Một vài biện pháp rèn kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh tiểu học, Rèn luyện phát âm cho học sinh, Rèn luyện tín hiệu phi ngôn ngữ, Rèn luyện tín hiệu ngôn ngữ,
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Một vài biện pháp rèn kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh tiểu học
1. 1
MỘT VÀI BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG
NÓI TIẾNG ANH CHO HỌC SINH
TRƯỜNG TIỂU HỌC NAM TRÂN
MÃ TÀI LIỆU : 0023
Kết bạn zalo tải tài liệu : 0936 8484 22
Tham khảo giá dịch vụ viết báo cáo theo yêu cầu:
Luanvantrust.com
2. 2
I/ Tên đề tài: MỘT VÀI BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG NÓI TIẾNG ANH
CHO HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC NAM TRÂN
II/ Đặt vấn đề:
1. Lý do chọn đề tài:
Tiếng Anh là ngôn ngữ được nhiều quốc gia sử dụng nhất, nó trở thành
tiếng bản ngữ của nhiều nước, là ngôn ngữ giao tiếp giữa con người với con
người trên toàn thế giới.
Với xu thế hội nhập quốc tế, Việt Nam đang ngày càng phát huy hết khả
năng sẵn có trong mọi lĩnh vực. Ngôn ngữ giao tiếp trở thành công cụ đắc lực
và có sức mạnh tiên quyết. Ngoài tiếng mẹ đẻ, người Việt Nam đã coi tiếng Anh
như một môn chính khoá vào các trường học.Từ năm học 1996-1997, môn tiếng
Anh đã được Bộ GD & ĐT đưa vào chương trình giảng dạy ở cấp tiểu học từ
lớp 3 trở lên. Chúng ta cũng xác định rõ vị trí của môn học đối với sự phát triển
chung của toàn xã hội: là một công cụ tạo điều kiện hoà nhập với cộng đồng
quốc tế và khu vực; tiếp cận thông tin quốc tế và khoa học kỹ thuật; tiếp cận
những nền văn hoá khác cũng như những sự kiện quốc tế quan trọng. Bước đầu
cho các em làm quen với ngôn ngữ thứ hai. Hình thành dần cho các em các kĩ
năng chủ yếu: Nghe- Nói - Đọc - Viết, trong đó chú trọng đặc biệt là kĩ năng
nghe và nói. Tạo tiền đề, sự hứng thú, lòng say mê và khả năng khám phá ngôn
ngữ mới để lên bậc THCS các em sẽ học tốt hơn. Mở rộng tầm nhìn, sự nhạy
bén, óc tò mò về đất nước, con người, nền văn hoá Anh và các nước trên thế
giới.
Riêng cá nhân tôi, với cương vị là giáo viên phụ trách bộ môn tiếng Anh
ở trường tiểu học, tôi nắm rõ đặc trưng phương pháp của bộ môn mình phụ
trách.
Qua thực tế làm công tác giảng dạy tiếng Anh nhiều năm, bản thân đã trực tiếp
tham gia nhiều đợt hội giảng các cấp, tham dự nhiều chuyên đề đồng thời dự
giờ trao đổi kinh nghiệm giảng dạy với nhiều giáo viên ở các trường khác, tôi
thấy các đồng chí đều đã thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn
tiếng Anh nói chung và kỹ năng giao tiếp nói riêng. Nhiều đồng chí giáo viên
băn khoăn không biết nên xử lý thế nào cho hiệu quả khi gặp phải những giờ
dạy mà mình chưa thực hiện được hết ý đồ mình muốn khai thác để củng cố và
phát triển kỹ năng nói cho học sinh. Xuất phát từ thực tế này tôi đã mạnh dạn
đóng góp kinh nghiệm giảng dạy của bản thân qua việc thực hiện kinh nghiệm
“ Một vài biện pháp rèn kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh tiểu học.”; hy
vọng phần nào đó đóng góp giải pháp và tháo gỡ bớt những khó khăn trong quá
trình rèn kỹ năng nói cho học sinh.
2. Giới hạn nghiên cứu của đề tài:
Đốitượng: học sinh lớp 3, 4, 5.
III/ Cơ sở lý luận:
Trong nhà trường, tiếng Anh là bộ môn khá mới mẻ, có đặc thù riêng,
gây trí tò mò ham mê với học sinh song cũng không tránh khỏi gây ra những
khó khăn làm nản trí người học. Do đó giáo viên cũng giống như một người
3. 3
nghệ sĩ, cần nhận biết một cách tinh tế, nhạy cảm để có thể tạo cho đối tượng
học những hứng thú và niềm yêu thích đặc biệt với bộ môn mình phụ trách.
Nghị quyết Trung ương 2- khóa VII, đã quy định phương pháp dạy học thay đổi
theo hướng “khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy
sáng tạo của người học, từng bước áp dụng những phương pháp tiên tiến và
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học”. Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp
với đặc điểm từng lớp học, môn học. Bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện
kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động tình cảm đem lại niềm vui,
hứng thú cho học sinh.
