Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhấtMaloda
Đầy đủ đề cương ôn thi Ngữ Văn lớp 12 năm 2017 bản chuẩn tải về miễn phí
Đề liên tục cập nhật tại website maloda.vn.
Hotline: 0972.853.304 - 0904.727.139
Website: maloda.vn
Facebook: https://www.facebook.com/Maloda.vn/
Mười bốn truyện ngắn gọn ghẽ, xinh xắn và nói chung có khuynh hướng tuân theo các nguyên tắc cổ điển là có một cái gì đó có thể kể lại được; một cái gì đó được kể lại trong sự trọn vẹn của hình thức, tập trung vào một ấn tượng và có tính thống nhất về hiệu quả - những yêu cầu quan trọng của thể loại.
Đề cương ôn thi Ngữ Văn 2017 mới nhất và đầy đủ nhấtMaloda
Đầy đủ đề cương ôn thi Ngữ Văn lớp 12 năm 2017 bản chuẩn tải về miễn phí
Đề liên tục cập nhật tại website maloda.vn.
Hotline: 0972.853.304 - 0904.727.139
Website: maloda.vn
Facebook: https://www.facebook.com/Maloda.vn/
Mười bốn truyện ngắn gọn ghẽ, xinh xắn và nói chung có khuynh hướng tuân theo các nguyên tắc cổ điển là có một cái gì đó có thể kể lại được; một cái gì đó được kể lại trong sự trọn vẹn của hình thức, tập trung vào một ấn tượng và có tính thống nhất về hiệu quả - những yêu cầu quan trọng của thể loại.
Bê trọc - Chuyện đời thường trong chiến tranhPhamVietLong1
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long, giải nhì Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Còn có tên gọi "Chuyện đời thường trong chiến tranh"
Bê trọc, còn gọi là Chuyện đời thường trong chiến tranh, là tác phẩm của Phạm Việt Long, do Nhà Xuất bản Thanh niên xuất bản vào đầu năm 1999.
Với gần 700 trang in, Bê trọc chứa đựng một dung lượng hiện thực khá lớn, với những chuyện đời thường có thật nhưng không tầm thường mà rất có ý nghĩa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nuóc của dân tộc ta.
Thông qua nhật ký chiến trường của một phóng viên Thông tấn xã giải phóng, cộng với thư từ, bài báo, ký sự, truyện ngắn được lồng ghép trong một kết cấu vững chắc, Bê trọc dựng lại cuộc sống hào hùng của dân tộc ta trong một giai đọan rất vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: giai đoạn sau tổng tấn công tết Mậu thân (1968) đến ngày đại thắng mùa xuân (1975).
Bê trọc gồm bốn chương:
- Chương một: Vượt Trường Sơn. Chương này miêu tả cuộc hành trình đi giải phóng miền Nam với bao nỗi nguy hiểm, nhọc nhằn của những cán bộ - trí thức trẻ. Họ đã vượt qua vùng đất lửa khu Bốn cũ trong vòng oanh tạc của máy bay Mỹ, hai lần vuợt qua đỉnh Trường Sơn để sang đất bạn Lào và trở lại Tổ quốc, xẻ dọc Trường sơn, vào tới vị trí chiến đấu ở ban Tuyên Huấn Khu Năm.
- Chương hai: Ở căn cứ. Chương này nói lên cuộc sống ở căn cứ vô cùng gian khổ, nguy hiểm nhưng cũng đậm đà tình nghĩa đồng chí, đồng bào. Tại đây, những trí thưc, nhà báo trẻ kiên trì gùi cõng, sản xuất, vượt qua những trận sốt rét rừng, qua thiên tai, địch họa để làm công tác chuyên môn, để chờ thời cơ xung trận bằng chính ngòi bút của mình
- Chương ba: Về đồng bằng. Chương này dựng lại không khí sôi nổi tấn công và nổi dậy của quân và dân miền Trung Trung bộ những năm 1971 - 1972, trong đó đặc biệt sinh động là thế trận chiến tranh nhân dân ở tỉnh Bình Định. Bước chân phóng viên đã theo sát cuộc sống của nhân dân Bình Định, từ những ngày đồng bào bị địch kìm kẹp, cuộc sống ngẹt thở, cán bộ phải nằm hầm, bám dân làm công tác, tới những ngày chuẩn bị, rồi những ngày tấn công và nổi dậy cuốn băng đồn bốt địch, giải phóng quê hương.
