Một số đặc điểm và yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội thành Hà Nội
1. NGUYỄN TUYẾT XƯƠNG
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VÀ YẾU TỐ NGUY CƠ CỦA
NGHE KÉM Ở TRẺ EM TỪ 2 ĐẾN 5 TUỔI TẠI CÁC
TRƯỜNG MẪU GIÁO NỘI THÀNH HÀ NỘI
Chuyên ngành: Dịch tễ học
Mã số: 62.72.01.17
LUẬN ÁN TIẾN SỸ DỊCH TỄ HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.Ts. Nguyễn Anh Dũng
2. PGS.Ts. Khu Thị Khánh Dung
HÀ NỘI – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG
2. MỤC LỤC
CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................v
DANH MỤC CÁC BẢNG...........................................................................vi
DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ............................................................viii
ĐẶT VẤN ĐỀ...............................................................................................1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU.......................................................3
1.1. Giải phẫu, sinh lý cơ quan thính giác...............................................3
1.1.1. Sơ lược giải phẫu tai [90].................................................................. 3
1.1.2. Sinh lý nghe [24] .............................................................................. 5
1.2. Các nghiệm pháp thăm dò thính giác...............................................6
1.2.1. Thăm khám tai.................................................................................. 6
1.2.2. Các xét nghiệm thính học ................................................................. 6
1.2.3. Các nghiệm pháp thăm dò thính giác được sử dụng ở Việt Nam..... 13
1.3. Phân loại và mức độ nghe kém ....................................................... 15
1.3.1. Phân loại nghe kém......................................................................... 15
1.3.2. Mức độ nghe kém........................................................................... 16
1.4.Tình hình nghe kém.......................................................................... 18
1.4.1. Tình hình nghe kém trên thế giới.................................................... 18
1.4.2. Tình hình nghe kém ở Việt Nam..................................................... 21
1.5. Các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ.......................................... 23
1.5.1. Các yếu tố bẩm sinh........................................................................ 23
1.5.2. Các nguyên nhân mắc phải ............................................................. 27
1.6. Các ảnh hưởng của nghe kém......................................................... 30
1.7. Các biện pháp can thiệp nghe kém................................................. 31
1.7.1. Thiết bị trợ thính............................................................................. 31
1.7.2. Các phương pháp phục hồi ngôn ngữ.............................................. 32
CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......... 33
3. 2.1 Đối tượng nghiên cứu......................................................................... 33
2.2 Địa điểm nghiên cứu........................................................................... 33
2.3 Thời gian nghiên cứu.......................................................................... 34
2.4 Thiết kế nghiên cứu............................................................................ 34
2.5 Cỡ mẫu và cách chọn mẫu.................................................................. 34
2.6 Phương pháp thu thập số liệu.............................................................. 36
2.7 Công cụ thu thập số liệu ..................................................................... 38
2.8 Các chỉ số và các biến số nghiên cứu.................................................. 40
2.9 Khắc phục sai số................................................................................. 44
2.10 Quản lý và xử lý số liệu.................................................................... 44
2.11 Đạo đức trong nghiên cứu................................................................. 45
2.12 Một số hạn chế và khu trú của nghiên cứu........................................45
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ .............................................................................47
3.1. Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ 2 tuổi đến 5 tuổi................47
3.1.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu........................................ 47
3.1.2 Kết quả đo âm ốc tai (OAE) lần 1 tại cộng đồng.............................. 48
3.1.3 Đặc điểm nghe kém của trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội qua đo ABR
hoặc đơn âm........................................................................................... 51
3.2 Phân tích các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ từ 2 tuổi đến 5
tuổi ..................................................................................................... 62
3.2.1 Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu...................................... 62
3.2.2 Xác định các yếu tố nguy cơ của nghe kém ..................................... 63
CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN...........................................................................70
4.1.Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội.................... 70
4.1.1 Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu................................................ 70
4.1.2 Tỷ lệ nghe kém qua sàng lọc bằng phương pháp OAE..................... 71
4.1.3 Tỷ lệ nghe kém qua đo OAE theo tuổi............................................. 75
4.1.4 Tỷ lệ nghe kém qua đo OAE theo giới tính...................................... 76
4. 4.1.5 Nghe kém theo vị trí tai ................................................................... 77
4.1.6 Mức độ nghe kém ở trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội......................... 77
4.1.7 Hình thức nghe kém ở trẻ mẫu giáo nội thành Hà Nội ..................... 79
4.2. Các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ 2-5 tuổi nội
thành Hà Nội........................................................................................... 80
4.2.1. Các yếu tố trước sinh...................................................................... 80
4.2.2. Các yếu tố trong khi sinh ................................................................ 82
4.2.3. Các yếu tố sau sinh ......................................................................... 87
KẾT LUẬN................................................................................................. 91
1. Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo tại các trường mẫu giáo công lập
nội thành Hà Nội năm 2011 – 2012........................................................ 91
2. Một số yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi
khu vực nội thành Hà Nội......................................................................91
KHUYẾN NGHỊ......................................................................................... 92
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ............................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................
5. CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ABR Auditory Brainstem Response
Điện thính giác thân não
ASL American Sign Language – Ngôn ngữ ký hiệu Mỹ
ASHA American Speech - Language-Hearing Association -
Hiệp hội Phát âm - Ngôn ngữ - Thính học Mỹ
CI Cochlear implantation - Cấy điện cực ốc tai
Hib Haemophilus influenzae type b
OAE Otoacoustic Emission - Âm ốc tai kích thích
OAE(-) Âm ốc tai kích thích âm tính
OAE(+) Âm ốc tai kích thích dương tính
OR Odd Ratio - Tỷ suất chênh
TCYTTG Tổ chức Y tế thế giới
TMH Tai Mũi Họng
TCMR Tiêm chủng mở rộng
VTG Viêm tai giữa
VTGM Viêm tai giữa mạn
VTTD Viêm tai thanh dịch
VXC Viêm xương chũm
VMN Viêm màng não
VMNM Viêm màng não mủ
6. DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Mức độ nghe kém theo ASHA [60].............................................. 16
Bảng 1.2: Mức độ nghe kém theo Tổ chức Y tế thế giới [62] ....................... 16
Bảng 1.3: Phân loại nghe kém ở trẻ sơ sinh ở một số nghiên cứu ở Việt
Nam[12]....................................................................................................... 17
Bảng 1.4: Phân loại mức độ nghe kém đang sử dụng tại bệnh viện Nhi TƯ..17
Bảng 2.1 : Danh sách các trường và số trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tham gia sàng
lọc nghe kém................................................................................................ 36
Bảng 2.2: Phân loại mức độ nghe kém ......................................................... 40
Bảng 2.3: Định nghĩa các biến số nghiên cứu............................................... 41
Bảng 3.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo quận (n=7.191) .....................47
Bảng 3.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo độ tuổi (n=7.191).................. 48
Bảng 3.3: Tỷ lệ OAE (-) theo quận (n=7.191) .............................................. 48
Bảng 3.4: Kết quả đo OAE lần 2 những trẻ OAE (-) lần 1 (n=337) .............. 50
Bảng 3.5: Tỷ lệ nghe kém theo quận (n=7191).............................................51
Bảng 3.6: Đặc điểm nghe kém theo tuổi và giới (n=314).............................. 53
Bảng 3.7: Đặc điểm trẻ nghe kém theo vị trí tai và giới (n=314) .................. 53
Bảng 3.8: Kết quả khám nhĩ lượng cho trẻ nghe kém...................................54
Bảng 3.9: Kết quả phản xạ cơ bàn đạp ở trẻ nghe kém ................................. 55
Bảng 3.10: Mức độ nghe kém của trẻ theo giới (n=314)...............................56
Bảng 3.11. Mức độ nghe kém của trẻ theo lứa tuổi....................................... 56
Bảng 3.12 : Hình thức nghe kém theo giới ( n = 314 ).................................. 57
Bảng 3.13: Hình thức nghe kém theo tuổi ( n = 314 )...................................58
7. Bảng 3.14: Đặc điểm tiền sử mẹ bị bệnh trong quá trình mang thai trẻ nghe
kém (n = 314)...............................................................................................59
Bảng 3.15: Đặc điểm tiền sử khi sinh của trẻ nghe kém (n=314).................. 60
Bảng 3.16: Đặc điểm tiền sử bị bệnh của trẻ nghe kém (n=314)...................61
Bảng 3.17: Phân bố tuổi của đối tượng nghiên cứu (n=942)......................... 62
Bảng 3.18: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu theo giới tính (n=942)........62
Bảng 3.19: Mối liên quan giữa tiền sử mẹ bị bệnh khi mang thai và nguy cơ
nghe kém ở trẻ.............................................................................................. 63
Bảng 3.20: Mối liên quan giữa tiền sử khi sinh và nguy cơ nghe kém ở trẻ.. 65
Bảng 3.21: Mối liên quan giữa các yếu tố sau sinh và nguy cơ nghe kém ở trẻ
.....................................................................................................................67
Bảng 3.22: Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh, trong sinh và sau sinh
tới nghe kém ở trẻ - mô hình phân tích hồi quy đa biến, Mô hình 1.............. 68
Bảng 3.23: Mối liên quan giữa các yếu tố trước sinh, trong sinh và sau sinh
tới nghe kém ở trẻ - mô hình phân tích hồi quy đa biến, Mô hình 2.............. 69
8. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ OAE (-) theo từng nhóm tuổi (n=7.191)..........................49
Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ OAE (-) theo giới tính.....................................................50
Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ nghe kém theo lứa tuổi (n=7.191).................................... 52
Biểu đồ 3.4: Tỷ lệ trẻ nghe kém theo giới tính (n=7.191) .............................52
DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ
Hình 1: Sơ đồ cắt ngang tai……………………………………………….…..4
Hình 2: Thính lực đồ điếc dẫn truyền qua đơn âm…………………………....7
Hình 3: Kết quả đo OAE (âm tính)……………………………………….…..9
Hình 4: Phản xạ cơ bàn đạp và Nhĩ lượng…………………………………...10
Hình 5: Kết quả đo ABR………………………………………………...…..12
Hình 6 : Đo OAE tại trường mầm non…………………………………...….37
Hình 7 : Máy đo OAE loại Audx………………………………………...….39
Hình 8 : Máy đo ABR đơn âm loại GSI của Mỹ…………………………….39
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ nghiên cứu………………………………………….....…. 43
9. 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghe kém là hiện tượng giảm một phần hay toàn bộ khả năng cảm nhận
về âm thanh [8], [24]. Nghe kém có thể gặp ở mọi lứa tuổi và có thể do nhiều
nguyên nhân gây ra. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG), có
khoảng 5% dân số, tương đương với 360 triệu người trên toàn thế giới bị nghe
kém, trong đó có 32 triệu trẻ em bị vấn đề này. Phần lớn số người này sống ở
các nước có thu nhập thấp và trung bình [128].
Ảnh hưởng của nghe kém phụ thuộc rất lớn vào lứa tuổi mắc bệnh [24].
Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, trẻ bị nghe kém sẽ không giao
tiếp được, không học được từ những âm thanh xung quanh, kết quả là trẻ chậm
phát triển ngôn ngữ, trí tuệ và gặp khó khăn trong cuộc sống. Trầm trọng hơn,
trẻ sẽ trở thành tàn tật vĩnh viễn [8], [19], [128]. Do đó, việc phát hiện và can
thiệp kịp thời sẽ mang lại cho trẻ cơ hội lớn trong việc hồi phục khả năng nghe,
phát triển các kỹ năng ngôn ngữ, giúp trẻ học tập, hòa nhập cộng đồng và giảm
gánh nặng cho bản thân trẻ, gia đình và xã hội [86], [128].
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các thiết bị hỗ trợ khám và
điều trị nghe kém không ngừng phát triển, sàng lọc nghe kém và triển khai các
chương trình can thiệp đã được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm và đã trở
thành chương trình y tế quốc gia ở nhiều nước, đặc biệt ở những nước phát triển
[52], [78].
Ở Việt Nam, theo ước tính của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, tính
đến năm 2003 cả nước có khoảng 662.000 trẻ từ 0-18 tuổi bị khuyết tật. Trong
đó, rối loạn thần kinh và khiếm thính là loại khuyết tật phổ biến thứ hai, chiếm
17.0%, sau khuyết tật vận động (29.0%). Qua đây cho thấy khuyết tật liên quan
đến nghe kém, điếc là vấn đề sức khỏe cần được quan tâm nghiên cứu và hỗ trợ
[7]. Ở nước ta đã có một số nghiên cứu về tình hình nghe kém ở trẻ em. Tỷ lệ
trẻ em bị nghe kém ở học sinh tiểu học được ước tính là 1,13% [39]. Số trẻ bị
10. 2
khiếm thính còn tăng lên do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau
[15], [19].
Trẻ em trong lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo từ 2 tuổi đến 5 tuổi là một trong
những nhóm đối tượng cần được quan tâm nghiên cứu, bởi ở lứa tuổi này trẻ bắt
đầu phát triển mạnh mẽ những kỹ năng giao tiếp cộng đồng thông qua việc học
tập ở lớp học và tiếp xúc với thế giới xung quanh. Lứa tuổi này cũng là lứa tuổi
chuẩn bị đi học nên việc phát hiện sớm trẻ nghe kém kết hợp với các biện pháp
can thiệp sẽ giúp trẻ có khả năng trở lại cộng đồng, hòa nhập với xã hội.