Xuất phát từ quan điểm “ lấy người học làm trung tâm”, phương pháp dạy
và học đã có những thay đổi căn bản. Người dạy không phải là người duy nhất
nắm giữ kiến thức và truyền đạt kiến thức mà chỉ là người hướng dẫn, người hổ
trợ, người cố vấn kiểm tra…Người học không còn là người thụ động tiếp thu
kiến thức mà là trung tâm của quá trình dạy học, chủ động sáng tạo trong quá
trình học tập nhằm đạt được mục tiêu dạy học của mình. Dạy ngoại ngữ nói
chung, tiếng Anh nói riêng, việc đổi mới phương pháp dạy học là rất rõ ràng và
quan trọng đặc biệt trong giao tiếp bằng ngôn ngữ. Từ những luận điểm trên
việc các em học sinh trực tiếp tham gia vào quá trình học tập, nói một cách tự
nhiên và linh hoạt sẽ tạo được niềm vui hứng khởi trong phân môn tiếng Anh.
Kỹ năng giao tiếp trong phân môn tiếng Anh tức là thực hiện theo phương
pháp dạy học mới, học sinh trực tiếp tham gia vào quá trình học tập, chủ động
sáng tạo, không bị gò bó theo khuôn mẫu. Chúng ta đã biết mỗi môn học đều
góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách con người. Các kiến thức
kĩ năng trong phân môn tiếng Anh có nhiều ứng dụng trong đời sống, chúng rất
cần thiết để học các môn học khác và học tiếp môn tiếng Anh ở bậc học trên.
IV/ Cơ sở thực tiễn:
Ở những vùng đô thị, thành phố, tiếng Anh trở thành nhu cầu cấp thiết
của nhiều người. Nhiều trung tâm, câu lạc bộ mở ra khắp nơi đáp ứng nguyện
vọng của mọi người dân. Ngược lại, ở những vùng xa xôi như miền núi, nông
thôn tiếng Anh đến với người học còn mới mẻ, lạ lẫm, nhận thức của nhiều
người còn hạn chế. Do đó, tạo ra được niềm ham thích cho đối tượng học cũng
không phải là dễ dàng.Tiếng Anh là một bộ môn khá thú vị nhưng đòi hỏi sự
cần cù, chịu khó cao từ phía người học nếu không kiến thức sẽ dễ dàng đứt
quãng và dễ quên. Tạo được dấu ấn cho học sinh ngay từ việc tiếp thu cái mới
giúp các em nhớ ngay và khắc sâu là niềm băn khoăn, trăn trở của các giáo viên.
Trên con đường tìm tòi, tích lũy tư liệu và học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp tôi
đã kết hợp các phương pháp dạy học hiện đại, học mà chơi, chơi mà học vào
các tiết dạy gây hứng thú cho đối tượng học.Việc khuyến khích các em đóng vai
trò là nhân vật trong hội thoại hay nói các câu đơn giản giúp các em tiếp cận với
kiến thức tốt hơn, phát triển kĩ năng nghe, nói. Đóng vai trong hội thoại thường
xuyên tạo cho các em tính bạo dạn, bộc lộ được cảm xúc như cử chỉ, nét mặt,
điệu bộ, trọng âm, ngữ điệu.
4. 4
V/ Nội dung nghiên cứu:
1. Nguyên nhân:
Điều trăn trở của những giáo viên dạy ngoại ngữ tại những vùng nông
thôn, miền núi còn nhiều khó khăn đó chính là làm sao tạo được sự yêu thích
của trẻ đối với bộ môn mình phụ trách cụ thể là tạo dựng cho trẻ năng lực giao
tiếp chủ yếu bằng lời.
+ Do ở cấp tiểu học, môn Tiếng Anh là môn tự chọn và cũng là một môn
học khó với học sinh nên đa số các em cũng chưa thực chú tâm vào việc học.
Các em gặp khó khăn trong việc tiếp cận và nắm bắt ngôn từ, từ đó ảnh hưởng
không ít đến chất lượng dạy-học.
+ Bên cạnh đó vẫn còn một số phụ huynh xem nhẹ môn học này, họ chỉ tập
trung đầu tư cho con em học hai môn Toán và Tiếng Việt.
+ Các em đều ở vùng nông thôn nên không có điều kiện tiếp xúc với người
nước ngoài, ít nghe băng đĩa tiếng Anh nên có xu hướng phát âm tiếng Anh
không chuẩn xác.
+ Học sinh tiểu học hay có thói quen nói tiếng Anh dùng những âm cách
xa với chuẩn bản ngữ, cụ thể là các em nói kéo dài từ, câu, nói không dứt khoát
nên nghe không rõ ràng, mạch lạc.
+ Tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ nên các em ngại trong giao tiếp, sợ
mắc lỗi, hay xấu hổ với bạn bè và thầy cô.
+ Học sinh phát âm tiếng địa phương nên khi đọc tiếng Anh không chuẩn,
thường có xu hướng phát âm tiếng Anh bị Việt hoá, một số em nói
ngọng nên khó khăn khi phát âm Tiếng Anh.
Bởi lẽ đó tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài này nhằm tìm ra được một số
giải pháp giúp các em rèn kĩ năng nói tốt hơn trong phân môn tiếng Anh.
