SlideShare a Scribd company logo
1 of 40
Trường đại học kinh tế quốc dân

                    Viện thương mại và kinh tế quốc tế

                    ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI THẢO LUẬN

                Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc

                 và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam




GVHD: GV. Tô Xuân Cường

Lớp:   Kinh tế quốc tế 51E

Nhóm 1: Nguyễn Thị Minh Hà

       Hoàng Thị Hạnh

       Nguyễn Thị Thu Huyền

       Trần Lan Hương

       Nguyễn Thị Lan Hương

       Trần Thị Hà May

       Nguyễn Lan Phương
1. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
      HỐI ĐOÁI
      1.1.   Tỷ giá hối đoái

          1.1.1. Khái niệm và phân loại tỷ giá hối đoái

             1.1.1.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái

      Tỷ giá hối đoái (tỷ giá) là giá cả của một đồng tiền được biểu thị qua một
đồng tiền khác, là sự so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền khác nhau.

      Công thức: 1 đơn vị đồng yết giá = X đơn vị đồng định giá

      Dựa trên phương pháp yết tỷ giá, có thể đưa ra khái niệm cụ thể về tỷ giá:

      -      Phương pháp yết giá trực tiếp: “Tỷ giá là giá của một đơn vị ngoại tệ
tính bằng một số đơn vị nội tệ”. Hầu hết các nước trên thế giới đều dùng phương
pháp yết giá này.

      -      Phương pháp yết giá gián tiếp: “Tỷ giá là giá của một đơn vị nội tệ
tính bằng một số đơn vị ngoại tệ”. Hiện nay, trên thế giới chỉ có 5 đòng tiền dùng
phương pháp yết giá gián tiếp là: GBP, AUD, NZD, EUR và SDR. Riêng đối với
đồng USD, Mỹ áp dụng phương pháp yết tỷ giá trực tiếp đối với các ngoại tệ SDR,
EUR, GBP, AUD, NZD, IEP và gián tiếp đối với các ngoại tệ còn lại.

             1.1.1.2. Phân loại

             a) Căn cứ vào chính sách tỷ giá

      -      Tỷ giá chính thức (Official rate): Là tỷ giá do các cơ quan có thẩm
quyền (Ngân hàng trung ương, quỹ tiền tệ quốc gia) công bố, nó phản ánh chính
thức về giá trị đối ngoại của đồng nội tệ. Tỷ giá chính thức được áp dụng để tính
thuế xuất khẩu và một số hoạt động khác liên quan đến tỷ giá chính thức. Ở Việt
Nam, đây là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, là tỷ
giá cơ sở để các ngân hàng thương mại xác định tỷ giá kinh doanh trong biên độ
cho phép.

      -      Tỷ giá chợ đen (Black market rate): Là tỷ giá được hình thành bên
ngoài hệ thống ngân hàng, do quan hệ cung cầu trên thị trường chợ đen quyết định.

      -      Tỷ giá cố định (Fixed rate): Là tỷ giá do ngân hàng trung ương công
bố cố định trong một biên độ dao động hẹp. Dưới áp lực cung cầu của thị trường,
để duy trì tỷ giá cố định, ngân hàng trung ương buộc phải thường xuyên can thiệp
làm cho dự trữ ngoại hối quốc gia thay đổi.

      -      Tỷ giá thả nổi hoàn toàn (Freely floating rate): Là tỷ giá được hình
thành hoàn toàn theo quan hệ cung cầu trên thị trường, ngân hàng trung ương
không hề can thiệp.

      -      Tỷ giá thả nổi có điều tiết (Managed floating rate): Là tỷ giá được thả
nổi nhưng ngân hang trung ương tiến hàng can thiệp để tỷ giá biến động theo
hướng có lợi cho nền kinh tế.

             b) Căn cứ mức ảnh hưởng lên cán cân thanh toán

      -      Tỷ giá danh nghĩa song phương (Nominal Bilateral Exchange Rate –
NER): Là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác mà
chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa chúng.

      -      Tỷ giá thực song phương (Real Bilateral Exchange Rate – RER): bằng
tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát giữa trong nước với nước
ngoài, do đó, nó là chỉ số phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ.
-       Tỷ giá danh nghĩa đa phương (Nominal Effective Exchange Rate –
NEER): Là chỉ số tỷ giá trung bình của một đồng tiền so với các đồng tiền còn lại.

      -       Tỷ giá thực đa phương (Real Effective Exchange Rate – REER): bằng
tỷ giá danh nghĩa đa phương đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước
với tất cả các nước còn lại, do đó, nó phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ với
tất cả các đồng tiền còn lại.

          1.1.2. Các chế độ tỷ giá hối đoái chủ yếu

      Khái niệm: Tập hợp các quy tắc, cơ chế xác định và điều tiết tỷ giá của một
quốc gia tạo nên chế độ tỷ giá của quốc gia này.

              1.1.2.1. Chế độ tỷ giá cố định

              a) Khái niệm

      Là chế độ tỷ giá mà trong đó, ngân hàng trung ương công bố và cam kết can
thiệp để duy trì tỷ giá cố định (tỷ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được
định trước.

      Trong chế độ tỷ giá này, giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của
một đồng tiền khác hay với một rổ đồng tiền khác, hoặc với một thước đo giá trị
khác (Vàng…).

              b) Đặc điểm

      Tỷ giá được ngân hàng trung ương cam kết cố định trong một biên độ hẹp
(thường từ 2-5%), không phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại
hối. Do mỗi đồng tiền quốc gia đều có tỷ giá với các đồng tiền khác nên tỷ giá của
một đồng tiền có thể được thả nổi với đồng tiền này nhưng lại được cố định với
đồng tiền khác.
c) Vai trò của ngân hàng trung ương

        Ngân hàng trung ương là người có trách nhiệm điều hành tỷ giá, phải thực
hiện mua vào hay bán ra đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá
trung tâm trong biên độ hẹp đã định trước. Để tiến hành can thiệp trên thị trường
ngoại hối đòi hỏi ngân hàng trung ương phải có sẵn nguồn dự trữ ngoại hối nhất
định.

              d) Tác động

        Trong thực tế, chế độ tỷ giá cố định đã giúp tạo ra sự ổn định cho các nền
kinh tế và được nhiều chính phủ ưa thích. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ
thống Bretton Woods đã tồn tại đến tận năm 1970 với sự neo giá cố định của các
đồng tiền Tây Âu vào đồng USD. Đồng EUR hiện nay cũng có thể được xem là
một chế độ tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia thành viên.

        Nhiều quan điểm khác cho rằng, tỷ giá hối đoái cố định quá cứng nhắc nên
che mất những thông tin cần thiết cho thị trường hoạt động đúng hướng. Nguyên
nhân chính là do đồng tiền không còn thể hiện giá trị thực của chúng. Sự che đậy
thông tin tạo ra tính không chắc chắn, kích thích các nhà đầu cơ tấn công các đồng
tiền cố định và nhiều nước sẽ mất sạch cả dự trữ ngoại hối trong khi cố gắng bảo
vệ đồng tiền của mình chứ không chịu để nó mất giá. Thái Lan trong cuộc khủng
hoảng tài chính châu Á là một trường hợp như vậy.

              1.1.2.2. Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn

              a) Khái niệm

        Là chế độ tỷ giá mà trong đó, tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do theo quy
luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp nào của
ngân hàng trung ương.
b) Đặc điểm

      Trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, sự biến động của tỷ giá là không có
giới hạn và luôn phản ánh những thay đổi trong quan hệ cung cầu trên thị trường
ngoại hối.

             c) Vai trò của ngân hàng trung ương

      Ngân hàng trung ương tham gia thị trường ngoại hối với tư cách là một
thành viên bình thường, nghĩa là ngân hàng trưng ương có thể mua hay bán một
đồng tiền nhất định phục vụ cho mục đích hoạt động của mình chứ không nhằm
mục đích can thiệp lên tỷ giá.

      Chế độ tỷ giá này chỉ tồn tại về mặt lý thuyết. Trên thực tế, nói là áp dụng
chế độ tỷ giá thả nổi độc lập, nhưng ngân hàng trung ương không thờ ơ với sự biến
động thất thường của tỷ giá, nên ít nhiều can thiệp để giảm sự biến động của tỷ giá.
Tuy nhiên, can thiệp của chính phủ là tùy ý và không đặt ra bất cứ mục tiêu bắt
buộc cụ thể nào phải đạt được.

             d) Tác động

      Các nhà kinh tế cho rằng, trong nhiều trường hợp, chế độ tỷ giá thả nổi tốt
hơn chế độ tỷ giá cố định bởi vì tỷ giá thả nổi nhạy cảm với thị trường ngoại hối.
Điều này cho phép làm dịu đi nhưng tác động của các cú sốc và chu kỳ kinh doanh
nước ngoài. Thêm vào đó, nó không bóp méo các hoạt động kinh tế.

             1.1.2.3. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết

             a) Khái niệm

      Là chế độ trong đó ngân hàng trung ương tiến hành can thiệp tích cực trên
thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất định.
b) Đặc điểm

         Ngân hàng trung ương không cam kết duy trì cố định tỷ giá hay một biên độ
dao động hẹp cung quanh tỷ giá cố định nào, nhưng lại cam kết can thiệp để tỷ giá
ngày hôm nay chỉ biến động trong một giới hạn tỷ lệ % nhất định so với ngày hôm
trước.

         Là một chế độ tỷ giá hối đoái nằm giữa hai chế độ thả nổi và cố định, kết
hợp những ưu điểm và loại bỏ được những nhược điểm của hai chế độ này.

                c) Vai trò của ngân hàng trung ương

         Tích cực và chủ động can thiệp lên tỷ giá thông qua các nghiệp vụ thị trường
mở để giảm sự biến động quá mức của tỷ giá, hoặc để tỷ giá biến động trong một
biên độ nhất định.

                d) Tác động

         Chính phủ vẫn có thể kiểm soát được sự biến động của tỷ giá và các ảnh
hưởng của tỷ giá lên nền kinh tế, trong khi đó vẫn không làm kìm hãm sự phát
triển của các ngành kinh tế, đặc biệt là các ngành liên quan đến kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, chế độ tỷ giá này vẫn tạo điều kiện cho các chính sách tiền tệ của
chính phủ phát huy tác động mà không hoàn toàn bị đóng băng như chế độ tỷ giá
cố định.

             1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái

                1.1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá dài hạn

         -      Mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước: Trong điều kiện cạnh tranh
lành mạnh, năng suất lao động của hai nước tương đương nhau, cơ chế quản lý
ngoại hối tự do, khi đó nước nào có mức độ lạm phát lớn hơn thì đồng tiền của
nước đó bị mất giá so với đồng tiền nước còn lại, nghĩa là tỷ giá tăng lên.

      -      Chính sách ngoại thương: Thuế quan và hạn ngạch. Khi một nước áp
dụng thuế và hạn ngạch với hàng nhập khẩu sẽ làm tăng nhu cầu về hàng nội địa,
nội tệ có xu hướng tăng giá, làm cho tỷ giá giảm xuống.

      -      Ứng xử của công chúng: Sự ưa thích hàng nội hay hàng ngoại. Sự ưa
thích hàng nhập ngoại tăng làm cho ngoại tệ tăng giá. Ngược lại, sự tăng lên về lâu
dài của hàng xuất khẩu sẽ làm cho đồng nội tệ tăng giá.

      -      Năng suất lao động và mức thu nhập giữa các quốc gia: Nếu năng
suất lao động của một nước cao hơn nước khác thì giá hàng nội tệ của nước đó có
thể hạ tương đối so với hàng ngoại mà vẫn thu được lãi, dẫn đến cầu về hàng nội
tăng, làm tăng giá đồng nội tệ.

             1.1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá ngắn hạn

      -      Lãi suất: Lãi suất là một biến số kinh tế tổng hợp tác động đến nhiều
chỉ tiêu khác nhau, trong đó tỷ giá và lãi suất có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với
nhau. Khi lãi suất đồng nội tệ tăng tương đối so với lãi suất thế giới thì luồng vốn
quốc tế đổ vào nước này tăng lên, làm cầu nội tệ tăng.

      -      Cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh mức cung –
cầu về ngoại tệ trên thị trường, do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái.
Bội thu cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá giảm và ngược lại, bội chi cán cân sẽ
làm cho tỷ giá tăng.

      -      Đầu tư nước ngoài: Một nước nhận đầu tư từ nước ngoài, luồng vốn
ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm và
ngược lại, khi đầu tư ra nước ngoài thì luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn
dòng vốn chảy ra nước ngoài dẫn đến tỷ giá hối đoái tăng.




          1.1.4. Tác động của tỷ giá hối đoái đến các hoạt động kinh tế quốc tế

      Tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết cán cân
thương mại quốc tế theo mục tiêu đã định trước của nhà nước. Nó ra đời từ hoạt
động thương mại quốc tế và quay trở lại tác động thúc đẩy hoạt động ngoại thương
phát triển.

      Tỷ giá hối đoái tác động lớn đến xuất nhập khẩu hàng hóa và vốn, giá cả
hàng hóa trong nước, do đó nó có tác động không nhỏ đến nền kinh tế. Khi tỷ giá
tăng, sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trên thị trường thế giới sẽ tăng lên và
thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của quốc gia. Đồng thời với đó là sự tăng giá của
hàng nhập khẩu, làm giảm kim ngạch nhập khẩu quốc gia.

      Tỷ giá thay đổi cũng có tác động điều tiết việc di chuyển vốn từ quốc gia
này tới quốc gia khác. Việc di chuyển vốn nhằm mục đích kiếm lợi nhuận và tránh
rủi ro. Do đó, tỷ giá tăng lên sẽ khiến cho tư bản nhập khẩu gia tăng và tư bản xuất
khẩu giảm.

      Ngoài ra, giá cả hàng hóa trong nước cũng chịu tác động của tỷ giá hối đoái.
Khi tỷ giá tăng, giá tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng nhập khẩu tăng lên kéo
theo giá cả các mặt hàng trong nước có liên quan cũng tăng theo. Đồng thời, do tác
động giảm nhập khẩu nên cầu về các hàng hóa nhập khẩu cũng sẽ gia tăng, làm
cho giá cả chung trong nền kinh tế bị đẩy lên cao.

      1.2.   Chính sách tỷ giá hối đoái

          1.2.1. Khái niệm và vai trò của chính sách tỷ giá hối đoái

      Chính sách tỷ giá hối đoái là những hoạt động của chính phủ (mà đại diện
thường là ngân hàng trung ương) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ
chế điều hành tỷ giá) và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ
giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với
mục tiêu chính sách kinh tế quốc gia.

          1.2.2. Các công cụ chủ yếu của chính sách tỷ giá hối đoái

             1.2.2.1. Nhóm công cụ trực tiếp

      -      Phá giá tiền tệ: Trong chế độ tỷ giá cố định, phá giá tiền tệ là việc
chính phủ đánh tụt giá đồng nội tệ so với các ngoại tệ. Biểu hiện của phá giá tiền tệ
là tỷ giá được điều chỉnh tăng so với mức mà chính phủ đã cam kết duy trì. Tỷ giá
tăng làm nội tệ giảm giá nên được gọi là phá giá.

      Có hai nguyên nhân khiến cho chính phủ phải phá giá nội tệ:

      + Phá giá chủ động: Do giá cả hàng hóa và tiền lương là ít co giãn trong
ngắn hạn, nên khi điều chỉnh tỷ giá tăng đột ngột, tức là phá giá tiền tệ sẽ làm cho
giá hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm, kích thích tăng xuất khẩu; ngược lại,
giá hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng, làm giảm nhập khẩu; kết quả là cán cân
thương mại được cải thiện, tạo công ăn việc làm, kích thích sản xuất trong nước,
tăng dự trữ quốc gia.
+ Phá giá bị động: Trong trường hợp đồng nội tệ được định giá quá cao, làm
mất cân đối cung cầu trên thị trường ngoại hối (cung ít, cầu nhiều), ngân hàng
trung ương tiến hành can thiệp làm cho dự trữ ngoại hội cạn kiệt. Để cung cầu cân
bằng và dự trữ ngoại hối không giảm nữa, chính phủ buộc phải phá giá đồng nội tệ.
Phá giá bị động thường xảy ra khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân
thương mại.

        -     Nâng giá tiền tệ: Ngược lại với phá giá tiền tệ, nâng giá là việc chính
phủ tăng giá đồng nội tệ so với ngoại tệ.

        Lý do mà một quốc gia phải nâng giá đồng nội tệ bao gồm:

        + Áp lực từ các nước đối tác thương mại có cán cân thương mại thâm hụt.

        + Nhằm tránh phải tiếp nhận những đồng ngoại tệ bị mất giá chạy vào nước
mình.

        + Nhằm hạ nhiệt nền kinh tế quá nóng (nâng giá tiền tệ làm giảm xuất khẩu,
giảm đầu tư vào trong nước).

        + Để xây dựng sự ảnh hưởng của nước mình ở bên ngoài (tăng cường đầu tư
và xuất khẩu vốn ra nước ngoài).

        -     Nghiệp vụ thị trường mở: Là hoạt động mua bán giấy tờ có giá giữa
ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng. Thông thường, hoạt động của ngân
hàng trung ương trên thị trường ngoại hối thông qua việc mua bán nội tệ nhằm duy
trì một tỷ giá cố định (trong chế độ tỷ giá cố định) hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá
thay đổi đạt tới một mức nhất định trong mục tiêu đã đề ra (trong chế độ tỷ giá thả
nổi) thường làm thay đổi lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Nó có thể gây ra
hiện tượng lạm phát hay giảm phát không mong muốn cho nền kinh tế. Chính vì
vậy thông thường các ngân hàng trung ương phải sử dụng thêm nghiệp vụ thị
trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu
thông.

         Thông qua hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương tác
động trực tiếp lên nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết
lượng cung ứng tiền tệ.

         + Khi ngân hàng trung ương mua vào các giấy tờ có giá sẽ bù đắp lượng tiền
thiếu hụt trong lưu thông. Do đó, giảm áp lực giảm phát.

         + Khi ngân hàng trung ương bán ra các giấy tờ có giá, sẽ hút bớt lượng nội
tệ đang dư thừa trong lưu thông, làm giảm áp lực lạm phát.

         Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết của công cụ này là chính phủ phải có một
lượng dự trữ ngoại hối nhất định có thể can thiệp kịp thời vào các biến động của thị
trường mà vẫn đảm bảo mức dự trữ an toàn quốc gia.

         -     Kết hối ngoại tệ: Là việc chính phủ quy định đối với các thể nhân và
pháp nhân có nguồn thu ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn
nhất định cho các tổ chức được phép kinh doanh ngoại hối. Biện pháp kết hối được
áp dụng trong những thời kỳ khan hiếm ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại
hối. Mục đích chính của biện pháp kết hối là nhằm tăng cung ngoại tệ tức thời để
đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thị trường, hạn chế hành vi đầu cơ và giảm áp lực khi
phải phá giá nội tệ.

         -     Quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, mục đích sử dụng
ngoại tệ, số lượng mua ngoại tệ, thời điểm mua ngoại tệ. Tất cả các biện pháp này
đều nhằm mục đích giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và tác động giữ cho tỷ gias
ổn định.

               1.2.2.2. Nhóm công cụ gián tiếp
a) Các công cụ phổ biến

      -      Lãi suất tái chiết khấu: Với các yếu tố khác không đổi, khi ngân hàng
trung ương tăng mức lãi suất tái chiết khấu sẽ làm tăng mặt bằng lãi suất thị
trường, hấp dẫn các luồng vốn ngoại tệ chạy vào làm cho nội tệ tăng giá.

