Mấy ý kiến với Văn Hữu Tuất - Tác giả viết Địa Phương Ký Làng Sơn Tùng, cháu xin ý kiến của chú về ý định của cháu muốn đem nhiệt tình của cháu viết về Địa phương Ký Làng Sơn Tùng của mình, chú thấy ý kiến đó rất hay rất quý, có nhiều ý nghĩa sâu sắc đối với các bậc Tiên Liệt các bậc Tiền bối các thế hệ đã quá cố cho cả hiện tại và có ích cho các thế hệ mai sau.
1. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập – Tự Do - Hạnh Phúc
--- ---
Thành phố Hồ Chí Minh
Mùa Thu, năm Bính Dần (tháng 08 năm 1986)
Mấy ý kiến với Văn Hữu Tuất - Tác giả viết Địa Phương Ký Làng
Sơn Tùng, cháu xin ý kiến của chú về ý định của cháu muốn đem nhiệt
tình của cháu viết về Địa phương Ký Làng Sơn Tùng của mình, chú thấy ý
kiến đó rất hay rất quý, có nhiều ý nghĩa sâu sắc đối với các bậc Tiên Liệt
các bậc Tiền bối các thế hệ đã quá cố cho cả hiện tại và có ích cho các
thế hệ mai sau.
“Chim có Tổ, người có Tông
Cây có gốc, sông có nguồn “
Tổ Tông cụ thể của mỗi người là quê hương mình, là nơi chôn
nhau cắt rốn của mình, của cha mẹ mình, của Giòng họ mình, của Tổ
Tiên mình, Quê hương là cái nôi mà Tổ Tiên của mỗi người trong làng
cùng sống với nhau từ cái thời bắt đầu dựng Làng giữ Nước nối tiếp từ
đời này qua đời khác, khi nhắc đến hai chữ “Quê-hương”, “tình quê” thì
lập tức thấy lòng mình xao động, tâm hồn bâng khuâng gợi lên bao kỷ-
niệm buồn vui thương nhớ, dù cho có người xa quê hương bao lâu, có
giữ những chức vụ quan trọng đến mấy, dù có giàu có sang trọng hay
nghèo rớt mồng tơi thế mà cũng ít người mất đi trong tâm hồn mình, trong
ký ức mình hai tiếng Quê Hương!!
Tổ Tiên chung của đồng bào Việt-Nam là các Vua Hùng kể từ ngày
dựng Nước, Tổ Tiên của mỗi người là những người đứng đầu giòng Họ
của mình, cái Họ gần nhất là cái Họ còn lại trong Làng mình, nhưng trong
thực tế ở rải rác trên đất nước ta lại có nhiều Họ cùng tên gọi là đồng Tộc,
nên khi gặp người có Họ cùng tên với Họ mình thì cảm nhận gần gủi thân
thiết lên trong lòng mình như người thân, ngay trong Làng Mình cũng có
nhiều Họ cùng tên đã sống quan hệ khắng khít với nhau trên nhiều
phương diện từ xưa rất đổi quen thân cho dù đi xa đến đâu hễ gặp nhau
là tay bắt mặt mừng. Như vậy người cùng Làng đã được xây dựng vun
đắp từ lâu qua nhiều thế hệ, đã hàng trăm năm cùng nhau lao động sản
xuất, cùng nhau xây dựng cuộc sống, tương trợ giúp nhau khi tối lửa tắt
đèn, khi hoạn nạn có nhau đồng cam cộng khổ, chia sẻ nổi buồn niềm
thương tiếc khi kẻ còn người mất.
Người xưa có nói: “Quốc dĩ Dân vi bản” nghĩa là Nước phải lấy
Dân làm gốc. Vậy dân ở nơi làng, nên hai chữ Làng và Nước đi đôi với
nhau, hễ nói đến Làng là nói đến Nước, nếu ai nói đến Nước mà quên nói
đến Làng là người không có gốc, nói Làng mà không nói đến Nước là
người không có Tổ Quốc là người không có hồn vậy. Làng là nền tảng
của Nước, Làng Sơn Tùng ta như một tế bào của Nước vậy phải tìm lại
Trường ca Ký Sự Trang 1
2. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
nguồn gốc Làng Sơn Tùng ta từ đâu đến, có tự bao giờ, trong quá trình
đó phát triển xây dựng ra làm sao về vật chất, về văn hóa, lao động sáng
tạo thế nào, sức lực trí tuệ đưa ra để chống những tai họa do thiên nhiên
gây ra, chống giặc ngoại xâm, chống nội phản để giữ Làng giữ Nước giữ
hạnh phúc cho từng gia-đình trong Làng và quan hệ tình bạn bè với các
Làng khác như: Đông-Lâm, Phổ-Lại, Vân-Căn, Lai-Trung, Đức-Trọng,
Thanh-Cần, Niêm-Phò, Nghĩa-Lộ, Đồng-Bào,… Ngay việc làm rõ những
Đình, Chùa, Miếu Vũ, đền Văn-Thánh, như Chùa làng ta, “Nam Thiên Đệ
Nhất Thị Sơn Tùng” cũng có nhiều ý nghĩa lắm chứ. Cách Mạng xóa đi sự
bóc lột áp bức dùng quyền hành đè nén kẻ khác, xóa bỏ những cái gì
thiếu văn hóa, mà áp bức đè nén cũng là hành động thiếu văn hóa, nhớ
rằng Cách Mạng bảo tồn những gì tốt đẹp lành mạnh mà sức lao động
của nhân dân đã xây dựng nên, do đó trong khi viết phải chú ý nói lên cái
đẹp, cái xấu nữa.
Viết Địa Phương Ký Làng mình mới nghe nói đã thấy thú vị, đã gợi
lên niềm xúc động quê hương, do đó chú rất hoan nghênh nhiệt tình và
sáng kiến của tác giả đầy nhiệt tình với Quê hương, Làng-xóm tuy nhiên
chú cũng thấy rằng hoàn thành được Địa Phương Chí cho Làng là khó
lắm, phải lao tâm khổ trí, phải bền gan bền chí, phải kiên trì sưu tầm tư
liệu và phải nhớ lại nhiều chuyện đã qua và phải tốn tiền bằng tự túc để
đạt đến mục đích, nguyện vọng có thể quyết tâm từ năm năm đến bảy
năm có hoàn thành được không? Còn về chú, chú sẽ tham gia những vấn
đề lớn vì mấy năm tới chú cũng bận lắm vì chú còn phải viết nhiều vấn
đề lớn khác của chú. Như vậy chú chỉ tham gia ý-kiến thôi còn tác giả hãy
giữ lấy bản quyền, hãy tự tin vì là việc chính đáng.
Bác Hồ, vị lãnh đạo của dân tộc Việt-Nam, của các dân tộc bị áp
bức trên thế giới, sau chiến thắng vĩ đại Đông-Xuân Điện Biên Phủ trên
đường từ chiến khu Việt-Bắc trở về Thủ-đô Hà-Nội khi đến núi Nghĩa-Lĩnh
nơi đền thờ các Vua Hùng, Bác Hồ đã dừng lại để bái yết đền thờ các
Vua Hùng từ Hạ đến Trung đến Thượng. Khi lên núi bái yết các Vua Hùng
xong Bác xuống lại dưới chân núi Nghĩa-Lĩnh Bác nói chuyện với bộ đội
thuộc Đại-Đoàn quân Tiên-Phong và nhân dân ở đó, Bác Hồ dặn rằng:
“Các Vua Hùng có công dựng Nước
Bác cháu ta phải có công giữ Nước ”
Lời dặn dò của Bác Hồ như một lời hịch Vĩ đại cho Dân tộc trong
đó có Làng mình, lời Bác chứa đựng tình cảm và lý trí sâu sắc của con
cháu Lạc Hồng đời đời giữ Nước và dựng Nước.
Uống nước nhớ nguồn
Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
Đời Bác Hồ là trường chinh Cách Mạng từ hồi còn trẻ cho đến khi
già, dù khi bôn ba 30 năm trời hải ngoại cho đến khi về trong nước, dân
tộc giao cho Bác chức trọng quyền cao thế mà bao giờ Bác cũng gắn
Trường ca Ký Sự Trang 2
3. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
đồng bào và bản thân làm một, quê hương đất nước làm một, tấm gương
tình cảm đạo đức trong sáng, lòng nhân hậu bao la, nhìn Bác Hồ để luôn
tự nhắc nhủ mình Quê hương, Tổ quốc, lý trí tình cảm gắn liền như một
thân thể.
Làng Sơn Tùng ta có thể có gần 700 năm mà nay viết Địa Phương
Chí Làng trong điều kiện mới là có giá trị, có ý nghĩa lắm và tỏ lòng tôn
kính các thế hệ Tiền bối.
Uống nước nhớ nguồn là người có đức
--- ---
Vân Hùng tức: Đoàn-Quang-Đáng
Hoàng-Thiên-Thành, Thành-Sơn, Đoàn-Văn
--- ---
“Sao y bản viết tay”
Trường ca Ký Sự Trang 3
4. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
HÙNG VƯƠNG DỰNG NƯỚC
--- ---
NƯỚC VĂN-LANG
Lạc-Long-Quân phong cho người con Trưởng sang làm Vua nước
Văn-Lang, xưng là Hùng-Vương.
Cứ theo sử cũ thì nước Văn-Lang chia ra là 15 bộ:
1. Văn - Lang : Bạch Hạt, Tỉnh Vĩnh-Yên
2. Châu - Diên : Sơn-Tây
3. Phúc - Lộc : Sơn-Tây
4. Tân - Hưng : Hưng-Hóa, Tuyên-Quang
5. Vũ - Định : Thái-Nguyên, Cao-Bằng
6. Vũ - Ninh : Bắc Ninh
7. Lục - Hải : Lạng-Sơn
8. Ninh - Hải : Quảng -Yên
9. Dương - Tuyền: Hải-Dương
10. Giao - Chỉ : Hà-Nội, Hưng-Yên, Nam-Định
- Ninh Bình
11. Cửu - Chân : Thanh-Hóa
12. Hoài - Hoan : Nghệ-An
13. Cửu - Đức : Hà-Tĩnh
14. Việt -Thường : Quảng Bình, Quảng Trị
15. Bình - Văn : (???).
--- ---
Theo Việt Nam Sử Lược
Trường ca Ký Sự Trang 4
5. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
THẬP TỨ TÔN– PHÁI
--- ---
Tài liệu Thập Tứ Tôn Phái (mười bốn Giòng họ Sơn Tùng) nhờ
Huế dịch lại vào mùa Hạ năm Kỷ Tỵ (1989) tài liệu có từ “ Tuế Thứ Tân-
Tỵ Niên Bát Nguyệt Sơ Thập Nhật Cư Ý ” (ngày mồng mười tháng 8 năm
Tân Tỵ - 1461).
(Triều Lê-Thánh-Tôn 1460 - 1497
Niên hiệu Quang Thuận, Hồng Đức)
--- ---
Sau chiến tranh những tài liệu thành văn, những di tích của Sơn
Tùng đều bị thiêu hủy theo Chùa làng đêm 25 tháng 2 năm Kỷ-sửu
(1949), còn có thể duy nhất một tài liệu bằng giấy bổi viết bằng Hán Tự .
Tài liệu này được chú Văn Hữu Đối trích ra một ít để ghi thành văn Chánh
Tế Sơn Tùng sau chiến tranh kết thúc (hiện làng ta Sơn Tùng đang dùng
văn nầy, bản sao trích một nửa Hán nửa Việt còn để lại làng, chú Hồ-
Duyệt giữ (Vào thời điểm này -02.2001- Chú Hồ Duyệt đã mất và hiện
đang để ở nhà thờ do chú Hồ Lập cất giữ). Bản chính anh Văn Hữu Tuệ
sau khi nhờ sao dịch đã thỉnh trở lại làng để vào Mục Lục Phổ Ý nhà thờ
họ Văn
Kính Tiên Linh Tiên Tổ, niệm tình tha thứ, thông cảm cho tấm lòng
nguyện thành của con cháu quê hương Sơn Tùng nếu dịch viết có sai sót,
vì trình độ con dân có hạn.
Kính-Bái
Trường ca Ký Sự Trang 5
6. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
TUÂN-PHỤNG
--- ---
Như Lai di Giáo Đệ Tử
Pháp danh: Thông Huy
Hữu-Đệ Tử, Pháp danh: Thông Huy
Tấu vị Đại-Việt-Quốc, Thuận-Hóa xứ, Triệu-Phong phủ, Quảng-Điền
huyện, Sơn Tùng xã
Sắc Tứ Sơn Tùng Tự, Trú-Phụng
Phật: Kim hội chủ
Hồ-Hữu-Triều Hương qua
Hồ- Hữu-Khoa
Đoàn-Viết-Xuân
Hồ -Hữu-Điệp
Văn-Hữu-Dung
Hồ -Hữu-Nguyên
Hồ-Hữu-Đinh
Hồ -Hữu-Thiêm
Hồ-Hữu-Châu
Đoàn -Viết-Lũy
Hồ-Hữu-Chi
Hồ -Hữu-Di
Văn-Hữu-Liên
Hồ -Hữu -Kiêm
Hồ-Công-Nguyên
Hồ -Hữu-Khánh
Đoàn-Viết-Dưỡng
Hồ -Hữu-Môn
Hoàng-Thế-Miễn
Văn -Hữu-Phận
Hồ-Hữu-Hoán
Văn-Hữu-Lập
Hồ-Công-Thuyên
Văn-Hữu-Thế
Hồ-Hữu-Dung
Đoàn-Viết-Tinh
Hồ-Hữu-Lâu
Đoàn-Văn-Lông
Đoàn-Viết-Lợi
Hồ-Hữu-Ký
Hồ-Hữu-Tính
Đoàn-Viết-Liêm
Đoàn-Viết-Ư
Hồ-Công-Bình
Đoàn-Viết-Nhiêu
Hồ-Hữu-Hàn
Đoàn-Viết-Duyên
Văn-Hữu-Sơn
Văn-Hữu-Nhơn
Văn-Hữu-Sương
Đoàn-Viết-Luận
Văn-Hữu-Đạo
Văn-Hữu-Hát
Đoàn-Viết-Diên
Đoàn-Viết-Triệu
Hồ-Hữu-Thành
Hồ-Hữu-Trân
Hồ-Hữu-Ta
Hồ-Hữu-Trà
Nguyễn-Hữu-Hát
Hồ-Hữu-Lương
Hồ-Hữu-An
Văn-Hữu-Dương
Hồ-Văn-Kết
Văn-Hữu-Biểu
Hồ-Hữu-Đố
Văn-Đỉnh-Khuông
Hồ-Công-Au
Văn-Hữu-Súng
Hồ-Hữu-Phước
Văn-Hữu-Trị
Văn-Hữu-Lãnh
Hồ-Hữu-Tích
Hồ-Hữu-Manh
Đoàn-Văn-Đốn
Văn-Hữu-Triều
Hồ-Hữu-Đạo
Hồ-Hữu-Hoa
Hồ-Công-Nhiêm
Đoàn-Viết-Vạn
Hồ-Hữu-Tri
Trường ca Ký Sự Trang 6
7. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
Hồ-Hữu-Nghĩa
Đoàn-Viết-Chánh
Đoàn-Viết-Sử
Đoàn-Viết-Các
Đoàn-Viết-Xác
Hồ-Hữu-Đô
Văn-Hữu-Triệt
Đoàn-Viết-Nhật
Đoàn-Viết-Hát
Hồ-Hữu-Trân
Nguyễn-Hữu-Hoa
Hồ-Hữu-Đoàn
Văn-Hữu-Tuấn
Đoàn-Hữu-Hàn
Hồ-Hữu-Huệ
Hồ-Hữu-Phước
Hợp chân quan các chức toàn xã Đại biểu đẳng.
