SlideShare a Scribd company logo
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở bất kỳ lĩnh vực nào, chế độ nào nhân tố con người hết sức quan trọng,
đóng vai trò quyết định để đạt được mục tiêu. Chủ tịch Cay Sỏn PHÔM VI HAN
cho rằng: “Cán bộ là vốn quý báu nhất của Đảng, là người lãnh đạo nhân dân,
phục vụ nhân dân, tạo ra mối quan hệ giữa đảng với quần chúng” [14, tr.68].
Đảng nhân dân cách mạng Lào (NDCM Lào) luôn luôn nhấn mạnh rằng:
“Cán bộ có vai trò quyết định thành công hay thất bại của việc thực hiện
đường lối của Đảng” [84, tr.5]. Như vậy, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức (CB, CC) có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng nhân dân cách mạng Lào nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước là yêu cầu quan trọng của công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
(CHDCND Lào) hiện nay. Đội ngũ CB,CC được đặt dưới sự lãnh đạo thống
nhất của Đảng Nhân Dân Cách mạng Lào và chịu sự điều chỉnh thực tiếp của
hệ thống pháp luật công vụ. Chế độ công chức, công vụ mới đang hình thành
và được thể chế hóa thông qua một số văn bản pháp luật do Nhà nước ban
hành trong thời gian gần đây. Nghị định số 82/NĐ-CP, ngày 19/5/2003 về
điều lệ công chức nước CHDCND Lào thay thế Nghị định số 171/NĐ-CP,
ngày 11/11/1993 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý và chính sách phát triển đội ngũ
cán bộ, công chức nhà nước. Đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức là một trong nội dung cơ bản của công cuộc cải cách nền hành
chính nhà nước, nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, chuyên nghiệp, đủ năng lực, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.
Trong đội ngũ CB, CC thì lực lượng CCHC nhà nước đóng vai trò trực tiếp và
quan trọng, tác động đến quá trình đổi mới đất nước. Một nền hành chính hiện
đại luôn đòi hỏi đội ngũ CB, CC nhà nước nói chung và CCHC cấp tỉnh nói
riêng phải có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức vững vàng, sự
2
tận tụy và khả năng giải quyết công việc nhạy bén. Việc xây dựng đội ngũ
CCHC nhà nước đặc biệt là CCHC cấp tỉnh luôn là yêu cầu cấp thiết đối với
nền hành chính nhà nước ở cấp tỉnh của mọi quốc gia và đặc biệt là nền hành
chính Lào đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ) của
dân, do dân, vì dân ở CHDCND Lào.
Sau hơn 26 năm thực hiện đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất
nước Lào đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Song,
cách mạng đất nước Lào cũng đang đứng trước nguy cơ và thách thức
không thể xem thường. Nhiệm vụ của thể kỳ mới còn rất nặng nề, còn
nhiều khó khăn, thử thách phải vượt qua, đòi hỏi Đảng và nhà nước Lào
phải xây dựng được đội ngũ CB, CC các cấp có đủ tiêu chuẩn ngang tầm
với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ ở
CHDCND Lào hiện nay. CCHC nhà nước nói chung, CCHC cấp tỉnh nói
riêng ở Lào đang lớn mạnh và không ngừng được hoàn thiện cùng với sự phát
triển của đất nước.
Xây dựng đội ngũ CB, CC nói chung, công chức hành chính cấp tỉnh
nói riêng là một chủ trương lớn của Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào
ngay từ khi giành được chính quyền đã góp phần cung cấp thế hệ CC nối tiếp
nhau gánh vác nhiệm vụ trong suốt các chặng đường cách mạng. Trong những
năm đổi mới vừa qua, Đảng NDCM Lào đã tiếp tục quan tâm lãnh đạo công
tác này. Việc quản lý và sử dụng CC ngày càng có hiệu quả, hệ thống chính
sách đãi ngộ đối với CC phù hợp hơn, đặc biệt là từ khi thực hiện Nghị định
số 171/NĐ-CP, ngày 11/11/1993 của chính phủ quy định về điều lệ công chức
nhà nước CC của CHDCND Lào. Nội duy quan trọng của Nghị định này là
quy định về quyền, nhiệm vụ, lợi ích, trách nhiệm, việc tuyển dụng, việc tập
sự việc, quản lý CC v.v… Nghị định số 172/NĐ-CP, ngày 11/11/1993 của
chính phủ quy định về ngạch, bậc của CC, cùng với các quy định khác có liên
quan đang dần được hoàn thiện, nhất là việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội
3
ngũ CB, CC ngày càng có chất lượng. Tuy nhiên cũng trong những năm vừa
qua, do cơ chế chính sách còn có một số bất cập cùng với một số nguyên nhân
do lịch sử để lại làm cho việc quản lý, sử dụng đội ngũ CCHC chưa đáp ứng
yêu cầu đặt ra, dẫn đến tình trạng thiếu hụt CC thông thạo về hành chính,
pháp luật, CC hoạch định chính sách và CC chuyên môn nghiệp vụ giỏi, nhất
là ở cấp tỉnh. Bên cạnh đó những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế
hiện nay, nhất là trước những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường
(KTTT); sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đã làm cho một bộ
phận CCHC, đảng viên, nhất là những người có chức quyền, suy thoái về đạo
đức cách mạng, coi nhẹ rèn luyện, tu dưỡng bản thân. Đội ngũ CB, CC nói
chung, CB chủ chốt nói riêng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ
mới. Công tác cán bộ, nhất là đội ngũ CCHC cấp tỉnh còn nhiều bất cập, các
khâu của công tác cán bộ như tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng
CB,CC chưa phối hợp chặt chẽ với nhau. Ở một số nơi chưa tổ chức quán triệt
kỹ và làm đúng theo quy trình, chưa đồng bộ cả về cơ cấu, số lượng và chất
lượng, đồng thời còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập, đội ngũ CCHC vừa thừa,
vừa thiếu, lực lượng thay thế trước mắt và lâu dài luôn bị hẫng hụt, do đó cần
phải tiếp tục được giải quyết.
Để xây dựng NNPQ của dân, do dân, vì dân, cần phải xây dựng đội ngũ
CCHC nhà nước có năng lực, phẩm chất, trung thành với Đảng, nhà nước và
tận tụy phục vụ nhân dân. Việc nghiên cứu, tổng kết, đánh giá đúng thực
trạng, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ đó đề ra phương hướng
và giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào hiện
nay là một yêu cầu rất quan trọng và là một nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa
đột phá để đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào hiện nay.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn, thì việc thực hiện đề tài: "Cơ sở lý luận
và thực tiễn xây dựng đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh theo yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào" là yêu
4
cầu khách quan, cấp thiết. Tác giả luận án mong muốn đề ra những quan
điểm và giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng đội ngũ công chức hành chính
cấp tỉnh đủ năng lực, phẩm chất, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện
quyền lực nhà nước của chính quyền cấp tỉnh, đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới đất nước Lào hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Luận án nhằm đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm xây dựng đội
ngũ CCHC cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án: Thực hiện mục đích trên, luận án có
các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa, phân tích, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về xây dựng
đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào.
- Nghiên cứu hệ thống tư tưởng, quan điểm và đặc trưng về NNPQ,
xác định những yêu cầu của NNPQ đối với công tác xây dựng đội ngũ
CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào.
- Phân tích quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ CCHC
cấp tỉnh ở CHDCND Lào và đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển
đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu của NNPQ.
- Đề xuất các quan điểm giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ CCHC
cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào.
- Phạm vi nghiên cứu: Xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh đáp ứng yêu
cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào có phạm vi rộng, với nhiều vấn đề liên
quan chặt chẽ với nhau. Về thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ CCHC
5
cấp tỉnh ở Lào, luận án chỉ đề cập thực trạng đội ngũ CCHC và xây dựng đội
ngũ CCHC cấp tỉnh từ khi giải phóng đất nước tức là từ năm 1975 đến nay và
các giải pháp xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào đến 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Về cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng NDCM Lào và Đảng Cộng sản
Việt Nam về nhà nước pháp quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền, về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
4.2. Về phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử mác xít nghiên cứu các nội dung của luận án trên quan điểm
hệ thống, toàn diện, khách quan, lịch sử cụ thể gắn với các quan hệ khách
quan - chủ quan, nguyên nhân - kết quả.
Luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân
tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn
v.v.. để nghiên cứu nội dung của từng chương trong luận án.
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong tất cả các chương
của luận án khi đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu; nghiên cứu cơ sở lý
luận, đánh giá thực trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp xây dựng đội
ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào hiện nay.
Trong chương 3 khi đánh giá thực trạng đội ngũ CCHC cấp tỉnh còn
thực trạng xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ngoài phương pháp phân tích,
tổng hợp tác giả chú ý sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tài
liệu thứ cấp, tham chiếu các tài liệu thống kê, đánh giá của các cơ quan Đảng,
Nhà nước Lào.
Trong chương 4 khi nghiên cứu đề xuất các quan điểm, giải pháp xây
dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
6
tác giả chú trọng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp; lý luận gắn với
thực tiễn nhằm đề xuất được các quan điểm, giải pháp sát với đề tài, phù hợp
với thực tiễn, có tính khả thi và khái quát cao về mặt lý luận.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Nghiên cứu về xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây
dựng NNPQ ở CHDCND Lào là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, đòi hỏi phải
giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. Trong phạm vi nghiên cứu nhất
định, luận án có những đóng góp mới sau đây:
- Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận dưới góc độ
chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật về xây dựng đội ngũ
CCHC cấp tính theo yêu cầu xây dựng nhà NNPQ của dân, do dân, vì dân.
Từ khái niệm, đặc điểm, vai trò của CCHC cấp tỉnh tác giả xác định
xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh là toàn bộ các hoạt động nhằm hình
thành được đội ngũ CCHC trung thành với Đảng, nhà nước, với nhân dân;
thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ; tận tụy và có trách nhiệm với công vụ
bảo đảm thực thi quyền hành pháp và các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên
các lĩnh vực đời sống xã hội ở cấp tỉnh.
Từ khái niệm trên tác giả đã đề xuất 4 nguyên tác và 6 nội dung xây
dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh CHDCND Lào.
Trên cơ sở khái quát những đặc trưng của NNPQ XHCN ở CHDCND
Lào tác giả đã xác định những yêu cầu của NNPQ đối với công tác xây
dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào bao gồm yêu cầu về phẩm
chất chính trị; về đạo đức, lối sống; về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; về
yêu cầu chuyên môn hóa, hiện đại hóa đội ngũ CB, CCHC cấp tỉnh.
- Đánh giá thực trạng đội ngũ CCHC cấp tỉnh và xây dựng đội ngũ
công chức hành chính cấp tỉnh ở CHDCND Lào từ đổi mới đến nay, chỉ ra
những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trên cơ sở những
yêu cầu của NNPQ.
7
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp phù hợp với thực tiễn, khả thi nhằm,
xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND
Lào hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hoàn thiện lý
luận về xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu của NNPQ ở
CHDCND Lào. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo về xây dựng ngũ CCHC cấp
tỉnh theo yêu cầu xây dựng NNPQ cũng như nghiên cứu, giảng dạy về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, về lý luận Nhà nước và pháp luật trong các
cơ sở đào tạo.
- Về thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tổng kết
thực tiễn về xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh, nghiên cứu, sửa đổi về công
tác cán bộ, hoàn thiện các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức nói chung,
CCHC cấp tỉnh nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
công trình có liên quan của tác giả đã công bố, nội dung của luận án gồm có 4
chương, 11 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Các công trình liên quan đến đội ngũ công chức hành chính
Ở nhiều nước đã có những công trình nghiên cứu và phát triển mạnh cả
về lý luận và thực tiễn đối với CC và xây dựng đội ngũ CC, vấn đề mà đề tài
luận án đề cập tới. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
được tiến hành trên nhiều giác độ khác nhau. Ở các nước phát triển, hệ thống
công vụ và đội ngũ CC đã được hình thành từ rất lâu và có tính ổn định cao,
nhất là các văn bản pháp luật liên quan đến đội ngũ CC cũng đã được ban
hành sớm như: Luật nghỉ hưu năm 1859 của Vương quốc Anh, Luật quan
chức quốc gia năm 1873 của Cộng hòa Liên bang Đức, Luật chế độ công
chức năm 1883 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, Luật chung về CC năm 1946,
1959 của Cộng hòa Pháp, Điều lệ tạm thời về CC Nhà nước năm 1993 của
Trung Quốc… Trong một thế giới chuyển đổi hiện nay, các công trình tập trung
nghiên cứu tính xã hội, sự uyển chuyển của hệ thống công vụ để đảm bảo “công
dân là khách hàng”.
Ở Việt Nam, cũng có nhiều công trình nghiên cứu phong phú với nhiều
tác giả viết liên quan trực tiếp đến chủ đề xây dựng CCHC, xây dựng NNPQ
của dân, do dân, vì dân. Xây dựng đội ngũ CC nói chung, đội ngũ CCHC nói
riêng, đặc biệt là đội ngũ CCHC cấp tỉnh, có chất lượng cao, hiện đại và
chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu NNPQ của dân, do dân, vì dân đang là vấn
đề cấp thiết được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm và cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này trên các phương diện khác nhau.
- Cuốn sách, “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức” do TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
9
Trong cuốn sách này, các tác giả đã nêu ra những cơ sở lý luận về xây
dựng CB, CC theo yêu cầu xây dựng NNPQ của dân, do dân, vì dân. Phân
tích sâu sắc về khái niệm của CB, CC; nêu ra các văn bản pháp luật về CB,
CC đã được ban hành trong từng các giai đoạn khác nhau từ trước đến nay;
phân loại CB, CC; thể chế quản lý CB, CC; phân tích tính tất yếu khách quan
của việc xây dựng đội ngũ CB, CC đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ xã hội
chủ nghĩa; phân tích vị trí, vai trò của đội ngũ CC trong xây dựng NNPQ
XHCN của dân, do dân, vì dân và sự cần thiết phải xây dựng đội ngũ CB, CC
trong sạch, vững mạnh; những khó khăn, thách thức đối với việc xây dựng đội
ngũ CB, CC. Ngoài ra, trong cuốn sách này các tác giả còn nêu ra thực trạng
đội ngũ CB, CC và thể chế quản lý CB, CC ở Việt Nam hiện nay. Trong phần
thực trạng đã đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ CB,
CC ở Việt Nam qua các giai đoạn như:
- Giai đoạn từ năm 1945 - 1954.
- Giai đoạn từ năm 1954 - 1975.
- Giai đoạn từ năm 1975 - 1986.
- Giai đoạn từ năm 1986 - hiện nay.
Sau khi đánh giá chung những ưu điểm chủ yếu, những hạn chế và
nguyên nhân về thực trạng đội ngũ CB, CC ở Việt Nam hiện nay các tác giả
còn đưa ra những kinh nghiệm xây dựng CC của một số nước trên thế giới để
vận dụng kinh nghiệm các nước vào việc xây dựng đội ngũ CC ở Việt Nam.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số ĐTĐL-2004/25 do PGS.TS
Nguyễn Trọng Điều làm chủ nhiệm: “Nghiên cứu cơ sở khoa học nhằm hoàn
thiện chế độ công vụ ở Việt Nam”, đã đi sâu nghiên cứu cơ sở khoa học nhằm
hoàn thiện chế độ công vụ, làm cơ sở khoa học để xây dựng luật công vụ ở
Việt Nam hiện nay. Đây là đề tài cấp nhà nước, vấn đề được nghiên cứu ở đây
là rất rộng, dung lượng nghiên cứu với quy mô rất lớn, tuy nhiên nội dung chủ
yếu là nghiên cứu chế độ công vụ nhằm xây dựng luật công vụ. Các nhà
nghiên cứu đã đưa ra những cơ sở khoa học về công vụ và CC, cơ sở của nền
10
công vụ và công vụ trong mối quan hệ với các thiết chế và lĩnh vực khác,
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Đảng về công vụ.
- Đề tài khoa học cấp bộ (Học viện hành chính quốc gia, Hà Nội) “Cải
cách hệ thống tổ chức, hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước, xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ CCHC nhà nước” (1990), do Nguyễn Duy Gia
(1990), và “Xây dựng và đổi mới đội ngũ CCHC nhà nước” (1993) do Lương
Trọng Yêm làm chủ nhiệm. Các công trình trên đều đề cập đến cơ sở lý luận
về việc xây dựng, đổi mới và nâng cao chất lượng của đội ngũ công CCHC
nhà nước ở Việt Nam sau khi đổi mới và đánh giá thực trạng đội ngũ CCHC,
những bất cập và đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện, đổi mới
về việc xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đổi
mới đất nước hiện nay.
- PGS, TS Nguyễn Phú Trọng, PGS, TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ
biên) (2003), "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
Cuốn sách này đã luận chứng sâu sắc về vị trí, vai trò và yêu cầu khách
quan cấp bách của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Mỗi chế độ xã hội muốn đứng vững và phát triển đều phải được xây
dựng nên bởi những con người hết lòng trung thành với chế độ, có trí tuệ và
năng lực. Trong xã hội ngày nay, đó là những CC, những người trực tiếp phục
vụ chế độ của dân, do dân và vì dân. Họ là người đại diện cho nhà nước để
xây dựng và thực thi các chủ trương, chính sách. Họ là nhân tố có tính quyết
định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Việt Nam giờ đây đang trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, những thay đổi về kinh tế - xã hội đang đặt ra
nhiều vấn đề cần giải quyết. Một mặt, phải huy động mọi tiềm năng để đưa
đất nước trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có nền kinh tế
11
phát triển, đời sống của nhân dân được nâng cao, mặt khác, lại phải luôn tỉnh
táo, cảnh giác để hướng sự phát triển này không đi chệch mục tiêu xã hội chủ
nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa". Cán bộ, công nhân viên chức
là những người gánh trên vai trọng trách nặng nề của đất nước, vì vậy họ phải
thực sự là những "con người xã hội chủ nghĩa".
Ngay từ khi Đảng ta ra đời, vấn đề CB, CC đã được coi là mối quan
tâm hàng đầu và ngày càng được chú ý. Mấy năm gần đây, Đảng và Nhà nước
ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về vấn đề CB, CC nhằm củng cố,
đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng của đội ngũ này. Tuy nhiên, muốn
đưa ra được những chủ trương, chính sách đúng đắn và thực hiện một cách có
hiệu quả, thì cùng với việc tăng cường công tác tổng kết thực tiễn cần nắm
thật vững lý luận, đi sâu vào bản chất của khái niệm, thấy được những nét đặc
thù và vai trò của cán bộ, công chức Việt Nam qua từng giai đoạn cách mạng,
đồng thời nhận rõ những thuận lợi cũng như khó khăn mà giai đoạn phát triển
mới đang đặt ra, cũng như yêu cầu cấp bách về việc nâng cao chất lượng đối
với đội ngũ CB, CC hiện nay…
Cuốn sách này đã góp phần lý giải, hệ thống hóa các căn cứ khoa học
của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo chủ
chốt các cấp, từ đó đưa ra những kiến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm
củng cố, phát triển đội ngũ này cả về chất lượng, số lượng và cơ cấu cho phù
hợp với yêu cầu hiện nay.
- PGS,TS Trần Đình Hoan (chủ biên) (2009): "Đánh giá, quy hoạch,
luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cuốn sách đã phân tích và khẳng định dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, gần 80 năm
qua, cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi vẻ vang.
12
Từ một nước nô lệ, Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, là ngọn cờ
tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc. Trong hơn 25 năm qua, công
cuộc đổi mới đã giành được những thành tựu vô cùng quan trọng, tạo điều
kiện, cơ sở vững chắc cho quá trình phát triển đất nước trong những năm tiếp
theo. Có được những thắng lợi đó là nhờ đường lối chính trị đúng đắn, là do
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã dày công xây dựng đội
ngũ CB đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Muôn việc thành
công hoặc thất bại, đều do CB tốt hoặc kém".
Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
nay, đội ngũ cán bộ, công chức đã vươn lên, năng động, sáng tạo, góp phần
xứng đáng vào thành tựu to lớn của đất nước. Song, trong hoàn cảnh mới, sự
tác động của cơ chế thị trường đã làm bộc lộ nhiều yếu kém, khuyết điểm của
đội ngũ CB, CC. Trong đội ngũ CB, CC hiện đang có nhiều vấn đề đáng lo
ngại cả về phẩm chất và năng lực. Một bộ phận không nhỏ CB, CC đã bị thoái
hóa về chính trị và phẩm chất, đạo đức, lợi dụng chức quyền để tham ô, lãng
phí, quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, cơ hội và thực dụng. Không ít cán bộ bị
giảm sút uy tín, không còn là công bộc của dân, thậm chí trù dập, ức hiếp dân.
Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII chỉ rõ:
"Nhìn chung đội ngũ cán bộ hiện nay, xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu
có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ". Vừa qua, tuy có nhiều cố gắng trong công tác CB, nhưng
không ít việc còn mang tính chất ứng phó, chưa đáp ứng tốt các yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới đất nước. Hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn của công
tác CB chậm được nghiên cứu, tổng kết.
Cuốn sách đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về công tác xây dựng đội ngũ công chức nói chung, công tác đánh giá, quy
hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng CB, CC cấp tỉnh nói riêng, đồng thời
13
từ đó rút ra được những giải pháp hiệu quả cho công tác CB trong giai đoạn
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay. Cuốn sách: "Đánh giá, quy hoạch,
luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước" do PGS.TS Trần Đình Hoan làm chủ biên là kết quả nghiên cứu của
đề tài khoa học: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá, quy hoạch,
luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước". Cuốn sách gồm có những nội dung chủ yếu sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển CB
lãnh đạo, quản lý trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
- Chương 2: Quá trình thực hiện công tác đánh giá, quy hoạch, luân
chuyển CB trong lịch sử Đảng ta và thực trạng công tác này trong tình hình
hiện nay.
- Chương 3: Quan điểm, giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Phần phụ lục: Vấn đề đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong lịch sử nước Việt Nam và một số nước trên thế giới.
Đây là một đề tài còn khá mới mẻ, đề cập đến công tác CB là một
nhiệm vụ rất quan trọng, nhất là trong điều kiện phát triển, hội nhập quốc tế
của đất nước Việt Nam hiện nay.
Cuốn sách sẽ là tài liệu hữu ích cho những người làm công tác CB và
những người quan tâm đến công tác xây dựng đội ngũ CC hiện nay.
- PGS, TS Lê Minh Thông, TS. Nguyễn Danh Châu (đồng chủ biên)
(2009), "Kinh nghiệm công tác nhân sự của một số nước", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
CB là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ CB, CC vững vàng về chính trị, gương mẫu về
14
đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động
thực tiễn, sáng tạo, gắn bó với nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương và chính sách lớn trong nội dung công
tác cán bộ của Đảng và Nhà nước ta.
Trong những năm qua, Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy, đổi mới
nhận thức trong việc xây dựng, đề ra các đường lối, chủ trương về công tác
cán bộ. Trong các nhiệm kỳ Đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đều dành sự
quan tâm cho công tác tổ chức và cán bộ. Hơn mười năm thực hiện Nghị
quyết Trung ương 3 khóa VIII, công tác CB đã có một số đổi mới về nội dung
và cách làm, mang lại những chuyển biến tích cực; chất lượng đội ngũ CB,
CC nhìn chung được nâng lên; tuyệt đại đa số CB, CC vẫn giữ được phẩm
chất chính trị và đạo đức, lối sống lành mạnh, gần gũi với nhân dân, trung
thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, thích ứng dần với điều kiện mới.
Tuy nhiên, việc đổi mới công tác CB và chính sách CB vẫn chưa theo
kịp với đổi mới kinh tế và phát triển của xã hội. Nhiều khuyết điểm, yếu kém
chậm được khắc phục, nhất là trong việc tuyển chọn, đào tạo, đánh giá, sắp
xếp, chế độ, chính sách đối với CB, CC.
Để nhanh chóng xây dựng đội ngũ CC theo yêu cầu xây dựng NNPQ
và nhiệm vụ mới, cần phải nghiên cứu một số mô hình công vụ, CC của một
số nước tiên tiến và những nước có điều kiện gần giống với Việt Nam để thấy
rõ hơn những vấn đề về công vụ, CC ở Việt Nam, từ đó có giải pháp đổi mới
công tác cán bộ, nhanh chóng khắc phục những mặt còn hạn chế là việc làm
rất cần thiết.
Trong nội dung cuốn sách, các tác giả tập trung phân tích, giới thiệu
những vấn đề: bộ máy quản lý CC; tuyển chọn công chức; chế độ công trạng,
luân chuyển công chức; đào tạo, bồi dưỡng CC; chế độ kiểm tra, đánh giá
CC; chế độ, chính sách đối với CC; ở Nhật Bản, Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên
bang Đức, Trung Quốc. Từ việc khảo cứu các mô hình công vụ, CC của một
số nước trên thế giới, các tác giả rút ra một số nhận xét chung và đề xuất
15
kiến nghị nhằm đổi mới công tác CB của Việt Nam cho phù hợp với đặc
điểm, trình độ phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
1.1.2. Các công trình liên quan đến xây dựng đội ngũ công chức
hành chính cấp tỉnh
- Chu Xuân Khánh (2010), “Hoàn thiện việc xây dựng đội ngũ công
chức hành chính nhà nước chuyên nghiệp ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ
