“Thà làm ăn mày ở Đà Lạt còn hơn làm triệu phú ở Sài Gòn. Thà làm ăn mày ở Ba-lê còn hơn làm triệu phú ở Nữu-ước.”, Phạm Công Thiện từng viết như vậy.
Đà Lạt là thành phố hiếm hoi tạo ra một lực hút mãnh liệt đối với những tâm hồn lãng mạn.
Đà Lạt trong mỗi người – chính là nội dung của phần Tản văn trong cuốn sách này. Đây là phần tập hợp những ghi chép, cảm nhận về không gian sống, ký ức đô thị của người Đà Lạt và lữ khách yêu Đà Lạt thuộc nhiều thời kỳ.
Phần Truyện ngắn tập hợp 4 truyện hay lấy Đà Lạt làm bối cảnh. Có truyện được viết từ trước 1975 và rất nổi tiếng (như Nhà có hoa Mimosa vàng của Hoàng Ngọc Tuấn), cũng có truyện mới (như Một vệt mây qua của Hạ Tuyên). Một cuộc gặp gỡ ở lối văn chương tao nhã, nhẹ nhàng và gợi cảm giác xa vắng rất đặc thù về không gian - tâm cảnh.
Phần Biên khảo là tập hợp loạt bài lược khảo Đà Lạt, đứa con của tham vọng, lật lại lịch sử hình thành, phát triển và đổi thay của đô thị này qua thời gian. Bên cạnh đó, Phanbook cũng tập hợp những ghi chép làm tái hiện một Đà Lạt vàng son trong quá khứ từ khi Alexandre Yersin khám phá ra vùng đất này cho đến năm 1974 trong bài Đà Lạt xưa qua cái nhìn lữ khách.
Các tác giả có mặt trong giai phẩm về Đà Lạt lần này: Alexandre Yersin, P. Munier, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Phạm Duy, Nguyễn Xuân Hoàng, Trịnh Công Sơn, Trịnh Cung, Hoàng Ngọc Tuấn, Lê Uyên Phương, Vi Khuê, Nguyễn Hàng Tình, Phan Dũng, Đoàn Thạch Biền, Nghi Thủy, Nguyễn Vĩnh Nguyên…
Miền sương khói, vì thế còn là sương khói của tâm tưởng: giấc mộng đẹp, ký ức, thời gian, cũng có thể là sự lãng quên. Phải chăng Đà Lạt được dệt nên từ tất cả những điều ấy?
Giai phẩm về Đà Lạt để đọc trong mùa đông. Và đọc quanh năm. Khi tâm hồn ta khát thèm cái lạnh xuyên không, xuyên thời của Đà Lạt.
Đà Lạt, bên dưới sương mù là dự án biên khảo độc lập kéo dài hai năm của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên. Là một cách tiếp cận khác, hành trình khác. Phần chìm, phần bị phủ đậy cùng những bí mật sâu kín trong một giai đoạn lịch sử Đà Lạt (1950 – 1975) bằng một lối viết biên khảo chỉn chu và cuốn hút.
“Thà làm ăn mày ở Đà Lạt còn hơn làm triệu phú ở Sài Gòn. Thà làm ăn mày ở Ba-lê còn hơn làm triệu phú ở Nữu-ước.”, Phạm Công Thiện từng viết như vậy.
Đà Lạt là thành phố hiếm hoi tạo ra một lực hút mãnh liệt đối với những tâm hồn lãng mạn.
Đà Lạt trong mỗi người – chính là nội dung của phần Tản văn trong cuốn sách này. Đây là phần tập hợp những ghi chép, cảm nhận về không gian sống, ký ức đô thị của người Đà Lạt và lữ khách yêu Đà Lạt thuộc nhiều thời kỳ.
Phần Truyện ngắn tập hợp 4 truyện hay lấy Đà Lạt làm bối cảnh. Có truyện được viết từ trước 1975 và rất nổi tiếng (như Nhà có hoa Mimosa vàng của Hoàng Ngọc Tuấn), cũng có truyện mới (như Một vệt mây qua của Hạ Tuyên). Một cuộc gặp gỡ ở lối văn chương tao nhã, nhẹ nhàng và gợi cảm giác xa vắng rất đặc thù về không gian - tâm cảnh.