Trường ca Ký Sự Trang 7
8. PHỤC-VỊ
--- ---
Pháp giới hữu tinh, đại khai tân tế ngôn niêm hư tịch linh không ứng
hiển thanh dung chi quả, Đẳng trúc Pháp dung ngôn bạch điệp chi truyên nhiên
Hán-Minh-Đế mộng kiến Kim Tương Như Lai, nhân vĩnh ương cát lập đơn đài
tích xá quảng khai giáo hóa phổ lợi quần sinh, minh minh phật nhật lịch chi
Vương Triều dĩ lãng tuệ đăng vĩnh truyền ư thế.
Thiết-Kiến Bổn Xã “Sắc Tứ Sơn Tùng Tự”
Nguyên do Cổ-tích danh lam, đời Ô Miên ư Giáp-Tuất niên Thập Nhị-
Nguyệt nhị thập bát nhật At thời thượng lương tạo tự.Trang vọng Phật tương
đáo điện linh lung liên tọa liên đài nguy nga mỹ thể khí trầm bạch lạp, quả cúng
thanh tiêu tưởng thực như ngọc giáng, thù tạc vô biên chi vật nguyên tự đại
kim liên bửu thọ hữu cảm giai thông sự truyền dương duyên lương vũ chi
truyền pháp di giáo huyền quang sở thọ ngoại tạo tam khai chế độ nội tu tứ cố
bức tường chi có bông hoa quả kiêm vi Tam bảo điêu trù tố diên tích liệt vĩ
thanh đơn nhàn lộ trần nhi khánh cẩn thử kim nguyệt sơ cửu nhật.
HẠNH-PHÙNG
--- ---
Thu thiên chánh tiết các nhật lương thời phục mạng đệ-tử: Thông Huy
tựu vu phạm vũ. Sùng kiến Trùng tu ai tương khai quang điểm nhãn, khánh tán
chẩn tế Cô hồn pháp hội ngũ nhật dạ.
Tuyên Lễ: Từ Bi lương hoàn Bửu sám.
Đảnh Lễ: Vạn đức năng nhân tập thử thu huân danh chư công
đức chi thập tam nhật muội sản dĩ tiền đại thân mãn tán.
Bằng-Từ: Cư tranh hàm thế phổ tế chi nhơn ngưỡng hà Hồng ân
công trí khang ninh chi phước. Tứ ân tam hữu hô hương quân Triêm lục đạo tứ
sinh cọng thừa đôn ngộ.
Cung-Thỉnh: Thập phương chư Phật, chư vị Bồ - Tát kiên liên
tọa hạ.
Diên-Phụng: Tam giới Tứ phủ vạn linh, Hộ-Pháp Long Thiên,Già
Lam chơn tể, đồng tư nhất thiên cọng giáng cát tường.
Phục-nguyện: Phật nhật vĩnh lam, thành môn trấn tỉnh thần
phong trường phiến tảo trừ yêu khí dĩ thanh minh, Sử xứ xứ dĩ hồi tâm khuyến
nhân nhân nhi thành đạo niên niên tăng bách phước, nhật nhật thọ trường
sinh.
9. Cảnh dực: Môn danh vinh hiển toàn xã thừa phúc âm cảm tưởng
hộ cô phú nhiểu thương thương hưởng phong lưu thiên tải, lục súc đa đa bả
mỷ bách khoan niên niên phong đăng khoa hoạn tự thủ đôn tiêu cát tường
trùng tứ bỉnh cập thi kỳ.
PHỐI TIẾN
--- ---
Tiền Bổn Thổ Khai khẩn
Hậu Bổn Thổ Khai khẩn
Phục Vị: Bổn thổ Hồ-Quý-Tướng Tôn Thần.
Phục Vị: Hộ Bộ Thượng Thư Hồ-Quý-Công Tôn Thần.
Phục Vị: Bổn Thổ Câu Kê Hồ-Thu-Hảo Quý Công Tôn thần.
Phục Vị: Bổn Thổ Xã-Trưởng Hồ-Công-Nhuận Đại-Lang Tôn Thần.
Tiền Bổn Thổ Khai canh
Hậu Bổn Thổ Khai canh
Phục Vị: Cao Cao Cao Cao Tổ An-Định-Quận Hổ-Công-Hảo Đại-Lang.
Phục Vị: Thượng Cao Cao Cao Cao Tổ An-Định-Quận Hồ-Thiện-Đào Đại-
Lang
Phục Vị: Cao Cao Cao Tổ: Hồ-Thiện-Trám Đại-Lang
Cao Tổ- Khảo: Hồ-Báo-Liệu Đại-Lang
Hồ-Bá-Xuân Đại-Lang
Phục Vị: Cao Cao Cao Tổ Nhạn-Môn-Quận Văn-Hữu-Diễn Đại-Lang.
Phục Vị: Cao Cao Cao Tổ Trần-Lưu-Quận Nguyễn-Nô Đại-Lang.
Nguyễn-Thế- Ái Đại-Lang
Phục Vị: Thượng Cao Cao Cao Cao Tổ khảo Kinh-Triệu-Quận Đoàn-Hữu-
Lễ Đại-Lang.
Phục Vị: Cao Cao Tổ Kinh-Triệu-Quận Đoàn-Phúc-Khang Đại-Lang.
Phục Vị: Cao Cao Tổ Kinh-Triệu-Quận Đoàn-Nhơn-Thọ Đại-Lang, Đoàn
Viết Chinh Đại-Lang, Đoàn Viết Lịch Đại-Lang.
Phục Vị: Cao Cao Tổ An-Định-Quận Hồ-Hữu-Vĩnh Đại-Lang.
Phục Vị: Cao Cao Tổ Hoàng-Hữu-Quãng.
Phục Vị: Cao Cao Tổ An-Định-Quận Hồ-Hữu-Quãng Đại-Lang.
Phục Vị: Cao Cao Tổ Kinh-Triệu-Quận Đoàn-Viết-Chinh Đại-Lang,
Phục Vị: Cao Cao Tổ Kinh-Triệu-Quận Đoàn-Viết-Lịch Đại-Lang,
Phục Vị: Cao Cao Tổ An-Định-Quận Hồ-Hữu-Ngưu Đại-Lang.
Phục Vị: Kinh-Triệu-Quận Tòng Quân Long Vũ-Thuật Tín Đức-Bà Đoàn
Phúc Hòa Nhất-Lang.
10. Phục Vị : Đặc Tiền Phụ-Quốc Cẩm Y Thuật, Thượng Tướng Quân Đô-chỉ-
huy Sứ Kiêm Cai Tri Phó-Tướng, Tòng-Quân Long-Vũ-Thuật
Danh Phương Tử Đoàn-Phúc-Triêm.
Phục Vị: Cao cao Tổ An-Định-Quận Hồ-Công-Nhỉ Đại-Lang.
Cao-Tổ : Hồ-Kiềm Đại-Lang
Tằng-Tổ : Hồ-Công-Đợt Đại-Lang
Cố-Tổ : Hồ-Chinh Đại-Lang
Hiển-Khảo: Hồ-Nhân-Phước Đại
Lang.
Hồ-Hữu-Thủ Nhất Lang
Hồ-Hữu-Lưỡng Nhất Lang
Hồ-Hữu-Đắc
Hồ-Hữu-Thỉnh Tam Lang
Hồ-Hữu-Cai Nhất Lang
Hồ-Hữu-Dựng Nhất Lang
Hồ-Hữu-Ngọ Tam Lang
Hồ-Hữu-Nhiểm
Hồ-Hữu-Cai
Hồ-Hữu-Ny
Hồ-Hữu-Bảng Đại Lang
Hồ-Hữu-Tiêu Nhất Lang
Hồ-Thiện-Đại
Hồ-Hữu-Trọng Tứ Lang
Hồ-Hữu-Nạp Nhị Lang
Hồ-Hữu-Hội Nhị Lang
Hồ-Hữu-Ý Nhị Lang
Hồ-Phước-Hữu
Hồ-Hữu-Lộc
12. Hồ-Hữu-Khuông Nhất Lang
Phục-Vị: Cao Tằng Tổ-Khảo Hồ-Công-Minh
Cố-Hiển Tổ Hồ-Cao-Uy
Hiển-Tổ Hồ-Cao-Đài
Hồ-Cao-Sỹ
Hồ-Phước-An
Hồ-Thu-Tình
Hiễn-Khảo Hồ-Công-Chỉ
Hồ-Phước-Dần
Hồ-Phước-Thuần
Hồ-Phước-Khang
Hồ-Công-Quý
Hồ-Công-Toàn
Hồ-Phước-Phú
Hồ-Công-Tiến
Hồ-Phước-Triêu
Hồ-Phước-Ninh
Hồ-Phước-Đại
Hồ-Phước-Quang
Hồ-Công-Đố
Hồ-Công-Ý
Hồ-Hữu-Đặc
Hồ-Phước-Ai
Hồ-Hoa-Cảnh
Hồ-Hữu-Phú
Hồ-Hữu-Cam
Hồ-Thu-Thành
Hồ-Phước-Tú
Hồ-Công-Đại
Hồ-Hữu-Lại
Hồ-Hữu-Mạnh
Hồ-Phước-Lộc
Hồ-Phước-Vinh
Hồ-Thu-Tài
Hồ-Phước-Lân
Hồ-Phước-Sắc
Hồ-Thu-Tường
Hồ-Hữu-Duyên
Hồ-Đình-Chất
Hồ-Phước-Thiêm
Hồ-Công-Phu
Hồ-Phước-Trực
Hồ-Hữu-Sum
Hồ-Công-Anh
Hồ-Hữu-Nông
Hồ-Thu-Tín
Hồ-Thu-Bình
Hồ-Phước-Dương
Hồ-Phước-Hoa
Hồ-Hữu-Độ
Hồ-Phước-Sinh
Hồ-Công-Trụ
Hồ-Thu-Tước
Hồ-Thu-Võ
Hồ-Công-Trì
Hồ-Hữu-Sơ
Hồ-Phước-Minh
Đặc tiền Phụ Quốc Cẩm-Y thuật Thượng Tướng Quân Đô-Chỉ-huy Sứ,Ty
Đô-Chỉ-huy Sứ kiêm Cai-Tri Đốc xuất Tân Nhất Thuyền Đô-Tài-Hầu, Hồ-
Quý-Công.
Đặc Tiền Phụ-Quốc Cẩm Y Thuật Thượng Tướng Quân Đô-Chỉ-Huy-Sứ
kiêm Cai Phủ Đốc-Xuất Tân Nhất Thuyền Trạch-Tài Hầu Hồ-Quý-Công.
Đặc Tiền Phụ Quốc Cẩm-Y thuật Thượng Tướng Quân Đô-Chỉ-Huy Sứ,
kiêm Thử Nội Khố Tân Nhất Thuyền Khôi Nguyên
Tử Hồ-Hữu-Tâm
Hồ-Thu-An Nhất Lang
Hồ-Hữu-Kế Tam Lang
Hồ-Hữu-Thọ Nhị Lang
Hồ-Hữu-Phương Nhất Lang
Hồ- Thu-Chu Nhị Lang
13. Hồ-Hữu-Có Nhất Lang
Hồ-Thu-Truyền Nhất Lang
Hồ-Hữu-Kiên Nhất Lang
Hồ-Hữu-Ai Nhất Lang
Tòng Quân Tân-Định-Thuyền Hào Lương Bá Hồ-Hữu-Xạ Tam Lang, Hồ-
Hữu-Biệt Nhất Lang.
Tòng Quân Chí Nhị Thuyền Vị Tứ Bá Hồ-Hữu-Cãi Tam Lang Huyên Thư
Ký Hồ-Công-Hội Nhất Lang
Quan Chơn-Tôn Hồ-Hữu-Lê Quý Lang.
Tòng Quân Chí Nhất Thuyền Thanh Long Bá Hồ-Hữu-Quang Quý Lang.
Huệ Tín Đại Phu Quang-Lộc Thừa Thừa, Thừa Tri Huyện Thuận Đức
Nam
Hồ-Hữu-Sinh Quý Công
Hồ-Hữu-Giáo Nhất Lang
Hồ-Hữu-Nỵ Nhất Lang
Hồ-Hữu-Đằng Nhị Lang
Hồ-Thu-Đản nhị Lang
Hồ-Hữu-Trí Nhất Lang
Hồ-Hữu-Cố Tam Lang
Hồ-Hữu-Ý Quý Lang
Tòng Quân Tân Nhất Thuyền Huy Võ Bá Hồ-Hữu Viên Nhất Lang
Tòng Quân Thạch-Bình Thuyền Thanh-Long Bá Hồ-Hữu-Ma Tam Lang,
Hồ-Hữu-Đỗ Nhị Lang.
Quan- Chơn-Tử Hồ-Công-Di Tam Lang, Hồ-Công-Ứng Nhất Lang.
Tòng Quân Tân Nhất Thuyền Tuyển Tài Bá Hồ-Hữu-Vệ Nhất Lang
Tòng Quân Tân Nhất Thuyền Trùng-Cầm-Bá Hồ-Hữu-Chinh Nhất Lang
Hồ-Hữu-Hiên Nhị Lang
Hồ-Hữu-Bỉnh Tam Lang
Hồ-Hữu-Nhi Nhị Lang
Hồ-Hữu-Nhơn Nhất Lang
Hồ-Hữu-Thiêm Quý Lang
Hồ-Hữu-Thành Quý Lang
Hồ-Hữu-Lưỡng Tam Nhị Lang
Hồ-Hữu-Sai Quý Lang
Tòng Quân Tân Nhất Thuyền Thế Tài Bá Hồ-Hữu-Bình Quý Lang
Tòng Quân Tân Nhị-Thuyền Phù-Sơn-Bá Hồ-Hữu-Chế Nhất Lang
Quan Chơn Tôn Hồ-Công-Bá Nhị Lang, Hồ-Hữu-Đạo Nhất Lang
Tòng Quân Thạch-Bình Thuyền Trường-Sơn-Bá Hồ-Hữu-Luật Nhị Lang
Hồ-Hữu-Giá Quý Lang
Hồ-Hữu-Sỹ
Hồ-Hữu-Cửu
Hồ-Hữu-Vy Tứ Lang
Hồ-Hữu-Triệu
Hồ-Hữu-Thỏa
14. Phục-Vị: Thượng Cao Cao Cao Tổ Danh Nhạn-Môn-Quận
Văn-Hữu-Diễn Đại Lang.
