Lớp 12: Tác gia Tố Hữu
(grade 12: To Huu)
Bài làm của chúng tôi dù còn thiếu sót nhưng mong mọi người xem và ủng hộ.
(our work may be flawed, but we desire you to read and comment. Thanks)
Lớp 12: Tác gia Tố Hữu
(grade 12: To Huu)
Bài làm của chúng tôi dù còn thiếu sót nhưng mong mọi người xem và ủng hộ.
(our work may be flawed, but we desire you to read and comment. Thanks)
Bài thuyết trình powerpoint này gồm 23 slide, kể về 5 loại trang phục, mỗi phần nội dung đều là phong cách và nội dung chúng mình rất đầu tư. Một điều khá là buồn là công sức của mình và con bạn bị bỏ uổng, cô lược bớt để buổi chuyên đề ngắn hơn. Nên mình mong sản phẩm này sẽ giúp ích được cho những bạn khác nhé, mình không muốn công sức của mình và con bạn bị phí hoài đâu hicc
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành văn học Việt Nam với đề tài: Nghiên cứu Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Bài thuyết trình powerpoint này gồm 23 slide, kể về 5 loại trang phục, mỗi phần nội dung đều là phong cách và nội dung chúng mình rất đầu tư. Một điều khá là buồn là công sức của mình và con bạn bị bỏ uổng, cô lược bớt để buổi chuyên đề ngắn hơn. Nên mình mong sản phẩm này sẽ giúp ích được cho những bạn khác nhé, mình không muốn công sức của mình và con bạn bị phí hoài đâu hicc
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành văn học Việt Nam với đề tài: Nghiên cứu Cái Tôi cô đơn trong thơ mới và thơ đương đại, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Bài viết số 2 lớp 9 (văn tự sự) - vanmau.netThùy Linh
Viết bài viết số 2 lớp 9 thuộc loại văn tự sự,bai viet so 2 lop 9, bài viết số 2 lớp 9,bài viết số 2 văn mẫu lớp 9
Xem:http://vanmau.net/bai-viet-so-2-lop-9-van-tu-su.html
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
Bê trọc - Chuyện đời thường trong chiến tranhPhamVietLong1
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long, giải nhì Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Còn có tên gọi "Chuyện đời thường trong chiến tranh"
Bê trọc, còn gọi là Chuyện đời thường trong chiến tranh, là tác phẩm của Phạm Việt Long, do Nhà Xuất bản Thanh niên xuất bản vào đầu năm 1999.
Với gần 700 trang in, Bê trọc chứa đựng một dung lượng hiện thực khá lớn, với những chuyện đời thường có thật nhưng không tầm thường mà rất có ý nghĩa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nuóc của dân tộc ta.
Thông qua nhật ký chiến trường của một phóng viên Thông tấn xã giải phóng, cộng với thư từ, bài báo, ký sự, truyện ngắn được lồng ghép trong một kết cấu vững chắc, Bê trọc dựng lại cuộc sống hào hùng của dân tộc ta trong một giai đọan rất vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: giai đoạn sau tổng tấn công tết Mậu thân (1968) đến ngày đại thắng mùa xuân (1975).
Bê trọc gồm bốn chương:
- Chương một: Vượt Trường Sơn. Chương này miêu tả cuộc hành trình đi giải phóng miền Nam với bao nỗi nguy hiểm, nhọc nhằn của những cán bộ - trí thức trẻ. Họ đã vượt qua vùng đất lửa khu Bốn cũ trong vòng oanh tạc của máy bay Mỹ, hai lần vuợt qua đỉnh Trường Sơn để sang đất bạn Lào và trở lại Tổ quốc, xẻ dọc Trường sơn, vào tới vị trí chiến đấu ở ban Tuyên Huấn Khu Năm.
- Chương hai: Ở căn cứ. Chương này nói lên cuộc sống ở căn cứ vô cùng gian khổ, nguy hiểm nhưng cũng đậm đà tình nghĩa đồng chí, đồng bào. Tại đây, những trí thưc, nhà báo trẻ kiên trì gùi cõng, sản xuất, vượt qua những trận sốt rét rừng, qua thiên tai, địch họa để làm công tác chuyên môn, để chờ thời cơ xung trận bằng chính ngòi bút của mình
- Chương ba: Về đồng bằng. Chương này dựng lại không khí sôi nổi tấn công và nổi dậy của quân và dân miền Trung Trung bộ những năm 1971 - 1972, trong đó đặc biệt sinh động là thế trận chiến tranh nhân dân ở tỉnh Bình Định. Bước chân phóng viên đã theo sát cuộc sống của nhân dân Bình Định, từ những ngày đồng bào bị địch kìm kẹp, cuộc sống ngẹt thở, cán bộ phải nằm hầm, bám dân làm công tác, tới những ngày chuẩn bị, rồi những ngày tấn công và nổi dậy cuốn băng đồn bốt địch, giải phóng quê hương.