- Chương bốn: Đi tới toàn thắng. Chương này phản ánh sức lớn mạnh không ngừng của lực lượng cách mạng, trong đó có lực lượng báo chí giải phóng. Đội quân báo chí được tăng cường, tỏa đi khắp các chiến trường ở Trung Trung Bộ để viết tin, viết bài, chụp ảnh, góp phần vào cuộc chiến đấu của dân tộc và cuối cùng đã cùng đồng bào, chiến sĩ Khu Năm đi tới toàn thắng.
Bê trọc là một bản hùng ca dung dị, đồng thời là một bản tình ca đằm thắm. Trên những trang sách, không chỉ có cuộc sống gian khổ, đói cơm, nhạt muối, cũng không chỉ có khí thế chiến đấu sôi nổi, hào hùng, mà còn có tình yêu đằm thắm - tình yêu đồng đội, đồng bào, tình yêu lứa đôi. Bằng những chi tiết sinh động, Bê trọc đã xây dựng nên hình tượng một Bê trọc giản dị mà hào hùng - đó là những cán bộ chiến sĩ chưa có gia đình riêng từ miền Bắc lên đường vào chiến trường B, những cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc trở lại..
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
Troi dem nhung vet thuong xuyen thau ocean vuongPhan Book
Ocean Vương là nhà thơ, cây bút tiểu luận người Mỹ gốc Việt, vừa đoạt giải Thơ T.S Eliot của Vương quốc Anh năm 2017 cho tập thơ đầu tay Night Sky with Exit Wounds, sau khi nhận nhiều giải thưởng văn chương danh giá khác của Mỹ (giải Pushcart năm 2014, giải Whiting năm 2016, giải Forward năm 2017...). Nhà thơ Bill Herbert - Chủ tịch hội đồng giám khảo giả T.S Eliot nhận định, Night Sky with Exit Wounds là "sự khởi đầu chắc chắn một cách thuyết phục, sự tới đích rõ rệt của một giọng nói quan trọng". “Cách nhìn thế giới của cuốn sách thật đáng kinh ngạc”.
Sinh ra ở một vùng nông thôn ngoại thành Sài Gòn, Ocean Vuong đến Mỹ năm lên hai, được mẹ, bà ngoại và dì ruột nuôi dưỡng. Mãi tới năm 11 tuổi anh mới học đọc tiếng Mỹ. Trưởng thành, Vuong là một ngươi đồng tính công khai.
Vuong hiện sống tại bang Massachusetts, là phó giáo sư chương trình Thạc sĩ Sáng tác Thơ Văn của Đại học Massachusetts tại Amherst. Ocean Vuong từng bộc lộ với báo New York Times:
“Cái tên Ocean được mẹ anh đặt lại cho anh khi bà đã ở Mỹ. Một bữa, đang làm việc ở tiệm nail, bà kêu lên nóng quá và muốn được ra bãi biển (beach). Nhưng phát âm tiếng Anh của bà không chuẩn, nghe như ‘bitch’ (con điếm), khiến mọi ngươi cười. Một ngươi khách hỏi: ‘Why not ocean?’ (Sao bà không nói là ‘đại dương’?). Với vốn tiếng Anh ít ỏi, bà ngơ ngác. Khi được giải thích đó là vùng nước mênh mông mà bờ kia là Việt Nam, bà quyết định đặt tên con là Ocean.”