Phần Biên khảo là tập hợp loạt bài lược khảo Đà Lạt, đứa con của tham vọng, lật lại lịch sử hình thành, phát triển và đổi thay của đô thị này qua thời gian. Bên cạnh đó, Phanbook cũng tập hợp những ghi chép làm tái hiện một Đà Lạt vàng son trong quá khứ từ khi Alexandre Yersin khám phá ra vùng đất này cho đến năm 1974 trong bài Đà Lạt xưa qua cái nhìn lữ khách.
Các tác giả có mặt trong giai phẩm về Đà Lạt lần này: Alexandre Yersin, P. Munier, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Phạm Duy, Nguyễn Xuân Hoàng, Trịnh Công Sơn, Trịnh Cung, Hoàng Ngọc Tuấn, Lê Uyên Phương, Vi Khuê, Nguyễn Hàng Tình, Phan Dũng, Đoàn Thạch Biền, Nghi Thủy, Nguyễn Vĩnh Nguyên…
Miền sương khói, vì thế còn là sương khói của tâm tưởng: giấc mộng đẹp, ký ức, thời gian, cũng có thể là sự lãng quên. Phải chăng Đà Lạt được dệt nên từ tất cả những điều ấy?
Giai phẩm về Đà Lạt để đọc trong mùa đông. Và đọc quanh năm. Khi tâm hồn ta khát thèm cái lạnh xuyên không, xuyên thời của Đà Lạt.
Đà Lạt, bên dưới sương mù là dự án biên khảo độc lập kéo dài hai năm của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên. Là một cách tiếp cận khác, hành trình khác. Phần chìm, phần bị phủ đậy cùng những bí mật sâu kín trong một giai đoạn lịch sử Đà Lạt (1950 – 1975) bằng một lối viết biên khảo chỉn chu và cuốn hút.
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Văn hiến Hà Nam - Truyền thống và hiện đại” do tỉnh Hà Nam và Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam phối hợp tổ chức.-Phần 2.
Đăng trên vanhien.vn
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Văn hiến Hà Nam - Truyền thống và hiện đại” do tỉnh Hà Nam và Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam phối hợp tổ chức.-Phần 2.
Đăng trên vanhien.vn
Theo dòng lịch sử, trải qua biết bao biến cố xã hội đó là sự đổi thay của Thăng Long, của Hà Nội, song song với nó là tên tuổi của các danh nhân dể lại ngàn tiếng thơm cho con cháu mai sau ...
Mấy ý kiến với Văn Hữu Tuất - Tác giả viết Địa Phương Ký Làng Sơn Tùng, cháu xin ý kiến của chú về ý định của cháu muốn đem nhiệt tình của cháu viết về Địa phương Ký Làng Sơn Tùng của mình, chú thấy ý kiến đó rất hay rất quý, có nhiều ý nghĩa sâu sắc đối với các bậc Tiên Liệt các bậc Tiền bối các thế hệ đã quá cố cho cả hiện tại và có ích cho các thế hệ mai sau.
Lễ hội Trò Trám là tên của địa phương, giới khoa học gọi là Lễ hội phồn thực, chúng tôi gọi là Lễ hội trò nhại Nõ Nường, nó là dòng Lễ hội vòng đời “hèm tục” phổ biến khắp vùng Đông Nam Á cổ, nhưng đã bị thất truyền từ giữa đầu thế kỷ XX do cuộc chiến tranh của Nhật ở vùng này.
Bài viết về Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam Nguyễn Thế Vinh, người đã lãnh đạo "Anh cả đỏ" của nghệ thuật kịch Việt Nam suốt 5 năm đạt nhiều kết quả tốt đẹp.
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 109/2017/NĐ-CP quy định về bảo vệ và quản lý Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam. Có hiệu lực thi hành từ ngày 10.11.2017, với 4 chương, 24 điều,.
Tạp chí Văn hóa Nghệ An đăng bài “12 luận điểm chính trong một cuốn sách mới về trống đồng Đông Sơn” của tác giả Tạ Đức, với lời của tác giả: hi vọng gợi ra những ý kiến trao đổi, phản biện. Nhưng không như sách Nguồn gốc người Việt –người Mường mà nói sai thì do lòng tự tôn dân tộc cho nên sách ấy bị nhiều người phản ứng. Còn sách nói về trống đồng này có thể nhiều người ủng hộ,
Bài viết về Thanh Hương, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh thiếu niên, Nhi đồng của Quố Hội, nhà viết kịch và một phụ nữ can trường.
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long phản ánh một giai đoạn chuyển mình của đất nước từ bao cấp sang kinh tế thị trường. Tác phẩm được vào vòng Chung khảo cuộc thi Tiểu thuyết Việt Nam lần thứ 3 do Hội Nhà văn tổ chức.