2. Thực trạng của vấn đề:
a/ Học sinh:
- Trường Tiểu học Nam Trân là một trường thuộc vùng nông thôn, xã
miền núi; phần lớn các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, không người quan
tâm kèm cặp ở nhà. Qua thực tế ở trường, cụ thể là những tiết học nói các em
rất ngại nói, e sợ mắc lỗi, xấu hổ với bạn bè và thầy cô.
- Một bộ phận những em yếu kém vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, lúng túng nên
dễ dẫn đến việc các em nghỉ học, hay chán nản không muốn học bộ môn này.
- Học sinh hay có thói quen thụ động, các em chưa có nhu cầu tự thân
bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm, sở thích, năng khiếu của cá nhân trước tập thể.
- Ý thức chuẩn bị bài trước hầu như không có, tồn tại thói quen đợi chờ
tiếp nhận kiến thức từ bạn mình hoặc từ phía giáo viên, nếu có khó khăn thì đợi
giải thích từ phíagiáo viên.
b/ Giáo viên:
- Có sự quan tâm của ngành cấp trên, Ban giám hiệu, một số phụ huynh
và giáo viên.
- Hầu hết các trường đều biên chế giáo viên Tiếng Anh đồng thời đội
ngũ giáo viên trẻ có sự nhiệt tình, năng lực và có tích luỹ được kinh nghiệm.
5. 5
Song thực trạng hiện nay là đa số giáo viên được đào tạo ở trình độ cao đẳng
hoặc đại học cho phổ thông cơ sở và trung học phổ thông về dạy Tiểu học.
Ngoài ra, trong tiết dạy giáo viên sợ mất nhiều thời gian, sợ làm lớp ồn,
còn thiếu trang thiết bị phục vụ cho bộ môn: con rối, phòng lab, trang thiết bị,
sách tham khảo.
3. Biện pháp thực hiện:
Mục đích của việc rèn kĩ năng nói là giúp cho học sinh kĩ năng giao tiếp
phù hợp với trình độ và lứa tuổi của học sinh, giúp học sinh có điều kiện thu
nhận và trao đổi thông tin, nâng cao trình độ tiếng Anh, có hiểu biết thêm về xã
hội.
Chúng ta biết rằng cấu trúc một bài dạy tiếng Anh thường bao gồm các hoạt
động để phát triển đồng thời 4 kỹ năng: Nghe- nói- đọc- viết một cách đúng hư-
ớng và toàn diện. Chúng vừa là phương tiện và vừa là mục đích của việc học bộ
môn này.Trong những năm qua, bước đầu chúng ta đã áp dụng việc đổi mới
phương pháp giảng dạy tiếng Anh nhằm giúp học sinh nắm được cách học một
cách chủ động, tích cực và đáp ứng được yêu cầu là học sinh phải sử dụng được
ngữ liệu đã học vào các hoạt động giao tiếp một cách có hiệu quả hơn. Do vậy,
trong chương trình giảng dạy tiếng Anh tiểu học hiện nay, giáo trình Let’s go đã
nhấn mạnh vào khả nămg giao tiếp theo một hệ thống có ngữ pháp có kiểm soát
cẩn thận. Học sinh được lấy làm trung tâm và luôn được khích lệ giao tiếp với
nhau.
Qua nhiều năm dạy tiếng Anh cùng với sự trải nghiệm bản thân tôi đã vận
dụng một số phương pháp trong việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh nhằm
tạo cho các em hứng thú và tự tin trong giao tiếp.
3.1/Rèn luyện phát âm cho học sinh:
Trong quá trình học ngoại ngữ, muốn người khác hiểu nội dung mình nói gì
trong giao tiếp bằng tiếng Anh, học sinh cần phải phát âm chuẩn xác, trôi chảy.
Với học sinh vùng nông thôn do không có điều kiện tiếp xúc với người nước
ngoài, ít nghe băng đĩa tiếng Anh nên có xu hướng phát âm tiếng Anh theo cách
Việt hoá. Vì vậy ngay từ đầu, giáo viên tiếng Anh cần phải nói trôi chảy, phát
âm tốt (càng gần chuẩn bản ngữ càng tốt); hình ảnh âm thanh của những bài học
đầu tiên ăn rất sâu vào tâm trí của trẻ. Đây là một trong những yếu tố cơ bản
trong việc dạy nghe-nói, giáo viên kiên trì luyện tập phát âm cho học sinh để tạo
cho các em có thói quen phát âm đúng và phải phát âm đúng.
Khi nói đến phương pháp dạy tiếng là chúng ta nói đến những cách dẫn dắt
người học đạt được mục đích giao tiếp bằng sự chuẩn xác của ngôn ngữ mục
tiêu mà chúng ta sử dụng. Sự chuẩn xác đó phải dựa trên tiêu chí là người Anh
nói thế nào. Trong quá trình dẫn dắt trẻ học tiếng Anh giáo viên phải thể hiện sự
chuẩn xác ngôn ngữ qua các bước làm mẫu và nhất là bước luyện học sinh phát
âm từ và câu một cách rõ ràng, chuẩn xác. Vì thế giáo viên phải kiên trì luyện
tập cho học sinh phát âm chuẩn.