chuyên ngành quản lý hành chính công, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh. Nội dung luận án tác giả chủ yếu đề cập đến những quan
niệm về CC nhà nước của một số quốc gia khác nhau, làm cơ sở việc phân
tích, so sánh với thực tiễn ở Việt Nam, từ đó góp phần vào việc hệ thống hóa
cơ sở lý luận về đội ngũ CCHC nhà nước và tính chuyên nghiệp của đội ngũ
này. Luận án đưa ra quan niệm về tính chuyên nghiệp của đội ngũ CCHC nhà
nước, những biểu hiện của tính chuyên nghiệp và hệ thống chuẩn mực của đội
ngũ CCHC nhà nước chuyên nghiệp. Tác giả đã hệ thống lại quá trình hình
thành và phát triển của đội ngũ CC ở Việt Nam qua các giai đoạn cách mạng;
phân tích đánh giá thực trạng về xây dựng và phát triển đội ngũ CCHC nhà
nước ở Việt Nam trên cơ sở đó rút ra các nhân tố (nguyên nhân) cản trở việc
xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước. Đồng thời, tác giả đã nêu một số giải
pháp nhằm xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước chuyên nghiệp ở Việt Nam,
phục vụ cho công cuộc cải cách nền HCNN.
- Giang Thị Phương Hạnh (2009), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức hành chính nhà nước theo yêu cầu cải cách hành chính của tỉnh Bình
Phước hiện nay”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước
và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả
luận văn đi sau phân tích lý luận về CB, CC, các quy định của pháp luật về
CB, CC, tổng quan công cuộc cải cách hành chính, luận văn nêu ra quan điểm
về khái niệm và đặc điểm cán bộ, công chức hành chính nhà nước; vị trí, vai
16
trò của CB, CCHC trong công cuộc CCHC, xây dựng và phát triển đất nước,
góp phần hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng đội ngũ
CB, CCHC nhà nước, để xuất một số giải pháp có giá trị thực tiễn cao nhằm
mục đích xây dựng đội ngũ CB, CCHC nhà nước ở tỉnh Bình Phước đảm bảo
chất lượng, số lượng và cơ cấu hợp lý.
- Vũ Quang Dương (2007), “Xây dựng đội ngũ công chức trong điều
kiện nhà nước pháp quyền qua thực tiễn Quận Cầu Giấy”, Luận văn thạc sĩ
chuyên ngành lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật, Đại học quốc gia Hà
Nội, khoa luật. Luận văn đi sâu nghiên cứu chế độ CC của Việt Nam và kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới, qua thực trạng đội ngũ CC quận Cầu
Giấy, tác giả làm sáng tỏ những bập cập, hạn chế của đội ngũ CC ở Việt Nam
hiện nay; những yếu tố ảnh hưởng, tác động đến đội ngũ công chức đáp ứng
yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân.
- Nguyễn Thị Thu Trang (2010), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức tại tỉnh Phú Thọ hiện nay”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lý luận và
Lịch sử nhà nước và pháp luật, Đại học quốc gia Hà Nội, khoa luật. Luận văn
đã khái quát có hệ thống, phân tích và đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ,
công chức của tỉnh Phú Thọ trong những năm gần đây, đề xuất một số phương
hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trên
địa bàn tỉnh Phú thọ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
- Nguyễn Thọ Hòa (2013), "Đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính
nhà nước cấp tỉnh ở tỉnh Kon Tum hiện nay", Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành
lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh. Tác giả đi sâu phân tích cơ sở lý luận về đào tạo bồi dưỡng
công chức hành chính, thực trạng và giải pháp đào tạo công chức hành chính
nhà nước cấp tỉnh ở tỉnh Kon Tum Việt Nam.
Xung quanh vấn đề xây dựng đội ngũ công chức đã có các công trình
nghiên cứu và một số bài viết như: "Giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ tổ chức" của Th.S Phạm Thúy Dương; "Về công tác đào tạo, bồi
17
dưỡng nghiệp vụ tổ chức,cán bộ" của TS. Hoàng Mạnh Đoàn; "Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức ở một số nước trên thế giới" của Lê Quang; Các bài
viết đó đã tập trung nghiên cứu các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CB, tổ
chức, nhất là giải pháp đào đạo bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tổ chức cán bộ.
1.1.2. Các công trình liên quan đến xây dựng nhà nước pháp quyền
Đến nay trong sách báo khoa học ở Việt Nam và các nước trên thế giới
đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền. Từ sau Đại chiến
thế giới lần thứ II (1945) đến những thập kỳ gần đây, vấn đề NNPQ được
nhiều nhà khoa học phương Tây quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên
cứu về nhà nước đã được tiến hành ở Anh từ những năm 1970, ở Pháp những
năm 1980 đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về NNPQ của nhiều tác
giả, có thể kể ra như; Dominique Colas, michel Crozer, Blandine, Kriegel,
v.v… Năm 1984 Pháp có Ủy ban hiện đại hóa Nhà nước do Tổng thống
F.Mitterand đề nghị. Claude Nicolet viết: “Nhà nước hiện đại đối với chúng
ta, những người ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi thế kỷ ánh sáng và bởi Hêghen,
là một cấu trúc nghiêm ngặt của công pháp (drot public) với tư cách là sự thể
hiện quyền lợi chung”. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là từ những
bài học cay đắng của lịch sử, khi các Nhà nước phát xít và quân phiệt ở Đức,
Italia và Nhật Bản…đã từ bỏ những nguyên tắc sơ đẳng của nhà nước pháp
quyền, coi “Nhà nước pháp quyền là tất cả” và “không thể chống lại” đã đưa
nhân loại vào cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử.
Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam tập trung giải quyết những vấn
đề nhận thức luận về nhà nước pháp quyền như: sự hình thành tư tưởng về
nhà nước pháp quyền, các đặc trưng nguyên tác của NNPQ; mô hình nhà
nước pháp quyền trong điều kiện, hoàn cảnh đặc thù ở Việt Nam hiện nay, có
thể nêu ra các công trình tiêu biểu dưới đây :
- Trước hết, cần kể đến chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước
KX04 (2001 - 2010) “Xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
18
dân, do nhân dân, vì nhân dân” trong đó có đề tài KX04-02 “Mô hình tổ chức
và hoạt động của NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân” giai đoạn 2001 - 2010 do GS.TS. KH. Đào Trí Úc làm chủ
nhiệm. Công trình đưa ra những luận cứ khoa học mô hình lý thuyết về tổ
chức và hoạt động của NNPQ, ở một mức độ nhất định cũng đã đề cập tới
từng loại cơ quan nhà nước trong NNPQ Việt Nam, trong đó có chính quyền
cấp tỉnh. Những công trình nghiên cứu này tập trung giải quyết những vấn đề có
tính phương pháp luận về NNPQ, về bộ máy nhà nước trong NNPQ, mà không
đi sâu nghiên cứu về xây dựng đội ngũ CC của cơ quan nhà nước từng cấp.
- GS.TSKH. Đào Trí Úc (Chủ biên) (2006), "Mô hình tổ chức và hoạt
động của NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (sách chuyên khảo), Nxb Tư
Pháp, H, tiếp cận dưới góc độ pháp lý, trên cơ sở khái quát về mô hình tổ
chức bộ máy nhà nước trên thế giới, nêu bật sự khác biệt và tính phổ quát về
nhà nước pháp quyền. Trong đó khẳng định xây dựng NNPQ là yêu cầu; giá
trị cơ bản của chế độ dân chủ, tạo nên sự đồng thuận xã hội. Với bản chất nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tác giả khái quát và chỉ ra những
đặc điểm của nhà nước pháp quyền, những đặc trưng của nhà nước pháp
quyền Việt Nam, đồng thời đề xuất mô hình tổng thể tổ chức cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam.
- Đề tài khoa học mã số KX04.09 “Xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” trong đó có báo cáo chuyên
đề “đánh giá thực trạng đội ngũ CB, CC hiện nay” đã đưa ra những đánh giá
cơ bản về đội ngũ CB, CC ở Việt Nam trong giai đoạn đầu tiên của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, những nguyên nhân dẫn đến bất cập
của đội ngũ CB, CC hiện nay.
- PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2005), "Sự hạn chế quyền lực nhà
nước", Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, phân tích cơ chế quyền lực bằng pháp
luật, bằng quyền lực của các nhánh quyền lực, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai
19
trò của cơ quan tư pháp trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Ngoài ra còn một số
công trình khác cũng đề cập tới NNPQ ở khía cạnh lý luận và thực tiễn.
- PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh (2010), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam: Lý luận và thực tiễn", (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách này tác giả đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận
về nhà nước pháp quyền XHCN, quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về nhà nước pháp quyền, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam, thực trạng và quan điểm, phương hướng xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam. Trong phương hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam tác giả đề cập đến phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức nói chung của bộ máy nhà nước.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Ở CHDCND Lào vấn đề xây dựng đội ngũ CCHC nói chung và CCHC
cấp tỉnh nói riêng đến nay rất ít công trình nghiên cứu đến, Những năm gần
đây, có một số công trình nghiên cứu đến đội ngũ CB, CC cấp tỉnh và các
công trình nghiên cứu đến đội ngũ CB, CC nhà nước trong các lĩnh vực khác
nhau như sau:
- Vắt tha Na CHĂN SA VANG (2007), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức chính quyền cấp tỉnh vùng Tây Bắc nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào’’, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành hành chính công, Học viện Hành chính
quốc gia, Hà Nội. Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về CB và xây dựng đội
ngũ CB, CC cấp tỉnh, đánh giá thực trạng xây dựng đội ngũ CB, CC cấp tỉnh,
vùng Tây Bắc, CHDCND Lào đồng thời đề xuất những giải pháp để góp phần
xây dựng đội ngũ CB, CC cấp tỉnh. Trong luận văn tác giả chủ yếu phân tích các
quan niệm, khái niệm về đội ngũ CB, CC vùng Tây Bắc một cách khái quát, đi
sâu vào việc xây dựng đội ngũ CB, CC cấp tỉnh vùng Tây Bắc nói chung, chưa
đề cập những đến vấn đề cụ thể về xây dựng đội ngũ CC hành chính cấp tỉnh.
- Khăm Pha Phim Ma Sỏn (2010), “Xây dựng đội ngũ công chức quản
lý nhà nước về kinh tế ở Tỉnh Bo Ly Khăm Xay, CHDCND Lào”, Luận án
20
tiến sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trong nội dung của luận án, tác giả chủ yếu tập trung làm rõ cơ sở lý
luận, đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp khả thi để xây dựng đội ngũ
CC quản lý nhà nước về kinh tế, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế của
tỉnh BoLy Kham Xay. Trong đó có đề cập đến việc hệ thống hóa những vấn
đề lý luận cơ bản để làm rõ về đội ngũ CC và xây dựng đội ngũ CC quản lý
nhà nước về kinh tế cấp địa phương, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng đội
ngũ CC ở một số nước, chủ yếu là ở Việt Nam và rút ra bài học đối với
CHDCND Lào nói chung, tỉnh BoLy Kham Xay nói riêng, tìm ra những ưu
điểm, hạn chế, yếu kém và các vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ
CC quản lý nhà nước về kinh tế hiện nay, đồng thời đề xuất một số phương
hướng, giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ CC quản lý nhà nước về
kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế cả trước mắt và lâu dài. Tuy nhiên,
trong luận án mặc dù tác giả cũng đề cập đến những nội dung cơ bản của việc
xây dựng đội ngũ CC như: quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng, xây dựng tiêu
chuẩn, xây dựng tiêu chí đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng và tổ chức thực thi
công tác CB, CC ở CHDCND Lào, nhưng tác giả chỉ giới hạn tập trung vào
nội dung xây dựng đội ngũ CC quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp địa phương
thuộc địa bàn tỉnh BoLy Kham Xay, CHDCND Lào.
- Bun Sợt Tham Mạ Vông (2004), "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp huyện ở các tỉnh phía Nam nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện
nay", Luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Tác giả làm rõ cơ sở lý luận, phân tích thực trạng đội ngũ CB chủ chốt
cấp huyện ở Nam Lào và thực trạng xây dựng đội ngũ CB chủ chốt trong thời
gian qua, luận án đề xuất các giải pháp góp phần xây dựng đội ngũ CB chủ
chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam Lào đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi
mới hiện nay.
21
Tác giả làm rõ vị trí, vai trò cấp huyện và đội ngũ CB chủ chốt cấp
huyện nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay, tác giả phân tích thực
trạng đội ngũ CB chủ chốt cấp huyện và công tác xây dựng đội ngũ CB chủ
chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam Lào, chỉ rõ ưu, khuyết điểm, nguyên
nhân và kinh nghiệm, chỉ ra mục tiêu, phương hướng và đề xuất những giải
pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía
Nam Lào đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới hiện nay.
Luận án góp phần làm rõ hơn cơ sở khoa học xây dựng đội ngũ CB, CC
chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam Lào. Đánh giá đúng thực trạng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện và công tác xây dựng CB chủ chốt cấp huyện
ở các tỉnh phía Nam Lào hiện nay và những kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ
CB chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam Lào. Luận án nêu một số giải
pháp chủ yếu, khả thi xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh
phía Nam Lào đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới hiện nay.
- Đệt Tạ Kon Phi La Phan Đệt (2004), "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn trong giai đoạn cách
mạng hiện nay", Luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Luận án làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của đội ngũ CB
lãnh đạo chủ chốt và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các ban,
ngành ở thành phố Viêng Chăn. Tác giả phân tích đánh giá thực trạng đội ngũ
CB lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn và thực trạng kinh
nghiệm, những yêu cầu đặt ra cho công tác xây dựng đội ngũ CB, CC.
Trên cơ sở phân tích tác giả luận chứng cơ sở khoa học về vai trò, vị trí
đặc trưng và yêu cầu mới của đội ngũ CB lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở
thành phố Viêng Chăn.
Qua khảo sát thực trạng đội ngũ CB lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở
thành phố Viêng chăn, luận án phân tích, rút ra những bài học, kinh nghiệm
22
về công tác cán bộ và xác định một cách cụ thể hóa tiêu chuẩn, cơ cấu của đội
ngũ cán bộ này. Tác giả kiến nghị một số giải pháp có tính khả thi để xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng
Chăn trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
- Bun Lư Sổm Sắc Đi (2004), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
tỉnh khu vực phía Bắc của nước CHDCND Lào trong giai đoạn cách mạng
hiện nay” Luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án hệ thống hóa được các vấn đề lý
luận và đánh giá được thực trạng xây dựng đội ngũ CB chủ chốt cấp tỉnh phía
Bắc Lào từ 1986 - đến nay, những vấn đề đặt ra và bước đầu đề xuất một số
giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ CB chủ chốt
cấp tỉnh khu vực phía Bắc Lào trong thời kỳ mới.
Tác giả tập trung phân tích và hệ thống hóa một số quan điểm lý luận cơ
bản về CB, CB chủ chốt nói chung và CB chủ chốt cấp tỉnh ở Lào nói riêng.
Sâu khi đánh giá thực trạng đội ngũ CB và công tác xây dựng đội ngũ
CB chủ chốt cấp tỉnh phía Bắc (những thành tựu, hạn chế và những nguyên
nhân), tác giả bước đầu đề xuất một số giải pháp đồng bộ có tính khả thi
nhằm xây dựng đội ngũ CB chủ chốt cấp tỉnh ở phía Bắc CHDCND Lào trong
giai đoạn cách mạng hiện nay.
- Khăm Phăn Phôm Mạ Thắt (2005), "Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở CHDCND
Lào trong thời kỳ đổi mới", Luận án tiến sĩ chính trị học, chuyên ngành Xây
dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả tập trung phân
tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
CB lãnh đạo quản lý chủ chốt, đặc biệt là với đối tượng thuộc diện quản lý
của Trung ương, trong thời kỳ đổi mới, nhất là hoàn cảnh trong nước và thế
giới hiện nay. Phân tích đánh giá đúng thực trạng của công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ CB lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý. Trên cơ
23
sở đó nêu lên những vấn đề cấp bách phải giải quyết và đề xuất những phương
hướng chủ yếu nhằm giải quyết những tồn tại, thúc đẩy hơn nữa các quá trình
đào tạo, bồi dưỡng CB lãnh đạo chủ chốt với chất lượng hiệu quả ngày càng cao.
Trên cơ sở phân tích tác giả trình bày tương đối có hệ thống những luận
cứ khoa học của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CB lãnh đạo, quản lý
nói chung và đối với những người lãnh đạo chủ chốt thuộc diện quản lý của
Trung ương nói riêng. Qua đó góp phần bổ sung, phát triển lý luận, quan điểm
đúng đắn về công tác đào tạo, bồi dưỡng CB lãnh đạo chủ chốt thuộc diện
Trung ương quản lý ở CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới.
Tác giả đề xuất các giải pháp cần thiết và tương đối cụ thể cho việc
tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng CB lãnh đạo quản lý chủ chốt thuộc
diện Trung ương quản lý ở CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới.
* Tạp chí
Vấn đề công tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh ở CHDCND Lào hiện nay có
hai bài viết trên tạp chí đó là: "Công tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh ở CHDCND
Lào hiện nay" của Th.S Un Kẹo Si Pa Sợt, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8 năm
2009, đã tập trung phân tích đội ngũ cán bộ làm công tác CB của Đảng ở các
tỉnh hiện có những mặt mạnh, yếu và một số quan điểm và giải pháp về công
tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh ở CHDCND Lào hiện nay; bài viết: "Nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh ở Lào hiện nay" của
Th.S Un Kẹo Si Pa Sợt, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10, năm 2009, đã tập
trung phân tích thực trạng những mặt mạnh, yếu kém, tồn tại của đội ngũ CB
làm công tác CB nói chung và đội ngũ CB làm công tác CB cấp tỉnh nói riêng
và rút ra một số kinh nghiệm bước đầu về công tác CB cấp tỉnh ở Lào hiện nay.
Đó là những công trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu. Ngoài ra còn
có rất nhiều các bài viết liên quan đến vấn đề nói trên trong các tạp chí, thông
tin có giá trị không nhỏ. Tuy nhiên việc nghiên cứu công tác tổ chức cán bộ cấp
tỉnh trong điều kiện đổi mới cũng chỉ đề cập đến đội ngũ cán bộ, công chức cấp
24
tỉnh nói chung hoặc đề cập đến những nội dung, khía cạnh nhất định mà chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về CCHC cấp
tỉnh. Vì vậy, vẫn còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về CCHC cấp tỉnh ở
CHDCND Lào cần phải được tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CỦA LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những vấn đề lý luận cơ bản đã được giải quyết
Qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan trực
tiếp và gián tiếp đến đề tài, có thể thấy rằng, chưa bao giờ các vấn đề công
chức và công tác CB, CC được đặt ra, nghiên cứu một cách sâu rộng với
nhiều người tham gia trong giai đoạn vừa qua. Đây là các tài liệu quý bởi các
thông tin được cập nhật và gởi mở những ý tưởng nghiên cứu. Tập thể các tác
giả nêu trên đã phân tích, lý giải, hệ thống hóa, bổ sung vấn đề lý luận cơ bản
về việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ CC trong đó có công chức hành
chính nhà nước nhằm đáp ứng các chức năng nhiệm vụ của nhà nước. Một số
khâu trong công tác CB, CC cũng được các tác giả nghiên cứu như: khái
niệm, đặc điểm, vai trò chức năng của công chức; tuyển dụng, sử dụng, đào
tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân chuyển, điều động và chế độ chính sách đối
với đội ngũ CB, CC.
Ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền
XHCN trong đó đề cập vấn đề xây dựng đội ngũ CB, CC nói chung của cả bộ
máy. Có một số công trình nghiên cứu về đội ngũ công chức hành chính
nhưng mới đề cập từng nội dung xây dựng đội ngũ công chức, hoặc xây dựng
đội ngũ công chức ở từng địa phương cụ thể. Kết quả nghiên cứu của các
công trình này là tài liệu tham khảo có giá trị phục vụ cho việc nghiên cứu
luận án. Các công trình nghiên cứu về công chức đã góp phần giải đáp những
đòi hỏi cấp bách của thực tế đối với đội ngũ CCHC nhà nước, đáp ứng yêu cầu
xây dựng NNPQ và sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước ở Việt Nam. Các
công trình nghiên cứu đã đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CB,
25
CC nói chung và CB, CC ở các địa phương nói riêng nhằm thực hiện một trong
những nội dung của cải cách hành chính ở Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu ở CHDCND Lào chủ yếu đề cập vấn đề xây
dựng đội ngũ CB, CC chủ chốt, hoặc đi vào từng nội dung cụ thể như đào tạo,
bồi dưỡng, công tác tổ chức cán bộ v.v...
Có một số công trình nghiên cứu CB, CC cấp tỉnh, cấp huyện nói
chung, chưa có một công trình nào nghiên cứu hoàn chỉnh và có hệ thống về
xây dựng CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào, nhất là nghiên cứu vấn đề xây
dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền vì
ở Lào chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống và sâu sắc về mối quan
hệ giữa xây dựng Nhà nước pháp quyền và yêu cầu đối với công tác xây dựng
đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước nói chung, CCHC cấp tỉnh nói
riêng là một vấn đề lớn và phức tạp, nhìn chung các công trình nghiên cứu đã
được công bố trên cũng có đóng góp quan trọng trong việc giải quyết các vấn
đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước nói chung.
Nhưng nhiều công trình mới chỉ dừng lại ở mặt phương pháp luận là chủ yếu,
các kết quả đưa ra thường là các giải pháp lớn, mang tính định hướng, hoặc
chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó ở một số khâu của công tác xây dựng đội
ngũ CCHCchính nhà nước. Tuy nhiên về mặt lý luận và thực tiễn cho thấy đội
ngũ CC là một tổng thể thống nhất, bao gồm nhiều đối tượng khác nhau với
những đặc thù công việc khác nhau trong đó có một đối tượng quan trọng
trong hoạt động công vụ, đó là CCHC và bởi vậy cũng cần có sự phần định rõ
ràng nhằm xây dựng đội ngũ CCHC đáp ứng được yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền XHCN.
Đến nay có rất ít công trình nghiên cứu một cách tổng thể về nội dung
xây dựng đội ngũ CCHC cấp địa phương, ở CHDCND Lào, đặc biệt là cấp
26
tỉnh chưa có công trình nào đề cập đến, và chưa có giải pháp tổng thể cho việc
xây dựng đội ngũ này. Mặt khác, trong quá trình thực tiễn của mỗi nước, mỗi
địa phương cũng có đặc điểm khác nhau.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng
NNPQ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, rất cần có công trình nghiên cứu một
cách có hệ thống và hoàn chỉnh, về lý luận xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước
cấp tỉnh, nhằm tìm ra giải pháp xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh có chất
lượng đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay. Đó là các vấn đề về khái niệm,
nguyên tắc, nội dung xây dựng đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh, yêu
cầu của nhà nước pháp quyền đối với công tác xây dựng đội ngũ công chức
hành chính cấp tỉnh.
Kết luận chương 1
Nghiên cứu đề tài này, NCS chủ yếu tìm hiểu các công trình nghiên
cứu có liên quan đến đề tài ở Việt Nam và ở CHDCND Lào. Bởi vì Việt Nam
và CHDCND Lào có nhiều điểm tương đồng: cùng giành được độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước, lựa chọn mục tiêu và con đường xây dựng CNXH,
cùng tiến hành đổi mới, sự nghiệp cách mạng hai nước đều do Đảng Cộng sản
lãnh đạo v.v..
Ở Việt Nam có rất nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng nhà nước
pháp quyền, về xây dựng đội ngũ CB, CC nói chung và một số công trình
nghiên cứu về xây dựng đội ngũ CB, CC ở các địa phương, cơ sở. Ở CHDCND
Lào số lượng công trình nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền cũng như về xây
dựng đội ngũ CB, CC nói chung và CCHC nói riêng chưa nhiều. Các công
trình này tuy cũng có tính hệ thống nhưng mới đề cập những vấn đề chung nhất
hoặc đề cập từng nội dung, khía cạnh của công tác cán bộ, chưa đi sâu nghiên
cứu có hệ thống, toàn diện về vấn đề xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh.
27
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu, tham khảo các công trình nghiên cứu
đã đi trước, Nghiên cứu sinh học hỏi được nhiều kinh nghiệm về công tác CB,
CC của một số nước trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam. Trong đó Nghiên
cứu sinh tâm đắc nhất là bài học kinh nghiệp của Việt Nam về công tác xây
dựng đội ngũ CB, CC nói chung và CCHC cấp tỉnh, cấp huyện nói riêng.
Luận án trân trọng và cố gắng kế thừa một cách chọn lọc những kết quả
nghiên cứu về mặt lý luận cũng như một số ý tưởng về giải pháp của tác giả đi
trước để tìm ra bài học kinh nghiệm vận dụng vào tình hình thực tế của
CHDCND Lào, đặc biệt là cấp tỉnh.
Luận án tập trung nghiên cứu làm rõ và bổ sung cơ sở lý luận về xây
dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh, đánh giá đúng thực trạng tìm ra nguyên nhân cả
điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào, hoàn thiện
tiêu chuẩn, xây dựng tiêu chí đánh giá đối với CCHC, đề xuất một số quan
điểm giải pháp khả thi đổi mới việc xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở
CHDCND Lào.
Nghiên cứu một cách hệ thống về công tác xây dung đội ngũ CCHC
cấp tỉnh ở Lào hiện nay, luận án này mong muốn sẽ góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả trong việc xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào hiện nay.
28
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC
HÀNH CHÍNH CẤP TỈNH THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1. KHÁI NIỆM XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH CẤP
TỈNH Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của công chức hành chính cấp tỉnh