Vuong kể rằng gia đình anh từng sống trong căn hộ một phòng ngủ ở Hartford, bang Connecticut, và đó giống như một ngôi làng toàn phụ nữ Việt Nam là những người nuôi dưỡng anh (năm người bà con, không kể mẹ anh). Vì thế, văn hóa Việt được giữ khá nguyên vẹn với tiếng Việt và các món ăn trong bữa cơm thương ngày.
Chiến tranh Việt Nam cũng là nỗi ám ảnh sâu xa trong ngôi nhà này. “Tôi cảm thấy mình là kẻ nhận thừa kế của chiến tranh. Cuộc sống và thơ của tôi cố gắng điều tra cái giao điểm làm nên nghĩa lý của một ngươi Mỹ sinh ra từ bạo lực, làm nên nghĩa lý từ bạo lực”, anh chia sẻ với báo chí.
Về bút pháp thơ, anh thấy hình như mọi người trong gia đình mình gặp khó khăn về việc đọc tiếng Anh, nhưng anh lại coi việc ấy có tác dụng tích cực cho chuyện làm thơ của mình: “Bởi vì tôi viết rất chậm và nhìn các từ y như các vật thể. Tôi luôn tìm cách tìm từ bên trong từ. Thật tuyệt vơi cho tôi khi thấy được từ laughter (tiếng cười) nằm bên trong từ slaughter (sự tàn sát)”.
Tuần 4 bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang DũngDavidjames6789
Tuần 4 bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang DũngTuần 4 bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
Thể hiện được sự khó khăn vất vả, ý chí ngoan cường, anh dũng giành độc lập của bộ đội
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Văn hiến Hà Nam - Truyền thống và hiện đại” do tỉnh Hà Nam và Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam phối hợp tổ chức.-Phần 2.
Đăng trên vanhien.vn
1. HỒN NAM BỘ
Võ Hiếu Nghĩa – Người con Nam bộ ghi lại
Người Nam bộ trước hết rất xứng đáng là những anh hùng thật sự mở mang bờ cõi, chịu
khỗ chịu cực, luôn kề bên cái chết bởi biết bao là hiểm họa từ hùm thiêng rắn độc, sơn lam
chướng khí, nhưng vẵn luôn giữ tính tình khảng khái chân chất thật thà, thương bạn thương bè,
là những người hiệp nghĩa “thấy chuyện bất bằng chẵng tha”. Chúng ta hãy xem qua đặc tính
của người Nam bộ qua các nhân vật điển hình.
(PDF có ghi bản nhạc Điệu Buồn Phương Nam của Vũ Đức Sao Biển)
Phần I : Sơn Nam & Vũ Đức Sao Biển
Sơn Nam (nhà văn)
Tác phẩm nổi bật : Hương rừng Cà Mau
Sơn Nam (1926 - 2008) là một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu
văn hóa Việt Nam nổi tiếng.
Ông tên thật là Phạm Minh Tài sinh ngày 11 tháng
12 năm 1926, tại làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch
Giá (nay thuộc tỉnh Xã Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Kiên
Giang). Do sự nhầm lẫn của nhân viên hộ tịch, tên khai sinh của ông
bị viết sai thànhPhạm Minh Tày.
Thuở nhỏ ông học tiểu học tại quê nhà, rồi học trung học tại Cần
Thơ. Năm 1945, ông tham gia Thanh niên Tiền phong, giành lấy
chính quyền ở địa phương, rồi lần lượt tham gia công tác ở Hội Văn hóa cứu quốc tỉnh, phòng
Chính trị Quân khu, phòng Văn nghệ Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ. Bút danh Sơn Nam ra
đời trong thời gian này, để tưởng nhớ người phụ nữ Khmer đã cho ông bú mớm thời thơ ấu
(Sơn là một họ lớn của ngườiKhmer, Nam là để nhắc nhớ mình là người phương Nam).
Sau Hiệp định Genève 1954, ông về lại Rạch Giá.
Năm 1955, ông lên Sài Gòn cộng tác với các báo: Nhân loại, Công Lý, Ánh sáng, Tiếng
chuông, Lẽ sống...
