Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Bệnh lí học thực vật_ Bệnh loét cam
1. Nhóm 4: Thái Khánh Chi
Phạm Thị Lý
Giảng viên: Lê Thị Thủy
2. - Cây ăn quả có múi là dòng cây ăn quả có nhiều bệnh hại hơn so với
loại cây ăn quả không có múi. Khi bệnh hại xuất hiện không xử lí
nhanh nó có thể lây lan sang cả vườn dẫn đến việc điều trị bệnh càng
trở nên khó khăn và kết quả là năng suất và chất lượng quả thu hoặc
được không tốt như mong đợi.
- Một số bệnh hại:
+ Bệnh vàng lá gân xanh (Greening): xảy ra ở lá của cây.
+ Bệnh loét: xảy ra ở các bộ phận của cây như thân, cành, lá, quả.
Bệnh vi khuẩn hại trên
cây ăn quả có múi
3. - Theo Fawcetti, bệnh loét cam có nguồn gốc từ Ấn Độ đã được
phát hiện từ năm 1872 và hiện còn giữ được mẫu bệnh ở viện
bảo tàng Ấn Độ. Sau đó bệnh lây vào Nhật Bản, sang các nước
quanh vịnh Mêhicô vào khoảng 1910, đến các nước Nam Mỹ.
- Ở nước ta, bệnh phá hại phổ biến ở tất cả các vùng trồng cam,
gây thiệt hại đáng kể, làm ảnh hưởng tới nguồn hàng xuất khẩu
và tiêu dùng trong nước.
- Bệnh loét do vi khuẩn Xanthomonas citri (Hasse) Dawson gây
nên phá hại ở tất cả các bộ phận của cây, làm rụng quả, lá, cây
cằn cọc chóng bị tàn. Ở vườn ươm, khi bị bệnh nặng cây con
dễ chết.
Bệnh loét ở cam
5. Triệu chứng
Bệnh gây hại ở tất cả các bộ phận cây như
thân, cành, lá , quả. Cây bị bệnh sinh
trưởng kém, lá vàng, rụng quả.
Trên lá: Vết bệnh ban đầu là những đốm
nhỏ màu trắng vàng, xuất hiện mặt dưới
lá, bệnh phát triển mở rộng ra phá vỡ
biểu bì mặt dưới lá, mặt trên vết bệnh
hơi lổi gờ. Xung quanh vết bệnh có
quầng tròn dọt dầu màu vàng hoặc xanh
tối. Các vết bệnh loét thường lối liền
nhau, lá bệnh không bị biến dạng như
bệnh ghẻ do nấm nhưng rất dễ rụng.
Mặt trên Mặt dưới
6. Trên quả: tương tự như trên lá, vết
bệnh rắn sù sì màu nâu hơi lõm, mép
ngoài có gờ lổi lên, ở giữa vết bệnh có
mô chết bị rạn nứt, vết bệnh thường bị
lõm vào. Các vết bệnh trên quả có thể
liên kết với nhau sinh ra chảy gôm, các
vết loét không ăn sâu vào trong thịt quả.
Trên thân, cành: Vết bệnh sùi lên rõ
ràng, ở giữa vết bệnh không lõm xuống.
Vết bệnh phát triển dần lối liền với
nhau quanh thân làm cho phần phía trên
vết bệnh bị khô héo, dễ gãy cành.
7.
8. Nguyên nhân gây bệnh
Do vi khuẩn Xanthomonas citri (Hasse)
Dawson. Vi khuẩn hình gậy, một đầu có
một lông mao, gram âm, háo khí. Kích
thước khoảng 1,5 - 2,0 × 0,5 - 0,75 µm,
hai đầu tròn, có một lông roi ở đầu, vi
khuẩn có thể nối liền thành chuỗi. Khuẩn
lạc trên môi trường nuôi cấy màu vàng
bóng, hơi hồng, rìa hơi lượn sóng.
9. Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh
Bệnh có thể phát sinh, phát triển được hay không và mức độ
bệnh nặng, nhẹ phụ thuộc vào tính mẫn cảm bệnh của các
giống cam, tuổi cây, mức độ thành thục của các bộ phận cây và
điều kiện ngoại cảnh đặc biệt là nhiệt độ và độ ẩm. Khi có
những yếu tố thích hợp đó thì bệnh mới phát sinh và trở thành
dịch bệnh.
