pháp.
- Nhóm nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh với ý nghĩa cơ sở phương
pháp luận trong hoạch định chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ
tư pháp.
Vũ Đình Hòe, một người tốt nghiệp đại học luật ở Pháp, tham gia Đảng
Dân chủ Việt Nam, là Bộ trưởng Tư pháp trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, trong cuốn hồi ký “Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh”[79] đã
trình bày suy nghĩ của ông đối về tư tưởng hiến chính và pháp quyền của Hồ Chí
Minh. Ông cho rằng, Hồ Chí Minh có một tư duy pháp lý nhạy bén tuyệt vời,
gần như thiên bẩm, hiểu thấu và thi hành một cách sáng tạo lý luận và thực tiễn
chế độ Nhà nước-pháp quyền của thời đại và thế giới văn minh. Tư tưởng của
Người đã dẫn dắt Vũ Đình Hòe trên cương vị Bộ trưởng Tư pháp cũng như cải
hóa một thế hệ “cán bộ pháp lý khả thủ, dần dần biết suy nghĩ và hành động
đúng đắn”[81, tr.6], đặc biệt là tư tưởng về một nền pháp quyền nhân nghĩa, một
nền tư pháp “phụng công thủ pháp”, “nhân ái, công bình, độ lượng có sức thuyết
phục, cảm hóa cao”[81, tr.212].
Tác giả Bùi Ngọc Sơn với bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức toà
án và ý nghĩa hiện nay”[121] đã trình bày nguyên tắc, tiêu chuẩn, thẩm quyền bổ
nhiệm thẩm phán theo tư tưởng Hồ Chí Minh như thẩm phán do Chính phủ bổ
nhiệm; thẩm phán phải có cử nhân luật, phải trải qua một kỳ thi để đảm bảo trình
độ nghiệp của thẩm phán và khi đã được bổ nhiệm phải tuyệt đối trung thành với
Tổ quốc, phụng công thủ pháp, chí công vô tư. Ở đây đã kết hợp giữa nghiên cứu
tư tưởng với sự chuyển hóa của tư tưởng trong thực tế đời sống.
Tác giả Phạm Quốc Anh trong bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng ta về hoạt động tư pháp”[1] đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng, kim chỉ nam cho hoạt động tư pháp và thực hiện cải cách tư
pháp. Tác giả nhấn mạnh Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm hoạt động
khoa học và thái độ đúng đắn, khách quan, cầu thị đối với công việc đối với cán
14
bộ các cơ quan tư pháp. Ngoài ra tác giả khái quát đường lối, quan điểm của
Đảng về công tác tư pháp.
Bài viết “Nghiên cứu, học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền tư
pháp cách mạng” của Khuất Văn Nga [107] đã nhấn mạnh cần quán triệt ba ý
tưởng lớn của Hồ Chí Minh là một nền tư pháp vì dân; một nền tư pháp “xử án
cho giỏi thì tốt nhưng làm thế nào không có kiện xử thì tốt hơn”; một nền tư
pháp đối với đội ngũ cán bộ: “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”. Tác giả
khẳng định ba ý tưởng trên của Hồ Chí Minh về tư pháp đang là trụ cột cho sự
nghiệp cải cách tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng.
Nhóm nghiên cứu này đã cho thấy vai trò thiết kế tư tưởng của Hồ Chí
Minh đối với nền tư pháp Việt Nam, một nền tư pháp độc lập, gần dân, hướng
tới và bảo đảm quyền và lợi ích cho nhân dân và đề ra các yêu cầu, tiêu chí xây
dựng đội ngũ cán bộ bộ tư pháp; các phẩm chất mà đội ngũ cán bộ tư pháp phải
có như “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”. Chúng có ý nghĩa làm cơ sở
phương pháp luận, định hướng cho nghiên cứu về Đảng lãnh đạo lĩnh vực tư
pháp nói chung và đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Tuy nhiên, điểm yếu của
các nghiên cứu này là chưa chỉ ra được “độ vênh” giữa tư tưởng và đời sống
hiện thức, độ gián đoạn trong thực tiễn xây dựng nền tư pháp Việt Nam sau
khi Hồ Chí Minh qua đời, đặc biệt là từ khi xây dựng Hiến pháp năm 1980, áp
dụng mô hình tư pháp Xô-viết vào đất nước ta với nhiều thiết kế chính trị xa
dần Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959-những bản hiến pháp mang đậm dấu
ấn tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nhóm nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp
Tác giả Nguyễn Văn Thảo với cuốn “Xây dựng Nhà nước pháp quyền
dưới sự lãnh đạo của Đảng”[150] ngoài việc trình bày về xây dựng nhà nước
pháp quyền, đã nhấn mạnh cần phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Toà án theo hướng tạo điều kiện cho nền tư pháp hoạt động liên tục và xét
xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, bảo đảm và thực hiện công bằng xã hội, thể
hiện nền công lý xã hội chủ nghĩa và Đảng thông qua các cơ chế của Nhà nước
15
để cử ra đội ngũ thẩm phán được đào tạo có hệ thống, thành thạo nghề nghiệp,
làm việc liên tục và ổn định, đủ tầm vóc đại diện cho quyền lực nhà nước xét xử
tội phạm và giải quyết các tranh chấp trong xã hội.
Tác giả Trần Đại Hưng với bài viết “Hoàn thiện nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp” [91] đã đưa ra những cơ sở
khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp; khái quát những
thành tựu, hạn chế yếu kém, đề xuất một số vấn đề về hoàn thiện nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp nói chung và đội ngũ
cán bộ tư pháp nói riêng.
Tác giả Nguyễn Văn Quyền, trong bài viết “Đảng lãnh đạo các cơ quan
tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” [119] đã khái quát sự lãnh đạo của Đảng
đối với các cơ quan tư pháp thông qua lãnh đạo về chính trị- tư tưởng, định
hướng công tác; nhấn mạnh đến lãnh đạo tổ chức cán bộ trong các cơ quan tư
pháp; đúc kết một số bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng đối với các
cơ quan tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng.
Cuốn “Thể chế Đảng cầm quyền một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của
Đặng Đình Tân [123] đã khái quát thể chế Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp từ
năm 1986 đến nay. Cụ thể là nêu lên các nguyên tắc thể chế Đảng lãnh đạo các
cơ quan tư pháp, trong đó nhấn mạnh đến các vấn đề: các cơ quan, tổ chức Đảng
lãnh đạo cơ quan tư pháp; đường lối, chính sách hình sự về xét xử tội phạm,
chính sách giải quyết tranh chấp trong nội bộ nhân dân về dân sự, hôn nhân gia
đình, lao động, hành chính; bộ máy và phương thức hoạt động của Toà án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân và các tổ chức khác tham gia hoạt động xét xử.
Ngoài ra, công trình đề cập đến hiệu lực các thể chế Đảng lãnh đạo các cơ quan
tư pháp, trong đó nói rõ về cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan Toà
án,Viện kiểm sát và đối với các loại vụ án.
Cuốn “Sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành Kiểm sát nhân dân”, (lưu
hành nội bộ) của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao [178] đã hệ thống hoá các quan
16
điểm, chủ trương, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với ngành Kiểm sát nhân
dân từ năm 1960 đến nay thể hiện qua các đại hội toàn quốc của Đảng, hội nghị
của Ban Chấp hành Trung ương, nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, các thông
báo, thông tri, chỉ thị của Ban Bí thư. Công trình là sự tập hợp các văn kiện của
Đảng, thuận lợi cho việc tra cứu, nghiên cứu và giảng dạy về sự lãnh đạo của
Đảng đối với ngành kiểm sát nhân dân.
Nguyễn Văn Hiện với bài viết “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với công tác toà án hiện nay”[77] đã khái quát thực trạng và đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác toà án, nhất
là sự lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm tính độc lập trong xét xử của toà án.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ-Hội đồng khoa học các Ban Đảng
của tác giả Trịnh Xuân Toản “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”[126] đề cập nhiều vấn đề mối quan hệ giữa
lãnh đạo Đảng với đổi mới công tác tư pháp. Trên cơ sở phân tích và hệ thống
hoá những quan điểm về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước nói chung và nội dung, phương thức lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư
đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp được thể hiện trong các văn kiện
của Đảng; tổng hợp, đánh giá thực tiễn quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng nói chung và của Bộ Chính trị, Ban Bí thư nói riêng đối với công tác
tư pháp và cải cách tư pháp, trọng tâm là từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII (1996) đến nay, đề tài xác định rõ: những thành tựu, những mặt hạn chế,
vướng mắc và bài học kinh nghiệm; Phân tích những yêu cầu khách quan của
việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư nói riêng đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp. Mục tiêu, quan điểm
và phương hướng, giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Bộ Chính
trị đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp được đề xuất ở đây đã bám sát
thực tế. Ngoài ra, tác giả còn có kiến nghị cụ thể về việc hoàn thiện phương thức
17
lãnh đạo và tăng cường sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công
tác tư pháp và cải cách tư pháp.
Tác giả người Thái Lan (Quốc tịch Mỹ) Thaveeporn Vassavakul có công
trình “Sectoral Politics and Strategies for State and Party Building from the VII
to the VIII Congresses of the Vietnamese Communist Party (1991-1996), in “Doi
Moi: Ten Years after the 1986 Party Congress” (“Lĩnh vực chính trị và chiến
lược xây dựng đảng và Nhà nước từ Đại hội VII đến Đại hội VIII của Đảng
Cộng sản Việt Nam (1991-1996), trong: “Đổi mới: Mười năm sau Đại hội
VI”)”[146]. Công trình đã trình bày tiến trình đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi đầu từ Đại hội VI với những quyết định trọng đại bắt đầu từ đổi mới
tư duy, rồi kế đến đổi mới các lĩnh vực khác. Các đợt tiến hành xây dựng, chỉnh
đốn đảng đã đưa lại nhiều kết quả quan trọng để cấu trúc lại bộ máy lãnh đạo ở
cả cấp trung ương và địa phương, tăng quyền cho địa phương, mở rộng sự tham
gia của cán bộ trẻ trong bộ máy lãnh đạo, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với tất cả các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tác giả cho
rằng hiện tượng Đảng làm thay Nhà nước đã khắc phục được phần nào sau 10
năm tiến hành đổi mới (1986 -1996).
Ưu điểm nổi bật của nhóm nghiên cứu trên đây là trình bày được các
quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ nguyên tắc,
tiêu chí bổ nhiệm, đặc biệt các phẩm chất của cán bộ tư pháp như “Phụng công
thủ pháp, chí công vô tư”-một phẩm chất quan trọng đối với đội ngũ cán bộ tư
pháp hiện nay. Ngoài ra, các công trình khái quát được cơ sở khách quan của
việc Đảng lãnh đạo đối với lĩnh vực tư pháp; nội dung, phương thức và kinh
nghiệm lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực tư pháp về chính trị tư tưởng, tổ chức
cán bộ, định hướng công tác, nhất là định hướng đường lối xét xử; mối quan hệ
giữa nguyên tắc Đảng lãnh đạo với tính độc lập của tư pháp; hệ thống các các
văn kiện của Đảng về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp như
Viện Kiểm sát. Do vậy, những nghiên cứu này cung cấp một số cách tiếp cận,
18
nguồn tư liệu và cho thấy tính đặc thù trong quá trình nghiên cứu về Đảng lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn 2001-2011.
1.1.3. Nhóm nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.
- Nhóm nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp.
Nguyễn Văn Quyền trong bài viết “Bàn về những nội dung cơ bản của
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”[117] đã khái quát quan điểm của
Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo Nghị quyết số 49 về Chiến lược
cải cách tư pháp. Tác giả Phan Hữu Thư với bài viết: “Quan điểm của Đảng và
Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh và đổi mới
công tác đào tạo”[160] đã khái quát quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII, Nghị quyết
08 của Bộ Chính trị, đặc biệt Nghị quyết 49 về Chiến lược cải cách tư pháp như
quan điểm, chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp như đổi mới nội dung,
phương pháp đào tạo; đổi mới cơ chế tuyển dụng; đào tạo phục vụ hội nhập quốc
tế; xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo cán bộ tư pháp.
Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong bài “Nghiên cứu một số quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tuyển chọn cán bộ tư pháp” [89; 90] có nêu lên
các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta như: việc tuyển chọn cán bộ tư pháp là
nhiệm vụ gắn liền với yêu cầu kiện toàn và đối mới hệ thống các cơ quan tư
pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đảm bảo về chất lượng đáp ứng yêu cầu
của công cuộc cải cách tư pháp quốc gia và xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.Tuyển chọn cán bộ tư pháp phải dựa trên các tiêu chuẩn
nghiệp vụ trong đó có các tiêu chí cơ bản: có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm
chất đạo đức trong sáng, có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuyển chọn cán bộ tư
pháp phải bảo đảm yêu cầu công khai, minh bạch khách quan, công bằng, đồng
thời nghiên cứu từng bước mở rộng nguồn cán bộ tư pháp thực hiện luân chuyển,
19
bố trí, sử dụng cán bộ tư pháp một cách hợp lý. Tuyển chọn cán bộ tư pháp cần
nghiên cứu, học tập kinh nghiệm quốc tế và vận dụng phù hợp trong điều kiện cụ
thể của nước ta.
Tác giả người Úc Pip Nicholson trong bài “Vietnamese Jurisprudence:
Informing Court Reform” (Pháp luật Việt Nam: Tác động tới cải cách toà án)
[105] đưa ra một số nhận xét đáng lưu ý. Tác giả đã khái quát hoá quá trình ra
đời và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng
đội ngũ cán bộ tư pháp trong Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới;
những tác động của Nghị quyết 08-NQ/TW đến các cơ quan tư pháp của Việt
Nam, nhấn mạnh đến tính độc lập của toà án và thẩm phán. Nghiên cứu này còn
nhấn mạnh đến sự cần thiết phải xây dựng một đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là
thẩm phán có trình độ, có năng lực, phẩm chất đáp ứng đòi hỏi của cải cách toà
án Việt Nam.
- Nhóm nghiên cứu sự chỉ đạo của Đảng trong thực hiện xây dựng đội ngũ
cán bộ tư pháp.
Tác giả Trần Đức Lương trong bài“Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[97] đã nêu
lên nhiều quan điểm mang tính chỉ đạo của nguyên thủ quốc gia cải cách tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về một số nhiệm trọng tâm công
tác tư pháp năm 2002. Từ góc độ thiết chế Chủ tịch nước có vai trò điều phối,
phối hợp giữa lĩnh vực tư pháp với lập pháp và hành pháp, bài viết cũng đề ra
những bước đi và phương thức thực hiện cải cách tư pháp trong những năm tiếp
theo; nhấn mạnh đến tăng cường công tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp, coi đó là khâu đột phá trong cải cách tư pháp.
Tác giả Trần Huy Liệu với bài “Những quan điểm chỉ đạo cải cách tư
pháp ở Việt Nam”[95] đã nêu lên các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong thực
hiện cải cách tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng
như: phải dựa trên quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
20
của dân, do dân, vì dân; phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với quá trình đổi
mới hệ thống chính trị, đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp và phát huy sức
mạnh của quyền lực nhà nước thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng; phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, các cơ quan tư pháp đặt dưới sự giám sát của
cơ quan dân cử và nhân dân; kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc những thành
tựu đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với đất
nước; tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với bước đi
vững chắc; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp.
Công trình của Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Lịch sử Viện kiểm sát
nhân dân Việt Nam” (Sơ thảo)[177] đã nêu lên quá trình quán triệt, vận dụng,
thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ kiểm sát viên
như công tác đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn, bổ nhiệm; quản lý; chính sách.
Công trình khái quát những thành tựu và bài học kinh nghiệm trong quá trình ra
đời, phát triển và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân qua các thời kỳ cách
mạng, trong đó nhấn mạnh đến các bài học như quán triệt và thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc tổ chức và hoạt động tập trung thống nhất gắn với nguyên tắc
Đảng lãnh đạo; bài học về chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ cơ bản
tạo nên sức mạnh của Viện kiểm sát nhân dân…
- Nhóm nghiên cứu về kết quả bước đầu thực hiện chủ trương của Đảng
trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.
Tác giả Khuất Văn Nga với bài viết “Những chủ trương của Đảng và Nhà
nước ta về cải cách tư pháp và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong thời kỳ đổi mới”[108] đã khái quát bước đầu việc tuyển chọn và bổ nhiệm
kiểm sát viên giai đoạn 1986-2005, theo tiêu chuẩn mới cao hơn và theo quy