Cao Cao Tổ Văn-Cẩm Đại Lang
Tằng-Tổ Văn-Sỹ-Phòng Nhất Lang
Cố-Tổ Văn-Sỹ-Phiên Nhất Lang
Hiển-Tổ Văn-Quyển Nhất Lang
Văn-Phú Nhất Lang
Văn-Lư Nhất Lang
Văn-Tất-Dũng Tam Lang
Văn-Lô Nhất Lang
Văn-Tất-Đắc Nhất Lang
Văn-Ngọc-Châu Đại Lang
Văn-Hữu-Đệ Nhị Lang
Văn-Hữu-Hạo Nhất Lang
Văn-Hữu-Long Nhất Lang
Văn-Hữu-Sức Nhất Lang
Văn-Phì Nhất Lang
Văn-Tư Nhất Lang
Văn-Tất-Chỉ Nhất Lang
Văn-Đô Nhất Lang
Văn-Hữu-Đức Nhất Lang
Văn-Trọng-Nghĩa Đại Nhất Lang
Văn-Hữu-Vy Nhất Lang
Văn-Khả-Nãi Nhất Lang
Văn-Ích-Lợi Nhất Lang
Văn-Hữu-Hiếu Nhất Lang
Chí Nhất-Thuyền Thứ-Đội-Trưởng Đốc-Suất Tô-Sơn-Bá : Văn-Quý-Công.
Tòng-Quân Chí Nhất Thuyền Kiêm Cai Khố Thủ Tào Vu, Như-Đức-Bá
Văn-Quý-Công
Tân-Định-Thuyền Thứ Đội-Trưởng Đốc-Suất Kiêm Cai Tri Khương Lộc
Tử Văn-Quý-Công.
An Nhất Thuyên Thứ Đội-Trưởng Đốc-Suất Kiêm Cai Khố Thuần Đức Bá
Văn-Quý-Công.
Tòng-Quân Chí Nhất Thuyền Thứ Đội-Trưởng Nhung Càn Sơn Bá Văn-
Quý-Công
Văn-Hữu-Nạp Nhất lang
Văn-Thanh-Kiều Nhị Lang
Văn-Ích-Thiện Nhất Lang
Văn-Hữu-Lực Tứ Lang
Văn-Xung-Hoa Nhất Lang
Văn-Hữu-Sai Tứ Lang
Văn-Hữu-Tài Nhất Lang
Văn-Hữu-Lộc Nhị Lang
Văn-Hữu-CôngTam Lang
Văn-Hữu-Cốc
Văn-Hữu-Nhử Nhất Lang
Văn-Hữu-Danh Tứ Lang
Văn-Hữu-Nghĩa Nhất Lang
Văn-Hữu-Ân Nhất Lang
Văn-Hữu-Giao Nhất Lang
Văn-Hữu-Điều Nhất Lang
Văn-Hữu-Võ Nhị Nhất Lang
Văn-Ngọc-Châu Nhất Lang
Tòng-Quân Bả Hiệp-Thuyền: Văn-Hữu-Ai
Văn-Nhất-Thích Nhất Lang
Văn-Hữu-An
Văn-Hữu-Toái Nhị Lang
Văn-Hữu-Luận
Văn-Hữu-Nỵ Nhất Lang
Văn-Hữu-Mẩn Nhất Lang
Văn-Hữu-Suất Tứ Lang
Văn-Hữu-Bình Nhị Lang
Văn-Hữu-Bổ Nhất Lang
Văn-Hữu-Hoàng
Văn-Hữu-Khoa
Văn-Hữu-Quế
Văn-Hữu-Kiềm
Văn-Hữu-Toái
Văn-Hữu-Cai
Văn-Hữu-Đàn
15. Văn-Hữu-Bi
Văn-Hữu-Chỉ Nhị Lang
Văn-Hữu-Quãng
Văn-Hữu-Trường Nhất Lang
Văn-Hữu-Lôn Quý Lang
Văn-Hữu-ý Nhị Lang
Văn-Hữu-Diệp Nhất Lang
Văn-Hữu-My Tam Lang
Văn-Hữu-Lãng
Văn-Hữu-Tốt
Văn-Hữu-Dã Nhất Lang
Văn-Hữu-Hứa Nhị Lang
Văn-Hữu-Ta
Văn-Hữu-Thâm
Văn-Hữu-Lẫm
Văn-Hữu-Nôi
Văn-Hữu-Lữ
Tòng Quân Bả Hiệp Thuyền: Văn-Hữu-Yêu
Văn-Hữu-Ty
Văn-Hữu-Điểm
Văn-Hữu-Phán
Văn-Tất-Giai Nhất Lang
Xã-Trưởng: Văn-Phước-Thành Nhất Lang
Văn-Hữu-Mỹ
Văn-Chiêm-Bảng
Văn-Hữu-Phòng Nhị Lang
Văn-Hữu-Lăng Nhất Lang
Văn-Hữu-Đông Nhị Lang
Văn-Hữu-Mẫn
Văn-Hữu-Hài
Văn-Hữu-Thọ
Văn-Hữu-Thời
Văn-Hữu-Trà Nhất Lang
Văn-Hữu-Thu Nhất Lang
Văn-Hữu-Thời
Văn-Hữu-Trí Nhất Lang
Văn-Hữu-Hiền Nhất Lang
Văn-Tất-Thắng Nhị Lang
Văn-Hữu-Thiên Nhị Lang
Văn-Hữu- Ngôn Nhị Lang
Văn-Phước-Điền Tam Lang
Văn-Hữu-Quý
Văn-Hữu-Khâm
Văn-Hữu-Hiếu
Văn-Hữu-Thái
Văn-Hữu-Tường Nhất Lang
Văn-Hữu-Quan Nhất Lang
Văn-Tất-Đắc
Văn-Hữu-Lập
Văn-Hữu-Lãng Quý Lang
Văn-Hữu-Đơn Nhị Lang
Tòng Quân Tân Nhất Thuyền Thiêm Sơn-Bá: Văn-Hữu-Tặng Tam Lang
Văn-Hữu-Chuyết Quý Lang
Văn-Hữu-Thể Nhất Lang
Văn-Hữu-Hán Quý Lang
Văn-Hữu-Yêm Nhị Lang
Văn-Hữu-Trinh Nhất Lang
Văn-Hữu-Duyên Nhị Lang
Văn-Hữu-Tuyển
Văn-Hữu-Đầu
Văn-Hữu-Lợi
Văn-Hữu-Lộc
Văn-Hữu-Uy
Văn-Hữu-Hốt
Khiếu danh Ông Lân
Lê-Văn-Chấn ?
Lê-Văn-Mãn ?
Lê-Văn-Nhiêu ?
Lê-Văn-Niệm ?
Khiếu danh Ông Y
Lê-Văn-Vỵ
Văn-Tú-Tài Nhất Lang
Khiếu danh Thượng Bi
Văn-Hữu-Uy Nhất Lang
Văn-Hữu-Oai Nhất Lang
Tòng Quân Thạch Bình Thuyền Nhẫn Tài Bá: Văn-Hữu-Mẫu Nhất Lang
17. Phục-Vị: Thượng Cao Cao Cao Tổ Cố Khảo Trần-Lưu
Quận Nguyễn-Nô Đại Lang
Cao Cao Tổ Khảo Nguyễn-Phước-Lộng Nhất Lang
Cao Tổ Nguyễn-Phước-Sơn Nhất Lang
Tổ-Khảo Nguyễn-Phước-Lương Nhị Lang
Nguyễn-Duy-Nhất Tứ Lang
Nguyễn-Phước-Cố
Nguyễn-Văn-Minh Đại Lang
Nguyễn-Phước-Văn Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Tô Nhị Lang
Nguyễn-Phước-Chiến
Nguyễn-Phước-Khoa Nhị Lang
Nguyễn-Phước-Quyết Quý Lang
Nguyễn-Phước-Triều Nhị Lang
Nguyễn-Hữu-Đải Nhị Lang
Nguyễn-Hữu-Chất Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Chủy Nhị Lang
Nguyễn-Phước-Cần Nhất Lang
Nguyễn-Hữu-Tân Nhị Lang
Nguyễn-Hữu-Trí Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Đức Nhất Lang
Nguyễn-Phước-My Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Thành Quý Lang
Nguyễn-Hữu-Câu Nhị Lang
Nguyễn-Phước-Đồng Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Đại Tam Lang
Nguyễn-Phước-Ta Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Thành Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Tường Nhất
Lang
Nguyễn-Phước-Miển Nhất Lang
Nguyễn-Hữu-Nhiễu Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Điền Nhất Lang
Nguyễn-Hữu-Lãm Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Đàm Nhất Lang
Nguyễn-Hữu-Thành Tam Lang
--- ---
Phục-Vị: Thượng Cao Cao Tổ Trần-Lưu-Quận
Nguyễn-Văn-Mạo Đại Lang
Cao Tăng Tổ Khảo Nguyển-Phước-Cận Nhất Lang
Nguyễn-Kim-Bài Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Tiên Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Lữ nhất Lang
Nguyễn-Thanh-Kỳ Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Vật Nhất Lang
Nguyễn-Cảnh-Thanh Nhất Lang
Nguyễn-Thanh-Đạt Nhất Lang
Nguyễn-Thanh-Thị Quý Lang
Nguyễn-văn-An Nhị Lang
Nguyễn-Văn-Cố Nhị Lang
Nguyễn-Văn-Tốt Nhị Lang
Nguyễn-Thanh-Hoa Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Nhơn Nhị Lang
Hoàng-Thế-Lộc ?
Nguyễn-Hữu-Mao Nhất Lang
Nguyễn-Hữu-Tiết Nhị Lang
Nguyễn-Phước-Hợi
Nguyễn-Hữu-Tuấn
Nguyễn-Thanh-Giám Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Mô Nhất Lang
Nguyễn-Thanh-Khê Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Đặc Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Biểu Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Lao Nhất Lang
Nguyễn-Thanh-Lộc Tam Lang
Nguyễn-Văn-Thiệu Quý Lang
Nguyễn-Phước-Sỹ Nhị Lang
Nguyễn-Phước-Chu Nhị Lang
Nguyễn-Văn-Dẫn Nhị Lang
Nguyễn-Phước-Khẩn Nhất Lang
Nguyễn-Phước-Thi Tam Lang
Hoàng-Thế-Sô
18. Nguyễn-Hữu-Tình Nhất Lang
Nguyễn-Hữu-Đô Quý Lang
Nguyễn-Phước-Thọ Nhị Lang
--- ---
Phục-Vị: Hiển Thượng Cao Cao Cao Tổ Khảo Kinh-Triệu-Quận,
Đoàn-Hữu-Vỵ Đại Lang
Hiển Cao Cao Tổ Khảo Đoàn-Quang Đại Lang
Hiển-Tằng Tổ Khảo Đoàn-Văn-Xão Nhị Lang
Đoàn-Trang Tam Lang
Đoàn-Lãng Quý Lang
Đoàn-Duy-Triều Nhị Lang
Đoàn-Duy-Yến Nhất Lang
Đoàn-Duy-Vấn Tam Lang
Đoàn-Duy-Nhất Tam Lang
Đoàn-Diếu Tam Lang
Đoàn-Duy-Thanh Nhất Lang
Đoàn-Duy-Hiệp Tam Lang
Đoàn-Duy-Tế Nhị Lang
Đoàn-Duy-Vạn Tứ Lang
Đoàn-Duy-Tích Nhất Lang
Đoàn-Duy-Sắt Nhị Lang
Đoàn-Dư-Thanh Nhất Lang
Đoàn-Vi-Viên Nhất Lang
Tòng-Quân Bả Lệnh-Thuyền Đoàn-Duy-Tư Tam Lang
Đoàn-Duy-Hiển Tứ Lang Đoàn-Viết-Chủng Nhị Lang
Đoàn-Dư-Trăm Nhị Lang
Tòng-Quân-Bả Lệnh-Thuyền Đoàn-Duy-Kiêm Nhất Lang
Đoàn-Quang-Minh Nhị Lang
Hiển Tổ Khảo Thứ Đội-Trưởng Đốc-Suất Hiển Nhất Thuyền
Vĩnh-Trung Bá, Đoàn-Viết-Oai Nhị Lang
Đoàn-Thiên-Niên Nhất Lang
Tòng-Quân Bả Lệnh-Thuyền Đoàn-Duy-Hậu Nhất Lang
Tòng-Quân Chí Nhất Thuyền Đoàn-Duy-Tri Nhị Lang
Đoàn-Viết-Đặc Nhị Lang Đoàn-Viết-Thoại Tam Lang
Đoàn-Viết-Lai Tứ Lang Đoàn-Viết-Mặc Nhị Lang
Đoàn-Viết-Nô Tam Lang
Thứ Đội-Trưởng Kiêm Cai Khố Mạt Chí Nhị Thuyền Vệ Thăng Bá
Đoàn-Quang-Lộc Nhất Lang
Đoàn-Duy-Tài Nhị Lang
Đoàn-Viết-Tề Thứ Lang
Đoàn-Viết-Châu Ngũ Lang
Đoàn-Viết-Chi Quý Lang
Đoàn-Viết-Chinh
Đoàn-Viết-Cố
Đoàn-Viết-Nhàn
Đoàn-Duy-Tư Tam Lang
Đoàn-Viết-Gia Nhất Lang
Đoàn-Viết-Bồng Nhị Lang
Đoàn-Duy-Hồng Tam Lang
Đoàn-An-Ninh Nhất Lang
Tướng Thần Phương Chí Tử Đoàn-An-Khương - Nhị Lang
19. Tòng Quân Chí Nhị Thuyền Cai-Tri Phó Tướng Kiêm Thủ Khố Doãn-Đức-
Hầu
Đoàn- Văn-Phú Tam Lang.