2.1.1.1. Khái niệm công chức và công chức hành chính cấp tỉnh
a) Khái niệm công chức
CC là một khái niệm mang tính lịch sử, nội dung của nó phụ thuộc vào
đặc điểm của mỗi quốc gia, là bộ phận nhân lực chủ yếu trong hoạt động quản
lý nhà nước. Năng lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước nói chung, của
nền hành chính nhà nước nói riêng suy cho cùng được quyết định bởi trình độ
năng lực và phẩm chất của người CC.
CC được hiểu chung nhất là những người thực thi công vụ, hoạt động
của công chức mang tính quyền lực nhà nước hoặc phục vụ cho việc ban hành
các quyết định quản lý nhà nước, của xã hội làm mục tiêu, căn cứ, tiêu chuẩn
cho hành vi của mình. Với những giai đoạn lịch sử nhất định thuật ngữ công
chức cũng mang những nội dung khác nhau. Theo kinh nghiệm của các quốc
gia đã thực hiện chế độ CC, thì CC được hiểu là những công dân được tuyển
dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà
nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay nước ngoài, được xếp
vào một ngạch và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Với quan niệm như
thế để trở thành người công chức cần thỏa mãn điều kiện sau:
- Là công dân của nước đó.
- Được tuyển dụng bằng hình thức thi tuyển.
- Giữ một công vụ thường xuyên.
29
- Được xếp vào ngạch, một ngành chuyên môn.
- Làm việc trong một công sở.
- Lĩnh lương từ ngân sách nhà nước.
+ Khái niệm công chức của một số nước trên thế giới:
Ở một số nước, CC chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động quản lý nhà
nước. Có những nước, ngoài những người thực hiện trực tiếp các hoạt động
quản lý nhà nước, CC còn được áp dụng cho những người làm trong các cơ
quan dịch vụ công .
- Ở Cộng hòa Pháp: Luật chung về công chức năm 1946 và năm 1959
chỉ được áp dụng cho CC nhà nước Trung ương, không liên quan đến CC địa
phương. Năm 1981 sau khi Đảng xã hội lên cầm quyền, mở rộng quyền hạn
của địa phương, nên đến năm 1983 - 1984 khi ban hành luật chung về CC
hiện nay đã gộp cả CC địa phương vào. Như vậy, ở Pháp những người hoạt
động công vụ bao gồm “toàn bộ những người được nhà nước hoặc cộng đồng
lãnh thổ (vùng, tỉnh, công xã) bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong một
công sở (service public) hay một công sở tự quản và được biên chế vào một
ngạch của nền hành chính công” [47, tr.73]. Theo quan niệm như vậy, CC ở
Pháp chia làm 3 loại:
- CC trong các ngạch hành chính nhà nước.
- CC thuộc cộng đồng lãnh thổ, trực thuộc cơ quan chính quyền địa phương.
- CC trực thuộc các công sở tự quản.
Trong 3 loại CC trên chỉ có CC trong ngạch hành chính nhà nước được
coi là CC nhà nước. Không phải toàn bộ những nhân viên hành chính đều bị
chi phối bởi luật CC mà chỉ là những người đảm nhiệm các chức vụ thường
xuyên, còn các đối tượng khác bị chi phối chủ yếu là luật lao động, các văn
bản hợp đồng, luật từ chức và họ không được hưởng các bảo đảm đặc biệt về
mặt chức nghiệp. Như vậy ở Pháp ngoài lực lượng CC như đã nêu ở trên còn
một số những người làm việc trong các cơ quan thực thi công vụ nhưng
không phải là CC.
30
Việc tuyển dụng cho cả 3 loại công chức trên đều được thực hiện theo
phương thức thi tuyển, người trúng tuyển sẽ được đảm nhiệm ở bậc thấp nhất
và dần dần được thăng tiến lên những bậc cao hơn.
- Trung Quốc: Là quốc gia đông dân nhất thế giới và đang phát triển rất
nhanh ở châu Á. Trước đây Trung Quốc áp dụng chế độ quản lý nhân sự theo
cơ chế “cán bộ”, áp dụng một khuôn mẫu chung để quản lý mà không phân
biệt những người làm công tác Đảng, công tác chính quyền và làm trong
doanh nghiệp. Để đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước, thích ứng với nhu
cầu cải cách, mở cửa, Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XIII năm
1989 đã quyết định xây dựng một chế độ CC nhà nước kiểu mới ở Trung Quốc
và bàn “ điều lệ tạm thời về CC” ra đời. Theo Điều lệ tạm thời về CC năm 1993
của Trung Quốc thì CC nhà nước là “những nhân viên công tác trong cơ quan
hành chính nhà nước các cấp, trừ nhân viên phục vụ” [41, tr.223].
Năm 2005 Quốc hội khóa X của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
đã thông qua Luật công vụ (có hiệu lực tháng 1/2006) và Điều 2 luật này quy
định: CC là những người thi hành những nhiệm vụ công theo pháp luật quy
định, làm việc trong các cơ quan hành chính của nhà nước và hưởng lương
cùng các khoản phúc lợi của họ do ngân sách nhà nước trả.
- Nhật Bản: Nhật Bản gồm có CC nhà nước và CC địa phương. Công
chức nhà nước là những người được nhận chức trong bộ máy của chính phủ
trung ương, ngành tư pháp, quốc hội, quân đội, trường học công, xí nghiệp và
đơn vị sự nghiệp quốc doanh, được lĩnh lương từ ngân sách Nhà nước. Công
chức địa phương là những người làm việc và lĩnh lương từ nguồn ngân sách
của địa phương.
- Thái Lan: Là một quốc gia quân chủ lập hiến ở Đông Nam Á, theo
Luật công vụ của Thái Lan thì “CC là người được phân công và được bổ
nhiệm một công việc của chính phủ và nhận lương phù hợp ở một bộ, cơ
31
quan nhà nước hay cơ quan thuộc chính phủ” [70, tr.83]. Luật CC hiện
hành ở Thái Lan đã loại trừ các chức danh và quan chức chính trị ra khỏi
quy định của luật công vụ, đồng thời cấm các công chức không được trở
thành các quan chức chính trị.
Đội ngũ công chức ở Thái Lan được chia thành 3 nhóm chính:
- Một là, CC thường trực, bao gồm các CC trong công vụ nhận lương
từ quỹ công vụ thường xuyên và được bổ nhiệm theo quy định.
- Hai là, các quan chức phục vụ trong Hoàng Gia, bao gồm các CC
được bổ nhiệm vào các chức vụ phục vụ Hoàng Gia được ghi trong quy định
về Hoàng Gia.
- Ba là, các quan chức phục vụ đối ngoại đặc biệt, bao gồm các CC
được bổ nhiệm trong các trường hợp đặc biệt về lý do chính trị đối với các vị
trí công tác ở nước ngoài được quy định riêng.
Ở Việt Nam: Ngay từ năm đầu tiên của chính quyền cách mạng, CC đã
được xác định theo Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ban hành quy chế công chức, là những công dân Việt
Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên
trong các cơ quan chính phủ, ở trong hay ngoài nước, trừ những trường hợp
riêng biệt do chính phủ quy định.
Tuy nhiên, trong một thời gian dài do điều kiện chiến tranh ở Việt
Nam, việc phân định công chức cũng chưa rõ ràng, nói chung những người
làm việc trong hệ thống chính trị đều gọi chung là CB, CC. Đến thập kỷ 90,
khái niệm CC đã được xác định rõ hơn trong các Nghị định số 169/HĐBT ngày
25/5/1991, Nghị quyết số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ và
Pháp lệnh cán bộ, công chức ban hành ngày 26/2/1998.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, phạm vi những người làm việc
cho bộ máy nhà nước của Việt Nam là rất rộng. Tuy nhiên không phải tất cả họ
đều được coi là công chức. Theo tinh thần của Nghị định số 117/2003/NĐ-CP
32
ngày 10/10/2003 của chính phủ về tuyển dụng và quản lý CB, CC trong các
cơ quan nhà nước, CC bao gồm những đối tượng sau:
CC là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước, gồm: những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao
nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; những người được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào một ngạch CC hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong cơ
quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; những người được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường
xuyên trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ
quan đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ
chức - xã hội sau đây:
+ Văn phòng Quốc hội;
+ Văn phòng Chủ tịch nước;
+ Cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
+ Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp;
+ Cơ quan đại diện nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài;
+ Đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân;
+ Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
Trước yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước, ngày 13/11/2008 tại kỳ họp
thứ 4 Quốc hội khóa XII, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua và ban hành Luật cán bộ, công chức có hiệu lực từ ngày
1/1/2010. Luật này đã phân định rõ đối tượng CB, CC và tách biệt với đối
tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập do Luật viên chức điều
chỉnh (có hiệu lực từ ngày 1/1/2012). Theo quy định của Luật cán bộ, công
33
chức thì "Công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.
Qua những nội dung đã được trình bày và phân tích ở trên chúng ta thấy
rằng tuy khái niệm về CC của các quốc gia nói trên về phạm vi CC rộng hẹp khác
nhau nhưng nội hàm và địa vị pháp lý của CC có nhiều điểm giống nhau như:
- CC là những người phục vụ thường xuyên với chuyên môn nhất định
trong khu vực nhà nước.
- CC là kết quả của sự tuyển chọn đặc biệt của Nhà nước, hoạt động
của họ chịu sự điều chính của Luật CC.
- Hành vi của họ phải chịu trách nhiệm với Nhà nước, hành vi này phải
chịu sự hạn chế được quy định đặc biệt, bao gồm hạn chế hành vi chính trị,
giữ gìn bí mật, phục tùng chỉ huy.
- Được hưởng những quyền lợi của chức nghiệp như lương, hưu trí,
phúc lợi, trình bày, tố cáo, trong đó tiền lương do nhà nước chi trả.
- Khái niệm công chức ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào: Nói chung
từ CC được gọi chung trong từ CB. Việc phân biệt giữa CB và CC từ khi có
Nghị định số 171/CP ngày 11/11/1993. Nghị định này quy định như sau: CC
là công dân Lào được tuyển dụng và bổ nhiệm và giữ một công vụ thường
xuyên trong một công sở của nhà nước đã được xếp vào một ngạch, hưởng
lương do ngân sách Nhà nước cấp.
34
Sau 10 năm thực hiện Nghị định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 82/CP ngày 19/5/2003 để thay thế Nghị định số 171/CP ngày
11/11/1993 và từ CC đã được sửa đổi, bổ sung.
Điều 2 Nghị định số 82/CP ngày 19/5/2003 quy định: CC nước
CHDCND Lào là công dân Lào, được tuyển dụng và bổ nhiệm hoặc giao
nhiệm vụ thường xuyên ở các cơ quan tổ chức Đảng, nhà nước, tổ chức quần
chúng ở trung ương, cấp địa phương và cơ quan thay mặt nước CHDCND Lào
ở nước ngoài và được hưởng lương và tiền hỗ trợ khác từ ngân sách nhà nước.
Mặc dù Nghị định số 82/CP ngày 19/5/2003 không đưa ra khái niệm
CC, nhưng thông qua việc phân biệt các đối tượng là CC nước CHDCND
Lào, chúng ta có thể thấy, CC theo văn bản pháp luật nước CHDCND Lào có
nhiều điểm đặc trưng khác biệt so với các nước, đó là:
- CC nước CHDCND Lào không chỉ bao gồm những người làm việc
trong bộ máy nhà nước mà còn bao gồm cả những người làm việc cho các tổ
chức Đảng, tổ chức quần chúng như: Mặt trận Lào xây dựng đất nước, Hội
Liên hiệp phụ nữ, Công đoàn, Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng Lào,
Hội Cựu chiến binh. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của CC
nước CHDCND Lào. Nó xuất phát từ đặc thù của thể chế chính trị và tổ chức
bộ máy nhà nước, đảng, đoàn thể của nước CHDCND Lào.
- Đối tượng CC không áp dụng cho đối tượng làm việc trong các đơn
vị sự nghiệp của nhà nước, kể cả các đơn vị sự nghiệp thực hiện dịch vụ công.
Từ những phân tích trên, về mặt pháp luật, có thể định nghĩa CC
nướcCHDCND Lào như sau: “CC là công dân Lào, được tuyển dụng, bổ
nhiệm hoặc giao giữ một công vụ hay nhiệm vụ thường xuyên trong các cơ
quan tổ chức của Đảng, nhà nước, tổ chức quan chúng ở trung ương, địa
phương,các cơ quan thay mặt nước CHDCND Lào ở nước ngoài, được phân
loại theo chức vụ chuyên môn và tương ứng là trình độ đào tạo, ngành chuyên
môn, theo vị trí công tác, được xếp vào một ngạch công chức, mỗi ngạch có
35
chức danh riêng, tiêu chuẩn riêng, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước".
b) Khái niệm công chức hành chính cấp tỉnh
Hành chính nhà nước là “Sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng
quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của
công dân do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ trung ương đến cơ sở
tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các
mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn các yêu cầu hợp pháp
của công dân” [82, tr.18]. Có thể nói hoạt động hành chính nhà nước là hoạt
động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, là hoạt động trực tiếp điều hành
các quan hệ xã hội do các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước chỉ có thể được tiến hành
thông qua vai trò, nhiệm vụ, thẩm quyền của những con người làm việc trong
hệ thống hành chính đó, họ được gọi là công chức hành chính nhà nước. Cũng
theo quan niệm trên, công chức là người làm công cho nhà nước, do Nhà
nước trả lương để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, bởi vậy
chúng ta có thể dùng thuật ngữ công chức hành chính thay cho công chức
hành chính nhà nước. Công chức hành chính nhà nước là những người phục
vụ nhà nước, phục vụ nhân dân thi hành các chính sách và pháp luật, thực
hiện việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội dựa trên sự ủy thác quyền lực của
Nhà nước là những người được xếp vào ngạch hành chính nhà nước.
CCHC là người làm việc trong các cơ quan công quyền, cơ quan quản
lý HCNN, trong các bộ phận hành chính của các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và
các tổ chức khác được xếp vào một ngạch hành chính và hưởng lương từ ngân
sách Nhà nước. Như vậy, có thể hiểu CCHC là một bộ phần quan trọng của
đội ngũ CC, đảm nhận chức năng quản lý hành chính nhà nước. Họ là người
trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào một ngạch CC hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, làm việc
trong các cơ quan HCNN các cấp.
36
Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nằm trong bộ máy chính
quyền địa phương được tổ chức quản lý theo lãnh thổ hành chính, Theo Điều
2 của Luật Hành chính địa phương của CHDCND Lào năm 2003 thì: “chính
quyền địa phương chịu sự quản lý điều hành của hành chính nhà nước ở trung
ương, chính quyền địa phương gồm có 3 cấp: chính quyền cấp tỉnh, chính
quyền cấp huyện và chính quyền cấp bản - làng”.
Theo Điều 6 Luật Hành chính địa phương Lào năm 2003 thì: "Tỉnh là
địa bàn của chính quyền địa phương bao gồm nhiều huyện và thành thị…" .
Cơ quan hành chính cấp tỉnh là một đơn vị hành chính chiến lược của
đất nước, là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước đại diện cho các cơ quan
nhà nước ở Trung ương đóng tại địa phương, đồng thời cũng là cơ quan đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân với trách nhiệm
xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý theo sự phân bố chung của Trung ương, phù
hợp với thế mạnh của địa phương mình, đồng thời cơ quan hành chính cấp
tỉnh có trách nhiệm trước nhân dân ở địa phương và cấp trên trong việc bảo
đảm thi hành quản lý kinh tế, văn hóa, chính trị, an ninh - quốc phòng, nâng
cao đời sống nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ mà nhà nước giao cho. Cơ quan
hành chính cấp tỉnh ở CHDCND Lào gồm có: Văn phòng tỉnh và các phòng
trực thuộc, Sở Kế hoạch và đầu tư, Sở Giáo dục và thể thao, Sở y tế, Sở nông
nghiệp - lâm nghiệp, Sở Tài chính, Sở Công thương, Sở Nội vụ, Sở tuyên truyền
và văn hóa, Sở Bưu chính, viễn thông và thông tin, Sở Ngoại giao, Sở năng
lượng và khoáng sản, Sở Tài nguyên và môi trường, Sở khoa học - công nghệ,
Sở Lao động và thương binh xã hội, Sở (Văn phòng ) Ủy ban giám sát và kiểm
soát ma túy, Sở Giao thông vận tải, Sở Thuế quan, Sở Thanh tra, Sở Tư pháp
Cơ quan hành chính cấp tỉnh ở CHDCND Lào là bộ phận quan trọng
của nền hành chính quốc gia được tổ chức, hoạt động theo quy định của hiến
pháp, Luật hành chính địa phương năm 2003, Luật nhà nước, các Nghị định
của chính phủ và các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành; với chức năng
thực hiện quản lý hành chính nhà nước và phối hợp chặt chẽ với cơ quan nhà
37
nước để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền địa phương
trong phạm vi địa giới hành chính của tỉnh.
CCHC cấp tỉnh là những người làm việc trong các cơ quan hành chính
cấp tỉnh, là một trong những mắt xích cơ bản của mối liên hệ giữa nhân dân
địa phương với nhà nước cấp trên; là trung tâm tổ chức thực hiện các chủ trương,
chính sách, các quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời cũng là
trung tâm điều hòa, phối hợp hoạt động của tất cả các ngành, các cơ quan nhà
nước thuộc địa phương đóng trên lãnh thổ của tỉnh.
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu CCHC cấp tỉnh ở CHDCND
Lào là công dân Lào, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức
hành chính, giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan chính quyền
cấp tỉnh, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để
thực thi công vụ phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân.
2.1.1.2. Đặc điểm của công chức hành chính cấp tỉnh
CCHC cấp tỉnh thực hiện quản lý và điều hành đất nước theo pháp luật,
là lực lượng trực tiếp thực thi quyền hành pháp của Nhà nước ở cấp tỉnh. Các
mệnh lệnh, quyết định quản lý trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội do
công chức hành chính triển khai thực hiện.
Công chức hành chính cấp tỉnh có những đặc điểm chủ yếu sau:
a) Đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh là những người thực thi
công vụ trong cơ quan hành chính cấp tỉnh
Công vụ là loại lao động đặc thù để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước, thực hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống, nhằm bảo đảm an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội; quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn tài sản
chung và ngân sách nhà nước, phát triển và ổn định nền kinh tế - xã hội; bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhân danh quyền lực nhà
nước, phục vụ nhân dân, thực hiện lý tưởng phụng sự tổ quốc và lòng tự hào
38
của người CC được hoạt động trong nền công vụ của đất nước ở cấp tỉnh là
đặc điểm nổi bật và duy nhất của nguồn nhân lực hành chính nhà nước cấp
tỉnh. Người CC trong bộ máy hành chính nhà nước cấp tỉnh được trao quyền
để thực thi công vụ, đồng thời, họ có bổn phận phục vụ xã hội, công dân và
chịu những rằng buộc nhất định do liên quan đến chức trách đang đảm nhiệm.
Họ có thể phải từ chức, bị truy cứu hoặc phải bồi thường thiệt hại nếu không
hoàn thành trách nhiệm, sai phạm do quyết định hành chính làm tổn hại lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức ở cấp tỉnh.
b) Đội ngũ công chức hành cấp tỉnh được nhà nước đảm bảo các điều
kiện cần thiết, quyền lợi chính đáng để có khả năng và yên tâm thực thi công vụ
Để thực hiện công vụ, người CC được nhà nước cung cấp các điều kiện
cần thiết để tiến hành thực thi công vụ như trụ sở, phương tiện, điều kiện làm
việc… Họ được đảm bảo các quyền lợi vật chất và tinh thần như: hưởng
lương từ ngân sách nhà nước tương xứng với chức trách và công việc, nhận
các loại trợ cấp, phụ cấp các bằng tiền hoặc hiện vật và lương hưu khi đủ thời
gian cống hiến cho nền công vụ, được khen thưởng khi có công lao xứng
đáng. Sự đảm bảo quyền lợi cho nguồn nhân lực này có tính ổn định, lâu dài,
thực tế là suốt đời nếu như CC không vi phạm kỷ luật, bị thải hồi hoặc bị truy
tố trước pháp luật.
c) Là lực lượng lao động có tính chuyên nghiệp
Các cơ quan hành chính Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ bảo đảm
việc chấp hành, thực hiện các đạo luật và nghị quyết của các cơ quan quyền
lực nhà nước, điều hành, giải quyết các mối quan hệ đối nội, đối ngoại phức
tạp nhằm đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Với chức năng đó, bộ
máy nhà nước đòi hỏi phải có đội ngũ CC quản lý mang tính chất chuyên
nghiệp, là những người thực hiện công vụ thường xuyên, liên tục, có trình độ
chuyên môn và được đảo tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ quản lý hành
chính nhà nước ở các mức độ khác nhau.
39
Tính chuyên nghiệp của CCHC nhà nước nói chung, cấp tỉnh nói riêng
được quy định bởi địa vị pháp lý và được thể hiện qua hai yếu tố: thời gian,
thâm niên công tác và trình độ năng lực chuyên môn, kỹ năng nhiệm vụ hành
chính. Hai yếu tố này gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên mức độ chuyên nghiệp
của người CCHC. Thời gian,thâm niên công tác tạo điều kiện để CC thành
thảo công việc và đúc rút kinh nghiệm trong thực thi công vụ, còn trình độ
hiểu biết pháp luật, năng lực chuyên môn, kỹ năng nhiệm vụ hành chính tạo
khả năng hoàn thành những công việc được giao.
d) Hoạt động của đội ngũ công chức hành chính diễn ra thường xuyên,
liên tục trên phạm vi rộng và mang tính linh hoạt, thích ứng với sự biến đổi.
Các cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức thành hệ thống từ trung
ương đến cơ sở thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành toàn bộ các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, ngoại giao, an ninh quốc phòng với các mặt
hoạt động hết sức phong phú và phức tạp gồm tài chính, ngân sách Nhà nước,
kế toán, kiểm toán, thống kê, tín dụng, bảo hiểm, tài sản công, khoa học, công
nghệ, môi trường… tất cả các hoạt động đó đều liên quan đến công việc hàng
ngày và trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của tất cả mọi người dân, đòi
hỏi hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và đội ngũ CCHC phải
đủ năng lực, thẩm quyền để giải quyết tất cả các vấn đề thuộc phạm vi quản
lý; điều hành một cách nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả. Mặt khác do đời
sống chính trị, kinh tế xã hội, môi trường, khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và
những tình trạng khẩn cấp khác v.v... có thể có những diễn biến phức tạp,
khôn lường đòi hỏi hoạt động của cơ quan hành chính và CCHC phải linh
hoạt thích ứng với sự biến đổi đó.
e) Đội ngũ công chức hành chính tương đối ổn định, mang tính kế thừa,
nhưng luôn luôn đòi hỏi không ngừng nâng cao về chất lượng
Đội ngũ CCHC Nhà nước nói chung, cấp tỉnh nói riêng hoạt động ổn
định, ít chịu biến động nhằm duy trì tính ổn định, liên tục của nền hành
40
chính. Trong tình hình các lĩnh vực hoạt động của xã hội không ngừng phát
triển; đối tượng điều chỉnh của pháp luật ngày càng mở rộng và phức tạp
hơn: yêu cầu của người dân về chất lượng phục vụ ngày càng cao nhưng
các cơ quan hành chính nhà nước không thể tuyển dụng hàng loạt người lao
động mới, vì rằng việc tuyển dụng và giải quyết các lao động dôi dư trong
các cơ quan HCNN luôn liên quan đến một loạt các vấn đề về chính sách,
chế độ xã hội phức tạp.
Giải pháp hiệu quả, thích hợp trong điều kiện hiện nay là xây dựng hệ
thống chính sách tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, đề bạt, luân
chuyển, đãi ngộ phù hợp để giảm thiểu tối đa sự chênh lệnh về số lượng và
chất lượng nguồn nhân lực HCNN. Nâng cao nguồn nhân lực hiện có, thông
qua bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ CC nhằm đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của các cơ quan hành chính Nhà nước. chú trọng chất lượng tuyển
dụng nhân lực, thu hút, khuyến khích nhân tài thực thi công vụ. hạn chế đến
mức thấp nhất những sai lầm trong tuyển dụng CCHC Nhà nước.
2.1.1.3. Vai trò của công chức hành chính cấp tỉnh
CCHC là yếu tố cơ bản cấu thành nền hành chính nhà nước, thông qua
hoạt động của CCHC, các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước mới được
thực hiện. cơ quan nhà nước không thể hình thành và hoạt động nếu không có
CC. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “CB là những người đem chính
sách của Đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ
để đặt chính sách cho đúng” [60, tr.269].
CB và công tác CB luôn là một vấn đề quan trọng trong công tác xây
dựng Đảng, chính quyền, có vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay
thất bại của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc” và “Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt
41
hoặc kém” [60, tr.269, 270]; “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây
chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng
tệ liệt” [60, tr.54].
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa công sản khoa học chỉ ra rằng: giai cấp vô
sản và chính đảng của mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững được chính
quyền thì phải xây dựng được một đội ngũ CB trung thành và tài năng, đáp ứng
được nhiệm vụ cách mạng. Từ kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người và từ
chính quá trình truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân, C.Mác đã
khẳng định: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực
lượng tư tưởng” [68, tr.181].
V.I.Lênin, người kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đã đặc
biệt coi trọng việc xây dựng một đội ngũ những nhà cách mạng chuyên
nghiệp cho phong trào vô sản. Đó là những cán bộ nòng cốt đầu tiên của
Đảng Cộng sản bônsêvích Nga. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Trong lịch sử, chưa hề
có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được
trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [62, tr.473].
Có thể nói, vị trí của CCHC là “cầu nối” giữa Đảng, nhà nước với nhân
dân. Một mặt, CC đưa các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước vào cuộc sống; mặt khác đem thực tiễn cuộc sống phán ánh lại với
Đảng và Nhà nước để làm cơ sở cho việc hoạch định, xây dựng các chủ
trương, chính sách, pháp luật. Vì vậy, việc xây dựng cũng như thực hiện chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước có đạt kết quả hay không
phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả hoạt động của đội ngũ công chức hành chính
nhà nước nói chung, công chức hành chính cấp tỉnh nói riêng.
Vai trò của đội ngũ CC nói chung và CCHC nói riêng thể hiện qua bốn
mối quan hệ. Một là, quan hệ với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; Hai là, với bộ máy (các cơ quan tổ chức lãnh đạo quản lý); Ba
là, với công việc; Bốn là, với quần chúng nhân dân.
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf
xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf

More Related Content

Similar to xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf

Luận án: Xây dựng đội ngũ bí thư - huyện trưởng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân L...
Luận án: Xây dựng đội ngũ bí thư - huyện trưởng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân L...Luận án: Xây dựng đội ngũ bí thư - huyện trưởng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân L...
Luận án: Xây dựng đội ngũ bí thư - huyện trưởng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân L...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú ThọNâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú ThọDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
Luận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò VấpLuận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
Luận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò VấpDịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở Tỉnh Thanh Hóa tro...
Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở Tỉnh Thanh Hóa tro...Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở Tỉnh Thanh Hóa tro...
Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở Tỉnh Thanh Hóa tro...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở nước ta hiện nay
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở nước ta hiện nayThực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở nước ta hiện nay
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở nước ta hiện naynataliej4
 
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Cán Bộ,Công Chức Tại Ủy Ban Nhân ...
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Cán Bộ,Công Chức Tại Ủy Ban Nhân ...Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Cán Bộ,Công Chức Tại Ủy Ban Nhân ...
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Cán Bộ,Công Chức Tại Ủy Ban Nhân ...nataliej4
 
PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019
PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019
PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019KhoTi1
 

Similar to xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf (20)

Luận văn: Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh tại Tây Ninh
Luận văn: Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh tại Tây NinhLuận văn: Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh tại Tây Ninh
Luận văn: Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh tại Tây Ninh
 
Luận án: Xây dựng đội ngũ bí thư - huyện trưởng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân L...
Luận án: Xây dựng đội ngũ bí thư - huyện trưởng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân L...Luận án: Xây dựng đội ngũ bí thư - huyện trưởng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân L...
Luận án: Xây dựng đội ngũ bí thư - huyện trưởng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân L...
 