      -      Thuế quan: Thuế quan cao có tác động hạn chế nhập khẩu, làm cho
cầu ngoại tệ giảm, kết quả là làm cho nội tệ tăng giá.

      -      Hạn ngạch có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu nên nó cũng có tác
động như thuế quan.

      -      Giá cả: Thông qua hệ thống giá cả, chính phủ có thể trợ giá cho
những mặt hàng xuất khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Trợ
giá xuất khẩu có thể làm cho khối lượng xuất khẩu tăng, làm tăng cung ngoại tệ,
khiến cho nội tệ lên giá. Chính phủ cũng có thể bù đắp giá cho một số hàng nhập
khẩu thiết yếu, bù giá làm tăng nhập khẩu và kết quả là làm giảm giá đồng nội tệ.

                       b) Các công cụ đặc biệt

      Ngoài các công cụ gián tiếp thông dụng nêu trên, trong từng thời kỳ, chính
phủ (chủ yếu là các nước đang phát triển) còn có thể áp dụng một số chính sách cá
biệt như sau:

      -      Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ: Khi ngoại tệ khan
hiếm trên thị trường ngoại hối, ngân hàng trung ương có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với vốn huy động bằng ngoại tệ của các ngân hàng thương mại, làm cho
chi phí sử dụng vốn ngoại tệ tăng. Để kinh doanh có lãi, các ngân hàng thương mại
bắt buộc phải hạ lãi suất huy động ngoại tệ, kết quả là việc nắm giữ ngoại tệ trở
nên kém hấp dẫn hơn so với nắm giữ nội tệ, khiến cho những người sở hữu ngoại
tệ phải bán đi để mua về nội tệ, làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
làm cho đồng nội tệ lên giá.

      -      Quy định lãi suất trần thấp đối với tiền gửi bằng ngoại tệ: Quy định
mức lãi suất cao nhất mà người gửi ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại được
hưởng. Khi ngân hàng trung ương quy định trần thấp thì việc gửi tiền bằng ngoại tệ
trở nên kém hấp dẫn, người gửi tiền sẽ bán ngoại tệ lấy nội tệ, làm tăng cung ngoại
tệ và tăng cầu nội tệ dẫn đến việc tăng giá của đồng nội tệ.

      -      Quy định trạng thái ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại ngoài
mục đích chính là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, còn có tác dụng hạn chế đầu cơ ngoại
tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.

      1.3.   Vai trò của Chính phủ trong việc điều hành tỷ giá hối đoái

      Việc thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải có sự kiểm soát với một
mức tỷ giá gọi là tỷ giá chính thức được công bố bởi ngân hàng nhà nước, cùng với
một biên độ quy định cho các mức tỷ giá giao dịch trên thị trường so với tỷ giá
chính thức đòi hỏi chính phủ nói chung và ngân hàng nhà nước nói riêng cần phải
có sự can thiệp điều phối thị trường để duy trì biên độ quy định trong hoạt động
can thiệp đó chính phủ tuân theo nguyên tắc tương hợp nhằm ít gây méo mó thị
trường. Việc quản lý, điều hành tỷ giá hối đoái đó của chính phủ được thực hiện
chủ yếu qua sự tham gia của ngân hàng trung ương trên thị trường, vai trò của ngân
hàng trung ương cũng chính là vai trò của Chính phủ trong quá trình quản lý này.
Vai trò đó được thể hiện thông qua một số lưu ý của ngân hàng trung ương trong
điều hành tỷ giá hối đoái:
      - Ngân hàng trung ương một thành phần chủ chốt, thường trực của các giao
dịch trên thị trường liên ngân hàng.
- Trong công tác điều hành hệ thống tỷ giá hối đoái nói chung và thị trường
ngoại hối nói riêng, ngân hàng trung ương cần có sự phân tích rõ ràng giữa hai
chức năng: chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước với chức năng can thiệp thị
trường. Trong đó chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước là để thực hện các
chức năng giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi của nhà nước và giao dịch
tăng tích luỹ ngoại tệ theo mục tiêu. Còn chức năng can thiệp thị trường là nhằm
điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường.
      - Ngân hàng trung ương phải không ngừng chú trọng việc xây dựng và tăng
cường bộ khung của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bằng việc tăng số lượng
thành viên trên thị trường. Từng bước cho các tổ chức tín dụng không phải là ngân
hàng thương mại tham gia đầy đủ các nghiệp vụ như kỳ hạn hoán đổi mặc dù có
thể giới hạn ở việc các giao dịch này chỉ được thực hiện với các ngân hàng thương
mại và ngân hàng trung ương.
      - Ngân hàng trung ương và các bộ ngành phải có kế hoạch dự tính trước các
giao dịch của mình một cách cụ thể và không để các thành phần kinh tế khác bật ra
khỏi thị trường chính thức bằng cách các giao dịch của nhà nước không chỉ được
thực hiện trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mà còn phải mở rộng giao dịch
trên khu vực tự do của thị trường.
      - Chú trọng hơn đến việc hoàn thiện và phát triển các công cụ của thị trường
ngoại tệ mà trước mắt là các nghiệp vụ đang hiện tồn tại như các nghiệp vụ mua
bán có kỳ hạn ngoại tệ hoán đổi...bằng các biện pháp cụ thể như: ngân hàng nhà
nước, cơ quan có trách nhiệm; tổ chức báo cáo bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng,
nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ ngân hàng, nên gấp rút tổ chức các lớp
bồi dưỡng về bản chất và kỹ thuật các nghiệp vụ hối đoái nói riêng và nhệm cụ nào
đó nói chung khi mới được đưa vào sử dụngđể đảm bảo một sự nhận thức đúng về
bản chất cũng như kỹ thuật nghiệp vụ khi thực hiện.
- Việc can thiệp của ngân hàng trung ương nhằm vào điều phối các quan hệ
cung cầu trên thị trường chứ không nên có sự can thiệp sâu vào các nghiệp vụ
mang tính kỹ thuật của thị trường.
      - Nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng thông qua một số biện pháp cụ thể như: đặt mạnh trọng tâm vào việc không
ngừng đổi mới hệ thống thanh toán của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng và
quan trọng là ngân hàng nhà nước cả về cơ chế thanh toán và trang thiết bị kỹ thuật
để hạn chế về thanh toán qua nhiều trung gian mà trước hết là hệ thống thanh toán
nội bộ của chính các ngân hàng, các tổ chức tín dụng.
      - Bổ sung vào cơ chế điều hành tỷ giá mới một nội dung hết sức quan trọng
vào đầu năm, ngân hàng nhà nước vào công bố tỷ giá hối đoái danh nghĩa hàng
năm, hàng quý trên cơ sở điều chỉnh mức tỷ giá giao dịch thực tế bình quân của thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng được xác lập theo cơ chế mới. Dựa vào đó các cơ
quan chức năng có đầy đủ căn cứ để xác lập cân đối lớn, vĩ mô của nền kinh tế.
   - Mục đích can thiệp của ngân hàng trung ương không hoàn toàn giống nhau,
điều này phụ thuộc vào tình hình, ý đồ chiến lược của mỗi nước, ngay ở một quốc
gia thì mục đích can thiệp ở mỗi thời kỳ cũng khác nhau.
   Nhìn chung, Chính phủ, thông qua ngân hàng trung ương, là người có vai trò
điều hành, quản lý tỷ giá hối đoái, sử dụng các công cụ của mình để điều chính tỷ
giá về mức cần thiết theo mục tiêu cho trước và đảm bảo sự thống nhất của chính
sách tỷ giá với các chính sách vĩ mô khác để phát triển nền kinh tế.
   2. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC
2.1.   Giai đoạn trước năm 1979
      Cũng như những nước xã hội chủ nghĩa khác, trong giai đoạn trước khi
chuyển đổi nền kinh tế, Trung Quốc xây dựng và áp dụng chính sách tỷ giá cố định
và đa tỷ giá nhưng không tuân theo hoàn toàn đúng với những nguyên tắc của chế
độ tỷ giá cố định. Những tỷ giá được ấn định khác nhau tùy thuộc vào từng quan
hệ kinh tế đối ngoại và thỏa thuận trong quan hệ của hai bên hay nhiều bên có tính
chất nội bộ hệ thống, xoay quanh giá trị của đồng Ruble (RUR) đã được ấn định
ngang bằng với giá trị đồng USD.
      Trên thực tế, giao dịch ngoại thương của các nước xã hội chủ nghĩa trong
thời gian này chủ yếu là trao đổi hàng hóa trực tiếp và tỷ giá hối đoái chỉ được sử
dụng vào thanh toán số dư cuối kỳ nên không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển
của nền kinh tế. Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp hoàn toàn không có nhu
cầu sử dụng ngoại tệ một cách chủ động vì lợi ích của mình mà phải hoạt động
theo sự sắp đặt của nhà nước nên tỷ giá hối đoái đã không thể hiện được vai trò là
đòn bẩy kinh tế của nó. Tỷ giá và các nhân tố tác động đến tỷ giá của thời kỳ này
không tồn tại hoặc chỉ tồn tại mang tính hình thức mà hoàn toàn không đem lại bất
kỳ hiệu quả gì cho cả nền kinh tế.
      Khi bắt đầu thực hiện quá trình chuyển đổi nền kinh tế vào năm 1997, chính
sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc cũng được chuyển đổi cho phù hợp với những
yêu cầu mới của nền kinh tế.
      2.2.   Giai đoạn 1979-1994

      Trước hết, Trung Quốc để cho tỉ giá ấn định trước đây linh động theo sát với
những diễn biến của tỉ giá trên thị trường. Đây gần như là bước tất yếu để đưa yếu
tố thị trường vào trong cơ chế xác định tỉ giá đối với hầu hết các nước tiến hành
chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường có sự điều tiết và định hướng của nhà nước.
      Trên thực tế, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh liên tục tỷ giá hối đoái
danh nghĩa biến động theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ cho phù hợp với sức mua
của nó trong suốt thời kỳ đầu của quá trình cải cách cho đến đầu những năm 90, vì
đồng nhân dân tệ đã bị đánh giá cao trong suốt thời gian trước đây (bảng 2.2).
 Bảng 2.2: Diễn biến của tỉ giá hối đoái giữa đồng nhân dân tệ và đồng đô la
                               thời kỳ 1978 – 1990.
Chỉ tiêu             1978      1980    1982     1984      1986      1988    1990
Tỷ giá cuối năm 1.577          1.530   1.922    2.975     3.722     3.722   5.222
USD/NDT
Tỷ giá trung bình 1.683        1.498   1.892    2.320     3.453     3.722   4.783
năm(USD/NDT)

      Sau những điều chỉnh trên, tỷ giá phản ánh tương đối sát với những tín hiệu
của thị trường và sức mua thực tế của đồng Nhân dân tệ. Trong những năm đầu của
thập kỷ 90, tỷ giá danh nghĩa của đồng Nhân dân tệ với đồng Đôla Mỹ được duy
trì tương đối ổn định ở mức 5,2 đến 5,8 NDT = 1 USD (xem bảng xx), là mức dao
động đã được điều chỉnh để phản ánh những tác động của lạm phát của Trung
Quốc và Mỹ là 10,92% (27,52% - 16,60% thời kỳ 1990 - 1993) trên 11,06% là
mức điều chỉnh tỷ giá thời kỳ 90 - 93, cao hơn mức lạm phát (0,14%) (bảng 2.3).

   Bảng 2.3: Biến động tỉ giá danh nghĩa USD/NDT đầu những năm 1990.

Chỉ tiêu                              1990       1991       1992        1993
Tỷ giá cuối năm (USD/NDT)             5.222      5.434      5.752       5.800
Tỷ giá trung bình năm (USD/NDT)       4.783      5.323      5.515       5.762
Lạm phát Trung Quốc (%/năm)           3.06       3.52       6.34        14.58



      2.3.   Giai đoạn 1994-1997

      Trên đà lạm phát bắt đầu tăng nhanh từ giai đoạn trước, dự đoán được tỉ lệ
lạm phát sẽ còn tiếp tục dâng cao nếu không có sự điều chỉnh kịp thời. Hơn nữa,
nhận thấy trong tình hình lạm phát này nếu vẫn duy trì tỷ giá hối đoái theo hướng
cố định tương đối thì sẽ có những tác động xấu đến mục tiêu tăng cường mở cửa và
thúc đẩy xuất khẩu của nền kinh tế do đồng Nhân dân tệ có khả năng trở lại tình
trạng bị đánh giá cao so với sức mua thực tế. Chính phủ Trung Quốc đã ra một
quyết định có ý nghĩa bước ngoặt cho nền kinh tế Trung Quốc.
      Ngày 1.1.1994, đồng Nhân dân tệ chính thức bị tuyên bố phá giá mạnh từ
5.8 NDT/USD xuống 8.7 NDT/USD, tương ứng với tỷ lệ phá giá 50% (2.9/5.8).
Kết hợp với tỷ lệ đồng Nhân dân tệ bị đánh giá thấp 0.14% giai đoạn 1990 – 1993
thì tỷ lệ phá giá thực tế là 50.14%. Như vậy, có thể thấy hành động trên của chính
phủ Trung Quốc không đơn thuần là nhằm điều chỉnh để đồng Nhân dân tệ phản
ánh đúng sức mua của nó, mà đây rõ ràng là một chủ ý trong chính sách tỷ giá hối
đoái của Trung Quốc đã đánh tụt rất mạnh đồng nội tệ nhằm thúc đẩy cao độ xuất
khẩu hàng hoá ra nước ngoài và tạo thặng dư trong cán cân thương mại.
Đồng thời với việc phá giá mạnh đồng nội tệ, Trung Quốc huỷ bỏ chế độ tỷ
giá ấn định cũ của Nhà nước để chuyển sang khoảng tỉ giá được dao động quanh
mức tỉ giá vừa bị đánh tụt ở trên. Để giảm bớt những tác động của chính sách tỷ
giá này lên thị trường tiền tệ, Trung Quốc đã ban hành hàng loạt các quy định hỗ
trợ như: thực hiện chế độ ngân hàng kết nối, xoá bỏ sự ghìm giá và tăng giá ngoại
hối của các công ty, xây dựng thị trường giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng, cải tiến
cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái; cải tiến và hoàn thiện quản lý thu chi, kết toán
ngoại hối, xoá bỏ kế hoạch mang tính mệnh lệnh đối với thu chi ngoại hối...kết hợp
với việc kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng trung ương đối với các hoạt động ngoại
hối của các ngân hàng thương mại bằng cách quy định ngân hàng nào được phép
chuyển đổi và với số lượng là bao nhiêu. Các ngân hàng này có toàn quyền hoạt
động trong thị trường ngoại hối. Đối với các công ty nước ngoài,Trung Quốc yêu
cầu phải có bảng cân đối ngoại tệ hàng năm. Đối với các doanh nghiệp liên doanh
phải có giấy phép đổi ngoại tệ mạnh sang Nhân dân tệ. Còn đối với các doanh
nghiệp nhà nước thì được yêu cầu phải nộp 100% ngoại tệ thu được thay vì 50%
như trước đây. Nhưng mặt khác, nhà nước cho phép các công ty xuất khẩu tăng tỷ
lệ giữ ngoại tệ mạnh, các công ty nước ngoài được từng bước giao dịch, mua bán
các loại ngoại tệ mạnh, tạo điều kiện để đồng Nhân dân tệ xâm nhập nhanh hơn
vào thị trường tiền tệ thế giới.
      Nhìn chung, so với giai đoạn 1990 – 1993, các chính sách tỉ giá hối đoái của
Trung Quốc đã linh động và mềm dẻo hơn rất nhiều. Ngày 1.1.1996, đồng Nhân
dân tệ Trung Quốc đã chính thức được Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) công nhận là
đồng tiền chuyển đổi tự do ở các tài khoản vãng lai (các tài khoản có liên quan đến
các khoản thanh toán về mậu dịch hàng hoá – dịch vụ cũng như các khoản lợi
nhuận các công ty nước ngoài chuyển về nước).
Chỉ tiêu                                   1994        1995      1996      1997
Lạm phát (% năm)                           24,24       16,90     8,32      2,80
Tỷ giá hối đoái (trung bình NDT/USD) 8,6187          8,3514 8,3142 8,2898
Tốc độ tăng trưởng (% năm)               12,70       10,50    9,50        8,80
      Kết quả của một loạt những điều chỉnh kết hợp thả lỏng và xiết chặt từng bộ
phận trong chính sách tỷ giá và tiền tệ vào thời điểm này đã có tác động tích cực
nhanh chóng khôi phục lại đà tăng trưởng trong xuất nhập khẩu và nền kinh tế
Trung Quốc
      2.4.   Giai đoạn 1997 - 2005