Đoàn-Viết-Phạp Tam Lang
Đoàn-Viết-Lãnh Nhất Lang
Tòng Quân Tả Thủy Kỳ Thạch-Bình-Thuyền Đoàn-Viết-Thương Nhị Lang
Quan Chơn-Tráng Đoàn-Huy-Đại Nhị Lang
Đoàn-Duy-Ngọ
Đoàn-Duy-Mẫn Tứ Lang
Tòng Quân Chí Nhị Thuyền Ngũ Tướng Bình Sơn Bá Đoàn-Viết-Hằng
Nhất Lang
Đoàn-Viết-Lan
Đoàn-Viết-Mật
Đoàn-Viết-Tấn
Đoàn-Viết-Thu
Đoàn-Viết-Nghi Nhất Lang
Đoàn-Viết-Sinh Nhất Lang
Quan-Chơn-Tân Đoàn-Viết-Thay Nhị Lang
Tòng Quân Chí Nhị Thuyền Cai Tri Phó Tướng Bố Đức Tử Đoàn-Viết-
Luận Nhất Lang
Đoàn-Viết-Quyến, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Phần, Quý Lang
Đoàn-Viết-Quần
Đoàn-Viết-Trong, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Lệnh
Đoàn-Viết-Điều
Đoàn-Viết-Sám
Đoàn-Viết-Do
Đoàn-Viết-Thất
Đoàn-Viết-Chất
Đoàn-Viết-Thâu, Tứ Lang
Đoàn-Viết-Chiếu
Đoàn-Viết-Dần, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Nô, Ngũ Lang
Đoàn-Viết-La, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Giáp, Tam Lang
Đoàn-Viết-Nhơn, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Lợi, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Thuyên, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Nương, Tứ Lang
Đoàn-Viết-Thu
Đoàn-Viết-Lẫm, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Lương
Đoàn-Viết-Chữ
Đoàn-Viết-Phủ
Đoàn-Viết-Vỹ
Đoàn-Viết-Khánh, Nhất Lang-
--- ---
Phục-Vị: Thượng Cao Cao Tổ Kinh-Triệu-Quận Đoàn-Bá-Cụ Nhất Lang
Cố Tổ Đoàn-Viết-Thanh Nhất Lang
Hiển Khảo Đoàn-Viết-Yêu Nhất Lang
20. Đoàn-Viết-Sư
Đoàn-Viết-Thận, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Đột
Đoàn-Viết-Lưỡng
Đoàn-Công-Kỳ
Đoàn-Viết-Đại
Đoàn-Viết-Nho
Đoàn-Viết-Tịch
Đoàn-Viết-Viễn
Đoàn-Viết-Đính
Đoàn-Viết-Đặc
Đoàn-Viết-Gia
Đoàn-Viết-Thành
Đoàn-Viết-Hào
Đoàn-Viết-Chiếu
Đoàn-Viết-Mai
Đoàn-Viết-Thôi
Đoàn-Viết-Thú
Đoàn-Viết-Chúng
Đoàn-Viết-Tố
Đoàn-Viết-Trọng
Đoàn-Viết-Phước Nhất Lang
Đoàn-Phước-Lộc
Đoàn-Viết-Tốt
Đoàn-Công-Anh
Đoàn-Viết-An
Đoàn-Viết-Lao
Đoàn-Viết-Ny
Đoàn-Viết-Lại
Đoàn-Viết-Tri
Đoàn-Viết-Thôi
Đoàn-Viết-Nhơn
Đoàn-Viết-Khẩn
Đoàn-Viết-Tiến
Đoàn-Viết-Thối
Đoàn-Viết-Xuân
Đoàn-Viết-Luận
Đoàn-Viết-Phương
Đoàn-Viết-An
Đoàn-Viết-Luân
Đoàn-Viết-Tương
--- ---
Phục-Vị: Thượng Cao Cao Tổ Đoàn-Bá-Tề Đại Lang
Đoàn-Cư-Công Tôn, Đại Lang
Đoàn-Van, Đại Lang
Đoàn-Văn- Thông, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Hiển, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Vân, Nhất Lang
Đoàn-Căn, Nhất Lang
Đoàn-Văn-Hách, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Nghĩa, Tam Lang
Đoàn-Xuân-Quế, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Phú, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Hội, Tứ Lang
Đoàn-Viết-Nghị, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Ninh, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Luận, Tứ lang
Đoàn-Viết-Quang
Đoàn-Viết-Tín, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Vật, Tam Lang
Đoàn-Viết-Lợi, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Liệt, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Thời, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Hán, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Căng, Tam Lang
Đoàn-Viết-Long, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Tình, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Ny
Đoàn-Viết-Lan
Đoàn-Viết-Vức, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Nho, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Chất
21. Đoàn-Viết-Lũng, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Thôi
Đoàn-Viết-Phước
Đoàn-Viết-Giang
Đoàn-Viết-Mạ
Đoàn-Viết-Nô
Đoàn-Viết-Hàn
Đoàn-Viết-Công, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Cung, Nhất Lang
Đoàn-Lược, Nhất Lang
Đoàn-Văn-Xích, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Hiển, Nhị Lang
Đoàn-Phước-Sinh, Tam Lang
Đoàn-Xuân-Trân, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Quý, Tam Lang
Đoàn-Viết-Hạ, Quý Lang
Đoàn-Viết-Khang, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Vy, Tam Lang
Đoàn-Viết-Minh, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Quyết, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Nhơn, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Ái, Tam Lang
Đoàn-Viết-Tuyền, Tam Lang
Đoàn-Viết-Chiến, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Hân, Tam Lang
Đoàn-Viết-Tiên, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Ha, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Nghi, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Khẩn, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Dĩ, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Thế, Nhị Lang
Đoàn-Viết-là, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Phàn
Đoàn-Viết-Điểm Nhất Lang
Đoàn-Viết-Mạnh
Đoàn-Viết-Biền
Đoàn-Viết-Muộn
Đoàn-Viết-Hằng
Đoàn-Viết-Thông
Đoàn-Viết-Di
Đoàn-Viết-Đối
Đoàn-Viết-Thái Nhất Lang
Đoàn-Viết-Sử Tam Lang
Tòng Quân Chí Nhất Thuyền Nhuận-Đức-Bá
Đoàn-Viết-Luận, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Quả
Đoàn-Viết-Xiểm
Đoàn-Viết-Doãn
22. Phục Vị: Thượng Cao Cao Tổ An-Định Quận
Hồ-Công-Để Đại Lang
Tằng-Tổ Hồ-Công-Trường, Đại Lang
Cố-Tổ Hồ-Công-Tư, Nhất Lang Hồ-Bá-Bổ Nhất Lang
Hồ-Phước-Cường, Nhất Lang
Hồ-Liên, Nhất Lang
Hồ-Công-Đạt, Nhị Lang
Hồ-Trình, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Tru, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Dư, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Vãn, Nhị Lang
Hồ-Hữu-Xứ, Tam Lang
Hồ-Phước-Phiên, Quý Lang
Hồ-Quang-Huy
Hồ-Hữu-Cẩm
Hồ-Xuân-Cảnh, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Tiên
Hồ-Hữu-Oai
Hồ-Thận
Hồ-Công-Bình
Hồ-Hữu-Duyên
Hồ-Hữu-Viên
Hồ-Hữu-Xay
Hồ-Hữu-Khoa
Hồ-Công-Xướng
Hồ-Hữu-Doanh
Hồ-Hữu-Khuê
Hồ-Hữu-Bát, Nhị Lang
Hồ-Công-Hậu, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Đáo, Nhị Lang
Hồ-Phước-Hữu, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Bồi, Nhất Lang
Hồ-Cảnh-Hoảng, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Dung, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Vãn, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Thọ, Nhị Lang
Hồ-Phước-Lùng, Nhị Lang
Hồ-Hữu-Mạnh, Nhị Lang
Hồ-Hữu-Quần, Quý Lang
Hồ-Hữu-Hưởng
Hồ-Hữu-Na
Hồ-Duy-Tinh, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Kỳ
Hồ-Hữu-Khuyết
Hồ-Hữu-Môn
Hồ-Hữu-Liệt
Hồ-Hữu-Phước, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Xinh
Hồ-Hữu-Ly
Hồ-Hữu-Mậu
Hồ-Hữu-Miêu
Hồ-Hữu-Thanh, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Quán
--- ---
Phục-Vị: Thượng Cao Cao Tổ Hoàng-Tuyên Đại Lang
Cao Tằng Tổ Khảo Hoàng-Phước-Hiệp Nhất Lang
Hiển Cố-Tổ Hoàng-Canh-Thời Nhất Lang
Hiển-Khảo Hoàng-Chinh Nhị Lang
Hiển-Khảo Hoàng-Tôn Nhất Lang
Hoàng-Thế-Đường, Tam Lang
Hoàng-Thế-Hối
Hoàng-Thế-Thái, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Nô, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Vy, Nhất Lang
Hoàng-Phước-Ninh, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Đức
Hoàng-Thế- Điệp, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Nghiêm, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Mẫn Nhị, Lang
Hoàng-Thế-Triệt
Hoàng-Thế-Bài, Nhất Lang
23. Hoàng-Thế-Cô, Quý Lang
Hoàng-Thế-Ly, Nhị Lang
Hoàng-Thế-Lao
Hoàng-Thế-Hoảng, Quý Lang
Hoàng-Thế-Kiệt, Quý Lang
Hoàng-Thế-Lộc, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Ứng, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Ngôn, Quý Lang
Hoàng-Thế-Chính, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Chính, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Bằng, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Thành, Nhất Lang
Hoàng-Phước-Chư, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Suất, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Thôi, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Lạp, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Hô, Nhất Lang
Hoàng-Thế-Bì, Nhị Lang
Hoàng-Thế-Dư, Nhất Lang
--- ---
Phục-Vị: Thượng Cao Cao Tổ An-Định-Quận
Hồ-Hữu-Quãng Đại Lang
Cao Cao Tổ Hồ-Hữu-Yêu Đại Lang
Hồ-Hữu-Viễn, Đại Lang
Hồ-Hữu-Giai
Hồ-Hữu-Cô, Nhị Lang
Hồ-Dưỡng
Hồ-Hữu-Hãn
Hồ-Hữu-Hoa
Ong Trạng Hồ-Đăng-Khôi
Hồ-Đăng-Khoa
Hồ-Đăng-Thứ
Hồ-Hữu-Ma
Hồ-Hữu-Tư
Hồ-Hữu-Bá, Đại Lang
Hồ-Hữu-Mênh, Nhất Lang
Hồ-Hữu-Chơn, Nhị Lang
Hồ-Hữu-Trực, Nhị Lang
Hồ-Hữu-Kỳ
Hồ-Hữu-Cao
Hồ-Đăng-Đê
Hồ-Đăng-Muộn
Hồ-Hữu-Khôn
--- ---
Phục-Vị: Thượng Cao Cao Tổ Đoàn-Viết-Sám, Nhất Lang
Hiển-Tổ Đoàn-Viết-Chức, Nhất Lang
Hiển Khảo Đoàn-Viết-Phụ Nhất Lang
Đoàn-Cư-Công, Nhất Lang
Đoàn-Trung-Tính, Nhất Lang
Đoàn-Học-Nho, Nhất Lang
Đoàn-Trung-Lương
Đoàn-Nhơn-Đức, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Thả
Đoàn-Viết-Thọ
Đoàn-Viết-Vy, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Diệp, Nhị Lang
Đoàn-Viết-Luy, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Tải, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Lộc, Nhất Lang
Đoàn-Nhơn-Hiếu, Nhất Lang
Đoàn-Đắc-Vật, Nhất Lang
Đoàn-Trung-Kiên, Nhất Lang
Đoàn-Viết-Dũng
Đoàn-Viết-Hạp
Đoàn-Viết-Dĩ, Nhị Lang
29. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
Trần-Lưu- Quận Nguyễn-Thị-Luân, Nguyễn-Thị-Lung
Phục-Vị: Thượng Cao Cao Tổ Tỷ Kinh-Triệu-Quận Đoàn-Thị-Hàn.
Đoàn-Thị-Ny
Đoàn-Thị-Khuất
Đoàn-Thị-Phẩn
Đoàn-Thị-Ngật
Đoàn-Thị-Nộ
Đoàn-Thị-Nồng
Đoàn-Thị-Châu
Đoàn-Thị-Cân
Đoàn-Thị-Vân
Đoàn-Thị-Hiệp
Đoàn-Thị-Trấn
Đoàn-Thị-Tiêu
Đoàn-Thị-Trường
An-Định-Quận Hồ-Thị-Xay
Hồ-Thị-Kiều
Hồ-Thị-Trang
Hồ-Thị-Thực
Hồ-Thị-Trang
Hồ-Thị-Uẩn
Hồ-Thị-Dĩ
Hồ-Thị-Lai
Hồ-Thị-Cách
Hồ-Thị-Mệnh
Trần-Lưu-Quận Nguyễn-Thị-Cân, Nguyễn-Thị-Cộng
Phục-Vị: Thượng Cao Tổ Tỷ
Kinh-Triệu-Quận Danh-Môi Thọ Quý Nương
An-Định-Quận Hồ-Thị-Tào, Hồ-Thị-Trạc
Kinh-Triệu-Quận Đoàn-Thị-Thuần, Đoàn-Thị-Y
Đoàn-Thị-Cô
Đoàn-Thị-Khất
Đoàn-Thị-Nô
Đoàn-Thị-Đản
Đoàn-Thị-Lãm
Đoàn-Thị-Thanh
Đoàn-Thị-Am
Đoàn-Thị-Cố
Đoàn-Thị-Khảo
Đoàn-Thị-Lã
Đoàn-Thị-Ất
Đoàn-Thị-Điều
Đoàn-Thị-Bài
Đoàn-Thị-Nậy
Đoàn-Thị-Luy
Đoàn-Thị-Đặc
Đoàn-Thị-Niên
Đoàn-Thị-Thiêu
Đoàn-Thị-Sử
Đoàn-Thị-Sự
Đoàn-Thị-Điếm
Đoàn-Thị-Cô
Đoàn-Thị-Cải
Đoàn-Thị-Sám
Đoàn-Thị-Chu
Đoàn-Thị-Mạt
Đoàn-Thị-Để
Đoàn-Thị-Hàn
Đoàn-Thị-Phẩu
Đoàn-Thị-Liệt
Trường Ca Ký Sự Trang 29
30. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
Nguyễn-Thị-Sự, Đoàn-Thị-Kiêm, Đoàn-Thị-Duyên
Phục-Vị: Cao Tổ Tỷ An-Định-Quận Hồ-Thị-Mạt, Hồ-Thị-Sự
Trần-Lưu-Quận Nguyễn-Thị-Đào
Phục-Vị: Thượng Cao Cao Tổ Tỷ Danh-Môi-Truyền Quý Nương, Môi Mạng,
Môi Duyên, Môi Nạp, Môi Đặng.
An-Định-Quận Hồ-Thị-Nhật
Bột Hải-Quận Hoàng-Thị-Bá
Nhạn-Môn- Quận Văn-Thị-Xuất Nhị Nương
An-Định-Quận Hồ-Thị-Linh
Bột-Hải-Quận Hoàng-Thị-Đính, Đoàn-Thị-Mạt
Cô Nam Nữ Hữu Danh Vô Vị, Hữu Vị Vô Danh. Nội Ngoại Tôn Thân, Đẳng
Chư Hương Hồn Sai hồ cừu ly, Trần Cảnh Khổ Lạc nan minh tư phùng
thắng hội đạo tràng, Quãng-Độ, Tề Siêu, Bỉ Ngạn.