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
HƯƠNG ƯỚC HÀ NỘI - MỘT DI SẢN VĂN HOÁ - Trương Sỹ HùngPham Long
Nghiên cứu hương ước của Hà Nội trước cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng là dịp khơi nguồn văn hóa truyền thống, giúp cho người quan tâm đến lĩnh vực quan trọng này tiếp xúc trực tiếp với văn bản mà “gạn đục khơi trong”và từ đây có thể rút ra những điều cần thiết cho việc xây dựng những bản quy ước văn hóa mới cho mỗi xã, phường, thị trấn .
Xung quanh sự kiện vua Mạc Đăng Dung thần phục nhà Minh năm 1540, một số nhà nghiên cứu đã phê phán, nhận xét, theo nếp cũ để kết tội nặng hoặc giảm tội cho Mạc Đăng Dung. Chúng tôi chứng minh rằng, Mạc Đăng Dung không những không có tội mà còn có công lớn đối với đất nước.
Người Đà Lạt rất năng động, họ không chỉ học theo mà còn sáng tạo làm theo cách của mình như tìm kiếm những loại giống cây mới, lạ, chất lượng như cà chua đen, ớt sừng bò, ớt chuông, dưa hấu Mỹ, bầu bí khổng lồ,… và đều thắng lớn. Những gia đình năng động đó có thu nhập không dưới 500 triệu đồng/ha/năm.
Tranh thiếu nhi về vhgt năm 2016 được giảiPham Long
Ban Tổ chức cuộc thi Thiếu nhi vẽ tranh về chủ đề văn hóa giao thông vừa công bố danh sách 68 tác phẩm đoạt giải của cuộc thi này. Được khởi xướng từ năm 2011, với sự tham gia của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam Cục Mỹ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), cuộc thi vẽ tranh này đã qua nhiều cuộc trao giải và triển lãm tranh, thu hút hàng vạn thiếu nhi cả nước tham gia.
Trên cơ sở giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, Lễ hội Đền thờ Bát Hải Long Vương năm 2016 là một sân chơi đầy thú vị và thể hiện tín ngưỡng của người dân phường Phú Sơn.
Kỷ yếu Hội thảo: Bác Hồ với thơ Đường luật Việt NamPham Long
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Văn hoá cũng là một mặt trận”. Chính vì vậy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình Người đã sử dụng khá nhiều bài viết bằng các thể loại thơ để hƣớng dẫn, chỉ bảo và động viên mọi tầng lớp nhân dân cùng đoàn kết đấu tranh trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng đất nƣớc, trong đó có nhiều bài được viết bằng thể thơ Đường luật.
Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vn
Lời ca quan họ và truyện kiều của Nguyễn Du
1. QUAN HỌ BẮC NINH VÀ TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU
Trương Sỹ Hùng
Trong dân ca quan họ Bắc Ninh có rất nhiều bài hát do các Nho sĩ bình dân
sáng tác rồi dân gian hóa, hoặc được các tác giả có học thức tu bổ, hiệu
chỉnh lời ca dân gian nên có nhiều điển tích biểu hiện tri thức thâm thúy.
Nguyễn Du ở lứa tuổi trưởng thành là một chàng trai tầm thước, thanh lịch có
duyên thầm. Trong nhiều lần cùng mẹ đẻ Trần Thị Tần về thăm quê ngoại, anh
không thể không lay động trước những lời ca tâm tình nơi thôn dã, nhất là bản
thân mình sớm phải trải qua đau thương mất mát...và lẽ sống thường nhật lại dồn
nén, gợi mở, lôi kéo anh vào cuộc sống lễ hội dân gian:
Nay mừng dân mở tiệc quỳnh
Lễ bày tiên thánh, lễ nghinh xướng tùy.
Đôi tôi thực đấng nam nhi
Bây giờ tôi chúc một khi thọ trường
Mừng người thọ khảo vô cương
Bình an dân sự, ấm yên cửa nhà...(1)
Đặc biệt, trong dân ca quan họ Bắc Ninh có rất nhiều bài hát do các Nho sĩ
bình dân sáng tác rồi dân gian hóa, hoặc được các tác giả có học thức tu bổ, hiệu
chỉnh lời ca dân gian nên có nhiều điển tích biểu hiện tri thức thâm thúy:
Lâm Truy chút ngãi đèo bòng
Hỏi người còn nhớ hay lòng đã quên
Chữ chung tình gánh nặng đôi bên
1
2. Dưới dòng nước chảy, đôi bên có cầu
Có lòng hạ cố đến nhau
Thầm trông trộm nhớ đến nhau đã nhiều.