- Chương bốn: Đi tới toàn thắng. Chương này phản ánh sức lớn mạnh không ngừng của lực lượng cách mạng, trong đó có lực lượng báo chí giải phóng. Đội quân báo chí được tăng cường, tỏa đi khắp các chiến trường ở Trung Trung Bộ để viết tin, viết bài, chụp ảnh, góp phần vào cuộc chiến đấu của dân tộc và cuối cùng đã cùng đồng bào, chiến sĩ Khu Năm đi tới toàn thắng.
Bê trọc là một bản hùng ca dung dị, đồng thời là một bản tình ca đằm thắm. Trên những trang sách, không chỉ có cuộc sống gian khổ, đói cơm, nhạt muối, cũng không chỉ có khí thế chiến đấu sôi nổi, hào hùng, mà còn có tình yêu đằm thắm - tình yêu đồng đội, đồng bào, tình yêu lứa đôi. Bằng những chi tiết sinh động, Bê trọc đã xây dựng nên hình tượng một Bê trọc giản dị mà hào hùng - đó là những cán bộ chiến sĩ chưa có gia đình riêng từ miền Bắc lên đường vào chiến trường B, những cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc trở lại..
Phân tích truyện ngắn "Đời thừa" của Nam Cao - văn mẫu lớp 12Dinh Phan
Đề bài: Phân tích truyện ngắn "Đời thừa" của Nam Cao, phân tích truyện ngắn đời thừa của nam cao ngữ văn lớp 12, văn mẫu lớp 12
Xem thêm: https://hadim.vn/phan-tich-truyen-ngan-doi-thua-cua-nam-cao.html
Mấy ý kiến với Văn Hữu Tuất - Tác giả viết Địa Phương Ký Làng Sơn Tùng, cháu xin ý kiến của chú về ý định của cháu muốn đem nhiệt tình của cháu viết về Địa phương Ký Làng Sơn Tùng của mình, chú thấy ý kiến đó rất hay rất quý, có nhiều ý nghĩa sâu sắc đối với các bậc Tiên Liệt các bậc Tiền bối các thế hệ đã quá cố cho cả hiện tại và có ích cho các thế hệ mai sau.
Nghị luận gần mực thì đen gần đèn thì sángJackson Linh
Nghị luận gần mực thì đen gần đèn thì sáng, dân gian ta có câu tục ngữ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Nhưng có bạn lại bảo :Gần mực thì chưa chắc đã đen, gần đèn thì chưa chắc đã sáng. Hãy viết bài văn chứng minh để thuyết phục bạn ấy theo ý kiến của em.
Tổng hợp 1000 từ tiếng anh Word form thông dụng Jackson Linh
Nếu các bạn biết 1000 từ tiếng anh các bạn có thể nói đúng 1 câu ngữ pháp . Nhưng khi các bạn biết 1000 từ word form , các bạn có thể nói đúng hàng trăm câu nói đúng
công đức ấn tống kinh , những tội lỗi gây ra từ trước đến nay được tiêu trừ; nếu như đã mang những nghiệp duyên nặng nề thì sẽ được chuyển hóa thành nhẹ nhàng. Thường được các thiện Thần ủng hộ, tránh được các tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, tù ngục,…
Chú này ví tụng 12.000 lượt hay in cúng 1.200 quyển thời nhất nhất cầu việc gì đều có hiệu nghiệm cả.