Theo Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, toàn thành phố có 840 trường mầm
non, trong đó 85,0% là công lập chiếm hơn 90,0% tổng số học sinh mầm non
[29]. Cũng như các địa phương khác, việc nghiên cứu các đặc điểm và các yếu
tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ trong độ tuổi nói trên là hết sức cần thiết đối với
thành phố Hà Nội để xây dựng những giải pháp nhằm nâng cao khả năng nghe
cũng như phát triển thể chất và tinh thần cho trẻ.
Từ những lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài “Một số đặc điểm và yếu
tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo nội
thành Hà Nội” với hai mục tiêu sau:
1. Mô tả một số đặc điểm của nghe kém ở trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi tại các
trường mẫu giáo nội thành Hà Nội, 2011 - 2012.
2. Xác định một số yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ em từ 2 đến 5 tuổi khu
vực nội thành Hà Nội.
11. 3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu, sinh lý cơ quan thính giác
1.1.1. Sơ lược giải phẫu tai [90]
Cấu tạo của tai (hình 1) gồm:
Tai ngoài: Bao gồm vành tai và ống tai ngoài, chức năng chủ yếu là thu thập và
dẫn truyền sóng âm đến màng nhĩ, quá trình dẫn truyền sóng âm này có thể bị
thay đổi bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Tai giữa: Tai giữa là một khoang chứa đầy không khí bao gồm hòm nhĩ, ngách
thượng nhĩ và thượng nhĩ, phía sau nối tiếp với hang chũm (sào bào) qua ống
thông hang (sào đạo), phía trước với họng mũi qua vòi nhĩ. Tai giữa chứa 3
xương con gồm xương búa, xương đe và xương bàn đạp, hai cơ gồm cơ co bàn
đạp chi phối bởi thần kinh VII và cơ căng màng nhĩ chi phối bởi nhánh vận
động thần kinh V3.
Tai trong: Nằm giữa ở phần đáy xương thái dương bao gồm tiền đình và hốc tai.
Hệ thống tiền đình bao gồm 3 ống bán khuyên và tiền đình thật sự (xoang nang,
cầu nang). Ốc tai là một ống cuộn thành hai vòng rưỡi,dài khoảng 30mm chứa
đầy dịch. Màng Reissner và màng đáy chia ốc tai thành 3 thang dọc theo chiều
dài ốc tai gồm: thang tiền đình, thang giữa (ống ốc tai) và thang nhĩ. Thang tiền
đình và thang giữa ngăn cách bởi màng Reissner, thang giữa và thang nhĩ ngăn
cách bởi màng đáy. Thang tiền đình và thang nhĩ chứa ngoại dịch giàu Na+
,
thang giữa chứa nội dịch giàu K+
.
12. 4
Hình 1: Sơ đồ cắt ngang tai
Thần kinh ốc tai: Thần kinh ốc tai (thần kinh thính giác) là dây thần kinh sọ số
VIII (thần kinh tiền đình- ốc tai), bao gồm các sợi hướng tâm và ly tâm, các sợi
hướng tâm nằm ở hoạch xoắn, 88% sợi hướng tâm synáp với tế bào lông trong,
12% còn lại synáp với tế bào lông ngoài, các sợi hướng tâm rời tai trong qua
ống tai trong nằm ở mặt sau phần đá xương thái dương, đi vào thân não ở góc
cầu tiểu não và kết thúc ở phức hợp nhân ốc tai. Nhân tế bào sợi ly tâm nằm ở
phức hợp trám trên gồm nhân quanh trám và nhân trước trám. Ngược với sợi
hướng tâm phần lớn sợi ly tâm synáp với tế bào lông ngoài, phần nhỏ synáp với
đuôi các sợi hướng tâm nằm bên dưới tế bào lông trong [90]. Dải tiếp nhận tần
số âm ở ốc tai nằm trên thần kinh ốc tai với tần số cao tiếp nhận ở bề mặt sợi
thần kinh, tần số thấp tiếp nhận bởi các sợi sâu bên trong phần lõi thần kinh
[42].
13. 5
1.1.2. Sinh lý nghe [24]
Cả 2 tai đều có khả năng nghe và định hướng như nhau, giúp cho việc định
hương âm thanh. Bình thường âm thanh đến với tai trái trước sau đó được
khuyếch đại ở tai phải. Khi não so sánh thông tin từ cả 2 tai, não có thể phân
biệt được thông tin nào đến từ tai phải hay tai trái. Hơn nữa não có thể phân biệt
được âm thanh có nghĩa trong một môi trường ồn ào giúp ta có thể nói chuyện
được với một người ở trong 1 phòng đông đúc.
Sóng âm được truyền vào ống tai rồi đến màng nhĩ, do kích thước của
màng nhĩ lớn hơn màng ở cửa sổ bầu dục và chuỗi xương con dẫn truyền âm
thanh qua cơ chế đòn bẩy nên âm thanh được khuyếch đại trước khi vào tai
trong. Năng lượng sóng âm được tăng lên là cần thiết để bù lại cho phần mất di
khi chuyển từ môi trường khí sang môi trường lỏng.
Nếu âm thanh quá lớn, cơ ở tai giữa co lại làm giảm cường độ âm thanh để bảo
vệ tai trong. Tuy nhiên đối với những âm thanh lớn hoặc đột ngột có thể gây hại cho
tai trong ngay lập tức bởi vì dây thần kinh thính giác đáp ứng với âm thanh trước khi
nhóm cơ này có thể co lại, sóng âm được truyền tới cửa sổ bầu dục để vào tai trong
làm thay đổi áp xuất trong nội dịch của ốc tai. Sóng âm bắt đầu làm di chuyển lông
của tế bào lông trên màng đáy, mỗi tần số của sóng âm tạo nên những thay đổi đặc
trưng ở trên màng đáy tạo nên những kích thích thần kinh để phản hồi lại tế bào lông
mà nó cảm nhận được, nếu âm thanh tần số cao các tế bào lông ở gần đáy của ốc tai
sẽ rung động, nếu âm thanh có tần số thấp tế bào lông ở gần đỉnh của ốc tai sẽ rung
động, tế bào lông được chuyển động bởi sóng âm và dẫn truyền những thông tin này
tới màng đáy. Đây là lí do làm thay đổi thành phần hoá học ở tế bào lông và chuyển
thành những tín hiệu điện và được dẫn truyền đến dây thần kinh thính giác.
14. 6
1.2. Các nghiệm pháp thăm dò thính giác
1.2.1. Thăm khám tai
Thăm khám tai bắt đầu với bệnh sử chi tiết, bao gồm các triệu chứng về tai
như nghe kém, đau tai hoặc chảy mủ tai, nặng tai, ù tai, chóng mặt, tê hoặc liệt
vùng mặt, cần chú ý đến thời gian xuất hiện liên tục hoặc ngắt quãng, các yếu tố
làm tăng hoặc giảm các triệu chứng này.Bệnh sử rất quan trọng, bao gồm các
phẫu thuật trước đây, nhiễm trùng hoặc tình trạng chóng mặt, choáng váng kèm
theo. Tiền sử gia đình về nghe kém gợi ý khả năng di truyền hoặc bẩm sinh, tình
trạng tiếp xúc tiếng ồn đặc biệt do nghề nghiệp, các thuốc độc cho tai như
aminoglycoside hoặc hóa trị liệu, các bệnh lý kèm theo như tiểu đường, bệnh lý
thận, bênh tuyến giáp, huyết áp cao và bệnh lý tim mạch.
Khám lâm sàng bắt đầu với việc khám tai ngoài, phát hiện các bất thường
bẩm sinh, các bệnh lý ống tai ngoài và màng nhĩ. Màng nhĩ bình thường có màu
xám sáng óng ánh xa cừ, lõm nhẹ vào trong. Quan sát dịch phía sau màng nhĩ
hoặc chú ý áp lực âm ở tai giữa do tắc vòi nhĩ gây co lõm màng nhĩ. Đối với
những bệnh lý phức tạp cần sử dụng kính vi phẫu, khả năng khuếch đại của kính
giúp phát hiện và nhìn rõ các lỗ thủng màng nhĩ và giúp lấy các dị vật ống tai dễ
dàng hơn.
1.2.2. Các xét nghiệm thính học
1.2.2.1. Đo thính lực đơn âm [20]
1.2.2.1.1 Những nguyên tắc khi đo
Mục tiêu đo dẫn truyền khí âm đơn là nhằm xác định ngưỡng nghe ở mỗi
tần số đo. Ngưỡng nghe là mức âm nhỏ nhất bệnh nhân có thể nghe 50% thời
gian phát âm.Người bệnh không thể nghe âm phát ra vào mọi thời điểm, chỉ
nghe một nửa hoặc nhiều hơn chút ít đối với âm phát ra.
15. 7
Trước khi đo thính lực cần hỏi rõ bệnh sử, thăm khám tai qua đèn soi tai
hoặc qua nội soi, lấy ráy tai khi cần thiết.Luôn đo tai tốt trước, tai bệnh đo sau,
nếu cả hai tai có bệnh lý như nhau, bắt đầu với tai phải trước.
Hình 2: Hình ảnh thính lực đồ điếc dẫn truyền qua đo đơn âm
Cần hướng dẫn kỹ để bệnh nhân thuần thục trước khi đo. Bệnh nhân đáp
ứng bằng nhiều cách thức như đưa cao ngón tay trỏ phải khi nghe âm ở tai phải,
đưa cao tay trái khi nghe âm ở tai trái hoặc mức âm bắt đầu đo tốt nhất là 40
dBHL ở tần số 1.000 Hz, nếu bệnh nhân không đáp ứng, gia tăng từng bước 10
dB cho đến khi có đáp ứng.
1.2.2.1.2 Kỹ thuật đo âm đơn cơ bản
Bằng cách phát âm ra một âm, mỗi tần số ở một thời điểm, bắt đầu phát âm
ở cường độ để người bệnh có thể nghe dễ dàng.Kỹ thuật giảm dần mức âm:
16. 8
giảm từng bước 10 dB cho đến khi người bệnh không còn nghe được âm, đây
chính là ngưỡng nghe. Kỹ thuật tăng dần mức âm: tăng từng bước 5 dB cho đến
khi nghe trở lại, ngưỡng nghe là mức thấp nhất để người bệnh nghe được âm 50%
thời gian phát âm.
1.2.2.1.3 Kỹ thuật đo dẫn truyền xương đơn âm
Đo dẫn truyền đường xương nhằm xác định trực tiếp ngưỡng nghe của ốc
tai và xác định có hay không thành phần dẫn truyền (khoảng cách khí xương) ở
một tần số bất kỳ đối với tai nghe kém.
Đặt bộ phận tiếp nhận lên xương chũm phía sau vành tai, không để bộ
phận tiếp nhận chạm vào vành tai. Để tìm điểm đặt chính xác trên mỏm chũm,
nên đặt máy đo trên phần xương chũm và dùng tần số 500Hz, cường độ 40dB.
Di chuyển bộ phận tiếp nhận dọc theo mỏm chũm và người bệnh cho biết nơi có
cường độ âm lớn nhất.Khi đo dẫn truyền xương không che lấp âm ù, cần bắt đầu
trên ngưỡng, hạ thấp dần đến ngưỡng. Độ chênh lệch hai tai trong dẫn truyền
xương là 0dB, vì vậy chỉ cần đo tai nghe tốt hơn mà thôi.
1.2.2.2 Đo âm ốc tai (OAE) [38]
1.2.2.2.1 Cơ sở của nghiệm pháp đo âm ốc tai
Âm ốc tai là âm nghe trong tai, phát sinh ở ốc tai và truyền ra tai giữa, ống
tai ngoài, có thể đo được bằng microphone cảm ứng. David Kemp lần đầu tiên
mô tả âm này, từ năm 1978 – 1980 nhiều nghiên cứu của ông về OAEs ở tai
bình thường cũng như tai bệnh lý. Kể từ đó đã có nhiều nghiên cứu các dạng
OAEs và mối liên quan của nó với chức năng thính giác [79].
1.2.2.2.2 Mục tiêu của đo âm ốc tai
Đo âm ốc tai được dùng để đánh giá:
- Tình trạng ốc tai
- Chức năng tế bào lông ngoài ở tai trong.
17. 9
- Tầm soát sức nghe đặc biệt ở trẻ sơ sinh, trẻ em hoặc trẻ khiếm thính.
- Đánh giá sức nghe.
Hình 3: Kết quả đo OAE (âm tính) ảnh minh họa
- Phân biệt giữa nghe kém tiếp nhận (tổn thương tế bào lông ngoài) và nghe
kém thần kinh (tổn thương tế bào lông trong, tổn thương thần kinh thính giác
thân não).
- Xét nghiệm nghe kém chức năng.
1.2.2.2.3 Ưu điểm và hạn chế của nghiệm pháp đo âm ốc tai
Nghiệm pháp đo âm ốc tai do được tiến hành nhanh, đơn giản và ít tốn
kém do đó được sử dụng phổ biến trong sàng lọc khiếm thính ở trẻ sơ sinh cũng
như trên lâm sàng.