      Nếu trước thời điểm khủng hoảng Trung Quốc vẫn duy trì ổn định tỉ giá
đồng Nhân dân tệ thì ảnh hưởng của khủng hoảng đối với nền kinh tế sẽ ít nghiêm
trọng hơn. Trên thực tế là đồng Nhân dân tệ đã bị lao đao, đặc biệt là trong thời
gian diễn ra cuộc khủng hoảng năm 1997, một lý do lớn là do sự thả nổi đồng nội
tệ trong giai đoạn 1993 – 1996 như đã nghiên cứu ở trên.
      Năm 1998, để bảo vệ đồng Nhân dân tệ trước làn sóng tấn công của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, một lần nữa Trung Quốc laị quay lại kiểm
soát chặt chẽ thị trường ngoại hối, giảm nguy cơ đầu cơ và những dự kiến về phá
giá đồng Nhân dân tệ. Đồng thời, để giảm bớt sức ép đối với xuất khẩu và sự tăng
trưởng của nền kinh tế, chính phủ Trung Quốc đã phối hợp với các chính sách tiền
tệ nới lỏng và kích cầu. Trong năm 1998, Trung Quốc đã liên tiếp 3 lần hạ lãi suất
tiền cho vay và tiền gửi đồng Nhân dân tệ, đồng thời giảm cả lãi suất tiền gửi ngoại
tệ. Thêm vào đó là các chính sách: hạ thấp tỉ lệ dự trữ bắt buộc, hỗ trợ vốn doanh
nghiệp, kích thích tiêu dùng các tầng lớp dân cư.
      Bảng 2.4: Tình hình lãi suất trên thị trường tiền tệ trong năm 1998
Chỉ tiêu                           20.03.1998      01.07.1998     06.12.1998
Lãi suất tiền cho vay NDT giảm(%) 1.6              0.49           0.27
Lãi suất tiền gửi NDT giảm (%)     0.6             1.12           0.55
Lãi suất tiền gửi USD giảm (%)     4.875           4.250          3.755
       Ngày 11/12/2001, Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO).Với những thách thức đặt ra đối với nền kinh tế sau
khi gia nhập WTO, Trung Quốc vẫn tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có
quản lý. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là chính sách tỷ giá của Trung Quốc cần
được thực thi sao cho đảm bảo hài hoà được với mục tiêu hạ nhiệt nền kinh tế của
quốc gia khổng lồ này trong giai đoạn này.Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của
Trung Quốc từ sau khi gia nhập WTO có xu hướng ngày càng cao ở mức khó kiểm
soát, trong khoảng 8-9%/năm. Trước tình hình này, ngày 28/10/2004, ngân hàng
trung ương Trung Quốc đã quyết định tăng tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi bằng
đồng nhân dân tệ kỳ hạn một năm từ 1,98% lên 2,25% và tăng lãi suất cho vay từ
5,31% lên 5,58%. Biện pháp này phù hợp với xu thế tăng lãi suất trên phạm vi toàn
cầu trong năm 2004, đồng thời cũng là dấu hiệu đầu tiên cho thấy nước này đang
bắt đầu thực hiện cải cách chính sách tiền tệ. Lần tăng lãi suất đầu tiên kể từ tháng
7 năm 1995 này của ngân hàng trung ương Trung Quốc nhằm mục đích duy trì
những kết quả điều tiết vĩ mô mà họ đã đạt được trong giai đoạn vừa qua, đồng
thời góp phần hạ nhiệt, tạo nên sự phát triển lành mạnh và bền vững của nền kinh
tế.
      Các luồng vốn khổng lồ chảy vào Trung Quốc đã gây áp lực tăng giá lên
đồng Nhân dân tệ. Để kiểm soát giá đồng Nhân dân tệ, ngân hàng trung ương phải
mua vào ngoại tệ, tăng khả năng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Kết quả là
dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng hơn 40% từ đầu năm lên đến 540 tỷ USD
tính đến cuối tháng 10 năm 2004. Với con số này, Trung Quốc trở thành nước có
lượng dự trữ ngoại tệ lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Nhật Bản (820 tỷ USD).
Trên cơ sở xây dựng thị trường ngoại hối thống nhất, Chính phủ Trung Quốc cũng
từng bước nới lỏng biên độ giao dịch của đồng Nhân dân tệ so với đồng USD, từ
mức 3% hiện nay tiến tới 4-5%.
      Những biện pháp trên của Chính phủ Trung Quốc không những đã giúp hạn
chế sự tăng giá của đồng Nhân dân tệ, mà còn khiến đồng tiền này duy trì ở mức
giá thấp trong thời gian dài, khuyến khích xuất khẩu Trung Quốc. Tuy nhiên, giữ
vững mức tỷ giá 8,26 - 8,28 NDT/USD cũng không phải là điều dễ thực hiện. Theo
đánh giá, có những thời điểm ngân hàng trung ương Trung Quốc phải bỏ Nhân dân
tệ ra để mua tới 600 triệu USD mỗi ngày. Biện pháp can thiệp này không thể duy
trì liên tục kéo dài. Do vậy, Trung Quốc đã thực hiện một số biện pháp để làm dịu
sức ép đối với đồng Nhân dân tệ, cụ thể là :
      - Thí điểm từ 1/11/2003 cho phép 14 tỉnh, khu vực được đầu tư ra nước
ngoài nhiều hơn, mức trần từ 1 triệu USD lên 3 triệu USD.
      - Thực hiện một số biện pháp phối hợp như: giảm bớt mức độ khuyến khích
xuất khẩu, xiết chặt hơn những quy định về việc cho các nhà đầu tư bất động sản
vay tiền và hạn chế hạn ngạch đầu tư của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường
trái phiếu cũng như các thị trường chứng khoán Trung Quốc.
      Tháng 10 năm 2004, trong cuộc họp cấp cao của nhóm 7 nước công nghiệp
hàng đầu thế giới (G7) tại Washington, Trung Quốc đã xác nhận sẽ tiến tới linh
hoạt tỷ giá đồng Nhân dân tệ. Mặc dù không đưa ra một lịch trình cụ thể nào cho
cam kết về linh hoạt tỷ giá, nhưng Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số biện
pháp nhằm cải cách chính sách tiền tệ.
      Nhờ các nỗ lực điều chỉnh trên của chính phủ, đồng Nhân dân tệ đã đứng
vững trong thời gian này và cả một khoảng thời gian dài về sau. Tính cho đến năm
2005, tỉ giá ngoại tệ của Trung Quốc được ấn định với đô la Mỹ tại mức 8.28 NDT
đổi lấy 1 USD, với biên độ dao động khá rộng +/- 0.3% mỗi ngày.
      2.5.   Giai đoạn từ 2005 đến nay

      Năm 2005, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã công bố thay đổi chế độ
tỷ giá. Trong thời gian này Trung quốc duy trì chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ có
biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kỳ (BBC):
      Chế độ tỷ giá BBC được coi là chế độ tỷ giá trung gian nằm giữa chế độ neo
tỷ giá và chế độ tỷ giá thả nổi. Đây là chế đọ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà
nước với những đặc điểm riêng có. Chúng ta có thể dễ dàng nhận dạng ra 3 đặc
điểm thông qua tên gọi của cơ chế: tỷ giá của nội tệ được xác định dựa trên 1 rổ
tiền tệ (Basket), có biên độ dao động (Band) và được điều chỉnh định kỳ (Crawl),
với yếu tố Crawl tỷ giá có thể trượt dần dần theo 1 hướng đi lên hoặc đi xuống.
      Tỷ giá sẽ được xác định dựa trên một rổ các đồng tiền (Basket) nhưng các
thành phần và tỷ trọng các đồng tiền không được đưa ra trong lần công bố này.
Đồng thời với việc neo tỷ giá theo một rổ tiền tệ, Ngân hàng Trung ương Trung
Quốc cho phép biên độ dao động hàng ngày của các tỷ giá song phương là 0,3%.
Ngày 9/8/2005, trong bài phát biểu khai mạc trụ sở thứ 2 của Ngân hàng Trung
ương tại Thượng Hải, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc ZhouXia
Chuan đã công bố 11 đồng tiền trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ,
Euro, Yên Nhật và đồng Won Hàn Quốc và các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và
Baht Thái cũng có mặt trong rổ tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều.
      Tuy nhiên, căn cứ vào số liệu thực tế của tỷ giá đa phương danh nghĩa CNY,
Guonan và McCauley đã cho rằng tỷ giá này đã dao động với biên độ 2%/ năm (B
- Band) và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06% (C - Crawl).
      So với lý thuyết thì biên độ dao động của tỷ giá (B-band) là khá nhỏ chỉ là
2%/ năm. Mặc dù tỷ giá song phương CNY/USD giảm giá nhưng tỷ giá đa phương
danh nghĩa của CNY lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn duy trì
được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế so với các quốc gia bạn hàng. Do đó,
đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và thặng dư của cán cân thương mại
của Trung Quốc.
      2.6.   Đánh giá chung về chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc và
             bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

         2.6.1. Ưu điểm
Việc phá giá đồng NDT (từ năm 1979 đến năm 1994) xét trong ngắn hạn sẽ làm
nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng.
Nguyên nhân ở đây là do lượng hàng xuất khẩu sẽ rẻ đi một cách tương đối trên thị
trường quốc tế, còn lượng hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường nội địa.
Chính sách tỷ giá trong thời kỳ này không chỉ giúp Trung Quốc đẩy mạnh xuất
khẩu, chiếm lĩnh nhiều thị phần quan trọng trên quốc tế mà còn tạo cơ sở giảm
thiểu những rủi ro hối đoái và tạo môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư mạnh từ các
nguồn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc để vươn lên đứng đầu các nước đang
phát triển về mức độ thu hút đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp. Đây cũng
là cơ sở tạo ra khả năng góp phần giảm sốc cho nền kinh tế Trung Quốc trước tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Đông Nam Á.
   Bảng 2.4: Một số chỉ số phát triển kinh tế của Trung Quốc thời kỳ 1980 -
                                       1990.
Chỉ tiêu                      1985      1986 1987    1988     1989          1990
GDP (giá 1990)                1254,5    1365,7
                                             1527,7 1695,4 1764,3           1832,0
Tốc độ tăng trưởng (% năm)    16,2      8,9  11,9    11,0     4,1           3,8
Cán cân xuất nhập khẩu        - 36,7    - 25,5
                                             1,1     15,1     - 18,6        51,0
Dự trữ ngoại tệ (triệu USD)                  15,236 17,548 17,022           28,594
       Việc nâng giá đồng     NDT khi Trung Quốc quyết định sẽ năng        tỷ giá
NDT/USD thêm 2% (từ mức 8.3 NDT ăn 1 USD lên 8.11 NDT ăn 1 USD vào
ngày 21/07/2005. Trung Quốc đã hoàn thiện hơn cuộc cải cách cơ chế hình thành
tỷ giá đồng tiền và làm dịu bớt tình trạng mất cân bằng mậu dịch đối ngoại, giảm
áp lực cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc trong việc mở của thị trường tài chính và
thị trường vốn trong cán cân thanh toán quốc tế khi gia nhập tổ chức thương mại
thế giới (WTO) và các nước phát triển đặc biệt là Mỹ khi sự mất cân đối kép của
nền kinh tế nước này vẫn chưa có giải pháp nào giải quyết hữu hiệu. Nâng cao sức
cạnh tranh của Doanh nghiệp trong nước do việc giảm bớt được các chi phí cho
máy móc, thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu.
Về chế độ tỷ giá BBC:
       + Do chế độ tỷ giá này neo tỷ giá của nội tệ với một rổ tiền tệ nên góp phần
làm ổn định tỷ giá đa phương danh nghĩa và thực tế của Trung Quốc;
       + Trung Quốc theo đuổi chế độ tỷ giá BBC sẽ tránh được những biến động
trong tỷ giá thực nếu trong trường hợp Trung Quốc có mức lạm phát cao hơn so
với các nước bạn hàng. Từ đó góp phần duy trì và cải thiện sức cạnh tranh thương
mại quốc tế của Trung Quốc;
       + Chế độ tỷ giá BBC cho phép quốc gia điều hành tỷ giá linh hoạt hơn tránh
được các cú sốc bất thường (như sự chuyển dịch bất ngờ của các luồng vốn lớn),
đồng thời cho phép ngân hàng trung ương theo đuổi một chính sách tiền tệ độc lập
hơn.


       Nhìn chung, chính sách tỷ giá của Trung Quốc có những ưu điểm nổi bật
sau:
       -     Chính sách tỷ giá hối đoái được thực hiện theo sát với mô hình chính
sách của nhà nước, thực hiện được những vai trò vĩ mô của nó trong việc lầm chất
xúc tác cho quá trình phát triển.
       -     Chính sách tỷ giá hối đoái Trung Quốc thể hiện rõ vai trò điều hành
của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế, và cơ chế quản lý của nhà nước đã đưa lại
những thành công trong quá trình phát triển của nền kinh tế Trung Quốc, đặc biệt
là trong thương mại quốc tế.
       -     Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc luôn được thực hiện phối
hợp với chính sách quản lý ngoại hối. Sự kết hợp của hai chính sách này đã tạo ra
lớp đệm an toàn cho Trung Quốc trong kinh tế quốc tế và đem lại sự ổn định cho
nền kinh tế Trung Quốc.
           2.6.2. Hạn chế
Việc phá giá đồng RMB cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quan hệ mua bán
ngoại thương như trong việc duy trì các hợp đồng cũ trên cở sở tỷ giá cũ là khó, từ
đó dẫn đến việc tổ chức mở rộng sản xuất bị thu hẹp trong ngắn hạn.
       Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đã phải chấp nhận trả giá bằng một mức lạm
phát cao không mong muốn năm 1994 là 24,24%, cao hơn năm 1993 (14,58%)
66,25%, lớn hơn mức ảnh hưởng thông thường của tỷ giá hối đoái đến mức giá cả
hàng hoá - dịch vụ của một nước (Theo thống kê của các nhà kinh tế là <50%).
Thực tế này có thể được giải thích do sự cộng hưởng của các tác động của chính
sách tiền tệ trước đó (bảng 2.5).
  Bảng 2.5: Tình hình diễn biến của chính sách tiền tệ giai đoạn 1990 - 1997.
Chỉ tiêu         1990    1991       1992    1993      1994    1995      1996    1997

Lãi suất ngân 7,92       7,20       7,20    10,08     10,98   10,44     9,00    8,55
hàng (%năm)
Mức cung tiền 701,0      898,8      1171,4 1676,1 2154,0 2597,0 3066,3 3834
(M1)
Tỷ lệ      tăng 20,15    28,22      30,33   43,08     28,51   20,57     18,07   25,00
trưởng     của
M1 (%)
Tốc độ tăng 3,80         9,20       14,20   13,50     12,70   10,50     9,50    8,80
trưởng      (%
năm)
       Nhưng sự trả giá này chỉ có tính chất ngắn hạn và đã được Chính phủ Trung
Quốc kịp thời điều chỉnh bằng chính cách thắt chặt tiền tệ, năm sau lạm phát đã
giảm xuống và nhanh chóng trở lại ổn định (bảng 2.6).
       Bảng 2.6: Tình hình lạm phát của Mỹ và Trung Quốc 1994 - 1997
    Tỷ lệ lạm phát                  1994            1995        1996            1997
Mỹ (%)                               2,60            3,00        2,70            2,30
Trung Quốc (% năm)                  24,24           16,90        8,32            2,80
Việc nâng giá đồng RMB cũng gây ra những ảnh hưởng trái ngược đối với
nhiều vấn đề xã hội, nhiều ngành sản xuất, người tiêu dùng và các doanh nghiệp
của Trung Quốc. Nó hạn chế việc Trung Quốc xuất khẩu hàng ra thị trường nước
ngoài, tăng giá các sản phẩm xuất khẩu vì vậy làm giảm sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp Trung Quốc trên thị trường quốc tế, điều này chắc chắn sẽ giảm
thặng dư thương mại (vốn là nhân tố quan trọng tạo ra tốc độ tăng trưởng thần kỳ
của Trung Quốc bấy lâu nay) đồng thời khuyến khích việc nhập khẩu hàng từ bên
ngoài vào Trung Quốc vì đồng NDT tăng 2,1% so với đồng USD. Giả sử trong trị
giá 711 tỷ USD ngoại tệ dự trữ của Trung Quốc có tới 500 tỷ lưu trữ bằng đồng
USD (số còn lại có thể được lưu trữ bằng vàng, đồng Yen của Nhật, đồng Euro..)
thì số tiền mà Trung Quốc mất không do nâng giá đồng NDT là 10 tỷ USD. Tuy
nhiên, nếu Trung Quốc không nâng giá đồng NDT đồng thời lại kéo dài cảnh thặng
dư hiện nay thì bản thân Trung Quốc có thể gây ra cảnh lạm phát kéo dài, các ngân
hàng thì cho vay bừa bãi và việc cải tổ các xí nghiệp quốc doanh có thể sẽ bị chậm
lại.
       Với chế độ tỷ giá BBC:
       + Mặc dù chế độ tỷ giá BBC được coi là linh hoạt hơn so với các chế độ tỷ
giá neo khác, nhưng mức độ linh hoạt của nó vẫn chưa đủ để làm giảm bớt hoặc
ngăn chặn những thay đổi lớn và đầy bất ngờ về tâm lý của các nhà đầu tư cũng
như của các luồng vốn cá nhân. Khi nền kinh tế phải hứng chịu một cú sốc lớn, dù
là bên ngoài hay bên trong, thì có lẽ biên độ dao động lên tới 15% cũng không đủ
để kiểm soát ảnh hưởng các cú sốc này. Trong trường hợp này, Ngân hàng Trung
ương sẽ phải tiếp tục nới lỏng biên độ dao động hơn nữa cho phù hợp với sự biến
động của tỷ giá trên thị trường tự do. Khi vai trò của biên độ dao động không còn
nưa và thay vào đó là một chế độ tỷ giá thả nổi. Điều này đã được chứng minh
trong các cuộc khủng hoảng tiền tệ diễn ra ở Indonesia, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ.
+ Nhiều nhà kinh tế tỏ ra nghi ngờ về khả năng của chế độ tỷ giá BBC trong
việc làm hạn chế các hoạt động đầu cơ tỷ giá cũng như vai trò của nó như một mục
tiêu danh nghĩa của chính sách tiền tệ.
           2.6.3. Bài học kinh nghiệm

