Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Bệnh sốt xuất huyết dengue (giáo trình bệnh nhiễm)
1. Giáo trình Bệnh nhiễm
447
BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
BS. Nguyễn văn Ký
Mục tiêu
1. Biết được tác nhân gây bệnh, dịch tễ học của bệnh xuất huyết Dengue
(SXHD)
2. Hiểu được cơ chế bệnh sinh của bệnh SXHD
3. Mô tả được biểu hiện lâm sàng, các giai đoạn của bệnh và biện pháp chẩn
đoán
4. Trình bày được cách theo dõi và điều trị SXHD
5. Nêu được các biện pháp phòng bệnh SXHD
I. ĐỊNH NGHĨA
Sốt Dengue và SXHD là bệnh truyền nhiễm cấp tính gây dịch do virus Dengue
gây nên. Virus được truyền từ người bệnh sang người lành do muỗi đốt, chủ
yếu là muỗi Aedes aegypti.
SXHD chủ yếu là bệnh ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Bệnh xảy ra quanh
năm, thường gia tăng vào mua mưa. Bệnh gặp ở cả trẻ em và người lớn.
Nhiễm virus Dengue gây nên triệu chứng lâm sàng khác nhau tùy từng cá thể.
Bệnh có thể chỉ biểu hiện như một hội chứng nhiễm virus không đặc hiệu hoặc
bệnh lý nặng, đặc điểm là sốt, xuất huyết và thoát huyết tương, có thể dẫn tới
sốc giảm thể tích tuần hoàn, rối loạn đông máu và suy tạng, nếu không được
chẩn đoán sớm và xử trí đúng, kịp thời sẽ dẫn đến tử vong.
II. TÁC NHÂN GÂY BỆNH
Sốt xuất huyết Dengue gây nên bởi một trong bốn loại huyết thanh virus gần
gũi nhưng lại khác nhau về mặt kháng nguyên là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và
DEN-4. Đây là loại Flavivirus, thuộc họ Flaviviridae, virus RNA, hình cầu có
võ lipid bao quanh, kích thước nhỏ khoảng 4060nm.
Ở nước ta, đã phân lập được cả 4 type virus Dengue gây bệnh. Vào những năm
19911995, type gây bệnh chủ yếu là DEN1 và DEN2; năm 19971998 là
DEN3. Từ 1999 đến nay, type DEN4 gia tăng và có lẽ sẽ là type gây bệnh
chính trong những năm tới.
Hình 1. Dengue virus
2. Giáo trình Bệnh nhiễm
448
Khi bị bệnh, cơ thể sẽ xuất hiện kháng thể IgM kháng Dengue tạm thời kéo dài
8 tuần và khi phát hiện kháng thể này trong huyết thanh chứng tỏ bệnh nhân
đang bị nhiễm virus Dengue cấp tính hoặc vừa mới khỏi bệnh.
Kháng thể lgG kháng Dengue xuất hiện trễ hơn và tồn tại nhiều năm hoặc suốt
đời và có miễn dịch với type Dengue gây bệnh. Khi bị bệnh do một type huyết
thanh nào đó của virus Dengue thì sẽ có miễn dịch suốt đời với type Dengue
đó, nhưng không có miễn dịch chéo với các type khác.
Chính vì vậy mà những người sống trong vùng lưu hành dịch SXH Dengue có
thể mắc bệnh nhiều hơn một lần trong đời.
Hình 2. Phân bố sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
III. DỊCH TỄ HỌC
Có thể nói Dengue là một bệnh do virus lây truyền do muỗi thường gặp nhất ở
người. Trong những năm gần đây bệnh đã trở thành mối quan ngại lớn đối với
sức khỏe cộng đồng trên bình diện quốc tế. Trên toàn thế giới có khoảng 2,5 tỷ
người hiện đang sống trong vùng có lưu hành bệnh. Sự lan tràn về mặt địa lý
của cả vector truyền bệnh là muỗi và virus đã đưa đến sự tăng cao tỷ lệ bệnh
trong vòng 25 năm qua cũng như khả năng xuất hiện dịch do nhiều type huyết
thanh khác nhau ở các đô thị trong vùng nhiệt đới.