Luận văn: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã TPHCM, 9đ
Luận văn: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã TPHCM, 9đLuận văn: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã TPHCM, 9đ
Luận văn: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã TPHCM, 9đ
 
Luận án: Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh, HAY
Luận án: Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh, HAYLuận án: Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh, HAY
Luận án: Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh, HAY
 
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú ThọNâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã ở tỉnh Phú Thọ
 
Luận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
Luận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò VấpLuận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
Luận văn HAY: Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở quận Gò Vấp
 
Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở Tỉnh Thanh Hóa tro...
Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở Tỉnh Thanh Hóa tro...Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở Tỉnh Thanh Hóa tro...
Luận văn: Xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở Tỉnh Thanh Hóa tro...
 
Luận văn: Chính sách phát triển cán bộ cơ sở tại tp Tam Kỳ, HAY
Luận văn: Chính sách phát triển cán bộ cơ sở tại tp Tam Kỳ, HAYLuận văn: Chính sách phát triển cán bộ cơ sở tại tp Tam Kỳ, HAY
Luận văn: Chính sách phát triển cán bộ cơ sở tại tp Tam Kỳ, HAY
 
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOTLuận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
Luận văn: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính, HOT
 
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở nước ta hiện nay
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở nước ta hiện nayThực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở nước ta hiện nay
Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở nước ta hiện nay
 
Năng lực quản lý của trưởng phòng, phó trưởng phòng các cơ quan
Năng lực quản lý của trưởng phòng, phó trưởng phòng các cơ quanNăng lực quản lý của trưởng phòng, phó trưởng phòng các cơ quan
Năng lực quản lý của trưởng phòng, phó trưởng phòng các cơ quan
 
Nâng cao năng lực quản lý cơ quan chuyên môn tỉnh Bình Dương
Nâng cao năng lực quản lý cơ quan chuyên môn tỉnh Bình DươngNâng cao năng lực quản lý cơ quan chuyên môn tỉnh Bình Dương
Nâng cao năng lực quản lý cơ quan chuyên môn tỉnh Bình Dương
 
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Khối Các Phường.
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Khối Các Phường.Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Khối Các Phường.
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Đội Ngũ Cán Bộ, Công Chức Khối Các Phường.
 
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Cán Bộ,Công Chức Tại Ủy Ban Nhân ...
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Cán Bộ,Công Chức Tại Ủy Ban Nhân ...Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Cán Bộ,Công Chức Tại Ủy Ban Nhân ...
Thực Trạng Và Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Cán Bộ,Công Chức Tại Ủy Ban Nhân ...
 
Luận văn: Chất lượng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở TP Hà Nội, 9đ
Luận văn: Chất lượng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở TP Hà Nội, 9đLuận văn: Chất lượng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở TP Hà Nội, 9đ
Luận văn: Chất lượng đội ngũ bí thư đảng uỷ xã ở TP Hà Nội, 9đ
 
PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019
PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019
PHÁP LUẬT VỀ CÁN BỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_10275012052019
 
Luận án: Pháp luật về cán bộ ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận án: Pháp luật về cán bộ ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận án: Pháp luật về cán bộ ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận án: Pháp luật về cán bộ ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Nâng cao chất lượng các đảng bộ, xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu hiện na...
Nâng cao chất lượng các đảng bộ, xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu hiện na...Nâng cao chất lượng các đảng bộ, xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu hiện na...
Nâng cao chất lượng các đảng bộ, xã, phường, thị trấn ở tỉnh Bạc Liêu hiện na...
 
Luận văn: Chính sách đào tạo công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn
Luận văn: Chính sách đào tạo công chức cấp xã tại thị xã Điện BànLuận văn: Chính sách đào tạo công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn
Luận văn: Chính sách đào tạo công chức cấp xã tại thị xã Điện Bàn
 
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp huyện, 9 điểm, HOT!
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp huyện, 9 điểm, HOT!Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp huyện, 9 điểm, HOT!
Luận văn: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp huyện, 9 điểm, HOT!
 