Một số trường hợp khó khi phát âm và một số cách để phát âm đúng hoặc tập
cho các em thói quen đọc nối.
+ Đọc nối:
Ví dụ: It’s a bag.
6. 6
Open it
Look at her.
+ Luyện tập cho học sinh phát âm các âm cuối:
Book: / buk /
Robot:/ rəubDt /
Pen: / pen /
+ Đối với hình thức số nhiều, cần luyện tập cho các em phát âm:
* S phát âm là /s/ khi đứng sau phụ âm vô thanh như: cassettes, kites,
notebooks…
* S phát âm là /z/ khi đứng sau nguyên âm hoặc phụ âm hữu thanh
như: robots, tables, bats….
* S phát âm là /iz/ khi đứng sau những âm như: -s-, -z-, -sh-, -tch,…
Ví dụ: pencil cases, watches….
+ Có môt số âm rất khó đọc, ngay cả với học sinh nhỏ bản ngữ như:
* Âm /r/: là âm khó, học sinh chú ý môi thầy cô, chu môi ra sau đó mở
tròn miệng r r r.
* Âm /th/: chỉ cho học sinh đạt lưỡi giữa hai hàm răng. Chú ý cắn nhẹ
đầu lưỡi khi đọc âm này.
Ví dụ: this, that, these, those, they…..
* Âm /l/: bắt đầu đặt lưỡi đằng sau răng trên.
+ Chú ý trọng âm, ngữ điệu khi phát âm.
Phần lớn học sinh tiểu học hiện nay chưa có khả năng nói trôi chảy. Nói
trôi chảy không phải là nói nhanh mà là nói có điểm dứt theo nhóm nghĩa thể
hiện đúng trọng âm câu và ngữ điệu.Thiếu trọng âm từ và đặc biệt là trọng âm
câu, không thể hiện được ngữ điệu, và nhịp điệu câu.
Sự thiếu hụt này không thể hiện được sắc thái, tình cảm của người nói.
Học sinh tiểu học hay có thói quen nói tiếng Anh dùng những âm cách xa với
chuẩn bản ngữ, cụ thể là các em nói kéo dài từ, câu, nói không dứt khoát nên
nghe không rõ ràng, mạch lạc.
+ Đốivới các câu hỏi Wh- questions, ta hạ giọng ở cuốicâu.
Ví dụ: Unit 12-Lesson 1( Lớp 4)
What’s his job?
Unit 2: Let’s learn some more (quyển 2A)
Who are they?
+ Đối với các câu hỏi Yes/No questions, ta lên giọng ở cuối câu cụ thể là từ
ở cuốicâu.
Ví dụ: Unit 9- Lesson1(Lớp 3)
Is this your pen?
Unit 4: Let’s learn some more (2A)
Can you swim?
+ Thiết kế các bài tập rèn luyện năng lực phát âm đúng và tự nhiên của trẻ.
Ví dụ: Chọn từ có cách phát âm khác các từ còn lại:
7. 7
1/ a.Ted b. red c. bed d. cat
2/ a. ten b. pen c. net d. hen
3/ a. pin b. sit c. hit d. pit
4/ a. can b.map c. fan d. van
Trong quá trình dạy, nếu một học sinh gặp khó khăn khi phát âm một yếu tố
nào đó hoặc nói chưa đúng ngữ điệu thì giáo viên không nên bắt học sinh đọc đi
đọc lại nhiều lần mà nên yêu cầu cả lớp đọc đồng thanh mẫu đó vài lần. Sau đó
học sinh tiếp tục luyện đôi và khi đó giáo viên có thể tiếp tục giúp đỡ những học
sinh gặp khó khăn.
3.2/ Rènluyện tín hiệu phi ngôn ngữ:
+ Kiểm soát tầm nhìn: nhìn xa, nhìn gần, nhìn vào người đang đối thoại,
cần thể hiện ánh mắt linh hoạt, tập trung….. tránh kiểu nhìn lơ đểnh, mông lung
khi đang nói.
+ Chú trọng đến yếu tố, cử chỉ, điệu bộ như: khuôn mặt, ánh mắt, nụ cười,
gật đầu, lắc đầu….để biểu hiện được ý nghĩa của lời nói nhằm làm cho cuộc
giao tiếp thú vị hơn.
+ Giữ tác phong lịch sự khi giao tiếp cụ thể là đầu tóc và quần áo phải
gọn gàng, sạch sẽ.
+ Giáo viên cần phải nhắc nhỡ học sinh rèn luyện các yêu cầu trên mỗi
ngày. Cần chú ý cung cấp cho học sinh ngữ liệu không khó bằng việc sử dụng
ngữ liệu đó vào giao tiếp. Vì vậy giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh có
thời gian thực hành nói thường xuyên giúp các em tự tin, mạnh dạn đưa ra ý
kiến của mình và cũng giúp học sinh phát hiện những hạn chế và tự sửa sai.
3.3/ Rènluyện tín hiệu ngôn ngữ
+ Phù hợp với cuộc nói chuyện, thể hiện sắc thái biểu cảm ( vui, buồn,
ngạc nhiên, tò mò…….)