Đản Đệ-Tử Thông-Huy
Hạ Tình Vô Nhiệm Cúng Vọng
Phật Âm Khích thiết bình dinh Chi Chí Cẩn Ý
Tuế Thứ Tân Tỵ Niên Bát Nguyệt Sơ Thập Nhật Cự Ý
Đại-Việt có từ Trần-Lê Xứ Thuận Hóa bắt đầu Thế kỷ 14 (1306) (Chiêm
Thành Huyền-Trân Công-Chúa: Châu Ô và Châu Rí, Trấn Thuận Hóa).
Như vậy năm Tân-Tỵ (1341 (Trần Dụ Tông) chỉ có Phủ Triệu Phong và 5
huyện: Đan-Điền, Kim-Trà, Tư-Vinh, Vũ-Xương (theo Ô Châu Cận Lục),
chưa xuất hiện Quảng Điền.
Tân-Tỵ (1401): Nhà Hồ cướp ngôi Nhà Trần, tên nước là Đại-Ngu.
Tân-Tỵ (1461): Lê-Thánh-Tôn, thế kỷ nầy có 2 phủ 8 huyện.
Trường Ca Ký Sự Trang 30
31. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
PHIÊN ÂM BÀI MINH
Ở BIA ĐÁ CHÙA SƠN TÙNG
--- ---
SƠN TÙNG TỰ MINH
Thiết văn vật chi phế hưng
Hữu-số tồn yên
Phi nhơn sở năng vãn giả
Tức dự chi Sơn Tùng Tự
Diệt Cổ chi danh
Lam nhơn niên đa nhật cửu
Phong vũ phiêu diêu
Cơ-vi khâu hư hỷ
Kim hữu Long Võ, Vệ, Tín Đức Bá
Đoàn-Phúc-Hòa
Đăng Lâm thử địa
Quan kim dung sắc biến lương đống (lương)
Vân phong hưng yên
Lãnh đạm phong cảnh
Thê lương khởi bất thường tai
Ư Thị Xuất kỳ thê
Hồ-Thị-Cập Bổn xã viên chức đẳng
Toại phát tín tâm
Kỳ chưởng kỉnh viết
Ư Giáp Tuất niên
Nhuận Nhị-nguyệt
Cưu công Đại hưng
Thổ mộc vi trùng trọng
Tân chi chí, lạp nguyệt hoàn thành
Hỷ sở thỉnh sở ngôn thuyên
Vi minh ký di chí bất hủ.
Vân nhỉ minh viết
Tải kinh tải dinh
Pháp chỉ trùng hưng
Tuệ đăng bất diệt
Phật nhựt trường minh
Bố kim Trưởng giả
Thiên tải dương danh
Tuệ túc phúc túc
Dịch thế Hoa-Vinh
“Cảnh-Hưng Thập Lục niên Tuế Tại Tổn Mông Đại-Uyên, Kính các nhật
cốc đáng Trung-Hoa Ôn Lăng Đăng-vân Giai Đạo Nhơn bái soạn”
Trường Ca Ký Sự Trang 31
32. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
BÀI MINH CHÙA SƠN TÙNG
--- ---
Trộm nghe: Vật mà hữu tốt số mới còn
Sức người không kéo lại được
Xem như Chùa Sơn Tùng là chỗ danh lam đời xưa nhưng nhiều năm lâu
ngày phơi dầm mưa gió thành nơi bỏ trống.
Nay có Ông Đoàn-Phúc-Hòa, tước Tín-Đức-Bá Vệ Long-Võ trèo lên
chỗ ấy thấy đất sắc vàng, chỗ lương đống biến làm đám mây khói hương
lạnh lẽo phong cảnh buồn bã há không đáng tiếc sao? Rồi đem bà vợ là:
Hồ-Thị và các viên chức trong làng đều phát lòng tin là giống sẵn có.
Đến tháng hai nhuận năm Giáp-Tuất (1734) kêu thợ phá gỗ đào
móng công việc to lớn làm lại cái mới đến tháng Chạp xong hết, xin có vài
lời khắc làm bài Minh ghi lại chuyện xưa cho khỏi bị mất.
Minh rằng:
Nào xây nào dựng
Làm lại ngôi Chùa
Đèn tuệ không dứt
Cửa Phật sáng dài
Trưởng-Giả bố thí vàng
Tiếng thơm ngàn đời
Đủ tuệ đủ phước
Trọn đời vinh hoa
****
Ngày tốt năm Cảnh-Hưng thứ mười sáu là năm Ất-Hợi (1744) hiệu
Vua Tổ Mông Đại-Uyên Ông Ôn-Lăng người Trung-Hoa Trang-Đại ở
đường Đằng-Vân lạy bái soạn bài nầy.
Lê-Hiển-Tông 1740-1786, niên hiệu Cảnh-Hưng Hiển-Tông hiệu là Duy-
Diêu con Vua Thần-Tông làm Vua được 46 năm thọ 70 tuổi.
Trịnh: Tỉnh Đô Vương Trịnh Sâm
Nguyễn: Định Vương Nguyễn Phúc Thuần
(Trịnh-Nguyễn phân tranh 1635)
--- ---
Trường Ca Ký Sự Trang 32
33. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
MINH KÝ HỌA
CHÙA CỔ SƠN TÙNG
Trước ngày chưa bị đốt (đêm 25 tháng 2 năm Kỷ Sửu 1949), chùa
Sơn Tùng là “Nam Thiên Đệ Nhất Thị Sơn Tùng”
Ở xã Sơn Tùng huyện Quảng Điền, ngôi chùa Cổ năm Bính Tý Bản
Triều Thế Tông thứ 6 được sửa chữa lại và ban cho biểu ngạch khắc 5 chữ
“ SẮC TỨ SƠN TÙNG TỰ “, lại cho 4 câu đối nay vẫn còn. Năm Thiệu Trị
thứ 2, sắc cho lồng văn bảng sa vàng để tại Chùa để truyền thắng tích
(theo Đại Nam Nhất Thống Chí tập 1 phủ Thừa Thiên trang 183).
Bốn câu đối là:
Thủy Tú Sơn Minh Hải Quốc Vô Song Nguyên Phước Địa
Sùng Hưng Cổ Tự Nam Thiên Đệ Nhất Thị Sơn Tùng
Mai ngọc Tùng Xuân Phong Độc Ái Thanh Hương Cung Phật Tọa
Đào Ba Khai Lệ Nhật Di Lai Thái Sắc Ảnh Huyền Cung
“Quốc vương Từ Tế Đạo Nhân Ngự Đề “
Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765), truy tông là Thế Tông
Hiếu Võ Hoàng Đế thuộc Triều Lê Ý Tông và Lê Hiển Tông (Lê Cảnh
Hưng).
Trịnh: Minh Đô Vương Trịnh Doanh, năm thứ 6 tức là năm Quý Hợi
(1843 ) Lê Cảnh Hưng thứ 16, như vậy Chùa Sơn Tùng khởi công năm
1734 đến năm 1743 mới hoàn thành, và 4 câu đối trên là của Chúa
Đàng trong Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát đề tặng đời vua Lê Cảnh
Hưng.
Chúa Nguyễn Phúc Chu xưng: Thiên Tường Đạo Nhân, Chúa Nguyễn
Phúc Trú xưng: Linh Truyền Đạo Nhân, Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng
: Từ Tế Đạo Nhân. Chùa do Ngài Long Võ Vệ Tín Đức Bá người Sơn
Tùng Đoàn Phúc Hòa sùng tu.
(Xin xem bia cổ ở Chùa Sơn Tùng nói rõ).
Chùa Cổ Sơn Tùng ghi ở Đại Nam Nhất Thống Chí Thừa Thiên Phủ tập
Thượng (trang 91 – 92)
Phụng Khai Biên : Phụ Chính Đại Thần, Thái Tử Thiếu Bảo, Hiệp Biện Đại
Học Sĩ lãnh Học Bộ Thượng Thư kiêm quản Quốc Tử Giám, An Xuân Tử,
thần Cao Xuân Dực …
Dịch Giả: Tụ Trai Nguyễn Tạo cử nhân Hán học.
Sưu ghi: Tùng Sơn Văn Hữu Tuất.
Trường Ca Ký Sự Trang 33
34. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
SƠN – TÙNG
VĂN TẾ CÔ ĐÀN
Phụng-vị: Tiêu Diện Đại-Sĩ Diệm Khẩu Quỷ-Vương
Tiểu Ban Liệt-Vị Âm Thần
Hữu Ban Liệt-Vị Âm Thần
Bổn Xã các Tôn Phái Vô tự Chư Hương hồn Liệt Vị
Chiến Sĩ Trận Vong
Chiến-tranh Nạn vong Chư Hương Hồn Liệt-Vị
Bổn Thổ Âm Hồn, Cô Hồn Chư Hương Hồn Liệt-Vị
Cập Thập nhập loại Cô-Hồn Nam Nữ đẳng chúng
--- ---
HỠI ÔI !
Thác về sống gửi
Cuộc phù sinh đã giả dối nỗi nầy
Xuân tế Thu đơm
Niềm báo bổ lại quạnh hiu là thế
Hồn hoa phưởng phất
Trong đất mười không chốn quy y
Phách quế mơ màng
Dưới chín suối ghi đường bỉ bế
Sầu đeo thảm dắt
Vật vô tình còn lắm nổi xót xa
Khói lạnh hương tàn
Người đồng loại dễ không lòng đáo để
Tưởng các Vọng Hồn xưa !!
Tôn phái phân giòng
Dân bào một thể
Trước có kẻ mở mang đất phúc
Nghìn năm công cả
Trông thiệt thòi hai chữ Tôn mưu
Trong những người vun quén làng dân
Một thuở ơn dày, cam chếch mát mười phần tử kế
Tưởng những kẻ đồng cam cộng tỉnh
Công lao tằng tải gian nan
Dẫu đến người tương khuyến tương khuy
Đức nghiệp dày phen tài chế
Gẫm những kẻ tử sanh dường ấy
Trường Ca Ký Sự Trang 34
35. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
Sum vầy cánh chấu mới cam
Cớ sao Trời tâm phúc về đâu?
Vắng vỏi dây dưa nên tệ
Hoặc có người lâm trường chinh chiến
Cỏ xanh làm nấm
Trời biệt ly đà cách dặm hương thôn
Lại có người thất thổ vong hương
Xương trắng nên gò
Miền mai táng lại thiếu vai huynh đệ
Hoặc có người vận thời đảo trác
Hoặc mang dịch lệ hoặc bị cơ hàn
Lại có người số kiếp rủi ro
Hoặc mang tật bệnh
Hoặc có người ba tầm thủy nịch
Hồn chìm nước biết bơ vơ
Lại có người hổ dão xà thương
Hồn vẫn non xanh quạnh quẽ
Ngẫm chua nuốt đắng
Trong láng giềng lắm kẻ thảm thương
Cam phận ôm lòng ngoài thế sự không ai đơm tế
Cám cảnh ấy bấy hồn xiêu cát đứng
Dầu gái trai cũng xót một lòng
Ngậm ngùi thay phách tán mười loài
Ví già trẻ dễ phân mấy lệ
Đã biết tử sanh hữu mạng
Trong chín trời ai khỏi lưới thương không
Những thương câu quỳnh độc vô y
Dưới muôn kiếp sầu nên cơm ẩm ế
Ôi ! Núi cao mây lộng !
Rừng tà thúc rể, Tà dương nội quanh khói ây ây
Ba biểu canh chầy trăng xế xế
Quyên kêu Nhạn khóc
Đường u minh chi xiết nổi nguồn cơn.
Dế thảm ve sầu.
Cửa họa - phúc chưa phân bề cội rễ
Chốn trùng cao chất ngất
Gió bất bình đòi đoạn âu vang
Miền xa thảo ủ ê.
Mây trường hận ghe phen loạn lẻ
Rập rỡ ngàn thu sương tuyết
Mồ hoang cỏ rậm mấy thêm thương
Dãi dầu mấy độ phong trần
Nước chảy hoa kêu buồn xiết kể
Ai chẳng muốn dài giòng họ lớn
Trăm năm cho vĩnh thế trường niên
Ai chẳng trông con một cháu bầy
Trường Ca Ký Sự Trang 35
36. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
Muôn thuở đặng thâm căn cố đế
Chốn trần thế bi can khó hẹn
Biết đâu cao nấm ấm mồ
Số thiên lao bày định dễ sai
Há khả trách than số hệ
Trời làm màn đất làm chiếu
Suối vàng cát lạnh nào an
Dương là cảnh âm là quê
Người bạc hồn thương chứa lệ
Cho biết chữ sắc ý, không không ý sắc
Xưa nay tan hiệp chòm mây
Cho liệu bề cồn nên vực vực nên cồn
Sau trước cũng phân lìa giòng hệ
Xót là xót cho hồn về cõi thẳm
Trăm năm không con nối cháu truyền
Thương là thương tiếng để lòng trần
Bốn bề những người không kể nể
Đói không nơi ăn khát không nơi uống
Biết đâu phân chấp tơ hào
Tế thờ dụng lễ, thác thơi dụng dương
Bây giờ ngồi ăn phủ phế
Vơi vơi rượu chúc ba tuần
Thành kính chưa an
Diễn diễn lễ bày một tiệc
Khuyên mời chẳng dễ
Ví cả có thiên hưởng diều cho phỉ
Hỡi Ôi !!
Thương thay nguyện hưởng.
Trường Ca Ký Sự Trang 36
37. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
CHỮ KHẮC Ở BIA CÔ-ĐÀN SƠN TÙNG
--- ---
“CÔ ĐÀN TỰ SƠN–TÙNG THÔN”
Nguyên ngày xưa thường năm lễ Tảo Mộ vào ngày 20 tháng 12, đến
năm Bính-Ngọ 1905 Làng trong thiết nghĩ rằng: Tuy là vô tự nhưng đã cùng
nhau sống trong một địa phương. Nhận thấy thiên thu hương hỏa không
chỗ bằng ý mới đồng lòng cảm tưởng nên lập ra Cô-Đàn năm Mậu-Thân
1907, xây đàn bằng gạch lấy tháng 2 làm ngày Tảo-Mộ, sự tích đã có bia.
Từ khi sáng lập đến nay được 70 năm, năm qua tháng lại gió tạt
mưa xang cảnh sắc cũ không được trang nghiêm đẹp đẽ, Làng đồng thuận
lấy tiền khẩu phần toàn dân, kiến thiết Nội Tẩm ba gian, ngoại Đàn ba án,
diện tiền có bốn Trụ đăng. Ngày 23 tháng 9 năm Giáp-Dần (1974) khởi
công, đến tháng 2 năm Ất - Mão (1975) hoàn thành. Tổng Kê công tác hạn
liệu số bạc hai triệu tám trăm nghìn đồng (2.800.000 đ).