xây dựn cán bộ cấp tỉnh của lào.pdf

  • 1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ở bất kỳ lĩnh vực nào, chế độ nào nhân tố con người hết sức quan trọng, đóng vai trò quyết định để đạt được mục tiêu. Chủ tịch Cay Sỏn PHÔM VI HAN cho rằng: “Cán bộ là vốn quý báu nhất của Đảng, là người lãnh đạo nhân dân, phục vụ nhân dân, tạo ra mối quan hệ giữa đảng với quần chúng” [14, tr.68]. Đảng nhân dân cách mạng Lào (NDCM Lào) luôn luôn nhấn mạnh rằng: “Cán bộ có vai trò quyết định thành công hay thất bại của việc thực hiện đường lối của Đảng” [84, tr.5]. Như vậy, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức (CB, CC) có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng nhân dân cách mạng Lào nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước là yêu cầu quan trọng của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào) hiện nay. Đội ngũ CB,CC được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Nhân Dân Cách mạng Lào và chịu sự điều chỉnh thực tiếp của hệ thống pháp luật công vụ. Chế độ công chức, công vụ mới đang hình thành và được thể chế hóa thông qua một số văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành trong thời gian gần đây. Nghị định số 82/NĐ-CP, ngày 19/5/2003 về điều lệ công chức nước CHDCND Lào thay thế Nghị định số 171/NĐ-CP, ngày 11/11/1993 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý và chính sách phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là một trong nội dung cơ bản của công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước, nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, đủ năng lực, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. Trong đội ngũ CB, CC thì lực lượng CCHC nhà nước đóng vai trò trực tiếp và quan trọng, tác động đến quá trình đổi mới đất nước. Một nền hành chính hiện đại luôn đòi hỏi đội ngũ CB, CC nhà nước nói chung và CCHC cấp tỉnh nói riêng phải có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức vững vàng, sự
  • 2. 2 tận tụy và khả năng giải quyết công việc nhạy bén. Việc xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước đặc biệt là CCHC cấp tỉnh luôn là yêu cầu cấp thiết đối với nền hành chính nhà nước ở cấp tỉnh của mọi quốc gia và đặc biệt là nền hành chính Lào đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền (NNPQ) của dân, do dân, vì dân ở CHDCND Lào. Sau hơn 26 năm thực hiện đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước Lào đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Song, cách mạng đất nước Lào cũng đang đứng trước nguy cơ và thách thức không thể xem thường. Nhiệm vụ của thể kỳ mới còn rất nặng nề, còn nhiều khó khăn, thử thách phải vượt qua, đòi hỏi Đảng và nhà nước Lào phải xây dựng được đội ngũ CB, CC các cấp có đủ tiêu chuẩn ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào hiện nay. CCHC nhà nước nói chung, CCHC cấp tỉnh nói riêng ở Lào đang lớn mạnh và không ngừng được hoàn thiện cùng với sự phát triển của đất nước. Xây dựng đội ngũ CB, CC nói chung, công chức hành chính cấp tỉnh nói riêng là một chủ trương lớn của Đảng Nhân dân Cách mạng (NDCM) Lào ngay từ khi giành được chính quyền đã góp phần cung cấp thế hệ CC nối tiếp nhau gánh vác nhiệm vụ trong suốt các chặng đường cách mạng. Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng NDCM Lào đã tiếp tục quan tâm lãnh đạo công tác này. Việc quản lý và sử dụng CC ngày càng có hiệu quả, hệ thống chính sách đãi ngộ đối với CC phù hợp hơn, đặc biệt là từ khi thực hiện Nghị định số 171/NĐ-CP, ngày 11/11/1993 của chính phủ quy định về điều lệ công chức nhà nước CC của CHDCND Lào. Nội duy quan trọng của Nghị định này là quy định về quyền, nhiệm vụ, lợi ích, trách nhiệm, việc tuyển dụng, việc tập sự việc, quản lý CC v.v… Nghị định số 172/NĐ-CP, ngày 11/11/1993 của chính phủ quy định về ngạch, bậc của CC, cùng với các quy định khác có liên quan đang dần được hoàn thiện, nhất là việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội
  • 3. 3 ngũ CB, CC ngày càng có chất lượng. Tuy nhiên cũng trong những năm vừa qua, do cơ chế chính sách còn có một số bất cập cùng với một số nguyên nhân do lịch sử để lại làm cho việc quản lý, sử dụng đội ngũ CCHC chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, dẫn đến tình trạng thiếu hụt CC thông thạo về hành chính, pháp luật, CC hoạch định chính sách và CC chuyên môn nghiệp vụ giỏi, nhất là ở cấp tỉnh. Bên cạnh đó những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế hiện nay, nhất là trước những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường (KTTT); sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đã làm cho một bộ phận CCHC, đảng viên, nhất là những người có chức quyền, suy thoái về đạo đức cách mạng, coi nhẹ rèn luyện, tu dưỡng bản thân. Đội ngũ CB, CC nói chung, CB chủ chốt nói riêng chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới. Công tác cán bộ, nhất là đội ngũ CCHC cấp tỉnh còn nhiều bất cập, các khâu của công tác cán bộ như tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng CB,CC chưa phối hợp chặt chẽ với nhau. Ở một số nơi chưa tổ chức quán triệt kỹ và làm đúng theo quy trình, chưa đồng bộ cả về cơ cấu, số lượng và chất lượng, đồng thời còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập, đội ngũ CCHC vừa thừa, vừa thiếu, lực lượng thay thế trước mắt và lâu dài luôn bị hẫng hụt, do đó cần phải tiếp tục được giải quyết. Để xây dựng NNPQ của dân, do dân, vì dân, cần phải xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước có năng lực, phẩm chất, trung thành với Đảng, nhà nước và tận tụy phục vụ nhân dân. Việc nghiên cứu, tổng kết, đánh giá đúng thực trạng, rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm từ đó đề ra phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào hiện nay là một yêu cầu rất quan trọng và là một nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa đột phá để đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào hiện nay. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn, thì việc thực hiện đề tài: "Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào" là yêu
  • 4. 4 cầu khách quan, cấp thiết. Tác giả luận án mong muốn đề ra những quan điểm và giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh đủ năng lực, phẩm chất, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện quyền lực nhà nước của chính quyền cấp tỉnh, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước Lào hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích của luận án Luận án nhằm đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ của luận án: Thực hiện mục đích trên, luận án có các nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa, phân tích, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào. - Nghiên cứu hệ thống tư tưởng, quan điểm và đặc trưng về NNPQ, xác định những yêu cầu của NNPQ đối với công tác xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào. - Phân tích quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào và đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu của NNPQ. - Đề xuất các quan điểm giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào. - Phạm vi nghiên cứu: Xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào có phạm vi rộng, với nhiều vấn đề liên quan chặt chẽ với nhau. Về thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ CCHC
  • 5. 5 cấp tỉnh ở Lào, luận án chỉ đề cập thực trạng đội ngũ CCHC và xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh từ khi giải phóng đất nước tức là từ năm 1975 đến nay và các giải pháp xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào đến 2020. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Về cơ sở lý luận Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng NDCM Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền, về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. 4.2. Về phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử mác xít nghiên cứu các nội dung của luận án trên quan điểm hệ thống, toàn diện, khách quan, lịch sử cụ thể gắn với các quan hệ khách quan - chủ quan, nguyên nhân - kết quả. Luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn v.v.. để nghiên cứu nội dung của từng chương trong luận án. Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong tất cả các chương của luận án khi đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu; nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất các quan điểm, giải pháp xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào hiện nay. Trong chương 3 khi đánh giá thực trạng đội ngũ CCHC cấp tỉnh còn thực trạng xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ngoài phương pháp phân tích, tổng hợp tác giả chú ý sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tài liệu thứ cấp, tham chiếu các tài liệu thống kê, đánh giá của các cơ quan Đảng, Nhà nước Lào. Trong chương 4 khi nghiên cứu đề xuất các quan điểm, giải pháp xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
  • 6. 6 tác giả chú trọng sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp; lý luận gắn với thực tiễn nhằm đề xuất được các quan điểm, giải pháp sát với đề tài, phù hợp với thực tiễn, có tính khả thi và khái quát cao về mặt lý luận. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Nghiên cứu về xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn. Trong phạm vi nghiên cứu nhất định, luận án có những đóng góp mới sau đây: - Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận dưới góc độ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật về xây dựng đội ngũ CCHC cấp tính theo yêu cầu xây dựng nhà NNPQ của dân, do dân, vì dân. Từ khái niệm, đặc điểm, vai trò của CCHC cấp tỉnh tác giả xác định xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh là toàn bộ các hoạt động nhằm hình thành được đội ngũ CCHC trung thành với Đảng, nhà nước, với nhân dân; thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ; tận tụy và có trách nhiệm với công vụ bảo đảm thực thi quyền hành pháp và các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên các lĩnh vực đời sống xã hội ở cấp tỉnh. Từ khái niệm trên tác giả đã đề xuất 4 nguyên tác và 6 nội dung xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh CHDCND Lào. Trên cơ sở khái quát những đặc trưng của NNPQ XHCN ở CHDCND Lào tác giả đã xác định những yêu cầu của NNPQ đối với công tác xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào bao gồm yêu cầu về phẩm chất chính trị; về đạo đức, lối sống; về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; về yêu cầu chuyên môn hóa, hiện đại hóa đội ngũ CB, CCHC cấp tỉnh. - Đánh giá thực trạng đội ngũ CCHC cấp tỉnh và xây dựng đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh ở CHDCND Lào từ đổi mới đến nay, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trên cơ sở những yêu cầu của NNPQ.
  • 7. 7 - Đề xuất các quan điểm, giải pháp phù hợp với thực tiễn, khả thi nhằm, xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hoàn thiện lý luận về xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu của NNPQ ở CHDCND Lào. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo về xây dựng ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng NNPQ cũng như nghiên cứu, giảng dạy về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, về lý luận Nhà nước và pháp luật trong các cơ sở đào tạo. - Về thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tổng kết thực tiễn về xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh, nghiên cứu, sửa đổi về công tác cán bộ, hoàn thiện các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức nói chung, CCHC cấp tỉnh nói riêng. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục công trình có liên quan của tác giả đã công bố, nội dung của luận án gồm có 4 chương, 11 tiết.
  • 8. 8 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI 1.1.1. Các công trình liên quan đến đội ngũ công chức hành chính Ở nhiều nước đã có những công trình nghiên cứu và phát triển mạnh cả về lý luận và thực tiễn đối với CC và xây dựng đội ngũ CC, vấn đề mà đề tài luận án đề cập tới. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án được tiến hành trên nhiều giác độ khác nhau. Ở các nước phát triển, hệ thống công vụ và đội ngũ CC đã được hình thành từ rất lâu và có tính ổn định cao, nhất là các văn bản pháp luật liên quan đến đội ngũ CC cũng đã được ban hành sớm như: Luật nghỉ hưu năm 1859 của Vương quốc Anh, Luật quan chức quốc gia năm 1873 của Cộng hòa Liên bang Đức, Luật chế độ công chức năm 1883 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, Luật chung về CC năm 1946, 1959 của Cộng hòa Pháp, Điều lệ tạm thời về CC Nhà nước năm 1993 của Trung Quốc… Trong một thế giới chuyển đổi hiện nay, các công trình tập trung nghiên cứu tính xã hội, sự uyển chuyển của hệ thống công vụ để đảm bảo “công dân là khách hàng”. Ở Việt Nam, cũng có nhiều công trình nghiên cứu phong phú với nhiều tác giả viết liên quan trực tiếp đến chủ đề xây dựng CCHC, xây dựng NNPQ của dân, do dân, vì dân. Xây dựng đội ngũ CC nói chung, đội ngũ CCHC nói riêng, đặc biệt là đội ngũ CCHC cấp tỉnh, có chất lượng cao, hiện đại và chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu NNPQ của dân, do dân, vì dân đang là vấn đề cấp thiết được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm và cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này trên các phương diện khác nhau. - Cuốn sách, “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức” do TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
  • 9. 9 Trong cuốn sách này, các tác giả đã nêu ra những cơ sở lý luận về xây dựng CB, CC theo yêu cầu xây dựng NNPQ của dân, do dân, vì dân. Phân tích sâu sắc về khái niệm của CB, CC; nêu ra các văn bản pháp luật về CB, CC đã được ban hành trong từng các giai đoạn khác nhau từ trước đến nay; phân loại CB, CC; thể chế quản lý CB, CC; phân tích tính tất yếu khách quan của việc xây dựng đội ngũ CB, CC đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa; phân tích vị trí, vai trò của đội ngũ CC trong xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân và sự cần thiết phải xây dựng đội ngũ CB, CC trong sạch, vững mạnh; những khó khăn, thách thức đối với việc xây dựng đội ngũ CB, CC. Ngoài ra, trong cuốn sách này các tác giả còn nêu ra thực trạng đội ngũ CB, CC và thể chế quản lý CB, CC ở Việt Nam hiện nay. Trong phần thực trạng đã đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ CB, CC ở Việt Nam qua các giai đoạn như: - Giai đoạn từ năm 1945 - 1954. - Giai đoạn từ năm 1954 - 1975. - Giai đoạn từ năm 1975 - 1986. - Giai đoạn từ năm 1986 - hiện nay. Sau khi đánh giá chung những ưu điểm chủ yếu, những hạn chế và nguyên nhân về thực trạng đội ngũ CB, CC ở Việt Nam hiện nay các tác giả còn đưa ra những kinh nghiệm xây dựng CC của một số nước trên thế giới để vận dụng kinh nghiệm các nước vào việc xây dựng đội ngũ CC ở Việt Nam. - Đề tài khoa học cấp nhà nước, mã số ĐTĐL-2004/25 do PGS.TS Nguyễn Trọng Điều làm chủ nhiệm: “Nghiên cứu cơ sở khoa học nhằm hoàn thiện chế độ công vụ ở Việt Nam”, đã đi sâu nghiên cứu cơ sở khoa học nhằm hoàn thiện chế độ công vụ, làm cơ sở khoa học để xây dựng luật công vụ ở Việt Nam hiện nay. Đây là đề tài cấp nhà nước, vấn đề được nghiên cứu ở đây là rất rộng, dung lượng nghiên cứu với quy mô rất lớn, tuy nhiên nội dung chủ yếu là nghiên cứu chế độ công vụ nhằm xây dựng luật công vụ. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra những cơ sở khoa học về công vụ và CC, cơ sở của nền
  • 10. 10 công vụ và công vụ trong mối quan hệ với các thiết chế và lĩnh vực khác, những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Đảng về công vụ. - Đề tài khoa học cấp bộ (Học viện hành chính quốc gia, Hà Nội) “Cải cách hệ thống tổ chức, hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ CCHC nhà nước” (1990), do Nguyễn Duy Gia (1990), và “Xây dựng và đổi mới đội ngũ CCHC nhà nước” (1993) do Lương Trọng Yêm làm chủ nhiệm. Các công trình trên đều đề cập đến cơ sở lý luận về việc xây dựng, đổi mới và nâng cao chất lượng của đội ngũ công CCHC nhà nước ở Việt Nam sau khi đổi mới và đánh giá thực trạng đội ngũ CCHC, những bất cập và đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện, đổi mới về việc xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước hiện nay. - PGS, TS Nguyễn Phú Trọng, PGS, TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) (2003), "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách này đã luận chứng sâu sắc về vị trí, vai trò và yêu cầu khách quan cấp bách của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Mỗi chế độ xã hội muốn đứng vững và phát triển đều phải được xây dựng nên bởi những con người hết lòng trung thành với chế độ, có trí tuệ và năng lực. Trong xã hội ngày nay, đó là những CC, những người trực tiếp phục vụ chế độ của dân, do dân và vì dân. Họ là người đại diện cho nhà nước để xây dựng và thực thi các chủ trương, chính sách. Họ là nhân tố có tính quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Việt Nam giờ đây đang trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, những thay đổi về kinh tế - xã hội đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Một mặt, phải huy động mọi tiềm năng để đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có nền kinh tế
  • 11. 11 phát triển, đời sống của nhân dân được nâng cao, mặt khác, lại phải luôn tỉnh táo, cảnh giác để hướng sự phát triển này không đi chệch mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa". Cán bộ, công nhân viên chức là những người gánh trên vai trọng trách nặng nề của đất nước, vì vậy họ phải thực sự là những "con người xã hội chủ nghĩa". Ngay từ khi Đảng ta ra đời, vấn đề CB, CC đã được coi là mối quan tâm hàng đầu và ngày càng được chú ý. Mấy năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về vấn đề CB, CC nhằm củng cố, đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng của đội ngũ này. Tuy nhiên, muốn đưa ra được những chủ trương, chính sách đúng đắn và thực hiện một cách có hiệu quả, thì cùng với việc tăng cường công tác tổng kết thực tiễn cần nắm thật vững lý luận, đi sâu vào bản chất của khái niệm, thấy được những nét đặc thù và vai trò của cán bộ, công chức Việt Nam qua từng giai đoạn cách mạng, đồng thời nhận rõ những thuận lợi cũng như khó khăn mà giai đoạn phát triển mới đang đặt ra, cũng như yêu cầu cấp bách về việc nâng cao chất lượng đối với đội ngũ CB, CC hiện nay… Cuốn sách này đã góp phần lý giải, hệ thống hóa các căn cứ khoa học của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo chủ chốt các cấp, từ đó đưa ra những kiến nghị về phương hướng, giải pháp nhằm củng cố, phát triển đội ngũ này cả về chất lượng, số lượng và cơ cấu cho phù hợp với yêu cầu hiện nay. - PGS,TS Trần Đình Hoan (chủ biên) (2009): "Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã phân tích và khẳng định dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, gần 80 năm qua, cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi vẻ vang.
  • 12. 12 Từ một nước nô lệ, Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, là ngọn cờ tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc. Trong hơn 25 năm qua, công cuộc đổi mới đã giành được những thành tựu vô cùng quan trọng, tạo điều kiện, cơ sở vững chắc cho quá trình phát triển đất nước trong những năm tiếp theo. Có được những thắng lợi đó là nhờ đường lối chính trị đúng đắn, là do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã dày công xây dựng đội ngũ CB đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do CB tốt hoặc kém". Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức đã vươn lên, năng động, sáng tạo, góp phần xứng đáng vào thành tựu to lớn của đất nước. Song, trong hoàn cảnh mới, sự tác động của cơ chế thị trường đã làm bộc lộ nhiều yếu kém, khuyết điểm của đội ngũ CB, CC. Trong đội ngũ CB, CC hiện đang có nhiều vấn đề đáng lo ngại cả về phẩm chất và năng lực. Một bộ phận không nhỏ CB, CC đã bị thoái hóa về chính trị và phẩm chất, đạo đức, lợi dụng chức quyền để tham ô, lãng phí, quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, cơ hội và thực dụng. Không ít cán bộ bị giảm sút uy tín, không còn là công bộc của dân, thậm chí trù dập, ức hiếp dân. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII chỉ rõ: "Nhìn chung đội ngũ cán bộ hiện nay, xét về chất lượng, số lượng và cơ cấu có nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ". Vừa qua, tuy có nhiều cố gắng trong công tác CB, nhưng không ít việc còn mang tính chất ứng phó, chưa đáp ứng tốt các yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác CB chậm được nghiên cứu, tổng kết. Cuốn sách đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác xây dựng đội ngũ công chức nói chung, công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng CB, CC cấp tỉnh nói riêng, đồng thời
  • 13. 13 từ đó rút ra được những giải pháp hiệu quả cho công tác CB trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay. Cuốn sách: "Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" do PGS.TS Trần Đình Hoan làm chủ biên là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Cuốn sách gồm có những nội dung chủ yếu sau: - Chương 1: Những vấn đề lý luận về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển CB lãnh đạo, quản lý trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. - Chương 2: Quá trình thực hiện công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển CB trong lịch sử Đảng ta và thực trạng công tác này trong tình hình hiện nay. - Chương 3: Quan điểm, giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Phần phụ lục: Vấn đề đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong lịch sử nước Việt Nam và một số nước trên thế giới. Đây là một đề tài còn khá mới mẻ, đề cập đến công tác CB là một nhiệm vụ rất quan trọng, nhất là trong điều kiện phát triển, hội nhập quốc tế của đất nước Việt Nam hiện nay. Cuốn sách sẽ là tài liệu hữu ích cho những người làm công tác CB và những người quan tâm đến công tác xây dựng đội ngũ CC hiện nay. - PGS, TS Lê Minh Thông, TS. Nguyễn Danh Châu (đồng chủ biên) (2009), "Kinh nghiệm công tác nhân sự của một số nước", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. CB là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ CB, CC vững vàng về chính trị, gương mẫu về
  • 14. 14 đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, sáng tạo, gắn bó với nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương và chính sách lớn trong nội dung công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm qua, Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức trong việc xây dựng, đề ra các đường lối, chủ trương về công tác cán bộ. Trong các nhiệm kỳ Đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đều dành sự quan tâm cho công tác tổ chức và cán bộ. Hơn mười năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII, công tác CB đã có một số đổi mới về nội dung và cách làm, mang lại những chuyển biến tích cực; chất lượng đội ngũ CB, CC nhìn chung được nâng lên; tuyệt đại đa số CB, CC vẫn giữ được phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống lành mạnh, gần gũi với nhân dân, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, thích ứng dần với điều kiện mới. Tuy nhiên, việc đổi mới công tác CB và chính sách CB vẫn chưa theo kịp với đổi mới kinh tế và phát triển của xã hội. Nhiều khuyết điểm, yếu kém chậm được khắc phục, nhất là trong việc tuyển chọn, đào tạo, đánh giá, sắp xếp, chế độ, chính sách đối với CB, CC. Để nhanh chóng xây dựng đội ngũ CC theo yêu cầu xây dựng NNPQ và nhiệm vụ mới, cần phải nghiên cứu một số mô hình công vụ, CC của một số nước tiên tiến và những nước có điều kiện gần giống với Việt Nam để thấy rõ hơn những vấn đề về công vụ, CC ở Việt Nam, từ đó có giải pháp đổi mới công tác cán bộ, nhanh chóng khắc phục những mặt còn hạn chế là việc làm rất cần thiết. Trong nội dung cuốn sách, các tác giả tập trung phân tích, giới thiệu những vấn đề: bộ máy quản lý CC; tuyển chọn công chức; chế độ công trạng, luân chuyển công chức; đào tạo, bồi dưỡng CC; chế độ kiểm tra, đánh giá CC; chế độ, chính sách đối với CC; ở Nhật Bản, Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên bang Đức, Trung Quốc. Từ việc khảo cứu các mô hình công vụ, CC của một số nước trên thế giới, các tác giả rút ra một số nhận xét chung và đề xuất