        Sự thành công của Trung Quốc trong công cuộc cải tổ và chuyển đổi nền
kinh tế trong 20 năm qua có phần đóng góp quan trọng của cách điều hành linh
hoạt và chủ động chính sách tỷ giá hối đoái của Chính phủ Trung Quốc. Mặc dù
Trung Quốc chưa phải là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoàn thiện,
nhưng thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong những năm qua
đã thể hiện sự phân tích sâu sắc những bài học của nền kinh tế thị trường từ các
nước phát triển và vận dụng một cách linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của Trung
Quốc.
        Do tính chất và nhiều điều kiện tương đồng trong quá trình phát triển của
nền kinh tế Trung Quốc và Việt Nam; những kinh nghiệm của Trung Quốc sẽ là
những bài học thực sự có ý nghĩa đối với Việt Nam để tiếp tục đẩy nhanh quá trình
tăng trưởng bền vững.
        Từ thực tiễn của Trung Quốc có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam trong điều hành chính sách tỷ giá hối đoái như sau:
        - Chính sách tỷ giá là 1 bộ phận của chính sách tiền tệ và nằm trong mối
quan hệ của hệ thống các chính sách kinh tế, do đó chỉ có thể đạt được những mục
tiêu của mình khi quá trình điều hành được đặt ra trong mối quan hệ của hệ thống
các chính sách kinh tế. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái cần phải hướng đến thực
hiện tốt các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước, cải thiện cán cân thanh toán quốc
tế và tăng dự trữ ngoại tệ, hướng tới phát triển kinh tế bền vững.
        Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy chính sách tỷ giá luôn gắn liền với
chính sách quản lý ngoại hối: Nhà nước quản lý ngoại hối chặt chẽ, kết hợp với
quản lý dự trữ ngoại hối và ngoại tệ của quốc gia để đảm bảo sử dụng các nguồn
ngoại tệ có hiệu quả, góp phần ổn định tỷ giá và thực hiện cân đối cán cân thanh
toán quốc tế trong các thời kỳ khác nhau.
      Đối với Việt Nam, chính sách tỷ giá phải được phối hợp đồng bộ với các
chính sách kinh tế vĩ mô khác. Cụ thể:
      + Hoàn chỉnh cơ chế quản lý giao dịch ngoại hối và cơ sở pháp lý cho việc
điều hành thị trường ngoại tệ.
      + Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với các chính sách và giải pháp bộ phận trong
lĩnh vực tiền tệ (như lãi suất, cung ứng vốn) nhằm tác động có hiệu quả vào nội tệ
từ nhiều góc độ.
      + Đưa dần các công cụ quản lý tiền tệ trên thế giới vào áp dụng thực tiễn.
Bên cạnh đó, việc hiện đại hóa hệ thống các tổ chức tài chính cần xúc tiến với mục
tiêu phát triển thị trường tài chính nói chung để nâng cao năng lực, mở rộng phạm
vi điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước.
      + Phối hợp hiệu quả với các chính sách vĩ mô khác như ngoại thương, cán
cân ngân sách, thuế, tín dụng, thu nhập người lao động.
      Ngoài ra, cần xây dựng chính sách tỷ giá trên cơ sở hội nhập thị trường tiền
tệ trong nước với quốc tế nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính hạn chế và
tránh nguy cơ tụt hậu.
      - Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái phải đảm bảo hướng đến mục tiêu hỗ trợ
tốt nhất cho chính sách khuyến khích xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh toán,
tăng dự trữ ngoại tệ. Một thành công lớn trong điều hành tỷ giá ở Trung Quốc là
các biện pháp cải cách tỷ giá hối đoái đã tạo ra một cơ chế bảo vệ lợi ích cho nhà
xuất khẩu.
      - Tuy nhiên, cần chú ý là, mục tiêu của chính sách tỷ giá và các chính sách
kinh tế khác, trong đó phải tính đến mục tiêu của chính sách tiền tệ, trong ngắn hạn
thường có sự mâu thuẫn với nhau. Một sự phối hợp chặt chẽ và linh hoạt trong
điều hành các chính sách có thể đem lại hiệu quả cao hơn cho chính sách tỷ giá
giảm thiểu được những hậu quả rủi ro đối với nền kinh tế mà nó có thể gây ra.
Điều hành tỷ giá xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế; có nghĩa tại một thời
điểm phải xác định rõ yếu tố nào cần ưu tiên và yếu tố nào có thể hy sinh để đạt lợi
ích tổng thể tối đa.
       Ví dụ, quyết định tăng giá nội tệ để giảm nhẹ sức ép trả nợ nước ngoài của
doanh nghiệp (Chính phủ) và chấp nhận sự suy giảm tạm thời đối với xuất khẩu
nếu điều này ít tạo khó khăn hơn cho nền kinh tế.
       - Đối với Trung Quốc, cải cách tỷ giá hối đoái là điều kiện tiên quyết để cải
cách thương mại, đặc biệt trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế. Nếu không
có cải cách tỷ giá hối đoái thì cải cách thương mại sẽ không hiệu quả.
       - Việc ổn định và nâng cao uy tín đồng tiền quốc gia sẽ có tác dụng khuyến
khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Như đã phân tích kinh nghiệm Trung Quốc, sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ
mô cũng như uy tín của đồng tiền quốc gia trên thị trường quốc tế sẽ khiến các nhà
đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vốn lớn vào các dự án của quốc gia đó. Môi
trường hối đoái ổn định sẽ giúp quốc gia đó thu hút được các nguồn vốn xuất khẩu
trên thế giới.
       Nắm vững bài học đó, chúng ta cần không ngừng nâng cao uy tín của đồng
Việt Nam trên cơ sở duy trì sự tương quan hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại
của nội tệ, hướng dần tới mục tiêu đồng Việt Nam có khả năng chuyển đổi. Một
đồng tiền mất uy tín tất yếu làm thương tổn đến tích lũy, đầu tư nội địa, tăng nguy
cơ lạm phát, tạo điều kiện cho hội chứng “ngoại tệ hóa.
       - Ngoài ra, sự thành công trong điều hành chính sách hối đoái của Trung
Quốc cũng cho chúng ta một số gợi ý:
       + Thời điểm và mức điều chỉnh tỷ giá là những vấn đề có tính chất quyết
định đối với hiệu quả của chính sách tỷ giá.
+ Hàm lượng của các yếu tố thị trường (như: Quan hệ cung - cầu về ngoại
hối, sở thích, chính sách, lạm phát, lợi tức của các tài sản nội ngoại tệ..) phản ánh
trong tỷ giá càng cao thì khả năng có một chính sách tỷ giá có hiệu quả cao và
chống đỡ được với các cú sốc đối với nền kinh tế càng lớn.
      + Chính sách tỷ giá có khả năng dự kiến những diễn biến của tỷ giá cao sẽ
tạo khả năng ổn định tương đối dài hạn và giảm thiểu được những rủi ro hối đoái,
đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài - một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với các nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp hoá.
      + Chính sách phá giá đồng nội tệ ở các nước đang phát triển có thể mang lại
nhiều lợi ích hơn và phải trả giá ít hơn, xét cả về ngắn hạn và dài hạn (tạo lợi thế so
sánh mới, tăng sức cạnh tranh quốc tế, mở rộng nhanh quan hệ ngoại thương, quan
hệ kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư có hiệu quả và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
nhanh…).
   Tính nhạy cảm và khả năng phản ứng của các nhà điều hành chính sách luôn là
yếu tố hàng đầu quyết định sự thành bại của chính sách tỷ giá - một loại chính sách
kinh tế phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố dự kiến và rủi ro trong quá trình
biến động, đặc biệt là sự liên quan chặt chẽ của nó với những yếu tốt rủi ro có tính
chất chính trị. Vì vậy, kinh nghiệm vẫn luôn luôn chỉ là kinh nghiệm, nó chỉ thực
sự có giá trị khi những người phân tích và khai thác kinh nghiệm tìm được lối đi
riêng trong điều kiện cụ thể của mình.
   3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
      HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM
      3.1.   Những đặc điểm chủ yếu của chính sách tỷ giá hối đoái của Việt
             Nam hiện nay

      Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam được chia thành bốn giai đoạn:
-      Giai đoạn 1955-1989: Đặc trưng của thời kỳ này là nhà nước độc
quyền về ngoại thương và ngoại hối, do đó tỷ giá cũng do Nhà nước độc quyền xác
định, không tính đến yếu tố cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Đây là thời kỳ chế
đội tỷ giá cố định, đa tỷ giá với tính chất phi thị trường sâu sắc.
       -      Giai đoạn 1989-1991: Đặc trưng của thời kỳ này là bãi bỏ chế độ đa
tỷ giá, chuyển sang áp dụng chế độ đơn tỷ giá (tỷ giá chính thức) và được điều
chỉnh mạnh theo tín hiệu thị trường. Chính vì vậy, nhiều người coi thời kỳ này là
thời kỳ thả nổi tỷ giá, Nhà nước không có khả năng kiểm soát.
       -      Giai đoạn 1992-1999: Thời kỳ này, tỷ giá được xác định trên các cơ
sở:
       + Đấu thầu tại trung tâm giao dịch ngoại tệ từ 10/1991 đến 31/12/1994. Do
đó, nội dung tỷ giá đã hàm chứa yếu tố cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
       + Tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng từ 1995
đến 2/1999. Như vậy, nội dung tỷ giá đã bao hàm nội dung cung cầu ngoại tệ toàn
diện và khách quan hơn trước.
       -      Giai đoạn 1999 đến nay: Trong thời kỳ này, thay vì ấn định và công
bố tỷ giá chính thức, Ngân hàng Nhà nước bây giờ chỉ thông báo tỷ giá giao dịch
bình quân liên ngân hàng. Đây là thời điểm chuyển đổi tỷ giá cố định sang chế độ
tỷ giá thả nổi có điều tiết.
       Những đặc điểm chủ yếucủa chính sách tỷ giá hối đoái Việt Nam hiện
       nay
       Từ năm 2007 đến nay, chính sách tỷ giá ở Việt Nam có những đặc điểm sau:
       -      Ngân hàng Nhà nước áp dụng chế độ tỷ giá ổn định linh hoạt, có kiểm
soát của Nhà nước, nhiều lần thay đổi biên độ giao dịch.
                Biểu đồ 3.1: Tỷ giá VND/USD giai đoạn 2008-2011
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, Vietcombank (2011)
       -     Ngân hàng Nhà nước một mặt nới lỏng chính sách ngoại tệ đã phù
hợp với các thông lệ quốc tế, mặt khác phải tìm mọi biện pháp ổn định tỷ giá, kiểm
soát việc mua bán ngoại tệ trên thị trường để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu và ổn định nền kinh tế, phòng chống ảnh hưởng của suy giảm tài chính toàn
cầu.
       -     USD ngày càng mất giá trị, vì vậy giá trị của đồng VND bị giảm sút
rất nhiều gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu và thanh toán quốc tế.
       -     Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng,
Chính phủ tăng cường kiểm soát kinh doanh ngoại tệ.
       Một số hạn chế của chính sách tỷ giá hối đoái Việt Nam hiện nay:
       - Cơ chế công bố tỷ giá chính thức hàng ngày theo phương pháp hiện tại, đôi
lúc tỏ ra có nhiều khó khăn trong việc hướng thị trường, vận động theo mục tiêu
Ngân hàng Trung ương đặt ra. Bởi " Nhất cử nhất động " của Ngân hàng trung
ương, đặc biệt trong lĩnh vực tỷ giá - một lĩnh vực cực kỳ nhạy bén, đều tạo cho thị
trường những yếu tố tâm lý tức thời. Trước những biến động của tỷ giá thị trường,
việc thay đổi tỷ giá chính thức ở một chừng mực nào đó không thể giải quyết ngay
lập tức biên độ để cho phép các Ngân hàng Thương mại hoạt động kinh doanh. Bởi
lẽ nếu thay đổi tỷ giá chính thức lớn sẽ gây ra những yếu tố tâm lý sai lệch về
chính sách của Ngân hàng Trung ương. Đây là hạn chế do quá trình ra quyết định
công cộng , Ngân hàng trung ương cũng không thể thay đổi biên độ quy định giới
hạn tỷ giá mua bán của các Ngân hang Trung ương thường xuyên được.
      - Việc qui định một mức tỷ giá chính thức như hiện nay, khi mức chênh lệch
tương đối lớn với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Thương mại và tỷ giá thị
trường tự do, không có ý nghĩa thực tế. Một mặt, sự chênh lệch trên gây ra những
yếu tố tâm lý không tích cực bởi không phải người dân nào cũng hiểu được cơ chế
quản lý tỷ giá hối đoái của ta. Mặt khác, khi tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng
thương mại và tỷ giá thị trường tự do ổn định trong biên độ qui định thì việc công
bố tỷ giá chính thức hàng ngày cách xa tỷ giá trung bình, trên thực tế không thể
hiện vai trò của nó.
      - Việc sử dụng tỷ giá chính thức như hiện nay để tính thuế xuất nhập khẩu tỏ
ra còn có nhiều điểm chưa hợp lý, chưa thể hiện được vai trò quản lý vĩ mô và điều
tiết đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi lẽ khi tỷ giá chính thức cách biệt với tỷ
giá giao dịch của các Ngân hàng Thương mại và tỷ gía thị trường tự do, thì tỷ giá
tính thuế sẽ bị hạn chế rất lớn trong vai trò điều tiết lợi nhuận thu được từ hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu. Chênh lệch về tỷ giá này sẽ tạo ra bất bình đẳng trong
quan hệ thương mại, một số trường hợp không tạo được lợi thế trong cạnh tranh
đối ngoại và khuyến khích xuất khẩu.
      - Với biên độ giao dịch trong phạm vi 5% hiện nay việc qui định mức chênh
lệch giữa tỷ giá mua và bán tỏ ra chưa hoàn toàn hợp lý đối với các Ngân hàng
Thương mại.
Thứ nhất, khi thị trường hối đoái có tính chất động, luôn thay đổi, trong khi
đó các giao dịch lại liên tục diễn ra, nên qui định mức chênh lệch chỉ thể hiện mặt
quản lý danh nghĩa, các Ngân hang Thương mại khó có thể tuân thủ đúng qui định
này được.
      Thứ hai, khung qui định chênh lệch như vậy là tương đối chặt chẽ đối với
hoạt động kinh doanh. Bởi lẽ các Ngân hàng Thương mại đã phải xác định chênh
lệch tỷ giá mua, bán phải tuỳ theo vào cung - cầu của mỗi Ngân hàng, tuỳ thuộc
vào khả năng dự tính về lợi nhuận và khả năng của mồi Ngân hàng. Thực chất qui
định chênh lệch tỷ giá mua bán quá chặt chẽ như vậy không khuyến khích hoạt
động trên thị trường theo đúng các quan hệ nội tại của nó và phần nào không tạo ra
một môi trường cạnh tranh hoàn hảo trong kinh doanh.
      3.2.   Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái của
             Việt Nam trong thời gian tới

      Việc xác định một chính sách tỷ giá phù hợp đối với từng giai đoạn phát
triển của một quốc gia có tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập
khẩu tư bản và đến giá cả hàng hóa trong nước...Trong thời gian qua chính sách tỷ
giá hối đoái ở nước ta đã đóng góp những thành tựu đáng kể trong chính sách tài
chính – tiền tệ như: hạn chế lạm phát, thực hiện mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu, cải
thiện cán cân thanh toán, tạo điều kiện ổn định ngân sách, ổn định tiền tệ. Tuy
nhiên trong việc điều hành tỷ giá, Nhà nước vẫn còn thiếu những giải pháp hữu
hiệu trong từng giai đoạn để sử dụng công cụ tỷ giá một cách phù hợp. Như vậy
phải có mục tiêu và định hướng rõ ràng để có giải pháp thích hợp.
      Mục tiêu và định hướng trong thời gian tới của chính sách tỷ giá hối đoái
của Việt Nam là:
      - Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại.
- Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu,
kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu , cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và
tăng dự trữ ngoại tệ.
      - Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành
đồng tiền chuyển đổi.
      - Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hoá.
      Để đạt được mục tiêu trên chúng tôi đưa ra một số định hướng hoàn thiện
chính sách TGHĐ như sau:
      Thứ nhất: Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước.
      Trong xu thế toàn cầu hóa Việt Nam cần lựa chọn một chính sách tỷ giá thả
nổi có quản lý để thích ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế nước ta trong
tiến trình hội nhập vì chế độ tỷ giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với
quan hệ cung cầu và tỷ giá này thích ứng với điều kiện toàn cầu hóa của thị trường
tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà nước vẫn có thể quản lý được mức độ biến
động của tỷ giá.
      Thứ hai: Chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một
cách hợp lý các doanh nghiệp trong nước.
      Thứ ba: Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo
hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh,
nhưng mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so
sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa.
      Thứ tư: Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam.
      - Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách
phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những
hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước
chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải có
hiệu qủa. Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời
gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của
mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị
mất giá.
      - Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao
gồm việc giảm dần , tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà
nước trong việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính trong
kiểm soát ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sử dụng
linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chủ động trong kinh
doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại …
      Thứ năm: Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, điều kiện cần thiết
để qua đó nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời
qua đó thực hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước mắt cần có
những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng , song song đó phải củng cố và phát triển thị trường
nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó, tạo điều kiện cho
NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ
một cách thông thoáng.
      Thứ sáu: Thực hiện chính sách đa ngoại tệ.
      Hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các
ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong
nước sẽ làm cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến
động về giá cả USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của
USD đến VND mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi.
      Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao
gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương
mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá
của VND ví dụ như đồng EURO, Yên Nhật vì hiện nay EU, Nhật là những thị
trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như
vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa.
      Thứ bảy: Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam.
      -Nâng cao sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích thích
nền kinh tế như: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần
hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong
và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến
khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng …
      -Tạo khả năng chuyển đổi từng phần cho đồng tiền Việt Nam: đồng tiền
chuyển đổi được sẽ tác động tích cực đến hoạt động thu hút vốn đầu tư , hạn chế
tình trạng lưu thông nhiều đồng tiền trong một quốc gia. Hiện tượng đô la hóa nền
kinh tế được hạn chế. Việc huy động các nguồn lực trong nền kinh tế trở nên thuận
lợi hơn, hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia đó năng động hơn.
      Đồng tiền tự do chuyển đổi làm giảm sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ
vào chính sách quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá, giúp cho tốc độ chu
chuyển vốn được đẩy mạnh, góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế thế giới.
      Tuy nhiên, muốn tạo khả năng chuyển đổi cho VND phải có đủ lượng ngoại
tệ dự trữ và nền kinh tế vững mạnh. Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của
các doanh nghiệp Việt Nam phải được nhanh chóng cải thiện.
      Thứ tám: Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, chính
phủ phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại
giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền
đó trong thị trường chứ không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của
Chính phủ.
      Thứ chín: Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào
tỷ giá đạt hiệu quả cao.
Chú trọng hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Chính sách
tiền tệ được thực hiện qua 3 công cụ: lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc và
nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Tuy nhiên, NVTTM nội tệ là công cụ quan trọng
nhất vì nó tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, vì vậy nó quyết định đến sự
thành bại của chính sách tiền tệ quốc gia, bên cạnh đó nó còn tham gia tích cực vào
việc hỗ trợ chính sách tỷ giá khi cần thiết. Chẳng hạn khi phá giá sẽ tăng cung nội
tệ, dẫn đến nguy cơ tạo ra lạm phát. Để giảm lạm phát người ta tiến hành bán hàng
hóa giao dịch trong thị trường mở nội tệ, từ đó làm giảm cung nội tệ và lạm phát
do đó cũng giảm theo.
      Thứ 10: Nhanh chóng thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro. Trong điều
kiện tỷ giá hiện nay tiềm tàng nhiều nhân tố bất ổn chúng ta cần phải gấp rút triển
khai các công cụ phòng ngừa rủi ro. Chính phủ đã cho phép các NHTM thực hiện
các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai,
quyền chọn tiền tệ. Vấn đề là các NHTM và doanh nghiệp nhất là các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp có thu, chi bằng ngoại tệ phải
nhanh chóng sử dụng các công cụ này để phòng ngừa rủi ro tỷ giá.

More Related Content

What's hot

Sự vận động của tỷ giá hối đoái
Sự vận động của tỷ giá hối đoáiSự vận động của tỷ giá hối đoái
Sự vận động của tỷ giá hối đoáipikachukt04
 
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦTỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦcobala1012
 
Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ giá
Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ giáLãi suất ảnh hưởng đến tỷ giá
Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ giáhaiduabatluc
 
Tỷ giá & Can thiệp chính sách
Tỷ giá & Can thiệp chính sáchTỷ giá & Can thiệp chính sách
Tỷ giá & Can thiệp chính sáchPhanQuocTri
 
Chế độ tỷ giá
Chế độ tỷ giáChế độ tỷ giá
Chế độ tỷ giáPureLe Gooner
 
Mô hình các nhân tố quyết định tỷ giá
Mô hình các nhân tố quyết định tỷ giáMô hình các nhân tố quyết định tỷ giá
Mô hình các nhân tố quyết định tỷ giálekieuvan94
 
Can thiệp tỷ giá của chính phủ
Can thiệp tỷ giá của chính phủCan thiệp tỷ giá của chính phủ
Can thiệp tỷ giá của chính phủSusu Xu
 
ty giá và can thiệp của chính phủ
ty giá và can thiệp của chính phủty giá và can thiệp của chính phủ
ty giá và can thiệp của chính phủnhomhivong
 
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCHTỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCHAnna Trương
 
Tỷ giá hối đoái 1
Tỷ giá hối đoái 1Tỷ giá hối đoái 1
Tỷ giá hối đoái 1nhomhivong
 
các nhân tố quyết định tỷ giá hối đoái
các nhân tố quyết định tỷ giá hối đoáicác nhân tố quyết định tỷ giá hối đoái
các nhân tố quyết định tỷ giá hối đoáidotuan14747
 
CHƯƠNG 2B_CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁ
CHƯƠNG 2B_CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁCHƯƠNG 2B_CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁ
CHƯƠNG 2B_CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁvictorybuh10
 
Phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giá
Phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giáPhân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giá
Phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giáGoodbyemyBaBy
 
Can thiệp tỷ giá của chính phủ 33
Can thiệp tỷ giá của chính phủ 33Can thiệp tỷ giá của chính phủ 33
Can thiệp tỷ giá của chính phủ 33dotuan14747
 
Nhin lai chinh sach tien te
Nhin lai chinh sach tien te Nhin lai chinh sach tien te
Nhin lai chinh sach tien te Quân Lê
 
Can thiep ty gia cua chinh phu
Can thiep ty gia cua chinh phuCan thiep ty gia cua chinh phu
Can thiep ty gia cua chinh phuMiu Miu
 
Chương 2 b
Chương 2 bChương 2 b
Chương 2 bLinh Lư
 

What's hot (20)

Sự vận động của tỷ giá hối đoái
Sự vận động của tỷ giá hối đoáiSự vận động của tỷ giá hối đoái
Sự vận động của tỷ giá hối đoái
 
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦTỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ
 
Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ giá
Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ giáLãi suất ảnh hưởng đến tỷ giá
Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ giá
 
Tỷ giá & Can thiệp chính sách
Tỷ giá & Can thiệp chính sáchTỷ giá & Can thiệp chính sách
Tỷ giá & Can thiệp chính sách
 