Hạn chế của nghiệm pháp là không thể tăng cường độ kích thích lên trên
70dB, vì nếu cường độ kích thích lớn quá sẽ xảy ra hiện tượng co một cách bị
động của các tế bào lông ngoài ốctai khi các tế bào này bị tổn thương. Do đó mà
kết quả đo âm ốc tai không thể giúp đánh giá tổn thương ốc tai trong các trường
hợp nghe kém nặng trên 80dB [38].
18. 10
1.2.2.3 Phản xạ cơ bàn đạp
Phản xạ âm là phản xạ co các cơ tai giữa do kích thích âm, kết hợp với nhĩ
lượng giúp phát hiện một số bệnh lý và tổn thương tai giữa, bệnh lý ốc tai và
sau ốc tai.
Hình 4: Phản xạ cơ bàn đạp, và Nhĩ lượng
Ngưỡng phản xạ cơ bàn đạp.
Ngưỡng phản xạ bàn đạp là cường độ âm kích thích thấp nhất phát sinh phản xạ
bàn đạp và đo bằng sự thay đổi độ thông thuận âm. Biên độ phản xạ lớn hơn khi
gia tăng mức kích thích.
Cách đo ngưỡng phản xạ bàn đạp.
Trên lâm sàng ngưỡng phản xạ bàn đạp được đo ở các tần số 500, 1000, và
2000 Hz và thường sử dụng âm dải rộng (BBN). Tần số 4.000 Hz không cần đo
do sức nghe bình thường ở người lớn có ngưỡng phản xạ bàn đạp cao ở tần số
này và khả năng thích ứng nhanh (Silverman, 1991).
19. 11
Thiết bị đo đủ nhạy cảm cho phép phát hiện phản xạ phát sinh do âm dải rộng
và cường độ thấp dao động khoảng 60 dB SPL.
Độ tin cậy.
Nghiên cứu của Forquer (1979) cho biết độ tin cậy cao đối với phép đo phản xạ
bàn đạp nhiều lần trong nhiều ngày, thí dụ: sự khác biệt lớn nhất giữa trị số
trung bình hai ngưỡng phản xạ bàn đạp bất kỳ chỉ khoảng 2.4 dB đối với nhóm
có sức nghe bình thường và cũng tương tự đối với nhóm nghe kém tiếp nhận
thần kinh (trung bình 2 dB).
Ngưỡng phản xạ bàn đạp bình thường
Ngưỡng phản xạ bàn đạp bình thường từ 85-100 dB SPL đối với âm đơn và từ
65-80 dB đối với âm dải rộng. Giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của ngưỡng
phản xạ bàn đạp đối bên và cùng bên bình thường.
1.2.2.4 Nghiệm pháp đo điện thính giác thân não (ABR)
Lần đầu tiên vào năm 1970 Jewett và cộng sự đã chứng minh được những
đáp ứng thính giác xuất phát từ thân não và có thể ghi lại được những đáp ứng
này bằng cách đặt điện cực ở da đầu [101]. Năm 1977 kỹ thuật ABR đã được
phát triển và ứng dụng rộng rãi trong lâm sàng, đặc biệt là trong chẩn đoán khối
u dây VIII [64]. Về thuật ngữ, hiện nay trong các y văn thế giới nghiệm pháp đo
điện kích thích thính giác thân não có rất nhiều tên gọi khác nhau như đáp ứng
thính giác thân não (ABR: Auditory Brainstem Response), điện thế kích thích
thính giác thân não (BAEP: Brainstem Auditory Evoked Potentials) [118]. Tuy
vậy để cho ngắn gọn, trong lâm sàng các tác giả trên thế giới và ở Việt nam
thường dùng thuật ngữ đáp ứng thính giác thân não.
20. 12
Hình 5: Hình ảnh kết quả đo ABR
Nghiệm pháp này đo đáp ứng của dây thần kinh thính giác (dây thần kinh
số VIII) và thân não với kích thích âm thanh thông qua các điện cực đặt ở trán,
bề mặt hai xương chũm và gáy của trẻ. Kích thích âm thanh là các tiếng “click”
với cường độ 35dB được đưa vào tai của trẻ qua chụp tai. Đáp ứng của mỗi trẻ
sẽ được so sánh với kết quả bình thường đã được cài sẵn trong máy và đưa ra
kết quả là “đạt” khi tai không bị khiếm thính, hoặc “nghi ngờ” nếu nghi ngờ tai
bị nghe kém. Trường hợp “nghi ngờ” sẽ cần làm thêm các nghiệm pháp thăm dò
khách quan khác.
1.2.2.4.1 Ưu điểm và hạn chế của nghiệm pháp ABR.
Nghiệm pháp đo đáp ứng thân não để sàng lọc nhằm phát hiện sớm các
trường hợp giảm thính lực cần theo dõi và xử trí tiếp, nghiệm pháp này không
xác định được mức độ và vị trí gây giảm thính lực.
Hạn chế của nghiệm pháp đo đáp ứng thính lực thân não là phụ thuộc
nhiều vào tình trạng của trẻ. Nếu trẻ không nằm yên thì sẽ xuất hiện nhiều yếu
21. 13
tố nhiễu và kết quả sẽ thiếu chính xác. Ngoài ra khi ngưỡng nghe của trẻ trên
90dB (nghe kém rất nặng) thì rất khó đo đáp ứng thính giác thân não để xác
định ngưỡng nghe khách quan hay đánh giá tổn thương sau ốc tai.
1.2.3. Các nghiệm pháp thăm dò thính giác được sử dụng ở Việt Nam
Ở nước ta đã có một số nghiên cứu về nghe kém ở trẻ sơ sinh cũng như trẻ
nhỏ sử dụng nhiều nghiệm pháp khác nhau.
1.2.3.1 Thăm dò thính giác sử dụng các phương tiện, kỹ thuật thô sơ
Kết quả chương trình thống kê trẻ em tàn tật ở bệnh viện Đà Nẵng từ năm
1990 đến 1997 cho thấy 14/1.313 (1,07%) trẻ có khó khăn về nghe/nói. Tuy
nhiên, nghiên cứu này chỉ dùng các phương tiện thô sơ như chuông tự tạo và
đánh giá sức nghe bằng chủ quan của người đo [34]. Năm 2001 nghiên cứu phản
ứng thính giác trên 900 trẻ sơ sinh có nguy cơ cao tại bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và
trẻ em bằng chuông tự tạo. Kết quả cho thấy tỉ kệ không đáp ứng với âm thanh ở
trẻ sơ sinh có nguy cơ cao là 4,4% [21]. Tương tự như đánh giá ở Đà Nẵng, trong
nghiên cứu này, tác giả chỉ dùng những kỹ thuật thô sơ trong đo lường phản ứng
thính giác ở trẻ, do đó chỉ cho kết quả là “Có” hay “Không” có phản ứng thính
giác.
1.2.3.2. Thăm dò thính giác sử dụng các xét nghiệm thính giác
Gần đây một số nghiên cứu đã sử dụng các nghiệm pháp hiện đại nhằm
xác định nghe kém ở trẻ em. Nghiên cứu tình hình suy giảm thính lực ở học
sinh tiểu học Hải Phòng năm 1997 sử dụng nghiệm pháp đo âm ốc tai đã xác
định 65 trẻ trong tổng số 5.731 trẻ được khám bị nghe kém, chiếm 1,13%.
Trong đó điếc dẫn truyền là thể loại điếc thường gặp nhất ở nhóm tuổi này,
chiếm 87,6%, sau đó là điếc tiếp nhận 7,6%, điếc hỗn hợp chiếm tỷ lệ thấp nhất,
chỉ 4,6% [39]. Tương tự như vậy, một nghiên cứu tại Bắc Ninh, Thái Nguyên và
Phú Thọ sử dụng nghiệm pháp đo OAE đánh giá thính giác ở 823 trẻ dưới 5 tuổi
cho thấy 4,87% cho kết quả nghi ngờ giảm thính lực cần phải kiểm tra lại [9].
22. 14
Gần đây, một nghiên cứu sàng lọc nghe kém ở trẻ sơ sinh đã được tiến hành với
12.202 trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội bằng nghiệm pháp đo OAE cho
thấy, có tới 3,4% trẻ sơ sinh có nghi ngờ bị giảm thính lực. Những can thiệp
sớm như huấn luyện cho gia đình kỹ năng giao tiếp sớm cũng đã được tiến hành
cho các trẻ nghi ngờ giảm thính lực [37]. Ở nước ta, nghiên cứu gần đây cho
thấy độ nhạy là 100% và độ đặc hiệu của nghiệm pháp OAE là 94% [13].
Năm 2011, tác giả Lê Thị Thu Hà đã tiến hành sàng lọc nghe kém ở 305
trẻ có nguy cơ cao (sinh non, vàng da, nhẹ cân…) được theo dõi tại Khoa điều
trị tích cực sơ sinh tại bệnh viện Nhi Trung ương bằng nghiệm pháp đo âm ốc
tai kính thích. Kết quả cho thấy có tới 21% trẻ có nghi ngờ bị giảm thính lực,
trong đó chủ yếu là bị nghe kém cả hai tai, chiếm 15,4% [12]. Một nghiên cứu
khác sàng lọc sơ sinh bằng nghiệm pháp đo âm ốc tai kích thích được tiến hành
với 6.571 trẻ sơ sinh thuộc 66 xã ở tỉnh Thái Bình cho thấy tỷ lệ OAE(-) là
5,9% [31].
Năm 1999, Nguyễn Thị Bích Thủy đã đưa ra chỉ số bình thường về thời
gian tiềm tàng của từng sóng và giữa các sóng của ABR ở thanh niên Việt Nam
và ứng dụng kỹ thuật này trong chuyên ngành Tai Mũi Họng (TMH) [35]. Năm
2002, Phạm Mạnh Dũng đã bước đầu nghiên cứu vai trò của đáp ứng thính giác
thân não trong chẩn đoán nghe kém tiếp âm một bên ở Hà Nội. Kết quả cho
thấy tần xuất xuất hiện các sóng I, III, V của ABR ở các tai bệnh giảm dần bắt
đầu là sóng I và sau cùng là sóng V khi mức độ nghe kém của bệnh nhân tăng
dần. Thời gian tiềm tàng của sóng I, III, V ở tai bệnh dài hơn ở tai lành với
p<0,05 và 0,01. Nghiên cứu cũng cho thấy biên độ các sóng ABR bên tai lành
lớn hơn biên độ các sóng bên tai bệnh (p<0,05) [10].
Như vậy cho đến nay ở nước ta đã áp dụng một số xét nghiệm thính học
như đo âm ốc tai, điện thính giác thân não trong việc xác định tình hình nghe
kém ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Các nghiệm pháp này có thể cho biết những đặc
điểm của nghe kém, từ đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác phòng và điều trị
23. 15
vấn đề này ở trẻ em. Các đối tượng nguy cơ cao được khuyến cáo sử dụng
nghiệm pháp ABR để sàng lọc, do đo âm ốc tai kích thích có thể không phát
hiện được một số trường hợp nghe kém sau ốc tai [12].
1.3. Phân loại và mức độ nghe kém
1.3.1. Phân loại nghe kém
Nghe kém có thể được chia theo ba loại cơ bản tùy thuộc vào các vùng tổn
thương của hệ thống nghe [51].
1.3.1.1 Nghe kém dẫn truyền
Nghe kém (điếc) dẫn truyền là loại nghe kém khi âm thanh từ ngoài vào
không qua được ống tai ngoài tới màng nhĩ và chuỗi xương con ở tai giữa do có
sự cản trở việc dẫn truyền xung động âm thanh do bị tật hoặc bệnh ở tai ngoài
và tai giữa.
Có nhiều nguyên nhân gây nên loại nghe kém này như viêm tai thanh dịch,
viêm tai giữa khác, dáy tai, viêm tai ngoài, dị tật bẩm sinh của tai ngoài, ống tai,
tai giữa, dị vật tai ngoài, điếc dẫn truyền có thể điều trị bằng thuốc hoặc phẫu
thuật.
1.3.1.2. Nghe kém tiếp nhận
Nghe kém (điếc) tiếp nhận xảy ra khi có hiện tượng phá hủy tai trong (ốc
tai) hoặc phá hủy dây thần kinh số VIII từ tai trong tới vỏ não. Các nguyên nhân
của nghe kém tiếp nhận bao gồm do di truyền, nhiễm độc (thuốc, hóa chất),
nhiễm trùng (đặc biệt là vi rút), chấn thương sọ não (khu vực xương thái
dương), điếc nghề nghiệp (tiếp xúc với tiếng ồn cường độ lớn, thời gian dài),
não bị phá hủy, tai biến, viêm não. Điếc tiếp nhận không thể dùng thuốc hay
phẫu thuật để điều trị.
24. 16
1.3.1.3. Nghe kém hỗn hợp
Đây là loại nghe kém (điếc) do sự kết hợp cả 2 loại nghe kém trên. Nghe
kém hỗn hợp có thể xảy ra ở một bên tai hoặc cả hai bên tai.
1.3.2. Mức độ nghe kém
Có nhiều cách phân loại nghe kém khác nhau tùy thuộc vào từng quốc gia.