Nay Minh Chí Đồng Bổn Thôn,
PHỤNG LẬP
Trường Ca Ký Sự Trang 37
38. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
CÁC LÀNG (XÃ) Ở HUYỆN ĐAN-ĐIỀN
--- ---
1. Xã Tây-Pha
2. Xã A Cùng
3. Xã An-Mục
4. Xã Tiền-Thành
5. Xã Văn-Quất
6. Xã Hoài-Lai
7. Xã Sa-Đồi
8. Xã Sa Ngạn
9. Xã Tam-Chế
10.Xã Đan-Lương
11.Xã La-Vân
12.Xã Bác-Vọng
13.Xã Niêm-Phò
14.Xã Đông-Dã
15.Xã Nam-Phò
16.Xã Nghĩa-Lộ
17.Xã Vân-Căn
18.Xã Hoa-Lang
19. Xã SƠN TÙNG
20.Xã Ông-Gia
21.Xã Đông-Lâm
22.Xã Bao-La
23.Xã Đức-Trọng
24.Xã Hạ-Lang
25.Xã Lỗ-Xá
26.Xã Đông-Xuyên
27.Xã Phù-Đồ
28.Xã Hạ-Cảng
29.Xã Thượng-Lộ
30.Xã Bồ-Điền
31.Xã Báo-Đáp
32.Xã Phù-Đái
33.Xã Cổ-Bi
34.Xã Lại-Bình
35.Xã Khúc-Ốc
36.Xã Võ-Xá
37.Xã Thanh-Kệ
38.Xã Dương-Loan
39.Xã Đào-Cù
40.Xã Phấn-Cần
41.Xã Hồ-Đỉnh
42.Xã Tân-Ba
43.Xã Cổ-Tháp
44.Xã Thế-Chí
45.Xã Tráng-Liệt
46.Xã Thạch-Bình
47.Xã Toản-Võ
48.Xã Hiền-Sĩ
49.Xã Sai-Trung
50.Xã Văn-Căn
51.Xã Phổ-Lại
52.Xã Nam-Bì
53.??…..
Vua Trần Dụ Tông niên hiệu Thiệu Phong (1341-1357), năm Tân-Tỵ
(1341) có Phủ Triệu-Phong và huyện Đan-Điền. Ô Châu Cận Lục ghi năm
At-Mão (1355) thì huyện Đan-Điền gồm có 53 xã ghi trên.
(Bác Lương-An sưu dịch).
Phủ Biên Tạp Lục (1776): 8 Tổng.
Tổng Hoa-Lang : Hoa-Lang, Cao-Ban, Bồ-Điền, Nam-Dương, Cổ-Tháp,
Lảnh-Huyền, Cao-Xá Hạ, Các Phường Cương-Giản Đông, Cương-Giản
Tây, Các Thôn Ô-Sa, Đông-Lâm Thượng.
Trường Ca Ký Sự Trang 38
39. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
Tổng Phù-Lễ: Phù-Lễ, Tráng-Lực, Thủ-Lễ, Thạch-Bình, An-Gia, Mai-Gia,
Vu-Lai, Phổ-Lại, SƠN TÙNG, Linh-Căn, Thanh-Dương, Hà-Cảng, Mông-
Nguyên, Sơn Tùng Thượng.
Tổng Yên-Thành: Yên-Thành, Phú-Lương, Tây-Thành, Đông-Xuyên, La-
Vân-Thượng, La-Vân-Hạ, Mỹ-Xá, An-Xuân, Thanh-Hà, Phú-Ngạn, Kim-Đôi,
An-Phú, An-Lai, Toản-Công, Tiền-Thành, An-Xá, Hà-Trung.
Tổng Hạ-Lang: Hạ-Lang, Báo-Đáp, Thanh-Khê, Thiên-Tùy, Đồng-Bào,
Tiên-Phúc, Đức-Trọng Thượng, Đức-Trọng Hạ.
Tổng Đông-Lâm: Đông-Lâm, Cổ-Lão, Hương-Cần, Nam-Phù, Sài-Lâm,
Nghĩa-Lô, Dương-Sơn, Cổ-Bi, Long-Đai, Trung-Hòa.
Tổng Phước-Yên: Phước-Yên, Dao-Cù, Phù-Nam, Niêm-Phò, An-Thuận,
Lương-Cổ, Lại-Bằng, Đông-Dã Thượng, Thủy-Điền Thượng, Thủy-Điền Hạ.
Tổng Phù-Ninh: Phù-Ninh, Chánh-Hòa, Hiền-Sĩ, An-Lỗ, Công-Sơn
Thượng, Vu-Lai Thượng, Dã-Viên, Lai-Xá, Lương-Lộc, Phú-Kháng, Long-
Khê.
Tổng Phú-Ốc: Phú-Ốc, Bao-La, Bác-Vọng-Đông, Thế-Chí-Đông, Thế-Chí-
Tây, Thủy-Lập, Xuân-Trở.
Huyện Quảng Điền lúc nầy gồm cả Phong-Điền, đến năm 1835 mới chia
thành hai Huyện Quảng Điền và Phong-Điền.
Tổng Vĩnh-Xương : thuộc Phong-Điền gồm: Vĩnh-Xương, Hương-Chiền,
Văn-Lô, Siêu-Loại, Kế-Môn,Trung-Toàn, Đại-Lộc, Chính-Lộc, Đường-Long,
Hòa-Viện.
Tổng Phò-Trạch: Phò-Trạch, An-Nông, Vĩnh-An, Trạch-Phổ, Phúc-Giang,
Lương-Mai, Ưu-Điềm, Đàm-Xuyên, Tứ-Chính, An-Thị, Khánh-Hộ, Phú-
Xuân, (Trước thuộc Hương-Trà năm 1835 mới về Phong-Điền).
-------o0o-------
“Ô-Châu Cận-Lục” có câu:
“Gái Tân-Lang vẹn tiếng thơm tho
Trai Sơn Tùng một lòng bền vững “
Tác giả lấy tên chữ tên Làng mà đặt ra
SƠN: núi,
TÙNG: cây thông.
Tùng bá mùa đông không xơ xác nên được dùng để ví người bất khuất,
Trường Ca Ký Sự Trang 39
40. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
- Vị U Cầu rất thơm tho.
- Gốc Sơn Tùng càng cứng rắn.
(Bác Lương-An sưu dịch)
“THÁI-SƠN THẠCH
BẤT CẢM ĐƯƠNG”
--- ---
Trụ đá cao khoảng 1 mét 50, ngang 12cm, được trấn ở đầu cầu,
“Đá nầy ở Núi Thái-Sơn”
Ý của Tổ tiên xưa là trụ đá của núi Thái-Sơn vững vàng không ai
xâm phạm được, hiện vẫn còn ở đình Sơn Tùng, xưa kia nổi ở đầu cầu từ
Sơn Tùng qua Phổ-Lại.
Cầu trước đình không còn đã lâu, viên đá sau chiến tranh loạn lạc
vẫn còn, phía bên kia đến bây giờ bà con dân làng quen gọi là ruộng Đầu-
Cầu, nay là Trường Quảng Vinh (Thanh-Cần cũ).
Trường Ca Ký Sự Trang 40
41. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
SƠN TÙNG
VĂN CHÁNH TẾ
--- ---
Việt Nam Quốc, Thừa Thiên-Huế Tỉnh, Quảng Điền Huyện, Quảng
Vinh Xã, Sơn Tùng Hạ Thôn.
Uy-Tế: Đồng Bổn Thôn Nam Nữ Đẳng.
Duy:
Bổn Thổ Thượng Hạ Thần Kỳ, Tôn Thần
Bổn Thổ Tiền Khai Khẩn, Hậu Khai Khẩn Tôn Thần
Bổn Thổ Đô Đại Thành-Hoàng Đại-Vương Tôn Thần
Bổn Thổ Khai Canh Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Hồ-Quý-Tướng Tôn
Thần.
Bổn Thổ Khai Canh Dực Bảo Trung Hưng Hộ-Bộ Thượng-Thư
Hồ-Quý-Công Bình Tôn Thần
Bổn Thổ Khai Canh Câu-Kê Hồ-Thu-Hảo Tôn Thần
Bổn Thổ Khai Canh Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Xã Trưởng
Hồ-Công-Muốn Tôn Thần
Bổn Thổ Đề Lãnh Nanh Tôn Thần
Bổn Thổ Khai Canh Hậu Khai Canh Tôn Thần
Hiển Thượng Thủy Tổ Hồ-Công-Tồn Đại Lang
Tịnh Bà Hồ Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Hiển Thượng Thủy Tổ Hồ-Thiện-Đào Đại Lang
Tịnh Bà Hồ Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Hiển Thượng Thủy Tổ Văn-Hữu-Diễn Đại Lang
Tịnh Bà Văn Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Hiển Thượng Thủy Tổ Nguyễn-Nô Đại Lang
Tịnh Bà Nguyễn Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Hiển Thượng Thủy Tổ Nguyễn-Thế-Ái Đại Lang
Tịnh Bà Nguyễn Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Hiển Thượng Thủy Tổ Đoàn-Hữu-Lễ Đại Lang
Tịnh Bà Đoàn Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Hiển Thượng Thủy Tổ Đoàn-Phước-Khương Đại Lang
Tịnh Bà Đoàn Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Hiển Thượng Thủy Tổ Đoàn-Nhơn-Thọ Đại Lang
Tịnh Bà Đoàn Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Hiển Thượng Thủy Tổ Hồ-Hữu-Vĩnh Đại Lang
Tịnh Bà Hồ Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Hiển Thượng Thủy Tổ Ngô-Hữu-Quãng Đại Lang
Tịnh Bà Ngô Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Trường Ca Ký Sự Trang 41
42. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
Hiển Thượng Thủy Tổ Hồ-Hữu-Quãng Đại Lang
Tịnh Bà Hồ Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Hiển Thượng Thủy Tổ Đoàn-Viết-Chinh Đại Lang
Tịnh Bà Đoàn Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Hiển Thượng Thủy Tổ Hồ-Công-Đây Đại Lang
Tịnh Bà Hồ Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Hiển Thượng Thủy Tổ Hồ-Hữu-Ngưu Đại Lang
Tịnh Bà Hồ Gia Tiên Tổ Tôn Linh Liệt Vị
Các-Phái: Đào-Phái, Lê-Phái, Trần-Phái, Hoàng-Phái, Trịnh-Phái.
Long Võ Vệ Tín Đức Bá Đoàn-Phước-Hòa Tôn Linh
Long Võ Vệ Cai-Tri Phó Tướng Tòng Quân Danh Phương Tử Đoàn-
Phước-Triêm Tôn Linh
Đặc Trấn Phụ Quốc Thượng Tướng Quân Cẩm Y Vệ Đô-Chỉ-Huy Sứ Thuộc
Nội Cai Đội Dương Châu Hầu Hồ-Công-Đen Tôn Linh.
Thuộc Nội Điện Câu Trực Bá Đoàn-Phước-Câu Tôn Linh
Thuộc Nội Điện Nội Trực Đội Kiêm Thủ Nội Tiến Khố
Triêm An Bá Hồ-Công-Đẹp Tôn Linh.
Cai-Tri Phó Tướng Tòng Quân Tân-Định-Thuyền Kiêm Thủ Nội Hàm Khố
Lưu-Phước Tử Hồ-Hữu-Kiểm Tôn Linh
Quan Tân Tu ThânDoãn Hoằng Tín Đại Phu Chánh Dinh
Chiêm Hậu Gián Trực Bá Hồ-Hữu-Khoa Tôn Linh
Thông Chương Trung Đại Phu Nội trang hữu Phủ Thừa
Anh Quang Bá Đoàn-Quang-Anh Tôn Linh
Quan Tân Tu Thận Doãn Hoằng Tín Đại Phu Hồng-Lô Tự
Thiếu Khanh Chánh Dinh Chiếm Hậu Quan Nhật Quan Tử Hồ-Hữu-Dụng
Tôn Linh
Ngân Tượng Ty Thủ Hạp Tuyển Đức Tử Hồ-Hữu-Thành Tôn Linh
Binh-Bộ Thượng Thư Kiêm Đô-Sát-Viện Vinh-Lộc Đại-Phu
Hiệp Biện Đại-Học Sĩ Đoàn-Văn-Phú Tôn Linh
Bổn Xã Tiền Hậu Công-Đức Tôn Linh Liệt Vị.
Viết-Công-Duy
--- ---
Tôn Thần Tướng Địa Đạo
Dy thát Tổ Khai cương, Thiên niên lưu sử tích
Hậu dân sinh di Canh điền tạc tỉnh
Vạn thế lại kỳ công
Khuyến dĩ thiệt nghiệp Nông, Tang
Chiêu dân lập Ấp
Giáo dĩ tuần thường lễ nghĩa Mỹ Tục, Thuần Phong
Mặt vận diêu linh chương dương tại thượng
Xuân Thu kỳ báo
Thứ biểu Thôn Trung
Thời duy bát Nguyệt
Tiết thuộc Thu Trung
Phẩm nghi tứ thiết phỉ lễ kiền công
Trường Ca Ký Sự Trang 42
43. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
Phục nguyện lai cách lai lâm
Bảo bổn xã Dân an, vật phụ
Ngưỡng vọng hửu thành hữu cảm
Phò đồng dân Văn Tấn, Võ Thăng
Ngưỡng lại Thần chi đức Gia Huệ rõ
Tuế thứ Canh-Ngọ Niên Tam Nguyệt Sơ Lục Nhật
Cẩn cáo
(Sao lại Văn Tế Chính dịp Thu Phục và Cung Nghinh
Đình Sơn Tùng ngày 06 tháng 03 năm Canh Ngọ -1990)
Trường Ca Ký Sự Trang 43
44. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
TRUYỀN THUYẾT ÔNG CỌP
--- ---
Trước năm 1946, dân làng điều biết phía bắc Đình Sơn Tùng có một
cái miếu dưới gốc Cây đa cạnh mộ Ngài khai canh Hồ Công Bình Hộ Bộ
Thượng Thư, phía sau là đám cây rậm rạp.
Trong miếu có thờ hình một con Cọp dáng ngồi trên sàn có lư
hương, có cửa bình khoa nhỏ để mở và đóng lại, trước có mành trúc che.
Tương truyền, ngày xưa thuở dựng làng, Sơn Tùng là nơi rừng rậm
đầm lầy, một hôm các ngài Khai canh, Khai Khẩn phát hiện một con Cọp sa
lầy gần chết, các ngài cứu thoát. Để nhớ ơn cứu tử, Cọp chịu giúp đỡ các
Ngài nhiều việc, có truyền thuyết lại cho rằng Cọp này của Ngài Khai Canh
Hồ Quí Tướng, Hồ Công Bình Hộ Bộ Thượng Thư có lúc các Ngài dùng
làm ngựa. Lúc các Ngài qua đời Cọp về rừng, và lạ thay cứ mỗi độ Xuân kỳ
Thu tế, thường niên thì sáng ngày giữa sân đình làng lại có xác thú rừng
Nai hoặc Heo còn tươi máu để dân làng làm cỗ bàn cúng tế. Để ý rình đêm
trước ngày cúng lễ trong bóng tối người ta thấy một con Cọp to lớn đem
thú rừng về cho làng rồi lại ra đi, thời gian từ năm này qua năm khác mỗi
độ Xuân-Thu nhị kỳ hàng năm thì trường hợp ấy đều đặn xảy ra cho nên có
dư luận các làng lân cận và quan trên cũng biết.