Năm 1960-1961, bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt giam ở nhà lao Phú Lợi (Thủ Dầu
Một, Bình Dương). Ra tù, ông tiếp tục làm báo, viết văn và khảo cứu về Nam Bộ. Sau 1975,
ông tiếp tục hoạt động trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Nhà văn Sơn Nam đã viết nên nhiều tác phẩm dấu ấn, ông được nhiều người gọi yêu là "ông
già Nam Bộ", "ông già Ba Tri", “ông già đi bộ’, "pho từ điển sống về miền Nam" hay là "nhà
Nam Bộ học". Toàn bộ các sáng tác của ông được Nhà xuất bản Trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh
1
2. mua bản quyền. Ông qua đời nghèo nàn và đau đớn ngày 13 tháng 08 năm 2008 tại Thành phố
Hồ Chí Minh.
Tác phẩm
Chuyện xưa tình cũ (1958)
Tìm hiểu đất Hậu Giang (nghiên cứu, 1959)
Hương rừng Cà Mau (1962)
Chim quyên xuống đất (1963)
Hình bóng cũ (1964)
Vạch một chân trời (1968)
Gốc cây - Cục đá & Ngôi sao (1969)
Lịch sử khẩn hoang miền Nam
Đình miếu & lễ hội dân gian miền Nam
Danh thắng Miền Nam
Theo chân người tình & một mảnh tình riêng
Từ U Minh đến Cần Thơ – Ở chiến khu 9 – 20 năm giữa lòng đô thị – Bình An
Tìm hiểu đất Hậu Giang & lịch sử đất An Giang
Xóm Bàu Láng
Ghi nhận
“Sơn Nam là một tâm hồn lạc lõng trong thế giới buyn-đinh và Mercedes, trong thế giới triết
hiện sinh, tranh trừu tượng và nhạc tuýt. Nhưng đó là một tâm hồn đẹp không biết bao nhiêu,
đẹp cái vẻ đẹp của lọ sứ Cảnh Đức Trấn ở Giang Tây (có khác lọ hoa Ý Đại Lợi ngày nay), và
ít được người đời thưởng thức hơn là họ đã thưởng thức một tiểu thuyết gia chuyên viết về
chuyện tình chẳng hạn. Nhưng phải nhìn nhận rằng, cái đẹp Sơn Nam bất hủ...”
“Không chỉ cống hiến trong văn chương, ông (Sơn Nam) còn được xem là người có công khai
phá, khảo cứu và sưu tầm văn hóa mảnh đất Nam Bộ. Vì vậy, không phải hiển nhiên mà người
ta trân trọng gọi ông là "nhà Nam Bộ học" hay ông già Ba Tri...”
“
Sơn Nam là một trong số những nhà văn từng sống ở đô thị miền Nam nhưng tác phẩm
vẫn được in liền mạch trước và sau giải phóng, điều đó không phải dễ. Trước hết, tác phẩm
của Sơn Nam không thuộc dạng a dua. Sống dưới chế độ ấy mà tránh được lối viết ấy quả là
rất cao tay. Có lần người viết bài này hỏi vậy, Sơn Nam cười nhẹ, cũng chẳng giỏi giang gì đâu
mà tôi chủ yếu viết về phong tục, về lịch sử khai khẩn đất đai Nam Bộ, và nếu là truyện thì đi
vào tầng lớp nông dân, dân nghèo thành thị.
Hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghiệp sáng tác, những trang viết của ông không đơn thuần là
sự giải trí cho độc giả mà còn là những khảo cứu, khám phá về mảnh đất phương Nam. Là
người Nam Bộ chính gốc nên nhà văn Sơn Nam là người am hiểu quá trình hình thành dải đất
2
3. này. Những sáng tác của ông mang hơi thở của thiên nhiên, của văn hóa và con người Nam Bộ
được thể hiện qua giọng văn giản dị, mộc mạc... “
***
“Về người nông dân miền Nam, đặc biệt là miền Tây, từ Hà Tiên tới mũi Cà Mau, tức là
miền đất được khai phá sau cùng. Vì đi tới đây sau cùng, những người khai phá này đã tới
những vùng khỉ ho cò gáy nhứt, trước họ không ai thèm làm. Rừng sâu, nước độc, rắn rết hùm
beo. Nhưng không thể lùi được vì không còn đất sống nữa người ta mới phải lang bạt tới đây.
