SlideShare a Scribd company logo
1 of 295
Download to read offline
VIETNAM’S
LIVING HUMAN TREASURES
REWARDED BY ASSOCIATION
OF VIETNAMESE FOLKLORISTS
2010 - 2012
4
5
HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM
NGHEÄ NHAÂN DAÂN GIAN
TẬP 3
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
6
Chỉ đạo biên soạn và đọc duyệt:
GS.TSKH. TÔ NGỌC THANH
Nhóm biên soạn:
HÀ THỊ HƯƠNG
NGUYỄN THỊ THU HÀ
CAO THỊ HẢI
PHẠM CÔNG HOAN
Tổ chức bản thảo:
VĂN PHÒNG
HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM
7
MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT: NGH Ệ NHÂN DÂN GIAN - TÀI SẢN VÔ
GIÁ CỦA NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM .. 14
PHẦN THỨ HAI: QUY CHẾ PHONG TẶNG DANH HIỆU
“NGHỆ NHÂN DÂN GIAN” CỦA HỘI VĂN
NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM ............... 24
PHẦN THỨ BA: CÁC NGHỆ NHÂN ĐƯỢC PHONG TẶNG
TRONG CÁC NĂM 2010 – 2012…………31
A. Nghệ nhân Âm nhạc dân gian..................................... 31
1. Nghệ nhân Nguyễn Văn Thực........................................ 31
B. Nghệ nhân Ẩm thực.................................................... 33
1. Nghệ nhân Bùi Ngọc Thái.............................................. 33
C. Nghệ nhân Cấp sắc và Hát dân ca............................... 35
1. Nghệ nhân Lương Phu Dùng.......................................... 35
2. Nghệ nhân Lý Văn Út..................................................... 37
D. Nghệ nhân Dân ca Ví Giặm ........................................ 39
1. Nghệ nhân Nguyễn Đình Ái........................................... 39
2. Nghệ nhân Trần Khánh Cẩm.......................................... 41
3. Nghệ nhân Lê Hồng Cẩn................................................ 43
4. Nghệ nhân Trần Minh Chính.......................................... 45
5. Nghệ nhân Nguyễn Thị Hà............................................. 47
6. Nghệ nhân Nguyễn Viết Hoài ........................................ 49
7. Nghệ nhân Trần Thị Lý.................................................. 51
8. Nghệ nhân Nguyễn Thanh Minh.................................... 53
8
9. Nghệ nhân Vũ Thị Thanh Minh ..................................... 55
10. Nghệ nhân Hoàng Bá Ngọc.......................................... 57
11. Nghệ nhân Phạm Thế Nhuần........................................ 59
12. Nghệ nhân Hoàng Tùng................................................ 61
13. Nghệ nhân Nguyễn Thị Hồng Vanh............................. 63
14. Nghệ nhân Dương Thị Xanh ........................................ 65
E. Nghệ nhân Đờn ca Tài tử, Cải lương.............................. 66
1. Nghệ nhân Nguyễn Văn Biểu......................................... 68
2. Nghệ nhân Huỳnh Văn Biểu .......................................... 70
3. Nghệ nhân Đinh Văn Chiêu ........................................... 72
4. Nghệ nhân Võ Văn Chuẩn.............................................. 74
5. Nghệ nhân Trà Văn Giai................................................. 76
6. Nghệ nhân Nguyễn Văn Giỏi ......................................... 78
7. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Hinh........................................ 80
8. Nghệ nhân Nguyễn Thế Huyện...................................... 82
9. Nghệ nhân Lê Hoàng Tấn............................................... 84
10. Nghệ nhân Lê Khắc Tùng ............................................ 86
11. Nghệ nhân Trương Văn Tự .......................................... 88
12. Nghệ nhân Nguyễn Văn Quế........................................ 90
F. Nghệ nhân Hát Ca trù ................................................ 92
1. Nghệ nhân Nguyễn Hồng Ấn ......................................... 93
2. Nghệ nhân Vũ Văn Cốm ................................................ 95
3. Nghệ nhân Đỗ Thị Dị ..................................................... 96
4. Nghệ nhân Phan Thị Duyệt ............................................ 97
5. Nghệ nhân Trần Văn Đài................................................ 99
6. Nghệ nhân Trần Thị Độ................................................ 101
9
7. Nghệ nhân Nguyễn Bá Hanh........................................ 103
8. Nghệ nhân Lê Thị Hân ................................................. 104
9. Nghệ nhân Nguyễn Đức Hồ ......................................... 105
10. Nghệ nhân Vũ Văn Hồng ........................................... 107
11. Nghệ nhân Nguyễn Thúy Hòa.................................... 109
12. Nghệ nhân Phạm Thị Huệ .......................................... 111
13. Nghệ nhân Phạm Thị Mận.......................................... 113
14. Nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi...................................... 114
15. Nghệ nhân Đỗ Thị Khuê............................................. 116
16. Nghệ nhân Nguyễn Văn Khuê.................................... 118
17. Nghệ nhân Nguyễn Thị Kim ...................................... 120
18. Nghệ nhân Nguyễn Thị Sinh...................................... 121
19. Nghệ nhân Đỗ Thị Sông............................................. 123
20. Nghệ nhân Nguyễn Thị Thiệp.................................... 125
21. Nghệ nhân Đặng Thị Thục ......................................... 127
22. Nghệ nhân Võ Thanh Tuấn ........................................ 129
23. Nghệ nhân Nguyễn Văn Tuyến.................................. 131
24. Nghệ nhân Lê Thị Bạch Vân...................................... 133
25. Nghệ nhân Đặng Thị Thùy Vân ................................. 134
G. Nghệ nhân Hát Chầu văn ......................................... 136
1. Nghệ nhân Phan Thị Kim Dung................................... 136
2. Nghệ nhân Trần Thị Tâm ............................................. 138
H. Nghệ nhân Hát Chèo tàu .......................................... 140
1. Nghệ nhân Đông Sinh Nhật.......................................... 140
2. Nghệ nhân Ngô Thị Thu............................................... 142
3. Nghệ nhân Nguyễn Thị Tuyết...................................... 144
10
4. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Yến ....................................... 146
I. Nghệ nhân Hát Dân ca.............................................. 148
1. Nghệ nhân H’Ben......................................................... 148
2. Nghệ nhân Bàn Văn Khương ....................................... 150
3. Nghệ nhân Lò Văn Mặn ............................................... 152
4. Nghệ nhân Giàng A Măng............................................ 154
5. Nghệ nhân Hà Thị Mỳ.................................................. 156
6. Nghệ nhân Bàn Thị Nam.............................................. 158
7. Nghệ nhân Điêu Chính Ngâu ....................................... 160
8. Nghệ nhân Phạm Thị Niếu ........................................... 162
9. Nghệ nhân Quàng Văn Pâng ........................................ 164
10. Nghệ nhân Trương Thị Quý....................................... 166
11. Nghệ nhân Lý Chẩn Tờ .............................................. 168
12. Nghệ nhân Bàn Thị Vinh............................................ 170
J. Nghệ nhân Hát Đúm....................................................... 172
1. Nghệ nhân Phạm Thị Quyết ......................................... 172
K. Nghệ nhân Hát Giao duyên ........................................... 174
1. Nghệ nhân Nguyễn Văn Hưu ....................................... 174
L. Nghệ nhân Hát Nhà tơ, Hát Cửa đình....................... 176
1. Nghệ nhân Phùng Thị Gái............................................ 176
2. Nghệ nhân Trương Thị Phượng ................................... 178
3. Nghệ nhân Hoàng Thị Thảo ......................................... 180
4. Nghệ nhân Nguyễn Thị Từ........................................... 182
M. Nghệ nhân Hát Kể sử thi .......................................... 184
1. Nghệ nhân Mấu Thị Giêng........................................... 184
2. Nghệ nhân Cao Thị Quang........................................... 186
3. Nghệ nhân Cao Thị Thanh ........................................... 188
11
4. Nghệ nhân Mấu Quốc Tiến .......................................... 190
N. Nghệ nhân Hát Then ................................................ 191
1. Nghệ nhân Ngô Đức Nguyên ....................................... 191
2. Nghệ nhân Hà Thị Phương........................................... 193
3. Nghệ nhân Nông Thị Sin.............................................. 195
O. Nghệ nhân Hát Trống Quân ..................................... 197
1. Nghệ nhân Bùi Văn Bình ............................................. 197
2. Nghệ nhân Nguyễn Văn Bôn ....................................... 199
3. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Bổn ...................................... 201
4. Nghệ nhân Nguyễn Thị Điệp ....................................... 203
5. Nghệ nhân Nguyễn Thị Đưa ........................................ 205
6. Nghệ nhân Lê Thị Lâm ................................................ 207
7. Nghệ nhân Nguyễn Thị Lơ .......................................... 209
8. Nghệ nhân Lê Xuân Mau ............................................ 211
9. Nghệ nhân Hồ Văn Minh ............................................ 213
10. Nghệ nhân Tô Thị Tốn .............................................. 215
11. Nghệ nhân Nguyễn Thị Thóc .................................... 217
12. Nghệ nhân Nguyễn Thị Thanh Xuyên ...................... 219
P. Nghệ nhân Hát Văn.................................................. 220
1. Nghệ nhân Lê Bá Cao................................................... 220
2. Nghệ nhân Chu Đức Duyệt .......................................... 222
3. Nghệ nhân Nguyễn Ích Hựu......................................... 223
4. Nghệ nhân Hoàng Trọng Kha ...................................... 225
5. Nghệ nhân Nguyễn Văn Tuất....................................... 227
Q. Nghệ nhân Hát Xoan ................................................ 229
1. Nghệ nhân Nguyễn Thị Bảy......................................... 229
2. Nghệ nhân Nguyễn Thị Bẩm........................................ 230
3. Nghệ nhân Phan Thị Diệm ........................................... 231
12
4. Nghệ nhân Lê Thị Đá ................................................... 232
5. Nghệ nhân Nguyễn Thị Điệp........................................ 234
6. Nghệ nhân Nguyễn Văn Đọc........................................ 235
7. Nghệ nhân Nguyễn Thị Hon ....................................... 236
8. Nghệ nhân Bùi Thị Hội ............................................... 237
9. Nghệ nhân Nguyễn Thị Liên ....................................... 238
10. Nghệ nhân Nguyễn Thị Mót ...................................... 239
11. Nghệ nhân Nguyễn Thị Nhang .................................. 240
12. Nghệ nhân Nguyễn Thị Nhân .................................... 241
13. Nghệ nhân Nguyễn Thị Nhân .................................... 242
14. Nghệ nhân Phan Thị Kiếm ........................................ 243
15. Nghệ nhân Đào Thị Phụng ........................................ 244
16. Nghệ nhân Nguyễn Thị Quy ..................................... 245
17. Nghệ nhân Nguyễn Thị Sung .................................... 246
18. Nghệ nhân Lê Thị Tú ................................................ 247
19. Nghệ nhân Nguyễn Thị Thược .................................. 248
20. Nghệ nhân Nguyễn Văn Vỵ ...................................... 249
21. Nghệ nhân Bùi Thị Ý ................................................ 250
R. Nghệ nhân Kép Đàn đáy........................................... 251
1. Nghệ nhân Trần Văn Chấn........................................... 251
2. Nghệ nhân Phạm Văn Lận............................................ 253
3. Nghệ nhân Hồ Xuân Thể.............................................. 255
S. Nghệ nhân Khắp Thái .............................................. 257
1. Nghệ nhân Điêu Thị Xiêng .......................................... 257
T. Nghệ nhân Mo Mường, Mo Thái .................................. 259
1. Nghệ nhân Hoàng Văn Ành ......................................... 259
2. Nghệ nhân Hà Văn Dong ............................................. 262
3. Nghệ nhân Bùi Văn Đù ................................................ 264
13
4. Nghệ nhân Hoàng Văn Đường..................................... 266
5. Nghệ nhân Hà Văn Lai ................................................. 268
U. Nghệ nhân Múa Bồng .................................................... 270
1. Nghệ nhân Triệu Đình Hồng ....................................... 270
V. Nghệ nhân Múa Lân Rồng........................................ 272
1. Nghệ nhân Trần Ngọc Thứ........................................... 272
W. Nghệ nhân Nghi lễ .................................................... 274
1. Nghệ nhân Đinh Văn Bán............................................. 274
2. Nghệ nhân Đinh Văn Bính ........................................... 276
Z. Nghệ nhân Nhạc cụ dân tộc ...................................... 278
1. Nghệ nhân Huỳnh Ngọc Ẩn ......................................... 278
2. Nghệ nhân Lương Đức Phùng...................................... 280
3. Nghệ nhân Đinh Trọng Túc ......................................... 282
Y. Nghệ nhân Tri thức dân gian và Chữ Nôm Dao......... 284
1. Nghệ nhân Kim Cho (Acha Wat)................................. 284
2. Nghệ nhân Lý Seo Chơ ................................................ 286
3. Nghệ nhân Tẩn Văn Siệu.............................................. 288
Z. Nghệ nhân Trò Kiều................................................. 290
1. Nghệ nhân Nguyễn Huýnh........................................... 290
2. Nghệ nhân Lê Mã Lương ............................................. 292