Cầu con có con, cầu bệnh khỏi bệnh. Cầu tài có tài, cầu phúc được phúc, cầu tai qua nạn khỏi được tai qua nạn khỏi v.v…
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
https://dienlanhbachkhoa.net.vn
Hotline/Zalo: 0338580000
Địa chỉ: Số 108 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội
Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ
:
https://www.facebook.com/garmentspace/
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
HOẶC
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
phân tích nhân vật ông Hai trong bài Làng của Kim Lân
1. Phạm Nguyễn Thục Linh 1
LÀNG
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nhân dân ta vẫn kiên cường
giữ vững từng mảnh đất quê hương đó là do dân ta có một lòng nồng
nàn yêu nước. Điều đó đã ngấm sâu vào máu thịt con người Việt Nam,
tình yêu nước ấy càng dấy lên cháy bỏng khi cùng chung sức đánh đuổi
quân thù. Trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp đã có rất nhiều tác
phẩm văn học nói về đề tài này, tiêu biểu đặc sắc đó là truyện ngắn
“Làng” của Kim Lân. Truyện “Làng” đã được đăng lần đầu tiên trên tạp
chí Văn Nghệ 1948. Kim Lân là nhà văn có sở trường viết về truyện
ngắn, đặc biệt là viết về cảnh sinh hoạt ở làng quê và cảnh ngộ của
những người nông dân. Kim Lân đã khắc họa rất thành công nhân vật
ông Hai. Đấy là một người nông dân chất phác, nhưng có tình yêu làng
xóm, quê hương rất sâu sắc. Khi đã trải qua những biến cố, thử thách,
ông lại càng yêu quê hương mình mãnh liệt hơn.
Trước hết, điều mà người đọc cảm nhận được ở nhân vật ông Hai
đó là tình yêu làng da diết. Tình yêu làng của ông được thể hiện ở cái
tính hay khoe làng của mình. Trước CMT8, khi nhắc đến làng ông Hai
tự hào về cái “sinh phần” của viên quan tổng đốc làng ông, nó nguy
nga, đồ sộ. Không những thế ông còn lấy làm hãnh diện về “con đường
làng trải toàn đá xanh. Trời mưa, trời gió bùn không dính gót. Trong
làng nhà ngói san sát như trên tỉnh.”. Làng Chợ Dầu là nơi tổ tiên ông
sinh cơ lập nghiệp, nơi ông sinh ra và lớn lên. Biết bao tình cảm đã gắn
bó với cảnh vật, với con người nơi mảnh đất yêu dấu ấy. Thế nhưng từ
sau CMT8 trở đi, khi khoe làng, ông chỉ nhắc đến cái chòi thông tin
cao ráo. Những ngày cùng anh em, đồng chí “đào đường, đắp u, xẻ hào,
2. Phạm Nguyễn Thục Linh 2
khuân đá”…. Rõ ràng trong ông đã có sự thay đổi lớn về nhận thức.
Trước đây ông chỉ chú trọng những thứ hào nhoáng, xa hoa, bóng bẩy
bên ngoài. Giờ đây ông cảm thấy vui tự hào vì những điều đơn giản
nhưng có lợi ích cho làng, cho nước. Chỉ qua những chi tiết nhỏ bé thế
thôi, ta cũng đủ thấy rõ tình yêu làng da diết, mãnh liệt, sâu sắc mà ông
đã đặt trọn niềm tin dành cho làng. Những tưởng sẽ không bao giờ có
điều gì có thể làm lung lay tình yêu của ông dành cho làng, thế nhưng
một tình huống hết sức éo le, trớ trêu lại ập đến với ông. Đó là khi ông
hay tin “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”, tin từ một người đàn bà
đi tản cư. Đây thật sự là một cú sốc tinh thần quá lớn đối với ông Hai.
Nghe tin sét đánh ấy, “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”,
“nước mắt cứ giàn ra”, “trằn trọc không sao ngủ được”. Sự đau đớn thể
hiện qua nét mặt, cử chỉ, giọng nói, len cả vào giấc ngủ của ông lão.
Không đau đớn bàng hoàng sao được khi từ trước tới giờ, trong trái tim
ông làng Chợ Dầu là làng kháng chiến, làng anh hùng và cách mạng,
những người dân “ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc”.