Chế độ tỷ giá
Chế độ tỷ giáChế độ tỷ giá
Chế độ tỷ giá
 
Mô hình các nhân tố quyết định tỷ giá
Mô hình các nhân tố quyết định tỷ giáMô hình các nhân tố quyết định tỷ giá
Mô hình các nhân tố quyết định tỷ giá
 
Can thiệp tỷ giá của chính phủ
Can thiệp tỷ giá của chính phủCan thiệp tỷ giá của chính phủ
Can thiệp tỷ giá của chính phủ
 
ty giá và can thiệp của chính phủ
ty giá và can thiệp của chính phủty giá và can thiệp của chính phủ
ty giá và can thiệp của chính phủ
 
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCHTỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH
TỶ GIÁ VÀ CAN THIỆP CHÍNH SÁCH
 
Tỷ giá hối đoái 1
Tỷ giá hối đoái 1Tỷ giá hối đoái 1
Tỷ giá hối đoái 1
 
các nhân tố quyết định tỷ giá hối đoái
các nhân tố quyết định tỷ giá hối đoáicác nhân tố quyết định tỷ giá hối đoái
các nhân tố quyết định tỷ giá hối đoái
 
Cstg
CstgCstg
Cstg
 
CHƯƠNG 2B_CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁ
CHƯƠNG 2B_CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁCHƯƠNG 2B_CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁ
CHƯƠNG 2B_CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TỶ GIÁ
 
Su van dong cua ty gia hoi doai
Su van dong cua ty gia hoi doaiSu van dong cua ty gia hoi doai
Su van dong cua ty gia hoi doai
 
Phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giá
Phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giáPhân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giá
Phân tích tác động của các yếu tố đến tỷ giá
 
Pp
PpPp
Pp
 
Can thiệp tỷ giá của chính phủ 33
Can thiệp tỷ giá của chính phủ 33Can thiệp tỷ giá của chính phủ 33
Can thiệp tỷ giá của chính phủ 33
 
Nhin lai chinh sach tien te
Nhin lai chinh sach tien te Nhin lai chinh sach tien te
Nhin lai chinh sach tien te
 
Can thiep ty gia cua chinh phu
Can thiep ty gia cua chinh phuCan thiep ty gia cua chinh phu
Can thiep ty gia cua chinh phu
 
Chương 2 b
Chương 2 bChương 2 b
Chương 2 b
 

Similar to De cuong chinh sach tghd trung quoc

Presentation exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
Presentation    exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnhPresentation    exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
Presentation exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnhhuynh3001
 
tỷ giá hối đoái
tỷ giá hối đoáitỷ giá hối đoái
tỷ giá hối đoáihuynh3001
 
Presentation exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
Presentation    exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnhPresentation    exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
Presentation exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnhhuynh3001
 
Tac dong cua chinh phu den ty gia
Tac dong cua chinh phu den ty giaTac dong cua chinh phu den ty gia
Tac dong cua chinh phu den ty giaThanh Pé
 
Những vấn đề cơ bản về tỷ giá
Những vấn đề cơ bản về tỷ giáNhững vấn đề cơ bản về tỷ giá
Những vấn đề cơ bản về tỷ giákhanhehe12
 
Presentation
PresentationPresentation
Presentationkhaiduy
 
26552 ws zrmppc0b_20140821020627_65671
26552 ws zrmppc0b_20140821020627_6567126552 ws zrmppc0b_20140821020627_65671
26552 ws zrmppc0b_20140821020627_65671Trung Nam Hoàng
 
Chinh sach-ty-gia-hoi-doai
Chinh sach-ty-gia-hoi-doaiChinh sach-ty-gia-hoi-doai
Chinh sach-ty-gia-hoi-doaita61090
 
Tỷ giá hối đoái thùy linh thanh trúc
Tỷ giá hối đoái   thùy linh   thanh trúcTỷ giá hối đoái   thùy linh   thanh trúc
Tỷ giá hối đoái thùy linh thanh trúcHothuylinh17
 
Presentation exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
Presentation    exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnhPresentation    exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
Presentation exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnhhuynh3001
 

Similar to De cuong chinh sach tghd trung quoc (20)

Tcqt
TcqtTcqt
Tcqt
 
Presentation exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
Presentation    exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnhPresentation    exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
Presentation exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
 
He thong tien te quoc te
He thong tien te quoc teHe thong tien te quoc te
He thong tien te quoc te
 
Chinh sach
Chinh sachChinh sach
Chinh sach
 
tỷ giá hối đoái
tỷ giá hối đoáitỷ giá hối đoái
tỷ giá hối đoái
 
Oimeoi
OimeoiOimeoi
Oimeoi
 
Presentation exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
Presentation    exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnhPresentation    exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
Presentation exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
 
Thuyet trình tin
Thuyet trình tinThuyet trình tin
Thuyet trình tin
 
Tac dong cua chinh phu den ty gia
Tac dong cua chinh phu den ty giaTac dong cua chinh phu den ty gia
Tac dong cua chinh phu den ty gia
 
Những vấn đề cơ bản về tỷ giá
Những vấn đề cơ bản về tỷ giáNhững vấn đề cơ bản về tỷ giá
Những vấn đề cơ bản về tỷ giá
 
Taichinh
TaichinhTaichinh
Taichinh
 
Presentation
PresentationPresentation
Presentation
 
Policy tygia
Policy tygiaPolicy tygia
Policy tygia
 
26552 ws zrmppc0b_20140821020627_65671
26552 ws zrmppc0b_20140821020627_6567126552 ws zrmppc0b_20140821020627_65671
26552 ws zrmppc0b_20140821020627_65671
 
Chinh sach-ty-gia-hoi-doai
Chinh sach-ty-gia-hoi-doaiChinh sach-ty-gia-hoi-doai
Chinh sach-ty-gia-hoi-doai
 
Tỷ giá hối đoái thùy linh thanh trúc
Tỷ giá hối đoái   thùy linh   thanh trúcTỷ giá hối đoái   thùy linh   thanh trúc
Tỷ giá hối đoái thùy linh thanh trúc
 
1
11
1
 
Presentation exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
Presentation    exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnhPresentation    exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
Presentation exchange rate - tcqt - ngô thế huỳnh
 