trình tuyển chọn mới có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức.
Nguyễn Đình Lục với bài viết “Sau ba năm thực hiện chiến lược cải cách
tư pháp” [98] có nhiều nỗ lực phân tích, đánh giá tình hình bước đầu thực hiện
xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp sau ba năm kể từ khi có Nghị quyết 49. Với
nhận định: Đội ngũ cán bộ tư pháp đã có sự trưởng thành nhanh chóng cả về số
21
lượng và chất lượng và có cố gắng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quá trình cải
cách tư pháp như đã đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tư pháp về chuyên
môn nghiệp vụ, cả về giáo dục bồi dưỡng phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp, bài
viết này nhìn vấn đề khá lạc quan, dù trên thực tế khó khăn, lực cản còn rất lớn
Tác giả Hoàng Thế Liên trong bài viết “Cải cách pháp luật và tư pháp vì
sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân”[94] nhận định rằng, ngành tư pháp đã triển khai nhiều hoạt động phù hợp
với chức năng của mình để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp. Đã cụ thể hoá các
chủ trương của Đảng thông qua việc xây dựng các đề án triển khai thực hiện
bằng nhiều giải pháp khác nhau để đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực như Đề
án “Xây dựng Trường đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp luật”, Đề án “Xây
dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp”.
Tác giả Hà Hùng Cường với bài viết “Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [29] nhìn nhận cán bộ tư
pháp trong tổng thể cải cách tư pháp, trong đó đánh giá cán bộ tư pháp đã có sự
trưởng thành về số lượng và chất lượng, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp.
Công tác quy hoạch, rà soát, đánh giá, luân chuyển, đào tạo đội ngũ cán bộ, công
chức tư pháp được thực hiện đồng bộ, bài bản; kết hợp cải thiện từng bước chế
độ, chính sách đãi ngộ với việc xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với các sai phạm
của cán bộ, công chức tư pháp. Việc đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư
pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị được đẩy mạnh, góp phần
tích cực vào quá trình chuẩn hóa từng bước đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên cả
về trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ.
- Các nghiên cứu về kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Đáng
chú ý là nghiên cứu của Đỗ Thị Thúy Hà “Một số kinh nghiệm trong công tác xây
dựng đội ngũ thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” [73]. Ở đây, tác giả đã khát
quát thực trạng công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân, chỉ ra
22
nguyên nhân hạn chế và đưa ra một số kinh nghiệm chủ yếu trong xây dựng đội
ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trên cả về mặt nhận thức và về mặt tổ
chức thực tiễn. Tập trung là các kinh nghiệm như: Nhận thức đúng đắn tầm quan
trọng có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng đội ngũ thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao; khâu đột phá là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán; có lộ trình
và bước đi thích hợp trong xây dựng đội ngũ thẩm phán; đánh giá, sử dụng
đúng đắn đội ngũ thẩm phán; quan tâm xây dựng, thực hiện tốt chế độ, chính
sách đãi ngộ đối với đội ngũ thẩm phán.
Công trình của tác giả Pip Nicholson (Quốc tịch Úc) “Borrowing court
systems: the experience of Socialist Vietnam” [106] đã khái quát lịch sử hệ thống
toà án Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2005. Những điểm tương đồng và khác
biệt giữa các hệ thống tòa án của Liên Xô và Việt Nam, nguyên nhân của sự
tương đồng và sự khác biệt đó. Từ đó Việt Nam đã áp dụng kinh nghiệm của
Liên Xô trong xây dựng hệ thống toà án. Tác giả cho rằng lịch sử của hệ thống
tòa án Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2005 ảnh hưởng rõ nét bởi mô hình của
Liên Xô và mang một bản sắc riêng biệt. Do vậy, đội ngũ cán bộ tư pháp cũng
được xây dựng theo mô hình này.
Nhóm nghiên cứu này bước đầu đã khái quát được những quan điểm, chủ
trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong quá trình cải cách tư
pháp như về công tác đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn-bổ nhiệm; những quan
điểm chỉ đạo của Đảng trong thực hiện; những kết quả bước đầu khi thực hiện
chủ trương của Đảng. Tuy nhiên hạn chế của các công trình trong nhóm này là
nghiên cứu một cách rời rạc, chưa có hệ thống các vấn đề về Đảng lãnh đạo xây
dựng đội cán bộ tư pháp, chưa chỉ ra khoảng cách giữa nghị quyết và vận động
của thực tiễn, đặc biệt là chưa làm rõ “đầu vào” của các chủ trương cải cách tư
pháp, những nan giải của quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện. Nhóm nghiên cứu
này có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu một cách có hệ thống
và tính chính thể về Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn
2001-2011, cung cấp một số tư liệu và cách tiếp cận có giá trị.
23
1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT
1.2.1. Đánh giá kết quả các công trình đã được công bố
Cải cách tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng
là vấn đề lớn, mang tính thời sự trong giai đoạn hiện nay, vì thế luôn được các
nhà chính trị và giới nghiên cứu quan tâm. Tổng quan kết quả nghiên cứu của
các công trình có liên quan đề đề tài cho thấy, các công trình dưới các góc độ
khoa học và trên nhiều bình diện khác nhau đã đề cập đến cải cách tư pháp nói
chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Các công trình nghiên cứu
đi sâu luận giải, làm rõ một số vấn đề sau:
- Làm rõ được sự cần thiết và vai trò của công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ tư pháp đối với xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp.
- Luận chứng được thực trạng và đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp như công tác đào tạo, bồi
dưỡng, tuyển chọn, bổ nhiệm, chính sách cán bộ.
- Khái quát được sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, đặc biệt
là nhận diện một số phương thức lãnh đạo đặc thù của Đảng đối với lĩnh vực tư
pháp-một lĩnh vực đòi hỏi tôn trọng tính độc lập trong xét xử, công tố.
- Hệ thống hóa được một số quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội
ngũ cán bộ tư pháp
- Làm rõ một số quan điểm chủ trương, quá trình thực hiện của Đảng, kết
quả bước đầu về cải cách tư pháp và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.
Kết quả của các công trình nêu trên rất có ý nghĩa cho triển khai nghiên
cứu luận án này, đặc biệt là các kế thừa về cách tiếp cận, phương pháp và một số
tư liệu-tài liệu.
Tuy nhiên, các công trình trên đều chưa đề cập có hệ thống và đầy đủ về
các quan điểm, chủ trương, cũng như sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001-2011). Tình trạng phổ biến là những công
trình đề cập đến quan điểm, chủ trương thì chỉ nêu những luận điểm chính, chưa
24
chỉ ra bối cảnh, điều kiện lịch sử, “đầu vào” cho hình thành các quan điểm, chủ
trương đó, đặc biệt là những lực cản, khó khăn, thậm chí là cả cuộc đấu tranh
trong nội bộ đảng về tư tưởng để ban hành nghị quyết về cải cách tư pháp-một
lĩnh vực đụng chạm đến rất nhiều vấn đề nhạy cảm như quyền con người, tính
độc lập trong hoạt động… mà nếu thiếu đột phá về tư duy rất khó tiến hành cải
cách. Càng chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu cơ chế thảo luận, ban hành quyết
định đối với các chủ trương, nghị quyết này. Đối với những công trình đề cập
đến tổ chức thực hiện thì chỉ phản ánh ở các số liệu, những đánh giá định tính
một cách chung, mà chưa chỉ ra quá trình khó khăn, nan giải khi có được kết quả
ấy, đặc biệt là những xung đột, những mặt không thành công mang tính cục bộ,
tạm thời. Các công trình nghiên cứu còn thiếu hệ thống, chủ yếu mang tính đơn
lẻ, phương pháp nghiên cứu liên ngành ít được áp dụng, do chủ yếu là những bài
viết nghiên cứu công bố trên tạp chí hoặc các chuyên khảo chuyên ngành. Tư
liệu thư tịch gốc ít được khai thác phục vụ cho nghiên cứu. Những hạn chế trên
đây đòi hỏi phải được khỏa lấp bằng các công trình nghiên cứu khác, trong đó có
nhiều vấn đề đặt ra và giải quyết trong luận án này.
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Từ tổng thuật, phân tích các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án
đã được trình bày ở trên, câu hỏi nghiên cứu của luận án là:
- Bối cảnh, điều kiện lịch sử từ năm 2001 đến năm 2011 đặt ra yêu cầu, đòi
hỏi gì cho cải cách tư pháp và tương thích với nó là xây dựng cán bộ, công chức
tư pháp? Tại sao chúng không thể tiến hành sớm hơn, đồng thời với cải cách lập
pháp và cải cách hành chính?
- Lãnh đạo cải cách tư pháp nói chung và xây dựng cán bộ, công chức tư
pháp nói riêng bao gồm những nội dung, phương thức gì? Quá trình lịch sử đó
đã giải quyết như thế nào mâu thuẫn giữa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong
mô hình nhà nước thống nhất quyền lực với tôn trọng tính độc lập của các cơ
quan pháp?
25
- Cải cách tư pháp nói chung và xây dựng cán bộ tư pháp nói riêng là lĩnh
vực nhạy cảm, đụng chạm đến các vấn đề quyền con người, tôn trọng tính độc
lập của cơ quan tư pháp,... trong quá trình lãnh đạo Đảng đã xử lý như thế nào?
- Thực tiễn Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001
đến năm 2011 có đặc điểm gì và chúng để lại giá trị gì tham khảo trong thực tế?
Từ câu hỏi nghiên cứu nêu trên, luận án tập trung vào những nội dung chủ
yếu sau:
- Làm rõ yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp; thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trước năm 2001; những
thuận lợi và khó khăn trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ
tư pháp.
- Tái hiện, phân tích và luận giải làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo xây
dựng xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001-2011), tập trung vào đội ngũ
thẩm phán, kiểm sát viên, trên các lĩnh vực: đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn, bổ
nhiệm và chính sách đối với đội ngũ cán bộ tư pháp.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá trình Đảng lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trên một số lĩnh vực chủ yếu từ năm 2001 đến
năm 2011
- Tổng kết kinh nghiệm để vận dụng vào quá trình Đảng lãnh đạo xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong giai đoạn tiếp theo.
26
Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
2.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ TƯ PHÁP (2001-2005)
2.1.1. Khái niệm cán bộ tư pháp và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
tư pháp
2.1.1.1. Khái niệm cán bộ tư pháp
Thuật ngữ cán bộ tư pháp được sử dụng khá phổ biến trong đời sống xã
hội, nhất là trong bối cảnh công cuộc cải cách tư pháp đang diễn ra hiện nay. Để
lý giải khái niệm này, trước hết phải làm rõ một số khái niệm liên quan sau đây.
Theo Từ điển Tiếng việt “tư pháp là việc xét xử các hành vi phạm pháp
và các vụ kiện tụng trong nhân dân”[104, tr.1034]. Trong Từ điển Bách khoa
Việt Nam, thuật ngữ tư pháp được giải thích ở nghĩa rất rộng. Theo đó, “tư
pháp” là khái niệm dùng để chỉ các cơ quan tòa án, việc xét xử các hành vi vi
phạm pháp luật và các vụ kiện tụng trong nhân dân, hoạt động của các cơ quan
điều tra, kiểm sát, truy tố, xét xử và thi hành án. Khái niệm tư pháp như trên vừa
chỉ chủ thể (các cơ quan tòa án), vừa chỉ hoạt động xét xử của cơ quan đó và
hoạt động của các cơ quan khác như cơ quan điều tra, kiểm sát, truy tố, xét xử và
thi hành án. Hẹp hơn nhận thức trên, Từ điển Luật học định nghĩa tư pháp là
công việc tổ chức giữ gìn, bảo vệ pháp luật. Theo Rouseau J.J: “Tư pháp là cơ
quan thiêng liêng nhất và được coi trọng nhất vì nó bảo vệ pháp luật, mà luật
do cơ quan quyền lực tối cao ban hành và do chính phủ chấp hành”[120, tr.23].
Theo nghĩa rộng nhất, tư pháp là sự công bằng, công lý và các thiết chế nhằm
duy trì, bảo đảm sự công bằng, bảo vệ nền công lý.
Quyền tư pháp, theo Từ điển Luật học là “quyền xét xử các vụ án hình
sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính…”[165, tr.657].
Hoặc “là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động
27
phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết
định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp
luật”[30; tr.11]. Ở Việt Nam, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, là thống
nhất, không phân chia, do vậy, quyền tư pháp là một trong ba bộ phận cấu
thành của quyền lực nhà nước. Quyền tư pháp được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa
hẹp là quyền xét xử của toà án; theo nghĩa rộng là bao gồm quyền xét xử của
toà án cũng như hoạt động bảo vệ pháp luật của cơ quan điều tra, viện kiểm sát,
cơ quan thi hành án nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, tôn trọng và duy trì nền công lý. Để đảm bảo sự vận
hành của nền tư pháp và giúp cho toà án đưa ra những phán quyết công minh,
kịp thời đúng pháp luật cần có sự tham gia của luật sư, công chứng, giám định tư
pháp, những hoạt động này gọi là bổ trợ tư pháp. Trong khuôn khổ phạm vi của
luận án, khái niệm quyền tư pháp được hiểu theo nghĩa rộng.
Cơ quan tư pháp, căn cứ vào các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt
động bộ máy nhà nước cũng như các văn kiện của Đảng như Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 8 khoá VII; Văn kiện Đại hội hội VIII; Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 3 khoá VIII; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khoá VIII; Văn
kiện Đại hội IX; Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp; Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ban hành năm 2013. Theo đó, quan niệm cơ quan tư pháp bao gồm toà án
nhân dân; viện kiểm sát nhân dân; cơ quan điều tra; cơ quan thi hành án. Những
cơ quan này thực hiện các hoạt động theo trình tự tố tụng. Cơ quan Bộ Tư pháp
không thực hiện quyền lực tư pháp mà là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực
tư pháp, thuộc lĩnh vực hành pháp.
Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện quyền tư pháp, bao gồm các hoạt
điều tra; hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố;
28
hoạt động xét xử; hoạt động thi hành án. Trong đó, hoạt động xét xử của toà án
là trung tâm của quá trình hoạt động tư pháp.
Cải cách tư pháp là việc tiến hành những cải cách trên lĩnh vực tư pháp
nhằm xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đối
tượng của cải cách tư pháp theo nghĩa hẹp là toàn bộ hệ thống và hoạt động thực
tiễn của đội ngũ toà án, đội ngũ thẩm phán và các quy định pháp luật có liên
quan; theo nghĩa rộng, là toàn bộ hệ thống toà án, các cơ quan bảo vệ pháp luật
như điều tra, truy tố, thi hành án, các cơ quan bổ trợ tư pháp cũng như các quy
định của pháp luật có liên quan.
Từ những phân tích lập luận trên, cán bộ tư pháp được quan niệm là
những công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm để giao giữ một nhiệm vụ
theo nhiệm kỳ trong các cơ quan tư pháp, có nhiệm vụ quyền hạn trong việc thực
hiện quyền tư pháp và trực tiếp tham gia hoạt động khởi tố điều tra, điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án.
Đối tượng cán bộ tư pháp được tập trung nghiên cứu trong luận án này
gồm: Thẩm phán là những người làm công việc xét xử chuyên nghiệp, được
tuyển chọn theo một quy trình chặt chẽ, làm việc thường xuyên trong cơ quan
toà án, thực hiện nhiệm vụ xét xử nhân danh nhà nước. Kiểm sát viên là người
đại diện cho Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động tư pháp.
2.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ tư pháp
Là người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dành một sự quan tâm đặc biệt đối với ngành tư pháp và đội ngũ
cán bộ tư pháp. Người khẳng định: Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính
quyền và tư pháp có tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt người dân mới có được hệ
thống pháp luật bảo vệ. Biểu hiện tập trung nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ tư pháp, là những tư tưởng về phẩm chất đối với cán bộ tư pháp. Đó là
lòng trung thành vô hạn đối với dân tộc, đối với Đảng, với nhân dân, là ý thức
29
phục vụ nhân dân vô điều kiện. Đó là thực hiện “Công minh, chính trực, khiêm
tốn, thận trọng, khách quan” và “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”. Đây là
các các yếu tố không thể thiếu đối với cán bộ tư pháp. “Công minh” là sự công
bằng, sáng suốt. Trong quá trình thực hiện công vụ, cán bộ tư pháp phải đối
diện với những áp lực và cám dỗ từ những yếu tố tinh thần, tình cảm, vật chất,
nếu không đủ bản lĩnh, mất đi sự sáng suốt có thể đưa ra những quyết định,
kết luận thiếu chính xác dẫn đến việc không đảm bảo sự nghiêm minh và công