Những là đắp nhớ dội sầu
Tuyết sương nhuộm nửa mái đầu hoa râm.
Ngày thì luống những âm thầm
Đêm nằm ít cũng tám, chín, mười lần...chiêm bao.
Giả thiết rằng lời ca trên đã ổn định nội dung phản ánh từ trước khi Nguyễn
Du sáng tác truyện Kiều, với câu cuối là lục bát biến thể thì rõ ràng là tác giả dân
gian đã biết đến câu chuyện trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài nhân.
Sau này trong Truyện Kiều, đoạn nói về Thúy Kiều bị bọn Khuyển, Ưng theo
lệnh Hoạn Thư đốt nhà, lừa đẩy xác người vô chủ vào nơi ở của Thúy Kiều, vu
tin nàng Kiều đã chết cháy cho Thúc Sinh biết, rồi ngầm bắt Thúy Kiều về hành
hạ Nguyễn Du có vết:
Cửa người đày đọa chút thân
Sớm lăn nỉ bóng, đêm ân hận lòng.
Lâm Truy chút nghĩa đèo bòng
Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau.
Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.
Lần lần tháng trọn ngày qua
Nỗi gần nào biết đường xa thế này
Lâm Truy từ thuở uyên bay
Phòng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân
(Câu 1783 - 1792)
Và đến đoạn nhờ ân uy Từ Hải, Thúy Kiều báo ân báo oán
Khi Vô Tích khi Lâm Truy
Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương
Tấm thân rày đã nhẹ nhàng
Chút còn ân oán đôi dường chưa xong.
Từ công nghe nói thủy chung
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng
2
3. Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.
Ba quân chỉ ngọn cờ đào
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy.
(Câu 2291 - 2300)
Những bài ca quan họ day dứt nỗi niềm tâm sự của một người con gái nông
thôn vùng trung du Bắc Bộ:
Cầu Ô chín thước vật thường
Tìm nơi kiếm chốn, tìm đường giả ơn.
Mưa sầu gió thảm từng cơn
Lấy ai chắc phận thờn bơn mọi bề.
Lấy ai giải tấm lòng quê
Lấy ai đội đức từ bi chuyên cần.
Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần
Chạnh niềm tưởng nhớ Châu Trần thuở xưa
Dãi dầu kể mấy nắng mưa
Thề sai, nguyệt lặn bấy giờ cậy đâu?
Xem chiều khác mặt thêm sầu
Chim kia đón gió, rồng chầu đợi mưa.
Truyện cổ dân gian Kinh Bắc kể về mối tình Trương Chi - Mị Nương, đôi
trai gái yêu nhau tha thiết, nhưng bị lễ giáo ngăn trở hai người không lấy được
nhau như lời hẹn ước. Cô gái chết, hiện hình vào cốc nước hàng ngày quấn quýt
với người yêu. Ca dao vùng đất cổ Bắc Ninh đã tạc vào bia miệng:
Ngày xưa có anh Trương Chi
Người thì thật xấu hát thì thật hay
Thì trong truyên Kiều khi phải bán mình chuộc cha, Thúy Kiều có lời nhờ
Thúy Vân thay mình giữ lời thề nguyền nguyện ước với Kim Trọng:
Biết bao duyên nợ thề bồi
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan
(Câu 705-710)
3
4. Trở lên đoạn đầu trong truyện Kiều, khi Nguyễn Du miêu tả chị em Thúy
Kiều - Thúy Vân đi tảo mộ nhân dịp tiết Thanh Minh, lúc ra về:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối gềnh bắc ngang (2)
(Câu 51 - 56)
Tìm trong kho tàng vốn cổ lời ca quan họ Bắc Ninh, thấy có bài hát giọng bỉ
ở Bồ Sơn xưa:
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người
Nhớ câu quan họ nhớ lời ca nay.
Tà tà bóng ngả về tây
Ai ơi có thấu thảm này cho không?
Trót qua sông tôi phải lụy thuyền
Bởi chưng trời tối nhân duyên hững hờ
Năm 1786, nghĩa quân Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà. Năm 1789
Nguyễn Huệ đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh đang xâm lược Đại Việt.