Hiệp hội Phát âm - Ngôn ngữ - Thính học Mỹ (ASHA) sử dụng cách phân loại
nghe kém như sau:
Bảng 1.1: Mức độ nghe kém theo ASHA [60]
Mức độ nghe kém Ngưỡng nghe dB
nghe bình thường - 10 - 15 dB
nhẹ 16 - 25 dB
trung bình 26 - 40 dB
nặng vừa 41 - 55 dB
nặng 56 - 70 dB
rất nặng 71 - 90 dB
điếc sâu (đặc) >91 dB
Trong khi đó TCYTTG đã đưa ra các mức độ của nghe kém và mô tả các loại
nghe kém như sau:
Bảng 1.2: Mức độ nghe kém theo Tổ chức Y tế thế giới [62]
Mức độ nghe
kém
Cường độ ở
tai nghe tốt
hơn (dB)
Mô tả
0
(không nghe kém)
≤ 25 Không hoặc hầu như không có vấn đề
về nghe. Có thể nghe các tiếng thì thầm
1
(nghe kém nhẹ)
26 - 40 Có thể nghe và nhắc lại các lời nói với
âm thanh vừa phải trong khoảng cách
1m
25. 17
2
(nghe kém vừa)
41-60 Có thể nghe và nhắc lại lời nói với âm
thanh lên giọng trong khoảng cách 1m
3
(nghe kém nặng)
61-80 Có thể nghe một vài lời nói khi hét vào
bên tai nghe tốt hơn
4
(nghe kém rất
nặng, điếc)
≥ 81 Không thể nghe và hiểu ngay cả khi hét
vào tai
Ở Việt Nam, các nghiên cứu gần đây sử dụng cách phân loại mức độ nghe
kém khác so với cách phân loại trên.
Bảng 1.3: Phân loại nghe kém ở trẻ sơ sinh ở một số nghiên cứu ở Việt Nam[12]
Mức độ điếc Ngưỡng nghe dB
nhẹ 20- 40 dB
trung bình 40 - 60 dB
nặng 60 – 80 dB
điếc sâu >80 dB
Hiện nay, tại bệnh viện Nhi TƯ và nhiều nước trong khu vực đã và đang
sử dụng bảng phân loại mức độ nghe kém theo khuyến cáo tại hội nghị Tai Mũi
Họng Châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại Seoul Hàn Quốc năm 2012.
Bảng 1.4: Phân loại mức độ nghe kém đang sử dụng tại bệnh viện Nhi TƯ
Cường độ (dB) Phân loại
0-20 dB Mức nghe bình thường
21-40 dB Nghe kém nhẹ
41-70 dB Nghe kém trung bình – nặng
≥71 dB Nghe kém rất nặng
26. 18
1.4.Tình hình nghe kém
1.4.1. Tình hình nghe kém trên thế giới
1.4.1.1 Tỷ lệ nghe kém
Theo ước tính của TCYTTG có 360 triệu người trên toàn thế giới bị nghe
kém (≥40dB đối với người lớn≥15 tuổi, và ≥31dB đối với trẻ <15 tuổi). Tuy
nhiên 91,0% các trường hợp nghe kém là ở người lớn, nghe kém ở trẻ em dưới
15 tuổi chỉ chiếm 9,0% trong tổng số nghe kém[128]. Các nghiên cứu cũng chỉ
ra nam giới trong độ tuổi >15 tuổi có tỷ lệ nghe kém cao hơn nữ giới trong cùng
độ tuổi, lần lượt là 12,2% và 9,8% [107]. Các nước có thu nhập thấp và trung
bình thuộc khu vực Nam Á và Châu Á Thái Bình Dương có tỷ lệ nghe kém cao
hơn so với các quốc gia có thu nhập cao [107, 129].
TCYTTG cũng cho thấy có khoảng 15% số người ở tất cả các lứa tuổi bị
nghe kém trên toàn thế giới.Tỷ lệ nghe kém tỷ lệ thuận với độ tuổi, tuổi càng
cao tỷ lệ nghe kém càng lớn. Trong nhóm tuổi 0-14, ước tính có 1,7% trẻ bị
nghe kém, tuy nhiên ở nhóm 15-64 tuổi, tỷ lệ nghe kém cao hơn 4 lần ở nhóm
tuổi trẻ em. Người cao tuổi (≥65 tuổi) là đối tượng bị nghe kém nhiều nhất, có
tới 1/3 số người trong nhóm tuổi này được phân loại là nghe kém [127].
1.4.1.2 Tỷ lệ và mức độ nghe kém ở trẻ em dưới 15 tuổi trên thế giới
TCYTTG cũng ước tính rằng có 1,7% trẻ dưới 15 tuổi bị nghe kém ở các
mức độ khác nhau [106, 127], tương đương với 32 triệu trẻ em trên toàn thế giới
[128]. Nam Á là khu vực có trẻ bị nghe kém cao nhất thế giới (2,4%), tiếp theo
đó là khu vực Châu Á Thái Bình Dương, chiếm khoảng 2,0% trẻ dưới 15 tuổi bị
nghe kém. Các nước thu nhập cao có tỷ lệ nghe kém thấp nhất [107] chỉ với
0,4% trẻ bị nghe kém. Nếu giả thuyết rằng tỷ lệ nghe kém theo từng nhóm tuổi
không thay đổi, tỷ lệ nghe kém (≥35dB) trên toàn thế giới tăng lên từ 6,9% (5,4-
9,8) năm 1990 tới 8,3% (6,6-11,1) năm 2008 [106]. Do tuổi thọ con người ngày
càng tăng [113], tỷ lệ nghe kém sẽ có xu hướng tăng lên, trước hết do sự thay
27. 19
đổi về cấu trúc dân số. Xu hướng này cũng có thể sẽ dừng lại do việc dự phòng
nghe kém và các biện pháp can thiệp nghe kém đang từng ngày phát triển trên
toàn thế giới [106].
Các nghiên cứu tổng quan trên toàn thế giới cho biết, nghe kém ở mức độ
nghẹ (20-34dB) là mức độ phổ biến nhất ở trẻ em dưới 15 tuổi, chiếm 53%
trong tổng số các mức độ nghe kém, tiếp theo đó là nghe kém ở mức độ trung
bình (35-49dB), chỉ chiếm 9,1%. Các mức độ nghe kém nặng hơn chiếm tỷ lệ
thấp (dưới 2%) trong các mức độ nghe kém [106].
Các nghiên cứu tổng quan trên toàn thế giới cho thấy, nghe kém ở mức độ
nhẹ (20-34dB) là mức độ nghe kém phổ biến nhất ở trẻ em dưới 15 tuổi. Trong
tổng số hơn 1,7 tỷ trẻ em trên thế giới (số liệu năm 2008), có tới 53/1000 trẻ bị
nghe kém mức độ nhẹ. Nghe kém ở mức độ trung bình (35-49dB) là mức độ
nghe kém phổ biến thứ 2, chỉ sau nghe kém nhẹ, chỉ chiếm 9,1/1000 trẻ dưới 15
tuổi. Các mức độ nghe kém nặng vừa, nặng, rất nặng và điếc chiếm tỷ lệ thấp từ
2/1000 đến 0,1/1000 trẻ. Khu vực Nam Á là khu vực có tỷ lệ trẻ nghe kém ở
mức độ nhẹ và vừa cao nhất trong số các khu vực trên thế giới, lần lượt là
69,3/1000 và 12,0/1000 trẻ. Khu vực Châu Á Thái Bình Dương có tỷ lệ nghe
kém mức độ nhẹ và vừa đứng thứ 2, chiếm 60,1/1000 trẻ bị nghe kém mức độ
nhẹ và 10,2/1000 trẻ bị nghe kém mức độ trung bình [106].
1.4.1.3 Tình hình nghe kém ở trẻ dưới 6 tuổi
Cho đến nay có rất ít các nghiên cứu trên thế giới nghiên cứu tỷ lệ và các
đặc điểm của nghe kém ở lứa tuổi mẫu giáo từ 2 tuổi đến 5 tuổi. Tỷ lệ nghe kém
ở nhóm trẻ này là khác nhau dựa vào nhiều cách phân loại và các nghiệm pháp
sàng lọc, chẩn đoán nghe kém khác nhau.
Một nghiên cứu thuần tập ở Atlanta, Mỹ ở trẻ từ 3-10 tuổi cho thấy tỷ lệ trẻ
bị nghe kém nặng tăng dần theo độ tuổi, từ 0,67/1000 trẻ 3 tuổi đến 1,38/1000 ở
trẻ 10 tuổi. Nghiên cứu cũng cho thấy nghe kém mức độ vừa là mức độ chủ yếu
28. 20
trong các mức độ nghe kém (46%) [115]. Tương tự như vậy, nghiên cứu ở Thụy
Điển trên 27.425 trẻ mẫu giáo cho thấy chỉ có 4,2/1000 bị nghe kém [110].
Ở các nước Châu Á tỷ lệ nghe kém ở trẻ mẫu giáo cao hơn nhiều so với
các quốc gia phát triển. Tại Thượng Hải, Trung Quốc, chương tình sàng lọc
nghe kém bằng nghiệm pháp đo âm ốc tai ở ở những trẻ trước đây đã được phân
loại không bị nghe kém trong sàng lọc sơ sinh cho thấy trong số 21,427 trẻ mẫu
giáo có 445 trẻ bị phân loại nghe kém, chiếm 2,08% [84]. Tương tự như vậy,
sàng lọc nghe kém tại tỉnh Hồ Bắc Trung Quốc ở những trẻ trước đây không bị
nghe kém qua sàng lọc sơ sinh cho thấy tỷ lệ nghe kém ở trẻ mẫu giáo tại tỉnh
này là 1,89% [65]. Như vậy nếu không được sàng lọc nghe kém khi sinh, tỷ lệ
nghe kém ở trẻ lứa tuổi mẫu giáo sẽ còn cao hơn con số này.
Nhìn chung, tỷ lệ nghe kém vĩnh viễn bao gồm cả nghe kém mắc phải,
bẩm sinh và diễn tiến ở trẻ sơ sinh trong những nghiên cứu ở những năm 1980
và 1990s từ 0,1% - 0,2%. Tuy nhiên nghiên cứu gần đây cho thấy nghe kém có
thể ảnh hưởng tới từ 1 đến 6/1000 trẻ sơ sinh [76].
Nghiên cứu ở Hà Lan trên 5282 trẻ sơ sinh bằng nghiệm pháp đo âm ốc tai
cho thấy 4,54% trẻ sơ sinh bị điếc tiếp nhận, trong đó 0,76% là điếc dẫn truyền
[57].Trong Hội nghị quốc tế về sàng lọc thính lực trẻ sơ sinh ở Ý (2002-2003)
một số tác giả trên thế giới đã công bố tỷ lệ giảm thính lực ở trẻ sơ sinh là 3% ở
CuBa và Nam Mỹ, 0,3% ở Canada, Mỹ, Pháp, Đức và Anh. Một số tác giả cũng
cung cấp thông tin về nghe kém ở trẻ sơ sinh như 1/50 trẻ nhỏ bị can thiệp hồi
sức cấp cứu có nguy cơ bị giảm thính lực, 50% trẻ giảm thính lực không có yếu
tố nguy cơ, hầu hết trẻ giảm thính lực mức độ nhẹ và vừa, 96% trẻ giảm thính
lực có cha mẹ không bị giảm thính lực [53].
Tại Mỹ, bắt đầu từ cuối thập kỉ 70 của thế kỷ XX chương trình sàng lọc
giảm thính lực trẻ sơ sinh đã được triển khai bằng nhiều nghiệm pháp khác
nhau. Sau nhiều năm, các nhà nghiên cứu của Mỹ đi đến kết luận đo âm ốc tai
kích thích là một trong những biện pháp sàng lọc có độ nhạy cao nhằm phát
29. 21
hiện sớm giảm thính lực ở trẻ sơ sinh. Kết quả ở Mỹ cho thấy năm 1990 khiếm
thính trẻ em được phát hiện ở lứa tuổi 24 – 30 tháng. Vì vây, năm 1993 Viện
sức khỏe quốc gia Mỹ đặt chiến lược đến năm 2000 không chỉ sàng lọc giảm
thính lực cho trẻ sơ sinh có nguy cơ cao mà tất cả trẻ sơ sinh phải được sàng lọc
giảm thính lực trước khi ra khỏi nhà hộ sinh và tất cả trẻ có nghi ngờ giảm thính
lực sẽ được tiến hành can thiệp sớm phục hồi chức năng. Năm 1994, Ủy ban
quốc gia về trẻ khiếm thính Mỹ đặt kế hoạch tất cả trẻ giảm thính lực phải được
chẩn đoán xác định khi 3 tháng tuổi và can thiệp trước 6 tháng tuổi [50].
Chương trình sàng lọc ở Mỹ cũng cho biết ước tính mỗi ngày có 33 trẻ em bị
điếc bẩm sinh ra đời, trong đó gần 50% không được phát hiện trong 2 năm đầu
[50].