Ở nước ta bệnh phát sinh từ lộc xuân (tháng 3), tăng mạnh đến
lộc hạ, tới tháng 7, tháng 8, rồi đến lộc đông tháng 10 - 11
bệnh giảm dần và ngừng phát triển.
10. Bệnh loét cam là bệnh ưa nhiệt độ cao, xâm nhiễm và phát triển
thích hợp ở nhiệt độ 20 - 300C, độ ẩm cao.
Khi nhiệt độ khoảng 300C mà lượng mưa không đủ, thời tiết khô
hạn thì bệnh không phát triển mạnh.
Sự phá hoại của bệnh và tính mẫn cảm bệnh có thể thay đổi tuỳ
theo vùng địa lý và các chúng sinh lý của vi khuẩn.
Sự phá hoại của bệnh còn phụ thuộc vào tuổi cây.
Điều kiện để phát triển bệnh
11. Trong tự nhiên lỗ khí là con đường xâm nhập của vi khuẩn. Vì vậy, mật
độ lỗ khí và độ mở của nó có liên quan tới tính chống bệnh cao.
Khi cam ra lộc và quả non là lúc tổ chức biểu bì có nhiều lỗ khí và lỗ
khí đang độ trưởng thành rất thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập, nếu gặp
điều kiện ngoại cảnh có lợi thì bệnh phát sinh phát triển càng mạnh.
Khi lộc ngừng sinh trưởng và quả đã định hình, biểu bì không hình
thành thêm lỗ khí, đồng thời số lỗ khí dần dần hoá già nên cây nhiễm
bệnh nhẹ dần.
Sâu vẽ bùa là môi giới truyền bệnh, tạo nên vết thương để bệnh xâm
nhiễm dễ dàng và làm cho bệnh nặng, nhất là ở trong vườn ươm cây
giống.
Cách thức xâm nhiễm bệnh
13. Biện pháp phòng trừ bệnh
Biện pháp canh tác
- Sau thu hoạch thu dọn tàn dư cây bệnh.
- Tỉa những cành sâu bệnh trước mùa mưa để vườn được
thông thoáng và để tránh xây xát khi có mưa gió lớn, dễ
tạo vết thương cho vi khuẩn thâm nhập.
- Bón phân vào thời kỳ thích hợp, bón cân đối để cây phát
triển bình thường.
- Thận trọng khi tưới nước để tránh lây lan bệnh.
- Trồng cây với mật độ thích hợp.
14. Mật độ trồng cam Vinh
sạch tại Qùy Hợp,
Nghệ An
Quy mô trồng cam ở Ba
Bể theo hướng chắn gió
15. Phát triển trồng giống cam chống chịu bệnh - gốc ghép kháng bệnh.
Giống cam V2 được chọn tạo từ giống Valencia Olinda, làm sạch bệnh qua vi ghép,
sinh trưởng phát triển mạnh, khả năng thích nghi với điều kiện khắc nghiệt tốt,
kháng bệnh tốt, khả năng đậu quả cao. Khối lượng quả trung bình từ 200-250g/quả.
16. Biện pháp hóa học
- Phun phòng vào lúc mới ra lộc hoặc khi bệnh bắt đầu xuất
hiện. Khi bệnh nặng có thể phun 2 - 4 lần, mỗi lần cách nhau
10 - 15 ngày. Thuốc hoá học thường dùng là nhóm thuốc chứa
đồng như Boocđô 1%, Kasuran 0,15%, champion 37,5FL,
Copper oxychloride,… Khi phun nên chú ý phun từ trong ra
ngoài tán cây, từ cao xuống thấp, phun đều hai mặt lá.
- Mặt khác, cần kết hợp phòng trừ sâu vẽ bùa bằng dầu khoáng
SK Enspray 99EC để hạn chế bệnh truyền lan
Editor's Notes
- Khi nhiệt độ khoảng 300C mà lượng mưa không đủ, thời tiết khô hạn thì bệnh không phát triển mạnh điều này nói lên mối ảnh hưởng tương quan của nhiệt độ và độ ẩm đối với sự phát sinh phát triển của bệnh.
- Sự phá hoại của bệnh còn phụ thuộc vào tuổi cây. Tuổi cây non càng dễ nhiễm bệnh, nhất là ở vườn ươm ghép cây giống thường bị bệnh nặng trong 1- 2 năm đầu, cam 5- 6 tuổi tỷ lệ bệnh thấp hơn. Cành vượt phát triển nhiều lộc thường bị nặng hơn.