Ppt0000000
Ppt0000000Ppt0000000
Ppt0000000
 
Ppt0000000 4
Ppt0000000 4Ppt0000000 4
Ppt0000000 4
 

De cuong chinh sach tghd trung quoc

  • 1. Trường đại học kinh tế quốc dân Viện thương mại và kinh tế quốc tế ĐỀ CƯƠNG ĐỀ TÀI THẢO LUẬN Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam GVHD: GV. Tô Xuân Cường Lớp: Kinh tế quốc tế 51E Nhóm 1: Nguyễn Thị Minh Hà Hoàng Thị Hạnh Nguyễn Thị Thu Huyền Trần Lan Hương Nguyễn Thị Lan Hương Trần Thị Hà May Nguyễn Lan Phương
  • 2. 1. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 1.1. Tỷ giá hối đoái 1.1.1. Khái niệm và phân loại tỷ giá hối đoái 1.1.1.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái (tỷ giá) là giá cả của một đồng tiền được biểu thị qua một đồng tiền khác, là sự so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền khác nhau. Công thức: 1 đơn vị đồng yết giá = X đơn vị đồng định giá Dựa trên phương pháp yết tỷ giá, có thể đưa ra khái niệm cụ thể về tỷ giá: - Phương pháp yết giá trực tiếp: “Tỷ giá là giá của một đơn vị ngoại tệ tính bằng một số đơn vị nội tệ”. Hầu hết các nước trên thế giới đều dùng phương pháp yết giá này. - Phương pháp yết giá gián tiếp: “Tỷ giá là giá của một đơn vị nội tệ tính bằng một số đơn vị ngoại tệ”. Hiện nay, trên thế giới chỉ có 5 đòng tiền dùng phương pháp yết giá gián tiếp là: GBP, AUD, NZD, EUR và SDR. Riêng đối với đồng USD, Mỹ áp dụng phương pháp yết tỷ giá trực tiếp đối với các ngoại tệ SDR, EUR, GBP, AUD, NZD, IEP và gián tiếp đối với các ngoại tệ còn lại. 1.1.1.2. Phân loại a) Căn cứ vào chính sách tỷ giá - Tỷ giá chính thức (Official rate): Là tỷ giá do các cơ quan có thẩm quyền (Ngân hàng trung ương, quỹ tiền tệ quốc gia) công bố, nó phản ánh chính thức về giá trị đối ngoại của đồng nội tệ. Tỷ giá chính thức được áp dụng để tính thuế xuất khẩu và một số hoạt động khác liên quan đến tỷ giá chính thức. Ở Việt
  • 3. Nam, đây là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, là tỷ giá cơ sở để các ngân hàng thương mại xác định tỷ giá kinh doanh trong biên độ cho phép. - Tỷ giá chợ đen (Black market rate): Là tỷ giá được hình thành bên ngoài hệ thống ngân hàng, do quan hệ cung cầu trên thị trường chợ đen quyết định. - Tỷ giá cố định (Fixed rate): Là tỷ giá do ngân hàng trung ương công bố cố định trong một biên độ dao động hẹp. Dưới áp lực cung cầu của thị trường, để duy trì tỷ giá cố định, ngân hàng trung ương buộc phải thường xuyên can thiệp làm cho dự trữ ngoại hối quốc gia thay đổi. - Tỷ giá thả nổi hoàn toàn (Freely floating rate): Là tỷ giá được hình thành hoàn toàn theo quan hệ cung cầu trên thị trường, ngân hàng trung ương không hề can thiệp. - Tỷ giá thả nổi có điều tiết (Managed floating rate): Là tỷ giá được thả nổi nhưng ngân hang trung ương tiến hàng can thiệp để tỷ giá biến động theo hướng có lợi cho nền kinh tế. b) Căn cứ mức ảnh hưởng lên cán cân thanh toán - Tỷ giá danh nghĩa song phương (Nominal Bilateral Exchange Rate – NER): Là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác mà chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa chúng. - Tỷ giá thực song phương (Real Bilateral Exchange Rate – RER): bằng tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát giữa trong nước với nước ngoài, do đó, nó là chỉ số phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ.
  • 4. - Tỷ giá danh nghĩa đa phương (Nominal Effective Exchange Rate – NEER): Là chỉ số tỷ giá trung bình của một đồng tiền so với các đồng tiền còn lại. - Tỷ giá thực đa phương (Real Effective Exchange Rate – REER): bằng tỷ giá danh nghĩa đa phương đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước với tất cả các nước còn lại, do đó, nó phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ với tất cả các đồng tiền còn lại. 1.1.2. Các chế độ tỷ giá hối đoái chủ yếu Khái niệm: Tập hợp các quy tắc, cơ chế xác định và điều tiết tỷ giá của một quốc gia tạo nên chế độ tỷ giá của quốc gia này. 1.1.2.1. Chế độ tỷ giá cố định a) Khái niệm Là chế độ tỷ giá mà trong đó, ngân hàng trung ương công bố và cam kết can thiệp để duy trì tỷ giá cố định (tỷ giá trung tâm) trong một biên độ hẹp đã được định trước. Trong chế độ tỷ giá này, giá trị của một đồng tiền được gắn với giá trị của một đồng tiền khác hay với một rổ đồng tiền khác, hoặc với một thước đo giá trị khác (Vàng…). b) Đặc điểm Tỷ giá được ngân hàng trung ương cam kết cố định trong một biên độ hẹp (thường từ 2-5%), không phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Do mỗi đồng tiền quốc gia đều có tỷ giá với các đồng tiền khác nên tỷ giá của một đồng tiền có thể được thả nổi với đồng tiền này nhưng lại được cố định với đồng tiền khác.
  • 5. c) Vai trò của ngân hàng trung ương Ngân hàng trung ương là người có trách nhiệm điều hành tỷ giá, phải thực hiện mua vào hay bán ra đồng nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá trung tâm trong biên độ hẹp đã định trước. Để tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối đòi hỏi ngân hàng trung ương phải có sẵn nguồn dự trữ ngoại hối nhất định. d) Tác động Trong thực tế, chế độ tỷ giá cố định đã giúp tạo ra sự ổn định cho các nền kinh tế và được nhiều chính phủ ưa thích. Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống Bretton Woods đã tồn tại đến tận năm 1970 với sự neo giá cố định của các đồng tiền Tây Âu vào đồng USD. Đồng EUR hiện nay cũng có thể được xem là một chế độ tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia thành viên. Nhiều quan điểm khác cho rằng, tỷ giá hối đoái cố định quá cứng nhắc nên che mất những thông tin cần thiết cho thị trường hoạt động đúng hướng. Nguyên nhân chính là do đồng tiền không còn thể hiện giá trị thực của chúng. Sự che đậy thông tin tạo ra tính không chắc chắn, kích thích các nhà đầu cơ tấn công các đồng tiền cố định và nhiều nước sẽ mất sạch cả dự trữ ngoại hối trong khi cố gắng bảo vệ đồng tiền của mình chứ không chịu để nó mất giá. Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là một trường hợp như vậy. 1.1.2.2. Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn a) Khái niệm Là chế độ tỷ giá mà trong đó, tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự can thiệp nào của ngân hàng trung ương.
  • 6. b) Đặc điểm Trong chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, sự biến động của tỷ giá là không có giới hạn và luôn phản ánh những thay đổi trong quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. c) Vai trò của ngân hàng trung ương Ngân hàng trung ương tham gia thị trường ngoại hối với tư cách là một thành viên bình thường, nghĩa là ngân hàng trưng ương có thể mua hay bán một đồng tiền nhất định phục vụ cho mục đích hoạt động của mình chứ không nhằm mục đích can thiệp lên tỷ giá. Chế độ tỷ giá này chỉ tồn tại về mặt lý thuyết. Trên thực tế, nói là áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi độc lập, nhưng ngân hàng trung ương không thờ ơ với sự biến động thất thường của tỷ giá, nên ít nhiều can thiệp để giảm sự biến động của tỷ giá. Tuy nhiên, can thiệp của chính phủ là tùy ý và không đặt ra bất cứ mục tiêu bắt buộc cụ thể nào phải đạt được. d) Tác động Các nhà kinh tế cho rằng, trong nhiều trường hợp, chế độ tỷ giá thả nổi tốt hơn chế độ tỷ giá cố định bởi vì tỷ giá thả nổi nhạy cảm với thị trường ngoại hối. Điều này cho phép làm dịu đi nhưng tác động của các cú sốc và chu kỳ kinh doanh nước ngoài. Thêm vào đó, nó không bóp méo các hoạt động kinh tế. 1.1.2.3. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết a) Khái niệm Là chế độ trong đó ngân hàng trung ương tiến hành can thiệp tích cực trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất định.
  • 7. b) Đặc điểm Ngân hàng trung ương không cam kết duy trì cố định tỷ giá hay một biên độ dao động hẹp cung quanh tỷ giá cố định nào, nhưng lại cam kết can thiệp để tỷ giá ngày hôm nay chỉ biến động trong một giới hạn tỷ lệ % nhất định so với ngày hôm trước. Là một chế độ tỷ giá hối đoái nằm giữa hai chế độ thả nổi và cố định, kết hợp những ưu điểm và loại bỏ được những nhược điểm của hai chế độ này. c) Vai trò của ngân hàng trung ương Tích cực và chủ động can thiệp lên tỷ giá thông qua các nghiệp vụ thị trường mở để giảm sự biến động quá mức của tỷ giá, hoặc để tỷ giá biến động trong một biên độ nhất định. d) Tác động Chính phủ vẫn có thể kiểm soát được sự biến động của tỷ giá và các ảnh hưởng của tỷ giá lên nền kinh tế, trong khi đó vẫn không làm kìm hãm sự phát triển của các ngành kinh tế, đặc biệt là các ngành liên quan đến kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, chế độ tỷ giá này vẫn tạo điều kiện cho các chính sách tiền tệ của chính phủ phát huy tác động mà không hoàn toàn bị đóng băng như chế độ tỷ giá cố định. 1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái 1.1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá dài hạn - Mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước: Trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, năng suất lao động của hai nước tương đương nhau, cơ chế quản lý
  • 8. ngoại hối tự do, khi đó nước nào có mức độ lạm phát lớn hơn thì đồng tiền của nước đó bị mất giá so với đồng tiền nước còn lại, nghĩa là tỷ giá tăng lên. - Chính sách ngoại thương: Thuế quan và hạn ngạch. Khi một nước áp dụng thuế và hạn ngạch với hàng nhập khẩu sẽ làm tăng nhu cầu về hàng nội địa, nội tệ có xu hướng tăng giá, làm cho tỷ giá giảm xuống. - Ứng xử của công chúng: Sự ưa thích hàng nội hay hàng ngoại. Sự ưa thích hàng nhập ngoại tăng làm cho ngoại tệ tăng giá. Ngược lại, sự tăng lên về lâu dài của hàng xuất khẩu sẽ làm cho đồng nội tệ tăng giá. - Năng suất lao động và mức thu nhập giữa các quốc gia: Nếu năng suất lao động của một nước cao hơn nước khác thì giá hàng nội tệ của nước đó có thể hạ tương đối so với hàng ngoại mà vẫn thu được lãi, dẫn đến cầu về hàng nội tăng, làm tăng giá đồng nội tệ. 1.1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá ngắn hạn - Lãi suất: Lãi suất là một biến số kinh tế tổng hợp tác động đến nhiều chỉ tiêu khác nhau, trong đó tỷ giá và lãi suất có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Khi lãi suất đồng nội tệ tăng tương đối so với lãi suất thế giới thì luồng vốn quốc tế đổ vào nước này tăng lên, làm cầu nội tệ tăng. - Cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh mức cung – cầu về ngoại tệ trên thị trường, do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá hối đoái. Bội thu cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá giảm và ngược lại, bội chi cán cân sẽ làm cho tỷ giá tăng. - Đầu tư nước ngoài: Một nước nhận đầu tư từ nước ngoài, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước, làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm và
  • 9. ngược lại, khi đầu tư ra nước ngoài thì luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn dòng vốn chảy ra nước ngoài dẫn đến tỷ giá hối đoái tăng. 1.1.4. Tác động của tỷ giá hối đoái đến các hoạt động kinh tế quốc tế Tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết cán cân thương mại quốc tế theo mục tiêu đã định trước của nhà nước. Nó ra đời từ hoạt động thương mại quốc tế và quay trở lại tác động thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển. Tỷ giá hối đoái tác động lớn đến xuất nhập khẩu hàng hóa và vốn, giá cả hàng hóa trong nước, do đó nó có tác động không nhỏ đến nền kinh tế. Khi tỷ giá tăng, sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trên thị trường thế giới sẽ tăng lên và thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của quốc gia. Đồng thời với đó là sự tăng giá của hàng nhập khẩu, làm giảm kim ngạch nhập khẩu quốc gia. Tỷ giá thay đổi cũng có tác động điều tiết việc di chuyển vốn từ quốc gia này tới quốc gia khác. Việc di chuyển vốn nhằm mục đích kiếm lợi nhuận và tránh rủi ro. Do đó, tỷ giá tăng lên sẽ khiến cho tư bản nhập khẩu gia tăng và tư bản xuất khẩu giảm. Ngoài ra, giá cả hàng hóa trong nước cũng chịu tác động của tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá tăng, giá tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng nhập khẩu tăng lên kéo theo giá cả các mặt hàng trong nước có liên quan cũng tăng theo. Đồng thời, do tác
  • 10. động giảm nhập khẩu nên cầu về các hàng hóa nhập khẩu cũng sẽ gia tăng, làm cho giá cả chung trong nền kinh tế bị đẩy lên cao. 1.2. Chính sách tỷ giá hối đoái 1.2.1. Khái niệm và vai trò của chính sách tỷ giá hối đoái Chính sách tỷ giá hối đoái là những hoạt động của chính phủ (mà đại diện thường là ngân hàng trung ương) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế điều hành tỷ giá) và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế quốc gia. 1.2.2. Các công cụ chủ yếu của chính sách tỷ giá hối đoái 1.2.2.1. Nhóm công cụ trực tiếp - Phá giá tiền tệ: Trong chế độ tỷ giá cố định, phá giá tiền tệ là việc chính phủ đánh tụt giá đồng nội tệ so với các ngoại tệ. Biểu hiện của phá giá tiền tệ là tỷ giá được điều chỉnh tăng so với mức mà chính phủ đã cam kết duy trì. Tỷ giá tăng làm nội tệ giảm giá nên được gọi là phá giá. Có hai nguyên nhân khiến cho chính phủ phải phá giá nội tệ: + Phá giá chủ động: Do giá cả hàng hóa và tiền lương là ít co giãn trong ngắn hạn, nên khi điều chỉnh tỷ giá tăng đột ngột, tức là phá giá tiền tệ sẽ làm cho giá hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm, kích thích tăng xuất khẩu; ngược lại, giá hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng, làm giảm nhập khẩu; kết quả là cán cân thương mại được cải thiện, tạo công ăn việc làm, kích thích sản xuất trong nước, tăng dự trữ quốc gia.
  • 11. + Phá giá bị động: Trong trường hợp đồng nội tệ được định giá quá cao, làm mất cân đối cung cầu trên thị trường ngoại hối (cung ít, cầu nhiều), ngân hàng trung ương tiến hành can thiệp làm cho dự trữ ngoại hội cạn kiệt. Để cung cầu cân bằng và dự trữ ngoại hối không giảm nữa, chính phủ buộc phải phá giá đồng nội tệ. Phá giá bị động thường xảy ra khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại. - Nâng giá tiền tệ: Ngược lại với phá giá tiền tệ, nâng giá là việc chính phủ tăng giá đồng nội tệ so với ngoại tệ. Lý do mà một quốc gia phải nâng giá đồng nội tệ bao gồm: + Áp lực từ các nước đối tác thương mại có cán cân thương mại thâm hụt. + Nhằm tránh phải tiếp nhận những đồng ngoại tệ bị mất giá chạy vào nước mình. + Nhằm hạ nhiệt nền kinh tế quá nóng (nâng giá tiền tệ làm giảm xuất khẩu, giảm đầu tư vào trong nước). + Để xây dựng sự ảnh hưởng của nước mình ở bên ngoài (tăng cường đầu tư và xuất khẩu vốn ra nước ngoài). - Nghiệp vụ thị trường mở: Là hoạt động mua bán giấy tờ có giá giữa ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng. Thông thường, hoạt động của ngân hàng trung ương trên thị trường ngoại hối thông qua việc mua bán nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định (trong chế độ tỷ giá cố định) hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định trong mục tiêu đã đề ra (trong chế độ tỷ giá thả nổi) thường làm thay đổi lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Nó có thể gây ra hiện tượng lạm phát hay giảm phát không mong muốn cho nền kinh tế. Chính vì vậy thông thường các ngân hàng trung ương phải sử dụng thêm nghiệp vụ thị
  • 12. trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông. Thông qua hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung ương tác động trực tiếp lên nguồn vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ. + Khi ngân hàng trung ương mua vào các giấy tờ có giá sẽ bù đắp lượng tiền thiếu hụt trong lưu thông. Do đó, giảm áp lực giảm phát. + Khi ngân hàng trung ương bán ra các giấy tờ có giá, sẽ hút bớt lượng nội tệ đang dư thừa trong lưu thông, làm giảm áp lực lạm phát. Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết của công cụ này là chính phủ phải có một lượng dự trữ ngoại hối nhất định có thể can thiệp kịp thời vào các biến động của thị trường mà vẫn đảm bảo mức dự trữ an toàn quốc gia. - Kết hối ngoại tệ: Là việc chính phủ quy định đối với các thể nhân và pháp nhân có nguồn thu ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn nhất định cho các tổ chức được phép kinh doanh ngoại hối. Biện pháp kết hối được áp dụng trong những thời kỳ khan hiếm ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại hối. Mục đích chính của biện pháp kết hối là nhằm tăng cung ngoại tệ tức thời để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thị trường, hạn chế hành vi đầu cơ và giảm áp lực khi phải phá giá nội tệ. - Quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, mục đích sử dụng ngoại tệ, số lượng mua ngoại tệ, thời điểm mua ngoại tệ. Tất cả các biện pháp này đều nhằm mục đích giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và tác động giữ cho tỷ gias ổn định. 1.2.2.2. Nhóm công cụ gián tiếp
  • 13. a) Các công cụ phổ biến - Lãi suất tái chiết khấu: Với các yếu tố khác không đổi, khi ngân hàng trung ương tăng mức lãi suất tái chiết khấu sẽ làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường, hấp dẫn các luồng vốn ngoại tệ chạy vào làm cho nội tệ tăng giá. - Thuế quan: Thuế quan cao có tác động hạn chế nhập khẩu, làm cho cầu ngoại tệ giảm, kết quả là làm cho nội tệ tăng giá. - Hạn ngạch có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu nên nó cũng có tác động như thuế quan. - Giá cả: Thông qua hệ thống giá cả, chính phủ có thể trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Trợ giá xuất khẩu có thể làm cho khối lượng xuất khẩu tăng, làm tăng cung ngoại tệ, khiến cho nội tệ lên giá. Chính phủ cũng có thể bù đắp giá cho một số hàng nhập khẩu thiết yếu, bù giá làm tăng nhập khẩu và kết quả là làm giảm giá đồng nội tệ. b) Các công cụ đặc biệt Ngoài các công cụ gián tiếp thông dụng nêu trên, trong từng thời kỳ, chính phủ (chủ yếu là các nước đang phát triển) còn có thể áp dụng một số chính sách cá biệt như sau: - Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ: Khi ngoại tệ khan hiếm trên thị trường ngoại hối, ngân hàng trung ương có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với vốn huy động bằng ngoại tệ của các ngân hàng thương mại, làm cho chi phí sử dụng vốn ngoại tệ tăng. Để kinh doanh có lãi, các ngân hàng thương mại bắt buộc phải hạ lãi suất huy động ngoại tệ, kết quả là việc nắm giữ ngoại tệ trở nên kém hấp dẫn hơn so với nắm giữ nội tệ, khiến cho những người sở hữu ngoại
  • 14. tệ phải bán đi để mua về nội tệ, làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối làm cho đồng nội tệ lên giá. - Quy định lãi suất trần thấp đối với tiền gửi bằng ngoại tệ: Quy định mức lãi suất cao nhất mà người gửi ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại được hưởng. Khi ngân hàng trung ương quy định trần thấp thì việc gửi tiền bằng ngoại tệ trở nên kém hấp dẫn, người gửi tiền sẽ bán ngoại tệ lấy nội tệ, làm tăng cung ngoại tệ và tăng cầu nội tệ dẫn đến việc tăng giá của đồng nội tệ. - Quy định trạng thái ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại ngoài mục đích chính là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, còn có tác dụng hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối. 1.3. Vai trò của Chính phủ trong việc điều hành tỷ giá hối đoái Việc thực hiện một chế độ tỷ giá linh hoạt vừa phải có sự kiểm soát với một mức tỷ giá gọi là tỷ giá chính thức được công bố bởi ngân hàng nhà nước, cùng với một biên độ quy định cho các mức tỷ giá giao dịch trên thị trường so với tỷ giá chính thức đòi hỏi chính phủ nói chung và ngân hàng nhà nước nói riêng cần phải có sự can thiệp điều phối thị trường để duy trì biên độ quy định trong hoạt động can thiệp đó chính phủ tuân theo nguyên tắc tương hợp nhằm ít gây méo mó thị trường. Việc quản lý, điều hành tỷ giá hối đoái đó của chính phủ được thực hiện chủ yếu qua sự tham gia của ngân hàng trung ương trên thị trường, vai trò của ngân hàng trung ương cũng chính là vai trò của Chính phủ trong quá trình quản lý này. Vai trò đó được thể hiện thông qua một số lưu ý của ngân hàng trung ương trong điều hành tỷ giá hối đoái: - Ngân hàng trung ương một thành phần chủ chốt, thường trực của các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng.
  • 15. - Trong công tác điều hành hệ thống tỷ giá hối đoái nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng, ngân hàng trung ương cần có sự phân tích rõ ràng giữa hai chức năng: chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước với chức năng can thiệp thị trường. Trong đó chức năng ngân hàng đại diện cho nhà nước là để thực hện các chức năng giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi của nhà nước và giao dịch tăng tích luỹ ngoại tệ theo mục tiêu. Còn chức năng can thiệp thị trường là nhằm điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. - Ngân hàng trung ương phải không ngừng chú trọng việc xây dựng và tăng cường bộ khung của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bằng việc tăng số lượng thành viên trên thị trường. Từng bước cho các tổ chức tín dụng không phải là ngân hàng thương mại tham gia đầy đủ các nghiệp vụ như kỳ hạn hoán đổi mặc dù có thể giới hạn ở việc các giao dịch này chỉ được thực hiện với các ngân hàng thương mại và ngân hàng trung ương. - Ngân hàng trung ương và các bộ ngành phải có kế hoạch dự tính trước các giao dịch của mình một cách cụ thể và không để các thành phần kinh tế khác bật ra khỏi thị trường chính thức bằng cách các giao dịch của nhà nước không chỉ được thực hiện trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mà còn phải mở rộng giao dịch trên khu vực tự do của thị trường. - Chú trọng hơn đến việc hoàn thiện và phát triển các công cụ của thị trường ngoại tệ mà trước mắt là các nghiệp vụ đang hiện tồn tại như các nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn ngoại tệ hoán đổi...bằng các biện pháp cụ thể như: ngân hàng nhà nước, cơ quan có trách nhiệm; tổ chức báo cáo bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ ngân hàng, nên gấp rút tổ chức các lớp bồi dưỡng về bản chất và kỹ thuật các nghiệp vụ hối đoái nói riêng và nhệm cụ nào đó nói chung khi mới được đưa vào sử dụngđể đảm bảo một sự nhận thức đúng về bản chất cũng như kỹ thuật nghiệp vụ khi thực hiện.