3. Nghệ nhân Trần Thị Phượng ....................................... 294
4. Nghệ nhân Hồ Kim Sơn .............................................. 296
14
PHẦN THỨ NHẤT
NGHEÄ NHAÂN DAÂN GIAN - TAØI SAÛN VOÂ GIAÙ
CUÛA NEÀN VAÊN HOÙA VIEÄT NAM
GS.TSKH. Tô Ngọc Thanh
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, mỗi dân tộc trong đại gia
đình các dân tộc Việt Nam đã sáng tạo nên nền văn hoá dân tộc
mình. Nền văn hoá đó phản ánh số phận lịch sử, tâm tư nguyện
vọng, tình cảm tư tưởng, đạo đức đạo lý, phương cách ứng xử với
thiên nhiên và xã hội; tất cả làm nên bản sắc văn hoá riêng của
mỗi tộc người. Đó là tài sản vô cùng quý giá của đất nước ta.
Những điều kiện chung về môi trường sinh thái, những thăng
trầm của một diễn trình lịch sử dân tộc đã đoàn kết các dân tộc Việt
Nam, chung tay nhau giữ nước và dựng nước. Nhờ vậy chúng ta có
một nền văn hoá Việt Nam với những đặc điểm thống nhất nhưng
lại được thể hiện đa dạng trong văn hoá mỗi dân tộc thành viên.
Nhờ vậy mà ngày nay, chúng ta được thừa hưởng một gia tài văn
hoá dân tộc phong phú, độc đáo để trên cơ sở đó giữ gìn và phát
huy, thừa kế và phát triển, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt
Nam đương đại “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Gia tài văn hoá đó tồn tại trong những dạng vẻ được phân
chia một cách tương đối là văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể.
Nói là phân chia tương đối vì cả hai dạng tồn tại đều là kết quả
của hoạt động sáng tạo của con người. Hơn nữa, gọi là vật thể
nhưng trong đó hàm chứa cả giá trị phi vật thể. Một cái đình
chẳng hạn, sẽ là cái đình đúng nghĩa nếu nó là nơi thờ thành
hoàng, là nơi dân làng mở hội xuân - thu, là biểu tượng tâm linh
15
của cả làng. Trong chiến tranh chống Mỹ, nhiều cái đình được
dùng chứa đạn dược, hay lương thực. Lúc đó cái đình là kho chứa,
không bao hàm ý nghĩa của một trung tâm tâm linh nữa. Đó còn
chưa kể đến kiểu dáng, cấu trúc, phương pháp xây dựng bằng
mộng mẹo, những mảng trang trí của cái đình thể hiện giá trị tinh
thần của người sáng tạo và xây dựng cái đình. Nếu định nghĩa di
sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần thì trong cái đình đã
hàm chứa biết bao biểu hiện của chính di sản văn hoá phi vật thể.
Ngoài ra, còn có những sản phẩm tồn tại hoàn toàn trong dạng phi
vật thể với đặc điểm là nó được ghi nhớ trong khối óc, trong sự
hiểu biết của con người và chỉ xuất hiện, chỉ được “vật chất hoá”
khi con người hoạt động.
Căn cứ vào mối quan hệ của con người với một đối tượng
cụ thể, tôi tạm chia ra làm năm loại đối tượng văn hoá phi vật thể:
Văn hoá sản xuất phản ánh mối quan hệ giữa con người
với thiên nhiên, qua đó con người khai thác và bảo vệ thiên nhiên
để tồn tại và phát triển. Mảng văn hoá này bao gồm những hiểu
biết, khám phá về môi trường thiên nhiên, về tập tính cây trồng và
súc vật, về thổ nhưỡng và khí hậu, về kinh nghiệm trồng trọt, chăn
nuôi, về đánh bắt thuỷ sản và săn bắt thú rừng, về tưới tiêu thuỷ
lợi, những kinh nghiệm và bí quyết thủ công mỹ nghệ…
Văn hoá xã hội thể hiện mối quan hệ con người với cộng
đồng từ cấp độ gia đình đến tộc họ, đến xóm làng, đến dân tộc và
đất nước. Mảng văn hoá này bao gồm tất cả những quy định, quy
ước để một xã hội ở một giai đoạn lịch sử cụ thể được vận hành
cân bằng, bình ổn và đảm bảo phát triển lâu dài. Chúng ta tìm thấy
ở đây các quy chế, luật pháp, luật tục, thể lệ, những điều cho phép
và những cấm kỵ, chuẩn đạo đức và đạo lý, chuẩn ứng xử của cá
nhân trong cuộc sống cộng đồng…
16
Văn hoá sinh hoạt thể hiện mối quan hệ của con người với
những nhu cầu sinh học của chính con người, được quy định
thông qua tập quán và quy ước của cộng đồng. Mảng văn hoá này
bao gồm các phương thức ứng xử của mỗi dân tộc đối với việc ở,
việc ăn, việc mặc, việc tắm giặt, việc ngủ, tình dục, bài tiết, giữ
gìn sức khoẻ và chữa bệnh…
Văn hoá tâm linh thể hiện mối quan hệ của con người với
những điều không trông thấy, không giải thích được, nhưng lại
được con người tin rằng có thật. Những tín ngưỡng, tôn giáo,
những tập tục nghi lễ, những bùa chú, bùa ngải… thuộc về mảng
văn hoá này.
Văn hoá nghệ thuật thể hiện mối quan hệ của con người
với cái Đẹp, bao gồm các biểu hiện trong văn học, âm nhạc, múa,
sân khấu, trò chơi - trò diễn, trang trí, mẫu hoa văn, kiểu dáng nhà
cửa và nội thất, kiểu dáng trang phục…
Như vậy, văn hoá phi vật thể bao trùm hết mọi nẻo cuộc sống
con người và chiếm một tỷ trọng lấn át trong vốn di sản văn hoá
của dân tộc. Phân chia làm năm loại chỉ là một thao tác làm việc
chứ trong thực tế chúng gắn bó chặt chẽ và biện chứng với nhau.
Vốn di sản văn hoá phi vật thể ấy, do hoàn cảnh lịch sử nước ta,
chủ yếu được lưu giữ trong trí nhớ con người. Do chỗ văn hoá phi
vật thể chủ yếu là văn hoá dân gian, nó là kết quả sáng tạo chủ yếu
của nhân dân lao động các dân tộc trong suốt quá trình lịch sử,
được kết tinh và tích tụ lại. Xưa kia chẳng những nó được mọi
người trong cộng đồng, dù ít hay nhiều, lưu giữ trong trí nhớ, mà
còn được cộng đồng thực hành như những hoạt động thường ngày
của cộng đồng. Nó thuộc về sở hữu của cộng đồng.
Tuy nhiên, trong một thời điểm lịch sử nhất định, ở một cộng
đồng thường xuất hiện những con người quy tụ trong họ gần như
toàn bộ vốn liếng và tài năng sáng tạo của cộng đồng về một hay
17
một vài lĩnh vực nào đó của văn hoá. Do vậy, họ trở thành người
đại diện, người đầu đàn của cộng đồng về lĩnh vực đó. Cộng đồng
tự hào về họ vì nhờ có hoạt động sáng tạo của họ mà bản sắc văn
hoá của cộng đồng được thể hiện tập trung, sắc nét. Đồng thời,
chính họ là người lưu giữ và truyền dạy cho thế hệ sau vốn liếng
văn hoá của cộng đồng. Chẳng những thế, bằng tài năng, tâm
huyết và trình độ nghề nghiệp của mình, những người này đã tự
mình sáng tạo hoặc chắt lọc sáng tạo của cả cộng đồng, góp phần
bổ sung, làm giàu đẹp thêm cho truyền thống và bản sắc văn hoá
cộng đồng. Tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hoá của Liên hiệp
quốc - UNESCO đề nghị tặng họ danh hiệu Báu vật nhân văn
sống (Living Human Treasures)(1)
. Còn chúng ta thì vẫn quen gọi
quý vị này là nghệ nhân. Nghệ nhân đóng vai trò then chốt trong
việc giữ gìn, thực hành và lưu truyền các giá trị văn hoá dân tộc.
Nếu không có họ thì chắc chắn một khối lượng lớn các giá trị văn
hoá sẽ không được bảo lưu một cách tập trung nhất cũng như sẽ
không có “thầy” để dạy dỗ lớp trẻ.
Ở nước ta, vai trò của các nghệ nhân còn quan trọng hơn nữa.
Đó là vì trong văn hoá của 54 dân tộc anh em thì chỉ người Việt
(Kinh) mới có thành phần văn hoá chuyên nghiệp, bác học. Văn
hoá của 53 dân tộc thiểu số thì vẫn mang nặng hoặc chỉ là văn hoá
dân gian. Ngay như trong văn hoá Việt cũng có rất nhiều sáng tạo
của văn hoá chuyên nghiệp đã được dân gian hoá, được phổ biến và
lưu truyền bằng miệng theo phương thức dân gian. Một ví dụ: nhân
dân ta ngày xưa rất thuộc Truyện Kiều, nhưng không mấy ai biết cụ
Nguyễn Du là tác giả. Bởi vì Truyện Kiều của cụ đã bị “công hữu
hoá” trở thành tài sản chung của toàn dân rồi. Mà văn hoá dân gian
thì chủ yếu được ghi nhớ trong trí nhớ con người. Mọi công đoạn
phổ biến, sáng tạo, bổ sung và truyền dạy được thực hiện thông qua
1
Khuyến nghị của UNESCO tại Đại hội đồng lần thứ 25, họp tại Paris, ngày 15/11/1989.
18
các hành động thực hành. Nếu không có các nghệ nhân thì cộng
đồng làm sao có thể thực hiện được quy trình đó?
Di sản văn hoá phi vật thể nước ta được sáng tạo trong quá
khứ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 trở về trước. Như thế, các
nghệ nhân nắm giữ di sản này ngày hôm nay ít nhất cũng phải
70 tuổi rồi. Lại thêm ba mươi năm chiến đấu giải phóng dân tộc
không có điều kiện thực hành các hoạt động văn hoá dân gian. Lại
thêm ngày nay xã hội tiến nhanh chưa từng có trong lịch sử dân
tộc về phía công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hoà nhập trong xu thế
toàn cầu hoá và đô thị hoá cuộc sống. Tất cả những nhân tố đó
đang đẩy di sản văn hoá phi vật thể các dân tộc Việt Nam tới bờ
vực của sự mai một. Nhiệm vụ của thế hệ chúng ta phải là:
1. Sưu tầm gấp rút để giữ gìn và phát huy toàn bộ giá trị di
sản văn hoá phi vật thể của cha ông để lại.
2. Tôn vinh chăm sóc các nghệ nhân dân gian, những người
thầy tài năng, trí tuệ và hết lòng với học trò.
Để thực hiện hai nhiệm vụ nói trên, Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam, với mục đích tôn chỉ là “sưu tầm, nghiên cứu, giữ gìn,
phổ biến và truyền dạy văn hoá - văn nghệ dân gian các dân tộc
Việt Nam”, đã quyết định hai chủ trương lớn:
1. Thông qua và huy động hơn 1000 hội viên cùng 2000 cộng
tác viên cả nước thực hiện một kế hoạch gọi là “Tầm nhìn 2010”
(View toward the year of 2010) với mục đích là từ nay đến năm
2010 cố gắng sưu tầm và giữ gìn được về cơ bản, toàn bộ di sản
văn hoá phi vật thể của các dân tộc Việt Nam. Bởi vì vốn di sản đó
đang nằm trong trí nhớ các nghệ nhân. Nếu ta không kịp thời sưu
tầm thì đến năm 2010, dẫu có muốn cũng không còn ai cung cấp tư
liệu và dạy bảo chúng ta nữa. Vì, các nghệ nhân đã quy tiên cả.
19
2. Thông qua quy chế phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân
dân gian của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam”, nhằm tôn vinh
những người lưu giữ, thực hành và truyền dạy vốn di sản văn hoá
văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam.
Danh hiệu này được trao cho quý vị căn cứ trên tài năng
chuyên ngành và sự đóng góp với công tác của Hội. Do vậy, đây
là danh hiệu do Ban Chấp hành Hội phong tặng để ghi nhận tài
năng và sự đóng góp của quý vị với công tác Hội.
Căn cứ tiêu chuẩn quy định tại Quy chế công nhận danh hiệu
Nghệ nhân dân gian của Hội đã được Ban Chấp hành Hội nhất trí
thông qua tại kỳ họp thứ năm, khoá IV, ngày 10/6/2002, căn cứ hồ
sơ do các chi hội, tỉnh thành hội gửi về Văn phòng Hội, cho đến nay
(2010), Hội đồng xét danh hiệu đã bỏ phiếu và chọn ra được 180 vị
trong cả nước.
Hội sẽ tiếp tục xét phong tặng danh hiệu các đợt tới, mỗi năm
một lần. Thông qua việc thực hiện kế hoạch “Tầm nhìn 2010”,
các chi hội, tỉnh - thành hội chắc chắn sẽ phát hiện thêm các nghệ
nhân tài danh nhưng chưa được biết đến. Mặt khác, qua việc
phong tặng danh hiệu, Hội sẽ có thêm những người thầy về văn
hoá văn nghệ dân gian và nhờ đó, kế hoạch “Tầm nhìn 2010” sẽ
được thực hiện với tốc độ nhanh hơn, có chất lượng hơn.
Công lao của các vị nghệ nhân là vô cùng to lớn. Chính nhờ
có các vị mà qua bao nhiêu sóng gió, thăng trầm của lịch sử, vốn
văn hoá - văn nghệ dân gian ngàn xưa của dân tộc Việt Nam vẫn
được giữ gìn đến ngày nay.
Phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian, Hội Văn nghệ
dân gian Việt Nam muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của tổ chức
Hội và các hội viên đến những người thầy tâm huyết và tài giỏi
của mình. Nếu không có hạnh phúc được các vị nghệ nhân chỉ
20
bảo, cung cấp tư liệu thì sẽ không có bất cứ công trình sưu tầm,
nghiên cứu nào hết. Hy vọng rằng danh hiệu khiêm tốn này sẽ
được các vị nghệ nhân xem như một biểu hiện chút lòng tôn kính
hết mực mà những người học trò nhỏ của các vị muốn kính dâng
những người thầy của mình.
Cuốn sách nhỏ này là tập thứ ba trong bộ sách của Hội viết
về thân thế, tài năng và sự nghiệp của quý vị được phong tặng
danh hiệu Nghệ nhân dân gian của Hội.
T.N.T
21
MASTER OF FOLKLORE
AN INVALUABLE PROPERTY OF VIETNAM
TRADITIONAL CULTURE
(A Brief Introduction)
By Prof. Dr.of Sciences To Ngoc Thanh
President
Association of Vietnamese Folklore
Passed thousand-years history, each from 54 Vietnam ethnic
groups has created own ethnic traditional culture which expressed
its historical fortune, its aspirations for a peaceful and prosperous
life, its moral standards, its behavioural attitudes to nature and
society.
The common historical, environmental conditions of a
common historical process was a very important factor which has
unified all Vietnam 54 ethnic groups into the task of protecting
and building own Fatherland. Thank to that, nowaday we are
inheriting a Vietnam traditional culture featuring common
characteristics which expressed in different cultural nuances of
each ethnic culture. That is the “culture key-stone” on which
today we can inherit to build our contemporary “advanced and
bold with national identity culture”.
Depending to our historical conditions, the traditional
cultural property was created, existed and developed in the form
of lolklore which mainly was preserved by humman memory and
was “materialized” in all kinds of people’s activities.
22
In Vietnam, according to the relationship of human being and
any concrete object, we can divide the folklore into five different
domains as follow:
The culture of material production expressing the relation
between human being and the nature through which the people
are exploiting and at the same time, protecting the natural
environment for their existence and development.
The social culture expressing the relation between human
being and his social community and institutions on different
levels of family, clan, village, ethnicity and country.
The every day life’s culture expressing the relation between
human being and it’s biological demands such as eating,
sleeping, secreting and sexual desire etc… Although these are
biodesires but each ethnicity has own behavioural cultural
expressions.
The religious culture expressing the relation between
human being and all “invisible things” but the people entirely
believe that they are really existing.
All kinds of art, including the applied one, expressing the
relation between human being and the beauty. We can find out
the expressions of this domain in literature, music, fine art,
theatre, decoration, architecture etc…
So, we can consider that the intangible culture are being in
all corners of the people’s life. As a form of folk-culture the