  • 15. 15 kiến nghị nhằm đổi mới công tác CB của Việt Nam cho phù hợp với đặc điểm, trình độ phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. 1.1.2. Các công trình liên quan đến xây dựng đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh - Chu Xuân Khánh (2010), “Hoàn thiện việc xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước chuyên nghiệp ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ chuyên ngành quản lý hành chính công, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Nội dung luận án tác giả chủ yếu đề cập đến những quan niệm về CC nhà nước của một số quốc gia khác nhau, làm cơ sở việc phân tích, so sánh với thực tiễn ở Việt Nam, từ đó góp phần vào việc hệ thống hóa cơ sở lý luận về đội ngũ CCHC nhà nước và tính chuyên nghiệp của đội ngũ này. Luận án đưa ra quan niệm về tính chuyên nghiệp của đội ngũ CCHC nhà nước, những biểu hiện của tính chuyên nghiệp và hệ thống chuẩn mực của đội ngũ CCHC nhà nước chuyên nghiệp. Tác giả đã hệ thống lại quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ CC ở Việt Nam qua các giai đoạn cách mạng; phân tích đánh giá thực trạng về xây dựng và phát triển đội ngũ CCHC nhà nước ở Việt Nam trên cơ sở đó rút ra các nhân tố (nguyên nhân) cản trở việc xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước. Đồng thời, tác giả đã nêu một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước chuyên nghiệp ở Việt Nam, phục vụ cho công cuộc cải cách nền HCNN. - Giang Thị Phương Hạnh (2009), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước theo yêu cầu cải cách hành chính của tỉnh Bình Phước hiện nay”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả luận văn đi sau phân tích lý luận về CB, CC, các quy định của pháp luật về CB, CC, tổng quan công cuộc cải cách hành chính, luận văn nêu ra quan điểm về khái niệm và đặc điểm cán bộ, công chức hành chính nhà nước; vị trí, vai
  • 16. 16 trò của CB, CCHC trong công cuộc CCHC, xây dựng và phát triển đất nước, góp phần hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng đội ngũ CB, CCHC nhà nước, để xuất một số giải pháp có giá trị thực tiễn cao nhằm mục đích xây dựng đội ngũ CB, CCHC nhà nước ở tỉnh Bình Phước đảm bảo chất lượng, số lượng và cơ cấu hợp lý. - Vũ Quang Dương (2007), “Xây dựng đội ngũ công chức trong điều kiện nhà nước pháp quyền qua thực tiễn Quận Cầu Giấy”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật, Đại học quốc gia Hà Nội, khoa luật. Luận văn đi sâu nghiên cứu chế độ CC của Việt Nam và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, qua thực trạng đội ngũ CC quận Cầu Giấy, tác giả làm sáng tỏ những bập cập, hạn chế của đội ngũ CC ở Việt Nam hiện nay; những yếu tố ảnh hưởng, tác động đến đội ngũ công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân. - Nguyễn Thị Thu Trang (2010), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tại tỉnh Phú Thọ hiện nay”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật, Đại học quốc gia Hà Nội, khoa luật. Luận văn đã khái quát có hệ thống, phân tích và đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh Phú Thọ trong những năm gần đây, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Phú thọ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. - Nguyễn Thọ Hòa (2013), "Đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính nhà nước cấp tỉnh ở tỉnh Kon Tum hiện nay", Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đi sâu phân tích cơ sở lý luận về đào tạo bồi dưỡng công chức hành chính, thực trạng và giải pháp đào tạo công chức hành chính nhà nước cấp tỉnh ở tỉnh Kon Tum Việt Nam. Xung quanh vấn đề xây dựng đội ngũ công chức đã có các công trình nghiên cứu và một số bài viết như: "Giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tổ chức" của Th.S Phạm Thúy Dương; "Về công tác đào tạo, bồi
  • 17. 17 dưỡng nghiệp vụ tổ chức,cán bộ" của TS. Hoàng Mạnh Đoàn; "Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở một số nước trên thế giới" của Lê Quang; Các bài viết đó đã tập trung nghiên cứu các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CB, tổ chức, nhất là giải pháp đào đạo bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tổ chức cán bộ. 1.1.2. Các công trình liên quan đến xây dựng nhà nước pháp quyền Đến nay trong sách báo khoa học ở Việt Nam và các nước trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền. Từ sau Đại chiến thế giới lần thứ II (1945) đến những thập kỳ gần đây, vấn đề NNPQ được nhiều nhà khoa học phương Tây quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu về nhà nước đã được tiến hành ở Anh từ những năm 1970, ở Pháp những năm 1980 đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về NNPQ của nhiều tác giả, có thể kể ra như; Dominique Colas, michel Crozer, Blandine, Kriegel, v.v… Năm 1984 Pháp có Ủy ban hiện đại hóa Nhà nước do Tổng thống F.Mitterand đề nghị. Claude Nicolet viết: “Nhà nước hiện đại đối với chúng ta, những người ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi thế kỷ ánh sáng và bởi Hêghen, là một cấu trúc nghiêm ngặt của công pháp (drot public) với tư cách là sự thể hiện quyền lợi chung”. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là từ những bài học cay đắng của lịch sử, khi các Nhà nước phát xít và quân phiệt ở Đức, Italia và Nhật Bản…đã từ bỏ những nguyên tắc sơ đẳng của nhà nước pháp quyền, coi “Nhà nước pháp quyền là tất cả” và “không thể chống lại” đã đưa nhân loại vào cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam tập trung giải quyết những vấn đề nhận thức luận về nhà nước pháp quyền như: sự hình thành tư tưởng về nhà nước pháp quyền, các đặc trưng nguyên tác của NNPQ; mô hình nhà nước pháp quyền trong điều kiện, hoàn cảnh đặc thù ở Việt Nam hiện nay, có thể nêu ra các công trình tiêu biểu dưới đây : - Trước hết, cần kể đến chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước KX04 (2001 - 2010) “Xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
  • 18. 18 dân, do nhân dân, vì nhân dân” trong đó có đề tài KX04-02 “Mô hình tổ chức và hoạt động của NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” giai đoạn 2001 - 2010 do GS.TS. KH. Đào Trí Úc làm chủ nhiệm. Công trình đưa ra những luận cứ khoa học mô hình lý thuyết về tổ chức và hoạt động của NNPQ, ở một mức độ nhất định cũng đã đề cập tới từng loại cơ quan nhà nước trong NNPQ Việt Nam, trong đó có chính quyền cấp tỉnh. Những công trình nghiên cứu này tập trung giải quyết những vấn đề có tính phương pháp luận về NNPQ, về bộ máy nhà nước trong NNPQ, mà không đi sâu nghiên cứu về xây dựng đội ngũ CC của cơ quan nhà nước từng cấp. - GS.TSKH. Đào Trí Úc (Chủ biên) (2006), "Mô hình tổ chức và hoạt động của NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (sách chuyên khảo), Nxb Tư Pháp, H, tiếp cận dưới góc độ pháp lý, trên cơ sở khái quát về mô hình tổ chức bộ máy nhà nước trên thế giới, nêu bật sự khác biệt và tính phổ quát về nhà nước pháp quyền. Trong đó khẳng định xây dựng NNPQ là yêu cầu; giá trị cơ bản của chế độ dân chủ, tạo nên sự đồng thuận xã hội. Với bản chất nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tác giả khái quát và chỉ ra những đặc điểm của nhà nước pháp quyền, những đặc trưng của nhà nước pháp quyền Việt Nam, đồng thời đề xuất mô hình tổng thể tổ chức cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam. - Đề tài khoa học mã số KX04.09 “Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” trong đó có báo cáo chuyên đề “đánh giá thực trạng đội ngũ CB, CC hiện nay” đã đưa ra những đánh giá cơ bản về đội ngũ CB, CC ở Việt Nam trong giai đoạn đầu tiên của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, những nguyên nhân dẫn đến bất cập của đội ngũ CB, CC hiện nay. - PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2005), "Sự hạn chế quyền lực nhà nước", Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, phân tích cơ chế quyền lực bằng pháp luật, bằng quyền lực của các nhánh quyền lực, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai
  • 19. 19 trò của cơ quan tư pháp trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Ngoài ra còn một số công trình khác cũng đề cập tới NNPQ ở khía cạnh lý luận và thực tiễn. - PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh (2010), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam: Lý luận và thực tiễn", (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách này tác giả đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN, quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, thực trạng và quan điểm, phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam tác giả đề cập đến phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung của bộ máy nhà nước. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO Ở CHDCND Lào vấn đề xây dựng đội ngũ CCHC nói chung và CCHC cấp tỉnh nói riêng đến nay rất ít công trình nghiên cứu đến, Những năm gần đây, có một số công trình nghiên cứu đến đội ngũ CB, CC cấp tỉnh và các công trình nghiên cứu đến đội ngũ CB, CC nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau như sau: - Vắt tha Na CHĂN SA VANG (2007), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp tỉnh vùng Tây Bắc nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào’’, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội. Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về CB và xây dựng đội ngũ CB, CC cấp tỉnh, đánh giá thực trạng xây dựng đội ngũ CB, CC cấp tỉnh, vùng Tây Bắc, CHDCND Lào đồng thời đề xuất những giải pháp để góp phần xây dựng đội ngũ CB, CC cấp tỉnh. Trong luận văn tác giả chủ yếu phân tích các quan niệm, khái niệm về đội ngũ CB, CC vùng Tây Bắc một cách khái quát, đi sâu vào việc xây dựng đội ngũ CB, CC cấp tỉnh vùng Tây Bắc nói chung, chưa đề cập những đến vấn đề cụ thể về xây dựng đội ngũ CC hành chính cấp tỉnh. - Khăm Pha Phim Ma Sỏn (2010), “Xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở Tỉnh Bo Ly Khăm Xay, CHDCND Lào”, Luận án
  • 20. 20 tiến sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trong nội dung của luận án, tác giả chủ yếu tập trung làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp khả thi để xây dựng đội ngũ CC quản lý nhà nước về kinh tế, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế của tỉnh BoLy Kham Xay. Trong đó có đề cập đến việc hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản để làm rõ về đội ngũ CC và xây dựng đội ngũ CC quản lý nhà nước về kinh tế cấp địa phương, nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng đội ngũ CC ở một số nước, chủ yếu là ở Việt Nam và rút ra bài học đối với CHDCND Lào nói chung, tỉnh BoLy Kham Xay nói riêng, tìm ra những ưu điểm, hạn chế, yếu kém và các vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ CC quản lý nhà nước về kinh tế hiện nay, đồng thời đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ CC quản lý nhà nước về kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế cả trước mắt và lâu dài. Tuy nhiên, trong luận án mặc dù tác giả cũng đề cập đến những nội dung cơ bản của việc xây dựng đội ngũ CC như: quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng, xây dựng tiêu chuẩn, xây dựng tiêu chí đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng và tổ chức thực thi công tác CB, CC ở CHDCND Lào, nhưng tác giả chỉ giới hạn tập trung vào nội dung xây dựng đội ngũ CC quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp địa phương thuộc địa bàn tỉnh BoLy Kham Xay, CHDCND Lào. - Bun Sợt Tham Mạ Vông (2004), "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay", Luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả làm rõ cơ sở lý luận, phân tích thực trạng đội ngũ CB chủ chốt cấp huyện ở Nam Lào và thực trạng xây dựng đội ngũ CB chủ chốt trong thời gian qua, luận án đề xuất các giải pháp góp phần xây dựng đội ngũ CB chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam Lào đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới hiện nay.
  • 21. 21 Tác giả làm rõ vị trí, vai trò cấp huyện và đội ngũ CB chủ chốt cấp huyện nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay, tác giả phân tích thực trạng đội ngũ CB chủ chốt cấp huyện và công tác xây dựng đội ngũ CB chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam Lào, chỉ rõ ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và kinh nghiệm, chỉ ra mục tiêu, phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam Lào đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới hiện nay. Luận án góp phần làm rõ hơn cơ sở khoa học xây dựng đội ngũ CB, CC chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam Lào. Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện và công tác xây dựng CB chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam Lào hiện nay và những kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ CB chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam Lào. Luận án nêu một số giải pháp chủ yếu, khả thi xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở các tỉnh phía Nam Lào đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới hiện nay. - Đệt Tạ Kon Phi La Phan Đệt (2004), "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn trong giai đoạn cách mạng hiện nay", Luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của đội ngũ CB lãnh đạo chủ chốt và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn. Tác giả phân tích đánh giá thực trạng đội ngũ CB lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn và thực trạng kinh nghiệm, những yêu cầu đặt ra cho công tác xây dựng đội ngũ CB, CC. Trên cơ sở phân tích tác giả luận chứng cơ sở khoa học về vai trò, vị trí đặc trưng và yêu cầu mới của đội ngũ CB lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn. Qua khảo sát thực trạng đội ngũ CB lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng chăn, luận án phân tích, rút ra những bài học, kinh nghiệm
  • 22. 22 về công tác cán bộ và xác định một cách cụ thể hóa tiêu chuẩn, cơ cấu của đội ngũ cán bộ này. Tác giả kiến nghị một số giải pháp có tính khả thi để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ban, ngành ở thành phố Viêng Chăn trong giai đoạn cách mạng hiện nay. - Bun Lư Sổm Sắc Đi (2004), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh khu vực phía Bắc của nước CHDCND Lào trong giai đoạn cách mạng hiện nay” Luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án hệ thống hóa được các vấn đề lý luận và đánh giá được thực trạng xây dựng đội ngũ CB chủ chốt cấp tỉnh phía Bắc Lào từ 1986 - đến nay, những vấn đề đặt ra và bước đầu đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ CB chủ chốt cấp tỉnh khu vực phía Bắc Lào trong thời kỳ mới. Tác giả tập trung phân tích và hệ thống hóa một số quan điểm lý luận cơ bản về CB, CB chủ chốt nói chung và CB chủ chốt cấp tỉnh ở Lào nói riêng. Sâu khi đánh giá thực trạng đội ngũ CB và công tác xây dựng đội ngũ CB chủ chốt cấp tỉnh phía Bắc (những thành tựu, hạn chế và những nguyên nhân), tác giả bước đầu đề xuất một số giải pháp đồng bộ có tính khả thi nhằm xây dựng đội ngũ CB chủ chốt cấp tỉnh ở phía Bắc CHDCND Lào trong giai đoạn cách mạng hiện nay. - Khăm Phăn Phôm Mạ Thắt (2005), "Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới", Luận án tiến sĩ chính trị học, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả tập trung phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CB lãnh đạo quản lý chủ chốt, đặc biệt là với đối tượng thuộc diện quản lý của Trung ương, trong thời kỳ đổi mới, nhất là hoàn cảnh trong nước và thế giới hiện nay. Phân tích đánh giá đúng thực trạng của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CB lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý. Trên cơ
  • 23. 23 sở đó nêu lên những vấn đề cấp bách phải giải quyết và đề xuất những phương hướng chủ yếu nhằm giải quyết những tồn tại, thúc đẩy hơn nữa các quá trình đào tạo, bồi dưỡng CB lãnh đạo chủ chốt với chất lượng hiệu quả ngày càng cao. Trên cơ sở phân tích tác giả trình bày tương đối có hệ thống những luận cứ khoa học của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CB lãnh đạo, quản lý nói chung và đối với những người lãnh đạo chủ chốt thuộc diện quản lý của Trung ương nói riêng. Qua đó góp phần bổ sung, phát triển lý luận, quan điểm đúng đắn về công tác đào tạo, bồi dưỡng CB lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới. Tác giả đề xuất các giải pháp cần thiết và tương đối cụ thể cho việc tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng CB lãnh đạo quản lý chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở CHDCND Lào trong thời kỳ đổi mới. * Tạp chí Vấn đề công tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh ở CHDCND Lào hiện nay có hai bài viết trên tạp chí đó là: "Công tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh ở CHDCND Lào hiện nay" của Th.S Un Kẹo Si Pa Sợt, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8 năm 2009, đã tập trung phân tích đội ngũ cán bộ làm công tác CB của Đảng ở các tỉnh hiện có những mặt mạnh, yếu và một số quan điểm và giải pháp về công tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh ở CHDCND Lào hiện nay; bài viết: "Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh ở Lào hiện nay" của Th.S Un Kẹo Si Pa Sợt, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10, năm 2009, đã tập trung phân tích thực trạng những mặt mạnh, yếu kém, tồn tại của đội ngũ CB làm công tác CB nói chung và đội ngũ CB làm công tác CB cấp tỉnh nói riêng và rút ra một số kinh nghiệm bước đầu về công tác CB cấp tỉnh ở Lào hiện nay. Đó là những công trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu. Ngoài ra còn có rất nhiều các bài viết liên quan đến vấn đề nói trên trong các tạp chí, thông tin có giá trị không nhỏ. Tuy nhiên việc nghiên cứu công tác tổ chức cán bộ cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới cũng chỉ đề cập đến đội ngũ cán bộ, công chức cấp
  • 24. 24 tỉnh nói chung hoặc đề cập đến những nội dung, khía cạnh nhất định mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về CCHC cấp tỉnh. Vì vậy, vẫn còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào cần phải được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. 1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CỦA LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.3.1. Những vấn đề lý luận cơ bản đã được giải quyết Qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp và gián tiếp đến đề tài, có thể thấy rằng, chưa bao giờ các vấn đề công chức và công tác CB, CC được đặt ra, nghiên cứu một cách sâu rộng với nhiều người tham gia trong giai đoạn vừa qua. Đây là các tài liệu quý bởi các thông tin được cập nhật và gởi mở những ý tưởng nghiên cứu. Tập thể các tác giả nêu trên đã phân tích, lý giải, hệ thống hóa, bổ sung vấn đề lý luận cơ bản về việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ CC trong đó có công chức hành chính nhà nước nhằm đáp ứng các chức năng nhiệm vụ của nhà nước. Một số khâu trong công tác CB, CC cũng được các tác giả nghiên cứu như: khái niệm, đặc điểm, vai trò chức năng của công chức; tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, luân chuyển, điều động và chế độ chính sách đối với đội ngũ CB, CC. Ở Việt Nam có nhiều công trình nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền XHCN trong đó đề cập vấn đề xây dựng đội ngũ CB, CC nói chung của cả bộ máy. Có một số công trình nghiên cứu về đội ngũ công chức hành chính nhưng mới đề cập từng nội dung xây dựng đội ngũ công chức, hoặc xây dựng đội ngũ công chức ở từng địa phương cụ thể. Kết quả nghiên cứu của các công trình này là tài liệu tham khảo có giá trị phục vụ cho việc nghiên cứu luận án. Các công trình nghiên cứu về công chức đã góp phần giải đáp những đòi hỏi cấp bách của thực tế đối với đội ngũ CCHC nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ và sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu đã đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ CB,
  • 25. 25 CC nói chung và CB, CC ở các địa phương nói riêng nhằm thực hiện một trong những nội dung của cải cách hành chính ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu ở CHDCND Lào chủ yếu đề cập vấn đề xây dựng đội ngũ CB, CC chủ chốt, hoặc đi vào từng nội dung cụ thể như đào tạo, bồi dưỡng, công tác tổ chức cán bộ v.v... Có một số công trình nghiên cứu CB, CC cấp tỉnh, cấp huyện nói chung, chưa có một công trình nào nghiên cứu hoàn chỉnh và có hệ thống về xây dựng CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào, nhất là nghiên cứu vấn đề xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền vì ở Lào chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống và sâu sắc về mối quan hệ giữa xây dựng Nhà nước pháp quyền và yêu cầu đối với công tác xây dựng đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh. 1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước nói chung, CCHC cấp tỉnh nói riêng là một vấn đề lớn và phức tạp, nhìn chung các công trình nghiên cứu đã được công bố trên cũng có đóng góp quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước nói chung. Nhưng nhiều công trình mới chỉ dừng lại ở mặt phương pháp luận là chủ yếu, các kết quả đưa ra thường là các giải pháp lớn, mang tính định hướng, hoặc chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó ở một số khâu của công tác xây dựng đội ngũ CCHCchính nhà nước. Tuy nhiên về mặt lý luận và thực tiễn cho thấy đội ngũ CC là một tổng thể thống nhất, bao gồm nhiều đối tượng khác nhau với những đặc thù công việc khác nhau trong đó có một đối tượng quan trọng trong hoạt động công vụ, đó là CCHC và bởi vậy cũng cần có sự phần định rõ ràng nhằm xây dựng đội ngũ CCHC đáp ứng được yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đến nay có rất ít công trình nghiên cứu một cách tổng thể về nội dung xây dựng đội ngũ CCHC cấp địa phương, ở CHDCND Lào, đặc biệt là cấp
  • 26. 26 tỉnh chưa có công trình nào đề cập đến, và chưa có giải pháp tổng thể cho việc xây dựng đội ngũ này. Mặt khác, trong quá trình thực tiễn của mỗi nước, mỗi địa phương cũng có đặc điểm khác nhau. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, rất cần có công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và hoàn chỉnh, về lý luận xây dựng đội ngũ CCHC nhà nước cấp tỉnh, nhằm tìm ra giải pháp xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh có chất lượng đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay. Đó là các vấn đề về khái niệm, nguyên tắc, nội dung xây dựng đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh, yêu cầu của nhà nước pháp quyền đối với công tác xây dựng đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh. Kết luận chương 1 Nghiên cứu đề tài này, NCS chủ yếu tìm hiểu các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ở Việt Nam và ở CHDCND Lào. Bởi vì Việt Nam và CHDCND Lào có nhiều điểm tương đồng: cùng giành được độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, lựa chọn mục tiêu và con đường xây dựng CNXH, cùng tiến hành đổi mới, sự nghiệp cách mạng hai nước đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo v.v.. Ở Việt Nam có rất nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng nhà nước pháp quyền, về xây dựng đội ngũ CB, CC nói chung và một số công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ CB, CC ở các địa phương, cơ sở. Ở CHDCND Lào số lượng công trình nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền cũng như về xây dựng đội ngũ CB, CC nói chung và CCHC nói riêng chưa nhiều. Các công trình này tuy cũng có tính hệ thống nhưng mới đề cập những vấn đề chung nhất hoặc đề cập từng nội dung, khía cạnh của công tác cán bộ, chưa đi sâu nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về vấn đề xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh.
  • 27. 27 Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu, tham khảo các công trình nghiên cứu đã đi trước, Nghiên cứu sinh học hỏi được nhiều kinh nghiệm về công tác CB, CC của một số nước trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam. Trong đó Nghiên cứu sinh tâm đắc nhất là bài học kinh nghiệp của Việt Nam về công tác xây dựng đội ngũ CB, CC nói chung và CCHC cấp tỉnh, cấp huyện nói riêng. Luận án trân trọng và cố gắng kế thừa một cách chọn lọc những kết quả nghiên cứu về mặt lý luận cũng như một số ý tưởng về giải pháp của tác giả đi trước để tìm ra bài học kinh nghiệm vận dụng vào tình hình thực tế của CHDCND Lào, đặc biệt là cấp tỉnh. Luận án tập trung nghiên cứu làm rõ và bổ sung cơ sở lý luận về xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh, đánh giá đúng thực trạng tìm ra nguyên nhân cả điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào, hoàn thiện tiêu chuẩn, xây dựng tiêu chí đánh giá đối với CCHC, đề xuất một số quan điểm giải pháp khả thi đổi mới việc xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào. Nghiên cứu một cách hệ thống về công tác xây dung đội ngũ CCHC cấp tỉnh ở Lào hiện nay, luận án này mong muốn sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả trong việc xây dựng đội ngũ CCHC cấp tỉnh theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào hiện nay.