+ Đủ âm lượng ( cường độ, cao độ…) giọng điệu gây sự chú ý, gây cảm
tình với người đối diện.
+ Tránh các thói quen thường gặp trong khi nói như: à, ờ,…
3.4/ Tậpcho HS phản xạ nhanh bằng tiếng Anh
+ Thay thế từ không biết bằng một cụm từ khác đã biết, không sợ mắc
cỡ khi nói sai.
+ Không nên ngầm hiểu nghĩa tiếng Việt rồi mới dịch sang tiếng Anh.
Ví dụ: Unit 11-Lớp 4: Giáo viên yêu cầu học sinh nhìn tranh và nói về các
hoạt động thường ngày:
get up watch TV go to school
8. 8
+ Không dùng tiếng mẹ đẻ để thiết kế các loại hình bài tập, nhưng tạo điều
kiện cho người thầy chấp nhận trẻ nói tiếng mẹ đẻ trên lớp, rồi sử dụng năng lực
“recasting” của người thầy huấn luyện cho trẻ nói tiếng Anh.”. Đây là khả năng
nói lại bằng tiếng Anh ý kiến hoặc câu hỏi của trẻ khi trẻ diễn đạt bằng tiếng
Việt.
Ví dụ:
Học sinh nói: Thưa cô, em muốn ra ngoài ạ., giáo viên nói Sorry? ... you
wantto go out? -Yes, OK. Khả năng này tạo môi trường nói tiếng Anh cho trẻ.
+ Giáo viên nên điều khiển lớp bằng tiếng Anh đặc biệt dùng các mệnh lệnh
trong lớp học và trong trò chơi, như thế học sinh sẽ mạnh dạn, tự tin trong giao
tiếp.
Ví dụ:
Giáo viên yêu cầu học sinh mở sách thì nói: open the book.
Yêu cầu học sinh lặp lại thì nói: repeat…..
Giáo viên vào lớp nên hỏi: - How are you today?, What’s the
weather like today?
+ Tận dụng hình thức kể chuyện bằng tiếng Anh bằng ngôn ngữ đơn giản và
có minh họa tranh ảnh….Sau đó yêu cầu học sinh tóm tắt nội dung câu chuyện.
+ Phát triển tối đa các hình thức trò chơi, hát, đọc vần thơ, tập nhịp câu, v.v...
3.5/Tổ chức hoạt động theo cặp – nhóm:
+ Đây là hoạt động đắc lực và lí tưởng nhất trong quá trình luyện nói. Tất
cả học sinh sẽ được làm việc trong cùng một thời gian, giúp giáo viên giải quyết
được nhiều vấn đề.
+ Học sinh học tập lẫn nhau trong quá trình luyện tập, đó là cơ hội để
chia sẻ thông tin và hỏi những điều mình chưa rõ, đồng thời giáo viên cũng dễ
dàng kiểm soát học sinh bằng cách đi đi lại lại trong lớp, lắng nghe và hổ trợ khi
cần thiết.
+ Giáo viên quán xuyến lớp trong quá trình hoạt động nhóm.
Một số hoạt động theo cặp – nhóm được áp dụng:
a. Picture Story
Với hoạt động này, học sinh nhìn tranh để kể lại câu chuyện hoặc một
đoạn hội thoại. Nếu thực hành thường xuyên, học sinh sẽ luyện được tính
độc lập trong giao tiếp và sẽ sắp xếp được ý tứ khi trao đổi, kể chuyện hoặc
giới thiệu về một hoạt động.
b. Walk and Talk:
Để đáp ứng tính hiếu động của trẻ, giáo viên trên lớp cần phát huy các
biện pháp thu hút sự chú ý của trò. Ví dụ khi dạy trò hỏi thăm sức khoẻ bạn,
How are you? I´m fine, thank you, chúng ta không nên cho học sinh ngồi tại chỗ
hỏi-trả lời với bạn ngồi bên cạnh, mà nên cho một vài học sinh chạy quanh lớp,
thực hiện bài tập.
Ví dụ: Cho học sinh đi quanh lớp, khi nghe thấy mệnh lệnh “ stop” thì
dừng lại và hỏi nhau về màu sắc của những đồ vật xung quanh.
A: What color is this? ( chỉ vào cái tẩy)
B: It’s green.
9. 9
What color is this?( chỉ vào cái áo sơ mi)
A: It’s white.
c. Beanbag Circle:
Học sinh đứng thành vòng tròn, giáo viên tung một quả bóng cho học
sinh 1 và hỏi- học sinh 1 trả lời và tung quả bóng tiếp cho người khác (học sinh
2) và hỏi. Cứ như vậy cho đến khi mọi người đều đã vượt qua lượt. Đối với lớp,
nên chia thành nhóm nhỏ và chơi riêng từng nhóm, nhưng cùng một lúc.
Ví dụ: Unit 2: Let’s talk (2A)
Học sinh ngồi hoặc đứng theo vòng tròn, học sinh 1 tung quả bóng cho
học sinh 2 và hỏi:
Hs 1: What’s the matter?
Hs 2: I’m sad.