community is it’s owner. But in certain historical moment in each
community are often appearing some ones who posses almost all
knowledges and skilll of any domnain from folk-cultural fund of
community. They become the representative, the leader of
community in that folk-cultural domain. Thank to their creative
23
activities, the cultural identity of community becomes clearer.
They are not only the preservers and bearers, but also are the
teachers transmitting and passing down the cultural tradition of
community to the younger generation. The UNESCO rewarded
them with honor title “Living Human Treasures”. In Vietnam,
according to our habit, we call them as “Masters of Folklore”.
The role of Master-Bearers in our country is very important,
because in the culture of 54 ethnic groups, we can find out the
professional component only in the culture of Viet ethnic
minority. The culture of 53 ethnic minorities is folklore preserved
by human memory. In such case, all work stages such as
creation, prevervation, supplementation, dissemination and
transmittion are realized only through the practical activities of
Masters-Bearers. They are worthy to be rewarded with any
honoring title.
Adopted and realized the Rules for Rewarding the Honor
Title “Master of Folklore”, the Association of Vietnamese folklore
would like to express their deep thank to their teachers.
T.N.T
24
PHẦN THỨ HAI
QUY CHEÁ COÂNG NHAÄN DANH HIEÄU
“NGHEÄ NHAÂN DAÂN GIAN”
CUÛA HOÄI VAÊN NGHEÄ DAÂN GIAN VIEÄT NAM
Điều 1: Bối cảnh lịch sử
Ngày nay, ở Việt Nam có 54 tộc người chung sống, mỗi tộc
người đều có một tài sản văn hoá - văn nghệ dân gian phong phú,
độc đáo, được lưu giữ trong trí nhớ, được truyền miệng, truyền
ngón từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tài sản văn hoá này hiện
đang có nguy cơ mai một trước sự biến đổi nhanh chóng về nhiều
mặt của xã hội.
Thực hiện khuyến nghị của UNESCO về việc “Bảo vệ văn
hoá cổ truyền và văn hoá dân gian” được thông qua tại kỳ họp
toàn thể Đại hội đồng lần thứ 25 tại Paris ngày 15/11/1989.
Thực hiện Điều 26, Luật Di sản văn hoá, được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày
29/6/2001 tại kỳ họp thứ chín, khoá X, đã ghi “Nhà nước tôn vinh
và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có
công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có
giá trị đặc biệt”.
Nhận thấy, cho đến nay ở nước ta vẫn chưa có một quy chế
công nhận và tôn vinh các nghệ nhân văn hoá - văn nghệ dân gian.
Rất đáng lo ngại rằng các nghệ nhân hiện đã vào tuổi 70 - 80.
Căn cứ Nghị quyết Đại hội IV, Hội Văn nghệ dân gian Việt
Nam ngày 13/5/2000.
25
Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam công bố và thực hiện Quy
chế công nhận danh hiệu “NGHỆ NHÂN DÂN GIAN” của Hội.
Điều 2: Mục đích
Tôn vinh tài năng sáng tạo, công lao giữ gìn, thực hành
truyền dạy giá trị, kỹ năng, bí quyết của văn hoá - văn nghệ dân
gian các tộc người Việt Nam.
Điều 3: Tiêu chuẩn - nghĩa vụ
3.1. Nắm giữ và thực hành ở trình độ cao những giá trị, kỹ
năng, bí quyết văn hoá - văn nghệ dân gian.
3.2. Sẵn sàng và có khả năng truyền dạy toàn bộ hiểu biết
của mình cho thế hệ trẻ.
3.3. Khi được Hội yêu cầu, sẵn sàng cung cấp, thực hành,
trình diễn những vốn hiểu biết của mình về văn hoá - văn nghệ
dân gian để Hội tiến hành sưu tầm, lưu giữ.
Điều 4: Quyền lợi
4.1. Được tặng Bằng công nhận và Kỷ niệm chương “Vì sự
nghiệp văn nghệ dân gian Việt Nam” của Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam.
4.2. Được mời tham gia các hoạt động khoa học và ngành
nghề do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức như Hội thảo,
triển lãm, biểu diễn…
Điều 5: Quy trình tuyển chọn
5.1. Các tổ chức cơ sở của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
(chi hội, tỉnh - thành hội) căn cứ Quy chế này tuyển chọn, lên
danh sách, làm hồ sơ trình Ban Chấp hành Trung ương Hội.
5.2. Hồ sơ đăng ký tuyển chọn gồm:
- Sơ yếu lý lịch có chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền
26
- Tóm tắt thành tích hoạt động và trình độ nghề nghiệp.
- Bản sao hay ảnh chụp một số sản phẩm do nghệ nhân làm
hoặc truyền bảo cho con cháu làm.
5.3. Ban Chấp hành Trung ương Hội sẽ xét định kỳ các hồ sơ
đăng ký mỗi năm một lần vào kỳ họp thứ hai hàng năm.
5.4. Việc trao bằng công nhận và huy chương do Ban Chấp
hành Trung ương Hội cùng với tổ chức cơ sở của Hội tổ chức.
Điều 6: Khen thưởng và kỷ luật
6.1. Nghệ nhân dân gian có thành tích được khen thưởng
theo chế độ khen thưởng hiện hành của Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam.
6.2. Nghệ nhân vi phạm Quy chế này sẽ bị tước danh hiệu
Nghệ nhân dân gian, thu hồi Bằng công nhận và huy hiệu.
Điều 7:
Quy chế này được thông qua tại kỳ hợp thường kỳ thứ năm khoá
IV ngày 10/6/2002 của Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam và có hiệu lực từ ngày Tổng Thư ký Hội ký. Mọi sửa
chữa ở Quy chế này phải được ít nhất 2/3 uỷ viên Ban Chấp hành
thông qua.
Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2002
TM. BAN CHẤP HÀNH
Tổng Thư ký(*)
GS.TSKH. Tô Ngọc Thanh (đã ký)
(*)
Từ Đại hội II đến Đại hội IV, theo Điều lệ Hội VNDG Việt Nam, chức danh lãnh đạo Hội
cao nhất là Tổng Thư ký. Đến Đại hội V (2005 - 2010), chức danh cao nhất là Chủ tịch Hội,
không có chức danh Tổng Thư ký.
27
RULES FOR REWARDING THE HONOR TITLE
“MASTER OF FOLKLORE”
OF ASSOCIATION OF VIETNAMESE
FOLKLORISTS
ARTICLE 1
Nowadays in Vietnam are cohabiting 54 ethnic groups each of
which having a rich and unique fund of folk-culture and folk-arts.
This cultural asset was preserved mainly by human memory and
was passed down orally from generations to generations. In recent
time this cultural heritage is being in danger of disappearance for
ever by the very rapidly changes of society.
Realising the Recommendation of UNESCO on “Safeguarding
the Traditional Culture and the Folklore” adopted in the 25th
UNESCO World Conference, held in Paris on November, 15, 1989.
Realising the Article 26 from the “LAW FOR CULTURAL
HERITAGE” adopted by Vietnam National Assembly at its 9th
Session-10th
Term on June, 29th
2001: “The State respects,
honoring and with good policies treating the folk-culture beares
and artists who preserve and disseminate the special valuable
traditional arts and know-how”.
Considering that until now in our country there is not any
measure or action to recognise and honor our bearers of folk-
culture, folk-literature and arts.
Worring about that our bearers now are on 70-80 old age.
Basing on the decision of IVth
National Congress of
Association of Vietnamese Folklorists, held in Hanoi on May,
13, 2000.
28
The Association of Vietnamese Folklorists promulgates and
realises the Rules for Rewarding the honor title “Master of
Folklore” to famous folk-culture bearers among Vietnamese
ethnic groups.
ARTICLE 2
The rewarding aims to honor and recongnise the creative
talent, the merit of Masters of Folklore in preservation, practise
and passing down all values, skills, know-how of folk-culture,
folk-literature, folk-arts of all 54 Vietnamese ethnic groups.
The rewarding creates the auspicious conditions for:
a/ Recognition and rewarding of the community to those
bearers who embody all cultural traditional skills and technology
and are their holders at highest level.
b/ Preservation of skills, technology, needed for continuing
creation and functioning safeguarding all constituting expressions,
genres, forms, types of traditional culture and folklore.
c/ Training younger generations to possess and to be masters
in skills, expressions, types, forms of traditional culture and
flolklore.
d/ Encouraging younger generations to involve in learning,
practising, transmitting skills, know-how for ensuring the
existence of the original authentic traditional culture and the
national cultural identity.
ARTICLE 3: Criterion and duties of Rewardees
a/ Posseing and practising on highest level the knowledges
skills, expression of one or some genres, types, forms of
traditional culture and folklore.
29
b/ Being ready for passing down all own knowledges, skills,
know-how to those younger people who voluntary involve to learn
and continue the tradition.
c/ Being ready for providing, pratising of performing,
showing all own skill knowledges to supply the collection and
archives of Association of Vietnamese Folklorists. (AVF)
d/ To be recognised by the people of own community as their
bearer on highest level of the traditional culture and folklore of
community.
c/ To be recognised by local authorities as good and legal
citizen.
ARTICLE 4: Benefit of Rewardee
a/ Having a Certificate for the title Master of Floklore and a
insignia of “Merit for preservation of folklore - culture” rewarded
by the AVF.
b/ To be invited to attend all scientific and professional
workshops and activities held by the AVF.
c/ To be invited as honor guest to attend the National
Congress of AVF.
d/ To be suppied with a modest financial support to maintain
own professional activities and train the younger people.
ARTICLE 5: Procedure of Rewardee selection and nomination
a/ According to the criterion said in the Article 3 of these
Rules, each provincial branch of AVF with select, listing and
completing all necessary personal files concerning the merit and
contributions of the rewardee. Then, submit all files to the Central
Standing Committee of the AVF.
30
b/ The files must to include:
- Curriculum Vitae of Rewwardee with the legal notarisation
of local authorities.
- Desciption in brief the capacity, skills, know-how and the
training works to the younger people of the Rewardee.
- Some copies or photoes of Rewardee’s productions and of
his apprentices.
c/ The Central Standing Committee will hold two selecting
sessions each years to select and vote to nominate new
Rewardees.
d/ The Central Standing Committee will organize the
rewarding ceremonies to confer the Certificat and the Medal to
each rewardee.
ARTICLE 6: Praising and punishing
a/ Those Rewardee who have great contributions will be
rewarded following the rewarding rule of the AVF.
b/ The Certificat and the Medal will be took back if the
Rewardee does not complete own duties determinated by the Rules.
ARTICLE 7:
These Rules were adopted by the Central Standing Committee
of AVF at its Fifth session - IV Congress on June, 10, 2002 and
come into force with the signature of the AVF General Secretay.
Ha Noi, 20/6/2002
General Sercretary
Prof.Dr. of Sciences To Ngoc Thanh
(Signed)
31
PHẦN THỨ BA
CAÙC NGHEÄ NHAÂN ÑÖÔÏC PHONG TAËNG
TRONG CAÙC NAÊM 2010 - 2012
A. ÂM NHẠC DÂN GIAN
Nghệ nhân NGUYỄN VĂN THỰC
Nghệ nhân Nguyễn Văn Thực, sinh
năm 1937, tại xóm Chăm, tổ 14,
phường Thái Bình, thành phố Hòa
Bình, tỉnh Hòa Bình; Dân tộc: Mường
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy âm nhạc dân gian
Mường
Mr. Nguyen Van Thuc
Year of birth: 1937
Place of birth: Cham village, Thai Binh quarter, Hoa Binh
city, Hoa Binh province
Ethnicity: Muong ethnic minority
Practising and transmitting folk musical of Muong ethnic
minority
Từ khi còn bé, nghệ nhân đã theo ông bà và cha mẹ học đánh
cồng chiêng và các loại nhạc cụ của dân tộc như sáo ôi, nhị, đàn
tâm, pí kẻo (kèn), sáo ngang, sáo dọc, trống. Đến năm mười bảy
tuổi, ông đã tham gia biểu diễn dân ca, kéo nhị, thổi sáo, đánh
32
chiêng tại các lễ tế ở đình làng, lễ mừng nhà mới, đám cưới. Các
bài cồng chiêng, kéo nhị, thổi sáo ôi, sáo ngang mà nghệ nhân trình
tấu đều rất thuần thục. Các bài chiêng cổ đến nay nghệ nhân còn
đánh được và được mọi người khen là đánh hay, đánh có hồn như:
Pắc pôông pắc hoa; liên khúc gồm ba bài: Đi đường (túm một),
Bến rậm sông bờ (túm hai), Chầm khầm; Đi đường, Bông trắng
bông vàng, Pôông ba, Đi đường mường động, Giới chiêng…
Từ năm 1956, Đội Văn nghệ xã Thái Bình được thành lập,
ông là người đánh cồng chiêng và đàn sáo chủ chốt trong đội, vừa
biểu diễn, vừa huấn luyện thêm cho anh em. Từ năm 1958, ông
được bầu làm đội trưởng đội văn nghệ. Từ đó ông cùng anh em
trong đội đi biểu diễn ở nhiều nơi cho khách trong và ngoài nước
cùng thưởng thức âm nhạc dân gian của dân tộc mình. Đội văn
nghệ đi biểu diễn giành được nhiều huy chương, giải nhất, giải
nhì, cờ thi đua và giấy khen của trung ương và của tỉnh, hiện còn
được lưu tại phường Thái Bình.
Là người hiểu biết nhiều, nắm vững được nhiều bản nhạc và
nhạc cụ, lại làm đội trưởng đội văn nghệ của xã hơn bốn chục năm
nên nghệ nhân đã truyền dạy được cho nhiều người biết đánh cồng
chiêng, biểu diễn các loại nhạc cụ của dân tộc. Hiện nay tuy tuổi
đã cao nhưng nghệ nhân vẫn tận tình giảng dạy cho các cháu trong
đội văn nghệ để các cháu ngày càng biểu diễn thuần thục các loại
nhạc cụ của dân tộc mình.
Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Nguyễn Văn
Thực đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm
chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 20 tháng 12 năm
2011, theo Quyết định số 56/QĐKT-VNDG.
33
B. ẨM THỰC
Nghệ nhân BÙI NGỌC THÁI
Nghệ nhân Bùi Ngọc Thái, sinh
năm 1949, tại phố Nguyễn Thái
Học, thị trấn Phùng, huyện Đan
Phượng, Hà Nội; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành
và truyền dạy Ẩm thực
Mr. Bui Ngoc Thai
Year of birth: 1949
Place of birth: Nguyen Thai Hoc street, Phung commune,
Hoai Duc district, Ha Noi province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the skill of Culinary culture
Nghệ nhân Bùi Ngọc Thái là người con của thị trấn Phùng
với thương hiệu nem Phùng Thái Cam nổi tiếng khắp vùng Hoài
Đức, ông được sinh ra trong gia đình có nghề làm nem Phùng từ
đầu thế kỷ XIX. Sau khi nhập ngũ trở về địa phương, ông lại tiếp
tục phát huy nghề làm nem truyền thống của gia đình, ông đã đúc
kết được nhiều kỹ năng kinh nghiệm làm nem. Ông đã đưa thương