Đau đớn thay vào một mùa Thu như thường lệ Cọp ân nhân không
còn nữa không mang thịt thú rừng về, dân làng xôn xao bủa ra đi tìm, khi
đến Bầu Niên (làng Nam Dương) thì thấy dân làng ở đây đang bao quanh
xác một con Cọp bên xác Heo rừng còn nguyên, Sơn Tùng trình bày sự
thật và họ cũng hiểu ít nhiều về chuyện từ trước nên dân ở đây để Sơn
Tùng nhận.
Để nhớ ơn một con Cọp có nghĩa và là ân nhân nên làng tạc tượng
thờ từ ngày đó bà Con dân làng gọi là Ông Cọp, lại có truyền thuyết Cọp đi
ngang Bầu Niên sa lầy bị đỉa cắn chết nên dưới bụng có tạc hình một con
đỉa đang bám. Lại nói Cọp bị làng Nam Dương đánh chết khi sa lầy ở Bầu
Niên nên bị kiện, và quan trên phân xử làng Nam Dương tạc hình tượng
Cọp để bồi thường cho Sơn Tùng.
Chiến tranh giặc chiếm đình làng làm đồn, miếu thờ Ông Cọp bị phá
sập tượng Cọp ném xuống sông, bao năm lụt bão dữ dội không hiểu thế
nào đáng lẽ như những vật khác theo dòng nước trôi xa ra biển thì Cọp lại
trôi dạt vào ngay nhà thờ Ngài Khai Canh Hồ Công Bình Hộ Bộ Thượng
Thư (họ Hồ nhì), qua bao năm lửa đạn gió mưa ông Cọp nay đã phai màu.
Rồi trên đóng gạch hoang tàn, đình làng được xây dựng lại năm
1972, Ông Cọp lại về Đình nhưng không còn miếu để thờ, để an nghỉ như
Trường Ca Ký Sự Trang 44
45. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
thời chưa chiến tranh mà oái ăm thay Cọp lại nằm dưới chân bia mộ của
Ngài Khai Canh làng, như nhắc nhở ai nhớ lại mối thâm oái oăm tình một
thời xa xưa nào đó “Thú mến tình Người “.
Nắm xương tàn đáy mộ!
Bia xanh ghi công đức
Tượng Cọp phai màu phủ phục mắt u hoài mơ hồ xa xăm như tưởng nhớ
nỗi niềm đất nước, tình người quê hương Sơn Tùng mến thương từ vạn
cổ.
Lời bàn: Ở nhiều làng, nhiều địa phương thường thường có những câu
chuyện tương truyền huyền thoại, Nước cũng có như huyền thoại (huyền
sử) về “Con Rồng cháu Tiên” của dân tộc Việt. Thái Dương Thần Nữ của
dân tộc Phù Tang (Nhật) hay dụ ngôn “Phù Đổng Thiên Vương” đời Hùng
Vương thứ VI đánh giặc Ân.
Truyền thuyết về Cọp đội ơn cứu tử của làng Sơn Tùng được truyền miệng
từ đời này sang đời khác chứng tích là cái Miếu cũ kỹ dưới cây đa già và
tượng cọp bằng gỗ sơn màu. Chuyện có hay không đối với Sơn Tùng vẫn
là những câu chuyện thú vị mặn mà đêm nào ông bà kể lại cho con cháu
nghe. Thầm nghĩ người xưa tiên tổ Sơn Tùng muốn có một dụ ngôn cho
con cháu mai hậu “Chúa Sơn Lâm, dữ như cọp mà vẫn cảm hóa được, và
thú vật còn biết ân biết nghĩa, có tình huống là làm người….. “ nên Sơn
Tùng vẫn xem đó là câu chuyện riêng của quê hương đầy ý nghĩa, đầy
thích thú từ bao đời trước đến nay, nên địa ký Sơn Tùng kính ghi lại để
tưởng nhớ người xưa và lưu niệm.
Trường Ca Ký Sự Trang 45
46. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
Và có thơ rằng
Nghìn xưa rời bỏ chốn Sơn Lâm
Bởi vì nghĩa nặng với tình thâm
Nhớ chiều ngộ nạn Sơn Tùng cứu
Cho dạ ghi sâu tự đáy lòng
Truyền thuyết từ xưa có hay không
Dụ ngôn còn lại Sơn Tùng đó
Tượng Cọp còn đây đã rõ lòng
Trãi bao nắng hạ với mưa đông
Bao lần khói lửa bao tai biến
Tượng vẫn còn đây với nỗi lòng
Như nhắn cùng ai người hậu thế
Vẫn một sắc son vẫn một lòng.
Trường Ca Ký Sự Trang 46
47. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
TẾ KỲ PHÚC
Mỗi năm trong Tứ thời hoặc hoặc hai thời Xuân Thu có tuyền đại Tế
gọi là Tế Kỳ Phúc nghĩa là cầu cho dân được bình an.
Trước một ngày làm lễ cáo yết dắt trâu bò ra xem xét rồi đổ một
chén rượu vào đầu trâu bò gọi là Tỉnh Sinh. Tỉnh Sinh rồi mới được giết
thịt.
Trước khi Tế phải rước Văn, dân làng đem Long-Đình cờ quạt tài tử,
đồng văn và cắt một người viên chức đội mũ mặc áo thụng đến tại nhà
người diễn Văn (người coi việc tả Văn Tế) mà rước bản Văn về Đình
(Riêng Sơn Tùng xưa rước ở Chùa bởi sắc bằng Văn Tế đều để ở đây,
hay rước ở Mòm Thần-Trụ giữa không trung.) Người Tả Văn cũng phải đội
mũ mặc áo thụng đi theo Long-Đình.
Vào đến cửa Đình người làm Tế chủ phải ra tại cửa ngoài mà
nghênh tiếp bản văn đem vào an-trí trong nội Hương án đâu đấy mới Tế.
Tế phải có một người làm Tế chủ, kén người nào có chức tước ngôi
thứ cao nhất trong làng mới được làm.
Làng Sơn Tùng thì thường kén người có ngôi thứ hoặc lớn tuổi vợ
chồng song toàn có con trai con gái đề huề làm ăn lương thiện ăn ở phúc
đức làm Tế chủ.
Hai hoặc bốn bô lão làm Bồi Tế đứng dưới người Tế chủ cứ trông
mà lễ theo. Có hai người: Đông Xướng, Tây Xướng đứng đôi bên cạnh Cái
Hương Án bày đài rượu để xướng lễ. Lại có hai người Nội táng đứng đôi
bên người Tế chủ để dẫn người Tế chủ khi ra khi vào và trợ xướng những
khi Tế chủ đã vào chiếu trong. Còn phải mươi mười hai người nữa đứng
hai bên vào chấp sự, hoặc dâng hương hoặc dâng rượu hoặc chuyển
chúc, đọc chúc,….
Trước chỗ Hương án trải bốn chiếu Tế : Thứ nhất là chiếu Thần Vị,
thứ nhì là chiếu Tế chủ Thụ tộ, thứ ba là chiếu Ngôi Tế Chủ, thứ tư là chiếu
Bồi Tế.
Lúc gần Tế tự người Tế chủ cho chí các viên chức ai nấy đội mũ
mặc áo thụng đi hia chỉnh tề đứng xếp hàng hai bên. Đồng Văn (người
đánh trống) rung xong ba hồi trống tế thì người đồng xướng, Xướng:
Khởi chinh Cổ: thì có hai người chấp sự đi hai bên vào chỗ giá chiêng giá
trống một người đánh ba hồi chiêng, một người đánh ba hồi trống rồi mỗi
bên đánh thêm ba tiếng nữa. Kế đến xướng: Nhạc Sinh Tựu Vị: thì phường
bát âm tài tử kéo nhị, thổi sáo gảy đờn gõ kiển và đồng văn đánh trống
nhỏ. Kế đến xướng: Củ soát Tế Vật: thì hai người mỗi người cầm một cây
nến một người nhúng cái đế cắm một bó hướng dẫn người Tế chủ vào mãi
Nội điện xem xét đồ lễ có được thành kính hay thiếu cái gì chăng. Đoạn rồi
trở ra, khi vào thì phía hữu khi ra thì phía tả lúc nào ra vào cũng vậy. Kế
đến xướng: Ế Mao Huyết: thì có một người cầm một cái đĩa đựng một ít tiết
và mấy cái lông trâu bò đổ đi. Kế đến xướng: Chấp Sự Giả Các Tư Kỳ sự:
Thì người nào việc gì phải chăm chú để giữ ấy. Kế đến xướng: Tế chủ giữ
Chấp Sự Giả các Nghệ Quán Tẩy Sở: Thì người Tế chủ và các người chấp
sự đến cả chỗ cạnh Hương án, có để một chậu nước trên cái kỷ và treo
Trường Ca Ký Sự Trang 47
48. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
một cái khăn tay. Kế đến xướng: Quán Tẩy : Thì người Tế chủ rửa tay vào
chậu nước. Lại xướng : Thuế Cân : Thì người thế chủ lấy khăn ấy lau tay.
Kế đến xướng : Bồi Tế Viên Tựu Vị : Thì mấy người Bồi Tế bước vào đứng
sắp hàng chiếu cuối cùng. Kế đến xướng : Tế chủ viên Tựu-Vị : Thì người
Tế chủ bước vào chiếu vị một mình. Kế đến xướng : Thượng Hương : Thì
hai người chấp sự một người phủng cái lư hương một người phủng hộp
trầu đem đến trước mặt Tế chủ. Tế chủ lấy gói trầu bỏ vào cái lư rồi cầm
lấy cái lư vái một vái lại đưa cho người chấp sự bưng vào đặt trên Hương
án gian giữa. Kế đến xướng : Nghênh Thân Cúc cung bái : Thì chủ và mấy
người Bồi Tế đều lạy sụp cả xuống, người Tây xướng một tiếng Hưng thì
đứng dậy. Lễ xong bốn lễ xướng Bình Thân thì đứng ngay mình cho
nghiêm. Kế đến xướng : Hành-Sơ Hiên Lễ Thì lúc dâng rượu lần đầu. Kế
đến người Nội tán xướng : Nghệ tửu tương sở Tư tôn giả cử nịch : Thì Tế
chủ đi ra chỗ để án để đài rượu và người chấp sự mở cái miếng vải phủ
trên mâm đài ra. Xướng : Chước Tửu : Thì rót rượu. Kế xướng :Nghệ Đại-
Vương Thần Vị Tiền : Thì hai người Nội Tán dẫn người Tế chủ lên chiếu
nhất. Xướng : Quỳ Thì Tế chủ và Bồi Tế đều quỳ cả xuống. Kế xướng :
Tiến Tước : Thì một người chấp sự dâng đài rượu đưa cho Tế chủ vái một
vái lại giao trả cho người chấp sự. Xướng : Hiến Tửu : Thì các người chấp
sự dâng rượu đi hai bên đều phải phủng cao đài rượu mà dâng vào Nội
điện . Xong rồi trở ra xướng : Hưng. Bình Thân Phục-Vị : Thì Tế chủ Bồi Tế
cùng phục xuống rồi đứng dậy, Tế chủ lui ra chiếu ngoài. Kế xướng : Độc
Chúc : Thì có hai người chấp sự vào bàn trong phủng văn tế ra. Người Nội
tán xướng : Nghệ Độc chúc Vị : Rồi lại dẫn Tế chủ lên chiếu trên xướng :
Dai Quỳ : Thì Tế chủ Bồi Tế và hai người phủng chúc, độc chúc đều quỳ cả
xuống. Xướng : Độc Chúc (lần nữa) Thì người Độc chúc tuyên đọc bài văn
Tế trên. (lên). Trong Văn Tế trước hết kể niên-hiệu, ngày tháng, kế đến nói
đến Tỉnh, Phủ, Huyện, Xã, rồi liệt Hết các tên các Tiên Thứ chỉ, chức sắc
kỳ mục và các người lão hạng trong làng (xã) Kính dâng lễ vật cáo với
Thần Vị nào kể hết Diệu Huệ (Duệ Hiệu) và những Mỹ-Tự của Nhà Vua
phong cho Thần. Đọc xong Tế chủ lạy hai lạy rồi lui ra chiếu ngoài. Kế
dâng hai tuần rượu nữa : Tuần thứ hai gọi là Á Hiến Lễ tuần thứ ba gọi là :
Chung Hiến Lễ. Cách xướng lễ cũng như tuần trước. Xong cả ba tuần
rượu rồi thì xướng : Am Phúc : Có hai người vào Nội-điện bưng một chén
rượu và một khay trầu cho người Tế chủ, xướng : Nghệ Am Phục Vị:Thì
người Tế chủ quay ra bước lên chiếu thứ nhì xướng : Quỳ:Thì Tế chủ quỳ
xuống rồi hai người đưa chén rượu khay trầu cho Tế chủ, xướng : Am-
Phúc : Thì người Tế chủ bưng lấy chén rượu vái một vái rồi uống cho hết
ngay một hơi. Xướng : Thụ Tộ : Thì Tế chủ cầm khay trầu cũng vái rồi mới
ăn một miếng. Nghĩa là Thần ban phúc lộc cho thì phải uống ngay ăn ngay
mới là kính trọng Thần. Đoạn lại lễ hai lễ rồi lui ra chiếu ngoài. Kế xướng :
Tạ Lễ cúc cung bái : Thì Tế chủ Bồi Tế cũng lạy tạ bốn lạy. Xướng : Phần
Chúc : Thì người đọc chúc đem bản văn phóng hỏa đi. Đến xướng : Lễ Tất
là việc Tế xong.
Trường Ca Ký Sự Trang 48
49. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
Trong khi Tế những lúc dâng rượu lúc phân chúc nhạc sinh đều phải cử
nhạc. Đến lúc Tế xong dân làng theo thứ tự vào lễ cũng có đánh trống gọi
là trống lễ.
(Phỏng theo “Việt-Nam Phong-Tục” của Phan-Kế-Bính)
Trường Ca Ký Sự Trang 49
50. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
HOÀI NIỆM
Kính bà con Sơn Tùng thân thương!
Kính cẩn nghiêng mình trước những anh linh đã khuất
Kính nhớ Công-Đức Tổ-Tiên xây Làng dựng Xóm
Kính nghiêm mình tưởng niệm anh em bà con Làng ta bỏ mình trong
chiến đấu giành độc lập cho tổ quốc Việt Nam thống nhất, hòa bình, hạnh
phúc, độc lập và tự-do.
Kính anh chị em bà con hậu thế.
Nghĩ rằng: Từ Hùng-Vương dựng Nước, người Việt cổ đã có Làng,
dựng Nước nhưng không bỏ Làng, những lúc bị xâm lăng hiểm nghèo Tổ-
Tiên ta đã dựa Làng giữ Nước. Làng, Nước xoắn xuýt với nhau trong một
thể thống-nhất, các Làng kết hợp với nhau thành một khối cao hơn là
“NƯỚC” mới đủ sức đấu tranh chống thiên tai, địch họa, có giữ Nước mới
giữ được Làng có dựa vào Làng mới giữ được Nước. Giữ Nước giữ Làng
đó là ý chí sắt đá của Tổ-Tiên Việt-Nam ta!