Những vụ dịch đầu tiên được ghi nhận xảy ra vào những năm từ 17781780 ở
châu Á, châu Phi và Bắc Mỹ. Sự xuất hiện gần như đồng thời của các vụ dịch
trên ba lục địa khác nhau chứng tỏ rằng virus gây bệnh cũng như vector truyền
bệnh đã phân bố rộng rãi trên toàn thế giới đã từ hơn 200 năm trước. Trong
thời gian này Dengue chỉ được xem là bệnh nhẹ. Một vụ đại dịch Dengue xuất
hiện ở Đông Nam Á sau Chiến tranh thế giới thứ II và từ đó lan rộng trên toàn
cầu. Cũng ở khu vực Đông Nam Á, Dengue lần đầu tiên được phát hiện ở
3. Giáo trình Bệnh nhiễm
449
Philippines vào năm 1950 nhưng đến năm 1970 bệnh đã trở thành nguyên nhân
nhập viện và tử vong thường gặp ở trẻ em trong vùng này.
Tỉ lệ mắc bệnh trên toàn thế giới đã gia tăng mạnh mẽ trong những năm gần
đây. Bệnh này hiện đã trở thành dịch tại trên 100 quốc gia ở châu Phi, châu
Mỹ, khu vực phía Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á và Tây Thái Bình
Dương. Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương là khu vực chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất. Trước năm 1970, chỉ có 9 quốc gia có dịch lưu hành. Con số này
tăng lên gấp hơn 4 lần vào năm 1995. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính
mỗi năm có khoảng 50 đến 100 triệu người mắc bệnh. Không chỉ có số trường
hợp mắc bệnh gia tăng mà khả năng nhiễm nhiều type virus khác nhau cũng
ngày càng đáng báo động. Sau đây là một vài con số thống kê khác:
Trong vụ dịch, tỉ lệ mắc bệnh ở những đối tượng nhạy cảm thường là
4050% nhưng cũng có thể cao đến 8090%.
Mỗi năm có khoảng 500.000 trường hợp SXHD cần nhập viện, phần
lớn trong số đó là trẻ em. Tỉ lệ tử vong chung vào khoảng 2,5%.
Nếu không được điều trị, tỉ lệ tử vong của SXHD có thể vượt quá 20%.
Với phương thức điều trị tích cực hiện đại, tỉ lệ tử vong có thể thấp hơn
1%.
SXHD đã du nhập vào Việt Nam từ những năm 1960, cho đến nay đã trở
thành một bệnh dịch lưu hành. Bệnh không chỉ xuất hiện ở đô thị mà cả vùng
nông thôn. Dịch lớn SXHD bùng nổ theo chu kỳ khoảng 35 năm. Năm 1998,
trên toàn quốc bùng nổ vụ dịch lớn, số mắc bệnh và tử vong cao (234.920
người mắc, tử vong 377).
Bệnh SXHD ở Việt Nam phát triển theo mùa và cũng có sự khác biệt giữa các
miền: miền Bắc, bệnh thường xảy ra nhiều từ tháng 7 đến tháng 9. Miền Nam
và miền Trung, bệnh xuất hiện quanh năm và tần số mắc bệnh nhiều nhất từ
tháng 6 đến tháng 10, nhưng dịch thường xảy ra vào mùa mưa. Tại thành phố
Hồ Chí Minh và các tỉnh phía nam, bệnh tăng nhiều vào mùa mưa (tháng 511).
1. Nguồn bệnh
Người bệnh SXHD là ổ chứa virus chính.
Người bệnh nhiễm virus Dengue bị muỗi Aedes đốt mang virus rồi truyền cho
người lành. Mặc dầu sự lây truyền động vật giữa loài khỉ rừng ở châu Á và
châu Phi đã được mô tả, sự lây truyền virus ở người đủ để duy trì mầm bệnh,
và sự nhiễm trùng động vật này có thể xem như hiện tượng phụ hoặc có khả
năng là một chu kỳ dã thú còn lại.
2. Đường lây truyền
* Muỗi Aedes là trung gian truyền bệnh chính.
Muỗi Aedes mình nhỏ, đen, có khoang trắng
thường gọi là muỗi vằn
Người nhiễm virus Dengue do muỗi cái thuộc
4. Giáo trình Bệnh nhiễm
450
giống Aedes đốt. Muỗi Aedes aegypti là vector truyền bệnh chủ yếu ở hầu hết
các khu vực bệnh lưu hành. Muỗi Aedes aegypti hoạt động vào ban ngày và chỉ
có muỗi cái mới đốt người và truyền bệnh.