hiệu nem Phùng Thái Cam ngày một vang xa và chiếm phần lớn
trên thị trường.
Ngoài việc sản xuất và duy trì nghề truyền thống, làm kinh tế
gia đình, ông còn truyền dạy nghề làm nem cho con em trong vùng,
tạo thành hệ thống mạng lưới sản xuất nem ở trong vùng thị trấn,
đồng thời lưu giữ được nghề truyền thống của quê hương.
34
Với lòng say mê nghề truyền thống và những cống hiến của
mình, nghệ nhân Bùi Ngọc Thái đã được Ban Chấp hành Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ dân gian và
tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Văn nghệ dân gian ngày 20
tháng 12 năm 2011, theo Quyết định số 51/QĐKT-VNDG.
35
C. CẤP SẮC VÀ HÁT DÂN CA
Nghệ nhân LƯƠNG PHU DÙNG
Nghệ nhân Lương Phu Dùng, sinh
năm 1940, tại thôn Thanh Sơn, xã
Quảng Lợi, huyện Đầm Hà, tỉnh
Quảng Ninh; Dân tộc: Dao
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành
và truyền dạy cấp sắc
Mr. Lương Phu Dung
Year of birth: 1940
Place of birth: Thanh Son village, Quang Loi commune,
Dam Ha district, Quang Ninh province
Ethnicity: Zao ethnic minority
Practice and transmitting dances in maturity ceremony and
folk songs singing of Zao ethnic minority
Thuở nhỏ, nghệ nhân đã được tham dự các lễ cấp sắc, lớn lên
học nghề thầy cúng và làm thầy cúng tại các lễ cấp sắc (thắc) cho
con trai dân tộc Dao Thanh Y ở địa phương. Từ năm 1985 đến
nay, nghệ nhân tự nghiên cứu sách Nôm Dao, giúp đỡ truyền dạy
cho nhiều người biết chữ Hán Nôm và truyền dạy các nghi lễ cấp
sắc cho các học sinh dân tộc Dao ở huyện Đầm Hà và tham gia
sưu tầm, gìn giữ bản sắc văn hóa và phong tục người Dao ở huyện
Đầm Hà.
36
Nghệ nhân Lương Phu Dùng đang truyền dạy lễ Cấp sắc
Nghệ nhân Lương Phu Dùng đã được Ban Chấp hành Hội
Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân
dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian
ngày 4 tháng 12 năm 2012, theo Quyết định số 38/QĐKT-VNDG.
37
Nghệ nhân LÝ VĂN ÚT
Nghệ nhân Lý Văn Út, sinh năm
1941, thôn 2, xã Bằng Cả, huyện
Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh; Dân
tộc: Dao
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành
và truyền dạy nhảy cấp sắc và hát
dân ca
Mr. Ly Van Ut
Year of birth: 1941
Place of birth: 2 village, Bang Ca commune, Hoanh Bo
district, Quang Ninh province
Ethnicity: Zao ethnic minority
Practice and transmitting dances in maturity ceremony and
folk songs singing of Zao ethnic minority
Hiện nay ông là một già làng có uy tín trong cộng đồng,
được mọi người trong thôn bản kính trọng. Năm 25 tuổi ông đã
làm thầy và đi theo các thầy cúng trong bản làm nghề, đến năm
32 tuổi ông làm thầy chính, được người dân trong bản mường
tín nhiệm mời đi cúng lễ cho gia đình mình. Đến nay ông đã có
hơn ba mươi năm trong nghề. Ông là người rất am hiểu về vốn
văn hóa dân gian dân tộc mình, đặc biệt là trong các nghi lễ
nhảy cấp sắc và thuộc nhiều bài dân ca, dân vũ của người Dao.
Trên ba chục năm tận tình truyền dạy, ông đã đào tạo trưởng
thành được sáu thầy lớn, mười lăm thầy nhỏ và dạy cho rất
nhiều thanh niên trong làng biết nhảy các điệu múa trong lễ cấp
38
sắc. Ông cũng là một trong những người có nhiều đóng góp cho
việc thành lập và duy trì Đội Văn nghệ dân gian Dao Thanh Y
xã Bằng Cả. Nghệ nhân không chỉ truyền dạy cho con cháu
trong xã mà còn tận tình chỉ bảo cho các cháu xã khác như
Quảng La, Tân Dân, Uông Bí… Trong gia đình nội tộc, con trai
thì biết được các nghi lễ cúng, cấp sắc, con gái biết hát đối đáp,
hát giao duyên. Ông thường xuyên dạy bảo cho con cháu và
những người trong làng hiểu và giữ gìn truyền thống văn hóa
của dân tộc mình, lấy làm tự hào về những gì dân tộc mình còn
lưu giữ được.
Nghệ nhân Lý Văn Út đang thực hành nghi lễ Cấp sắc của người Dao
Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Lý Văn Út đã
được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong
tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì
sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 28 tháng 12 năm 2011, theo
Quyết định số 67/QĐKT-VNDG.
39
D. DÂN CA VÍ GIẶM
Nghệ nhân NGUYỄN ĐÌNH ÁI
Nghệ nhân Nguyễn Đình Ái, sinh
năm 1946, tại khối 3, phường Đậu
Liên, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà
Tĩnh; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành
và truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mr. Nguyen Dinh Ai
Year of birth: 1946
Place of birth: Dau Lien precinct, Hong Linh commune, Ha
Tinh province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Hiện nay, nghệ nhân đang tham gia sinh hoạt tại Câu lạc bộ
Dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ phường Đậu Liên. Nghệ nhân nắm
vững các làn điệu dân ca như: Ví giặm phường Vải, Ví đò đưa, Ví
giặm xẩm, Giặm kể, Giặm nối, Giận thương, Hò khoan đi đường,
Hát khuyên, Ca trù, Sắc bùa… Tuy sức khỏe yếu, nhưng nghệ
nhân vẫn cố gắng cùng câu lạc bộ truyền dạy cho nhiều thế hệ biết
hát các làn điệu dân ca, tiêu biểu như một số học viên: Phạm Thị
Hòa, Nguyễn Thị Cúc, Nguyễn Thị Huế, Thái Thị Liêm, Nguyễn
Phương… Trong quá trình hoạt động, nghệ nhân đã có một số tiểu
phẩm như: “Hát mừng chiến thắng” tham gia Liên hoan văn nghệ
toàn vùng, “Giữ vững niềm tin” tham gia Liên hoan văn nghệ
vùng Đông Nam Bộ…
40
Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Nguyễn Đình Ái
đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong
tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì
sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo
Quyết định số 23/QĐKT-VNDG.
41
Nghệ nhân TRẦN KHÁNH CẨM
Nghệ nhân Trần Khánh Cẩm, sinh
năm 1938, tại xã Bắc Kỳ, huyện Kỳ
Anh, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mr. Tran Khanh Cam
Year of birth: 1938
Place of birth: Bac Ky commune, Ky Anh district, Ha Tinh
province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Là người con được sinh ra ở vùng đất đậm chất văn hóa
truyền thống giàu bản sắc, nồng nàn chất điệu Ví giặm của xứ
Nghệ Tĩnh, ngay từ nhỏ nghệ nhân đã được nghe, được học và
thấm nhuần các làn điệu Ví giặm quê hương mình. Khi trưởng
thành nghệ nhân đã hòa mình vào đời sống văn hóa nghệ thuật, từ
đoàn Văn công Nghệ Tĩnh, rồi phòng Văn hóa huyện Kỳ Anh,
tỉnh Hà Tĩnh. Nghệ nhân luôn tích cực chăm chút cho các làn điệu
Ví giặm bằng tất cả lòng say mê nhiệt tình của mình với văn hóa
truyền thống quê hương.
Sau này, khi về nghỉ hưu, nghệ nhân đã mở lớp truyền dạy
các làn điệu dân ca Ví giặm mà mình đã nhọc công sưu tầm bảo
tồn bấy lâu cho các thế hệ con trẻ. Hiện nay ông đã đào tạo được
hàng chục người trở thành những người hát Ví giỏi và đang công
tác văn hóa nghệ thuật tại Đoàn Văn công Hà Tĩnh. Ngoài ra, ông
42
còn đào tạo một số cháu học sinh ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh biết
hát Ví giặm.
Với lòng yêu nghề tha thiết và những cống hiến của mình,
nghệ nhân Trần Khánh Cẩm đã được Ban Chấp hành Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ dân gian và
tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp Văn nghệ dân gian ngày 09
tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 06/QĐKT-VNDG.
43
Nghệ nhân LÊ HỒNG CẨN
Nghệ nhân Lê Hồng Cẩn, sinh năm
1943, tại khối 5, phường Đức Thuận,
thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; Dân
tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mr. Le Hong Can
Year of birth: 1943
Place of birth: Duc Thuan prencinct, Hong Linh commune,
Ha Tinh province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Từ năm 1964 đến năm 1975, nghệ nhân đã tham gia các
chương trình giao lưu văn nghệ, các cuộc thi về âm nhạc, nổi
bật nhất là ở đoàn văn công thuộc Đoàn Bình - Trị - Thiên, nghệ
nhân trực tiếp tham gia chỉ đạo, dàn dựng một số tiết mục và đã
đạt giải nhất toàn đoàn tại cuộc thi “Tiếng hát chiến sĩ”. Năm
1967, đạt giải nhì tại Hội diễn chiến trường B5 Quảng Trị. Sau
khi quân đoàn chuyển ra Hà Bắc (cũ), nghệ nhân đã được bầu
làm Trưởng ban Ban Công tác văn hóa của Trung đoàn, luôn đi
đầu trong các phong trào văn hóa văn nghệ. Năm 1983, xuất
ngũ trở về địa phương, tiếp tục tham gia phong trào văn hóa văn
nghệ. Trong quá trình hoạt động, nghệ nhân truyền dạy cho
nhiều thế hệ như: Huỳnh Thị Xuyên, Nguyễn Thị Liên, Đoàn
Anh Dũng, Nguyễn Thị Khoa, Nguyễn Thị Luận, Nguyễn Thị
44
Hải, Võ Thị Huyền, Lê Thị Son… Nghệ nhân đã thực hành các
bài múa như “Hò mái nhị”, các làn điệu: Lý đò đưa, hát ví giặm,
vè Nghệ Tĩnh, lẩy kiều…
Nghệ nhân Lê Hồng Cẩn đã được Ban Chấp hành Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân
gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian
ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 24/QĐKT-VNDG.
45
Nghệ nhân TRẦN MINH CHÍNH
Nghệ nhân Trần Minh Chính, sinh năm
1953, tại xã Thạch Tân, huyện Thạch
Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mr. Tran Minh Chinh
Year of birth: 1953
Place of birth: Thach Tan commune, Thach Ha district, Ha
Tinh province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Vùng đất nơi nghệ nhân Minh Chính sinh ra có truyền thống
văn hóa văn nghệ, bản thân nghệ nhân tìm thấy những điều kỳ
diệu trong văn hóa dân gian nói chung, dân ca Ví giặm nói riêng
là một món ăn tinh thần không thể thiếu được của những người
dân lao động. Trong hơn 30 năm qua, nghệ nhân được sự truyền
dạy của các nghệ nhân đi trước, đến nay, nghệ nhân đã nắm giữ
được năm thể hát Ví gồm: Ví phường cấy, Ví phường vải, Ví
phường nón, Ví đò đưa; bốn thể hát Vè, Giặm xứ Nghệ: Giặm ru,
Giặm cửa quyền, Giặm nối, Giặm kể; nắm giữ được ba thể hát Vè,
Xẩm xứ Nghệ: Vè, Xẩm thuốc bắc, Xẩm thuốc nam; và một số làn
điệu khác.
Nghệ nhân đã cùng các nghệ nhân khác tìm cách bảo lưu và
trao truyền cho lớp trẻ ở địa phương, đã có rất nhiều người trở thành
hạt nhân hát dân ca Nghệ Tĩnh. Bản thân ông là hạt nhân và là đội
46
trưởng đội văn nghệ Thạch Tân có phong trào mạnh gần 40 năm
nay, góp phần xây dựng hàng chục đội văn nghệ trong huyện, tỉnh.
Nghệ nhân Trần Minh Chính đã được Ban Chấp hành Hội
Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân
dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian
ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 12/QĐKT-VNDG.
47
Nghệ nhân NGUYỄN THỊ HÀ
Nghệ nhân Nguyễn Thị Hà, sinh năm
1951, tại xã Trường Lộc, huyện Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mrs. Nguyen Thi Ha
Year of birth: 1951
Place of birth: Truong Loc commune, Can Loc district, Ha
Tinh province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Nghệ nhân rất may mắn vì được sinh ra trong gia đình có
truyền thống văn hóa nghệ thuật. Ngay từ khi còn bé, nghệ nhân
đã được sống trên quê hương có làn điệu dân ca Ví giặm được mọi
người dân lao động yêu mến. Vì vậy trong suốt hơn bốn mươi
năm qua, bản thân nhờ có sự truyền dạy của chú mình là nghệ sĩ
ưu tú Trần Đức Duy và các thế hệ nghệ nhân đi trước như nghệ sĩ
ưu tú Xuân Năm, Thanh Bảng, cộng với sự đam mê, tự học hỏi
đến nay nghệ nhân nắm giữ được năm thể hát Ví gồm: hát Ví
phường cấy, Ví phường vải, Ví phường nón, Ví đò đưa và một số
làn điệu khác.
Với vốn hiểu biết của mình về các làn điệu dân ca Nghệ
Tĩnh gốc, ý thức được phải bảo vệ di sản của cha ông, nghệ nhân
đã truyền dạy miễn phí tại nhà cho lớp trẻ của xã nhà và các xã lân
cận một tuần hai buổi tối. Hiện nay, số học viên do nghệ nhân đào
48
tạo và truyền dạy lên tới trên năm mươi người, trong đó những
học viên trẻ do nghệ nhân đào tạo và truyền dạy đã hát được các
làn điệu gốc và phối hợp phục dựng không gian hát phường vải
Trường Lưu, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc
sắc ở địa phương. Có những học viên như Nguyễn Thị Huệ, Trần
Thị Thanh, Lê Duy Tịnh… đã là những thành viên tích cực của
Câu lạc bộ Hát phường vải Trường Lưu.
Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Nguyễn Thị Hà
đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong
tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì
sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo
Quyết định số 19/QĐKT-VNDG.
49
Nghệ nhân NGUYỄN VIẾT HOÀI
Nghệ nhân Nguyễn Viết Hoài, sinh
năm 1946, tại khối 3, phường Nam
Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà
Tĩnh; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mrs. Nguyen Viet Hoai
Year of birth: 1946
Place of birth: Nam Hong precinct, Hong Linh commune, Ha
Tinh province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Hơn 40 năm tham gia hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - văn
nghệ trong quân đội, nghệ nhân từng là diễn viên kiêm sáng tác,
đạo diễn, chỉ huy các đoàn văn công như: Tỉnh đội Hà Tĩnh, Đoàn
22B Quân khu 4, Tỉnh đội Nghệ Tĩnh. Vốn đam mê âm nhạc dân
tộc, nhất là dân ca mọi miền đất nước, rồi nghệ thuật hát tuồng,
chèo, cải lương… đặc biệt là dân ca xứ Nghệ quê hương. Sau
ngày được nghỉ hưu về tiếp tục hoạt động gắn bó với phong trào
văn hóa văn nghệ ở cơ sở (thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc và thị
xã Hồng Lĩnh). Có điều kiện thuận lợi hơn, nên nhiều năm nay
nghệ nhân lại tiếp tục sưu tầm, ghi lại và lưu giữ các làn điệu dân
ca hò, vè, ví, giặm, hát ru lời cổ. Hiện nay, nghệ nhân có trong tay
văn bản ký âm và nắm khá chắc các làn điệu dân ca xứ Nghệ (bao
gồm những làn điệu như: hò, vè, ví, giặm, và các làn điệu mới
50
được nghệ nhân cải biên phát triển trong thời gian gần đây. Bên
cạnh nghệ nhân cũng nắm được ít nhiều nghệ thuật hát Ca trù,
chèo kiều, và hát ru… Đồng thời, nghệ nhân còn dùng chất liệu
âm nhạc dân ca cổ để cải biên, phát triển sáng tạo thêm được một
số làn điệu mới để ứng dụng vào các vở kịch dân ca Nghệ Tĩnh
mà mình sáng tác. Trong quá trình công tác, nghệ nhân đã trực
tiếp truyền dạy kỹ năng hát dân ca và ngâm thơ cho nhiều thế hệ
diễn viên trong các đoàn văn công mà mình phụ trách, có người
nay đã thành danh như NSƯT Lệ Thanh, rồi Bích Tuyển, Hồng
Huệ, Hồng Doãn…
Nghệ nhân Nguyễn Viết Hoài đã được Ban Chấp hành Hội
Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân
dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian
ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 22/QĐKT-VNDG.
51
Nghệ nhân TRẦN THỊ LÝ
Nghệ nhân Trần Thị Lý, sinh năm
1950, tại xã Trường Lộc, huyện Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mrs. Tran Thi Ly
Year of birth: 1950
Place of birth: Truong Loc commune, Can Loc district, Ha
Tinh province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Nghệ nhân là con gái của nghệ sĩ ưu tú Trần Đức Duy và rất
may mắn được sinh ra trên mảnh đất có truyền thống văn hóa văn
nghệ, nơi sinh ra các danh nhân dòng họ Nguyễn Huy là những
người ham mê hát Ví giặm. Ngày nay, dân ca Ví giặm là một món
ăn tinh thần không thể thiếu được của những người dân lao động
nơi này. Vì vậy, trong hơn bốn mươi năm qua, bản thân nhờ có sự
truyền dạy của cha mình và các thế hệ nghệ nhân đi trước như
nghệ sĩ ưu tú Xuân Năm, Vi Phong, cộng với sự đam mê tự học
hỏi của cá nhân, nghệ nhân đã nắm giữ được năm thể hát ví gồm:
hát Ví phường cấy, Ví phường vải, Ví phường nón, Ví đò đưa; bốn
thể hát vè, giặm xứ Nghệ, gồm: Giặm rum, Giặm cửa quyền,
Giặm nối, Giặm kể… và một số làn điệu khác.
Với những hiểu biết của mình về dân ca Nghệ Tĩnh, nghệ
nhân đã truyền dạy miễn phí cho lớp trẻ xã nhà và các xã lân cận
52
một tuần hai buổi tối. Hiện nay số học viên do nghệ nhân đào tạo
và truyền dạy lên tới khoảng năm mươi người. Trong đó có nhiều
học viên trẻ đã đi tham gia liên hoan hát dân ca cấp huyện, cấp
tỉnh và đạt giải cao, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
dân gian địa phương. Hiện nay các học viên như Nguyễn Thị Huệ,
Nguyễn Thị Sương, Trần Đình Hùng… là những học viên xuất
sắc và là nòng cốt của Câu lạc bộ Hát phường vải Trường Lưu.
Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Trần Thị Lý đã
được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong
tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì
sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo
Quyết định số 18/QĐKT-VNDG.
53
Nghệ nhân NGUYỄN THANH MINH
Nghệ nhân Nguyễn Thanh Minh,
sinh năm 1944, tại khối 6, phường
Tân Giang, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh
Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mr. Nguyễn Thanh Minh
Year of birth: 1944
Place of birth: Tan Giang quarter, Ha Tinh city, Ha Tinh
province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Là người con của quê hương câu hò Ví Giặm, nghệ nhân
trưởng thành từ những lời ca câu hò đậm chất quê hương, khi lớn
lên ông vào quân đội, hoạt động trong lĩnh vực văn công. Sẵn vốn
văn hóa văn nghệ được học hỏi từ những bậc cao niên trong làng,
cộng với những kinh nghiệm do tìm tòi học hỏi trong suốt quá
trình công tác, nghệ nhân đã thông thạo rất nhiều các làn điệu dân
ca vùng Thanh Nghệ Tĩnh. Ông đã biểu diễn ở nhiều nơi suốt từ
miền Trung vào miền Nam, nghệ nhân cũng đã gặt hái được nhiều
thành công, nhiều giải thưởng từ lĩnh vực hát dân ca vùng Thanh
Nghệ Tĩnh.
Khi về nghỉ hưu, ông tiếp tục sưu tầm nghiên cứu các làn
điệu dân ca truyền thống độc đáo đang có nguy cơ bị mai một
trong đời sống cộng đồng. Sau đó ông có mở lớp truyền dạy lại
54
cho thế hệ trẻ là con em trong vùng, từ đó duy trì được những nét
văn hóa dân ca truyền thống của quê hương. Từ những lớp truyền
dạy của ông đã có rất nhiều thế hệ học trò hát dân ca rất thành
công và đạt nhiều thành tích cao.
Nghệ nhân Nguyễn Thanh Minh đã được Ban Chấp hành Hội
Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân
dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian
ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 09/QĐKT-VNDG.
55
Nghệ nhân VŨ THỊ THANH MINH
Nghệ nhân Vũ Thị Thanh Minh, sinh
năm 1954, tại xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mrs. Vu Thi Thanh Minh
Year of birth: 1954
Place of birth: Cam My commune, Cam Xuyen district, Ha
Tinh province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Nghệ nhân sinh ra trên vùng đất Hà Tĩnh có bề dày văn hóa
truyền thống lâu đời, lại được thừa hưởng lòng say mê hoạt động
văn hóa nghệ thuật từ người cha là biên đạo múa, do vậy nghệ
nhân đã được học hỏi và say mê văn hóa nghệ thuật từ nhỏ, đặc
biệt là lĩnh vực hát Ví ở địa phương.
Khi trưởng thành nghệ nhân tích cực tham gia vào các hoạt
động văn hóa văn nghệ ở địa phương, cùng với lòng say mê tìm
tòi học hỏi, nghệ nhân đã nắm giữ kỹ thuật, kinh nghiệm và hát
được các thể loại như: hát Ví phường vải, Ví phường chài, Ví
phường nón, Ví đò đưa...
Từ năm 2000 trở lại đây, nghệ nhân đã tham gia sinh hoạt
Câu lạc bộ hát Ví ở địa phương, mở lớp truyền dạy hát ví cho các
thế hệ thanh thiếu niên trong vùng, nhờ đó mà nghệ thuật hát ví ở
56
địa phương nơi nghệ nhân sinh sống được khôi phục và hoạt động
rất mạnh trong đời sống lao động của cộng đồng.
Với những cống hiến của mình Nghệ nhân Vũ Thị Thanh
Minh đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
phong tặng Danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm
chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm
2012, theo Quyết định số 08/QĐKT-VNDG.
57
Nghệ nhân HOÀNG BÁ NGỌC
Nghệ nhân Hoàng Bá Ngọc, sinh
năm 1955, tại Thị trấn Thiên Cầm,
huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh;
Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mr. Hoang Ba Ngoc
Year of birth: 1955
Place of birth: Thien Cam town, Cam Xuyen district, Ha
Tinh province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Từ bao đời nay, dân ca Ví Giặm là một món ăn tinh thần
không thể thiếu được của người dân lao động xứ Nghệ. Chính vì
vậy mà nghệ nhân đã ý thức được trách nhiệm của mình là phải bảo
vệ các di sản của cha ông như những thứ thiêng liêng nhất của dân
tộc mình để truyền lại cho muôn đời sau. Trong mấy chục năm qua,
nhờ có sự truyền dạy của các thế hệ nghệ nhân đi trước như nghệ sĩ
ưu tú Trần Đức Duy, Xuân Năm, Thanh Bảng, cộng với sự đam mê
tự học hỏi của cá nhân, ông đã nắm giữ được năm thể hát ví, gồm:
hát Ví phường cấy, Ví phường vải, Ví phường nón, Ví đò đưa và
một số làn điệu dân gian khác.
Với vốn hiểu biết của mình về làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh,
nghệ nhân đã truyền dạy miễn phí tại nhà cho lớp trẻ của xã và
những người ở xã lân cận một tuần hai buổi tối. Hiện nay, số học
58
viên do nghệ nhân truyền dạy lên tới khoảng năm mươi người,
trong đó những học viên trẻ do ông đào tạo và truyền dạy đã hát
được các làn điệu gốc và phối hợp phục dựng không gian hát ví
phường chài, hò chèo cạn Cẩm Nhượng, góp phần bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa dân gian đặc sắc ở địa phương. Cụ thể, các
học viên Nguyễn Thị Hường, Trần Thị Thúy, Nguyễn Mạnh Hùng,
Nguyễn Văn Minh… là những thành viên tích cực của Câu lạc bộ
Hát dân ca Ví Giặm thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên.
Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Hoàng Bá Ngọc
đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong
tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì
sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo
Quyết định số 20/QĐKT-VNDG.
59
Nghệ nhân PHẠM THẾ NHUẦN
Nghệ nhân Phạm Thế Nhuần, sinh
năm 1950, tại xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mr. Pham The Nhuan
Year of birth: 1950
Place of birth: Cam My commune, Cam Xuyen district, Ha
Tinh province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống say mê văn hóa
văn nghệ, nghệ nhân đã được gia đình tôi luyện văn nghệ truyền
thống từ nhỏ bằng những lời ca tiếng hát thấm đượm tình quê
hương Hà Tĩnh. Khi trưởng thành nghệ nhân lại có thời gian tham
gia hoạt động trong đoàn văn công Hà Tĩnh, do đó nghệ nhân
càng có nhiều điều kiện học hỏi và nâng cao kiến thức về văn hóa
văn nghệ truyền thống như hát Ví phường vải, Ví phường chài,
phường nón, phường cấy và rất nhiều làn điệu khác thuộc lĩnh vực
dân ca Nghệ Tĩnh.
Khi trở về địa phương, nghệ nhân đã phát huy tình yêu dân
ca xứ Nghệ của gia đình, cả gia đình thường đi biểu diễn và tham
gia các cuộc thi tiếng hát dân ca ở địa phương và gặt hái rất nhiều
thành công.
60
Nghệ nhân đã cùng vợ mình mở lớp truyền dạy dân ca cho
các thế hệ con em trong vùng, từ những lớp truyền dạy của nghệ
nhân Phạm Thế Nhuần đã có nhiều người thành đạt và gặt hái
được thành công từ các cuộc thi dân ca trong và ngoài tỉnh.
Với những cống hiến của mình nghệ nhân Phạm Thế Nhuần
đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong
tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì
sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo
Quyết định số 10/QĐKT-VNDG.
61
Nghệ nhân HOÀNG TÙNG
Nghệ nhân Hoàng Tùng, sinh năm
1945, tại xã Kỳ Hải, huyện Kỳ Anh,
tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mr. Hoang Tung
Year of birth: 1945
Place of birth: Ky Hai commune, Ky Anh district, Ha Tinh
province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Sinh ra và lớn lên trên vùng đất từ bao đời nay, dân ca Ví
Giặm là món ăn tinh thần của người dân Hà Tĩnh, chính điều này
nghệ nhân Hoàng Tùng đã ý thức được cần phải bảo vệ các di sản
của cha ông để trao truyền lại cho các thế hệ con cháu sau này. Vì
vậy, mấy chục năm qua nghệ nhân đã được cha chú và các nghệ
nhân đi trước truyền dạy cộng với sự đam mê những làn điệu dân
ca, nghệ nhân Hoàng Tùng đã có những đóng góp tích cực trong
hoạt động văn hóa văn nghệ. Bản thân ông đã nắm giữ được năm
thể hát Ví gồm: Ví phường cấy, Ví phường vải, Ví phường nón,
Ví đò đưa và một số làn điệu khác.
Điều đặc biệt là nghệ nhân đã sưu tầm và ghi âm lại tất cả
những làn điệu gốc do NSƯT Trần Đức Duy, người hát Ví Giặm
nổi tiếng ở Hà Tĩnh để làm cơ sở truyền dạy lại cho con cháu.
Với những làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh gốc mà nghệ nhân đã
nắm giữ, nghệ nhân đã truyền lại cho thế hệ trẻ trong xã và các
62
vùng lân cận. Hiện nay, số học trò mà nghệ nhân đã trao truyền
lên tới hơn 50 người, trong đó có học viên trẻ đã hát được các làn
điệu gốc. Nghệ nhân Hoàng Tùng đã phối hợp với địa phương
phục dựng không gian hát Sắc bùa ở xã Kỳ Hải, góp phần bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa dân gian đặc sắc ở địa phương.
Nghệ nhân Hoàng Tùng đã được Ban Chấp hành Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân
gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian
ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 11/QĐKT-VNDG.
63
Nghệ nhân NGUYỄN THỊ HỒNG VANH
Nghệ nhân Nguyễn Thị Hồng Vanh,
sinh năm 1955, tại xã Thạch Liên,
huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Dân
tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mrs. Nguyen Thi Hong Vanh
Year of birth: 1955
Place of birth: Thach Lien commune, Thach Ha district, Ha
Tinh province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Là người con của quê hương Hà Tĩnh, vùng đất giàu bản sắc
văn hóa truyền thống của dân tộc, với các làn điệu dân ca thấm
đẫm trữ tình. Nhờ đó mà từ lúc sinh ra và lớn lên, nghệ nhân luôn
được đắm mình trong các làn điệu dân ca của đất mẹ Hà Tĩnh.
Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, nghệ nhân đã có lòng
say mê với làn điệu dân ca, bà đã tham gia rất tích cực vào các
phong trào văn hóa, văn nghệ của nhà trường cũng như ở địa
phương. Lại được mẹ và các thế hệ đi trước truyền dạy cho các
làn điệu dân ca của quê hương xứ sở nên nghệ nhân sớm lĩnh hội
và phát huy được niềm đam mê của mình với các câu hò, điệu ví...
Khi trưởng thành, nghệ nhân đã hoạt động trong lĩnh vực văn
hóa văn nghệ rất tích cực ở địa phương, nghệ nhân đã đi sưu tầm
các làn điệu bị thất truyền để phục dựng và biểu diễn mỗi khi có
64
dịp. Bà còn mở các lớp truyền dạy dân ca cho thế hệ con em trong
vùng, từ đó mà các làn điệu dân ca do bà dày công sưu tầm và
phục dựng được lưu giữ một cách sinh động.
Với những cống hiến của mình nghệ nhân Nguyễn Thị Hồng
Vanh đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam
phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm
chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm
2012, theo Quyết định số 07/QĐKT-VNDG.
65
Nghệ nhân DƯƠNG THỊ XANH
Nghệ nhân Dương Thị Xanh, sinh
năm 1975, tại Cổ Đạm, huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành
và truyền dạy dân ca Ví, Giặm
Mrs. Dương Thi Xanh
Year of birth: 1975
Place of birth: Co Dam commune, Nghi Xuan, Ha Tinh
province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing
Là người con của quê hương câu hò Ví Giặm, nghệ nhân
trưởng thành từ những lời ca câu hò đậm chất quê hương, sẵn vốn
văn hóa văn nghệ được học hỏi từ những bậc cao niên trong làng,
cộng với những kinh nghiệm do tìm tòi học hỏi trong suốt quá
trình hoạt động, nghệ nhân đã thông thạo rất nhiều các làn điệu
dân ca vùng Thanh Nghệ Tĩnh. Bà đã biểu diễn ở nhiều nơi suốt
từ miền Trung vào miền Nam, nghệ nhân cũng đã gặt hái được
nhiều thành công, nhiều giải thưởng từ lĩnh vực hát dân ca vùng
Thanh Nghệ Tĩnh.
Với những công hiến của mình nghệ nhân Dương Thị Xanh
đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong
tặng danh hiệu Nghệ dân gian và tặng Kỷ niệm chương vì sự
nghiệp văn nghệ dân gian ngày 10 tháng 10 năm 2011, theo Quyết
định số 22/QĐKT-VNDG.
66
E. ĐỜN CA TÀI TỬ, CẢI LƯƠNG
Theo tư liệu lịch sử, Đờn ca Tài tử là thể loại âm nhạc thính
phòng có nguồn gốc từ Nhã nhạc cung đình Huế, do ông Nguyễn
Quang Đại, một vị quan nhạc của triều đình, truyền vào Nam từ
cuối thế kỷ XIX và nhạc lễ Nam Bộ
Nhạc Đờn ca Tài tử phổ biến ở hầu hết các xóm làng Nam
Bộ với hai phong cách lớn là phong cách "miền Đông" và "miền
Tây". Tham gia các cuộc hoà tấu Đờn ca Tài tử, các nghệ nhân thể
hiện mối quan hệ "tri âm, tri kỷ", "đồng khí tương cầu" làm trọng,
chứ không phải là trình diễn trên sân khấu như bây giờ. Vì thế nên
mới gọi là "Tài tử".
Cho đến nay, ngoài những nghệ nhân trình độ cao, hầu như