bằng của luật pháp, khiến cho công lý không được thực thi. “Chính trực” là
bản tính ngay thẳng, cương trực, có ý chí, đã quyết nói và làm rồi không bao
giờ hối tiếc; luôn đứng về lẽ phải, bênh vực và bảo vệ cái đúng; trung thành với
lý tưởng, có niềm tin vững chắc. “Khiêm tốn” là luôn đánh giá đúng bản thân
mình, không tự mãn, tự kiêu, phấn đấu học hỏi để cầu tiến bộ không cho mình là
hơn người, hơn đời, biết tôn trọng ý kiến người khác, lắng nghe ý kiến tập thể.
“Thận trọng” là làm việc có đắn đo, suy tính cẩn thận trong hành động để tránh sai
sót; thận trọng mà không chậm trễ, phải đáp ứng được yêu cầu công việc; suy nghĩ
kỹ để đảm bảo giữ vững đúng chủ trương, đường lối. Người luôn nhắc nhở cán
bộ: “Tự mình phải hay nghiên cứu, xem xét; vị công vong tư; không hiếu danh,
nói thì phải làm” [88; tr.260]. “Khách quan” là không phụ thuộc vào ý chí và
nhận thức chủ quan của một cá nhân nào, mà phải biết chấp nhận, giải quyết vấn
đề nảy sinh trong hoàn cảnh cụ thể, phải lắng nghe các ý kiến; cần linh hoạt,
nhạy bén, sẵn sàng đối phó với những bất ngờ xảy đến. Người cũng nhấn mạnh
làm việc phải xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm.
Trong thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc tháng 2/1948, Hồ Chí Minh
viết: “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn
phải nêu cao cái gương “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” cho nhân dân
noi theo”[88; tr.382]. “Phụng công” nghĩa là tôn thờ lẽ công bằng, tôn thờ công
lý, không thiên lệch; là phải biết trách nhiệm của mình được Nhà nước và nhân
dân giao cho quyền thực thi pháp luật, làm việc để phụng sự đất nước, phụng sự
nhân dân. Tôn thờ công lý là yêu cầu của bất cứ người nào nắm quyền lực công,
30
nhưng với người cán bộ tư pháp đó còn là đạo đức làm người, bởi mỗi quyết
định đúng đắn hay sai lầm của cán bộ tư pháp đụng chạm đến lương tri con
người, được xem ở mức độ nhạy cảm cao nhất của “đạo đức”. “Thủ pháp” là
phải hiểu và nắm chắc luật pháp, là giữ gìn, bảo vệ pháp luật, không vì lý do gì
mà bẻ cong, làm trái pháp luật; cần phải thực thi pháp luật cho rõ ràng, minh
bạch, khách quan. “Chí công, vô tư” theo đúng quy định của pháp luật; là hết
mực công tâm; là không vì lợi ích riêng tư nào. Muốn “phụng công, thủ pháp,
chí công vô tư” thì trước hết người cán bộ tư pháp phải có bản lĩnh, có đủ năng
lực, trình độ chuyên môn và cái tâm trong sáng. Đó chính là nền tảng cho việc
xây dựng một nền tư pháp thật sự độc lập sau này.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ tư pháp hết sức gần gũi và thiết thực đối
với người làm công tác tư pháp. Đó là lòng trung thành vô hạn đối với dân tộc,
đối với Đảng, với nhân dân, là ý thức phục vụ nhân dân vô điều kiện. Đó là tư
tưởng pháp quyền nhân nghĩa, tất cả vì con người, là lòng vị tha, cao thượng.
Trong đó, đặc biệt quan điểm về “Công minh, chính trực, khiêm tốn, thận trọng,
khách quan” và “phụng công thủ pháp, chí công vô tư” phản ánh tinh thần minh
triết về xây dựng một nền tư pháp nhân văn và hiện đại, vì con người. Đây là
những phẩm chất quan trọng đối với người cán bộ tư pháp, là cơ sở lý luận định
hướng trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn
2001-2011.
2.1.2. Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp (2001-2005)
2.1.2.1. Nhu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Từ năm 1986, Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, ngoại giao, an ninh quốc
phòng…, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ tư pháp nói riêng chính
là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới,
31
nhất là đổi mới về kinh tế. Các quan hệ kinh tế trong cơ chế thị trường luôn nảy
sinh những tiêu cực, đòi hỏi Nhà nước phải giải quyết các tranh chấp kinh tế
thông qua hệ thống tư pháp và pháp luật. Một điều tất yếu là, khi nền kinh tế thị
trường ngày càng hoàn thiện, tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau thì số
lượng các quan hệ xã hội, giao lưu kinh tế diễn ra ngày càng phong phú và đa
dạng hơn, trình độ dân trí, trình độ pháp luật của nhân dân ngày càng cao hơn;
theo đó, tổ chức cá nhân biết sử dụng pháp luật làm công cụ bảo vệ quyền và lợi
ích của mình ngày càng tăng. Vì vậy, số lượng cũng như tính phức tạp của các
vụ án tranh chấp dân sự, hành chính, kinh tế, thương mại, hôn nhân gia đình
cũng như yêu cầu dân sự mà các cơ quan tư pháp giải quyết ngày càng tăng đáng
kể. Đồng thời, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội, tranh chấp, vi phạm pháp
luật tiếp tục diễn biến phức tạp; các thế lực thù địch vẫn chống phá Đảng và Nhà
nước ta quyết liệt. Tệ nạn tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đối với
sự tồn vong của chế độ và gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước. Hoạt động tội phạm có tổ chức, với sự liên kết giữa các băng, nhóm tội
phạm trong và ngoài nước xảy ra nhiều hơn. Những tội phạm phi truyền thống
như đầu cơ chứng khoán, rửa tiền, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên biên
giới… tạo ra cả mối đe dọa uy hiếp trực tiếp đến an ninh con người và an ninh
quốc gia... Tình hình này đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức nặng nề, đòi
hỏi công tác bảo vệ pháp luật phải có những chuyển biến mạnh mẽ và phấn đấu
đạt được mục tiêu xây dựng nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm minh. Điều
đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ tư pháp phải được bảo đảm về số lượng, đồng bộ về cơ
cấu và cấp bách nhất là nâng cao về chất lượng để đáp ứng được yêu cầu của xã
hội. Bên cạnh đó xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp góp phần tạo tính đồng bộ
hóa với cải cách lập pháp, hành chính và tư pháp. Giữa các lĩnh vực đó có mối
quan hệ khăng khít với nhau, đòi hỏi phải được triển khai thực hiện cải cách nhịp
nhàng, cái này làm tiền đề cho cái kia. Có như vậy mới khắc phục được tình
trạng cắt khúc, khép kín và rời rạc trong thực hiện các giải pháp cải cách nhà
nước như hiện nay.
32
2.1.2.2. Yêu cầu cải cách tư pháp gắn với xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhà nước
của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; nhà nước được tổ chức
và hoạt động trên cở sở hiến pháp và pháp luật và bảo đảm cho hiến pháp và
pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội; nhà nước
luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người và quyền công dân; theo thể chế do
một Đảng lãnh đạo và có sự giám sát của nhân dân.
Cải cách tư pháp giai đoạn 2001-2005 đã được Đảng ta đề ra trong Nghị
quyết số 08 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới” mà trọng tâm là nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao
trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp. Viện kiểm sát các cấp phải thực
hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hoạt động công
tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng
nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người
vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của người tiến hành tố tụng khi
thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà,
bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư,người bào chữa và với những người tham
gia tố tụng khác…Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm
đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên
quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời
các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về
những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê
chuẩn của mình. Toà án các cấp khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
33
chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng,
nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản
án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định.
Ngoài ra, trong giai đoạn 2001-2005, chủ trương về tăng thẩm quyền xét xử
cho toà án cấp huyện từ 5 năm đến 15 năm dẫn tới bộ máy, cán bộ trong các cơ
quan tư pháp phải chuyển động theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Đồng thời hệ
thống pháp luật ngày càng lớn với số lượng văn bản pháp luật đồ sộ đặt ra đối
với đội ngũ cán bộ tư pháp trong công tác truy tố, xét xử. Cùng với đó là sự gia
tăng của các tranh chấp, nhất là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài như thương
mại, dân sự, sở hữu trí tuệ khi đất nước hội nhập đòi hỏi rất cao về trình độ ngoại
ngữ, tin học đối với đội ngũ cán bộ tư pháp.
Với những nội dung nêu trên đặt ra cơ hội và thách thức rất lớn cho đội ngũ
cán bộ tư pháp. Từ đó phải nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ tư
pháp, để có sự đổi mới mạnh mẽ hơn, có biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ tư pháp, để tạo sự chuyển biến hiệu quả hơn trong hoạt động tư pháp.
Việc đổi mới đội ngũ cán bộ tư pháp phải tiến hành từ công tác đào tạo, tuyển
chọn, bố trí, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức. Muốn làm tốt điều này cần
có sự đánh giá một cách thực chất hơn, cụ thể hơn đội ngũ cán bộ tư pháp và
công tác quản lý tư pháp, nhất là trong điều kiện thực hiện cải cách tư pháp quốc
gia; phải có chủ trương cán bộ phù hợp với tình hình mới, có những chính sách
cụ thể để phát huy những mặt tốt, những khả năng trong hệ thống tổ chức và
trong mỗi cán bộ tư pháp. Kịp thời phát hiện và ngăn chặn những bất cập, suy
thoái trong cán bộ các cấp khi thực hiện cơ chế mới với nhiều thành phần kinh tế
và mở cửa hội nhập quốc tế.
2.1.2.3. Yêu cầu về dân chủ hóa đời sống xã hội và hội nhập quốc tế
Xu thế dân chủ hoá trên thế giới là sự gia tăng số lượng các quốc gia tham
gia vào quá trình dân chủ trên cơ sở tự do hoá nền kinh tế, thừa nhận các quyền
tự do, dân chủ của công dân, xây dựng và hoàn thiện các thể chế dân chủ. Xu thế
này bắt đầu từ việc nhận thức về vị trí và tầm quan trọng của dân chủ, các nội
34
dung và hình thức thực hiện dân chủ; từ việc tuyên truyền, giáo dục về dân chủ.
Xu thế dân chủ đòi hỏi phải giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hoá
xã hội như là những tiền đề vật chất và tinh thần cho dân chủ. Quá trình dân chủ
hoá nhằm các mục tiêu hiện thực hoá các quyền con người, quyền công dân và
được thực hiện trên cơ sở xây dựng một nhà nước pháp quyền. Xây dựng nhà
nước pháp quyền chính là một xu hướng chung của việc đổi mới các nhà nước
hiện nay và nhằm chống lại sự độc đoán chuyên quyền, sự tha hoá quyền lực, trả
lại vị thế chủ thể của nhân dân trong quá trình phát triển xã hội. Có thể nói, xu
thế dân chủ, pháp quyền là một tất yếu, là mục tiêu thiên niên kỷ mà nhân loại
hướng tới với những hy vọng lớn nhất. Ở nước ta, từ khi đổi mới, Đảng ta xác
định xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đầy đủ
quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ trở thành động lực và mục tiêu của sự
nghiệp đổi mới. Quá trình dân chủ hoá ở nước ta không thể không chịu sự tác
động của các nước trên thế giới. Một trong những kinh nghiệm của các nước là
xây dựng hệ thống các thể chế dân chủ-cơ sở pháp lý để nhà nước hành động có
hiệu quả đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và là cơ sở pháp lý để nhân dân
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy, cải cách chính trị, trong đó có cải
cách tư pháp gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có trình độ, phẩm chất
chính là nhằm đáp ứng xu thế này và chỉ khi nào người cán bộ tư pháp thật sự
công tâm, khách quan mới đảm được dân chủ, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân thông qua hệ thống tư pháp. Xu thế dân chủ, pháp quyền
đang diễn ra trên thế giới đòi hỏi các quốc gia phải tự đổi mới, nhất là cải cách
lĩnh vực tư pháp-một lĩnh vực liên quan trực tiếp đến con người và thể hiện sự
dân chủ trong đời sống chính trị, kinh tế-xã hội của các nước. Xu thế này ảnh
hưởng rất lớn đến nhận thức của Đảng khi lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới,
trong đó tư pháp là một lĩnh vực.
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội
của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị
trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra
35
dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ
thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác
động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Hội nhập
quốc tế đã là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển. Đối với
đổi mới ở nước ta, Đảng đã chủ trương mở cửa, tích cực, chủ động hội nhập
quốc tế, đặt đổi mới và phát triển nước ta trên con đường đồng thuận với các trào
lưu cải cách, tiến bộ của thế giới. Do vậy, trong giai đoạn này, Việt Nam đã hội
nhập một cách sâu rộng bằng việc tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế như
ASEAN, APEC, ASEM, đặc biệt là WTO. Do vậy, các quan hệ về hợp đồng dân
sự, thương mại, lao động… ngày càng phát triển sôi động, phong phú và đa
dạng. Cùng với đó là sự gia tăng của các tranh chấp, nhất là các tranh chấp có
yếu tố nước ngoài như thương mai, dân sự, sở hữu trí tuệ khi đất nước hội nhập,
tội phạm hình sự xuất hiện các yếu tố quốc tế... đòi hỏi rất cao về trình độ ngoại
ngữ, tin học đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Mặt khác, nền tư pháp còn chậm
theo kịp sự đòi hỏi của quá trình dân chủ hoá xã hội, nhất là bảo vệ quyền con
người trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi phải tiếp tục
có những đổi mới quan trọng. Những thách thức đặt ra cho Việt Nam khi hội
nhập là xuất phát điểm nước ta thấp; nhiều vấn đề xã hội phát sinh trong kinh tế
thị trường chậm được phát hiện và giải quyết một cách hiệu quả; các thế lực
nước ngoài không từ bỏ âm mưu diễn biến hoà bình chống phá cách mạng, thực
hiện bạo loạn, lật đổ. Để tiếp tục khai thác và tận dụng thời cơ và vượt qua các
thách thức, nguy cơ trong phát triển, Việt Nam phải đẩy mạnh đổi mới, giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, kết hợp
được nội lực và ngoại lực, xây dựng và phát triển đi liền với củng cố và bảo vệ
từ kinh tế, chính trị, văn hoá đến an ninh quốc phòng. Mấu chốt là vấn đề giữ
vững địa vị lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản và phải xây
dựng được một Nhà nước pháp quyền đủ mạnh, đủ sức để vượt qua quan liêu,
tham nhũng, không gây phản ứng và bất bình trong nhân dân, dẫn tới những
phản cảm xã hội làm suy giảm và triệt tiêu động lực phát triển. Quá trình hội
36
nhập cũng đặt ra những sức ép gay gắt đối với cải cách tư pháp nhằm thực hiện
các cam kết tư pháp mà Việt Nam đã ký kết, gắn với nó là những sửa đổi thể
chế, luật pháp, bộ máy và con người trong các cơ quan tư pháp. Xây dựng đội
ngũ cán bộ nói chung và cán bộ tư pháp nói riêng vững mạnh chính là điều kiện
để đảm bảo thật sự quyền dân chủ, quyền con người, quyền công dân đáp ứng
cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
2.1.2.4. Tình hình xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trước năm 2001
- Nhận thức và chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, các cơ quan tư
pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã được thành lập để thực
hiện những nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ của cách mạng. Hoạt động của đội ngũ
cán bộ tư pháp và mô hình tổ chức của cơ quan tư pháp trong kháng chiến chống
thực dân Pháp và trong những năm đầu xây dựng miền Bắc sau hòa bình lập lại
được xây dựng theo các bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959. Từ năm 1960 đến
năm 2000, Đảng đã ban hành một số văn bản xác định chủ trương, quan điểm chỉ
đạo đối với công tác tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói
riêng như Thông Tri số 13-TT/TW của Ban Bí thư ngày 12/12/1960 về “Tăng
cường lãnh đạo công tác kiểm sát”[178, tr.34]; Nghị quyết số 68/NQ/TW của Bộ
Chính trị ngày 01/02/1963 về “Công tác kiểm sát” [178, tr.38]; Thông báo số 07-
TB/TW, ngày 16/05/1978 ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư về “Công tác của viện
kiểm sát nhân dân và toà án nhân dân” [178, tr.71]; Chỉ thị số 57-CT/TW của
Ban Bí thư, ngày 30/01/1985 về “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
ngành kiểm sát, toà án, tư pháp” [178, tr.98]. Đội ngũ cán bộ tư pháp thời kỳ
trước đổi mới đã góp phần quan trọng trong công cuộc giải phóng dân tộc và cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên do những điều kiện lịch sử nhất định mà
đội ngũ cán bộ tư pháp vẫn chưa được chú trọng, quan tâm xây dựng đúng mức.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng khởi xướng công
cuộc đổi mới toàn diện Đảng đã chủ trương đổi mới công tác cán bộ nói chung
gắn liền với quá trình cải cách và hoàn thiện bộ máy của Nhà nước. Đại hội VI
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011
Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011