Nghiên cứu năm 2002 ở Jerusalem cho thấy trong số 8.982 trẻ sơ sinh
được đo âm phát ốc tai kích thích trước khi xuất viện có 6,5% có kết quả đo
OAE sàng lọc âm tính, trong đó 4,2% bị nghe kém 1 tai và 2,3% bị nghe kém cả
2 tai. Nghiên cứu cũng cho thấy kỹ thuật đo âm ốc tai (OAE) sàng lọc giảm
thính lực ở trẻ sơ sinh là khả thi và có thể phát hiện giảm thính lực ở trẻ nhỏ dễ
dàng hơn trước [75].Ở Singapore, sàng lọc giảm thính lực ở trẻ sơ sinh bằng đo
âm ốc tai kích thích được bắt đầu từ năm 1999. Chương trình đã ước tính tỷ lệ
trẻ sơ sinh bị giảm thính lực ở mức độ nặng và rất nặng là 1/1000 trẻ sơ sinh và
khoảng 5/1000 trẻ sơ sinh bị nghe kém ở các mức độ nhẹ hơn. Nghe kém ở mức
độ nhẹ và vừa và do di truyền là những nghe kém thường gặp nhất ở trẻ sơ sinh
ở quốc gia này [83].
1.4.2. Tình hình nghe kém ở Việt Nam
Ở Việt Nam các nghiên cứu về giảm thính lực, nghe kém chưa thực sự
được quan tâm. Trong những năm gần đây có một vài công trình nghiên cứu
đánh giá và tình hình tàn tật ở cộng đồng và giảm thính lực ở trẻ em. Tuy nhiên,
các nghiên cứu này chỉ tiến hành với những nghiệm pháp và công cụ thu thập
thông tin trên một quần thể nghiên cứu nhỏ.
30. 22
Năm 1996, một nghiên cứu đánh giá về tình hình tàn tật tại các tỉnh miền
núi phía Bắc cho thấy tỷ lệ gặp khó khăn về nghe nói ở tất cả các lứa tuổi chiếm
22,7%, ở Thanh Hóa, tỷ lệ này là 18,5% [22]. Theo ước tính của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội, tính đến năm 2003 cả nước 662.000 trẻ từ 0-18 tuổi bị
khuyết tật, chiếm 2,4%. Trong đó, rối loạn thần kinh và khiếm thính là loại
khuyết tật phổ biến thứ hai, chiếm 17%, sau khuyết tật vận động (29%) [7].
Nghiên cứu “Hoạt động phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng tại Việt
Nam trong 17 năm qua” [5], [15] cho thấy tỉ lệ trẻ có khó khăn về nghe nói
chiếm 17,6% tổng số người tàn tật. Kết quả chương trình thống kê trẻ em tàn tật
ở bệnh viện Đà Nẵng từ năm 1990 đến 1997 cho thấy 14/1.313 (1,07%) trẻ có
khó khăn về nghe/nói. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ dùng các phương tiện thô
sơ như chuông tự tạo và đánh giá sức nghe bằng chủ quan của người đo [34].
Năm 2001, tác giả Lê Thị Lan và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu phản ứng
thính giác trên 900 trẻ sơ sinh có nguy cơ cao tại bệnh viện Bảo vệ bà mẹ và trẻ
em bằng chuông tự tạo. Kết quả cho thấy tỷ lệ không đáp ứng với âm thanh ở trẻ
sơ sinh có nguy cơ cao là 4,4% [21]. Tương tự như đánh giá ở Đà Nẵng, trong
nghiên cứu này, tác giả chỉ dùng những kỹ thuật thô sơ trong đo lường phản ứng
thính giác ở trẻ, do đó chỉ cho kết quả là “Có” hay “Không” có phản ứng thính
giác. Do vậy các kết quả có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều sai số khác nhau trong
quá trình thu thập thông tin.
Phạm Thị Cơi và cộng sự đã xác định vai trò của âm phát ốc tai kích thích
trong đánh giá thính giác ở 823 trẻ dưới 5 tuổi được chọn ngẫu nhiên tại Bắc
Ninh, Thái Nguyên và Phú Thọ, kết quả cho thấy 4,87% cho kết quả nghi ngờ
giảm thính lực cần phải kiểm tra lại. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này cũng
không cho biết các mức độ (độ nặng, nhẹ) nghe kém ở nhóm đối tượng nghiên
cứu này [9]. Gần đây, một nghiên cứu sàng lọc nghe kém ở trẻ sơ sinh đã được
tiến hành với 12.202 trẻ sơ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội bằng nghiệm
pháp đo âm ốc tai cho thấy, có tới 3,4% trẻ sơ sinh có nghi ngờ bị giảm thính
31. 23
lực. Những can thiệp sớm như huấn luyện cho gia đình kỹ năng giao tiếp sớm
cũng đã được tiến hành cho các trẻ nghi ngờ giảm thính lực [37]. Nghiên cứu về
giảm thính lực cũng đã được thực hiện đối với những trẻ có nguy cơ cao bị nghe
kém. Năm 2011, tác giả Lê Thị Thu Hà đã tiến hành sàng lọc nghe kém ở 305
trẻ có nguy cơ cao (sinh non, vàng da, nhẹ cân…) được điều trị tại Khoa điều trị
tích cực sơ sinh tại bệnh viện Nhi Trung ương bằng nghiệm pháp đo âm ốc tai
kính thích. Kết quả cho thấy có tới 21% trẻ có nghi ngờ bị giảm thính lực, trong
đó chủ yếu là bị nghe kém cả hai tai, chiếm 15,4% [12]. Một nghiên cứu khác
sàng lọc sơ sinh bằng nghiệm pháp đo âm ốc tai kích thích được tiến hành với
6.571 trẻ sơ sinh thuộc 66 xã ở tỉnh Thái Bình cho thấy có 0,24% trẻ sơ sinh
giảm thính lực [31].
1.5. Các yếu tố nguy cơ của nghe kém ở trẻ
1.5.1. Các yếu tố bẩm sinh
1.5.1.1 Yếu tố liên quan đến di truyền
Khoảng 50% tất cả các trường hợp nghe kém bẩm sinh là do di truyền.
Trong số đó, khoảng 70% nhiếm sắc thể (NST) thường dạng trội và 1 - 2% di
truyền qua NST giới tính X. Nghe kém nằm trong hội chứng chiếm 30% tổng số
điếc di truyền. Toriello, HV (2004) và cộng sự đã mô tả hơn 400 hội chứng di
truyền có nghe kém và được chia ra làm di truyền NST thường trội và lặn và
NST giới tính X [108].
Một số nghiên cứu cho thấy những gia đình có bố hoặc mẹ bị nghe kém thì
những đứa con của họ có khả năng bị nghe kém cao hơn so với những trẻ khác.
Nghiên cứu thuần tập ở Úc từ năm 2004 đến năm 2009 trên 2.107 trẻ em cho
thấy những trẻ có tiền sử gia đình cónguy cơ bị nghe kém cao gần gấp 2 lần
những trẻ không bị nghe kém (OR: 1,92, 95%CI: 1,04-3,56) [56]. Nghiên cứu
phân tích các nguy cơ của nghe kém tại Mỹ gần đây cũng cho thấy trong số
32. 24
những trẻ bị nghe kém nặng thì yếu tố tiền sử gia đình bị nghe kém là yếu tố
phổ biến nhất ở các trẻ này [73].
1.5.1.2 Yếu tố nguy cơ trong quá trình mang thai
1.5.1.2.1 Nhiễm khuẩn trong quá trình mang thai
Bà mẹ bị một số bệnh nhiễm trùng như Rubella, giang mai trong quá trình
mang thai có thể là nguyên nhân gây nghe kém hoặc điếc ở những đứa trẻ do họ
sinh ra [128]. Nghiên cứu bệnh chứng ở Băngladesh cho thấy 74% trẻ em bị
nghe kém có kháng thể rubella (IgG), trong khi đó chỉ có 18% trẻ không bị nghe
kém có kháng thể này. Nghiên cứu cũng cho thấy 67% mẹ của những trẻ bị
nghe kém có kháng thể này, trong khi đó chỉ có 14% các bà mẹ của trẻ nghe
bình thường có IgG. Như vậy có mối tương quan giữa bị Rubella với nghe kém
ở trẻ em ở nước này [96]. Kết quả nghiên cứu bệnh chứng ở Đan Mạch (1980)
với trẻ từ 0-4 tuổi bị nghe kém tiếp nhận bẩm sinh đã tìm ra 60% trẻ nghe kém
có kháng thể rubella trong máu, trong khi đó ở nhóm chứng chỉ có 23,0%.
Nghiên cứu đã cho thấy nhiễm rubella trong quá trình mang thai đóng vai trò
quan trọng trong việc gây nghe kém ở trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh [93].
1.5.1.2.2 Dùng thuốc trong quá trình mang thai
Sử dụng một số loại thuốc gây ngộ độc như nhóm aminoglycosides,
cytotoxic, thuốc điều trị sốt rét và thuốc lợi tiểu trong quá trình mang thai có
nguy cơ gây nghe kém bẩm sinh [128].
1.5.1.3 Yếu tố nguy cơ trong khi sinh
1.5.1.3.1 Đẻ non, cân nặng sơ sinh thấp
Mối liên quan giữa trẻ sơ sinh đẻ non, cân nặng thấp lúc sinh (<1500g) và
giảm thính lực đã được nêu ra trong nhiều nghiên cứu trên thế giới. Tuy nhiên
cơ chế thực chất của mối liên quan này vẫn còn chưa được hiểu rõ. Mặc dù chỉ
riêng yếu tố đẻ non, cân nặng thấp không ảnh hưởng nghiêm trọng đến thính lực
33. 25
nhưng trẻ sơ sinh có cân nặng thấp thường có kèm theo nhiều yếu tố nguy cơ
khác kết hợp (như vàng da tăng Bilirubin tự do, suy hô hấp cần can thiệp thở
máy, thở oxy, xuất huyết trong não thất, nhiễm trùng huyết) do đó làm tăng khả
năng nghe kém ở những trẻ này.
Nghiên cứu thuần tập ở Nauy từ 1967 đến 1993 với 1.548.429 trẻ sơ sinh
cho thấy tỷ lệ nghe kém là 11/10000 trẻ em. Tỷ lệ này giảm từ 60/10000 trong
nhóm trẻ em có cân nặng sơ sinh <1500g xuống còn 6/10000 ở những trẻ có cân
nặng >4499g. Nghiên cứu cũng cho thấy cân nặng khi sinh chính là yếu tố bảo
vệ của nghe kém ở trẻ sơ sinh. So với nhóm trẻ sinh ra có cân nặng từ 3000g-
3499g, trẻ sinh ra có cân nặng <1500 có nguy cơ bị nghe kém cao hơn 7,55 lần
(95%CI: 4,81-11,87). Những trẻ sinh ra có cân nặng cao từ 4.499 g trở lên ít có
nguy cơ bị nghe kém gấp 2 lần so với nhóm trẻ sinh ra có cân nặng từ 3000g-
3499g [91]. Nghiên cứu thuần tập trong 10 năm những trẻ từ 3-10 tuổi tại Mỹ
cho thấy tỷ lệ nghe kém tăng lên tỷ lệ nghịch với cân nặng sơ sinh ở trẻ. Tỷ lệ
nghe kém càng cao ở những trẻ có cân nặng càng thấp. Nghiên cứu cũng đưa ra
tiêu chuẩn trong sàng lọc nghe kém ở trẻ em có cân nặng so sinh theo nhóm
2500g-29999g và 15000g-2499g [114].
Tương tự với các nghiên cứu dịch tễ học đã đề cập ở trên, nhiều nghiên
cứu khác cũng đã tìm ra mối liên hệ giữa nghe kém và cân nặng khi sinh. [57],
[119].Nghiên cứu ở nước ta trong những năm gần đây cũng cho thấy nhóm trẻ
đẻ non có nguy cơ bị nghe kém cao hơn những nhóm trẻ sinh đủ tháng. Nghiên
cứu ở Bệnh viện phụ sản Trung ương cho thấy những trẻ đẻ non có nguy cơ
nghe kém cao gấp 9,71 lần so với nhóm trẻ sinh đủ tháng [37]. Tuy nhiên
nghiên cứu ở bệnh viện Nhi Trung ương trên đối tượng sinh thiếu tháng không
tìm thấy mối liên hệ nào giữa nghe kém và yếu tố nguy cơ này [12].
1.5.1.3.2 Thiếu Oxy
Tình trạng thiếu oxy có liên quan chặt chẽ với giảm thính lực. Chức năng
của ốc tai bình thường khi có đủ oxy và tình trạng tưới máu. Những trẻ sơ sinh
34. 26
bị thiếu oxy hay ngạt các tế bào hạch ốc tai sẽ bị ảnh hưởng trước tiên. Thiếu
oxy nặng hơn sẽ gây phá hủy ốc tai, đặc biệt là các tế bào lông ngoài và lớp vân
mạch máu. Tuy nhiên cũng không có ngưỡng xác định về mức độ thiếu oxy gây
ảnh hưởng đến thính lực. Hơn nữa những trẻ sơ sinh có tình trạng suy hô hấp
thường được thở máy và/hoặc có tình trạng kiềm hóa càng làm giảm oxy hóa và
tưới máu đến ốc tai và đường dẫn truyền thần kinh thính giác dẫn đến nghe
kém.
Nghiên cứu ở Mỹ cho thấy trong số 1.279 trẻ được điều trị tích cực có
3,1% trẻ bị nghe kém vĩnh viễn và 1,9% trẻ bị nghe kém nặng/rất nặng. Can
thiệp thở Oxy lâu là yếu tố nguy cơ quan trọng gây nghe kém ở trẻ phải điều trị
tích cực, OR: 4,61 (95%CI: 1.98-10.71) [97]. Một nghiên cứu ở nước ta năm
2011 cho thấy thở Oxy hơn 7 ngày là một yếu tố nguy cơ của nghe kém ở
những trẻ có nguy cơ cao điều trị tại Khoa điều trị tích cực của Bệnh viện Nhi
Trung ương [12].