mỗi người dân Nam Bộ đều biết ca một vài "câu" hoặc đờn một vài
"lớp" trong vốn Đờn ca Tài tử. Những bài ca Vọng cổ nằm lòng,
bài ruột sẽ được trình diễn, thậm chí có bài nội dung không dính
dáng gì với hoàn cảnh thực tại vẫn ca "chay" (không có đệm đờn).
Không có ai nghe thì ca cho "mình ên" nghe cho đã. Vì "nghệ sĩ"
trước tiên là người thưởng thức sản phẩm của chính mình.
Do vậy, Đờn ca Tài tử được trình diễn trong các lễ hội, đình
đám, cưới hỏi, giỗ chạp, buổi tiễn đưa tân binh, đơn vị bộ đội lên
đường đánh giặc... không vụ lợi, không cần thù lao, gọi là "giúp
vui”, mang tính cộng đồng sâu sắc, bình đẳng giữa mọi người,
nhưng cũng là dịp để các Tài tử bày tỏ tâm sự và phô diễn tài
năng. Ai biết đờn thì đờn, biết ca thì ca, một bài cũng được, thậm
chí đờn ca có lỡ "rớt" nhịp cũng chẳng ai chê cười mà còn động
viên, khuyến khích. Những người không biết đờn ca, đủ cả trẻ già
trai gái, cả người đi đường thích thì tham gia, cũng tự nhiên đến
ngồi nghe với thái độ chăm chú thưởng thức, động viên các Tài tử
ca đờn càng hay hơn, nếu có bánh trái, trà lá bồi dưỡng cho ban
Tài tử càng tốt. Ban Tài tử nào, ở ấp, xã nào cũng có đông đảo
khán, thính giả trung thành. Cuộc chơi không hạn định giờ giấc,
chỉ khi mọi người cảm thấy thỏa mãn thì chia tay ra về dù đã
khuya còn hẹn lại buổi tối hôm sau.
67
Cứ như vậy thành lệ. Không ai bảo ai, hằng ngày làm lụng
vất vả trên đồng ruộng, hoặc có chuyện đi xa, đến chiều phải tranh
thủ về để kịp có mặt tham gia hoặc thưởng thức buổi Đờn ca Tài
tử. Năm này tháng nọ, cũng lặp lại những bài bản cũ - lâu lâu mới
có lời ca mới - nhưng người đờn lẫn người nghe vẫn không ai thấy
chán, mà trái lại họ như bị ghiền (nghiện) không có không được.
Thỉnh thoảng, để "thay đổi không khí" vài người giỏi chữ nghĩa,
nắm vững bài bản vừa sáng tác vừa ca, gọi là "văn sống" rất được
hoan nghênh. Nhiều nam, nữ thanh niên sáng dạ nghe riết thuộc
lời, thuộc giọng, được vào ca, lâu thành nghề.
Nguồn: theo www.hanam.gov.vn
68
Nghệ nhân NGUYỄN VĂN BIỂU
Nghệ nhân Nguyễn Văn Biểu (tên
thường gọi Ba Móng), sinh năm
1912, mất năm 1986, tại xã Hữu
Định, huyện Châu Thành, tỉnh Bến
Tre; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành
và truyền dạy Đờn ca Tài tử
Mr. Nguyen Van Bieu
Year of birth: 1912
Passed away: 1986
Place of birth: Huu Dinh commune, Chau Thanh district, Ben
Tre province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the Southern Amateur music -
Don ca Tai tu
Từ nhỏ, nghệ nhân được cha rước thầy dạy võ và dạy đờn về
dạy tại nhà. Nhờ sự say mê chăm chỉ tập luyện ông đã nắm vững
kiến thức cơ bản hệ thống bài bản nhạc tài tử cũng như nhạc lễ.
Ông sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ như: đờn kìm, đờn cò, đờn
tranh, đờn độc huyền và nhạc cụ nhạc lễ như: trống, kèn… danh
tiếng của ông lan rộng trong tỉnh. Ông trở thành thầy dạy đờn tài
tử, nhạc lễ và đờn cho nhiều gánh hát ở Bến Tre như: gánh Ngọc
Quang, gánh Kim Hoa, Thanh Nga - Hữu Tín và gánh Thanh
Hương. Ngoài ra, ông còn được cậu ruột là ông Bầu Hiển chủ
69
gánh hát bội Thanh Hương hướng dẫn nghệ thuật đánh trống và
thổi kèn hát bội.
Năm 1960 do chiến tranh lan rộng, ông xa gia đình đến thành
phố Mỹ Tho đờn cho gánh hát Đại Nghĩa. Ở đây, ngoài đờn cho
gánh hát ông còn dạy đờn cho nhiều học trò.
Năm 1962, ông về Bến Tre dạy đờn ca tài tử và nhạc lễ,
thời gian này ông đào tạo rất nhiều học trò cho các ban nhạc lễ
trong và ngoài tỉnh.
Năm 1977, ông là cộng tác viên đờn cổ cho Đài phát thanh
Bến Tre, đã từng thu thanh nhiều chương trình ca cổ tài tử với các
nghệ nhân đờn ca trong tỉnh và ngoài tỉnh.
Trọn cuộc đời, nghệ nhân đã dạy gần 200 học trò về nhạc lễ
và đờn ca tài tử trong đó có hai người con trai của ông cũng nối
nghiệp cha, nhiều học trò đã sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ,
bài bản tài tử, cải lương và nhạc lễ.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Biểu đã được Ban Chấp hành Hội
Văn nghệ dân gian Việt Nam truy tặng danh hiệu Nghệ nhân dân
gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày
28 tháng 12 năm 2012, theo Quyết định số 58/QĐKT-VNDG.
70
Nghệ nhân HUỲNH VĂN BIỂU
Nghệ nhân Huỳnh Văn Biểu (tên
thường gọi Hai Biểu), sinh năm
1912, mất năm 1981, tại làng Mỹ
Lệ, quận Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn,
nay là xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước,
tỉnh Long An; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy Đờn ca Tài tử
Mr. Huynh Van Bieu
Year of birth: 1912
Passed away: 1981
Place of birth: My Le village, Can Duoc district, Long An
province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the Southern Amateur music -
Don ca Tai tu
Nghệ nhân Hai Biểu sinh ra và lớn lên trên vùng đất có
truyền thống về nhạc lễ, nhạc hát bội và nhạc tài tử, nhạc sân khấu
cải lương Nam Bộ. Ông ngoại của nghệ nhân Hai Biểu là ông
Năm Xem, người học trò thuộc thế hệ đầu tiên của nghệ nhân
Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi) khi ông đến truyền dạy âm nhạc
truyền thống tại vùng Mỹ Lệ, Tân Lân, Cần Đước.
Thời niên thiếu, nghệ nhân Hai Biểu học đờn tranh với người
thầy đầu tiên là nghệ nhân Tư Chí (thân sinh của nghệ nhân Tư
71
Bền), người cùng làng Mỹ Lệ, sau đó tiếp tục thọ giáo nghệ nhân
Năm Khiết ở làng Thuận Thành, huyện Cần Giuộc - học trò thế hệ
đầu tiên của nghệ nhân Nguyễn Quang Đại. Nghệ nhân Hai Biểu
học nhạc tài tử Nam Bộ với các nhạc sư nổi tiếng trong vùng,
tham gia phong trào đờn ca tài tử rồi làm nhạc sĩ trong các ban
nhạc sân khấu cải lương nổi tiếng ở Nam Bộ, nghệ nhân Hai Biểu
thể hiện tài năng sân khấu cải lương nổi tiếng ở Nam Bộ. Ông sử
dụng thành thạo nhiều nhạc cụ truyền thống, nhưng nổi tiếng nhất
là ngón đờn tranh.
Với uy tín chuyên môn vượt trội so với các nhạc sĩ nghệ
nhân đương thời, ông được bổ nhiệm phụ trách chuyên môn Ban
cổ nhạc - Đài phát thanh Pháp Á Sài Gòn, hãng đĩa ASIA, ban
nhạc hát bội Vân Hạc Sài Gòn và được mời làm nhạc sư thỉnh
giảng ngành Quốc nhạc, Trường Quốc gia âm nhạc kịch nghệ Sài
Gòn. Ông đào tạo được nhiều thế hệ học trò thành danh trong và
ngoài nước.
Nghệ nhân - nhạc sư Huỳnh Văn Biểu trọn đời vì sự nghiệp
phát triển nghệ thuật đờn ca tài tử, sân khấu hát bội và sân khấu
cải lương Nam Bộ. Đặc biệt nổi tiếng nhất là nghệ thuật diễn tấu
đàn tranh trong cả lĩnh vực nghệ thuật đờn ca tài tử, sân khấu hát
bội và sân khấu cải lương Nam Bộ. Cây đàn tranh đã từng gắn bó
với ông trong quá trình hoạt động nghệ thuật hiện còn lưu giữ,
trưng bày tại Bảo tàng Long An.
Nghệ nhân Huỳnh Văn Biểu đã được Ban Chấp hành Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam truy tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và
tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 20 tháng
12 năm 2011, theo Quyết định số 36/QĐKT-VNDG.
72
Nghệ nhân ĐINH VĂN CHIÊU
Nghệ nhân Đinh Văn Chiêu, sinh
năm 1897, mất năm 1968, tại xã
Tân Lân, huyện Cần Đước, tỉnh
Long An; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành
và truyền dạy Đờn ca Tài tử
Mr. Đinh Van Chieu
Year of birth: 1897
Passed away: 1968
Place of birth: Tan Lan commune, Can Duoc district, Long
An province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the Southern Amateur music -
Don ca Tai tu
Ông sinh ra trong một gia đình có thân thế, cha ông là Đinh
Văn Cang, một điền chủ giàu có nổi tiếng ở tỉnh Chợ Lớn lúc bấy
giờ. Cha ông cũng là một người rất đam mê và am hiểu về âm
nhạc truyền thống, cha ông đã truyền cảm hứng và niềm đam mê
cho ông. Ông được cha cho theo học thầy Nguyễn Quang Đại,
nghệ danh là Ba Đợi, ông học rất xuất sắc và có tham gia vào các
cuộc thi đờn ca tài tử trong vùng, ông luôn đạt giải thi xuất sắc,
được mệnh danh là “Các tay đờn xuất chúng, vô địch”.
Đương thời nghệ nhân Chín Chiêu sử dụng được hầu hết
các loại nhạc cụ trong dàn nhạc tài tử Nam Bộ, đặc biệt ông rất
73
nổi danh với các loại nhạc cụ như tỳ bà, kìm, cò, nơi ông sinh
sống được gọi theo tên của ông là xóm Chín Chiêu.
Ông đã dành cả cuộc đời cho âm nhạc đờn ca tài tử, không
những chỉ biểu diễn, ông còn truyền dạy lại cho các thế hệ học trò
là con em trong vùng. Nhiều thế hệ học trò do ông đào tạo cũng nổi
tiếng và thành danh trong sự nghiệp đờn ca. Các loại nhạc cụ mà
ông sử dụng được bảo tàng Long An sưu tầm và bảo quản cho đến
tận ngày nay.
Với những cống hiến của mình nghệ nhân Đinh Văn Chiêu
đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam truy
tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì
sự nghiệp Văn nghệ dân gian ngày 20 tháng 12 năm 2011, theo
Quyết định số 33/QĐKT-VNDG.
74
Nghệ nhân VÕ VĂN CHUẨN
Nghệ nhân Võ Văn Chuẩn (Tư Bền),
sinh năm 1921, tại làng Mỹ Lệ, quận
Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc
xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước, tỉnh
Long An); Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành
và truyền dạy nhạc Đờn ca Tài tử
Mr. Vo Van Chuan
Year of birth: 1921
Place of birth: My Le village, Can Duoc district, Long An
province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the Southern Amateur music -
Don ca Tai tu
Sinh ra và lớn lên trên vùng đất có truyền thống nổi tiếng lâu
đời về nghệ thuật hát bội, nhạc lễ, đờn ca tài tử và sân khấu cải
lương, lại được sống trong một gia đình có nhiều thành viên cả ba
thế hệ đều đam mê chơi nhạc tài tử Nam Bộ, nghệ nhân Tư Bền
đến với nghệ thuật đờn ca tài tử từ năm 11 tuổi. Được cha mình là
nghệ nhân, nhạc sĩ Võ Văn Chí (Tư Chí) một nghệ nhân sử dụng
được nhiều nhạc khí (cả ba bộ hơi và bộ dây) hết lòng truyền dạy.
Không thỏa mãn với sự phát triển tài năng nghệ thuật, ông tìm đến
trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp và học hỏi thêm ở các nghệ nhân
tên tuổi như: Bảy Quế, Năm Giai, Năm Lương, Hai Biểu…
Tuy không hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp như một số nghệ
75
nhân nhạc lễ, hát bội hay sân khấu cải lương, nhưng nghệ nhân,
nhạc sĩ Tư Bền luôn nhiệt huyết với nghề, thường xuyên tham gia
sinh hoạt đờn ca tài tử Nam Bộ, ông đào tạo được nhiều môn đệ
đờn và ca tài tử Nam Bộ. Trong những thập niên 50 - 60 của thế kỷ
XX, ông từng đứng ra thành lập một nhóm hoạt động nghệ thuật
sân khấu Cải lương không chuyên, phục vụ nhân dân địa phương
trong các dịp hội hè, đình đám. Đặc biệt nhóm sân khấu Cải lương
không chuyên này toàn là những nam thanh niên sinh hoạt trong
các nhóm đờn ca tài tử trong vùng và đều là những môn đệ do ông
đào tạo.
Do có nhiều thành tích trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị
của Đờn ca tài tử, nghệ nhân Võ Văn Chuẩn đã được Ban Chấp
hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu
Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn
nghệ dân gian ngày 20 tháng 12 năm 2011, theo Quyết định số
39/QĐKT-VNDG.
76
Nghệ nhân TRÀ VĂN GIAI
Nghệ nhân Trà Văn Giai, sinh năm
1912, mất năm 2005, tại xã Tân
Lân, huyện Cần Đước, tỉnh Long
An; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy Đờn ca Tài tử
Mr. Tra Van Giai
Year of birth: 1912
Pased away: 2005
Place of birth: Tan Lan commune, Can Duoc district, Long
An province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the Southern Amateur music -
Don ca Tai tu
Ông may mắn được học người thầy là nghệ nhân nhạc sư
Nguyễn Văn Láo (Chín Láo) - vốn là truyền nhân xuất sắc thuộc
thế hệ học trò đầu tiên của nghệ nhân nhạc sư Nguyễn Quang Đại
- hết lòng truyền dạy lễ, nhạc tài tử Nam Bộ. Từ thập niên 40 cho
đến cuối thế kỷ XX, ông làm chủ Ban nhạc lễ nổi tiếng khắp vùng
Cần Đước, Cần Giuộc, ai ai cũng biết tiếng “nhạc Giai”. Về nhạc
tài tử Nam Bộ, ông thường chơi trong nhóm các nghệ nhân lừng
danh trong vùng như: Bảy Quế, Chín Phàng, Năm Lòng, Sáu
Quýnh… Ông sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ trong dàn nhạc
lễ, nhạc tài tử Nam Bộ, đã đào tạo nhiều thế hệ học trò, góp phần
rất lớn vào việc duy trì và phát triển dòng nhạc tài tử và nhạc lễ
77
Nam Bộ. Tuy ông không có điều kiện thu đĩa, thu đài phát thanh
để lưu lại tiếng nhạc của mình, nhưng tài nghệ và tên tuổi của ông
không kém các nhạc sĩ, nghệ nhân nổi tiếng như Tư Huỳnh, Bảy
Quế, Hai Biểu, Năm Lòng, Tám Nhứt…
Hiện nay Bảo tàng Long An còn lưu giữ, trưng bày cây đờn
cò đã gắn bó suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật của nghệ nhân
nhạc sư Năm Giai.
Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Trà Văn Giai đã
được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam truy tặng
danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự
nghiệp văn nghệ dân gian ngày 20 tháng 12 năm 2011, theo Quyết
định số 37/QĐKT-VNDG.
78
Nghệ nhân NGUYỄN VĂN GIỎI
Nghệ nhân Nguyễn Văn Giỏi (tên
thường gọi Mười Út), sinh năm
1915, mất năm 1995, tại xã Tân
Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc,
tỉnh Bến Tre; Dân tộc: Kinh
Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và
truyền dạy Đờn ca Tài tử
Mr. Nguyen Van Gioi
Year of birth: 1915
Passed away: 1995
Place of birth: Tan Thanh Binh commune, Mo Cay Bac
district, Ben Tre province
Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority
Practising and transmitting the Southern Amateur music -
Don ca Tai tu
Nghệ nhân Nguyễn Văn Giỏi là con trai út trong một gia đình
nhạc lễ, ngay từ nhỏ ông đã được truyền dạy và tham gia ban nhạc
lễ gia đình phục vụ tang lễ ở xã, huyện trong tỉnh. Khi phong trào
đờn ca tài tử phát triển cũng như hình thành nghệ thuật sân khấu
cải lương vào những năm 1935, nghệ nhân Nguyễn Văn Giỏi đã
nổi tiếng đàn hay, hát giỏi ở cù lao Minh thuộc tỉnh Bến Tre. Thời
đó ông đã biết sử dụng nhiều nhạc cụ như: đờn bầu, đờn cò, đờn
kìm, đờn gáo… nhưng nổi bật và điêu luyện nhất là cây đờn tranh.
Năm 1946, ông tham gia cách mạng làm công an viên ở xã
Tân Thành Bình. Năm 1947, ông ở lại quê nhà làm vườn và dạy
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3
Nghệ nhân dân gian - Tập 3