More Related Content

What's hot

Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAYLuận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Pháp luật về cán bộ ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận án: Pháp luật về cán bộ ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận án: Pháp luật về cán bộ ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận án: Pháp luật về cán bộ ở Việt Nam hiện nay, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019
PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019
PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019
KhoTi1
 
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sựNâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Hoàn thiện tổ chức bộ máy của kiểm toán nhà nước
Luận văn: Hoàn thiện tổ chức bộ máy của kiểm toán nhà nướcLuận văn: Hoàn thiện tổ chức bộ máy của kiểm toán nhà nước
Luận văn: Hoàn thiện tổ chức bộ máy của kiểm toán nhà nước
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAY
Luận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAYLuận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAY
Luận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAYLuận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Pháp luật về kiểm toán và xây dựng nhà nước pháp quyền, HOT
Pháp luật về kiểm toán và xây dựng nhà nước pháp quyền, HOTPháp luật về kiểm toán và xây dựng nhà nước pháp quyền, HOT
Pháp luật về kiểm toán và xây dựng nhà nước pháp quyền, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đ
Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đVai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đ
Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đ
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
BÁO CÁO TỔNG LUẬN VÀ SO SÁNH PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VỀ VIÊN CHỨC_10501112092019
BÁO CÁO TỔNG LUẬN VÀ SO SÁNH PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VỀ VIÊN CHỨC_10501112092019BÁO CÁO TỔNG LUẬN VÀ SO SÁNH PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VỀ VIÊN CHỨC_10501112092019
BÁO CÁO TỔNG LUẬN VÀ SO SÁNH PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VỀ VIÊN CHỨC_10501112092019
hanhha12
 
Luận văn: Thanh tra tỉnh Phong Sa Ly, nước CHDCND Lào, 9đ
Luận văn: Thanh tra tỉnh Phong Sa Ly, nước CHDCND Lào, 9đLuận văn: Thanh tra tỉnh Phong Sa Ly, nước CHDCND Lào, 9đ
Luận văn: Thanh tra tỉnh Phong Sa Ly, nước CHDCND Lào, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện...
Đề tài: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện...Đề tài: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện...
Đề tài: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện...
Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Zalo/Telegram 0917193864
 
Luận án: Pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh, HAY
Luận án: Pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh, HAYLuận án: Pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh, HAY
Luận án: Pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sựLuận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụngLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCNTính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (17)

Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAYLuận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
 
Luận án: Pháp luật về cán bộ ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận án: Pháp luật về cán bộ ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận án: Pháp luật về cán bộ ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận án: Pháp luật về cán bộ ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019
PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019
PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019
 
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sựNâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
 
Luận văn: Hoàn thiện tổ chức bộ máy của kiểm toán nhà nước
Luận văn: Hoàn thiện tổ chức bộ máy của kiểm toán nhà nướcLuận văn: Hoàn thiện tổ chức bộ máy của kiểm toán nhà nước
Luận văn: Hoàn thiện tổ chức bộ máy của kiểm toán nhà nước
 
Luận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAY
Luận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAYLuận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAY
Luận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAY
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAYLuận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Quản lý nhà nước về luật sư tại tỉnh Tiền Giang, HAY
 
Pháp luật về kiểm toán và xây dựng nhà nước pháp quyền, HOT
Pháp luật về kiểm toán và xây dựng nhà nước pháp quyền, HOTPháp luật về kiểm toán và xây dựng nhà nước pháp quyền, HOT
Pháp luật về kiểm toán và xây dựng nhà nước pháp quyền, HOT
 
Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đ
Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đVai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đ
Vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết các vụ án hành chính, 9đ
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
BÁO CÁO TỔNG LUẬN VÀ SO SÁNH PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VỀ VIÊN CHỨC_10501112092019
BÁO CÁO TỔNG LUẬN VÀ SO SÁNH PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VỀ VIÊN CHỨC_10501112092019BÁO CÁO TỔNG LUẬN VÀ SO SÁNH PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VỀ VIÊN CHỨC_10501112092019
BÁO CÁO TỔNG LUẬN VÀ SO SÁNH PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC VỀ VIÊN CHỨC_10501112092019
 
Luận văn: Thanh tra tỉnh Phong Sa Ly, nước CHDCND Lào, 9đ
Luận văn: Thanh tra tỉnh Phong Sa Ly, nước CHDCND Lào, 9đLuận văn: Thanh tra tỉnh Phong Sa Ly, nước CHDCND Lào, 9đ
Luận văn: Thanh tra tỉnh Phong Sa Ly, nước CHDCND Lào, 9đ
 
Đề tài: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện...
Đề tài: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện...Đề tài: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện...
Đề tài: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hiện...
 
Luận án: Pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh, HAY
Luận án: Pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh, HAYLuận án: Pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh, HAY
Luận án: Pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sựLuận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụngLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
 
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCNTính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
Tính đại diện của Quốc hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước XHCN
 

Similar to Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011

Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAY
Luận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAYLuận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAY
Luận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong quân đội nhân dân Việt NamLuận văn: Giáo dục pháp luật trong quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong quân đội nhân dân Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰVAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo các chức danh tư pháp, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT, 9đ
Luận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT, 9đLuận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT, 9đ
Luận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp tại Học viện
Luận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp tại Học việnLuận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp tại Học viện
Luận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp tại Học viện
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdfxây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
NhungTran576087
 
Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đ
Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đTổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đ
Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Cải cách hệ thống tòa án Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền
Cải cách hệ thống tòa án Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyềnCải cách hệ thống tòa án Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền
Cải cách hệ thống tòa án Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hi...
Luận văn: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hi...Luận văn: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hi...
Luận văn: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hi...
Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Bồi dưỡng phương pháp tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên
Luận văn: Bồi dưỡng phương pháp tác phong công tác của đội ngũ điều tra viênLuận văn: Bồi dưỡng phương pháp tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên
Luận văn: Bồi dưỡng phương pháp tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên
Dịch Vụ Viết Luận Văn Thuê ZALO/TELEGRAM 0934573149
 
Đề tài: Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Cảnh sát
Đề tài: Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Cảnh sátĐề tài: Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Cảnh sát
Đề tài: Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Cảnh sát
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Công Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docx
Công Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docxCông Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docx
Công Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docx
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Quản lý về hoạt động thi hành án dân sự hiện nay, HAY
Luận văn: Quản lý về hoạt động thi hành án dân sự hiện nay, HAYLuận văn: Quản lý về hoạt động thi hành án dân sự hiện nay, HAY
Luận văn: Quản lý về hoạt động thi hành án dân sự hiện nay, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng ở Việt Nam
Luận văn: Tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng ở Việt NamLuận văn: Tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng ở Việt Nam
Luận văn: Tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng ở Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAYLuận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa ánPháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Công an tỉnh Bạc Liêu
Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Công an tỉnh Bạc LiêuTác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Công an tỉnh Bạc Liêu
Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Công an tỉnh Bạc Liêu
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011 (20)

Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính Việt Nam
 
Luận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAY
Luận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAYLuận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAY
Luận án: Văn hóa pháp luật trong các cơ quan hành chính, HAY
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong quân đội nhân dân Việt NamLuận văn: Giáo dục pháp luật trong quân đội nhân dân Việt Nam
Luận văn: Giáo dục pháp luật trong quân đội nhân dân Việt Nam
 
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰVAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo các chức danh tư pháp, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT
 
Luận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT, 9đ
Luận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT, 9đLuận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT, 9đ
Luận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp, HOT, 9đ
 
Luận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp tại Học viện
Luận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp tại Học việnLuận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp tại Học viện
Luận văn: Quản lý về đào tạo các chức danh tư pháp tại Học viện
 
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdfxây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
 
Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đ
Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đTổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đ
Tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Hoài Đức, Hà Nội, 9đ
 
Cải cách hệ thống tòa án Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền
Cải cách hệ thống tòa án Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyềnCải cách hệ thống tòa án Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền
Cải cách hệ thống tòa án Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền
 
Luận văn: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hi...
Luận văn: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hi...Luận văn: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hi...
Luận văn: Tuyển dụng viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở nước ta hi...
 
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Bồi dưỡng phương pháp tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên
Luận văn: Bồi dưỡng phương pháp tác phong công tác của đội ngũ điều tra viênLuận văn: Bồi dưỡng phương pháp tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên
Luận văn: Bồi dưỡng phương pháp tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên
 
Đề tài: Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Cảnh sát
Đề tài: Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Cảnh sátĐề tài: Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Cảnh sát
Đề tài: Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Cảnh sát
 
Công Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docx
Công Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docxCông Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docx
Công Lý Và Sự Thể Hiện Công Lý Trong Hiến Pháp Việt Nam.docx
 
Luận văn: Quản lý về hoạt động thi hành án dân sự hiện nay, HAY
Luận văn: Quản lý về hoạt động thi hành án dân sự hiện nay, HAYLuận văn: Quản lý về hoạt động thi hành án dân sự hiện nay, HAY
Luận văn: Quản lý về hoạt động thi hành án dân sự hiện nay, HAY
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng ở Việt Nam
Luận văn: Tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng ở Việt NamLuận văn: Tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng ở Việt Nam
Luận văn: Tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng ở Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAYLuận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lý viên chức thuộc Bộ Tư pháp, HAY
 
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa ánPháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
Pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
 
Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Công an tỉnh Bạc Liêu
Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Công an tỉnh Bạc LiêuTác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Công an tỉnh Bạc Liêu
Tác phong công tác của đội ngũ điều tra viên Công an tỉnh Bạc Liêu
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
duykhoacao
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
Qucbo964093
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
nvlinhchi1612
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
phamthuhoai20102005
 

Recently uploaded (10)

Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
 

Đảng Cộng sản xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ 2001 đến 2011