  • 16. - Việc can thiệp của ngân hàng trung ương nhằm vào điều phối các quan hệ cung cầu trên thị trường chứ không nên có sự can thiệp sâu vào các nghiệp vụ mang tính kỹ thuật của thị trường. - Nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thông qua một số biện pháp cụ thể như: đặt mạnh trọng tâm vào việc không ngừng đổi mới hệ thống thanh toán của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng và quan trọng là ngân hàng nhà nước cả về cơ chế thanh toán và trang thiết bị kỹ thuật để hạn chế về thanh toán qua nhiều trung gian mà trước hết là hệ thống thanh toán nội bộ của chính các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. - Bổ sung vào cơ chế điều hành tỷ giá mới một nội dung hết sức quan trọng vào đầu năm, ngân hàng nhà nước vào công bố tỷ giá hối đoái danh nghĩa hàng năm, hàng quý trên cơ sở điều chỉnh mức tỷ giá giao dịch thực tế bình quân của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được xác lập theo cơ chế mới. Dựa vào đó các cơ quan chức năng có đầy đủ căn cứ để xác lập cân đối lớn, vĩ mô của nền kinh tế. - Mục đích can thiệp của ngân hàng trung ương không hoàn toàn giống nhau, điều này phụ thuộc vào tình hình, ý đồ chiến lược của mỗi nước, ngay ở một quốc gia thì mục đích can thiệp ở mỗi thời kỳ cũng khác nhau. Nhìn chung, Chính phủ, thông qua ngân hàng trung ương, là người có vai trò điều hành, quản lý tỷ giá hối đoái, sử dụng các công cụ của mình để điều chính tỷ giá về mức cần thiết theo mục tiêu cho trước và đảm bảo sự thống nhất của chính sách tỷ giá với các chính sách vĩ mô khác để phát triển nền kinh tế. 2. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC
  • 17. 2.1. Giai đoạn trước năm 1979 Cũng như những nước xã hội chủ nghĩa khác, trong giai đoạn trước khi chuyển đổi nền kinh tế, Trung Quốc xây dựng và áp dụng chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá nhưng không tuân theo hoàn toàn đúng với những nguyên tắc của chế độ tỷ giá cố định. Những tỷ giá được ấn định khác nhau tùy thuộc vào từng quan hệ kinh tế đối ngoại và thỏa thuận trong quan hệ của hai bên hay nhiều bên có tính chất nội bộ hệ thống, xoay quanh giá trị của đồng Ruble (RUR) đã được ấn định ngang bằng với giá trị đồng USD. Trên thực tế, giao dịch ngoại thương của các nước xã hội chủ nghĩa trong thời gian này chủ yếu là trao đổi hàng hóa trực tiếp và tỷ giá hối đoái chỉ được sử dụng vào thanh toán số dư cuối kỳ nên không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của nền kinh tế. Trong thời kỳ bao cấp, các doanh nghiệp hoàn toàn không có nhu cầu sử dụng ngoại tệ một cách chủ động vì lợi ích của mình mà phải hoạt động theo sự sắp đặt của nhà nước nên tỷ giá hối đoái đã không thể hiện được vai trò là đòn bẩy kinh tế của nó. Tỷ giá và các nhân tố tác động đến tỷ giá của thời kỳ này
  • 18. không tồn tại hoặc chỉ tồn tại mang tính hình thức mà hoàn toàn không đem lại bất kỳ hiệu quả gì cho cả nền kinh tế. Khi bắt đầu thực hiện quá trình chuyển đổi nền kinh tế vào năm 1997, chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc cũng được chuyển đổi cho phù hợp với những yêu cầu mới của nền kinh tế. 2.2. Giai đoạn 1979-1994 Trước hết, Trung Quốc để cho tỉ giá ấn định trước đây linh động theo sát với những diễn biến của tỉ giá trên thị trường. Đây gần như là bước tất yếu để đưa yếu tố thị trường vào trong cơ chế xác định tỉ giá đối với hầu hết các nước tiến hành chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết và định hướng của nhà nước. Trên thực tế, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh liên tục tỷ giá hối đoái danh nghĩa biến động theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ cho phù hợp với sức mua của nó trong suốt thời kỳ đầu của quá trình cải cách cho đến đầu những năm 90, vì đồng nhân dân tệ đã bị đánh giá cao trong suốt thời gian trước đây (bảng 2.2). Bảng 2.2: Diễn biến của tỉ giá hối đoái giữa đồng nhân dân tệ và đồng đô la thời kỳ 1978 – 1990. Chỉ tiêu 1978 1980 1982 1984 1986 1988 1990 Tỷ giá cuối năm 1.577 1.530 1.922 2.975 3.722 3.722 5.222 USD/NDT Tỷ giá trung bình 1.683 1.498 1.892 2.320 3.453 3.722 4.783 năm(USD/NDT) Sau những điều chỉnh trên, tỷ giá phản ánh tương đối sát với những tín hiệu của thị trường và sức mua thực tế của đồng Nhân dân tệ. Trong những năm đầu của thập kỷ 90, tỷ giá danh nghĩa của đồng Nhân dân tệ với đồng Đôla Mỹ được duy trì tương đối ổn định ở mức 5,2 đến 5,8 NDT = 1 USD (xem bảng xx), là mức dao
  • 19. động đã được điều chỉnh để phản ánh những tác động của lạm phát của Trung Quốc và Mỹ là 10,92% (27,52% - 16,60% thời kỳ 1990 - 1993) trên 11,06% là mức điều chỉnh tỷ giá thời kỳ 90 - 93, cao hơn mức lạm phát (0,14%) (bảng 2.3). Bảng 2.3: Biến động tỉ giá danh nghĩa USD/NDT đầu những năm 1990. Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993 Tỷ giá cuối năm (USD/NDT) 5.222 5.434 5.752 5.800 Tỷ giá trung bình năm (USD/NDT) 4.783 5.323 5.515 5.762 Lạm phát Trung Quốc (%/năm) 3.06 3.52 6.34 14.58 2.3. Giai đoạn 1994-1997 Trên đà lạm phát bắt đầu tăng nhanh từ giai đoạn trước, dự đoán được tỉ lệ lạm phát sẽ còn tiếp tục dâng cao nếu không có sự điều chỉnh kịp thời. Hơn nữa, nhận thấy trong tình hình lạm phát này nếu vẫn duy trì tỷ giá hối đoái theo hướng cố định tương đối thì sẽ có những tác động xấu đến mục tiêu tăng cường mở cửa và thúc đẩy xuất khẩu của nền kinh tế do đồng Nhân dân tệ có khả năng trở lại tình trạng bị đánh giá cao so với sức mua thực tế. Chính phủ Trung Quốc đã ra một quyết định có ý nghĩa bước ngoặt cho nền kinh tế Trung Quốc. Ngày 1.1.1994, đồng Nhân dân tệ chính thức bị tuyên bố phá giá mạnh từ 5.8 NDT/USD xuống 8.7 NDT/USD, tương ứng với tỷ lệ phá giá 50% (2.9/5.8). Kết hợp với tỷ lệ đồng Nhân dân tệ bị đánh giá thấp 0.14% giai đoạn 1990 – 1993 thì tỷ lệ phá giá thực tế là 50.14%. Như vậy, có thể thấy hành động trên của chính phủ Trung Quốc không đơn thuần là nhằm điều chỉnh để đồng Nhân dân tệ phản ánh đúng sức mua của nó, mà đây rõ ràng là một chủ ý trong chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc đã đánh tụt rất mạnh đồng nội tệ nhằm thúc đẩy cao độ xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài và tạo thặng dư trong cán cân thương mại.
  • 20. Đồng thời với việc phá giá mạnh đồng nội tệ, Trung Quốc huỷ bỏ chế độ tỷ giá ấn định cũ của Nhà nước để chuyển sang khoảng tỉ giá được dao động quanh mức tỉ giá vừa bị đánh tụt ở trên. Để giảm bớt những tác động của chính sách tỷ giá này lên thị trường tiền tệ, Trung Quốc đã ban hành hàng loạt các quy định hỗ trợ như: thực hiện chế độ ngân hàng kết nối, xoá bỏ sự ghìm giá và tăng giá ngoại hối của các công ty, xây dựng thị trường giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng, cải tiến cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái; cải tiến và hoàn thiện quản lý thu chi, kết toán ngoại hối, xoá bỏ kế hoạch mang tính mệnh lệnh đối với thu chi ngoại hối...kết hợp với việc kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng trung ương đối với các hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại bằng cách quy định ngân hàng nào được phép chuyển đổi và với số lượng là bao nhiêu. Các ngân hàng này có toàn quyền hoạt động trong thị trường ngoại hối. Đối với các công ty nước ngoài,Trung Quốc yêu cầu phải có bảng cân đối ngoại tệ hàng năm. Đối với các doanh nghiệp liên doanh phải có giấy phép đổi ngoại tệ mạnh sang Nhân dân tệ. Còn đối với các doanh nghiệp nhà nước thì được yêu cầu phải nộp 100% ngoại tệ thu được thay vì 50% như trước đây. Nhưng mặt khác, nhà nước cho phép các công ty xuất khẩu tăng tỷ lệ giữ ngoại tệ mạnh, các công ty nước ngoài được từng bước giao dịch, mua bán các loại ngoại tệ mạnh, tạo điều kiện để đồng Nhân dân tệ xâm nhập nhanh hơn vào thị trường tiền tệ thế giới. Nhìn chung, so với giai đoạn 1990 – 1993, các chính sách tỉ giá hối đoái của Trung Quốc đã linh động và mềm dẻo hơn rất nhiều. Ngày 1.1.1996, đồng Nhân dân tệ Trung Quốc đã chính thức được Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) công nhận là đồng tiền chuyển đổi tự do ở các tài khoản vãng lai (các tài khoản có liên quan đến các khoản thanh toán về mậu dịch hàng hoá – dịch vụ cũng như các khoản lợi nhuận các công ty nước ngoài chuyển về nước). Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997 Lạm phát (% năm) 24,24 16,90 8,32 2,80
  • 21. Tỷ giá hối đoái (trung bình NDT/USD) 8,6187 8,3514 8,3142 8,2898 Tốc độ tăng trưởng (% năm) 12,70 10,50 9,50 8,80 Kết quả của một loạt những điều chỉnh kết hợp thả lỏng và xiết chặt từng bộ phận trong chính sách tỷ giá và tiền tệ vào thời điểm này đã có tác động tích cực nhanh chóng khôi phục lại đà tăng trưởng trong xuất nhập khẩu và nền kinh tế Trung Quốc 2.4. Giai đoạn 1997 - 2005 Nếu trước thời điểm khủng hoảng Trung Quốc vẫn duy trì ổn định tỉ giá đồng Nhân dân tệ thì ảnh hưởng của khủng hoảng đối với nền kinh tế sẽ ít nghiêm trọng hơn. Trên thực tế là đồng Nhân dân tệ đã bị lao đao, đặc biệt là trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng năm 1997, một lý do lớn là do sự thả nổi đồng nội tệ trong giai đoạn 1993 – 1996 như đã nghiên cứu ở trên. Năm 1998, để bảo vệ đồng Nhân dân tệ trước làn sóng tấn công của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, một lần nữa Trung Quốc laị quay lại kiểm soát chặt chẽ thị trường ngoại hối, giảm nguy cơ đầu cơ và những dự kiến về phá giá đồng Nhân dân tệ. Đồng thời, để giảm bớt sức ép đối với xuất khẩu và sự tăng trưởng của nền kinh tế, chính phủ Trung Quốc đã phối hợp với các chính sách tiền tệ nới lỏng và kích cầu. Trong năm 1998, Trung Quốc đã liên tiếp 3 lần hạ lãi suất tiền cho vay và tiền gửi đồng Nhân dân tệ, đồng thời giảm cả lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Thêm vào đó là các chính sách: hạ thấp tỉ lệ dự trữ bắt buộc, hỗ trợ vốn doanh nghiệp, kích thích tiêu dùng các tầng lớp dân cư. Bảng 2.4: Tình hình lãi suất trên thị trường tiền tệ trong năm 1998 Chỉ tiêu 20.03.1998 01.07.1998 06.12.1998 Lãi suất tiền cho vay NDT giảm(%) 1.6 0.49 0.27 Lãi suất tiền gửi NDT giảm (%) 0.6 1.12 0.55 Lãi suất tiền gửi USD giảm (%) 4.875 4.250 3.755 Ngày 11/12/2001, Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).Với những thách thức đặt ra đối với nền kinh tế sau
  • 22. khi gia nhập WTO, Trung Quốc vẫn tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là chính sách tỷ giá của Trung Quốc cần được thực thi sao cho đảm bảo hài hoà được với mục tiêu hạ nhiệt nền kinh tế của quốc gia khổng lồ này trong giai đoạn này.Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Trung Quốc từ sau khi gia nhập WTO có xu hướng ngày càng cao ở mức khó kiểm soát, trong khoảng 8-9%/năm. Trước tình hình này, ngày 28/10/2004, ngân hàng trung ương Trung Quốc đã quyết định tăng tỷ lệ lãi suất huy động tiền gửi bằng đồng nhân dân tệ kỳ hạn một năm từ 1,98% lên 2,25% và tăng lãi suất cho vay từ 5,31% lên 5,58%. Biện pháp này phù hợp với xu thế tăng lãi suất trên phạm vi toàn cầu trong năm 2004, đồng thời cũng là dấu hiệu đầu tiên cho thấy nước này đang bắt đầu thực hiện cải cách chính sách tiền tệ. Lần tăng lãi suất đầu tiên kể từ tháng 7 năm 1995 này của ngân hàng trung ương Trung Quốc nhằm mục đích duy trì những kết quả điều tiết vĩ mô mà họ đã đạt được trong giai đoạn vừa qua, đồng thời góp phần hạ nhiệt, tạo nên sự phát triển lành mạnh và bền vững của nền kinh tế. Các luồng vốn khổng lồ chảy vào Trung Quốc đã gây áp lực tăng giá lên đồng Nhân dân tệ. Để kiểm soát giá đồng Nhân dân tệ, ngân hàng trung ương phải mua vào ngoại tệ, tăng khả năng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Kết quả là dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng hơn 40% từ đầu năm lên đến 540 tỷ USD tính đến cuối tháng 10 năm 2004. Với con số này, Trung Quốc trở thành nước có lượng dự trữ ngoại tệ lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Nhật Bản (820 tỷ USD). Trên cơ sở xây dựng thị trường ngoại hối thống nhất, Chính phủ Trung Quốc cũng từng bước nới lỏng biên độ giao dịch của đồng Nhân dân tệ so với đồng USD, từ mức 3% hiện nay tiến tới 4-5%. Những biện pháp trên của Chính phủ Trung Quốc không những đã giúp hạn chế sự tăng giá của đồng Nhân dân tệ, mà còn khiến đồng tiền này duy trì ở mức giá thấp trong thời gian dài, khuyến khích xuất khẩu Trung Quốc. Tuy nhiên, giữ
  • 23. vững mức tỷ giá 8,26 - 8,28 NDT/USD cũng không phải là điều dễ thực hiện. Theo đánh giá, có những thời điểm ngân hàng trung ương Trung Quốc phải bỏ Nhân dân tệ ra để mua tới 600 triệu USD mỗi ngày. Biện pháp can thiệp này không thể duy trì liên tục kéo dài. Do vậy, Trung Quốc đã thực hiện một số biện pháp để làm dịu sức ép đối với đồng Nhân dân tệ, cụ thể là : - Thí điểm từ 1/11/2003 cho phép 14 tỉnh, khu vực được đầu tư ra nước ngoài nhiều hơn, mức trần từ 1 triệu USD lên 3 triệu USD. - Thực hiện một số biện pháp phối hợp như: giảm bớt mức độ khuyến khích xuất khẩu, xiết chặt hơn những quy định về việc cho các nhà đầu tư bất động sản vay tiền và hạn chế hạn ngạch đầu tư của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường trái phiếu cũng như các thị trường chứng khoán Trung Quốc. Tháng 10 năm 2004, trong cuộc họp cấp cao của nhóm 7 nước công nghiệp hàng đầu thế giới (G7) tại Washington, Trung Quốc đã xác nhận sẽ tiến tới linh hoạt tỷ giá đồng Nhân dân tệ. Mặc dù không đưa ra một lịch trình cụ thể nào cho cam kết về linh hoạt tỷ giá, nhưng Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số biện pháp nhằm cải cách chính sách tiền tệ. Nhờ các nỗ lực điều chỉnh trên của chính phủ, đồng Nhân dân tệ đã đứng vững trong thời gian này và cả một khoảng thời gian dài về sau. Tính cho đến năm 2005, tỉ giá ngoại tệ của Trung Quốc được ấn định với đô la Mỹ tại mức 8.28 NDT đổi lấy 1 USD, với biên độ dao động khá rộng +/- 0.3% mỗi ngày. 2.5. Giai đoạn từ 2005 đến nay Năm 2005, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã công bố thay đổi chế độ tỷ giá. Trong thời gian này Trung quốc duy trì chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ có biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kỳ (BBC): Chế độ tỷ giá BBC được coi là chế độ tỷ giá trung gian nằm giữa chế độ neo tỷ giá và chế độ tỷ giá thả nổi. Đây là chế đọ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà
  • 24. nước với những đặc điểm riêng có. Chúng ta có thể dễ dàng nhận dạng ra 3 đặc điểm thông qua tên gọi của cơ chế: tỷ giá của nội tệ được xác định dựa trên 1 rổ tiền tệ (Basket), có biên độ dao động (Band) và được điều chỉnh định kỳ (Crawl), với yếu tố Crawl tỷ giá có thể trượt dần dần theo 1 hướng đi lên hoặc đi xuống. Tỷ giá sẽ được xác định dựa trên một rổ các đồng tiền (Basket) nhưng các thành phần và tỷ trọng các đồng tiền không được đưa ra trong lần công bố này. Đồng thời với việc neo tỷ giá theo một rổ tiền tệ, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho phép biên độ dao động hàng ngày của các tỷ giá song phương là 0,3%. Ngày 9/8/2005, trong bài phát biểu khai mạc trụ sở thứ 2 của Ngân hàng Trung ương tại Thượng Hải, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc ZhouXia Chuan đã công bố 11 đồng tiền trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật và đồng Won Hàn Quốc và các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và Baht Thái cũng có mặt trong rổ tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều. Tuy nhiên, căn cứ vào số liệu thực tế của tỷ giá đa phương danh nghĩa CNY, Guonan và McCauley đã cho rằng tỷ giá này đã dao động với biên độ 2%/ năm (B - Band) và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06% (C - Crawl). So với lý thuyết thì biên độ dao động của tỷ giá (B-band) là khá nhỏ chỉ là 2%/ năm. Mặc dù tỷ giá song phương CNY/USD giảm giá nhưng tỷ giá đa phương danh nghĩa của CNY lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế so với các quốc gia bạn hàng. Do đó, đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và thặng dư của cán cân thương mại của Trung Quốc. 2.6. Đánh giá chung về chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 2.6.1. Ưu điểm
  • 25. Việc phá giá đồng NDT (từ năm 1979 đến năm 1994) xét trong ngắn hạn sẽ làm nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng. Nguyên nhân ở đây là do lượng hàng xuất khẩu sẽ rẻ đi một cách tương đối trên thị trường quốc tế, còn lượng hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường nội địa. Chính sách tỷ giá trong thời kỳ này không chỉ giúp Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu, chiếm lĩnh nhiều thị phần quan trọng trên quốc tế mà còn tạo cơ sở giảm thiểu những rủi ro hối đoái và tạo môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư mạnh từ các nguồn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc để vươn lên đứng đầu các nước đang phát triển về mức độ thu hút đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp. Đây cũng là cơ sở tạo ra khả năng góp phần giảm sốc cho nền kinh tế Trung Quốc trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Đông Nam Á. Bảng 2.4: Một số chỉ số phát triển kinh tế của Trung Quốc thời kỳ 1980 - 1990. Chỉ tiêu 1985 1986 1987 1988 1989 1990 GDP (giá 1990) 1254,5 1365,7 1527,7 1695,4 1764,3 1832,0 Tốc độ tăng trưởng (% năm) 16,2 8,9 11,9 11,0 4,1 3,8 Cán cân xuất nhập khẩu - 36,7 - 25,5 1,1 15,1 - 18,6 51,0 Dự trữ ngoại tệ (triệu USD) 15,236 17,548 17,022 28,594 Việc nâng giá đồng NDT khi Trung Quốc quyết định sẽ năng tỷ giá NDT/USD thêm 2% (từ mức 8.3 NDT ăn 1 USD lên 8.11 NDT ăn 1 USD vào ngày 21/07/2005. Trung Quốc đã hoàn thiện hơn cuộc cải cách cơ chế hình thành tỷ giá đồng tiền và làm dịu bớt tình trạng mất cân bằng mậu dịch đối ngoại, giảm áp lực cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc trong việc mở của thị trường tài chính và thị trường vốn trong cán cân thanh toán quốc tế khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các nước phát triển đặc biệt là Mỹ khi sự mất cân đối kép của nền kinh tế nước này vẫn chưa có giải pháp nào giải quyết hữu hiệu. Nâng cao sức cạnh tranh của Doanh nghiệp trong nước do việc giảm bớt được các chi phí cho máy móc, thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu.
  • 26. Về chế độ tỷ giá BBC: + Do chế độ tỷ giá này neo tỷ giá của nội tệ với một rổ tiền tệ nên góp phần làm ổn định tỷ giá đa phương danh nghĩa và thực tế của Trung Quốc; + Trung Quốc theo đuổi chế độ tỷ giá BBC sẽ tránh được những biến động trong tỷ giá thực nếu trong trường hợp Trung Quốc có mức lạm phát cao hơn so với các nước bạn hàng. Từ đó góp phần duy trì và cải thiện sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Trung Quốc; + Chế độ tỷ giá BBC cho phép quốc gia điều hành tỷ giá linh hoạt hơn tránh được các cú sốc bất thường (như sự chuyển dịch bất ngờ của các luồng vốn lớn), đồng thời cho phép ngân hàng trung ương theo đuổi một chính sách tiền tệ độc lập hơn. Nhìn chung, chính sách tỷ giá của Trung Quốc có những ưu điểm nổi bật sau: - Chính sách tỷ giá hối đoái được thực hiện theo sát với mô hình chính sách của nhà nước, thực hiện được những vai trò vĩ mô của nó trong việc lầm chất xúc tác cho quá trình phát triển. - Chính sách tỷ giá hối đoái Trung Quốc thể hiện rõ vai trò điều hành của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế, và cơ chế quản lý của nhà nước đã đưa lại những thành công trong quá trình phát triển của nền kinh tế Trung Quốc, đặc biệt là trong thương mại quốc tế. - Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc luôn được thực hiện phối hợp với chính sách quản lý ngoại hối. Sự kết hợp của hai chính sách này đã tạo ra lớp đệm an toàn cho Trung Quốc trong kinh tế quốc tế và đem lại sự ổn định cho nền kinh tế Trung Quốc. 2.6.2. Hạn chế
  • 27. Việc phá giá đồng RMB cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quan hệ mua bán ngoại thương như trong việc duy trì các hợp đồng cũ trên cở sở tỷ giá cũ là khó, từ đó dẫn đến việc tổ chức mở rộng sản xuất bị thu hẹp trong ngắn hạn. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đã phải chấp nhận trả giá bằng một mức lạm phát cao không mong muốn năm 1994 là 24,24%, cao hơn năm 1993 (14,58%) 66,25%, lớn hơn mức ảnh hưởng thông thường của tỷ giá hối đoái đến mức giá cả hàng hoá - dịch vụ của một nước (Theo thống kê của các nhà kinh tế là <50%). Thực tế này có thể được giải thích do sự cộng hưởng của các tác động của chính sách tiền tệ trước đó (bảng 2.5). Bảng 2.5: Tình hình diễn biến của chính sách tiền tệ giai đoạn 1990 - 1997. Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 Lãi suất ngân 7,92 7,20 7,20 10,08 10,98 10,44 9,00 8,55 hàng (%năm) Mức cung tiền 701,0 898,8 1171,4 1676,1 2154,0 2597,0 3066,3 3834 (M1) Tỷ lệ tăng 20,15 28,22 30,33 43,08 28,51 20,57 18,07 25,00 trưởng của M1 (%) Tốc độ tăng 3,80 9,20 14,20 13,50 12,70 10,50 9,50 8,80 trưởng (% năm) Nhưng sự trả giá này chỉ có tính chất ngắn hạn và đã được Chính phủ Trung Quốc kịp thời điều chỉnh bằng chính cách thắt chặt tiền tệ, năm sau lạm phát đã giảm xuống và nhanh chóng trở lại ổn định (bảng 2.6). Bảng 2.6: Tình hình lạm phát của Mỹ và Trung Quốc 1994 - 1997 Tỷ lệ lạm phát 1994 1995 1996 1997 Mỹ (%) 2,60 3,00 2,70 2,30 Trung Quốc (% năm) 24,24 16,90 8,32 2,80