  • 28. 28 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH CẤP TỈNH THEO YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 2.1. KHÁI NIỆM XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH CẤP TỈNH Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 2.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của công chức hành chính cấp tỉnh 2.1.1.1. Khái niệm công chức và công chức hành chính cấp tỉnh a) Khái niệm công chức CC là một khái niệm mang tính lịch sử, nội dung của nó phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi quốc gia, là bộ phận nhân lực chủ yếu trong hoạt động quản lý nhà nước. Năng lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước nói chung, của nền hành chính nhà nước nói riêng suy cho cùng được quyết định bởi trình độ năng lực và phẩm chất của người CC. CC được hiểu chung nhất là những người thực thi công vụ, hoạt động của công chức mang tính quyền lực nhà nước hoặc phục vụ cho việc ban hành các quyết định quản lý nhà nước, của xã hội làm mục tiêu, căn cứ, tiêu chuẩn cho hành vi của mình. Với những giai đoạn lịch sử nhất định thuật ngữ công chức cũng mang những nội dung khác nhau. Theo kinh nghiệm của các quốc gia đã thực hiện chế độ CC, thì CC được hiểu là những công dân được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay nước ngoài, được xếp vào một ngạch và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Với quan niệm như thế để trở thành người công chức cần thỏa mãn điều kiện sau: - Là công dân của nước đó. - Được tuyển dụng bằng hình thức thi tuyển. - Giữ một công vụ thường xuyên.
  • 29. 29 - Được xếp vào ngạch, một ngành chuyên môn. - Làm việc trong một công sở. - Lĩnh lương từ ngân sách nhà nước. + Khái niệm công chức của một số nước trên thế giới: Ở một số nước, CC chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động quản lý nhà nước. Có những nước, ngoài những người thực hiện trực tiếp các hoạt động quản lý nhà nước, CC còn được áp dụng cho những người làm trong các cơ quan dịch vụ công . - Ở Cộng hòa Pháp: Luật chung về công chức năm 1946 và năm 1959 chỉ được áp dụng cho CC nhà nước Trung ương, không liên quan đến CC địa phương. Năm 1981 sau khi Đảng xã hội lên cầm quyền, mở rộng quyền hạn của địa phương, nên đến năm 1983 - 1984 khi ban hành luật chung về CC hiện nay đã gộp cả CC địa phương vào. Như vậy, ở Pháp những người hoạt động công vụ bao gồm “toàn bộ những người được nhà nước hoặc cộng đồng lãnh thổ (vùng, tỉnh, công xã) bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong một công sở (service public) hay một công sở tự quản và được biên chế vào một ngạch của nền hành chính công” [47, tr.73]. Theo quan niệm như vậy, CC ở Pháp chia làm 3 loại: - CC trong các ngạch hành chính nhà nước. - CC thuộc cộng đồng lãnh thổ, trực thuộc cơ quan chính quyền địa phương. - CC trực thuộc các công sở tự quản. Trong 3 loại CC trên chỉ có CC trong ngạch hành chính nhà nước được coi là CC nhà nước. Không phải toàn bộ những nhân viên hành chính đều bị chi phối bởi luật CC mà chỉ là những người đảm nhiệm các chức vụ thường xuyên, còn các đối tượng khác bị chi phối chủ yếu là luật lao động, các văn bản hợp đồng, luật từ chức và họ không được hưởng các bảo đảm đặc biệt về mặt chức nghiệp. Như vậy ở Pháp ngoài lực lượng CC như đã nêu ở trên còn một số những người làm việc trong các cơ quan thực thi công vụ nhưng không phải là CC.
  • 30. 30 Việc tuyển dụng cho cả 3 loại công chức trên đều được thực hiện theo phương thức thi tuyển, người trúng tuyển sẽ được đảm nhiệm ở bậc thấp nhất và dần dần được thăng tiến lên những bậc cao hơn. - Trung Quốc: Là quốc gia đông dân nhất thế giới và đang phát triển rất nhanh ở châu Á. Trước đây Trung Quốc áp dụng chế độ quản lý nhân sự theo cơ chế “cán bộ”, áp dụng một khuôn mẫu chung để quản lý mà không phân biệt những người làm công tác Đảng, công tác chính quyền và làm trong doanh nghiệp. Để đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước, thích ứng với nhu cầu cải cách, mở cửa, Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XIII năm 1989 đã quyết định xây dựng một chế độ CC nhà nước kiểu mới ở Trung Quốc và bàn “ điều lệ tạm thời về CC” ra đời. Theo Điều lệ tạm thời về CC năm 1993 của Trung Quốc thì CC nhà nước là “những nhân viên công tác trong cơ quan hành chính nhà nước các cấp, trừ nhân viên phục vụ” [41, tr.223]. Năm 2005 Quốc hội khóa X của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã thông qua Luật công vụ (có hiệu lực tháng 1/2006) và Điều 2 luật này quy định: CC là những người thi hành những nhiệm vụ công theo pháp luật quy định, làm việc trong các cơ quan hành chính của nhà nước và hưởng lương cùng các khoản phúc lợi của họ do ngân sách nhà nước trả. - Nhật Bản: Nhật Bản gồm có CC nhà nước và CC địa phương. Công chức nhà nước là những người được nhận chức trong bộ máy của chính phủ trung ương, ngành tư pháp, quốc hội, quân đội, trường học công, xí nghiệp và đơn vị sự nghiệp quốc doanh, được lĩnh lương từ ngân sách Nhà nước. Công chức địa phương là những người làm việc và lĩnh lương từ nguồn ngân sách của địa phương. - Thái Lan: Là một quốc gia quân chủ lập hiến ở Đông Nam Á, theo Luật công vụ của Thái Lan thì “CC là người được phân công và được bổ nhiệm một công việc của chính phủ và nhận lương phù hợp ở một bộ, cơ
  • 31. 31 quan nhà nước hay cơ quan thuộc chính phủ” [70, tr.83]. Luật CC hiện hành ở Thái Lan đã loại trừ các chức danh và quan chức chính trị ra khỏi quy định của luật công vụ, đồng thời cấm các công chức không được trở thành các quan chức chính trị. Đội ngũ công chức ở Thái Lan được chia thành 3 nhóm chính: - Một là, CC thường trực, bao gồm các CC trong công vụ nhận lương từ quỹ công vụ thường xuyên và được bổ nhiệm theo quy định. - Hai là, các quan chức phục vụ trong Hoàng Gia, bao gồm các CC được bổ nhiệm vào các chức vụ phục vụ Hoàng Gia được ghi trong quy định về Hoàng Gia. - Ba là, các quan chức phục vụ đối ngoại đặc biệt, bao gồm các CC được bổ nhiệm trong các trường hợp đặc biệt về lý do chính trị đối với các vị trí công tác ở nước ngoài được quy định riêng. Ở Việt Nam: Ngay từ năm đầu tiên của chính quyền cách mạng, CC đã được xác định theo Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành quy chế công chức, là những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan chính phủ, ở trong hay ngoài nước, trừ những trường hợp riêng biệt do chính phủ quy định. Tuy nhiên, trong một thời gian dài do điều kiện chiến tranh ở Việt Nam, việc phân định công chức cũng chưa rõ ràng, nói chung những người làm việc trong hệ thống chính trị đều gọi chung là CB, CC. Đến thập kỷ 90, khái niệm CC đã được xác định rõ hơn trong các Nghị định số 169/HĐBT ngày 25/5/1991, Nghị quyết số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính phủ và Pháp lệnh cán bộ, công chức ban hành ngày 26/2/1998. Theo quy định của pháp luật hiện hành, phạm vi những người làm việc cho bộ máy nhà nước của Việt Nam là rất rộng. Tuy nhiên không phải tất cả họ đều được coi là công chức. Theo tinh thần của Nghị định số 117/2003/NĐ-CP
  • 32. 32 ngày 10/10/2003 của chính phủ về tuyển dụng và quản lý CB, CC trong các cơ quan nhà nước, CC bao gồm những đối tượng sau: CC là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, gồm: những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch CC hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức - xã hội sau đây: + Văn phòng Quốc hội; + Văn phòng Chủ tịch nước; + Cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; + Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp; + Cơ quan đại diện nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; + Đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân; + Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện. Trước yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước, ngày 13/11/2008 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XII, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua và ban hành Luật cán bộ, công chức có hiệu lực từ ngày 1/1/2010. Luật này đã phân định rõ đối tượng CB, CC và tách biệt với đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập do Luật viên chức điều chỉnh (có hiệu lực từ ngày 1/1/2012). Theo quy định của Luật cán bộ, công
  • 33. 33 chức thì "Công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. Qua những nội dung đã được trình bày và phân tích ở trên chúng ta thấy rằng tuy khái niệm về CC của các quốc gia nói trên về phạm vi CC rộng hẹp khác nhau nhưng nội hàm và địa vị pháp lý của CC có nhiều điểm giống nhau như: - CC là những người phục vụ thường xuyên với chuyên môn nhất định trong khu vực nhà nước. - CC là kết quả của sự tuyển chọn đặc biệt của Nhà nước, hoạt động của họ chịu sự điều chính của Luật CC. - Hành vi của họ phải chịu trách nhiệm với Nhà nước, hành vi này phải chịu sự hạn chế được quy định đặc biệt, bao gồm hạn chế hành vi chính trị, giữ gìn bí mật, phục tùng chỉ huy. - Được hưởng những quyền lợi của chức nghiệp như lương, hưu trí, phúc lợi, trình bày, tố cáo, trong đó tiền lương do nhà nước chi trả. - Khái niệm công chức ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào: Nói chung từ CC được gọi chung trong từ CB. Việc phân biệt giữa CB và CC từ khi có Nghị định số 171/CP ngày 11/11/1993. Nghị định này quy định như sau: CC là công dân Lào được tuyển dụng và bổ nhiệm và giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của nhà nước đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách Nhà nước cấp.
  • 34. 34 Sau 10 năm thực hiện Nghị định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/CP ngày 19/5/2003 để thay thế Nghị định số 171/CP ngày 11/11/1993 và từ CC đã được sửa đổi, bổ sung. Điều 2 Nghị định số 82/CP ngày 19/5/2003 quy định: CC nước CHDCND Lào là công dân Lào, được tuyển dụng và bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường xuyên ở các cơ quan tổ chức Đảng, nhà nước, tổ chức quần chúng ở trung ương, cấp địa phương và cơ quan thay mặt nước CHDCND Lào ở nước ngoài và được hưởng lương và tiền hỗ trợ khác từ ngân sách nhà nước. Mặc dù Nghị định số 82/CP ngày 19/5/2003 không đưa ra khái niệm CC, nhưng thông qua việc phân biệt các đối tượng là CC nước CHDCND Lào, chúng ta có thể thấy, CC theo văn bản pháp luật nước CHDCND Lào có nhiều điểm đặc trưng khác biệt so với các nước, đó là: - CC nước CHDCND Lào không chỉ bao gồm những người làm việc trong bộ máy nhà nước mà còn bao gồm cả những người làm việc cho các tổ chức Đảng, tổ chức quần chúng như: Mặt trận Lào xây dựng đất nước, Hội Liên hiệp phụ nữ, Công đoàn, Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng Lào, Hội Cựu chiến binh. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản nhất của CC nước CHDCND Lào. Nó xuất phát từ đặc thù của thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước, đảng, đoàn thể của nước CHDCND Lào. - Đối tượng CC không áp dụng cho đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của nhà nước, kể cả các đơn vị sự nghiệp thực hiện dịch vụ công. Từ những phân tích trên, về mặt pháp luật, có thể định nghĩa CC nướcCHDCND Lào như sau: “CC là công dân Lào, được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ hay nhiệm vụ thường xuyên trong các cơ quan tổ chức của Đảng, nhà nước, tổ chức quan chúng ở trung ương, địa phương,các cơ quan thay mặt nước CHDCND Lào ở nước ngoài, được phân loại theo chức vụ chuyên môn và tương ứng là trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, theo vị trí công tác, được xếp vào một ngạch công chức, mỗi ngạch có
  • 35. 35 chức danh riêng, tiêu chuẩn riêng, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước". b) Khái niệm công chức hành chính cấp tỉnh Hành chính nhà nước là “Sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của công dân do các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn các yêu cầu hợp pháp của công dân” [82, tr.18]. Có thể nói hoạt động hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp của nhà nước, là hoạt động trực tiếp điều hành các quan hệ xã hội do các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước chỉ có thể được tiến hành thông qua vai trò, nhiệm vụ, thẩm quyền của những con người làm việc trong hệ thống hành chính đó, họ được gọi là công chức hành chính nhà nước. Cũng theo quan niệm trên, công chức là người làm công cho nhà nước, do Nhà nước trả lương để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước, bởi vậy chúng ta có thể dùng thuật ngữ công chức hành chính thay cho công chức hành chính nhà nước. Công chức hành chính nhà nước là những người phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân thi hành các chính sách và pháp luật, thực hiện việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội dựa trên sự ủy thác quyền lực của Nhà nước là những người được xếp vào ngạch hành chính nhà nước. CCHC là người làm việc trong các cơ quan công quyền, cơ quan quản lý HCNN, trong các bộ phận hành chính của các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và các tổ chức khác được xếp vào một ngạch hành chính và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Như vậy, có thể hiểu CCHC là một bộ phần quan trọng của đội ngũ CC, đảm nhận chức năng quản lý hành chính nhà nước. Họ là người trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch CC hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, làm việc trong các cơ quan HCNN các cấp.
  • 36. 36 Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nằm trong bộ máy chính quyền địa phương được tổ chức quản lý theo lãnh thổ hành chính, Theo Điều 2 của Luật Hành chính địa phương của CHDCND Lào năm 2003 thì: “chính quyền địa phương chịu sự quản lý điều hành của hành chính nhà nước ở trung ương, chính quyền địa phương gồm có 3 cấp: chính quyền cấp tỉnh, chính quyền cấp huyện và chính quyền cấp bản - làng”. Theo Điều 6 Luật Hành chính địa phương Lào năm 2003 thì: "Tỉnh là địa bàn của chính quyền địa phương bao gồm nhiều huyện và thành thị…" . Cơ quan hành chính cấp tỉnh là một đơn vị hành chính chiến lược của đất nước, là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước đại diện cho các cơ quan nhà nước ở Trung ương đóng tại địa phương, đồng thời cũng là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân với trách nhiệm xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý theo sự phân bố chung của Trung ương, phù hợp với thế mạnh của địa phương mình, đồng thời cơ quan hành chính cấp tỉnh có trách nhiệm trước nhân dân ở địa phương và cấp trên trong việc bảo đảm thi hành quản lý kinh tế, văn hóa, chính trị, an ninh - quốc phòng, nâng cao đời sống nhân dân, hoàn thành nhiệm vụ mà nhà nước giao cho. Cơ quan hành chính cấp tỉnh ở CHDCND Lào gồm có: Văn phòng tỉnh và các phòng trực thuộc, Sở Kế hoạch và đầu tư, Sở Giáo dục và thể thao, Sở y tế, Sở nông nghiệp - lâm nghiệp, Sở Tài chính, Sở Công thương, Sở Nội vụ, Sở tuyên truyền và văn hóa, Sở Bưu chính, viễn thông và thông tin, Sở Ngoại giao, Sở năng lượng và khoáng sản, Sở Tài nguyên và môi trường, Sở khoa học - công nghệ, Sở Lao động và thương binh xã hội, Sở (Văn phòng ) Ủy ban giám sát và kiểm soát ma túy, Sở Giao thông vận tải, Sở Thuế quan, Sở Thanh tra, Sở Tư pháp Cơ quan hành chính cấp tỉnh ở CHDCND Lào là bộ phận quan trọng của nền hành chính quốc gia được tổ chức, hoạt động theo quy định của hiến pháp, Luật hành chính địa phương năm 2003, Luật nhà nước, các Nghị định của chính phủ và các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành; với chức năng thực hiện quản lý hành chính nhà nước và phối hợp chặt chẽ với cơ quan nhà
  • 37. 37 nước để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền địa phương trong phạm vi địa giới hành chính của tỉnh. CCHC cấp tỉnh là những người làm việc trong các cơ quan hành chính cấp tỉnh, là một trong những mắt xích cơ bản của mối liên hệ giữa nhân dân địa phương với nhà nước cấp trên; là trung tâm tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, các quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời cũng là trung tâm điều hòa, phối hợp hoạt động của tất cả các ngành, các cơ quan nhà nước thuộc địa phương đóng trên lãnh thổ của tỉnh. Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu CCHC cấp tỉnh ở CHDCND Lào là công dân Lào, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hành chính, giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan chính quyền cấp tỉnh, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để thực thi công vụ phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân. 2.1.1.2. Đặc điểm của công chức hành chính cấp tỉnh CCHC cấp tỉnh thực hiện quản lý và điều hành đất nước theo pháp luật, là lực lượng trực tiếp thực thi quyền hành pháp của Nhà nước ở cấp tỉnh. Các mệnh lệnh, quyết định quản lý trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội do công chức hành chính triển khai thực hiện. Công chức hành chính cấp tỉnh có những đặc điểm chủ yếu sau: a) Đội ngũ công chức hành chính cấp tỉnh là những người thực thi công vụ trong cơ quan hành chính cấp tỉnh Công vụ là loại lao động đặc thù để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, thực hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống, nhằm bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn tài sản chung và ngân sách nhà nước, phát triển và ổn định nền kinh tế - xã hội; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhân danh quyền lực nhà nước, phục vụ nhân dân, thực hiện lý tưởng phụng sự tổ quốc và lòng tự hào
  • 38. 38 của người CC được hoạt động trong nền công vụ của đất nước ở cấp tỉnh là đặc điểm nổi bật và duy nhất của nguồn nhân lực hành chính nhà nước cấp tỉnh. Người CC trong bộ máy hành chính nhà nước cấp tỉnh được trao quyền để thực thi công vụ, đồng thời, họ có bổn phận phục vụ xã hội, công dân và chịu những rằng buộc nhất định do liên quan đến chức trách đang đảm nhiệm. Họ có thể phải từ chức, bị truy cứu hoặc phải bồi thường thiệt hại nếu không hoàn thành trách nhiệm, sai phạm do quyết định hành chính làm tổn hại lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức ở cấp tỉnh. b) Đội ngũ công chức hành cấp tỉnh được nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết, quyền lợi chính đáng để có khả năng và yên tâm thực thi công vụ Để thực hiện công vụ, người CC được nhà nước cung cấp các điều kiện cần thiết để tiến hành thực thi công vụ như trụ sở, phương tiện, điều kiện làm việc… Họ được đảm bảo các quyền lợi vật chất và tinh thần như: hưởng lương từ ngân sách nhà nước tương xứng với chức trách và công việc, nhận các loại trợ cấp, phụ cấp các bằng tiền hoặc hiện vật và lương hưu khi đủ thời gian cống hiến cho nền công vụ, được khen thưởng khi có công lao xứng đáng. Sự đảm bảo quyền lợi cho nguồn nhân lực này có tính ổn định, lâu dài, thực tế là suốt đời nếu như CC không vi phạm kỷ luật, bị thải hồi hoặc bị truy tố trước pháp luật. c) Là lực lượng lao động có tính chuyên nghiệp Các cơ quan hành chính Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ bảo đảm việc chấp hành, thực hiện các đạo luật và nghị quyết của các cơ quan quyền lực nhà nước, điều hành, giải quyết các mối quan hệ đối nội, đối ngoại phức tạp nhằm đảm bảo cho xã hội ổn định và phát triển. Với chức năng đó, bộ máy nhà nước đòi hỏi phải có đội ngũ CC quản lý mang tính chất chuyên nghiệp, là những người thực hiện công vụ thường xuyên, liên tục, có trình độ chuyên môn và được đảo tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ quản lý hành chính nhà nước ở các mức độ khác nhau.
  • 39. 39 Tính chuyên nghiệp của CCHC nhà nước nói chung, cấp tỉnh nói riêng được quy định bởi địa vị pháp lý và được thể hiện qua hai yếu tố: thời gian, thâm niên công tác và trình độ năng lực chuyên môn, kỹ năng nhiệm vụ hành chính. Hai yếu tố này gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên mức độ chuyên nghiệp của người CCHC. Thời gian,thâm niên công tác tạo điều kiện để CC thành thảo công việc và đúc rút kinh nghiệm trong thực thi công vụ, còn trình độ hiểu biết pháp luật, năng lực chuyên môn, kỹ năng nhiệm vụ hành chính tạo khả năng hoàn thành những công việc được giao. d) Hoạt động của đội ngũ công chức hành chính diễn ra thường xuyên, liên tục trên phạm vi rộng và mang tính linh hoạt, thích ứng với sự biến đổi. Các cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức thành hệ thống từ trung ương đến cơ sở thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, ngoại giao, an ninh quốc phòng với các mặt hoạt động hết sức phong phú và phức tạp gồm tài chính, ngân sách Nhà nước, kế toán, kiểm toán, thống kê, tín dụng, bảo hiểm, tài sản công, khoa học, công nghệ, môi trường… tất cả các hoạt động đó đều liên quan đến công việc hàng ngày và trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của tất cả mọi người dân, đòi hỏi hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và đội ngũ CCHC phải đủ năng lực, thẩm quyền để giải quyết tất cả các vấn đề thuộc phạm vi quản lý; điều hành một cách nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả. Mặt khác do đời sống chính trị, kinh tế xã hội, môi trường, khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và những tình trạng khẩn cấp khác v.v... có thể có những diễn biến phức tạp, khôn lường đòi hỏi hoạt động của cơ quan hành chính và CCHC phải linh hoạt thích ứng với sự biến đổi đó. e) Đội ngũ công chức hành chính tương đối ổn định, mang tính kế thừa, nhưng luôn luôn đòi hỏi không ngừng nâng cao về chất lượng Đội ngũ CCHC Nhà nước nói chung, cấp tỉnh nói riêng hoạt động ổn định, ít chịu biến động nhằm duy trì tính ổn định, liên tục của nền hành
  • 40. 40 chính. Trong tình hình các lĩnh vực hoạt động của xã hội không ngừng phát triển; đối tượng điều chỉnh của pháp luật ngày càng mở rộng và phức tạp hơn: yêu cầu của người dân về chất lượng phục vụ ngày càng cao nhưng các cơ quan hành chính nhà nước không thể tuyển dụng hàng loạt người lao động mới, vì rằng việc tuyển dụng và giải quyết các lao động dôi dư trong các cơ quan HCNN luôn liên quan đến một loạt các vấn đề về chính sách, chế độ xã hội phức tạp. Giải pháp hiệu quả, thích hợp trong điều kiện hiện nay là xây dựng hệ thống chính sách tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, đề bạt, luân chuyển, đãi ngộ phù hợp để giảm thiểu tối đa sự chênh lệnh về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực HCNN. Nâng cao nguồn nhân lực hiện có, thông qua bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ CC nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các cơ quan hành chính Nhà nước. chú trọng chất lượng tuyển dụng nhân lực, thu hút, khuyến khích nhân tài thực thi công vụ. hạn chế đến mức thấp nhất những sai lầm trong tuyển dụng CCHC Nhà nước. 2.1.1.3. Vai trò của công chức hành chính cấp tỉnh CCHC là yếu tố cơ bản cấu thành nền hành chính nhà nước, thông qua hoạt động của CCHC, các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước mới được thực hiện. cơ quan nhà nước không thể hình thành và hoạt động nếu không có CC. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “CB là những người đem chính sách của Đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [60, tr.269]. CB và công tác CB luôn là một vấn đề quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, có vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt
  • 41. 41 hoặc kém” [60, tr.269, 270]; “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tệ liệt” [60, tr.54]. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa công sản khoa học chỉ ra rằng: giai cấp vô sản và chính đảng của mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững được chính quyền thì phải xây dựng được một đội ngũ CB trung thành và tài năng, đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng. Từ kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người và từ chính quá trình truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân, C.Mác đã khẳng định: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng tư tưởng” [68, tr.181]. V.I.Lênin, người kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đã đặc biệt coi trọng việc xây dựng một đội ngũ những nhà cách mạng chuyên nghiệp cho phong trào vô sản. Đó là những cán bộ nòng cốt đầu tiên của Đảng Cộng sản bônsêvích Nga. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [62, tr.473]. Có thể nói, vị trí của CCHC là “cầu nối” giữa Đảng, nhà nước với nhân dân. Một mặt, CC đưa các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống; mặt khác đem thực tiễn cuộc sống phán ánh lại với Đảng và Nhà nước để làm cơ sở cho việc hoạch định, xây dựng các chủ trương, chính sách, pháp luật. Vì vậy, việc xây dựng cũng như thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước có đạt kết quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả hoạt động của đội ngũ công chức hành chính nhà nước nói chung, công chức hành chính cấp tỉnh nói riêng. Vai trò của đội ngũ CC nói chung và CCHC nói riêng thể hiện qua bốn mối quan hệ. Một là, quan hệ với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; Hai là, với bộ máy (các cơ quan tổ chức lãnh đạo quản lý); Ba là, với công việc; Bốn là, với quần chúng nhân dân.