Muỗi bị nhiễm virus Dengue khi đốt người bệnh ở giai đoạn nhiễm virus huyết
có sốt (1 ngày trước khi sốt, kéo dài cho đến 67 ngày sau). Sau thời kỳ ủ bệnh
812 ngày ở muỗi, nó có thể truyền bệnh qua người khác. Trong khoảng thời
gian sống còn lại sau đó, muỗi có nguy cơ truyền bệnh cho người.
Virus Dengue không gây hại cho muỗi. Muỗi bị nhiễm virus Dengue có thể
truyền bệnh suốt vòng đời của nó khoảng 174 ngày (56 tháng), thay đổi tùy
theo nhiệt độ và lượng mưa trong vùng. Sau khi muỗi nhiễm virus Dengue đốt
người, virus sinh sản ở hạch bạch huyết lân cận, 23 ngày sau virus vào máu
đến các cơ quan khác nhau. Virus hiện diện trong máu khoảng 45 ngày, chủ
yếu trong thực bào, tế bào B và tế bào T, tương ứng với thời gian có sốt trên
lâm sàng và sẽ biến mất trong vòng 1 ngày sau khi hạ sốt.
Người là ổ chứa virus chính ngoài ra người ta mới phát hiện ở Malaixia có loài
khỉ sống ở các khu rừng nhiệt đới cũng mang virus Dengue. Aedes aegypti có
nguồn gốc từ châu Phi. Loài muỗi này dần dần lan tràn ra hầu hết các khu vực
có khí hậu nhiệt đới đầu tiên là nhờ tàu thuyền và sau đó có thể cả máy bay
nữa. Trong quá khứ, muỗi Aedes aegypti phải nhờ vào các vũng nước mưa để
đẻ trứng.
Aedes albopictus trước đây là vector truyền bệnh chính của Dengue và hiện nay
vẫn còn là vector quan trọng ở châu Á. Loài muỗi này gần đây đã lan tràn đến
khu vực Trung Mỹ, Hoa Kỳ và tại đây muỗi này là vector truyền bệnh quan
trọng thứ hai. Muỗi Aedes aegypti không truyền virus cho trứng trong khi muỗi
Aedes albopictus thì có khả năng này.
Nước ta có 2 loại gây bệnh chủ yếu là Aedes aegypti và Aedes albopictus. Muỗi
Aedes hút máu ban ngày, thường nhiều nhất vào sáng sớm và chiều tối, đậu ở
nơi tối trong nhà, thường sống ở các đô thị. Muỗi Aedes albopictus thích sống
ở lùm cây, ngọn cỏ, phần lớn sống ở vùng nông thôn.
* Ngoài muỗi, SXHD có thể truyền bởi kim chích. Tần xuất nhiễm cao ở những
vùng lưu hành nghĩ tới những ca kết hợp với truyền máu có thể xảy ra, nhưng
trong dân số tương đồng này miễn dịch ở người nhận cũng cao, và khó phân
biệt một trường hợp lây truyền theo truyền máu với một ca nhiễm tự nhiên.
3. Cơ thể cảm thụ
Trước đây bệnh chủ yếu xảy ra ở trẻ em < 15 tuổi. Bệnh SXHD ở người lớn
bắt đầu từ năm 1981 với vụ dịch xảy ra ở Cuba. Từ năm 19901995, tuổi trung
bình của bệnh nhân có khuynh hướng tăng dần tại các nước Đông nam Á và
Nam Mỹ. Năm 1998 và 1999, những vụ dịch đầu tiên ở người lớn xảy ra ở Việt
Nam đã đẩy tỉ lệ bệnh nhân người lớn tăng lên, đa số ở người trẻ từ 1520 tuổi.
5. Giáo trình Bệnh nhiễm
451
Gần như toàn bộ bệnh nhân trên 1 tuổi bị SXHD có sốc đều có tăng thứ phát
kháng thể chống virus Dengue, chứng tỏ đã từng bị nhiễm Dengue. SXHD
cũng có thể xảy ra trong lần nhiễm Dengue đầu tiên ở các trẻ sơ sinh có mẹ đã
được miễn dịch với virus Dengue.
Trẻ nhũ nhi là nhóm bệnh nhân SXHD rất đáng quan tâm. Năm 1997, trong
báo cáo của bệnh viện Nhi Đồng I có 47 trẻ nhũ nhi bị SXHD được xác nhận
bằng phản ứng ngăn ngưng kết hồng cầu (HI test). Tất cả các bệnh nhi này đều
được xác nhận là SXHD sơ nhiễm.