Thế mà giờ đây tất cả niềm tin, niềm tự hào ấy hoàn toàn sụp đổ. Từ
sau khi biết chuyện làng Việt gian theo Tây, ông như biến thành một
con người khác hẳn, bị chuyện đó ám ảnh trong đầu, ông đâm ra sợ sệt
chỉ cần nghe tiếng “Việt gian, cam-nhông” là ông lại lẩn tránh chỗ
khác. Đã có những lúc, ông Hai chợt nghĩ “hay là quay về làng” điều
khổ tâm, day dứt ấy chứng tỏ, tận sâu thẳm trong tim ông, làng vẫn
thiêng liêng, tình cảm ông dành cho làng vẫn nguyên vẹn. Thật khiến
cho người đọc cảm thấy tội nghiệp, xót xa thay cho nỗi lòng của ông
Hai. Nhưng có vẻ như qua sự thử thách trên, ta mới dần nhận thấy tình
yêu của ông không chỉ dừng ở góc độ làng xóm. Tình yêu làng nâng
3. Phạm Nguyễn Thục Linh 3
dần lên tình yêu nước. Đúng như I-li-a.E-ren-bua đã từng nói: “lòng
yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Điều
đó được khẳng định qua câu nói chắc nịch của ông “làng thì yêu thật
nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đối với một người yêu làng
da diết như ông để có thể đi đến quyết định ông đã phải đau đớn, dằn
vặt bản thân rất khổ sở. Với ông, làng là máu thịt là nơi chôn rau cắt
rốn, là nơi ông bà tổ tiên bao đời đã làm ăn sinh sống. Vì vậy làng có
một ý nghĩa rất thiêng liêng, quyết định không quay về làng nữa cho
thấy sự kiên quyết trong cách nghĩ và cách sống của ông Hai. Nỗi đau
ấy, ông Hai không biết bày tỏ cùng ai, chỉ thủ thỉ cùng đứa con trai “
nhà ta ở làng Chợ Dầu”, “ ủng hộ cụ Hồ con nhỉ!”. Những lời tâm sự ấy
thực chất là để tự nhủ chính mình, khẳng định lập trường, luôn vững tin
vào cách mạng, mặc dù ông đang phải sống trong hoàn cảnh tủi nhục
như thế. Đến đây, tác giả đã đặt nhân vật vào một tình huống gay gắt
để bộc lộ sâu sắc lòng yêu làng, yêu nước của ông Hai. Người đọc cảm
thấy hạnh phúc, vui lây với nỗi lòng của ông Hai khi hay tin làng Chợ
Dầu theo giặc được cải chính. Hạnh phúc lớn lao đến bất ngờ khiến ông
lão đi đến đâu cũng bô bô: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn!”,
“Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả.”. Thật là chưa từng có
chuyện xưa nay nhà bị đốt mà vui mừng đến như thế, ông Hai đã chứng
minh được dân làng Chợ Dầu trong sạch và tấm lòng của ông cũng
trong sáng như gương. Đối với người nông dân, thà họ chịu mất tất cả
chứ nhất định không chịu làm nô lệ, làm Việt gian bán nước. Đó chính
là nét đẹp trong tâm hồn và tính cách của ông Hai. Tình cảm đặc biệt
của ông Hai cũng là tình cảm chung của nhân dân ta lúc bấy giờ, họ sẵn
sàng hi sinh tất cả tài sản, tính mạng cho cách mạng, cho Tổ quốc. Phải
4. Phạm Nguyễn Thục Linh 4
thật sự am hiểu sâu sắc về con người nhất là tâm lí của người nông dân
nên nhà văn Kim Lân mới diễn tả rất đúng tâm trạng nhân vật ông Hai
như vậy. Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, với cách thắt nút
thật tự nhiên và gỡ nút thật bất ngờ đã làm cho câu chuyện trở nên kịch
tính, sinh động. Thành công xuất sắc của Kim Lân là việc xây dựng
hình tượng nhân vật ông Hai, tạo tình huống có tính căng thẳng thử
thách nội tâm nhân vật để từ đó bộc lộ tâm trạng, tính cách nhân vật.
Một lão nông chất phác, nghèo khổ, vui tính, thích trò chuyện, ham nói
chữ nhưng tấm lòng dành cho đất nước thì vô cùng sâu đậm và nồng
nàn.
Tóm lại, truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một tác phẩm đặc
sắc. Ông Hai là nhân vật điển hình, biểu tượng rực rỡ, cao đẹp cho
người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh ông Hai
chính là hình ảnh chung, là tình cảm chung, tình cảm thật sự của nhân
dân ta trong kháng chiến. Tình cảm gắn bó sâu nặng như máu thịt của
người nông dân dành cho làng quê, từ tình yêu làng mộc mạc, giản dị
được nâng lên thành tình yêu đất nước. Truyện giúp ta hiểu, yêu mến,
khâm phục biết bao những con người nông dân bình dị, chất phác, mà
lại có lòng yêu nước thiết tha, cao cả đến như thế. Phát huy những
phẩm chất tốt đẹp ấy, ngày nay những người nông dân Việt nam họ
chẳng những chăm chỉ, cần cù, hăng say lao động mà họ còn mạnh dạn
áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, khắc phục những khó khăn để
làm giàu cho quê hương, đất nước. Thật đáng quý, đáng tự hào và đáng
để chúng ta mãi trân trọng.