1.5.1.3.3 Vàng da sau sinh
Tăng Bilirubin tự do có thể gây tổn thương chọn lọc nhân thần kinh thính
giác thân não và cũng có thể phá hủy dây thần kinh thính giác và tế bào hạch ốc
tai do tác động làm ứ trệ canxi nội bào noron thần kinh. Cơ quan Corti và đường
dẫn truyền thần kinh thính giác qua đồi thị -vỏ não thường không bị ảnh hưởng.
Trên lâm sàng thường gặp là giảm thính lực sau ốc tai. Trong trường hợp này đo
OAE kết quả có thể bình thường nhưng AABR bất thường. Vàng da nặng trong
giai đoạn trẻ sơ sinh có thể gây tổn thương thần kinh nghe, qua đó gây nghe
kém ở trẻ [128]. Qua đo âm ốc tai ở 128 trẻ bị vàng da trong giai đoạn sơ sinh ở
Malaysia cho thấy 22% trẻ bị nghe kém. Phân tích mô hình hồi quy logistic cho
thấy vàng da là yếu tố có liên quan tới nghe kém ở nhóm trẻ này [58].
35. 27
1.5.2. Các nguyên nhân mắc phải
1.5.2.1 Trẻ bị nhiễm khuẩn
1.5.2.1.1 Viêm màng não
Viêm màng não là một yếu tố quan trọng gây nghe kém ở trẻ em [128]. Nó
cũng là nguyên nhân thường gặp nhất gây nghe kém tiếp nhận mắc phải [71].
Có khoảng 10% trẻ em bị nghe kém ở các mức độ khác nhau sau khi bị VMN.
Nghe kém liên quan tới viêm màng não là một cơ chế phức tạp, trong suốt quá
trình viêm đã gây phù não, màng não, làm giảm oxy tới các tế bào thần kinh. Từ
đó gây tổn thương không hồi phục của các tế bào thần kinh. Trẻ em bị VMNM
có nguy cơ bị điếc cao nhất. Trẻ bị viêm màng não mủ có thể bị điếc một vài
ngày sau khi bị bệnh [71].
Nghiên cứu thuần tập với 432 trẻ bị VMN ở Anh cho thấy có 59 trẻ
(13,7%) bị nghe kém, trong đó 46 trẻ (78%) bị nghe kém tiếp nhận vĩnh viễn, số
trẻ còn lại bị điếc tiếp nhận hoặc điếc không ổn định (fluctuating hearing loss)
[131].
1.5.2.1.2 Viêm tai mạn tính
Các xương con trong tai giữa có tác dụng dẫn truyền và làm tăng năng
lượng sóng âm từ tai ngoài vào tai trong. Khi bị VTG, dịch hoặc mủ bị ứ đọng
trong hòm nhĩ làm cản trở sự rung động của chuỗi xương con, làm cho năng
lượng sóng âm bị hao hụt do đó sức nghe bị giảm. Trong trường hợp này gọi là
nghe kém dẫn truyền và thường là mức độ nhẹ và vừa. Nói chung điếc do VTG
nếu được điều trị đúng, kịp thời thì sẽ hồi phục hoàn toàn. Ngược lại nếu không
được điều trị có thể chuyển thành điếc hỗn hợp hoặc điếc tiếp nhận và không
thể hồi phục.
TCYTTG chỉ ra rằng, khoảng 90% ca mắc viêm tai tập trung ở các nước
trong khu vực Đông Nam Á, Tây Thái Bình Dương và khu vực Châu Phi [129].
Bệnh này có thể gây ra các viêm tai chảy mủ cho khoảng từ 65 đến 330 triệu
36. 28
người trên toàn thế giới, do đó góp phần gây ra nghe kém trên toàn cầu. Các
nghiên cứu dịch tễ học cho thấy viêm tai mạn tính (VTMT) là nguyên nhân
quan trọng gây nghe kém và điếc ở trẻ em.
1.5.2.2 Tiền sử sử dụng thuốc ở trẻ em
1.5.2.2.1 Thuốc kháng sinh
Các loại thuốc kháng sinh là lựa chọn tốt trong các điều trị nhiễm khuẩn,
tuy nhiên chúng có thể gây ảnh hưởng đến bộ phận ốc tai và tiền đình. Các
kháng sinh dễ gây tổn hại đến sức nghe là Streptomycin, gentamicin và
tobramycin. Những chất này có thể gây nghe kém do gây chết tế bào lông.
Chúng làm gián đoạn sự dẫn truyền các tín hiệu điện của các xinap thần kinh
hoặc phá hủy các tế bào thần kinh và tế bào ốc tai [120]. Các nghiên cứu gần
đây đang chú trọng việc giảm thiểu tác hại của nhóm thuốc này đối với các tế
bào lông [70].
Nhìn chung độc tính của thuốc thường liên quan đến thời gian điều trị,
nồng độ thuốc tối đa và tối thiểu của thuốc trong máu, đã có tiền sử dùng kháng
sinh Aminoglycosid, phối hợp thuốc cùng với Vancomycin hoặc cùng với thời
gian đang dùng thuốc lợi tiểu. Do đó nồng độ thuốc tối đa và tối thiểu trong
máu thường được theo dõi trong quá trình điều trị. Sử dụng nghiệm pháp kiểm
tra thính lực hàng loạt là biện pháp rất tốt để theo dõi và phát hiện sớm độc tính
của thuốc. Năm 1994 Hiệp hội Ngôn ngữ - Thính học Mỹ đã đưa ra hướng dẫn
kiểm tra nghiệm pháp thính lực trước khi bắt đầu, trong 72 giờ đầu khi sử dụng
Aminoglycosid và sau đó là theo dõi hàng tuần. Tuy nhiên hướng dẫn này
không khả thi trong thực hành lâm sàng.
Một giải pháp là dùng Aminoglcosid liều duy nhất trong ngày, thuận tiện và chi
phí thấp hơn. Có hai nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng so sánh điều
trị Gentamycin liều một lần trong ngày và liều nhiều lần trong ngày cho trẻ sơ
sinh có nhiễm trùng thấy việc sử dụng một lần vẫn an toàn và hiệu quả. Tuy
37. 29
nhiên một số tác giả vẫn còn e ngại về độc tính của thuốc khi nồng độ đỉnh của
thuốc sẽ cao hơn.
Nghiên cứu ở Mỹ cho thấy nhiễm độc trong y khoa là yếu tố nguy cơ hàng
đầu gây nghe kém ở các trẻ sơ sinh có nguy cơ cao phải điều trị tích cực.
Nghiên cứu cho thấy 44,4% trẻ bị nghe kém có tiền sử sử dụng các loại thuốc
gây nhiễm độc [119].
1.5.2.3 Chấn thương
Các chấn thương vùng đầu và tai có thể gây ra nghe kém tạm thời hoặc
nghe kém vĩnh viễn. Các chấn thương vùng đầu có thể làm tổn thương não,
màng não thủng màng nhỉ và ảnh hưởng đến cấu trúc của tai trong, do đó có thể
dẫn đến nghe kém [44]. Tuy nhiên ảnh hưởng của nghe kém do chấn thương
vùng đầu thường được phát hiện muộn. Nghiên cứu thuần tập các bệnh nhân bị
chấn thương đầu do tai nạn xe máy ở Nam Phi cho thấy, trung bình sau 8,2 năm
mới có những đánh giá về nghe kém ở những đối tượng này [54].
1.5.2.4 Tiếng ồn
Tiếng ồn được mô tả như là một loại âm thanh không mong muốn mà có
thể ảnh hưởng có hại đến sức khỏe và cuộc sống con người. Về mặt vật lý học,
âm thanh dẫn truyền theo dạng sóng trong không khí hoặc môi trường cơ học
khác, với đặc trưng chính là cường độ và tần số [43].
Trước đây, viêm nhiễm (chảy mủ tai) là thủ phạm lớn nhất khiến trẻ nghe
kém ở trẻ. Tuy nhiên do tỷ lệ viêm nhiễm càng giảm, do đó, điếc do tiếng ồn
đang trở thành nguyên nhân chính gây ra nghe kém trên toàn thế giới [124]. Âm
thanh lớn hơn 85dB có thể gây ra điếc vĩnh viễn. Những âm thanh có cường độ
cao có thểảnh hưởng receptor tiếp nhận ở ốc tai và tiền đình và cung cấp máu
tới ốc tai. Do đó nếu tiếp xúc với tiếng ồn lớn trong thời gian dài những tác
động của nó tới khả năng nghe sẽ xảy ra. Nghe kém do nhiều các nguyên nhân
khác nhau và các yếu tố nguy cơ khác như kháng sinh nhóm aminoglycoside kết
38. 30
hợp và tương tác với tiếng ồn có thể gây ra nghe kém [49]. Tiếng ồn có cường
độ trên 115 dB được coi là nguy hiểm cho trẻ em vì có thể gây điếc, nghe kém
dù chỉ tiếp xúc 1 lần trong thời gian từ 3 đến 15 phút. Có thể gặp tiếng ồn loại
này ở các vũ trường lớn, khi ở gần các loa ca nhạc điện tử phát với công suất
cao, tiếng còi ô tô tải, chuông, chiêng. Âm thanh có cường độ trên 100dB gây
hại rõ rệt sau thời gian tiếp xúc vài phút đến vài chục phút trong một số ngày
(tùy theo lứa tuổi). Tiếng ồn này có thể gặp ở các nhà ga, khu phố buôn bán náo
nhiệt, tiếng vô tuyến, dàn nhạc gia đình mở ở mức cao. Ở trẻ em, tiếng ồn có
cường độ trên 80dB đã gây hại vì làm giấc ngủ không sâu, hoạt động hô hấp và
tiêu hóa dễ rối loạn, ảnh hưởng đến tư duy, học tập. Nếu phải sống thường
xuyên ở nơi ồn ào như vậy, trẻ nhỏ có thể sẽ bị nghe kém.
1.5.2.5 Các yếu tố khác
Một số yếu tố khác có thể gây nghe kém ở trẻ như nút ráy tai hoặc có dị vật
chèn vào tai. Những trường hợp này có thể gây nghe kém nhưng khi lấy hết dị
vật hoặc ráy tai thì triệu chứng nghe kém sẽ hết.
1.5.2.6 Nghe kém không rõ nguyên nhân
Nghe kém không rõ nguyên nhân chiếm một số lượng lớn trong tổng số
nghe kém. Ở Mỹ các báo cáo cho thấy có khoảng 54% các trường hợp nghe
kém không rõ nguyên nhân (2004-2005). Báo cáo năm 2006-2007 cho thấy có
tới 57% các trường hợp nghe kém và điếc không xác định được nguyên nhân
[55].
1.6. Các ảnh hưởng của nghe kém
Một trong những ảnh hưởng của nghe kém tới chức năng của con người đó
là khả năng giao tiếp với những người khác. Những trẻ bị nghe kém nặng và
điếc thường không phát triển ngôn ngữ, lời nói như những trẻ bình thường khác
[72]. Nghe kém và các bệnh về tai như viêm tai giữa còn gây ảnh hưởng nặng
nề tới khả năng học tập của trẻ [105]. Các nghiên cứu về nghe kém ở trẻ em tiểu
39. 31
học đã cho thấy có mối tương quan giữa nghe kém tới việc học kém ở những trẻ
em này [98].
Những người nghe kém thường không được tham gia, hòa nhập một cách
thoải mái vào các hoạt động xã hội. Đôi khi họ còn bị loại ra khỏi những hoạt
động cộng đồng do có những quan điểm nghe kém hoặc điếc là không thể làm
những việc như những người bình thường khác. Điều này có thể dẫn đến những
ảnh hưởng về mặt tâm lý cũng như xã hội cho những người bị vấn đề này.
1.7. Các biện pháp can thiệp nghe kém
Hiện nay có nhiều giải pháp can thiệp cho người bị nghe kém. Tùy theo
điều kiện thực tế của các đối tượng bị nghe kém, các giải pháp can thiệp nghe
kém phù hợp sẽ được áp dụng, bao gồm các giải pháp sau [47]:
- Thiết bị trợ thính
- Phục hồi ngôn ngữ
1.7.1. Thiết bị trợ thính
Các thiết bị trợ thính là những thiết bị có thể giúp những người bị nghe
kém thực hiện chức năng giao tiếp hàng ngày. Các thiết bị trợ thính có thể được
sử dụng hoặc không phải sử dụng với các thiết bị hoặc công nghệ hỗ trợ nghe
kém khác hoặc cấy điện cực ốc tai nhằm nâng cao khả năng nghe ở những
người bị nghe kém. Thiết bị trợ thính được chia thành hai loại chính là Máy
nghe và Điện cực ốc tai [47].
1.7.1.1 Máy nghe
Máy nghe là một thiết bị điện nhỏ đeo ở sau tai có tác dụng làm cho âm
thanh trở nên to hơn mà người điếc có thể nghe được và tham gia được các hoạt
động xã hội. Máy nghe có thể giúp họ nghe được cả trong môi trường im lặng
cũng như ồn ào.