IV. BỆNH SINH
Trên thế giới, người ta đưa ra rất nhiều giả thiết giải thích cơ chế sinh bệnh
SXH. Giả thiết của Halstead, là giả thiết được nhiều người công nhận.
SXH Dengue thường xảy ra ở những người đã có kháng thể Dengue từ trước.
Khi virus Dengue xâm nhập lần sau sẽ kết hợp với kháng thể trước đó tạo
thành phức hợp kháng nguyên kháng thể, được gọi là phức hợp miễn dịch.
Phức hợp này sẽ hoạt hóa bổ thể (một trong những hệ thống bảo vệ của cơ thể)
dẫn đến hậu quả là làm tăng tính thấm thành mạch, phá hủy hệ thống cầm máu
(do giải phóng các yếu tố đông máu) và giảm tiểu cầu gây ra xuất huyết, và
sốc.
6. Giáo trình Bệnh nhiễm
452
Nhiễm virus Dengue thường không có biểu hiện rõ ràng chủ yếu xuất hiện ở
người lần đầu mắc bệnh, chưa có miễn dịch. SXHD thường xảy ra trong lần
nhiễm trùng sau, khi bệnh nhân đã có sẵn miễn dịch chủ động (do đã bị bệnh)
hoặc thụ động (do mẹ truyền sang) đối với một loại huyết thanh khác. Bệnh
thường biểu hiện nặng đột ngột sau 2 đến 5 ngày (giai đoạn hạ sốt). Các phức
hợp kháng nguyênkháng thể (virusantibody complex) lưu hành trong máu, sự
hoạt hóa hệ thống bổ thể
(complement activation) và
giải phóng các chất hoạt
mạch (cytokine production)
có thể gây nên tăng tính
thấm mao mạch đối với
huyết tương (plasma
leakage), xuất huyết và có
thể là đông máu nội mạch
lan tỏa (DIC). Trong quá
trình đào thải miễn dịch của
các tế bào nhiễm virus, các protease và lymphokine được phóng thích gây hoạt
hóa hệ thống bổ thể cũng như các yếu tố tăng tính thấm thành mạch.
Miễn dịch tăng cường bệnh: Một số nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng
"SXHD/Hội chứng sốc Dengue xảy ra khi một người đã nhiễm bệnh trong quá
khứ bởi một loại huyết thanh virus, nay lại nhiễm một loại huyết thanh virus
khác".
Giả
thuyết
này được
củng cố
bởi các
ghi nhận
lâm sàng
rằng
SXHD
gặp chủ
yếu ở
những
người đã
ít nhất
một lần
mắc bệnh trước đó và xảy ra thường xuyên hơn ở các cư dân trong vùng dịch
lưu hành hơn là các du khách mắc bệnh tại nơi này trong cùng thời điểm. Nếu
7. Giáo trình Bệnh nhiễm
453
giả thuyết này là đúng hoàn toàn thì việc lưu chuyển các loại huyết thanh virus
khác nhau từ vùng này đến vùng khác trên thế giới sẽ ngày càng gây nên tình
trạng bệnh nặng nề hơn trong tương lai.
V. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG
Nhiễm virus Dengue thường nhất không triệu chứng. Bệnh SXHD có biểu
hiện lâm sàng đa dạng, diễn biến nhanh chóng từ nhẹ đến nặng. Bệnh thường
khởi phát đột ngột và diễn biến qua 3 giai đoạn: giai đoạn sốt, giai đoạn nguy
hiểm và giai đoạn hồi phục. Phát hiện sớm bệnh và hiểu rõ những vấn đề lâm
sàng trong từng giai đoạn giúp chẩn đoán sớm, điều trị đúng và kịp thời, nhằm
cứu sống người bệnh.
1. Thời kỳ ủ bệnh
Từ 315 ngày, trung bình từ 46 ngày.
2. Thời kỳ khởi phát
2.1. Giai đoạn sốt
Sốt cao đột ngột, liên tục.
Nhức đầu, đau cơ, đau khớp, nhức hai hố mắt.
Chán ăn, buồn nôn.
Da niêm sung huyết. Nghiệm pháp
dây thắt (lacet) dương tính.
Biểu hiện xuất huyết thường có
chấm xuất huyết dưới da, chảy máu
chân răng, chảy máu cam.
2.2. Giai đoạn nguy hiểm:
Thường vào ngày thứ 37 của bệnh. Có
thể còn sốt hoặc đã giảm sốt.