Tiếp tục luyện cho đến khi tất cả học sinh đã tham gia bài.
3.6/Tổ chức “ đôi bạn nói tiếng Anh ” hoặc “ nhóm bạn nói tiếng Anh ”
Qua quá trình tìm hiểu địa bàn cư trú của học sinh, các em ở gần nhà
nhau mà học cùng một lớp; giáo viên nên cho các em thành lập đôi bạn nói
tiếng Anh, hoặc nhóm bạn nói tiếng Anh ở nhà hoặc thời gian rảnh. Sau mỗi tiết
học trên lớp, giáo viên gợi ý đề tài, mẫu câu, mẫu hội thoại. Học sinh về nhà tự
tìm ý tưởng và vốn từ vựng để nói với nhau. Mục đích giáo viên củng cố từ
vựng, mẫu câu giúp các em nói theo hướng “ Nói tiếng Anh tự nhiên ”. Trước
mỗi tiết học giáo viên cho các đôi bạn hoặc nhóm bạn trình bày trước lớp. Giáo
viên có thưởng điểm để động viên tinh thần cho các em.
3.7/ Tổ chức các trò chơi: Trẻ có khả năng rất sáng tạo trong vui chơi. Kinh
nghiệm cho chúng ta thấy cách chơi của trẻ đôi khi sáng tạo và làm cho trò chơi
tự nhiên hơn, "trẻ con hơn". Sử dụng trò chơi chúng ta có thể ôn tập ngữ liệu
một cách có tổ chức và vui vẻ.
Ví dụ:
Relay Race: Chia lớp thành nhiều đội, mỗi đội một hàng dọc. Cho học sinh
ngồi đầu mỗi hàng một từ, nhóm từ, hoặc câu. Học sinh đó nói lại từ đó cho
người ngồi dưới mình nghe. Cứ như thế cho đến khi từ đó đến với học sinh ngồi
cuối hàng. Khi nhận được từ, học sinh này đứng dậy đọc to từ đó lên, rồi chạy
ngay lên bảng viết lên bảng. Đội nào hoàn thành trước sẽ thắng.
Brain storming:
Ví dụ: Unit 9- Lesson 2(Lớp 3)
purple blue
brown
red
yellow
orange
green white
color
10. 10
3.8/Sửa lỗi sai cho học sinh:
+ Việc sửa lỗi phát âm, lỗi ngữ pháp cho học sinh trong khi nói là một việc
làm quan trọng. Tuy nhiên, làm thế nào để sửa lỗi cho các em, sửa lỗi vào thời
điểm nào cho thích hợp là một việc làm đòi hỏi sự tế nhị và mang tính sư phạm
cao.
+ Khi học sinh đang thực hành phát âm một câu nói nào đó cho đúng thì
đây là thời điểm thích hợp để giáo viên sửa lỗi khi các em đọc sai.
+ Đối với trường hợp khi học sinh đang tập trung suy nghĩ và tìm ý tưởng
từ vựng để thể hiện một nội dung nào đó, giáo viên không nên ngắt lời để sửa
lỗi vì điều này sẽ làm mất đi sự tự tin, tính hiếu động, thích tham dự vào các
hoạt động rèn luyện giao tiếp của các em.
+ Giáo viên cần có thái độ tích cực đối với lỗi ngôn ngữ của học sinh.
Chấp nhận lỗi như một phần tất yếu trong quá trình học ngoại ngữ, giúp học
sinh học tập được từ chính lỗi của bản thân và bạn bè.
3.9/Các bước luyện nói cho học sinh:
Trong quá trình luyện nói, phải tuân theo quy trình bao gồm:
a/ Chuẩn bị nói ( Pre-Speaking)
- Giới thiệu bài nói mẫu.
- Luyện đọc cho học sinh.
- Giáo viên dùng câu hỏi gợi mở để học sinh tự rút ra cách sử dụng từ
và cấu trúc câu.
b/Luyện nói có kiểm soát ( Controlled Practice)
- Học sinh dựa vào tình huống gợi ý ( qua tranh vẽ, từ ngữ cấu trúc
câu cho sẵn hoặc bài hội thoại mẫu ) để luyện nói theo yêu cầu.
- Học sinh luyện theo cá nhân, cặp, nhóm dưới sự kiểm soát của giáo
viên (sửa lỗi phát âm, lỗi ngữ pháp, gợi ý từ …)
- Giáo viên gọi cá nhân hoăc cặp học sinh trình bày phần thực hành
nói theo yêu cầu.
c/ Luyện nói tự do (Free Practical Production)
- Học sinh sử dụng mẫu câu để nói về những đồ vật xung quanh
chúng.
- Giáo viên không nên hạn chế về ý tưởng cũng như ngôn ngữ, nên để
học sinh tự nói, phát huy khả năng sáng tạo của bản thân.
- Tăng cường thời lượng thực hành như: nói, hoạt động giao tiếp của
học sinh trong giờ học là điều cần thiết.
* Thời lượng cho một tiết học 40 phút:
- Review: 5 minutes.
- Presentation: 15 ms
- Open your books:10ms
- Extension: 10ms.