  • 28. Việc nâng giá đồng RMB cũng gây ra những ảnh hưởng trái ngược đối với nhiều vấn đề xã hội, nhiều ngành sản xuất, người tiêu dùng và các doanh nghiệp của Trung Quốc. Nó hạn chế việc Trung Quốc xuất khẩu hàng ra thị trường nước ngoài, tăng giá các sản phẩm xuất khẩu vì vậy làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Trung Quốc trên thị trường quốc tế, điều này chắc chắn sẽ giảm thặng dư thương mại (vốn là nhân tố quan trọng tạo ra tốc độ tăng trưởng thần kỳ của Trung Quốc bấy lâu nay) đồng thời khuyến khích việc nhập khẩu hàng từ bên ngoài vào Trung Quốc vì đồng NDT tăng 2,1% so với đồng USD. Giả sử trong trị giá 711 tỷ USD ngoại tệ dự trữ của Trung Quốc có tới 500 tỷ lưu trữ bằng đồng USD (số còn lại có thể được lưu trữ bằng vàng, đồng Yen của Nhật, đồng Euro..) thì số tiền mà Trung Quốc mất không do nâng giá đồng NDT là 10 tỷ USD. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc không nâng giá đồng NDT đồng thời lại kéo dài cảnh thặng dư hiện nay thì bản thân Trung Quốc có thể gây ra cảnh lạm phát kéo dài, các ngân hàng thì cho vay bừa bãi và việc cải tổ các xí nghiệp quốc doanh có thể sẽ bị chậm lại. Với chế độ tỷ giá BBC: + Mặc dù chế độ tỷ giá BBC được coi là linh hoạt hơn so với các chế độ tỷ giá neo khác, nhưng mức độ linh hoạt của nó vẫn chưa đủ để làm giảm bớt hoặc ngăn chặn những thay đổi lớn và đầy bất ngờ về tâm lý của các nhà đầu tư cũng như của các luồng vốn cá nhân. Khi nền kinh tế phải hứng chịu một cú sốc lớn, dù là bên ngoài hay bên trong, thì có lẽ biên độ dao động lên tới 15% cũng không đủ để kiểm soát ảnh hưởng các cú sốc này. Trong trường hợp này, Ngân hàng Trung ương sẽ phải tiếp tục nới lỏng biên độ dao động hơn nữa cho phù hợp với sự biến động của tỷ giá trên thị trường tự do. Khi vai trò của biên độ dao động không còn nưa và thay vào đó là một chế độ tỷ giá thả nổi. Điều này đã được chứng minh trong các cuộc khủng hoảng tiền tệ diễn ra ở Indonesia, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ.
  • 29. + Nhiều nhà kinh tế tỏ ra nghi ngờ về khả năng của chế độ tỷ giá BBC trong việc làm hạn chế các hoạt động đầu cơ tỷ giá cũng như vai trò của nó như một mục tiêu danh nghĩa của chính sách tiền tệ. 2.6.3. Bài học kinh nghiệm Sự thành công của Trung Quốc trong công cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế trong 20 năm qua có phần đóng góp quan trọng của cách điều hành linh hoạt và chủ động chính sách tỷ giá hối đoái của Chính phủ Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc chưa phải là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoàn thiện, nhưng thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong những năm qua đã thể hiện sự phân tích sâu sắc những bài học của nền kinh tế thị trường từ các nước phát triển và vận dụng một cách linh hoạt vào hoàn cảnh thực tế của Trung Quốc. Do tính chất và nhiều điều kiện tương đồng trong quá trình phát triển của nền kinh tế Trung Quốc và Việt Nam; những kinh nghiệm của Trung Quốc sẽ là những bài học thực sự có ý nghĩa đối với Việt Nam để tiếp tục đẩy nhanh quá trình tăng trưởng bền vững. Từ thực tiễn của Trung Quốc có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong điều hành chính sách tỷ giá hối đoái như sau: - Chính sách tỷ giá là 1 bộ phận của chính sách tiền tệ và nằm trong mối quan hệ của hệ thống các chính sách kinh tế, do đó chỉ có thể đạt được những mục tiêu của mình khi quá trình điều hành được đặt ra trong mối quan hệ của hệ thống các chính sách kinh tế. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái cần phải hướng đến thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất nước, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ, hướng tới phát triển kinh tế bền vững. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy chính sách tỷ giá luôn gắn liền với chính sách quản lý ngoại hối: Nhà nước quản lý ngoại hối chặt chẽ, kết hợp với
  • 30. quản lý dự trữ ngoại hối và ngoại tệ của quốc gia để đảm bảo sử dụng các nguồn ngoại tệ có hiệu quả, góp phần ổn định tỷ giá và thực hiện cân đối cán cân thanh toán quốc tế trong các thời kỳ khác nhau. Đối với Việt Nam, chính sách tỷ giá phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Cụ thể: + Hoàn chỉnh cơ chế quản lý giao dịch ngoại hối và cơ sở pháp lý cho việc điều hành thị trường ngoại tệ. + Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với các chính sách và giải pháp bộ phận trong lĩnh vực tiền tệ (như lãi suất, cung ứng vốn) nhằm tác động có hiệu quả vào nội tệ từ nhiều góc độ. + Đưa dần các công cụ quản lý tiền tệ trên thế giới vào áp dụng thực tiễn. Bên cạnh đó, việc hiện đại hóa hệ thống các tổ chức tài chính cần xúc tiến với mục tiêu phát triển thị trường tài chính nói chung để nâng cao năng lực, mở rộng phạm vi điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước. + Phối hợp hiệu quả với các chính sách vĩ mô khác như ngoại thương, cán cân ngân sách, thuế, tín dụng, thu nhập người lao động. Ngoài ra, cần xây dựng chính sách tỷ giá trên cơ sở hội nhập thị trường tiền tệ trong nước với quốc tế nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính hạn chế và tránh nguy cơ tụt hậu. - Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái phải đảm bảo hướng đến mục tiêu hỗ trợ tốt nhất cho chính sách khuyến khích xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ. Một thành công lớn trong điều hành tỷ giá ở Trung Quốc là các biện pháp cải cách tỷ giá hối đoái đã tạo ra một cơ chế bảo vệ lợi ích cho nhà xuất khẩu. - Tuy nhiên, cần chú ý là, mục tiêu của chính sách tỷ giá và các chính sách kinh tế khác, trong đó phải tính đến mục tiêu của chính sách tiền tệ, trong ngắn hạn thường có sự mâu thuẫn với nhau. Một sự phối hợp chặt chẽ và linh hoạt trong
  • 31. điều hành các chính sách có thể đem lại hiệu quả cao hơn cho chính sách tỷ giá giảm thiểu được những hậu quả rủi ro đối với nền kinh tế mà nó có thể gây ra. Điều hành tỷ giá xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế; có nghĩa tại một thời điểm phải xác định rõ yếu tố nào cần ưu tiên và yếu tố nào có thể hy sinh để đạt lợi ích tổng thể tối đa. Ví dụ, quyết định tăng giá nội tệ để giảm nhẹ sức ép trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp (Chính phủ) và chấp nhận sự suy giảm tạm thời đối với xuất khẩu nếu điều này ít tạo khó khăn hơn cho nền kinh tế. - Đối với Trung Quốc, cải cách tỷ giá hối đoái là điều kiện tiên quyết để cải cách thương mại, đặc biệt trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế. Nếu không có cải cách tỷ giá hối đoái thì cải cách thương mại sẽ không hiệu quả. - Việc ổn định và nâng cao uy tín đồng tiền quốc gia sẽ có tác dụng khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Như đã phân tích kinh nghiệm Trung Quốc, sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô cũng như uy tín của đồng tiền quốc gia trên thị trường quốc tế sẽ khiến các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vốn lớn vào các dự án của quốc gia đó. Môi trường hối đoái ổn định sẽ giúp quốc gia đó thu hút được các nguồn vốn xuất khẩu trên thế giới. Nắm vững bài học đó, chúng ta cần không ngừng nâng cao uy tín của đồng Việt Nam trên cơ sở duy trì sự tương quan hợp lý giữa giá trị đối nội và đối ngoại của nội tệ, hướng dần tới mục tiêu đồng Việt Nam có khả năng chuyển đổi. Một đồng tiền mất uy tín tất yếu làm thương tổn đến tích lũy, đầu tư nội địa, tăng nguy cơ lạm phát, tạo điều kiện cho hội chứng “ngoại tệ hóa. - Ngoài ra, sự thành công trong điều hành chính sách hối đoái của Trung Quốc cũng cho chúng ta một số gợi ý: + Thời điểm và mức điều chỉnh tỷ giá là những vấn đề có tính chất quyết định đối với hiệu quả của chính sách tỷ giá.
  • 32. + Hàm lượng của các yếu tố thị trường (như: Quan hệ cung - cầu về ngoại hối, sở thích, chính sách, lạm phát, lợi tức của các tài sản nội ngoại tệ..) phản ánh trong tỷ giá càng cao thì khả năng có một chính sách tỷ giá có hiệu quả cao và chống đỡ được với các cú sốc đối với nền kinh tế càng lớn. + Chính sách tỷ giá có khả năng dự kiến những diễn biến của tỷ giá cao sẽ tạo khả năng ổn định tương đối dài hạn và giảm thiểu được những rủi ro hối đoái, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài - một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp hoá. + Chính sách phá giá đồng nội tệ ở các nước đang phát triển có thể mang lại nhiều lợi ích hơn và phải trả giá ít hơn, xét cả về ngắn hạn và dài hạn (tạo lợi thế so sánh mới, tăng sức cạnh tranh quốc tế, mở rộng nhanh quan hệ ngoại thương, quan hệ kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư có hiệu quả và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh…). Tính nhạy cảm và khả năng phản ứng của các nhà điều hành chính sách luôn là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành bại của chính sách tỷ giá - một loại chính sách kinh tế phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố dự kiến và rủi ro trong quá trình biến động, đặc biệt là sự liên quan chặt chẽ của nó với những yếu tốt rủi ro có tính chất chính trị. Vì vậy, kinh nghiệm vẫn luôn luôn chỉ là kinh nghiệm, nó chỉ thực sự có giá trị khi những người phân tích và khai thác kinh nghiệm tìm được lối đi riêng trong điều kiện cụ thể của mình. 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA VIỆT NAM 3.1. Những đặc điểm chủ yếu của chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam hiện nay Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam được chia thành bốn giai đoạn:
  • 33. - Giai đoạn 1955-1989: Đặc trưng của thời kỳ này là nhà nước độc quyền về ngoại thương và ngoại hối, do đó tỷ giá cũng do Nhà nước độc quyền xác định, không tính đến yếu tố cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Đây là thời kỳ chế đội tỷ giá cố định, đa tỷ giá với tính chất phi thị trường sâu sắc. - Giai đoạn 1989-1991: Đặc trưng của thời kỳ này là bãi bỏ chế độ đa tỷ giá, chuyển sang áp dụng chế độ đơn tỷ giá (tỷ giá chính thức) và được điều chỉnh mạnh theo tín hiệu thị trường. Chính vì vậy, nhiều người coi thời kỳ này là thời kỳ thả nổi tỷ giá, Nhà nước không có khả năng kiểm soát. - Giai đoạn 1992-1999: Thời kỳ này, tỷ giá được xác định trên các cơ sở: + Đấu thầu tại trung tâm giao dịch ngoại tệ từ 10/1991 đến 31/12/1994. Do đó, nội dung tỷ giá đã hàm chứa yếu tố cung cầu ngoại tệ trên thị trường. + Tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng từ 1995 đến 2/1999. Như vậy, nội dung tỷ giá đã bao hàm nội dung cung cầu ngoại tệ toàn diện và khách quan hơn trước. - Giai đoạn 1999 đến nay: Trong thời kỳ này, thay vì ấn định và công bố tỷ giá chính thức, Ngân hàng Nhà nước bây giờ chỉ thông báo tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng. Đây là thời điểm chuyển đổi tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Những đặc điểm chủ yếucủa chính sách tỷ giá hối đoái Việt Nam hiện nay Từ năm 2007 đến nay, chính sách tỷ giá ở Việt Nam có những đặc điểm sau: - Ngân hàng Nhà nước áp dụng chế độ tỷ giá ổn định linh hoạt, có kiểm soát của Nhà nước, nhiều lần thay đổi biên độ giao dịch. Biểu đồ 3.1: Tỷ giá VND/USD giai đoạn 2008-2011
  • 34. Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, Vietcombank (2011) - Ngân hàng Nhà nước một mặt nới lỏng chính sách ngoại tệ đã phù hợp với các thông lệ quốc tế, mặt khác phải tìm mọi biện pháp ổn định tỷ giá, kiểm soát việc mua bán ngoại tệ trên thị trường để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và ổn định nền kinh tế, phòng chống ảnh hưởng của suy giảm tài chính toàn cầu. - USD ngày càng mất giá trị, vì vậy giá trị của đồng VND bị giảm sút rất nhiều gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu và thanh toán quốc tế. - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng, Chính phủ tăng cường kiểm soát kinh doanh ngoại tệ. Một số hạn chế của chính sách tỷ giá hối đoái Việt Nam hiện nay: - Cơ chế công bố tỷ giá chính thức hàng ngày theo phương pháp hiện tại, đôi lúc tỏ ra có nhiều khó khăn trong việc hướng thị trường, vận động theo mục tiêu Ngân hàng Trung ương đặt ra. Bởi " Nhất cử nhất động " của Ngân hàng trung ương, đặc biệt trong lĩnh vực tỷ giá - một lĩnh vực cực kỳ nhạy bén, đều tạo cho thị
  • 35. trường những yếu tố tâm lý tức thời. Trước những biến động của tỷ giá thị trường, việc thay đổi tỷ giá chính thức ở một chừng mực nào đó không thể giải quyết ngay lập tức biên độ để cho phép các Ngân hàng Thương mại hoạt động kinh doanh. Bởi lẽ nếu thay đổi tỷ giá chính thức lớn sẽ gây ra những yếu tố tâm lý sai lệch về chính sách của Ngân hàng Trung ương. Đây là hạn chế do quá trình ra quyết định công cộng , Ngân hàng trung ương cũng không thể thay đổi biên độ quy định giới hạn tỷ giá mua bán của các Ngân hang Trung ương thường xuyên được. - Việc qui định một mức tỷ giá chính thức như hiện nay, khi mức chênh lệch tương đối lớn với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Thương mại và tỷ giá thị trường tự do, không có ý nghĩa thực tế. Một mặt, sự chênh lệch trên gây ra những yếu tố tâm lý không tích cực bởi không phải người dân nào cũng hiểu được cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái của ta. Mặt khác, khi tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng thương mại và tỷ giá thị trường tự do ổn định trong biên độ qui định thì việc công bố tỷ giá chính thức hàng ngày cách xa tỷ giá trung bình, trên thực tế không thể hiện vai trò của nó. - Việc sử dụng tỷ giá chính thức như hiện nay để tính thuế xuất nhập khẩu tỏ ra còn có nhiều điểm chưa hợp lý, chưa thể hiện được vai trò quản lý vĩ mô và điều tiết đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi lẽ khi tỷ giá chính thức cách biệt với tỷ giá giao dịch của các Ngân hàng Thương mại và tỷ gía thị trường tự do, thì tỷ giá tính thuế sẽ bị hạn chế rất lớn trong vai trò điều tiết lợi nhuận thu được từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Chênh lệch về tỷ giá này sẽ tạo ra bất bình đẳng trong quan hệ thương mại, một số trường hợp không tạo được lợi thế trong cạnh tranh đối ngoại và khuyến khích xuất khẩu. - Với biên độ giao dịch trong phạm vi 5% hiện nay việc qui định mức chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán tỏ ra chưa hoàn toàn hợp lý đối với các Ngân hàng Thương mại.
  • 36. Thứ nhất, khi thị trường hối đoái có tính chất động, luôn thay đổi, trong khi đó các giao dịch lại liên tục diễn ra, nên qui định mức chênh lệch chỉ thể hiện mặt quản lý danh nghĩa, các Ngân hang Thương mại khó có thể tuân thủ đúng qui định này được. Thứ hai, khung qui định chênh lệch như vậy là tương đối chặt chẽ đối với hoạt động kinh doanh. Bởi lẽ các Ngân hàng Thương mại đã phải xác định chênh lệch tỷ giá mua, bán phải tuỳ theo vào cung - cầu của mỗi Ngân hàng, tuỳ thuộc vào khả năng dự tính về lợi nhuận và khả năng của mồi Ngân hàng. Thực chất qui định chênh lệch tỷ giá mua bán quá chặt chẽ như vậy không khuyến khích hoạt động trên thị trường theo đúng các quan hệ nội tại của nó và phần nào không tạo ra một môi trường cạnh tranh hoàn hảo trong kinh doanh. 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian tới Việc xác định một chính sách tỷ giá phù hợp đối với từng giai đoạn phát triển của một quốc gia có tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập khẩu tư bản và đến giá cả hàng hóa trong nước...Trong thời gian qua chính sách tỷ giá hối đoái ở nước ta đã đóng góp những thành tựu đáng kể trong chính sách tài chính – tiền tệ như: hạn chế lạm phát, thực hiện mục tiêu hỗ trợ xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, tạo điều kiện ổn định ngân sách, ổn định tiền tệ. Tuy nhiên trong việc điều hành tỷ giá, Nhà nước vẫn còn thiếu những giải pháp hữu hiệu trong từng giai đoạn để sử dụng công cụ tỷ giá một cách phù hợp. Như vậy phải có mục tiêu và định hướng rõ ràng để có giải pháp thích hợp. Mục tiêu và định hướng trong thời gian tới của chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam là: - Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại.
  • 37. - Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu , cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ. - Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi. - Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hoá. Để đạt được mục tiêu trên chúng tôi đưa ra một số định hướng hoàn thiện chính sách TGHĐ như sau: Thứ nhất: Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước. Trong xu thế toàn cầu hóa Việt Nam cần lựa chọn một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý để thích ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập vì chế độ tỷ giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu và tỷ giá này thích ứng với điều kiện toàn cầu hóa của thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà nước vẫn có thể quản lý được mức độ biến động của tỷ giá. Thứ hai: Chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách hợp lý các doanh nghiệp trong nước. Thứ ba: Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, nhưng mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa. Thứ tư: Hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam. - Quản lý tốt dự trữ ngoại hối, tăng tích lũy ngoại tệ: xây dựng chính sách phát triển xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ nhập những hàng hóa cần thiết cho nhu cầu sản xuất và những mặt hàng thiết yếu trong nước chưa sản xuất được. Ngoại tệ dự trữ khi đưa vào can thiệp trên thị trường phải có hiệu qủa. Lựa chọn phương án phù hợp cho việc dự trữ cơ cấu ngoại tệ. Trong thời
  • 38. gian trước mắt vẫn xem đồng USD có vị trí quan trọng trong dự trữ ngoại tệ của mình nhưng cũng cần đa dạng hóa ngoại tệ dự trữ để phòng tránh rủi ro khi USD bị mất giá. - Nới lỏng tiến tới tự do hóa trong quản lý ngoại hối, hoạt động này bao gồm việc giảm dần , tiến đến loại bỏ sự can thiệp trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước trong việc xác định tỷ giá, xóa bỏ các qui định mang tính hành chính trong kiểm soát ngoại hối, thiết lập tính chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá, nâng cao tính chủ động trong kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng thương mại … Thứ năm: Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, điều kiện cần thiết để qua đó nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, đồng thời qua đó thực hiện biện pháp can thiệp của nhà nước khi cần thiết. Trước mắt cần có những biện pháp thúc đẩy các ngân hàng có kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng , song song đó phải củng cố và phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó, tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng. Thứ sáu: Thực hiện chính sách đa ngoại tệ. Hiện nay trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ trong nước sẽ làm cho tỷ giá ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá của USD đến VND mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi. Chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND ví dụ như đồng EURO, Yên Nhật vì hiện nay EU, Nhật là những thị
  • 39. trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Chế độ tỷ giá gắn với một rổ ngoại tệ như vậy sẽ làm tăng tính ổn định của TGHĐ danh nghĩa. Thứ bảy: Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam. -Nâng cao sức mạnh cho đồng tiền Việt Nam bằng các giải pháp kích thích nền kinh tế như: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích xuất khẩu, bài trừ tham nhũng … -Tạo khả năng chuyển đổi từng phần cho đồng tiền Việt Nam: đồng tiền chuyển đổi được sẽ tác động tích cực đến hoạt động thu hút vốn đầu tư , hạn chế tình trạng lưu thông nhiều đồng tiền trong một quốc gia. Hiện tượng đô la hóa nền kinh tế được hạn chế. Việc huy động các nguồn lực trong nền kinh tế trở nên thuận lợi hơn, hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia đó năng động hơn. Đồng tiền tự do chuyển đổi làm giảm sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào chính sách quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá, giúp cho tốc độ chu chuyển vốn được đẩy mạnh, góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên, muốn tạo khả năng chuyển đổi cho VND phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ và nền kinh tế vững mạnh. Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam phải được nhanh chóng cải thiện. Thứ tám: Sử dụng có hiệu quả công cụ lãi suất để tác động đến tỷ giá, chính phủ phải tiến hành từng bước tự do hóa lãi suất, làm cho lãi suất thực sự là một loại giá cả được quyết định bởi chính sự cân bằng giữa cung và cầu của chính đồng tiền đó trong thị trường chứ không phải bởi những quyết định can thiệp hành chính của Chính phủ. Thứ chín: Phối hợp các chính sách kinh tế vĩ mô để hoạt động can thiệp vào tỷ giá đạt hiệu quả cao.
  • 40. Chú trọng hoàn thiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Chính sách tiền tệ được thực hiện qua 3 công cụ: lãi suất tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở nội tệ. Tuy nhiên, NVTTM nội tệ là công cụ quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp đến lượng tiền cung ứng, vì vậy nó quyết định đến sự thành bại của chính sách tiền tệ quốc gia, bên cạnh đó nó còn tham gia tích cực vào việc hỗ trợ chính sách tỷ giá khi cần thiết. Chẳng hạn khi phá giá sẽ tăng cung nội tệ, dẫn đến nguy cơ tạo ra lạm phát. Để giảm lạm phát người ta tiến hành bán hàng hóa giao dịch trong thị trường mở nội tệ, từ đó làm giảm cung nội tệ và lạm phát do đó cũng giảm theo. Thứ 10: Nhanh chóng thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro. Trong điều kiện tỷ giá hiện nay tiềm tàng nhiều nhân tố bất ổn chúng ta cần phải gấp rút triển khai các công cụ phòng ngừa rủi ro. Chính phủ đã cho phép các NHTM thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn tiền tệ. Vấn đề là các NHTM và doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp có thu, chi bằng ngoại tệ phải nhanh chóng sử dụng các công cụ này để phòng ngừa rủi ro tỷ giá.