Biểu hiện thoát huyết tương do tăng tính thấm thành mạch (thường từ 24
48 giờ) :
1. Tràn dịch màng phổi, màng kẽ, màng bụng, phù nề mi mắt, gan to, có thể
đau.
2. Nặng sẽ dẫn đến sốc với các biểu hiện vật vã, bứt rứt hoặc li bì, lạnh đầu
chi, da lạnh ẩm, mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt (hiệu số huyết áp tối đa và tối
thiểu 20 mmHg), huyết áp tụt hoặc không đo được, tiểu ít.
Xuất huyết:
1. Xuất huyết dưới da: Nốt xuất huyết rải rác hoặc chấm xuất huyết thường
ở mặt trước hai cẳng chân và mặt trong hai cánh tay, bụng, đùi, mạng sườn
hoặc mảng bầm tím.
2. Xuất huyết niêm mạc: chảy máu cam, chân răng, tiểu ra máu. Kinh nguyệt
kéo dài hoặc xuất hiện sớm hơn kỳ hạn.
3. Xuất huyết nội tạng: tiêu hóa, phổi, não ... là biểu hiện nặng.
8. Giáo trình Bệnh nhiễm
454
Biểu hiện suy tạng: trường hợp nặng có thể có viêm gan nặng, viêm não,
viêm cơ tim. Có thể xảy ra ở một số người bệnh không có dấu hiệu thoát huyết
tương rõ hoặc không sốc.
2.3. Giai đoạn hồi phục
Sau 2448 giờ nguy hiểm, có hiện
tượng tái hấp thu dần dịch từ mô kẽ
vào trong lòng mạch. Giai đoạn này
kéo dài 4872 giờ.
Hết sốt, toàn trạng tốt lên, thèm
ăn, huyết động ổn định và tiểu nhiều.
Phát ban dạng hồi phục, nhiều
nhất ở hai chân.
Có thể có nhịp tim chậm và thay đổi về điện tâm đồ. Nếu truyền dịch quá
mức có thể gây phù phổi và suy tim.
VI. XÉT NGHIỆM
1. Xét nghiệm máu
Dung tích hồng cầu (Hct): có thể còn bình thường trong giai đoạn sốt.
Trong giai đoạn nguy hiểm, Hct tăng so với giá trị ban đầu của người bệnh
hoặc so với giá trị trung bình của dân số ở cùng lứa tuổi.
Trong giai đoạn hồi phục, Hct trở về bình thường hoặc thấp hơn (do hiện tương
dịch được tái hấp thu).
Tiểu cầu: giảm dần, nhưng còn > 100.000/mm3
trong giai đoạn sốt.
Trong giai đoạn nguy hiểm, giảm 100.000/mm3
từ ngày thứ 3 của bệnh.
Giai đoạn hồi phục, trở về bình thường dần, chậm hơn.
Bạch cầu: trong thời kỳ đầu thường giảm, bạch cầu đa nhân trung tính
chiếm ưu thế.
Vào cuối giai đoạn sốt, bạch cầu đa nhân trung tính giảm nhanh, bạch cầu
lympho tăng tương đối, tăng lympho không điển hình trên 15%.
Tăng trở lại sớm sau khi hạ sốt.
Men gan AST, ALT: thường tăng trong giai đoạn nguy hiểm.
9. Giáo trình Bệnh nhiễm
455
Nồng độ AST cao hơn ALT và tăng với mức độ nhẹ và trung bình trong hầu
hết trường hợp (< 5 lần giới hạn trên của khoảng trị bình thường), chứng tỏ tổn
thương gan trong SXH chỉ nhẹ đến trung bình.
Rối loạn đông máu: trong trường hợp nặng. Thời gian máu chảy kéo dài;
lượng prothrombin giảm, đôi khi dưới 40% so với chuẩn; Fibrinogen thấp.
2. Xét nghiệm virus
Dengue NS1 antigen test:
Là test nhanh tìm kháng nguyên NS1 trong máu, dùng chẩn đoán sớm nhiễm
Dengue nguyên phát và thứ phát, đặc biệt trong vòng 4 ngày đầu của bệnh.
Phân lập virus: trong máu trong 6 ngày đầu của bệnh.
- Huyết thanh chẩn đoán:
Xét nghiệm ngăn ngưng kết hồng cầu (HI: Haemaggglutination Inhibition
Test) để chẩn đoán huyết thanh học nhiễm virus Dengue. Kháng thể HI tồn tại
lâu (> 50 năm), dùng nghiên cứu dịch tễ học.