VI/. Kết quả nghiên cứu:
Qua các tiết dạy thực nghiệm, dự giờ đồng nghiệp tôi nhận thấy việc ứng
dụng các phương pháp dạy học đa dạng, phong phú và tiên tiến là cần thiết. Với
việc thực nghiệm các phương pháp trên, các em học sinh đã có những nhận định
11. 11
khác nhau với bộ môn này. Từ việc cho rằng học tiếng Anh khó, đặc biệt khó
trong việc tiếp thu kiến thức mới, không mạnh dạn trong giao tiếp thì các em đã
bị thu hút bởi các trò chơi hoạt động thú vị. Do đó, các em hứng thú với bộ môn
này hơn và học tốt hơn. Số lượng học sinh khá giỏi tăng lên, số lượng học sinh
yếu kém giảm xuống.
Tôi thấy học sinh đều có sự tiến bộ, tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên. Học
sinh không còn có cảm giác ngại học tiếng nước ngoài.
Kết quả cụ thể là:
Căn cứ vào kết quả học tập của học sinh, tôi có kết quả xếp loại khả năng
nói của học sinh khối 3, 4, 5 như sau:
Bảng thống kê khả năng nói của học sinh khối 3, 4, 5 học kỳ I
năm học 2014-2015:
Khối
lớp
Tổng số
hs
Khả năng/Tỉ lệ
Nói
tốt
Tỉ lệ Tạm
được
Tỉ lệ Chưa
được
Tỉ lệ
Khối 3
52 15hs 28,8% 25hs 48,1% 12hs 23,1%
Khối 4
56 20hs 35,7% 25hs 44,7% 11hs 19,6%
Khối 5
54 20hs 37,1% 26hs 48,1% 8hs 14,8%
VII/ Kết luận:
Với những kết quả thu được trong những năm học vừa qua tôi đã mạnh
dạn viết kinh nghiệm này với mong muốn được góp phần nâng cao chất lượng
giảng dạy môn tiếng Anh. Trong quá trình giảng dạy, tôi không ngừng say mê
nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với các đối tượng học
sinh, cho phù hợp với xu thế chung của sự nghiệp giáo dục. Với các đối tượng
học sinh khác nhau, tôi lựa chọn phương pháp phù hợp sẽ giúp học sinh tiếp cận
và sử dụng ngôn ngữ thứ hai thật chuẩn và chính xác. Tôi thiết nghĩ nếu việc này
được vận dụng linh hoạt, sáng tạo, học sinh sẽ được tiếp thu bài học một cách
nhẹ nhàng, dễ nhớ, dễ hiểu, tạo cho học sinh tư duy sáng tạo, hứng thú học tập.
VIII/ Đề nghị:
12. 12
Để đảm bảo thực hiện tốt chỉ tiêu chất lượng đề ra trong quá trình giảng
dạy, giáo viên tiếng Anh cần phải có sự kết hợp chặt chẽ với gia đình và nhà
trường. Đặc biệt là giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm lớp cùng rèn luyện
cho học sinh nhận thức đúng đắn về động cơ, thái độ học tập. Để các em thực
sự chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập và rèn luyện các bộ môn nói
chung, môn tiếng Anh nói riêng. Nên có các buổi ngoại khoá, giao lưu bằng
tiếng Anh nhằm tạo môi trường giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ trong thực tế.
Giáo viên mở rộng vấn đề cho phép học sinh tự liên hệ thực tế để phát triển
tư duy sáng tạo của học sinh, như vậy học sinh sẽ hiểu bài hơn, giờ học sôi nổi,
thoải mái, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Giáo viên cũng không nên yêu cầu
quá cao vì để phát triển giao tiếp, đôi khi chúng ta phải biết chấp nhận việc học
sinh mắc lỗi để có thể tạo môi trường giao tiếp và tránh cho học sinh cảm giác
lo sợ việc mắc lỗi và làm giảm sự tự tin trong giao tiếp của các em.
Cấu trúc sách giáo khoa có phân chia thành từng kỹ năng nhằm rèn luyện
cho học sinh trong quá trình học ngoại ngữ. Tuy nhiên trong quá trình dạy,
chúng ta phải luôn luôn biết phối hợp việc dạy lồng ghép các kỹ năng trong
cùng một giờ học, tránh việc tách rời các kỹ năng để dạy riêng biệt.
Trong quá trình giảng dạy ở trường tiểu học, cùng với việc nghiên cứu học
tập các tài liệu tham khảo và sự rút kinh nghiệm của bản thân, sự học hỏi không
ngừng từ các bạn bè đồng nghiệp, tôi đã thực hiện kinh nghiệm “một vài biện
pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh tiểu học”. Tuy nhiên kinh nghiệm của tôi
không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Rất mong nhận được sự ủng hộ
của lãnh đạo cấp trên, ý kiến đóng góp xây dựng của quý đồng nghiệp để tôi có
thể rút kinh nghiệm, học hỏi nhằm nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân.
IX/ Tài liệu tham khảo:
1. Thực trạng giảng dạy tiếng Anh tại Việt Nam. Trịnh Quốc Thái, Vụ
13. 13
trưởng Vụ Tiểu học. Bộ GD&ĐT.