More Related Content

What's hot

Luận án tiến sĩ kỹ thuật nghiên cứu phản ứng hòa tan điện hóa tại dương cực (...
Luận án tiến sĩ kỹ thuật nghiên cứu phản ứng hòa tan điện hóa tại dương cực (...Luận án tiến sĩ kỹ thuật nghiên cứu phản ứng hòa tan điện hóa tại dương cực (...
Luận án tiến sĩ kỹ thuật nghiên cứu phản ứng hòa tan điện hóa tại dương cực (...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Phật Học lược giải - Phước Quế, Dương Đình Khuê
Phật Học lược giải - Phước Quế, Dương Đình KhuêPhật Học lược giải - Phước Quế, Dương Đình Khuê
Phật Học lược giải - Phước Quế, Dương Đình KhuêCơm Thiu
 
Giáo trình Thí nghiệm hóa hữu cơ - Võ Thị Ngà, Hoàng Minh Hảo, Hồ Phương.pdf
Giáo trình Thí nghiệm hóa hữu cơ - Võ Thị Ngà, Hoàng Minh Hảo, Hồ Phương.pdfGiáo trình Thí nghiệm hóa hữu cơ - Võ Thị Ngà, Hoàng Minh Hảo, Hồ Phương.pdf
Giáo trình Thí nghiệm hóa hữu cơ - Võ Thị Ngà, Hoàng Minh Hảo, Hồ Phương.pdfMan_Ebook
 
Nghiên cứu nồng độ acid uric máu, bệnh gút và hội chứng chuyển hóa ở người từ...
Nghiên cứu nồng độ acid uric máu, bệnh gút và hội chứng chuyển hóa ở người từ...Nghiên cứu nồng độ acid uric máu, bệnh gút và hội chứng chuyển hóa ở người từ...
Nghiên cứu nồng độ acid uric máu, bệnh gút và hội chứng chuyển hóa ở người từ...Man_Ebook
 
Thiết kế robot tham dự cuộc thi robocon 2010
Thiết kế robot tham dự cuộc thi robocon 2010Thiết kế robot tham dự cuộc thi robocon 2010
Thiết kế robot tham dự cuộc thi robocon 2010Man_Ebook
 
Khoa luan tot nghiep-2019
Khoa luan tot nghiep-2019Khoa luan tot nghiep-2019
Khoa luan tot nghiep-2019mai hanh
 
Tiểu luận kế toán tài chính doanh nghiệp
Tiểu luận kế toán tài chính doanh nghiệpTiểu luận kế toán tài chính doanh nghiệp
Tiểu luận kế toán tài chính doanh nghiệpNgọc Hưng
 
Thuat Ung Xu Cua Nguoi Xua
Thuat Ung Xu Cua Nguoi XuaThuat Ung Xu Cua Nguoi Xua
Thuat Ung Xu Cua Nguoi Xuadungpv299
 
Dich cankinh thuchanh
Dich cankinh thuchanhDich cankinh thuchanh
Dich cankinh thuchanhtran minh tho
 
So tay thap chi dao
So tay thap chi daoSo tay thap chi dao
So tay thap chi daoquyennhi
 
đáNh giá biến dị di truyền các nhóm tôm sú (penaeus monodon) làm vật liệu ban...
đáNh giá biến dị di truyền các nhóm tôm sú (penaeus monodon) làm vật liệu ban...đáNh giá biến dị di truyền các nhóm tôm sú (penaeus monodon) làm vật liệu ban...
đáNh giá biến dị di truyền các nhóm tôm sú (penaeus monodon) làm vật liệu ban...https://www.facebook.com/garmentspace
 
luận văn Quản lý cửa hàng vật liệu xây dựng
luận văn  Quản lý cửa hàng vật liệu xây dựngluận văn  Quản lý cửa hàng vật liệu xây dựng
luận văn Quản lý cửa hàng vật liệu xây dựnganh hieu
 
Nguoi trung quoc xau xi01
Nguoi trung quoc xau xi01Nguoi trung quoc xau xi01
Nguoi trung quoc xau xi01Vo Hieu Nghia
 

What's hot (16)

Luận án tiến sĩ kỹ thuật nghiên cứu phản ứng hòa tan điện hóa tại dương cực (...
Luận án tiến sĩ kỹ thuật nghiên cứu phản ứng hòa tan điện hóa tại dương cực (...Luận án tiến sĩ kỹ thuật nghiên cứu phản ứng hòa tan điện hóa tại dương cực (...
Luận án tiến sĩ kỹ thuật nghiên cứu phản ứng hòa tan điện hóa tại dương cực (...
 