  • 1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN VĂN KHOA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ CHUYÊN NGÀNH: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 62 22 03 15 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. ĐOÀN MINH HUẤN 2. PGS.TS. TRẦN TRỌNG THƠ HÀ NỘI – 2017
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, chính xác, đảm bảo khách quan, khoa học, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Tác giả luận án Nguyễn Văn Khoa
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trang 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 6 1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án 6 1.2. Đánh giá kết quả các công trình đã được công bố và những vấn đề luận án tập trung làm rõ 23 Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 26 2.1. Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001- 2005) 26 2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001 - 2005) 41 Chương 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2011 64 3.1. Những nhân tố tác động và chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2005 - 2011) 64 3.2 Quá trình chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2005 - 2011) 75 Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 99 4.1. Nhận xét quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011 99 4.2. Một số kinh nghiệm 124 KẾT LUẬN 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 171
  • 4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bất kỳ hình thức tổ chức bộ máy nhà nước nào, dù theo chế độ phân quyền hay tập quyền, thì tư pháp vẫn được coi là một bộ phận cấu thành quyền lực công, thể hiện quyền uy của Nhà nước đối với xã hội cũng như năng lực bảo vệ công lý. V.I.Lênin đã từng khẳng định: Một nền tư pháp tồi, xã hội sẽ phải trả một giá đắt. Luận điểm này cho thấy, công tác tư pháp luôn giữ vai trò quan trọng trong các phương diện hoạt động của Nhà nước. Trong Thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ IV vào tháng 2 năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính quyền góp phần mình thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Đồng thời, ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu, phá hoại chế độ, phá hoại lợi ích của nhân dân” [8, tr.10]. Công tác tư pháp trong tiến trình cách mạng Việt Nam đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Bước vào công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, công tác tư pháp càng được coi trọng, nó phản ánh tính dân chủ và pháp quyền, là công cụ xây dựng một thể chế chính trị trong sạch, vững mạnh, dân chủ, bảo vệ công lý và các quyền con người trong thế giới văn minh. Tuy nhiên chất lượng công tác tư pháp chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, còn án oan, án sai, vi phạm các quyền con người, quyền công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và nền pháp trị. Những thành tựu cũng như những hạn chế trong lĩnh vực tư pháp đều lên quan đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công tác cán bộ, trong đó chú trọng đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh. Đội ngũ cán bộ tư pháp đã có bước phát triển mới về chất lượng và số lượng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, song vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của đời sống xã hội. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
  • 5. 2 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về “Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020”, nhận định: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí một số cán bộ sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp” [50, tr.1]. Bên cạnh đó, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học vào nghiên cứu luật pháp quốc tế phục vụ cho hoạt động xét xử của đội ngũ cán bộ tư pháp cũng còn hạn chế.Từ đó dẫn tới tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử, xâm phạm và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nhiều vấn đề liên quan đến xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài, sỡ hữu trí tuệ, thương mại quốc tế, các loại tội phạm hình sự xuyên quốc gia còn bất cập, khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học vào nghiên cứu luật pháp quốc tế phục vụ cho hoạt động xét xử đối với đội ngũ cán bộ tư pháp còn hạn chế. Đó là chưa kể yêu cầu xây dựng đạo đức nghề nghiệp tư pháp cũng rất đặc thù, ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, đạo đức của Đảng cầm quyền. Thực tế cho thấy, nếu như tham nhũng trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp gây nhức nhối trong xã hội thì tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp thường bị đánh giá thiếu đạo đức hơn nhiều lần, do nó làm thay đổi cán cân công lý, đụng chạm đến những quyền tư pháp của con người. Nghiên cứu nội dung Đảng lãnh đạo công tác tư pháp, trong đó có lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp làm sâu sắc thêm vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với công cuộc đổi mới nói chung cũng như trong lĩnh vực tư pháp, trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp phục vụ công cuộc đổi mới. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, việc xây dựng được một đội ngũ cán bộ tư pháp có trình độ, có năng lực toàn diện và phẩm chất tốt để giải quyết tốt những yêu cầu xét xử do công cuộc cải cách tư pháp trong thời kỳ hội nhập quốc tế là một yêu cầu bức thiết. Đến nay, vẫn còn thiếu những nghiên cứu khoa học làm cơ sở cho những giải pháp thực sự rõ ràng, đồng bộ, hiệu quả để thực hiện cải cách tư pháp. Đặc biệt với cơ chế quản lý cán bộ theo các ngành hiện nay, bảo đảm đồng bộ hóa về chất lượng cán bộ tư pháp là điều rất khó thực hiện. Trong khi đó, nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp, trước hết và đột
  • 6. 3 phá phải bắt đầu từ nâng cao chất lượng cán bộ tư pháp. Muốn thực hiện đạt kết quả tốt nhất, rất cần phải nghiên cứu có hệ thống quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp để có một cách nhìn toàn diện về thành công, hạn chế, đúc kết những kinh nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn hiện nay. Với ý nghĩa đó, việc nghiên cứu Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có ý nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng trong quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án Làm sáng rõ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án - Làm rõ yêu cầu khách quan và những yếu tố tác động đến quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011. - Phân tích, luận giải, làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp qua hai giai đoạn: 2001-2005 và 2005- 2011. - Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân từ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn 2001-2011 - Đúc kết một số kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Luận án tập trung nghiên cứu tiến trình, chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001 đến năm 2011.
  • 7. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án - Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về các mặt công tác đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn, bổ nhiệm; chính sách đối với cán bộ tư pháp; kết quả và tác động của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đối với nền tư pháp cũng như với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nội hàm cán bộ tư pháp bao gồm nhiều đối tượng, luận án tiếp cận đối tượng cán bộ tư pháp là thẩm phán trong cơ quan Toà án và kiểm sát viên trong cơ quan Viện kiểm sát. - Về thời gian: Nghiên cứu quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh sử dụng một số tư liệu liên quan trước năm 2001 và sau năm 2011. - Về không gian: Nghiên cứu trong phạm vi cả nước, song, tập trung khảo sát một số cơ quan đơn vị liên quan trực tiếp đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp ở Trung ương và một số địa phương. 4. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về tư pháp gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cán bộ và công tác cán bộ. 4.2. Nguồn tư liệu nghiên cứu - Luận án khai thác một số tác phẩm kinh điển của C.Mác và V.I. Lênin; đặc biệt các tác phẩm của Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước về tư pháp và cán bộ tư pháp. - Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam; các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương; các Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác tư pháp và cải cách tư pháp; một số bộ luật, luật, pháp lệnh, chỉ thị của Nhà nước và Chính phủ về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp.
  • 8. 5 - Các kế hoạch, chương trình hành động; các đề án cụ thể; báo cáo tổng kết của các cơ quan tư pháp như Toà án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, những tổng kết của các cơ sở đào tạo cán bộ tư pháp. - Các sách tham khảo, chuyên khảo, luận án, luận văn, hội thảo, kỷ yếu, đề tài khoa học, các bài báo trên các tạp chí nghiên cứu đã công bố liên quan đến xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị giúp việc hoàn thành các nội dung nghiên cứu của luận án. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc và kết hợp chặt chẽ hai phương pháp đó. Đồng thời còn sử dụng một số phương pháp phổ dụng khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... nhằm sáng tỏ những vấn đề luận án đặt ra cần giải quyết. 5. Đóng góp mới của luận án - Hệ thống hoá chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, qua đó khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Định dạng một số đặc trưng trong tiến trình lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng cán bộ tư pháp, một lĩnh vực phải giải quyết mâu thuẫn giữa bảo đảm tính lãnh đạo thống nhất của Đảng với tôn trọng nguyên tắc độc lập tương đối của lĩnh vực tư pháp. - Phân tích, đánh giá, rút ra được các nhận xét, kết luận về Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp; tổng kết một số kinh nghiệm có ý nghĩa cho vận dụng vào giai đoạn mới. 6. Bố cục của luận án Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung của luận án gồm 4 chương 8 tiết.
  • 9. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Do vị trí, tầm quan trọng của vấn đề, trong những năm qua, giới khoa học trong nước và ngoài nước đã nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể phân chia thành các nhóm sau. 1.1.1. Nhóm nghiên cứu chung về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp - Các nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp gắn với cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Cuốn “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” của Trần Đình Thắng [151] là công trình nghiên cứu công phu, toàn diện dưới góc độ luật học về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Bắt đầu từ trình bày khái niệm, định dạng đặc điểm, phân loại, nhiệm vụ, quyền hạn, khái lược những vấn đề lịch sử, phân tích thực trạng,... Công trình đã xác định những yêu cầu và đề xuất giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam Tác giả Đào Trí Úc trong cuốn “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [183] đã đề cập đến khái niệm tư pháp, nhiệm vụ, nguyên tắc cải cách tư pháp; đổi mới chế độ thẩm phán và đội ngũ thẩm phán; thực trạng đội ngũ thẩm phán toà án nhân dân địa phương. Cuốn “Góp phần tìm nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền” của Bùi Ngọc Sơn [121] trong trình bày những vấn đề chung về Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền, đã dành một phần bài về toà án trong nhà nước pháp quyền với tính độc lập trong xét xử trong hoạt động; vai trò độc lập toà án trong việc bảo đảm thực hiện các yêu cầu nhà nước pháp quyền; yêu cầu tăng trách nhiệm và nâng cao chất lượng, quan tâm đúng mức đời sống vật chất cho các thẩm phán.
  • 10. 7 Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí trong cuốn:“Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” [27] đã đề cập một số khía cạnh đáng quan tâm. Đây là công trình nghiên cứu về cải cách tư pháp từ sau khi có Nghị quyết 08 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp. Công trình đã phân tích, khái quát một số vấn đề chung trong cải cách tư pháp như mục tiêu, đối tượng, phương hướng và các giải pháp cơ bản thực hiện của cải cách tư pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền; đặc biệt đề cập đến lương tâm của người thẩm phán trong xét xử đảm bảo quyền con người trong cải cách tư pháp. Tác giả Nguyễn Đăng Dung trong cuốn “Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền” [30] đã đi sâu làm rõ vị trí, vai trò của thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền; thể chế tư pháp ở một số quốc gia và đặc biệt làm rõ một số vấn đề thể chế tư pháp trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến các vấn đề như: quá trình hình thành và phát triển của hệ thống Toà án ở Việt Nam gắn liền với hoạt động của đội ngũ thẩm phán, nghiên cứu nhiệm kỳ của thẩm phán, vấn đề thay thế chế định bầu cử thẩm phán bằng bổ nhiệm theo Hiến pháp 1992, vấn đề tuyển chọn thẩm phán, vấn đề trách nhiệm, nâng cao chất lượng, biện pháp ổn định công tác cho đội ngũ thẩm phán. Tác giả Phạm Quý Tỵ với bài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân” [147] đã khái quát mô hình toà án được tổ chức theo thẩm quyền xét xử; đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử; phân định rõ ràng thẩm quyền quản lý và thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan toà án; đặc biệt đề cập đến đổi mới trình tự thủ tục bổ nhiệm thẩm phán theo hướng thẩm phán được bổ nhiệm dài hạn, không theo nhiệm kỳ; Nhà nước cần phải đảm bảo về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ cho thẩm phán, tạo điều kiện để thẩm phán độc lập khi xét xử. Tác giả Trương Hoà Bình với bài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” [6] đã khái quát thực trạng, những bất cập, hạn chế của đội ngũ cán bộ tư pháp
  • 11. 8 trong cơ quan Toà án nhân dân như số lượng, chất lượng, cơ cấu, biên chế. Đặc biệt công trình đã đưa ra những định hướng lớn trong đổi mới hệ thống toà án theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc đơn vị hành chính; làm rõ nguyên tắc tổ chức, hoạt động và biên chế đội ngũ cán bộ của toà án sơ thẩm khu vực, Toà án phúc thẩm, Toà án thượng thẩm, Toà án tối cao, qua đó cũng kiến nghị về xây dựng đội ngũ cán bộ cho phù hợp với từng loại toà án. Nhóm công trình tiếp cận từ góc độ chính trị học hoặc luật học, bàn sâu sắc các khía cạnh kỹ thuật tư pháp với những yêu cầu đặt ra cho đội ngũ cán bộ tư pháp cả về phẩm chất và năng lực. Xây dựng cán bộ tư pháp trong các nghiên cứu này gắn chặt với yêu cầu cải cách tư pháp theo đường lối, chủ trương của Đảng. Tất nhiên, hạn chế của những nghiên cứu này là chưa cho thấy rõ tiến trình lịch sử, vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư pháp, cơ sở lý thuyết của các đề xuất này, thậm chí nhiều nghiên cứu chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi lý thuyết cấu trúc quyền lực tư pháp trong các mô hình dân chủ phương Tây. Có nghiên cứu lại bị ảnh hưởng nhiều cách tiếp cận của các lý thuyết về nhà nước Xô-viết trước đây, sâu xa là nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, nên lĩnh vực tư pháp nói chung và công chức tư pháp đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng một cách xơ cứng. - Các nghiên cứu về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Đào Xuân Tiến với bài viết “Đào tạo thẩm phán” [145] đã khái quát năng lực, trình độ chuyên môn của các thẩm phán. Tác giả nêu lên thực trạng công tác đào tạo thẩm phán trước năm 2002 còn chồng chéo, nhiều cơ sở đào tạo do nhiều cơ quan quản lý khác nhau; đưa ra hướng đổi mới như xây dựng chương trình, đào tạo lại đội ngũ thẩm phán về chuyên môn nghiệp vụ và bổ sung những kiến thức ngoại ngữ, tin học; kiến thức về sở hữu trí tuệ; tập trung các cơ sở đào tạo thành một mối. Bài viết “Về vấn đề đào tạo nguồn để bổ nhiệm các chức danh tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Phạm Mạnh Hùng [92] đã phân tích tính đặc thù của đào
  • 12. 9 tạo nguồn để bổ nhiệm đối với các chức danh tư pháp như thẩm phán, kiểm sát viên; có so sánh với công tác đào tạo của một số nước; đặt ra yêu cầu chuyên môn hoá của các ngành như đào tạo thẩm phán cần giao cho ngành toà án đảm nhiệm và kiểm sát viên do ngành kiểm sát thực hiện. Tác giả Nguyễn Hữu Hậu với bài viết “Một số suy nghĩ về định hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm sát trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế” [75] đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện đào tạo bồi dưỡng cán bộ kiểm sát viên như sự chồng chéo giữa Học viện tư pháp với Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (nay là Đại học Kiểm sát); tình hình nhận thức chưa đúng mức về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát là “đào tạo nghề”-một loại hình đào tạo đặc thù ngành kiểm sát; chưa có Hội đồng thẩm định chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát chính thống theo chuẩn quốc gia. Từ đó, tác giả đề xuất một số định hướng về công tác đào tạo, bồi dưỡng; về xây dựng chương trình, hoàn chỉnh giáo trình cho từng loại hình; về đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng; về củng cố phát triển đội ngũ giảng dạy; về cải tạo, nâng cấp cơ sở, vật chất phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của tác giả Phan Chí Hiếu “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020” [17] đã nêu lên cơ sở lý luận xây dựng Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020. Trên cơ sở đó, đề tài khái quát thực trạng đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp và hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có chức danh tư pháp, đặc biệt nhấn mạnh đến đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên như đội ngũ thẩm phán còn thiếu về số lượng; cơ cấu đội ngũ thẩm phán chưa đảm bảo; chất lượng đội ngũ thẩm phán còn hạn chế về trình độ chuyên môn, trình độ chính trị, trình độ ngoại ngữ tin học; đạo đức thẩm phán. Đề tài khái quát thực trạng chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp; công tác đào tạo kiểm sát viên cũng có những bất cập như thay đổi về tên gọi, chức năng nhiệm vụ của cơ sở đào tạo; còn chồng chéo trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Từ đó, đề tài đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng, trình