Muốn tồn tại, muốn sống sót được trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như vậy, con người
phải có một sức mạnh tinh thần đáng kể. Không được sự giúp đỡ nào của chính quyền lúc bấy
giờ mà còn bị áp bức bóc lột nặng nề, những người phải rời bỏ quê quán tới xứ này phải sớm
biết đùm bọc lấy nhau. Sức mạnh tinh thần đó không bắt nguồn từ kinh sách của thánh
hiền vì phần lớn những người đi khẩn hoang đều thất học. Ðó là những giá trị tinh thần
của dân tộc mà người ta mang từ nơi chôn nhau cắt rún tới đây và được phát triển lên trong
hoàn cảnh đấu tranh mới, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống lại thiên nhiên còn thù địch
với con ngưòi và chống lại những thế lực áp bức bóc lột cũng thù địch với con người không
kém.
Giá trị tinh thần nổi bật trong cuộc đấu tranh này là tình nghĩa giai cấp của những người
nghèo, bắt buộc phải xa xứ mà tới đây, cùng nhau lập quê hương mới, nơi ca dao còn ghi lại:
Cà Mau khỉ khọt trên bưng,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um.
Hoặc:
Tới đây xứ sở lạ lùng,
Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê.
Trong cảnh ngộ đó, con người sống bằng gì?
Bằng cái Nghĩa!
Ngày xưa, ở xứ này, thường nói! Sống phải điệu nghệ!
Theo Sơn Nam, điệu nghệ là đạo nghĩa, nói trại ra. Rừng của Sơn Nam có hương là vì vậy.
Tình nghĩa giữa con người ở đây không có xuất xứ trong cái cộng đồng làng xã, cái“tâm lý
làng” như có người gọi, mà nó rộng hơn, nó sinh sôi nẩy nở từ trong vùng đất mới, khẩn hoang
lập ấp, trong đấu tranh khắc phục ngoại cảnh thù địch, chống áp bức bóc lột, nên nó vẫn giữ
được cái chân chất thật thà của người lao động gần thiên nhiên mà lại không tủn mủn hẹp hòi.
Ðây là một nét đặc biệt nữa mà ca dao còn ghi được:
Dấn mình vô chốn chông gai,
Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân.
Lao xao sóng bủa dưới lùm,
Thò tay vớt bạn chết chìm cũng ưng.
Cái tình nghĩa bốn phương bè bạn này rất sâu đậm, nó thể hiện trong ca dao, trong
các làn điệu dân ca và về sau, chúng được gặp lại nó trong Lục Vân Tiên, giữa Vân Tiên và các
bạn, giữa Vân Tiên với Tiểu đồng...
3
4. Cái tình bạn này đi liền với cái nghĩa“giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha” , mà
chúng ta cũng thấy rõ trong truyện Vân Tiên.
***
Nhân vật thứ hai chúng ta sẽ đề cập đến là một người sanh ra ở đất Quảng mà lại rất yêu Miền
Nam, cụ thể hơn là Bạc Liêu, quê hương của Sáu Lầu - VŨ ĐỨC SAO BIỂN. Anh học Đại học
Sư Phạm Saigon, dưới tôi 5 lớp, ban Việt Hán, nhưng lại rất nổi tiếng về nhạc.
Điệu Buồn Phương Nam
Tác giả : VŨ ĐỨC SAO BIỂN
Về phương Nam lắng nghe cung đàn,
Thổn thức vọng dưới trăng mơ màng,
Rồi theo sông Cửu Long nhớ nhung dâng tràn,
Chợt thương con sáo bay xa bầy,
Sương khói buồn để lại lòng ai.