40. 32
1.7.1.2 Điện cực ốc tai
Điện cực ốc tai là một điện cực (được cấy vào tai) nhằm khôi phục một
phần sức nghe cho người điếc. Phẫu thuật đưa điện cực vào tai trong, một phần
ở phía ngoài và được hoạt hóa. Không giống như máy nghe, nó không làm âm
thanh lớn hơn hay rõ hơn, thay vào đó nó thay thế cho các bộ phận thính học ở
tai trong đã bị phá hủy và kích thích thần kinh thính giác. Do đó người nghe
kém (điếc) có thể nhận biết được âm thanh [45].
1.7.2. Các phương pháp phục hồi ngôn ngữ
Có rất nhiều phương pháp phục hồi ngôn ngữ để giúp trẻ có thể giao tiếp
với mọi người và đi học được. Tuy nhiên có 5 phương pháp sau là những
phương pháp phục hồi ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi:
(1). Phương pháp nghe-nhìn miệng (Auditory-Oral)
(2). Phương pháp nghe-nói (Auditory-Verbal)
(3). Phương pháp dùng dấu (Bilingual-Biculture (sign language))
(4). Phương pháp lời nói dấu hiệu (Cued speech)
(5). Phương pháp giao tiếp tổng hợp (Total communication)
41. 33
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
- Trẻ em từ 2 tuổi đến 5 tuổi
- Các bà mẹ của trẻ đang học ở các trường mẫu giáo
2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn
Trẻ có trong danh sách quản lý tại các trường mẫu giáo và các bà mẹ của trẻ
đồng ý cho con tham gia vào nghiên cứu và trả lời phỏng vấn, ngoại trừ:
2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ
- Trẻ không đi học vào ngày khám sàng lọc.
- Mẹ của trẻ không đồng ý hoặc không tham gia trả lời phỏng vấn.
2.1.3 Quy định cách phân nhóm tuổi
Tính đến ngày sàng lọc nghe kém, những trẻ từ 24 tháng tuổi trở lên (đã qua
sinh nhật lần thứ 2) và đến dưới 72 tháng tuổi (chưa qua sinh nhật lần thứ 5)
được mời tham gia nghiên cứu.Ngày tiến hành sàng lọc nghe kém là thời điểm
phân loại các nhóm tuổi của trẻ tính, cụ thể như sau:
- Trẻ 2 tuổi: Từ 24 tháng đến dưới 36 tháng
- Trẻ 3 tuổi: Từ 36 tháng đến dưới 48 tháng
- Trẻ 4 tuổi: Từ 48 tháng đến dưới 60 tháng
- Trẻ 5 tuổi: Từ 60 tháng đến dưới 70 tháng
2.2 Địa điểm nghiên cứu
Các trường mẫu giáo tại các quận nội thành Hà Nội.
Tiêu chuẩn lựa chọn các trường
- Có trong danh sách quản lý của Sở Giáo dục Hà Nội.
42. 34
- Có phòng Y tế theo dõi và quản lý sức khỏe học sinh tại trường.
- Ban giám hiệu đồng ý, tạo điều kiện thực hiện nghiên cứu.
2.3 Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 6/2011 đến tháng 02/2012
2.4 Thiết kế nghiên cứu
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang (phục vụ cho mục tiêu 1)
- Nghiên cứu bệnh chứng (phục vụ cho mục tiêu 2)
2.5 Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
2.5.1 Cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả cắt ngang:
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu xác định tỷ lệ như sau:
=
(1 − )
Trong đó:
n: là cỡ mẫu tối thiểu
: Độ tin cậy ở ngưỡng 95%, α = 0,05, = 1,96
p: tỷ lệ nghe kém ước tính ở lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo, ước tính p = 0,015
[39].
d: độ sai lệnh ước tính, d = 0,003
Thay số vào ta có:
= 1,96
0,015(1 − 0,015)
0,003
= 6.306 ( ẻ)
Sau khi tính, làm tròn số, cộng thêm 10% số học sinh dự tính có thể bỏ cuộc thì
số trẻ cần có cần cho nghiên cứu là 7000 trẻ.
(thực tế nghiên cứu đã tiến hành trên 7.191 trẻ: Bảng 2.1)
Cách chọn mẫu:
Chọn ngẫu nhiên bằng phương pháp bốc thăm 5 quận trong số 10 quận
nội thành thành phố Hà Nội để đưa vào mẫu nghiên cứu.
43. 35
Theo tiêu chuẩn lựa chọn trường, tại mỗi quận chọn chủ đích từ 2 đến 3
trường mẫu giáo công lập.
Tại các trường được chọn, theo danh sách quản lý học sinh của tất cả các
lớp hiện có chọn số trẻ từ 2 đến 5 tuổi được mời vào nghiên cứu.
2.5.2. Cỡ mẫu cho nghiên cứu bệnh chứng
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu bệnh – chứng như sau:
=
(1 + ) + /
( ) (1 − )
Trong đó:
n: Cỡ mẫu tối thiểu
r: Tỷ số cỡ mẫu giữa 2 nhóm, trong nghiên cứu này thiết kế nghiên cứu
bệnh:chứng theo tỷ lệ 1:2, do đó r=2
β: Lực mẫu, lấy 80,0%, do đó Z=0,84
α = 0,05, do đó Zα/2 = 1,96
OR: Tỷ suất chênh mong muốn, lấy OR = 3
p: Tỷ lệ mắc viêm tai giữa mạn ở trẻ em, ước tính p = 4,0% [18]
Thay số vào ta có
=
(1 + 2) (0,84 + 1,96)
2( 3) 0,04(1 − 0,04)
= 762
Như vậy cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu này là 762 trẻ, trong đó nhóm bệnh
cần ít nhất 254 trẻ nghe kém, nhóm chứng cần ít nhất 508 trẻ không nghe kém.
Định nghĩa ca bệnh:
- Là những trẻ từ 2 tuổi đến 5 tuổi có kết quả đo OAE lần 1 âm tính trong
sàng lọc nghe kém ở cộng đồng (mô tả ở mục tiêu 1), và có kết quả OAE lần
2 âm tính và được xác định nghe kém qua đo ABR hoặc đơn âm tại phòng
cách âm chuẩn tại Trung tâm thính học của Bệnh viện Nhi Trung ương và
44. 36
- Có mẹ đẻ của trẻ trả lời phỏng vấn.
Định nghĩa ca chứng:
- Là những trẻ từ 2 tuổi đến 5 tuổi tại các trường mẫu giáo công lập nội thành
Hà Nội,
- Học cùng lớp với trẻ bị nghe kém,
- Được xác định không bị nghe kém trong đo âm ốc tai sàng lọc ( tức OAE
(+)) tại cộng đồng (mô tả ở mục tiêu 1) và
- Có mẹ đẻ của trẻ trả lời phỏng vấn.
Thực tế trong nghiên cứu này tất cả 314 trẻ được khẳng định nghe kém qua đo
ABR, hoặc đo đơn âm (nhóm bệnh) và 628 trẻ không nghe kém (nhóm chứng)
đã được mời tham gia nghiên cứu
2.6 Phương pháp thu thập số liệu
2.6.1 Thu thập số liệu phục vụ cho mục tiêu 1
Dựa trên danh sách các trường và số trẻ từ 2 đến 5 tuổi tham gia nghiên cứu
điều tra viên sẽ mang máy đo OAE đến các trường mẫu giáo đã được chọn và
tiến hành đo âm Ốc tai trẻ theo quy trình chuẩn (Phụ lục 1)
Bảng 2.1 : Danh sách các trường và số trẻ em từ 2 đến 5 tuổi tham gia sàng
lọc nghe kém
STT Trường Quận Số trẻ
1. Mầm non A
Ba Đình
938
2. Tuổi Thơ 586
3. Tuổi Hoa
Đống Đa
579
4. Sao Mai 592
5. An Dương Tây Hồ 792
45. 37
6. Phú Thượng 750
7. Thanh Xuân Bắc
Thanh Xuân
721
8. Thanh Xuân Nam 210
9. Khương Trung 521
10. Mai Động
Hoàng Mai
758
11. Tuổi Thơ 744
Tổng cộng 7.191
Khám và đo thính lực
Những trẻ có kết quả đo âm ốc tai OAE âm tính lần 1 (lần đo tại các
trường) sẽ được mời về Bệnh viện Nhi Trung ương để đo âm ốc tai kích
thích lần 2 (OAE lần 2) và tiến hành khám thính lực.
Hình 6. Đo OAE tại trường mầm non
46. 38
Những trẻ có kết quả đo âm ốc tai âm tính lần 2 tại phòng cách âm chuẩn sẽ
được đo thính lực nhằm xác định đặc điểm nghe kém bằng các phương pháp đo
thính lực như sau:
Các trẻ được khám thính lực và xác định tình trạng bệnh lý Tai Mũi
Họng, đo nhĩ lượng và phản xạ cơ bản đạp.
Đối với trẻ 2 tuổi, sử dụng phương pháp đo điện thính thân não (ABR)
hoặc ASSR theo quy trình đo ABR (Phụ lục 2)
Trẻ 3, 4, 5 tuổi sử dụng phương pháp đo đơn âm theo quy trình đo đơn
âm (Phụ lục 3)
Phỏng vấn
Phỏng vấn trực tiếp mẹ của trẻ tham gia nghiên cứu, sử dụng bộ câu hỏi đã
được thiết kế sẵn nhằm thu thập thông tin ở tất cả các trẻ được chọn vào nghiên
cứu.
2.6.2 Thu thập số liệu cho mục tiêu 2
Phỏng vấn trực tiếp mẹ đẻ trẻ sử dụng bệnh án mẫu đã được thiết kế sẵn nhằm
thu thập số liệu các yếu tố liên quan đến nghe kém ở trẻ em bao gồm: tiền sử
của mẹ trong khi mang thai, trong khi sinh, tiền sử bệnh của trẻ trong và sau khi
sinh.
2.7 Công cụ thu thập số liệu
Bộ câu hỏi được thiết kế sẵn (Phụ lục 4)
Máy đo OAE loại GSI, Audx của Mỹ
47. 39
Hình 7. Máy đo OAE loại Audx
Hình 8. Máy đo ABR, đơn âm loại GSI của Mỹ
48. 40
Tiêu chuẩn phân loại mức độ nghe kém
Hiện nay, tại bệnh viện Nhi TƯ và nhiều nước trong khu vực đã và đang
sử dụng bảng phân loại mức độ nghe kém theo khuyến cáo tại hội nghị Tai Mũi
Họng Châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại Seoul Hàn Quốc năm 2012.
Bảng 2.2: Phân loại mức độ nghe kém
Cường độ (dB) Phân loại
0-20 dB Mức nghe bình thường
21-40 dB Nghe kém nhẹ
41-70 dB Nghe kém trung bình – nặng
≥71 dB Nghe kém rất nặng
Bệnh án mẫu nghiên cứu được thiết kế sẵn (Phụ lục 5)
2.8 Các chỉ số và các biến số nghiên cứu
Các chỉ số nghiên cứu
Tỷ lệ (%) trẻ có kết quả đo âm Ốc tai âm tính (OAE (-)), kết quả đo âm Ốc tai
dương tính (OAE(+)).
Tỷ lệ (%) trẻ có kết quả đo âm Ốctai âm tính (OAE (-))theo vị trí tai.
Tỷ lệ (%) trẻ có kết quả đo âm Ốctai âm tính (OAE (-))phân bố theo tuổi,
giới, địa dư.
Tỷ lệ (%) tình trạng nhĩ lượng phải, trái ở trẻ có kết quả đo âm Ốc tai âm tính
(OAE (-)).
Tỷ lệ (%) phản xạ cơ bàn đạp phải, trái ở trẻ có kết quả đo âm Ốctai âm tính
(OAE (-)).
Tỷ lệ (%) các mức độ nghe kém của trẻ qua đo ABR, ASSR hoặc đơn âm.
Tỷ lệ (%) các hình thức nghe kém của trẻ.
49. 41
Tỷ lệ (%) ca bệnh và ca chứng phân bố theo tuổi và giới.
Tỷ lệ (%) ca bệnh và ca chứng phân bố theo đặc điểm tiền sử bị bệnh của mẹ
khi mang thai.
Tỷ lệ (%) ca bệnh và ca chứng phân bố theo đặc điểm tiền sử khi sinh của trẻ
và các can thiệp sau khi sinh.
Tỷ lệ (%) ca bệnh và ca chứng phân bố theo đặc điểm các can thiệp cho trẻ
sau khi sinh.
Tỷ lệ (%) ca bệnh và ca chứng phân bố theo tiền sử bị bệnh của trẻ sau sinh.