  • 13. 10 phê duyệt và tổ chức thực thi Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp đến năm 2020, trong đó đội ngũ thẩm phán và kiểm sát viên là một bộ phận. Ngoài ra còn có một số đề tài khoa học cấp cơ sở nghiên cứu về đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp do Học viện Tư pháp tiến hành, với nhiều chủ đề khác nhau như: “Những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn thẩm phán”[80]; “Xây dựng chương trình đào tạo kiểm sát viên-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [81]; “Đào tạo các chức danh tư pháp phục vụ công cuộc cải cách tư pháp” [83]. Ngoài ra, ngành Toà án, Kiểm sát, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của ngành, cũng đã triển khai nghiên cứu các đề tài khoa học về đội ngũ cán bộ của ngành như: “Đào tạo thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao” do Toà án nhân dân tối cao thực hiện [127]. Nội dung của các đề tài này, dưới nhiều góc độ, cách tiếp cận khác nhau, trên mức độ ít nhiều có đề cập đến việc thực hiện chủ trương của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của từng ngành và chủ yếu đi sâu khái quát thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ tư pháp nói chung và đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo pháp luật và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ chức danh tư pháp. Song, do quy mô và tính chất là đề tài cấp cơ sở, hoặc do phạm vi nghiên cứu riêng của từng ngành, nên các đề tài không thể triển khai một cách toàn diện và sâu sắc. - Các nghiên cứu về sử dụng, tuyển chọn-bổ nhiệm đội ngũ cán bộ tư pháp. Năm 2003, Trường Đại học Luật Hà Nội triển khai nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ: “Điều tra cơ bản đánh giá thực trạng đào tạo, sử dụng cán bộ pháp lý đối với sự phát triển của đất nước thế kỷ XX” [163]. Đề tài tập trung điều tra việc sử dụng cử nhân luật sau khi tốt nghiệp đại học, trong đó ngành luật là một lĩnh vực lớn. Đề tài tập trung khảo sát, đánh giá tình hình sử dụng cán bộ pháp lý sau khi tốt nghiệp đại học, không nghiên cứu chuyên sâu sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Xây dựng cơ chế thi tuyển tư pháp quốc gia đáp ứng yêu cầu cải cách Tư pháp” [18] đã làm rõ cơ chế thi tuyển tư pháp quốc gia, lợi thế cũng như vai trò của thi
  • 14. 11 tuyển tư pháp quốc gia trong mối quan hệ với các yêu cầu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra trong bối cảnh cải cách tư pháp và đổi mới giáo dục đại học hiện nay; tìm hiểu kinh nghiệm nước ngoài về thi tuyển đào tạo các chức danh tư pháp, trên cơ sở tổng kết, đánh giá khả năng áp dụng vào mô hình tuyển sinh đào tạo cán bộ tư pháp ở Việt Nam; tổng kết một cách toàn diện về thực trạng công tác tuyển sinh để đào tạo các chức danh tư pháp tại Học viện Tư pháp từ trước đến nay. Tác giả làm rõ cơ sở thực tiễn và sự cần thiết phải xây dựng kỳ thi tuyển tư pháp quốc gia; xây dựng mô hình thi tuyển tư pháp quốc gia, trong đó xác định rõ đối tượng dự thi, nội dung thi tuyển, hình thức thi tuyển, Hội đồng thi tuyển tư pháp quốc gia; làm rõ các điều kiện đảm bảo cho việc thực thi mô hình thi tuyển này trên thực tế. Đề tài sử dụng phương pháp khảo sát thực tiễn như một công cụ nghiên cứu kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh kinh nghiệm. - Các nghiên cứu về giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Trương Thị Hoà với bài viết “Cải cách tư pháp và việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn cho cán bộ cơ quan tư pháp” [78] đã nêu lên thực trạng của hoạt động tư pháp như pháp luật không rõ ràng, minh bạch tạo điều kiện cho tham nhũng; thực tiễn xét xử qua quá nhiều cấp, chưa tuân thủ đúng nguyên tắc hai cấp xét xử. Tác giả khẳng định: Nâng cao đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn của cán bộ tư pháp là bộ phận quan trọng trong nội dung cải cách tư pháp. Các biện pháp để nâng cao như cải tiến chương trình đào tạo gắn với giáo dục đạo đức nghề nghiệp; tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Hoàng Văn Linh với bài viết “Một số suy nghĩ về đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán trong cải cách tư pháp hiện nay”[96] đã đưa ra quan niệm về đạo đức người thẩm phán và nhấn mạnh đến việc xây dựng những phẩm chất đạo đức người thẩm phán như: Luôn đề cao ý thức bảo vệ pháp chế xã hội
  • 15. 12 chủ nghĩa, bảo vệ công lý và công bằng xã hội; tận tâm phục vụ nhân dân; phẩm chất về giao tiếp với công việc và đồng nghiệp; có lối sống lành mạnh, liêm chính, có ý thức tổ chức kỷ luật, thường xuyên bồi duỡng nhân cách. Công trình “Đạo đức Nghề luật”[87] là kết quả hợp tác giữa Học viện Tư pháp của Việt Nam với Dự án phát triển tư pháp và sự tham gia từ cơ sở (JUDGE), tư vấn biên soạn bởi GS.TREVOR C.W.FARROW và tài trợ bởi CIDA, đã khái quát đặc điểm của nghề luật nói chung, đặc điểm nghề của các đội ngũ cán bộ tư pháp như thẩm phán, kiểm sát viên. Các tác giả đã đưa ra kinh nghiệm của một số nước như Canađa, Trung Quốc, Liên bang Nga, Cộng hoà Liên bang Đức, Hoa Kỳ trong việc xây dựng quy tắc đạo đức và ứng xử trong thực tiễn truy tố, xét xử của đội ngũ cán bộ tư pháp. Nhóm nghiên cứu trên đây chủ yếu đi sâu vào những mặt công tác cụ thể của xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp như đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn-bổ nhiệm; khái quát thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; đưa ra các yêu cầu, tiêu chí cũng như giải pháp thực hiện để xây dựng và hình thành các phẩm chất quan trọng của người cán bộ tư pháp; kinh nghiệm nước ngoài về xây dựng bộ quy tắc ứng xử đạo đức nghề nghiệp đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Một số lý thuyết nhân học xã hội, lý thuyết hành vi, lý thuyết lựa chọn công, lý thuyết đạo đức nhóm,... được tác giả nhóm nghiên cứu này sử dụng trong nghiên cứu. Hạn chế của nhóm này là chưa dựa vào dữ liệu lịch sử để làm rõ các luận cứ, nhận xét; ít đề cập đến mối quan hệ chính trị với tư pháp nói chung và mối quan hệ giữa đường lối chính trị, tác động chính trị đối với nhân viên tư pháp trên các khâu tư tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp, đào tạo.... Nhóm nghiên cứu này có thể kế thừa một số nhận định, kết luận và rất có ý nghĩa khi xem xét thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trên các chiều cạnh khác nhau từ tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đến sử dụng công chức tư pháp.
  • 16. 13 1.1.2. Nhóm nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp. - Nhóm nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh với ý nghĩa cơ sở phương pháp luận trong hoạch định chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Vũ Đình Hòe, một người tốt nghiệp đại học luật ở Pháp, tham gia Đảng Dân chủ Việt Nam, là Bộ trưởng Tư pháp trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong cuốn hồi ký “Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh”[79] đã trình bày suy nghĩ của ông đối về tư tưởng hiến chính và pháp quyền của Hồ Chí Minh. Ông cho rằng, Hồ Chí Minh có một tư duy pháp lý nhạy bén tuyệt vời, gần như thiên bẩm, hiểu thấu và thi hành một cách sáng tạo lý luận và thực tiễn chế độ Nhà nước-pháp quyền của thời đại và thế giới văn minh. Tư tưởng của Người đã dẫn dắt Vũ Đình Hòe trên cương vị Bộ trưởng Tư pháp cũng như cải hóa một thế hệ “cán bộ pháp lý khả thủ, dần dần biết suy nghĩ và hành động đúng đắn”[81, tr.6], đặc biệt là tư tưởng về một nền pháp quyền nhân nghĩa, một nền tư pháp “phụng công thủ pháp”, “nhân ái, công bình, độ lượng có sức thuyết phục, cảm hóa cao”[81, tr.212]. Tác giả Bùi Ngọc Sơn với bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức toà án và ý nghĩa hiện nay”[121] đã trình bày nguyên tắc, tiêu chuẩn, thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán theo tư tưởng Hồ Chí Minh như thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm; thẩm phán phải có cử nhân luật, phải trải qua một kỳ thi để đảm bảo trình độ nghiệp của thẩm phán và khi đã được bổ nhiệm phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, phụng công thủ pháp, chí công vô tư. Ở đây đã kết hợp giữa nghiên cứu tư tưởng với sự chuyển hóa của tư tưởng trong thực tế đời sống. Tác giả Phạm Quốc Anh trong bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về hoạt động tư pháp”[1] đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng, kim chỉ nam cho hoạt động tư pháp và thực hiện cải cách tư pháp. Tác giả nhấn mạnh Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm hoạt động khoa học và thái độ đúng đắn, khách quan, cầu thị đối với công việc đối với cán
  • 17. 14 bộ các cơ quan tư pháp. Ngoài ra tác giả khái quát đường lối, quan điểm của Đảng về công tác tư pháp. Bài viết “Nghiên cứu, học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền tư pháp cách mạng” của Khuất Văn Nga [107] đã nhấn mạnh cần quán triệt ba ý tưởng lớn của Hồ Chí Minh là một nền tư pháp vì dân; một nền tư pháp “xử án cho giỏi thì tốt nhưng làm thế nào không có kiện xử thì tốt hơn”; một nền tư pháp đối với đội ngũ cán bộ: “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”. Tác giả khẳng định ba ý tưởng trên của Hồ Chí Minh về tư pháp đang là trụ cột cho sự nghiệp cải cách tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Nhóm nghiên cứu này đã cho thấy vai trò thiết kế tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với nền tư pháp Việt Nam, một nền tư pháp độc lập, gần dân, hướng tới và bảo đảm quyền và lợi ích cho nhân dân và đề ra các yêu cầu, tiêu chí xây dựng đội ngũ cán bộ bộ tư pháp; các phẩm chất mà đội ngũ cán bộ tư pháp phải có như “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”. Chúng có ý nghĩa làm cơ sở phương pháp luận, định hướng cho nghiên cứu về Đảng lãnh đạo lĩnh vực tư pháp nói chung và đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Tuy nhiên, điểm yếu của các nghiên cứu này là chưa chỉ ra được “độ vênh” giữa tư tưởng và đời sống hiện thức, độ gián đoạn trong thực tiễn xây dựng nền tư pháp Việt Nam sau khi Hồ Chí Minh qua đời, đặc biệt là từ khi xây dựng Hiến pháp năm 1980, áp dụng mô hình tư pháp Xô-viết vào đất nước ta với nhiều thiết kế chính trị xa dần Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959-những bản hiến pháp mang đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh. - Nhóm nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp Tác giả Nguyễn Văn Thảo với cuốn “Xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng”[150] ngoài việc trình bày về xây dựng nhà nước pháp quyền, đã nhấn mạnh cần phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Toà án theo hướng tạo điều kiện cho nền tư pháp hoạt động liên tục và xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, bảo đảm và thực hiện công bằng xã hội, thể hiện nền công lý xã hội chủ nghĩa và Đảng thông qua các cơ chế của Nhà nước
  • 18. 15 để cử ra đội ngũ thẩm phán được đào tạo có hệ thống, thành thạo nghề nghiệp, làm việc liên tục và ổn định, đủ tầm vóc đại diện cho quyền lực nhà nước xét xử tội phạm và giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Tác giả Trần Đại Hưng với bài viết “Hoàn thiện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp” [91] đã đưa ra những cơ sở khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp; khái quát những thành tựu, hạn chế yếu kém, đề xuất một số vấn đề về hoàn thiện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp nói chung và đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Tác giả Nguyễn Văn Quyền, trong bài viết “Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” [119] đã khái quát sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp thông qua lãnh đạo về chính trị- tư tưởng, định hướng công tác; nhấn mạnh đến lãnh đạo tổ chức cán bộ trong các cơ quan tư pháp; đúc kết một số bài học kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Cuốn “Thể chế Đảng cầm quyền một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đặng Đình Tân [123] đã khái quát thể chế Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp từ năm 1986 đến nay. Cụ thể là nêu lên các nguyên tắc thể chế Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp, trong đó nhấn mạnh đến các vấn đề: các cơ quan, tổ chức Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp; đường lối, chính sách hình sự về xét xử tội phạm, chính sách giải quyết tranh chấp trong nội bộ nhân dân về dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, hành chính; bộ máy và phương thức hoạt động của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các tổ chức khác tham gia hoạt động xét xử. Ngoài ra, công trình đề cập đến hiệu lực các thể chế Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp, trong đó nói rõ về cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan Toà án,Viện kiểm sát và đối với các loại vụ án. Cuốn “Sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành Kiểm sát nhân dân”, (lưu hành nội bộ) của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao [178] đã hệ thống hoá các quan
  • 19. 16 điểm, chủ trương, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với ngành Kiểm sát nhân dân từ năm 1960 đến nay thể hiện qua các đại hội toàn quốc của Đảng, hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, các thông báo, thông tri, chỉ thị của Ban Bí thư. Công trình là sự tập hợp các văn kiện của Đảng, thuận lợi cho việc tra cứu, nghiên cứu và giảng dạy về sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành kiểm sát nhân dân. Nguyễn Văn Hiện với bài viết “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác toà án hiện nay”[77] đã khái quát thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác toà án, nhất là sự lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm tính độc lập trong xét xử của toà án. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ-Hội đồng khoa học các Ban Đảng của tác giả Trịnh Xuân Toản “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”[126] đề cập nhiều vấn đề mối quan hệ giữa lãnh đạo Đảng với đổi mới công tác tư pháp. Trên cơ sở phân tích và hệ thống hoá những quan điểm về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và nội dung, phương thức lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp được thể hiện trong các văn kiện của Đảng; tổng hợp, đánh giá thực tiễn quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung và của Bộ Chính trị, Ban Bí thư nói riêng đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp, trọng tâm là từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đến nay, đề tài xác định rõ: những thành tựu, những mặt hạn chế, vướng mắc và bài học kinh nghiệm; Phân tích những yêu cầu khách quan của việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nói riêng đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp. Mục tiêu, quan điểm và phương hướng, giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Bộ Chính trị đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp được đề xuất ở đây đã bám sát thực tế. Ngoài ra, tác giả còn có kiến nghị cụ thể về việc hoàn thiện phương thức
  • 20. 17 lãnh đạo và tăng cường sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác tư pháp và cải cách tư pháp. Tác giả người Thái Lan (Quốc tịch Mỹ) Thaveeporn Vassavakul có công trình “Sectoral Politics and Strategies for State and Party Building from the VII to the VIII Congresses of the Vietnamese Communist Party (1991-1996), in “Doi Moi: Ten Years after the 1986 Party Congress” (“Lĩnh vực chính trị và chiến lược xây dựng đảng và Nhà nước từ Đại hội VII đến Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991-1996), trong: “Đổi mới: Mười năm sau Đại hội VI”)”[146]. Công trình đã trình bày tiến trình đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam khởi đầu từ Đại hội VI với những quyết định trọng đại bắt đầu từ đổi mới tư duy, rồi kế đến đổi mới các lĩnh vực khác. Các đợt tiến hành xây dựng, chỉnh đốn đảng đã đưa lại nhiều kết quả quan trọng để cấu trúc lại bộ máy lãnh đạo ở cả cấp trung ương và địa phương, tăng quyền cho địa phương, mở rộng sự tham gia của cán bộ trẻ trong bộ máy lãnh đạo, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tất cả các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tác giả cho rằng hiện tượng Đảng làm thay Nhà nước đã khắc phục được phần nào sau 10 năm tiến hành đổi mới (1986 -1996). Ưu điểm nổi bật của nhóm nghiên cứu trên đây là trình bày được các quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ nguyên tắc, tiêu chí bổ nhiệm, đặc biệt các phẩm chất của cán bộ tư pháp như “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư”-một phẩm chất quan trọng đối với đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay. Ngoài ra, các công trình khái quát được cơ sở khách quan của việc Đảng lãnh đạo đối với lĩnh vực tư pháp; nội dung, phương thức và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực tư pháp về chính trị tư tưởng, tổ chức cán bộ, định hướng công tác, nhất là định hướng đường lối xét xử; mối quan hệ giữa nguyên tắc Đảng lãnh đạo với tính độc lập của tư pháp; hệ thống các các văn kiện của Đảng về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp như Viện Kiểm sát. Do vậy, những nghiên cứu này cung cấp một số cách tiếp cận,
  • 21. 18 nguồn tư liệu và cho thấy tính đặc thù trong quá trình nghiên cứu về Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn 2001-2011. 1.1.3. Nhóm nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. - Nhóm nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Nguyễn Văn Quyền trong bài viết “Bàn về những nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”[117] đã khái quát quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo Nghị quyết số 49 về Chiến lược cải cách tư pháp. Tác giả Phan Hữu Thư với bài viết: “Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh và đổi mới công tác đào tạo”[160] đã khái quát quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII, Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị, đặc biệt Nghị quyết 49 về Chiến lược cải cách tư pháp như quan điểm, chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp như đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo; đổi mới cơ chế tuyển dụng; đào tạo phục vụ hội nhập quốc tế; xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo cán bộ tư pháp. Tác giả Nguyễn Văn Huyên trong bài “Nghiên cứu một số quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tuyển chọn cán bộ tư pháp” [89; 90] có nêu lên các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta như: việc tuyển chọn cán bộ tư pháp là nhiệm vụ gắn liền với yêu cầu kiện toàn và đối mới hệ thống các cơ quan tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đảm bảo về chất lượng đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp quốc gia và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Tuyển chọn cán bộ tư pháp phải dựa trên các tiêu chuẩn nghiệp vụ trong đó có các tiêu chí cơ bản: có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuyển chọn cán bộ tư pháp phải bảo đảm yêu cầu công khai, minh bạch khách quan, công bằng, đồng thời nghiên cứu từng bước mở rộng nguồn cán bộ tư pháp thực hiện luân chuyển,