Con sáo sang sông,
Sáo đã sổ lòng,
Bay về Bạc Liêu, con sáo bay theo phương người,
Bay về Trà Vinh, con sáo bay qua đời tôi.
Câu hát ngân nga,
Tiếng tơ giao hòa,
Cháy lên trong dạ muôn ngàn tâm sự,
Hát lên một lần để một đời xa nhau sáo ơi!
Đàn thiên thu đứt dây tơ rồi,
Theo sóng vàng cát lỡ sông bồi.
Còn chi nữa, biển dâu đã bao đổi dời,
Về phương Nam ngắm sông ngậm ngùi,
Thương những đời như lục bình trôi
Vũ Đức Sao Biển
Vũ Đức Sao Biển (sinh năm 1948) là một nhạc sĩ, nhà văn và nhà báo Việt Nam. Ngoài bút
danh Vũ Đức Sao Biển, ông còn dùng bút danh: Đồ Bì, Đinh Ba, Mạc Đại khi viết phiếm luận.
Ông tên thật là Vũ Hợi, sinh ngày 12 tháng 2 năm 1948, tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Nguyên
quán ông tại Duy Vinh, Duy Xuyên, Quảng Nam.
Năm 18 tuổi, ông vào Sài Gòn học Đại học Sư phạm ban Việt - Hán và học Đại học Văn
khoa, ban Triết học phương Đông .
[1]
4
5. Năm 1970, ông tốt nghiệp và đến Bạc Liêu dạy học các môn Văn và Triết học bậc trung
học tại trường Công lập Bạc Liêu cho đến năm1975 thì ông rời khỏi nơi này. Mười năm sau ông
trở lại Bạc Liêu và cho ra đời các ca khúc về Bạc Liêu và miền đất phương Nam.
Sau 1975, ông về Thành phố Hồ Chí Minh dạy học, rồi làm báo. Ông có một thời gian
làm tại phòng Giáo dục huyện Nhà Bè. Ông đã và đang công tác ở các báo: Công an Thành phố Hồ
Chí Minh, Thanh Niên, Kiến Thức Ngày Nay, báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh,Tuổi Trẻ Cười...
Ngoài tài viết: báo, tiểu thuyết, nghiên cứu (về Kim Dung), ông còn có tài sáng tác nhạc.
Những bài như: Thu hát cho người, Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang, Đau xót lý chim
quyên, Điệu buồn phương Nam,...đều là những tác phẩm được nhiều người yêu mến. Vì những
thành tựu này, ông đã được kết nạp vào Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam.
Vũ Đức Sao Biển hiện đang được các đài truyền hình trung ương và địa phương mời thực
hiện các phim tư liệu về tác giả và tác phẩm trên lĩnh vực âm nhạc.
Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển nặng tình với đất Bạc Liêu
Vũ Đức Sao Biển xem Bạc Liêu là quê hương thứ hai. Anh có những sáng tác mà người
nghe tưởng chừng như tác giả là người sinh ra, lớn lên từ xuồng ghe,
sông nước.
“Tháng 9/1968, tôi trở về Quảng Nam, cầm cây guitare lên đồi sim.
Xa xa dòng sông Thu Bồn xanh biếc như một dải lụa uốn mình qua
những bờ tre, bãi mía, nương dâu xuôi về phương Đông. Tôi đứng
giữa hoa sim, giữa mùa thu Quảng Nam một mình âm thầm và lặng
lẽ. Trong một cảm xúc vỡ òa, tôi đặt tờ giấy kẻ nhạc lên thùng đàn và
viết…”- Vũ Đức Sao Biển có lần tâm sự.
Năm đó Vũ Đức Sao Biển vừa tròn 20 tuổi, ca khúc đầu tay của anh
ra đời như vậy với cái tên Thu hát cho người. Và không ai có thể ngờ Vũ Đức Sao Biển
ngày nay trở thành một trong những tác phẩm sống được với thời
gian.