Các biến số nghiên cứu
Bảng 2.3: Định nghĩa các biến số nghiên cứu
STT Tên biến Loại biến Phương pháp thu
thập
I. Tiền sử thính giác trong
gia đình
1.1 Gia đình có người bị câm,
điếc
Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
II. Đặc điểm tiền sử bị bệnh trong thời kỳ mang thai trẻ
2.1. Bị cúm Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
2.2. Bị Rubella Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
2.3. Bị sởi Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
2.4. Bị sốt phát ban Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
2.5. Nhiễm độc thai nghén Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
50. 42
2.6. Bệnh khác Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
III. Đặc điểm tiền sử khi sinh và ngay sau sinh
3.1. Tuổi thai của trẻ Định danh Phỏng vấn trực tiếp
3.2. Hình thức sinh Định danh Phỏng vấn trực tiếp
3.3. Cân nặng của trẻ khi sinh Định danh Phỏng vấn trực tiếp
3.4. Trẻ phải thở Oxy Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
3.5. Vàng da bất thường sau khi
sinh
Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
IV. Tiền sử bị bệnh sau khi sinh của trẻ
4.1. Bị sởi Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
4.2. Bị ho gà Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
4.3. Bị bạch hầu Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
4.4. Bị quai bị Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
4.5. Bị sốt phát ban Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
4.6. Bị viêm não Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
4.7. Bị viêm màng não Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
4.8. Các bệnh khác Nhị phân Phỏng vấn trực tiếp
51. 43
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ nghiên cứu
Chọn Quận/trường và trẻ
tham gia nghiên cứu
Khám sàng lọc và đo âm ốc tai
lần 1 tại trường (7191 trẻ)
Trẻ (+) (6854 trẻ)
Trẻ (-) (337 trẻ)
Khám đo âm ốc tai
lần 2 tại Viện Nhi
Loại 23 trẻ
âm tính giả
Xác định đặc
điểm đối tượng
Đo ABR, ASR, Đơn
âm, Nội soi TMH
(314 trẻ)
Chọn ngẫu nhiên
628 trẻ làm nhóm
chứng
Phỏng vấn sâu 628
bà mẹ
Phỏng vấn sâu 314
bà mẹ tại Viện Nhi
Xác định các
yếu tố nguy cơ
Xác định tỷ lệ
nghe kém theo
tuổi, giới
Xác định đặc
điểm và mức độ
nghe kém
52. 44
2.9 Khắc phục sai số
Nghiên cứu được tiến hành tại cộng đồng, sàng lọc đối tượng với số lượng lớn,
do đó nhiều biện pháp sau đã được thực hiện nhằm khắc phục các sai số:
Người tiến hành đo âm Ốc tai cho trẻ, đo các test thính giác chuyên sâu là bác
sỹ (kỹ thuật viên) của Bệnh viện Nhi Trung ương đã được tập huấn và thực
hành về quy trình đo âm Ốc tai theo một quy trình thống nhất.
Máy đo OAE là máy đo cho độ chính xác cao và đều được hiệu chỉnh trước
mỗi lần đo.
Điều tra viên được tập huấn và thực hành phỏng vấn: Người phỏng vấn là các
bác sỹ, kỹ thuật viên của Trung tâm Thính học tại Bệnh viện Nhi Trung ương
đã được tập huấn kỹ về cách tiếp cận, cách phỏng vấn và thực hành phỏng
vấn theo một quy trình thống nhất.
Giảm bớt sai số nhớ lại thông qua việc hỏi kỹ tiền sử, sử dụng các dấu hiệu
bệnh bằng hình ảnh và đối chiếu với sổ theo dõi sức khỏe của mẹ và trẻ.
Các công cụ nghiên cứu bao gồm bộ câu hỏi tại cộng đồng và bệnh án mẫu
đều được các chuyên gia trong lĩnh vực TMH thiết kế rõ ràng, dễ hiểu, được
thử nghiệm và chỉnh sửa nhiều lần trước khi sử dụng trong thu thập số liệu
chính thức tại cộng đồng và tại Bệnh viện Nhi Trung ương.
2.10 Quản lý và xử lý số liệu
Xây dựng hệ thống nhập và quản lý số liệu. Số liệu được nhập 2 lần độc lập, sử
dụng phần mềm Epi data 3.0.
Số liệu định lượng được phân tích bằng phần mềm SPSS 18.0 bao gồm các
phân tích thống kê mô tả, phân tích hồi quy đơn biến (sử dụng trong nghiên cứu
bệnh-chứng). Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến cũng được phân tích nhằm tìm
ra mô hình các yếu tố liên quan.
53. 45
Kết quả nghiên cứu được trình bày dưới dạng các tỷ lệ (%), tỷ suất chênh (OR)
và tỷ suất chênh có hiệu chỉnh (adjusted OR) trong các phân tích đơn biến và đa
biến với khoảng tin cậy (CI): 95%. Kiểm định 2 test, Fisher’exact test được sử
dụng để xem xét sự khác biệt trong nhóm.
2.11 Đạo đức trong nghiên cứu
- Đề cương nghiên cứu được Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu của Viện Vệ
sinh dịch tễ Trung ương thông qua.
- Việc khám sàng lọc thực hiện trên địa bàn Hà Nội được sự đồng ý của Chi
cục dân số và Kế hoạch hóa gia đình Hà Nội, Sở Y tế Hà Nội và Bệnh viện
Nhi Trung ương.
- Nghiên cứu có sự đồng ý của cha mẹ, gia đình hoặc người giám hộ trẻ (Phụ
lục 8: Phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu).
- Các kết quả đều được giữ bí mật và chỉ phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu.
- Các trẻ có nghi ngờ nghe kém (thông qua khám sàng lọc ban đầu) sẽ được
tiếp tục thực hiện các test thính giác chuyên sâu tại Trung tâm Thính học –
Bệnh viện Nhi Trung ương. (được khám ưu tiên và miễn phí cho tất cả các
dịch vụ)
- Phương pháp đo OAE, ABR hoặc đơn âm không gây bệnh, không đau,
không thâm nhập nên không gây chảy máu, không lây bệnh và không gây
khó chịu cho trẻ.
- Các trẻ có xác định nghe kém sẽ được tư vấn cách chăm sóc, xử trí theo chế
độ khám chữa bệnh cho trẻ dưới 6 tuổi của Bộ Y tế.
2.12 Một số hạn chế và khu trú của nghiên cứu
Mặc dù nghiên cứu được triển khai tại các trường mẫu giáo thuộc nội
thành Hà Nội theo hình thức lựa chọn bốc thăm ngẫu nhiên, tuy nhiên nghiên
cứu chỉ thực hiện ở những trường mẫu giáo công lập mà không thực hiện ở
54. 46
những trường mẫu giáo dân lập, trường mẫu giáo tư thuộc nội thành Hà Nội.
Tuy nhiên theo Sở Giáo dục Hà Nội, hơn 90,0% trẻ trong độ tuổi mẫu giáo theo
học tại những trường mẫu giáo công lập này, do đó việc nghiên cứu chỉ triển
khai tại các trường mẫu giáo công lập có thể không ảnh hưởng gì tới kết quả
nghiên cứu. Bên cạnh đó, nghiên cứu chỉ thực hiện ở nội thành Hà Nội, nơi các
đặc điểm về nghe kém ở trẻ mẫu giáo có thể khác trẻ mẫu giáo ở các huyện
ngoại thành Hà Nội.
Phương pháp sàng lọc đo âm ốc tai kích thích là phương pháp phù hợp
trong sàng lọc nghe kém tại cộng đồng, tuy nhiên phương pháp này chỉ sàng lọc
nghe kém do tổn thương và ảnh hưởng từ ốc tai trở ra, do đó những trẻnghe kém
có nguyên nhân sau ốc tai vẫn không được phát hiện. Việc phát hiện loại nghe
kém này phải được thực hiện bằng các phương pháp chuyên sâu hơn như ABR,
đơn âm. Tuy nhiên, do vấn đề về nguồn lực như hậu cần, kinh phí và thời gian
trong sàng lọc nghe kém tại cộng đồng, việc sử dụng các phương pháp chuyên
sâu như ABR, đơn âm là khó khả thi. Phương pháp đo OAE có độ nhạy cao, do
đó sử dụng phương pháp này trong sàng lọc nghe kém cho trẻ mẫu giáo tại cộng
đồng vẫn là phương pháp phù hợp.
Do bản chất của nghiên cứu bệnh chứng là hồi cứu lại những yếu tố liên
quan tới nghe kém ở trẻ do đó trong nghiên cứu này, một số yếu tố liên quan
đến nghe kém như ảnh hưởng của tiếng ồn tới nghe kém, việc sử dụng một số
loại kháng sinh tới nghe kém chưa được nghiên cứu. Thực tế cho thấy việc
nghiên cứu tiếng ồn tới nghe kém ở trẻ em là rất phức tạp, khó có thể thực hiện
trong nghiên cứu này. Bên cạnh đó tìm hiểu tiền sử sử dụng một số nhóm kháng
sinh ở trẻ cũng gặp nhiều khó khăn và có thể cho kết quả không chính xác bởi vì
các bà mẹ sử dụng thuốc, biệt dược cho trẻ theo hướng dẫn, kê đơn của cán bộ y
tế chứ không tìm hiểu sâu về loại thuốc, nhóm kháng sinh mà trẻ sử dụng.
55. 47
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm nghe kém ở trẻ mẫu giáo từ 2 tuổi đến 5 tuổi
3.1.1 Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
3.1.1.1 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo quận
Bảng 3.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo quận (n=7.191)
Quận
Nam Nữ Chung
Số lượng % Số lượng % Số lượng %
Ba Đình 795 11,1 729 10,1 1524 21,2
Tây Hồ 761 10,6 781 10,9 1542 21,4
Đống Đa 628 8,7 543 7,6 1171 16,3
Thanh Xuân 763 10,6 689 9,6 1452 20,2
Hoàng Mai 818 11,4 684 9,5 1502 20,9
Tổng 3765 52,4 3426 47,6 7191 100
Kết quả bảng trên cho thấy tổng số có 7191 trẻ em ở 5 quận tham gia vào
nghiên cứu đáp ứng cỡ mẫu theo yêu cầu và tỷ lệ phân bố số trẻ được chọn vào
nghiên cứu của 5 quận không có sự khác biệt. Quận có số trẻ em ít nhất là 1171
trẻ, chiếm 16,3%, quận có số trẻ cao nhất, chiếm 21,4%.
56. 48
3.1.1.2 Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi
Bảng 3.2: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo độ tuổi (n=7.191)
Tuổi
Nam Nữ Chung
Số lượng % Số lượng % Số lượng %
2 tuổi 379 5,3 321 4,5 700 9,7
3 tuổi 872 12,1 809 11,3 1681 23,4
4 tuổi 1249 17,4 1138 15,8 2387 33,2
5 tuổi 1265 17,6 1158 16,1 2423 33,7
Số lượng trẻ trong nghiên cứu tăng dần với độ tuổi của trẻ, thấp nhất là trẻ 2
tuổi (9,7%), cao nhất là trẻ 5 tuổi, chiếm 33,7%.
3.1.2 Kết quả đo âm ốc tai (OAE) lần 1 tại cộng đồng
3.1.2.1 Tỷ lệ OAE (-) lần 1 theo quận
Bảng 3.3: Tỷ lệ OAE (-) theo quận (n=7.191)
Quận
OAE (+) OAE (-)
Số trẻ % Số trẻ %
Ba Đình 1451 95,2 73 4,8
Tây Hồ 1472 95,5 70 4,5
Đống Đa 1117 95,4 54 4,6
Thanh Xuân 1379 95,0 73 5,0
Hoàng Mai 1435 95,5 67 4,5
Tổng 6854 95,3 337 4,7
57. 49
Các quận có tỷ lệ OAE (-) tương đối giống nhau, dao động từ 4,5% ở quận Tây
Hồ, Hoàng Mai đến 5,0% ở quận Thanh Xuân. Tỷ lệ OAE (+) đều trên 95,0% ở
tất cả các quận. Sự khác biệt về kết quả OAE (-) và OAE (+) giữa các quận
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
3.1.2.2 Tỷ lệ OAE(-) lần 1 theo tuổi
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ OAE (-) theo từng nhóm tuổi (n=7.191)
Biểu đồ trên cho thấy trẻ 2, 3 tuổi có tỷ lệ OAE (-) cao nhất, lần lượt là 8,1% và
6,0%. Trẻ 4 tuổi có tỷ lệ OAE (-) thấp nhất, chỉ 3,4%. Sự khác biệt về kết quả
OAE (-) giữa các nhóm tuổi có ý nghĩa thống kê, với p<0,05.
8,1
6,0
3,4
4,0
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
2 tuổi 3 tuổi 4 tuổi 5 tuổi
p <0,05
Tỷ lệ %
Tuổi
58. 50
3.1.2.3 Tỷ lệ OAE âm tính lần 1 theo giới
Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ OAE (-) theo giới tính
Tỷ lệ đo âm ốc tai âm tính ở trẻ em nam và trẻ em nữ lần lượt là 5,0% và 4,3%.
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.1.2.4 Kết quả đo âm ốc tai sàng lọc lần 2
Bảng 3.4: Kết quả đo OAE lần 2 những trẻ OAE (-) lần 1 (n=337)
Trẻ
OAE lần 2
OAE (-) OAE (+)
Số trẻ % Số trẻ %
Trẻ OAE (-)
lần 1
314 93,2 23 6,8
Trong tổng số 337 trẻ có kết quả đo âm Ốc tai âm tính lần 1, sau khi được khám
tai và được đo OAE lần 2 tại phòng cách âm chuẩn của Trung tâm thính học có
314 trẻ có kết quả OAE (-), chiếm 93,2%. Có 23 trẻ (6,8%) có kết quả OAE lần
2 (+).
5,0
4,3
3.8
4
4.2
4.4
4.6
4.8
5
5.2
Nam Nữ
p>0,05
Tỷ lệ %
Giới tính