  • 22. 19 bố trí, sử dụng cán bộ tư pháp một cách hợp lý. Tuyển chọn cán bộ tư pháp cần nghiên cứu, học tập kinh nghiệm quốc tế và vận dụng phù hợp trong điều kiện cụ thể của nước ta. Tác giả người Úc Pip Nicholson trong bài “Vietnamese Jurisprudence: Informing Court Reform” (Pháp luật Việt Nam: Tác động tới cải cách toà án) [105] đưa ra một số nhận xét đáng lưu ý. Tác giả đã khái quát hoá quá trình ra đời và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; những tác động của Nghị quyết 08-NQ/TW đến các cơ quan tư pháp của Việt Nam, nhấn mạnh đến tính độc lập của toà án và thẩm phán. Nghiên cứu này còn nhấn mạnh đến sự cần thiết phải xây dựng một đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là thẩm phán có trình độ, có năng lực, phẩm chất đáp ứng đòi hỏi của cải cách toà án Việt Nam. - Nhóm nghiên cứu sự chỉ đạo của Đảng trong thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Trần Đức Lương trong bài“Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[97] đã nêu lên nhiều quan điểm mang tính chỉ đạo của nguyên thủ quốc gia cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về một số nhiệm trọng tâm công tác tư pháp năm 2002. Từ góc độ thiết chế Chủ tịch nước có vai trò điều phối, phối hợp giữa lĩnh vực tư pháp với lập pháp và hành pháp, bài viết cũng đề ra những bước đi và phương thức thực hiện cải cách tư pháp trong những năm tiếp theo; nhấn mạnh đến tăng cường công tác lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, coi đó là khâu đột phá trong cải cách tư pháp. Tác giả Trần Huy Liệu với bài “Những quan điểm chỉ đạo cải cách tư pháp ở Việt Nam”[95] đã nêu lên các quan điểm chỉ đạo của Đảng trong thực hiện cải cách tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng như: phải dựa trên quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
  • 23. 20 của dân, do dân, vì dân; phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với quá trình đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới hoạt động lập pháp, hành pháp và phát huy sức mạnh của quyền lực nhà nước thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, các cơ quan tư pháp đặt dưới sự giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân; kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc những thành tựu đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với đất nước; tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với bước đi vững chắc; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp. Công trình của Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Lịch sử Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam” (Sơ thảo)[177] đã nêu lên quá trình quán triệt, vận dụng, thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ kiểm sát viên như công tác đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn, bổ nhiệm; quản lý; chính sách. Công trình khái quát những thành tựu và bài học kinh nghiệm trong quá trình ra đời, phát triển và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân qua các thời kỳ cách mạng, trong đó nhấn mạnh đến các bài học như quán triệt và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tổ chức và hoạt động tập trung thống nhất gắn với nguyên tắc Đảng lãnh đạo; bài học về chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ cơ bản tạo nên sức mạnh của Viện kiểm sát nhân dân… - Nhóm nghiên cứu về kết quả bước đầu thực hiện chủ trương của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Tác giả Khuất Văn Nga với bài viết “Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kỳ đổi mới”[108] đã khái quát bước đầu việc tuyển chọn và bổ nhiệm kiểm sát viên giai đoạn 1986-2005, theo tiêu chuẩn mới cao hơn và theo quy trình tuyển chọn mới có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức. Nguyễn Đình Lục với bài viết “Sau ba năm thực hiện chiến lược cải cách tư pháp” [98] có nhiều nỗ lực phân tích, đánh giá tình hình bước đầu thực hiện xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp sau ba năm kể từ khi có Nghị quyết 49. Với nhận định: Đội ngũ cán bộ tư pháp đã có sự trưởng thành nhanh chóng cả về số
  • 24. 21 lượng và chất lượng và có cố gắng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quá trình cải cách tư pháp như đã đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ tư pháp về chuyên môn nghiệp vụ, cả về giáo dục bồi dưỡng phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp, bài viết này nhìn vấn đề khá lạc quan, dù trên thực tế khó khăn, lực cản còn rất lớn Tác giả Hoàng Thế Liên trong bài viết “Cải cách pháp luật và tư pháp vì sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”[94] nhận định rằng, ngành tư pháp đã triển khai nhiều hoạt động phù hợp với chức năng của mình để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp. Đã cụ thể hoá các chủ trương của Đảng thông qua việc xây dựng các đề án triển khai thực hiện bằng nhiều giải pháp khác nhau để đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực như Đề án “Xây dựng Trường đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp luật”, Đề án “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp”. Tác giả Hà Hùng Cường với bài viết “Đẩy mạnh cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [29] nhìn nhận cán bộ tư pháp trong tổng thể cải cách tư pháp, trong đó đánh giá cán bộ tư pháp đã có sự trưởng thành về số lượng và chất lượng, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp. Công tác quy hoạch, rà soát, đánh giá, luân chuyển, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp được thực hiện đồng bộ, bài bản; kết hợp cải thiện từng bước chế độ, chính sách đãi ngộ với việc xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với các sai phạm của cán bộ, công chức tư pháp. Việc đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị được đẩy mạnh, góp phần tích cực vào quá trình chuẩn hóa từng bước đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên cả về trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ. - Các nghiên cứu về kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Đáng chú ý là nghiên cứu của Đỗ Thị Thúy Hà “Một số kinh nghiệm trong công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” [73]. Ở đây, tác giả đã khát quát thực trạng công tác xây dựng đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân, chỉ ra
  • 25. 22 nguyên nhân hạn chế và đưa ra một số kinh nghiệm chủ yếu trong xây dựng đội ngũ thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trên cả về mặt nhận thức và về mặt tổ chức thực tiễn. Tập trung là các kinh nghiệm như: Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng đội ngũ thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; khâu đột phá là đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán; có lộ trình và bước đi thích hợp trong xây dựng đội ngũ thẩm phán; đánh giá, sử dụng đúng đắn đội ngũ thẩm phán; quan tâm xây dựng, thực hiện tốt chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ thẩm phán. Công trình của tác giả Pip Nicholson (Quốc tịch Úc) “Borrowing court systems: the experience of Socialist Vietnam” [106] đã khái quát lịch sử hệ thống toà án Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2005. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống tòa án của Liên Xô và Việt Nam, nguyên nhân của sự tương đồng và sự khác biệt đó. Từ đó Việt Nam đã áp dụng kinh nghiệm của Liên Xô trong xây dựng hệ thống toà án. Tác giả cho rằng lịch sử của hệ thống tòa án Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2005 ảnh hưởng rõ nét bởi mô hình của Liên Xô và mang một bản sắc riêng biệt. Do vậy, đội ngũ cán bộ tư pháp cũng được xây dựng theo mô hình này. Nhóm nghiên cứu này bước đầu đã khái quát được những quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong quá trình cải cách tư pháp như về công tác đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn-bổ nhiệm; những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong thực hiện; những kết quả bước đầu khi thực hiện chủ trương của Đảng. Tuy nhiên hạn chế của các công trình trong nhóm này là nghiên cứu một cách rời rạc, chưa có hệ thống các vấn đề về Đảng lãnh đạo xây dựng đội cán bộ tư pháp, chưa chỉ ra khoảng cách giữa nghị quyết và vận động của thực tiễn, đặc biệt là chưa làm rõ “đầu vào” của các chủ trương cải cách tư pháp, những nan giải của quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện. Nhóm nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tính chính thể về Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn 2001-2011, cung cấp một số tư liệu và cách tiếp cận có giá trị.
  • 26. 23 1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG GIẢI QUYẾT 1.2.1. Đánh giá kết quả các công trình đã được công bố Cải cách tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng là vấn đề lớn, mang tính thời sự trong giai đoạn hiện nay, vì thế luôn được các nhà chính trị và giới nghiên cứu quan tâm. Tổng quan kết quả nghiên cứu của các công trình có liên quan đề đề tài cho thấy, các công trình dưới các góc độ khoa học và trên nhiều bình diện khác nhau đã đề cập đến cải cách tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng. Các công trình nghiên cứu đi sâu luận giải, làm rõ một số vấn đề sau: - Làm rõ được sự cần thiết và vai trò của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đối với xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp. - Luận chứng được thực trạng và đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp như công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, bổ nhiệm, chính sách cán bộ. - Khái quát được sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp, đặc biệt là nhận diện một số phương thức lãnh đạo đặc thù của Đảng đối với lĩnh vực tư pháp-một lĩnh vực đòi hỏi tôn trọng tính độc lập trong xét xử, công tố. - Hệ thống hóa được một số quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp - Làm rõ một số quan điểm chủ trương, quá trình thực hiện của Đảng, kết quả bước đầu về cải cách tư pháp và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. Kết quả của các công trình nêu trên rất có ý nghĩa cho triển khai nghiên cứu luận án này, đặc biệt là các kế thừa về cách tiếp cận, phương pháp và một số tư liệu-tài liệu. Tuy nhiên, các công trình trên đều chưa đề cập có hệ thống và đầy đủ về các quan điểm, chủ trương, cũng như sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001-2011). Tình trạng phổ biến là những công trình đề cập đến quan điểm, chủ trương thì chỉ nêu những luận điểm chính, chưa
  • 27. 24 chỉ ra bối cảnh, điều kiện lịch sử, “đầu vào” cho hình thành các quan điểm, chủ trương đó, đặc biệt là những lực cản, khó khăn, thậm chí là cả cuộc đấu tranh trong nội bộ đảng về tư tưởng để ban hành nghị quyết về cải cách tư pháp-một lĩnh vực đụng chạm đến rất nhiều vấn đề nhạy cảm như quyền con người, tính độc lập trong hoạt động… mà nếu thiếu đột phá về tư duy rất khó tiến hành cải cách. Càng chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu cơ chế thảo luận, ban hành quyết định đối với các chủ trương, nghị quyết này. Đối với những công trình đề cập đến tổ chức thực hiện thì chỉ phản ánh ở các số liệu, những đánh giá định tính một cách chung, mà chưa chỉ ra quá trình khó khăn, nan giải khi có được kết quả ấy, đặc biệt là những xung đột, những mặt không thành công mang tính cục bộ, tạm thời. Các công trình nghiên cứu còn thiếu hệ thống, chủ yếu mang tính đơn lẻ, phương pháp nghiên cứu liên ngành ít được áp dụng, do chủ yếu là những bài viết nghiên cứu công bố trên tạp chí hoặc các chuyên khảo chuyên ngành. Tư liệu thư tịch gốc ít được khai thác phục vụ cho nghiên cứu. Những hạn chế trên đây đòi hỏi phải được khỏa lấp bằng các công trình nghiên cứu khác, trong đó có nhiều vấn đề đặt ra và giải quyết trong luận án này. 1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu và những vấn đề luận án tập trung giải quyết Từ tổng thuật, phân tích các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án đã được trình bày ở trên, câu hỏi nghiên cứu của luận án là: - Bối cảnh, điều kiện lịch sử từ năm 2001 đến năm 2011 đặt ra yêu cầu, đòi hỏi gì cho cải cách tư pháp và tương thích với nó là xây dựng cán bộ, công chức tư pháp? Tại sao chúng không thể tiến hành sớm hơn, đồng thời với cải cách lập pháp và cải cách hành chính? - Lãnh đạo cải cách tư pháp nói chung và xây dựng cán bộ, công chức tư pháp nói riêng bao gồm những nội dung, phương thức gì? Quá trình lịch sử đó đã giải quyết như thế nào mâu thuẫn giữa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong mô hình nhà nước thống nhất quyền lực với tôn trọng tính độc lập của các cơ quan pháp?
  • 28. 25 - Cải cách tư pháp nói chung và xây dựng cán bộ tư pháp nói riêng là lĩnh vực nhạy cảm, đụng chạm đến các vấn đề quyền con người, tôn trọng tính độc lập của cơ quan tư pháp,... trong quá trình lãnh đạo Đảng đã xử lý như thế nào? - Thực tiễn Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp từ năm 2001 đến năm 2011 có đặc điểm gì và chúng để lại giá trị gì tham khảo trong thực tế? Từ câu hỏi nghiên cứu nêu trên, luận án tập trung vào những nội dung chủ yếu sau: - Làm rõ yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp; thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trước năm 2001; những thuận lợi và khó khăn trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp. - Tái hiện, phân tích và luận giải làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001-2011), tập trung vào đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, trên các lĩnh vực: đào tạo, bồi dưỡng; tuyển chọn, bổ nhiệm và chính sách đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. - Đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trên một số lĩnh vực chủ yếu từ năm 2001 đến năm 2011 - Tổng kết kinh nghiệm để vận dụng vào quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong giai đoạn tiếp theo.
  • 29. 26 Chương 2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 2.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TƯ PHÁP (2001-2005) 2.1.1. Khái niệm cán bộ tư pháp và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ tư pháp 2.1.1.1. Khái niệm cán bộ tư pháp Thuật ngữ cán bộ tư pháp được sử dụng khá phổ biến trong đời sống xã hội, nhất là trong bối cảnh công cuộc cải cách tư pháp đang diễn ra hiện nay. Để lý giải khái niệm này, trước hết phải làm rõ một số khái niệm liên quan sau đây. Theo Từ điển Tiếng việt “tư pháp là việc xét xử các hành vi phạm pháp và các vụ kiện tụng trong nhân dân”[104, tr.1034]. Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, thuật ngữ tư pháp được giải thích ở nghĩa rất rộng. Theo đó, “tư pháp” là khái niệm dùng để chỉ các cơ quan tòa án, việc xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và các vụ kiện tụng trong nhân dân, hoạt động của các cơ quan điều tra, kiểm sát, truy tố, xét xử và thi hành án. Khái niệm tư pháp như trên vừa chỉ chủ thể (các cơ quan tòa án), vừa chỉ hoạt động xét xử của cơ quan đó và hoạt động của các cơ quan khác như cơ quan điều tra, kiểm sát, truy tố, xét xử và thi hành án. Hẹp hơn nhận thức trên, Từ điển Luật học định nghĩa tư pháp là công việc tổ chức giữ gìn, bảo vệ pháp luật. Theo Rouseau J.J: “Tư pháp là cơ quan thiêng liêng nhất và được coi trọng nhất vì nó bảo vệ pháp luật, mà luật do cơ quan quyền lực tối cao ban hành và do chính phủ chấp hành”[120, tr.23]. Theo nghĩa rộng nhất, tư pháp là sự công bằng, công lý và các thiết chế nhằm duy trì, bảo đảm sự công bằng, bảo vệ nền công lý. Quyền tư pháp, theo Từ điển Luật học là “quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính…”[165, tr.657]. Hoặc “là một lĩnh vực quyền lực nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt động
  • 30. 27 phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, các quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật”[30; tr.11]. Ở Việt Nam, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, là thống nhất, không phân chia, do vậy, quyền tư pháp là một trong ba bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước. Quyền tư pháp được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa hẹp là quyền xét xử của toà án; theo nghĩa rộng là bao gồm quyền xét xử của toà án cũng như hoạt động bảo vệ pháp luật của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tôn trọng và duy trì nền công lý. Để đảm bảo sự vận hành của nền tư pháp và giúp cho toà án đưa ra những phán quyết công minh, kịp thời đúng pháp luật cần có sự tham gia của luật sư, công chứng, giám định tư pháp, những hoạt động này gọi là bổ trợ tư pháp. Trong khuôn khổ phạm vi của luận án, khái niệm quyền tư pháp được hiểu theo nghĩa rộng. Cơ quan tư pháp, căn cứ vào các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước cũng như các văn kiện của Đảng như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá VII; Văn kiện Đại hội hội VIII; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khoá VIII; Văn kiện Đại hội IX; Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp; Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 2013. Theo đó, quan niệm cơ quan tư pháp bao gồm toà án nhân dân; viện kiểm sát nhân dân; cơ quan điều tra; cơ quan thi hành án. Những cơ quan này thực hiện các hoạt động theo trình tự tố tụng. Cơ quan Bộ Tư pháp không thực hiện quyền lực tư pháp mà là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tư pháp, thuộc lĩnh vực hành pháp. Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện quyền tư pháp, bao gồm các hoạt điều tra; hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố;