“Sau năm 1975, bài hát được dựng lại với tiếng hát của Cẩm Vân, Thanh Long Bass, Thu
Giang, Quang Minh, Trần Sang và nhiều bạn bè ca sĩ khác. Đến bây giờ, tôi đã có một bộ sưu
tập với 72 giọng hát khác nhau hát Thu hát cho người” - Anh giãi bày khi vui chén.
Mùa thu kỷ niệm của Vũ Đức Sao Biển là một mùa thu tình yêu buồn:
Dòng sông nào đưa người tình đi biền biệt/Mùa thu nào cho người về thăm bến xưa/Hoàng hạc
bay, bay mãi bỏ trời mơ/Về đồi sim ta nhớ người vô bờ...
Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển sinh ngày 12/2/1948 tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Năm 18 tuổi, anh vào
Sài Gòn học Đại học Sư phạm ban Việt - Hán và học Đại học Văn khoa, ban Triết học phương
Đông.
Năm 1970, anh tốt nghiệp và về Bạc Liêu dạy học, vùng đất nổi tiếng với nhiều giai thoại về
công tử Bạc Liêu. Đây cũng là nơi nhạc sĩ Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) sáng tác bài Dạ cổ hoài
lang, là tiền thân của bản vọng cổ ngày nay.
5
6. Vũ Đức Sao Biển xem Bạc Liêu là quê hương thứ hai của mình với 11 năm làm nghề thầy giáo.
Những sáng tác mà người nghe tưởng chừng như anh là người sinh ra, lớn lên từ xuồng ghe,
sông nước. Điệu buồn phương Nam, Đêm Gành Hào nghe điệu hoài lang, Tiếng quốc đêm
trăng, Trở lại Bạc Liêu, Tình ca phương Nam, Về đây người ơi…
Ai xa quê hương, nghe tiếng hát của Hương Lan với những ca khúc đẫm đầy chất dân ca Nam
Bộ của Vũ Đức Sao Biển thì không khỏi thắt lòng, da diết nỗi nhớ quê nhà.
Tôi may mắn quen biết anh khá lâu, từ dạo anh còn viết báo Công an thành phố, Thanh niên,
Pháp luật TP HCM... Làm việc gì anh cũng cẩn thận và tâm huyết, nồng nàn tình yêu thương
những con người nghèo khổ, yếu đuối, bất hạnh.
Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển đã có 2 tập ca khúc Thu hát cho người và Điệu buồn phương Nam, 3
CD và 127 ca khúc. Ngoài ra, anh còn viết và xuất bản 25 đầu sách, trong đó có những bộ đồ sộ
về “Hoàng đế truyện chưởng” Kim Dung như: Kim Dung giữa đời tôi (biên khảo, 4 tập), Tiếu
ngạo giang hồ, (dịch 8 tập)...
*****************************
TÌNH CA PHƯƠNG NAM
Vũ Đức Sao Biển
Chín con sông uốn khúc.
Chín con rồng lượn bay.
Cửu Long sóng nước vơi đầy.
Lúa thơm cánh đồng miền Tây.
Hỡi con sông tình ca.
Ngàn năm ta nhớ quê nhà.
Nhớ từng chén cơm khoanh cà.
Nhớ giọng hát ru đậm đà.
Ơ ầu ơ. Ơ ớ ơ.
Ơi người em, người em mắt biếc môi hồng
Chờ ta theo với.
Ơi mùa xuân, mùa xuân hạnh phúc thanh bình
Mùa xuân đang tới.
Sông Cửu Long đẹp như một khúc dân ca
Nước mênh mông tìm ra biển mẹ.
hiến dâng bao phù sa thắm tươi.
Đứng bên sông Bắc Sắc
Xa trông về Cần Thơ.
Nửa đêm dưới bóng trăng vàng
Có ai hát điệu Hoài lang
Đất phương Nam thủy chung
Tình phương Nam rất thơ mộng.
Mới gặp đã thương nhau rồi.
Khiến lòng nhớ nhung một đời.
*****
Võ Hiếu Nghĩa ghi lại ngày 29/10/2012
6