Nguyễn Du chạy theo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không kịp. Đoàn
Nguyễn Tuấn hợp tác với Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại. Lúc này mặc dù vợ
đã mất, Nguyễn Du lại về ở quê ngoại Thái Bình một thời gian nữa. Tháng mười
năm 1791 anh thứ tư cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh bị giết
do chống quân Tây Sơn. Dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị quận Tây
Sơn phá hủy. Hai năm sau (1793), Nguyễn Du về thăm quê cha đất tổ Tiên Điền.
rồi vào kinh đô Phú Xuân thăm anh trai là Nguyễn Đề và anh vợ là Đoàn Nguyễn
Tuấn đang làm quan thái sử ở viện cơ mật. Năm Giáp Dần (1794), Nguyễn Đề
được thăng Tả phụng nghi bộ Binh, giữ chức Hiệp tán nhung vụ tại Quy Nhơn.
Năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long,
năm 1796 về nước được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.
Cuối năm 1796 Nguyễn Du định tâm lẻn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh, bị
Quận công Nguyễn Thận phát hiện và bắt giam ở Nghệ An ba tháng. Khi được
tha Nguyễn Du về ở Tiên Điền trên dưới 5 năm. Năm 1802 Gia Long diệt nhà
Tây Sơn, Nguyễn Du được bổ chức làm quan tri huyện Phù Dung, phủ Khoái
Châu, trấn Sơn Nam Hạ (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau Nguyễn Du
được thăng chức tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội).
Năm 1803 Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan đón tiếp sứ nhà Thanh sang
4
5. phong sắc cho vua Gia Long. Năm 1805 Nguyễn Du được thăng Đông các đại
học sĩ, tước Du Đức hầu tại Phú Xuân. Năm 1807 Nguyễn Du được cử làm giám
khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808 Nguyễn Du xin nghỉ việc
về quê. Năm 1809 Gia Long lại triệu Nguyễn Du, bổ chức cai bạ Quảng Bình.
Năm 1813 Nguyễn Du được thăng Cần chánh điện đại học sĩ và được cử làm
chánh sứ, trong đoàn đi sứ nhà Thanh. Về nước năm 1814 Nguyễn Du được
thăng chức Hữu tham tri bộ Lễ. Năm 1816 anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên
quan đến vụ án cha con tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng
Nam.
Năm 1820 Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được
cử đi làm chánh sứ trong đoàn đi sứ nhà Thanh, đi báo tang và cầu phong. Được
vua cha và vua con tín nhiệm, tiến cử, nhưng chuyến đi chưa kịp khởi hành,
Nguyễn Du đã không gượng được với bệnh dịch, qua đời ngày mồng 10 tháng
8 năm Canh Thìn (tức ngày 16 tháng 9 năm 1820), hưởng thọ 54 tuổi. Thi hài
Nguyễn Du được hung táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên.
Năm 1824 di cốt của Nguyễn Du được cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh).
Có thể thấy tư tưởng trung quân ái quốc, giá trị phản ánh hiện thực đa dạng,
phong phú biểu hiện khá rõ trong hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Du. Mặt khác
do bản thân sinh trưởng trước tuổi 40 ở đất Bắc - chủ yếu là Thăng Long, Bắc
Ninh và Thái Bình xưa nên mọi hướng phát triển tư duy, đào tạo cơ bản theo
chương trình Nho giáo "chuẩn kinh đô"- Thăng Long và Bắc Ninh - một vùng
trung du- đồng bằng Bắc Bộ có bề dầy truyền thống. Và văn hóa một vùng biệt
lập là ruộng đồng "thẳng cánh cò bay với hai loại biển, biển Đông và biển lúa" đã
góp phần tạo nên một nhân cách văn hóa lớn trong người con ưu tú của miền
Trung máu lửa. Với học vị ở bậc "tam trường" - tương đương với 12/12 hiện nay;
nhưng Nguyễn Du đã sống và thể hiện khá rõ tâm tình, chi hướng yêu nước
thương dân. Hoài niệm với nhà Lê, không ra mặt, nhưng bất hợp tác với phong
trào nông dân Tây Sơn, Nguyễn Du vẫn một niềm tìm cơ hội góp phần trị nước
an dân, chấp nhận làm quan cho nhà Nguyễn, mong sao có được một xã hội "thái
bình thịnh trị". Từ năm 1796, Nguyễn Du quyết đi theo tiếng gọi thống nhất đất
nước của nhà Nguyễn, và từ năm 1802, Nguyễn Du thỏa nguyện ý mình, song
dường như ông vẫn đang băn khoăn suy tưởng điều gì chưa nói được, chưa làm
được. Tầm nhìn sâu rộng, nỗi cảm thông sâu sắc với đời sống lao động cực nhọc
của các tầng lớp nhân dân ntrong sáng tác truyện Kiều và Văn chiêu hồn; trong
thơ chữ Hán đều in đậm dấu ấn văn hóa, tri thức khoa học của khắp các miền quê
đất nước. Ở đó nếp sống văn hóa chuẩn mực Thăng Long, Kinh Bắc vẫn chiếm
phần vượt trội. Vai trò chuyển tải, truyền dạy từ lời ru của mẹ, đến nhiều nhiều
lần "thực địa tự nhiên"quê hương Bắc Ninh từ khi bập bẹ tập nói, tập cười...cùng
với những tình cảm ruột thịt, cùng với nhà Nho, anh rể Vũ Trinh... đều góp lại
trong tâm tưởng Nguyễn Du lúc bình sinh.