  • 31. 28 hoạt động xét xử; hoạt động thi hành án. Trong đó, hoạt động xét xử của toà án là trung tâm của quá trình hoạt động tư pháp. Cải cách tư pháp là việc tiến hành những cải cách trên lĩnh vực tư pháp nhằm xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đối tượng của cải cách tư pháp theo nghĩa hẹp là toàn bộ hệ thống và hoạt động thực tiễn của đội ngũ toà án, đội ngũ thẩm phán và các quy định pháp luật có liên quan; theo nghĩa rộng, là toàn bộ hệ thống toà án, các cơ quan bảo vệ pháp luật như điều tra, truy tố, thi hành án, các cơ quan bổ trợ tư pháp cũng như các quy định của pháp luật có liên quan. Từ những phân tích lập luận trên, cán bộ tư pháp được quan niệm là những công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm để giao giữ một nhiệm vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan tư pháp, có nhiệm vụ quyền hạn trong việc thực hiện quyền tư pháp và trực tiếp tham gia hoạt động khởi tố điều tra, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Đối tượng cán bộ tư pháp được tập trung nghiên cứu trong luận án này gồm: Thẩm phán là những người làm công việc xét xử chuyên nghiệp, được tuyển chọn theo một quy trình chặt chẽ, làm việc thường xuyên trong cơ quan toà án, thực hiện nhiệm vụ xét xử nhân danh nhà nước. Kiểm sát viên là người đại diện cho Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động tư pháp. 2.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ tư pháp Là người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành một sự quan tâm đặc biệt đối với ngành tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp. Người khẳng định: Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính quyền và tư pháp có tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt người dân mới có được hệ thống pháp luật bảo vệ. Biểu hiện tập trung nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ tư pháp, là những tư tưởng về phẩm chất đối với cán bộ tư pháp. Đó là lòng trung thành vô hạn đối với dân tộc, đối với Đảng, với nhân dân, là ý thức
  • 32. 29 phục vụ nhân dân vô điều kiện. Đó là thực hiện “Công minh, chính trực, khiêm tốn, thận trọng, khách quan” và “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”. Đây là các các yếu tố không thể thiếu đối với cán bộ tư pháp. “Công minh” là sự công bằng, sáng suốt. Trong quá trình thực hiện công vụ, cán bộ tư pháp phải đối diện với những áp lực và cám dỗ từ những yếu tố tinh thần, tình cảm, vật chất, nếu không đủ bản lĩnh, mất đi sự sáng suốt có thể đưa ra những quyết định, kết luận thiếu chính xác dẫn đến việc không đảm bảo sự nghiêm minh và công bằng của luật pháp, khiến cho công lý không được thực thi. “Chính trực” là bản tính ngay thẳng, cương trực, có ý chí, đã quyết nói và làm rồi không bao giờ hối tiếc; luôn đứng về lẽ phải, bênh vực và bảo vệ cái đúng; trung thành với lý tưởng, có niềm tin vững chắc. “Khiêm tốn” là luôn đánh giá đúng bản thân mình, không tự mãn, tự kiêu, phấn đấu học hỏi để cầu tiến bộ không cho mình là hơn người, hơn đời, biết tôn trọng ý kiến người khác, lắng nghe ý kiến tập thể. “Thận trọng” là làm việc có đắn đo, suy tính cẩn thận trong hành động để tránh sai sót; thận trọng mà không chậm trễ, phải đáp ứng được yêu cầu công việc; suy nghĩ kỹ để đảm bảo giữ vững đúng chủ trương, đường lối. Người luôn nhắc nhở cán bộ: “Tự mình phải hay nghiên cứu, xem xét; vị công vong tư; không hiếu danh, nói thì phải làm” [88; tr.260]. “Khách quan” là không phụ thuộc vào ý chí và nhận thức chủ quan của một cá nhân nào, mà phải biết chấp nhận, giải quyết vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh cụ thể, phải lắng nghe các ý kiến; cần linh hoạt, nhạy bén, sẵn sàng đối phó với những bất ngờ xảy đến. Người cũng nhấn mạnh làm việc phải xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm. Trong thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc tháng 2/1948, Hồ Chí Minh viết: “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” cho nhân dân noi theo”[88; tr.382]. “Phụng công” nghĩa là tôn thờ lẽ công bằng, tôn thờ công lý, không thiên lệch; là phải biết trách nhiệm của mình được Nhà nước và nhân dân giao cho quyền thực thi pháp luật, làm việc để phụng sự đất nước, phụng sự nhân dân. Tôn thờ công lý là yêu cầu của bất cứ người nào nắm quyền lực công,
  • 33. 30 nhưng với người cán bộ tư pháp đó còn là đạo đức làm người, bởi mỗi quyết định đúng đắn hay sai lầm của cán bộ tư pháp đụng chạm đến lương tri con người, được xem ở mức độ nhạy cảm cao nhất của “đạo đức”. “Thủ pháp” là phải hiểu và nắm chắc luật pháp, là giữ gìn, bảo vệ pháp luật, không vì lý do gì mà bẻ cong, làm trái pháp luật; cần phải thực thi pháp luật cho rõ ràng, minh bạch, khách quan. “Chí công, vô tư” theo đúng quy định của pháp luật; là hết mực công tâm; là không vì lợi ích riêng tư nào. Muốn “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” thì trước hết người cán bộ tư pháp phải có bản lĩnh, có đủ năng lực, trình độ chuyên môn và cái tâm trong sáng. Đó chính là nền tảng cho việc xây dựng một nền tư pháp thật sự độc lập sau này. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ tư pháp hết sức gần gũi và thiết thực đối với người làm công tác tư pháp. Đó là lòng trung thành vô hạn đối với dân tộc, đối với Đảng, với nhân dân, là ý thức phục vụ nhân dân vô điều kiện. Đó là tư tưởng pháp quyền nhân nghĩa, tất cả vì con người, là lòng vị tha, cao thượng. Trong đó, đặc biệt quan điểm về “Công minh, chính trực, khiêm tốn, thận trọng, khách quan” và “phụng công thủ pháp, chí công vô tư” phản ánh tinh thần minh triết về xây dựng một nền tư pháp nhân văn và hiện đại, vì con người. Đây là những phẩm chất quan trọng đối với người cán bộ tư pháp, là cơ sở lý luận định hướng trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp giai đoạn 2001-2011. 2.1.2. Yêu cầu khách quan Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp (2001-2005) 2.1.2.1. Nhu cầu đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa Từ năm 1986, Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, ngoại giao, an ninh quốc phòng…, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ tư pháp nói riêng chính là một trong những yếu tố quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới,
  • 34. 31 nhất là đổi mới về kinh tế. Các quan hệ kinh tế trong cơ chế thị trường luôn nảy sinh những tiêu cực, đòi hỏi Nhà nước phải giải quyết các tranh chấp kinh tế thông qua hệ thống tư pháp và pháp luật. Một điều tất yếu là, khi nền kinh tế thị trường ngày càng hoàn thiện, tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau thì số lượng các quan hệ xã hội, giao lưu kinh tế diễn ra ngày càng phong phú và đa dạng hơn, trình độ dân trí, trình độ pháp luật của nhân dân ngày càng cao hơn; theo đó, tổ chức cá nhân biết sử dụng pháp luật làm công cụ bảo vệ quyền và lợi ích của mình ngày càng tăng. Vì vậy, số lượng cũng như tính phức tạp của các vụ án tranh chấp dân sự, hành chính, kinh tế, thương mại, hôn nhân gia đình cũng như yêu cầu dân sự mà các cơ quan tư pháp giải quyết ngày càng tăng đáng kể. Đồng thời, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội, tranh chấp, vi phạm pháp luật tiếp tục diễn biến phức tạp; các thế lực thù địch vẫn chống phá Đảng và Nhà nước ta quyết liệt. Tệ nạn tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đối với sự tồn vong của chế độ và gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Hoạt động tội phạm có tổ chức, với sự liên kết giữa các băng, nhóm tội phạm trong và ngoài nước xảy ra nhiều hơn. Những tội phạm phi truyền thống như đầu cơ chứng khoán, rửa tiền, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên biên giới… tạo ra cả mối đe dọa uy hiếp trực tiếp đến an ninh con người và an ninh quốc gia... Tình hình này đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ hết sức nặng nề, đòi hỏi công tác bảo vệ pháp luật phải có những chuyển biến mạnh mẽ và phấn đấu đạt được mục tiêu xây dựng nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm minh. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ tư pháp phải được bảo đảm về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và cấp bách nhất là nâng cao về chất lượng để đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Bên cạnh đó xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp góp phần tạo tính đồng bộ hóa với cải cách lập pháp, hành chính và tư pháp. Giữa các lĩnh vực đó có mối quan hệ khăng khít với nhau, đòi hỏi phải được triển khai thực hiện cải cách nhịp nhàng, cái này làm tiền đề cho cái kia. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng cắt khúc, khép kín và rời rạc trong thực hiện các giải pháp cải cách nhà nước như hiện nay.
  • 35. 32 2.1.2.2. Yêu cầu cải cách tư pháp gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cở sở hiến pháp và pháp luật và bảo đảm cho hiến pháp và pháp luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội; nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm quyền con người và quyền công dân; theo thể chế do một Đảng lãnh đạo và có sự giám sát của nhân dân. Cải cách tư pháp giai đoạn 2001-2005 đã được Đảng ta đề ra trong Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” mà trọng tâm là nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp. Viện kiểm sát các cấp phải thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư,người bào chữa và với những người tham gia tố tụng khác…Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình. Toà án các cấp khi xét xử phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
  • 36. 33 chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định. Ngoài ra, trong giai đoạn 2001-2005, chủ trương về tăng thẩm quyền xét xử cho toà án cấp huyện từ 5 năm đến 15 năm dẫn tới bộ máy, cán bộ trong các cơ quan tư pháp phải chuyển động theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Đồng thời hệ thống pháp luật ngày càng lớn với số lượng văn bản pháp luật đồ sộ đặt ra đối với đội ngũ cán bộ tư pháp trong công tác truy tố, xét xử. Cùng với đó là sự gia tăng của các tranh chấp, nhất là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài như thương mại, dân sự, sở hữu trí tuệ khi đất nước hội nhập đòi hỏi rất cao về trình độ ngoại ngữ, tin học đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Với những nội dung nêu trên đặt ra cơ hội và thách thức rất lớn cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Từ đó phải nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ tư pháp, để có sự đổi mới mạnh mẽ hơn, có biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, để tạo sự chuyển biến hiệu quả hơn trong hoạt động tư pháp. Việc đổi mới đội ngũ cán bộ tư pháp phải tiến hành từ công tác đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức. Muốn làm tốt điều này cần có sự đánh giá một cách thực chất hơn, cụ thể hơn đội ngũ cán bộ tư pháp và công tác quản lý tư pháp, nhất là trong điều kiện thực hiện cải cách tư pháp quốc gia; phải có chủ trương cán bộ phù hợp với tình hình mới, có những chính sách cụ thể để phát huy những mặt tốt, những khả năng trong hệ thống tổ chức và trong mỗi cán bộ tư pháp. Kịp thời phát hiện và ngăn chặn những bất cập, suy thoái trong cán bộ các cấp khi thực hiện cơ chế mới với nhiều thành phần kinh tế và mở cửa hội nhập quốc tế. 2.1.2.3. Yêu cầu về dân chủ hóa đời sống xã hội và hội nhập quốc tế Xu thế dân chủ hoá trên thế giới là sự gia tăng số lượng các quốc gia tham gia vào quá trình dân chủ trên cơ sở tự do hoá nền kinh tế, thừa nhận các quyền tự do, dân chủ của công dân, xây dựng và hoàn thiện các thể chế dân chủ. Xu thế này bắt đầu từ việc nhận thức về vị trí và tầm quan trọng của dân chủ, các nội
  • 37. 34 dung và hình thức thực hiện dân chủ; từ việc tuyên truyền, giáo dục về dân chủ. Xu thế dân chủ đòi hỏi phải giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội như là những tiền đề vật chất và tinh thần cho dân chủ. Quá trình dân chủ hoá nhằm các mục tiêu hiện thực hoá các quyền con người, quyền công dân và được thực hiện trên cơ sở xây dựng một nhà nước pháp quyền. Xây dựng nhà nước pháp quyền chính là một xu hướng chung của việc đổi mới các nhà nước hiện nay và nhằm chống lại sự độc đoán chuyên quyền, sự tha hoá quyền lực, trả lại vị thế chủ thể của nhân dân trong quá trình phát triển xã hội. Có thể nói, xu thế dân chủ, pháp quyền là một tất yếu, là mục tiêu thiên niên kỷ mà nhân loại hướng tới với những hy vọng lớn nhất. Ở nước ta, từ khi đổi mới, Đảng ta xác định xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ trở thành động lực và mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Quá trình dân chủ hoá ở nước ta không thể không chịu sự tác động của các nước trên thế giới. Một trong những kinh nghiệm của các nước là xây dựng hệ thống các thể chế dân chủ-cơ sở pháp lý để nhà nước hành động có hiệu quả đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và là cơ sở pháp lý để nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy, cải cách chính trị, trong đó có cải cách tư pháp gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có trình độ, phẩm chất chính là nhằm đáp ứng xu thế này và chỉ khi nào người cán bộ tư pháp thật sự công tâm, khách quan mới đảm được dân chủ, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân thông qua hệ thống tư pháp. Xu thế dân chủ, pháp quyền đang diễn ra trên thế giới đòi hỏi các quốc gia phải tự đổi mới, nhất là cải cách lĩnh vực tư pháp-một lĩnh vực liên quan trực tiếp đến con người và thể hiện sự dân chủ trong đời sống chính trị, kinh tế-xã hội của các nước. Xu thế này ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của Đảng khi lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới, trong đó tư pháp là một lĩnh vực. Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra
  • 38. 35 dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Hội nhập quốc tế đã là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển. Đối với đổi mới ở nước ta, Đảng đã chủ trương mở cửa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, đặt đổi mới và phát triển nước ta trên con đường đồng thuận với các trào lưu cải cách, tiến bộ của thế giới. Do vậy, trong giai đoạn này, Việt Nam đã hội nhập một cách sâu rộng bằng việc tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC, ASEM, đặc biệt là WTO. Do vậy, các quan hệ về hợp đồng dân sự, thương mại, lao động… ngày càng phát triển sôi động, phong phú và đa dạng. Cùng với đó là sự gia tăng của các tranh chấp, nhất là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài như thương mai, dân sự, sở hữu trí tuệ khi đất nước hội nhập, tội phạm hình sự xuất hiện các yếu tố quốc tế... đòi hỏi rất cao về trình độ ngoại ngữ, tin học đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Mặt khác, nền tư pháp còn chậm theo kịp sự đòi hỏi của quá trình dân chủ hoá xã hội, nhất là bảo vệ quyền con người trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi phải tiếp tục có những đổi mới quan trọng. Những thách thức đặt ra cho Việt Nam khi hội nhập là xuất phát điểm nước ta thấp; nhiều vấn đề xã hội phát sinh trong kinh tế thị trường chậm được phát hiện và giải quyết một cách hiệu quả; các thế lực nước ngoài không từ bỏ âm mưu diễn biến hoà bình chống phá cách mạng, thực hiện bạo loạn, lật đổ. Để tiếp tục khai thác và tận dụng thời cơ và vượt qua các thách thức, nguy cơ trong phát triển, Việt Nam phải đẩy mạnh đổi mới, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, kết hợp được nội lực và ngoại lực, xây dựng và phát triển đi liền với củng cố và bảo vệ từ kinh tế, chính trị, văn hoá đến an ninh quốc phòng. Mấu chốt là vấn đề giữ vững địa vị lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản và phải xây dựng được một Nhà nước pháp quyền đủ mạnh, đủ sức để vượt qua quan liêu, tham nhũng, không gây phản ứng và bất bình trong nhân dân, dẫn tới những phản cảm xã hội làm suy giảm và triệt tiêu động lực phát triển. Quá trình hội
  • 39. 36 nhập cũng đặt ra những sức ép gay gắt đối với cải cách tư pháp nhằm thực hiện các cam kết tư pháp mà Việt Nam đã ký kết, gắn với nó là những sửa đổi thể chế, luật pháp, bộ máy và con người trong các cơ quan tư pháp. Xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ tư pháp nói riêng vững mạnh chính là điều kiện để đảm bảo thật sự quyền dân chủ, quyền con người, quyền công dân đáp ứng cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. 2.1.2.4. Tình hình xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trước năm 2001 - Nhận thức và chủ trương của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, các cơ quan tư pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã được thành lập để thực hiện những nhiệm vụ trong mỗi thời kỳ của cách mạng. Hoạt động của đội ngũ cán bộ tư pháp và mô hình tổ chức của cơ quan tư pháp trong kháng chiến chống thực dân Pháp và trong những năm đầu xây dựng miền Bắc sau hòa bình lập lại được xây dựng theo các bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959. Từ năm 1960 đến năm 2000, Đảng đã ban hành một số văn bản xác định chủ trương, quan điểm chỉ đạo đối với công tác tư pháp nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng như Thông Tri số 13-TT/TW của Ban Bí thư ngày 12/12/1960 về “Tăng cường lãnh đạo công tác kiểm sát”[178, tr.34]; Nghị quyết số 68/NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 01/02/1963 về “Công tác kiểm sát” [178, tr.38]; Thông báo số 07- TB/TW, ngày 16/05/1978 ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư về “Công tác của viện kiểm sát nhân dân và toà án nhân dân” [178, tr.71]; Chỉ thị số 57-CT/TW của Ban Bí thư, ngày 30/01/1985 về “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với ngành kiểm sát, toà án, tư pháp” [178, tr.98]. Đội ngũ cán bộ tư pháp thời kỳ trước đổi mới đã góp phần quan trọng trong công cuộc giải phóng dân tộc và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên do những điều kiện lịch sử nhất định mà đội ngũ cán bộ tư pháp vẫn chưa được chú trọng, quan tâm xây dựng đúng mức. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện Đảng đã chủ trương đổi mới công tác cán bộ nói chung gắn liền với quá trình cải cách và hoàn thiện bộ máy của Nhà nước. Đại hội VI