2. Dạy tiếng Anh Bậc tiểu học. Nguyễn Quốc Hùng.
3. Sách giáo viên: Let’s go – Khối 3, 4, 5.NXB Oxford.
4. English for Primary Teachers (Phương pháp dạy trẻ học tiếng). Mary
Slattery & Jane Willis do nhà xuất bản Oxford xuất bản năm 2001.
5. How to teach English. Jeremy Harmer - Oxford University Press – 2002.
6. Bồi dưỡng phương pháp dạy học tiếng Anh hiện đại. NXB Đại học Quốc
Gia Hà Nội-1999.
X/ Phụ lục: Tranh minh họa cho biện pháp phản xạ nhanh bằng tiếng Anh.
15. 15
XI/ Mục lục:
NỘI DUNG Trang
I/ Tên đề tài.
II/ Đặt vấn đề.
1. Lý do chọn đề tài.
2. Giới hạn nghiên cứu của đề tài.
III/ Cơ sở lý luận.
IV/ Cơ sở thực tiễn.
V/ Nội dung nghiên cứu.
1. Nguyên nhân.
2. Thực trạng của vấn đề.
3. Biện pháp thực hiện.
VI/ Kết quả nghiên cứu.
VII/ Kết luận.
VIII/ Đề nghị.
IX/ Tài liệu tham khảo.
X Phụ lục.
XI/ Mục lục.
1
1
1
1
2
2-3
3
3-4
4-10
9-10
10
11
12
13
14
ĐạiĐồng, ngày12 tháng 3 năm 2015
Ngườiviết
PhanThị Thanh Thủy
16. 16
PHÒNG GD&ĐT ĐẠI LỘC
TRƯỜNG TH Nam Trân
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
..............., ngày tháng năm 2015
PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2014-2015
CỦA HĐKH TRƯỜNG : TH Nam Trân
1. Tên đề tài: Một vài biện pháp rèn kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh trường
Tiểu học Nam Trân.
2. Họ và tên tác giả: Phan Thị Thanh Thủy
3. Nhiệm vụ được phân công: giảng dạy tiếng Anh.
4. Nhận xét của Chủ tịch HĐKH về đề tài:
a) Ưu điểm: ..............................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
b) Hạn chế: ...............................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
5. Đánh giá, xếp loại:
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Trường TH Nam Trân
thống nhất xếp loại :
Những người thẩm định: Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)
...........................................ký .....................
...........................................ký .....................
Mẫu SK1
17. 17
Mẫu SK2
(Tờ số 1)
UBND HUYỆN ĐẠI LỘC
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Đại Lộc, ngày tháng năm 2015
PHIẾU CHẤM ĐIỂM, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2014-2015
CỦA HĐKH PHÒNG GD&ĐT ĐẠI LỘC
Họ và tên tác giả: Phan Thị Thanh Thủy
Đơn vị: Trường TH Nam Trân
Đề tài: Một vài biện pháp rèn kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh trường Tiểu học
Nam Trân
ĐIỂM CỤ THỂ :
Phần
Nhận xét
của người đánh giá xếp loại đề tài
Điểm
tối đa
Điểm
đạt
được
1. Tên đề tài
2. Đặt vấn đề
1
3. Cơ sở lý luận 1
4. Cơ sở thực tiễn 2
5. Nội dung nghiên cứu 9
6. Kết quả nghiên cứu 3
7. Kết luận 1
8.Đề nghị
9.Phụ lục
1
10.Tài liệu tham khảo
11.Mục lục
12.Phiếu đánh giá xếp loại
1
Thể thức văn bản, chính tả 1
Tổng cộng 20đ
Căn cứ số điểm đạt được, đề tài trên được xếp loại :
Người đánh giá xếp loại đề tài
(Người thứ nhất ký và ghi rõ họ tên)
18. 18
Mẫu SK2
(Tờ số 2)
UBND HUYỆN ĐẠI LỘC
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Đại Lộc, ngày tháng năm 2015
PHIẾU CHẤM ĐIỂM, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2014-2015
CỦA HĐKH PHÒNG GD&ĐT ĐẠI LỘC
Họ và tên tác giả: Phan Thị Thanh Thủy
Đơn vị: Trường TH Nam Trân
Đề tài: Một vài biện pháp rèn kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh trường Tiểu học
Nam Trân.
ĐIỂM CỤ THỂ :
Phần
Nhận xét
của người đánh giá xếp loại đề tài
Điểm
tối đa
Điểm
đạt
được
1. Tên đề tài
2. Đặt vấn đề
1
3. Cơ sở lý luận 1
4. Cơ sở thực tiễn 2
5. Nội dung nghiên cứu 9
6. Kết quả nghiên cứu 3
7. Kết luận 1
8.Đề nghị
9.Phụ lục
1
10.Tài liệu tham khảo
11.Mục lục
12.Phiếu đánh giá xếp loại
1
Thể thức văn bản, chính tả 1
Tổng cộng 20đ
Căn cứ số điểm đạt được, đề tài trên được xếp loại :
Người đánh giá xếp loại đề tài
(Người thứ hai ký và ghi rõ họ tên)