Người xưa đã bảo: “Yêu Nước xuất phát từ lòng yêu Quê hương”
Thật là chân lý! Quê hương là thơ là nhạc, là điệu hò câu hát ấm áp lòng
người “Quê hương là mẹ hiền mỗi người đều có, ai không nhớ Quê hương
không lớn nổi làm người….”
Kính Thưa: Sơn Tùng làng ta một góc trời quê hương yêu dấu trong
Tổ-quốc Việt-Nam, đã nhớ công ơn xưa “...xác thổ khai cương, thiên niên
lưu sử-tích, hậu dân sinh đi canh điền, tạc tỉnh nạn thế lại kỳ công, khuyến
dĩ thiệt nghiệp Nông, Tang, chiêu cư lập ấp. Giáo dĩ tuần thường lễ nghĩa
mỹ-tục, thuần phong…” (Định đất khai phong ngàn năm lưu sử tích, sau
đưa dân đến làm ruộng, đào giếng vạn đời lại đẹp công, khuyến khích
nghề làm ruộng trồng dâu, lập ấp dạy dỗ thường xuyên điều hay lẽ phải)
Nhớ ngày nào Châu Ô, Châu Rí miền hiểm địa, tổ tiên Sơn Tùng
làng ta thập tứ tôn phái (mười bốn giòng họ) theo Huyền Trân Công Chúa
tuần tự lên đường để khai hoang lập làng dựng xóm.
Nhớ ai người đi trước Khai-Canh Hồ-Quý-Tướng húy Phước-Sanh,
Hồ-Công-Bình Hộ-Bộ Thượng-Thư Thời Canh Câu Kê Xã Trưởng Hồ Thu
Hảo, Hồ Công Muốn Tôn Thần, cùng các Đại Lang đứng đầu giòng họ :
Đoàn Nhơn Thọ, Văn Hữu Diễn, Nguyễn Văn Nô, Hồ Công Tôn, Hồ
Thiện Đào, Hồ Hữu Quãng, Nguyễn Thế Ái, Đoàn Hữu Lễ, Đoàn Phước
Khương, Hồ Hữu Vĩnh, Đoàn Viết Thịnh, Hồ Công Đây, Hồ Hữu Ngưu,
và bao tiền bối công đức khác đã ngăn đê giữ nước chống chọi thiên tai
muỗi mòng thú dữ rắn rết.
Miền biên địa xa xôi hiểm trở ngày xưa đã thành nơi chôn nhau cắt
rốn, bà con làng ta đã sống bao đời dĩ hạ, tấc đất ngọn rau, bia kỷ niệm ghi
công khai thác, tổ tiên tiền bối mong cơ đồ được vững bền, bà con hậu thế
vui cười tiến bộ hơn.
Trường Ca Ký Sự Trang 50
51. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
Hôm nay người đi xa kẻ ở lại ai cũng đã hơn một lần hân hoan đứng
trên đất Làng nhìn đồng xanh lúa mới chan chứa tình người, bờ lau ngọn
cỏ đất vàng cát trắng, bến đò sông nước Đình đám Chùa Làng mưa đông
nắng hạ, khói lam chiều cuộn mái tranh, xe lùa nước giọng hò ô, gió mát
trăng thanh hò giã gạo, chim bay về núi, cò trắng về Làng,.…
Bà con Làng ta đã bao lần đói no ấm lạnh, mùa đông thiếu áo, mùa
hè thiếu ăn, từng sống kham khổ trong những ngày dài nô lệ, sưu cao thuế
nặng, u buồn đen tối, rồi cũng được cùng nhau vui mừng nhìn trời hứng
ánh bình minh của ngày Cách Mạng Mùa Thu (1945).
Sơn Tùng thân thương!
Từ chiến trường xa người chiến sĩ Vệ-Quốc cầm cành lá ngụy trang
chưa khô màu nắng ngắm nhìn “răng giống lá của Cồn Làng mình rứa! ”,
đưa mắt về phía chân trời nhớ đến cây Đa đồng quê, sông nước, luống cày
lối cấy, giọng hò nghe đôi mắt nằn nặng, cay cay, để nghe lòng mình vang
lời thề “ Diệt giặc cứu lấy Quê hương ”. Lòng rắn lại mà co một ngón tay
chai …
Con dân Sơn Tùng xa Làng chiều nào dừng chân trên bến đò xa
vắng mà nhớ thương về Sơn Tùng quê cũ, người còn trông ai đi trở lại,
Quê hương còn đó, cảnh xưa đã thay đổi hoang tàn qua hồi chinh chiến,
giặc đốt làng sáu bảy dạo, giặc phá tan tành. Ôi!! Còn đâu phong phú
những màu xanh đã bao lần trở thành đai trắng.
Kính Thưa : Nay Nước nhà thống nhất, độc lập, tư do thanh bình trở
lại trên quê hương, bà con xa cách trong kế hoạch phân bổ lao động, hoàn
cảnh: người thủ đô Hà Nội, Lai Châu, Nghệ Tĩnh, Đồng Hới, Đà Nẵng,
thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), A Sao, A Lưới, Phong Sơn, Thanh Tân-
Ồ Ồ, Kom Tum, Buôn Mê Thuột, Đắc Lắc, Đà-Lạt, Miền Đông và Tây Nam
Bộ,….
Xa Làng mà lòng không xa, chúng ta con dân: lấy Sơn Tùng làm
tiếng Đài Tưởng niệm, làm nơi xuất phát hãnh diện phấn đấu xây dựng quê
hương chung Tổ quốc Việt Nam. Mong mai kia ai có bay ra ngoài không
gian vũ trụ, nhìn về trái đất trong đó có Tổ quốc Việt Nam, có làng ta Sơn
Tùng yêu quý. Dưới mái nhà trường, trong giảng đường đại học cố gắng
miệt mài học tập, tuyến đầu gìn giữ đất nước, công trường nhà máy, nhớ
đến Sơn Tùng Tổ tiên kham khổ mà cố gắng tiến lên cho thỏa lòng người
xưa mong mỏi…
Chúng ta nghĩ rằng: Nên ghi lại Sơn Tùng Làng ta đã chịu đựng phi
thường đứng mũi chịu sào cho vùng Du Kích Chiến suốt 30 năm, một trăm
hai mươi (120) mùa lửa đạn, đê đập Sơn Tùnng là thành cao, sông rào
Sơn Tùng từng biến thành hào rộng, vô cùng đau khổ bi thương nhưng
hùng tráng của bà con dân làng đã trải qua.
Kính thưa bà con
Trường Ca Ký Sự Trang 51
52. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
Đến đây chúng ta dành một phút mật niệm, kính cẩn nghiêng mình
tưởng nhớ bao anh linh bà con dân Làng hoặc những chiến sĩ đã bỏ mình
trên đất Làng vì nền Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc.
Kính buồn nhớ tiếc thương nạn nhân chiến cuộc
Kính biết ơn anh em bà con đã hy sinh một phần thân thể cho công
cuộc cứu lấy Quê Hương.
Kính chia buồn với tình nghĩa đậm đà những gia đình bà con đã tiễn
người ra đi mà không bao giờ trở lại.
Kính thưa bà con
Lúc 9 giờ 30 phút sáng ngày 21 tháng Giêng năm Đinh-Hợi (1947)
lần đầu tiên giặc đến, đạn giặc nổ bay qua Làng từ đó kéo dài Sơn Tùng
làng ta xảy ra bao điều tai biến !!
Xưa Tổ Tiên ta cũng đã nhiều lần kháng chiến chống ngoại xâm hay
vùng lên giành độc lập có lẽ không có sự chịu đựng nào hơn hai cuộc
kháng chiến vừa qua nếu kể về thời gian sự tàn phá ác liệt và hỏa lực vũ
khí giết người hiện đại, không một ngôi nhà nào còn, giặc đốt đến sáu bảy
dạo, nấm mồ chôn vội vã bà con chết tức tưởi đau thương. Cảnh con mất
cha vợ mất chồng, trai làng lìa bỏ quê hương quên mình trong chiến đấu,
nay kẻ còn người mất vết thương ghi trên thân thể dân làng còn đây, đau
buồn còn đó!
Cùng nhiều Làng khác trong Tổ Quốc Việt Nam đứng lên đoàn kết
chống xâm lăng, Sơn Tùng làng ta đáng được tự hào lắm chứ! Đã từng giờ
từng phút không lúc nào ngớt bom lao đạn nổ đánh đuổi quân thù, suốt
mấy mùa quanh năm nước mắt máu lệ, khoai ngô gạo thúi ăn không đủ no
vẫn bền gan quyết chí!. Thanh niên là dân cày dân thợ từ ngày đầu cuộc
chiến ra đi : chân không, nón đệm, mã tấu tầm vông lại thêm chai ớt làm vũ
khí nằm trong hành trình quyết tiêu diệt hoặc cảnh tỉnh quân thù đừng
chiến tranh phi nghĩa. Qua chiến đấu có người đã mang quân hàm tướng
tá, những sĩ quan ưu tú của Quân đội Nhân dân, Công An Nhân dân từng
gây sấm sét vang dội khắp hoàn cầu. Qua tôi luyện có người đã thành cán
bộ dạn dày ngành nghề nay trở về xây dựng quê hương làng xóm.
Kính thưa bà con
Lại có người vĩnh viễn nằm xuống gửi nắm xương tàn nơi chiến địa,
là những anh hùng không tên tuổi, bỏ xác thân nơi rừng xanh núi thẳm
thành những chiến sĩ vô danh. Để hôm nay khi hiu hiu gió lộng chiều về,
hoàng hôn buông xuống người quả phụ, người Cha, Mạ, Chị, Em Sơn
Tùng nhìn về phía trời xa mơ về dĩ vãng, nhớ ngày nào ôm con tiễn chồng,
nắm cơm muối mè ruốc tương gạo, tiễn con em. Cha già tóc sương pha
mắt mờ áo còn mang nặng mùi mồ hôi luống cày đồng ruộng đi tận cuối
Làng tiễn đưa con vào cuộc chiến… và hôm nay biền biệt không về!!!
Ôi! Bao nhiêu thương nhớ!
Bấy nhiêu chạnh lòng!!!
Chúng ta cùng nhau ôn lại, như một đêm mưa miền Quê hương,
bên bếp lửa than hồng đêm đông rét mướt trong tấm chăn mền cũ kỹ,
Trường Ca Ký Sự Trang 52
53. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
trong đống rơm khô chống lạnh, hay bên nồi bánh tét Tết đêm 30 trừ tịch,
Cha mạ đã kể lại chuyện xưa tích cũ của xóm làng, ghi niềm tưởng nhớ
vào đây tạm gọi là “Sơn Tùng Địa phương Ký” để biết công ơn và tưởng
niệm người xưa.
Kính mong thông cảm đây không phải là khảo cổ, lý luận văn
chương mà là đôi giọt lệ chân thành, tấm lòng chân thật của con dân làng
hồi tưởng mà nghĩ đến sự thân thương,
Kính bái
Đông Bính Dần 1986
Tùng-Sơn Văn-Hữu-Tuất
Hiền thê Đoàn-Thị-Bích
--- ---
(Trong dịp Cung nghinh Đình Sơn Tùng ngày mồng 6 tháng 3
năm Canh Ngọ -01.04.1990- Bài này được đọc ở lễ Tế ngoài
trời Hoài niệm trước khi rước lư hương Khai Canh Tiền Hậu và
Thủy Tổ Công Đức vào thờ ở Chánh điện Đình Làng. Ông Hồ
Biên đọc)
Trường Ca Ký Sự Trang 53
54. Sơn Tùng Địa Phương Ký TS : Văn Hữu Tuất
SƠ LỤC
--- ---
Phong Tước của Triều-Đình Phong-kiến thời xưa theo thứ tự:
Công : Quận Công, Quốc-Công.
Hầu : Đô-Tài-Hầu, Trạch-Tài-Hầu.
Bá : Tín-Đức-Bá, Thanh-Long-Bá.
Tử : Khôi-Nguyên-Tử, Khương-Lộc-Tử.
Nam : Thuận-Đức-Nam.
Cứ theo tài liệu dịch từ Thập Tứ Tôn-Phái có từ năm Tân-Tỵ (1461)
ngày mồng 10 tháng 8, thì Tổ tiên Làng ta các Triều-Đại xưa có nhiều Ngài
ra làm quan, ngoài việc giữ chức vụ còn được phong tước (thời phong
kiến).
Tước Hầu : 3 người (Họ Hồ 2, Họ Đoạn 1)
Tước Bá : 22 người (Họ Hồ 10, Họ Văn 7, Họ Đoàn 3, Họ Đoan 2).
Tước Tử : 5 người (Họ Hồ 2, Họ Văn 1, Họ Đoàn 2).
Tước Nam : 1 người (Họ Hồ)
Ngài Khai Canh: Đặc Tiền Phụ-Quốc Cẩm Y Thuật Thượng-Tướng Quân
Đô-Chỉ-Huy Sứ Kiêm Cai-Tri Đốc-Suất Tân-Nhất-Thuyền Đô-Tài-Hầu Hồ-
Quý-Công.
Hộ-Bộ Thượng Thư Hồ Quý Công Bình Tôn Thần
Long Võ Vệ Tín-Đức-Bá Đoàn-Phước-Hòa (Người sùng tu Chùa năm
Giáp Tuất (1734), xem bia cổ Chùa Sơn Tùng).
Binh Bộ Thượng Thư Kiêm Đô Sát Viện Vinh Lộc
Đại Phu Hiệp Biện Đại Học Sĩ Đoàn Văn Phú.
(Người xây Tam Quan Chùa Sơn Tùng).
Những chức vụ tước phong của Tiên Tổ xa xưa vào các triều đại
phong kiến trước chiến tranh đều có sắc bằng, có tài liệu thành văn, có
khắc ghi vào một tấm bia bằng gỗ mít lán bóng có bề mặt khoảng 6 mét
vuông chạm chữ đều bị cháy theo chùa năm Kỷ Sửu (1949). Con dân làng
sẽ tuần tựu sưu lục (nhờ sưu lục) ưu tiên là các ngài Khai Canh, những
ngài có công đức từ ngàn xưa dân làng đã ghi nhớ vào Văn Chính Tế.
--- ---
1) Tiền hậu Khai canh.
2) Công-Đức
Long Võ Vệ Tín Đức Bá Đoàn Phúc Hòa.
Căn cứ vào bia đá hiện còn ở Chùa Sơn Tùng, ngài Đoàn Phước
Hòa thuộc Vệ Long-Võ Tín-Đức Bá vào nhà Hậu-Lê (triều Lê Trung Hưng).
Trường Ca Ký Sự Trang 54