Tìm kháng thể IgM (MACELISA: IgM Antibody Capture – Enzyme
Linked ImmunoSorbent Assay) từ ngày thứ 5 của bệnh, có thể kéo dài 23
tháng.
Tìm kháng thể IgG (tương đương xét nghiệm HI) xuất hiện đồng thời
hoặc ngay sau IgM nhưng kéo dài hơn.
PCR tìm RNA của Dengue.
3. Xét nghiệm khác
- Xquang lồng ngực thẳng: tràn dịch màng phổi (> 80%).
- Siêu âm: tràn dịch màng bụng, màng phổi (mức độ tương ứng với mức độ
trầm trọng của bệnh), phù túi mật (> 95% trường hợp nặng), tràn dịch quanh
thận hay cận thận (77%), tràn dịch dưới bao gan hay lách.
VII. CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán thường dựa vào các yếu tố dịch tễ, biểu hiện lâm sàng cũng như các
xét nghiệm đơn giản. Chẩn đoán lâm sàng dựa vào các tiêu chuẩn của Tổ chức
Y tế Thế giới.
1. Chẩn đoán lâm sàng
Theo Tổ chức Y tế Thế giới năm 2009, bệnh SXHDengue được chia làm 3
mức độ:
Sốt xuất huyết Dengue (A91a).
Sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo (A91b).
Sốt xuất huyết Dengue nặng (A91c).
1.1. Sốt xuất huyết Dengue (A91a)
a) Lâm sàng
Sốt cao đột ngột, liên tục từ 27 ngày, và có ít nhất 2 trong các dấu hiệu sau:
Biểu hiện xuất huyết: lacet dương tính, chấm xuất huyết dưới da, chảy
máu cam hoặc chân răng (ít/nhẹ).
Tải bản FULL (20 trang): https://bit.ly/3velKwe
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
10. Giáo trình Bệnh nhiễm
456
Da sung huyết, phát ban.
Nhức đầu chán ăn, buồn nôn.
Đau cơ, khớp, nhức hai hố mắt.
b) Xét nghiệm máu:
Hematocrite bình thường hoặc tăng.
Số lượng tiểu cầu bình thường hoặc hơi giảm.
Số lượng bạch cầu thường giảm.
1.2. Sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo (A91b)
a) Lâm sàng
Bao gồm các triệu chứng của SXHDengue, kèm theo các dấu hiệu cảnh báo
sau:
Vật vã, lừ đừ, li bì.
Đau bụng hoặc ấn đau vùng gan.
Gan to > 2 cm dưới bờ sườn.
Ôn ói nhiều.
Xuất huyết niêm mạc (nhiều/nặng).
Tiểu ít.
b) Xét nghiệm máu
Hematocrite tăng cao.
Số lượng tiểu cầu giảm nhanh chóng.
1.3. Sốt xuất huyết Dengue nặng (A91c)
Khi người bệnh có một trong các biểu hiện sau:
Sốc SXHDengue: do thoát huyết tương nặng dẫn đến sốc giảm thể tích, ứ
dịch ở khoang màng phổi và ổ bụng nhiều.
Xuất huyết nặng.
Suy tạng.
a) Sốc sốt xuất huyết Dengue (A91c1)
Suy tuần hoàn cấp, thường xảy ra vào ngày thứ 37 của bệnh, biểu hiện bởi các
triệu chứng vật vã, bứt rứt hoặc li bì, lạnh đầu chi, da lạnh ẩm, mạch nhanh
nhỏ,huyết kẹt hoặc tụt, hoặc không đo được huyết áp, tiểu ít.
Sốc SXHDengue: có dấu hiệu suy tuần hoàn, mạch nhanh nhỏ,huyết kẹt
hoặc tụt kèm theo các triệu chứng lạnh đầu chi, da lạnh ẩm, vật vã, bứt rứt hoặc
li bì.
Sốc SXHDengue nặng: sốc nặng, mạch nhỏ khó bắt, huyết áp không đo
b) Xuất huyết nặng (A91c2)
Chảy máu cam nặng, rong kinh nặng, xuất huyết trong cơ và phần mềm,
xuất huyết đường tiêu hóa, và nội tạng, thường kèm theo tình trạng sốc nặng,
giảm tiểu cầu, thiếu oxy mô và toan chuyển hóa có thể dẫn đến suy đa phủ tạng
và đông máu nội mạch nặng. 4103729