5
6. Chính sử Đại Nam thực lục đã chép về Nguyễn Du: "Du là người Nghệ An,
học rộng giỏi thơ, càng giỏi về quốc ngữ. Nhưng là người nhút nhát, mỗi khi ra
mắt vua thì sợ sệt không hay nói gì."(3)
Đại Nam liệt truyện chép tiểu truyện các
danh thần, vương gia, quan chức thời Nguyễn lại đánh giá: "Du là người ngạo
nghễ tự phụ, mà bề ngoài tõ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến, sợ hãi như không
nói được.(4)
Không nói và "nhút nhát" đã là bản chất của những bậc thiên tài,
nhưng với Nguyễn Du thì những điều thâm thúy tiềm ẩn trong hầu hết các tác
phẩm Hán Nôm đã chinh phục biết bao thế hệ, biết bao tộc người, biết bao tầng
lớp nhân dân lao động khiến ông còn sống mãi với lịch sử nhân loại; nhân loại đã
và đang tìm đến với Hà Nội, với Việt Nam để làm ăn và xây dựng; đến với Bắc
Ninh với xứ sở của dân ca quan họ, của đình, chùa, lễ hội, của những danh nhân
Kinh Bắc ngay từ thuở bình minh dựng nước.
(1) Dân ca quan họ Bắc Ninh, Nxb. Văn hóa, H, 1962
(2) Tất cả những câu trích truyện Kiều trong bài đều theo bản phiên âm, hiệu chú
của Bùi Kỷ- Trần Trọng Kim, Nxb, Tân Việt, H, 1952
(3) Đại Nam thực lục,Nxb. Giáo dục, H, 2007 - 2009
(4) Đại Nam liệt truyện, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2001
6
7. Chính sử Đại Nam thực lục đã chép về Nguyễn Du: "Du là người Nghệ An,
học rộng giỏi thơ, càng giỏi về quốc ngữ. Nhưng là người nhút nhát, mỗi khi ra
mắt vua thì sợ sệt không hay nói gì."(3)
Đại Nam liệt truyện chép tiểu truyện các
danh thần, vương gia, quan chức thời Nguyễn lại đánh giá: "Du là người ngạo
nghễ tự phụ, mà bề ngoài tõ ra kính cẩn, mỗi khi vào yết kiến, sợ hãi như không
nói được.(4)
Không nói và "nhút nhát" đã là bản chất của những bậc thiên tài,
nhưng với Nguyễn Du thì những điều thâm thúy tiềm ẩn trong hầu hết các tác
phẩm Hán Nôm đã chinh phục biết bao thế hệ, biết bao tộc người, biết bao tầng
lớp nhân dân lao động khiến ông còn sống mãi với lịch sử nhân loại; nhân loại đã
và đang tìm đến với Hà Nội, với Việt Nam để làm ăn và xây dựng; đến với Bắc
Ninh với xứ sở của dân ca quan họ, của đình, chùa, lễ hội, của những danh nhân
Kinh Bắc ngay từ thuở bình minh dựng nước.
(1) Dân ca quan họ Bắc Ninh, Nxb. Văn hóa, H, 1962
(2) Tất cả những câu trích truyện Kiều trong bài đều theo bản phiên âm, hiệu chú
của Bùi Kỷ- Trần Trọng Kim, Nxb, Tân Việt, H, 1952
(3) Đại Nam thực lục,Nxb. Giáo dục, H, 2007 - 2009
(4) Đại Nam liệt truyện, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2001
6