Phật Học lược giải - Phước Quế, Dương Đình Khuê
Phật Học lược giải - Phước Quế, Dương Đình KhuêPhật Học lược giải - Phước Quế, Dương Đình Khuê
Phật Học lược giải - Phước Quế, Dương Đình Khuê
 
Giáo trình Thí nghiệm hóa hữu cơ - Võ Thị Ngà, Hoàng Minh Hảo, Hồ Phương.pdf
Giáo trình Thí nghiệm hóa hữu cơ - Võ Thị Ngà, Hoàng Minh Hảo, Hồ Phương.pdfGiáo trình Thí nghiệm hóa hữu cơ - Võ Thị Ngà, Hoàng Minh Hảo, Hồ Phương.pdf
Giáo trình Thí nghiệm hóa hữu cơ - Võ Thị Ngà, Hoàng Minh Hảo, Hồ Phương.pdf
 
Bài toán thiết kế luật điều khiển cho rô bốt di động kiểu bánh xe, HAY
Bài toán thiết kế luật điều khiển cho rô bốt di động kiểu bánh xe, HAYBài toán thiết kế luật điều khiển cho rô bốt di động kiểu bánh xe, HAY
Bài toán thiết kế luật điều khiển cho rô bốt di động kiểu bánh xe, HAY
 
Luận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOT
Luận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOTLuận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOT
Luận văn: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu, HOT
 
Nghiên cứu nồng độ acid uric máu, bệnh gút và hội chứng chuyển hóa ở người từ...
Nghiên cứu nồng độ acid uric máu, bệnh gút và hội chứng chuyển hóa ở người từ...Nghiên cứu nồng độ acid uric máu, bệnh gút và hội chứng chuyển hóa ở người từ...
Nghiên cứu nồng độ acid uric máu, bệnh gút và hội chứng chuyển hóa ở người từ...
 
Thiết kế robot tham dự cuộc thi robocon 2010
Thiết kế robot tham dự cuộc thi robocon 2010Thiết kế robot tham dự cuộc thi robocon 2010
Thiết kế robot tham dự cuộc thi robocon 2010
 
Khoa luan tot nghiep-2019
Khoa luan tot nghiep-2019Khoa luan tot nghiep-2019
Khoa luan tot nghiep-2019
 
Tiểu luận kế toán tài chính doanh nghiệp
Tiểu luận kế toán tài chính doanh nghiệpTiểu luận kế toán tài chính doanh nghiệp
Tiểu luận kế toán tài chính doanh nghiệp
 
Phương pháp chemometric để xác định các chất có phổ hấp thụ phân tử
Phương pháp chemometric để xác định các chất có phổ hấp thụ phân tửPhương pháp chemometric để xác định các chất có phổ hấp thụ phân tử
Phương pháp chemometric để xác định các chất có phổ hấp thụ phân tử
 
Thuat Ung Xu Cua Nguoi Xua
Thuat Ung Xu Cua Nguoi XuaThuat Ung Xu Cua Nguoi Xua
Thuat Ung Xu Cua Nguoi Xua
 
Dich cankinh thuchanh
Dich cankinh thuchanhDich cankinh thuchanh
Dich cankinh thuchanh
 
So tay thap chi dao
So tay thap chi daoSo tay thap chi dao
So tay thap chi dao
 
đáNh giá biến dị di truyền các nhóm tôm sú (penaeus monodon) làm vật liệu ban...
đáNh giá biến dị di truyền các nhóm tôm sú (penaeus monodon) làm vật liệu ban...đáNh giá biến dị di truyền các nhóm tôm sú (penaeus monodon) làm vật liệu ban...
đáNh giá biến dị di truyền các nhóm tôm sú (penaeus monodon) làm vật liệu ban...
 
luận văn Quản lý cửa hàng vật liệu xây dựng
luận văn  Quản lý cửa hàng vật liệu xây dựngluận văn  Quản lý cửa hàng vật liệu xây dựng
luận văn Quản lý cửa hàng vật liệu xây dựng
 
Nguoi trung quoc xau xi01
Nguoi trung quoc xau xi01Nguoi trung quoc xau xi01
Nguoi trung quoc xau xi01
 

Similar to Nghệ nhân dân gian - Tập 3

ĐỀ TÀI : Luận án Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
ĐỀ TÀI : Luận án Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ AnĐỀ TÀI : Luận án Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
ĐỀ TÀI : Luận án Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ AnLuận Văn 1800
 
Luận án: Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An - Gửi miễn phí ...
Luận án: Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An - Gửi miễn phí ...Luận án: Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An - Gửi miễn phí ...
Luận án: Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfMan_Ebook
 
1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf
1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf
1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdfntk2692005
 
Khóa Luận Tìm Hiểu Một Số Di Tích Thờ Trần Hưng Đạo Ở Hải Phòng.doc
Khóa Luận Tìm Hiểu Một Số Di Tích Thờ Trần Hưng Đạo Ở Hải Phòng.docKhóa Luận Tìm Hiểu Một Số Di Tích Thờ Trần Hưng Đạo Ở Hải Phòng.doc
Khóa Luận Tìm Hiểu Một Số Di Tích Thờ Trần Hưng Đạo Ở Hải Phòng.docmokoboo56
 
Đề tài Làng nghề truyền thống và ý nghĩa đối với vấn đề phát triển du lịch ở ...
Đề tài Làng nghề truyền thống và ý nghĩa đối với vấn đề phát triển du lịch ở ...Đề tài Làng nghề truyền thống và ý nghĩa đối với vấn đề phát triển du lịch ở ...
Đề tài Làng nghề truyền thống và ý nghĩa đối với vấn đề phát triển du lịch ở ...Thư viện Tài liệu mẫu
 

Similar to Nghệ nhân dân gian - Tập 3 (20)

Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAYLuận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
Luận án: Ảnh hưởng văn học dân gian trong truyện thiếu nhi, HAY
 
Phòng thủ và bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Phòng thủ và bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn (1802-1885)Phòng thủ và bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Phòng thủ và bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn (1802-1885)
 
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
Luận án: Các đàn miếu đại tự triều Nguyễn ở Huế (1802-1945)
 
Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh
Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu ThỉnhHình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh
Hình tượng biển trong trường ca Thu Bồn, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh
 
Đề tài: Bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa Cơ Tu ở Quảng Nam
Đề tài: Bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa Cơ Tu ở Quảng NamĐề tài: Bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa Cơ Tu ở Quảng Nam
Đề tài: Bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa Cơ Tu ở Quảng Nam
 
ĐỀ TÀI : Luận án Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
ĐỀ TÀI : Luận án Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ AnĐỀ TÀI : Luận án Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
ĐỀ TÀI : Luận án Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An
 
Luận án: Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An - Gửi miễn phí ...
Luận án: Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An - Gửi miễn phí ...Luận án: Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An - Gửi miễn phí ...
Luận án: Nghiên cứu tư liệu Hán Nôm về khuyến học của Nghệ An - Gửi miễn phí ...
 
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAYLuận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
Luận án: Đặc trưng thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại, HAY
 
Luận văn: Nghiên cứu đa dạng và phân bố họ Na, HAY, 9đ
Luận văn: Nghiên cứu đa dạng và phân bố họ Na, HAY, 9đLuận văn: Nghiên cứu đa dạng và phân bố họ Na, HAY, 9đ
Luận văn: Nghiên cứu đa dạng và phân bố họ Na, HAY, 9đ
 
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdfGiao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
Giao trinh van hoc trung dai Viet Nam. Tap 1.pdf
 
Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAY
Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAYĐấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAY
Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAY
 
Đề tài: Hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại Nhà hát Chèo Ninh Bình
Đề tài: Hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại Nhà hát Chèo Ninh BìnhĐề tài: Hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại Nhà hát Chèo Ninh Bình
Đề tài: Hoạt động biểu diễn nghệ thuật tại Nhà hát Chèo Ninh Bình
 
Phong trào chống phá ấp chiến lược ở miền Tây Nam Bộ (1961-1965)
Phong trào chống phá ấp chiến lược ở miền Tây Nam Bộ (1961-1965)Phong trào chống phá ấp chiến lược ở miền Tây Nam Bộ (1961-1965)
Phong trào chống phá ấp chiến lược ở miền Tây Nam Bộ (1961-1965)
 
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt NamLuận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
Luận án: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam
 
Nghiên cứu về thành phần và sự phân bố của các loài ong thuộc họ chrysididae ...
Nghiên cứu về thành phần và sự phân bố của các loài ong thuộc họ chrysididae ...Nghiên cứu về thành phần và sự phân bố của các loài ong thuộc họ chrysididae ...
Nghiên cứu về thành phần và sự phân bố của các loài ong thuộc họ chrysididae ...
 
1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf
1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf
1805vdla053_phan_thi_theu_kltn_theu_phan_4863.pdf
 
Luận án: Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung Việt Nam
Luận án: Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung Việt NamLuận án: Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung Việt Nam
Luận án: Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Trung Việt Nam
 
Khóa Luận Tìm Hiểu Một Số Di Tích Thờ Trần Hưng Đạo Ở Hải Phòng.doc
Khóa Luận Tìm Hiểu Một Số Di Tích Thờ Trần Hưng Đạo Ở Hải Phòng.docKhóa Luận Tìm Hiểu Một Số Di Tích Thờ Trần Hưng Đạo Ở Hải Phòng.doc
Khóa Luận Tìm Hiểu Một Số Di Tích Thờ Trần Hưng Đạo Ở Hải Phòng.doc
 
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAYLuận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
 
Đề tài Làng nghề truyền thống và ý nghĩa đối với vấn đề phát triển du lịch ở ...
Đề tài Làng nghề truyền thống và ý nghĩa đối với vấn đề phát triển du lịch ở ...Đề tài Làng nghề truyền thống và ý nghĩa đối với vấn đề phát triển du lịch ở ...
Đề tài Làng nghề truyền thống và ý nghĩa đối với vấn đề phát triển du lịch ở ...
 

More from Hayashi Hoàng

Thông báo về việc xét tặng Giải thường Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về V...
Thông báo về việc xét tặng Giải thường Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về V...Thông báo về việc xét tặng Giải thường Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về V...
Thông báo về việc xét tặng Giải thường Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về V...Hayashi Hoàng
 
Muc luc tieng anh so 1 2015
Muc luc tieng anh so 1 2015 Muc luc tieng anh so 1 2015
Muc luc tieng anh so 1 2015 Hayashi Hoàng
 
Muc luc tieng anh so 4 2014 B
Muc luc tieng anh so 4 2014 BMuc luc tieng anh so 4 2014 B
Muc luc tieng anh so 4 2014 BHayashi Hoàng
 
Muc luc tieng anh so 3 2014 B
Muc luc tieng anh so 3 2014 BMuc luc tieng anh so 3 2014 B
Muc luc tieng anh so 3 2014 BHayashi Hoàng
 
Nguon sang dan dang so 3.2014
Nguon sang dan dang so 3.2014Nguon sang dan dang so 3.2014
Nguon sang dan dang so 3.2014Hayashi Hoàng
 

More from Hayashi Hoàng (9)

Thông báo về việc xét tặng Giải thường Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về V...
Thông báo về việc xét tặng Giải thường Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về V...Thông báo về việc xét tặng Giải thường Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về V...
Thông báo về việc xét tặng Giải thường Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về V...
 
Don xin vao Hoi VNDG
Don xin vao Hoi VNDGDon xin vao Hoi VNDG
Don xin vao Hoi VNDG
 
Muc luc so 1 2015 tv
Muc luc so 1 2015 tv Muc luc so 1 2015 tv
Muc luc so 1 2015 tv
 
Muc luc tieng anh so 1 2015
Muc luc tieng anh so 1 2015 Muc luc tieng anh so 1 2015
Muc luc tieng anh so 1 2015
 
Tap chi so 1.2015 A
Tap chi so 1.2015 ATap chi so 1.2015 A
Tap chi so 1.2015 A
 
Muc luc tieng anh so 4 2014 B
Muc luc tieng anh so 4 2014 BMuc luc tieng anh so 4 2014 B
Muc luc tieng anh so 4 2014 B
 
Tap chi so 4.2014 a
Tap chi so 4.2014 aTap chi so 4.2014 a
Tap chi so 4.2014 a
 
Muc luc tieng anh so 3 2014 B
Muc luc tieng anh so 3 2014 BMuc luc tieng anh so 3 2014 B
Muc luc tieng anh so 3 2014 B
 
Nguon sang dan dang so 3.2014
Nguon sang dan dang so 3.2014Nguon sang dan dang so 3.2014
Nguon sang dan dang so 3.2014
 

Nghệ nhân dân gian - Tập 3

  • 1. VIETNAM’S LIVING HUMAN TREASURES REWARDED BY ASSOCIATION OF VIETNAMESE FOLKLORISTS 2010 - 2012
  • 2. 4
  • 3. 5 HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM NGHEÄ NHAÂN DAÂN GIAN TẬP 3 NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
  • 4. 6 Chỉ đạo biên soạn và đọc duyệt: GS.TSKH. TÔ NGỌC THANH Nhóm biên soạn: HÀ THỊ HƯƠNG NGUYỄN THỊ THU HÀ CAO THỊ HẢI PHẠM CÔNG HOAN Tổ chức bản thảo: VĂN PHÒNG HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM
  • 5. 7 MỤC LỤC PHẦN THỨ NHẤT: NGH Ệ NHÂN DÂN GIAN - TÀI SẢN VÔ GIÁ CỦA NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM .. 14 PHẦN THỨ HAI: QUY CHẾ PHONG TẶNG DANH HIỆU “NGHỆ NHÂN DÂN GIAN” CỦA HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN VIỆT NAM ............... 24 PHẦN THỨ BA: CÁC NGHỆ NHÂN ĐƯỢC PHONG TẶNG TRONG CÁC NĂM 2010 – 2012…………31 A. Nghệ nhân Âm nhạc dân gian..................................... 31 1. Nghệ nhân Nguyễn Văn Thực........................................ 31 B. Nghệ nhân Ẩm thực.................................................... 33 1. Nghệ nhân Bùi Ngọc Thái.............................................. 33 C. Nghệ nhân Cấp sắc và Hát dân ca............................... 35 1. Nghệ nhân Lương Phu Dùng.......................................... 35 2. Nghệ nhân Lý Văn Út..................................................... 37 D. Nghệ nhân Dân ca Ví Giặm ........................................ 39 1. Nghệ nhân Nguyễn Đình Ái........................................... 39 2. Nghệ nhân Trần Khánh Cẩm.......................................... 41 3. Nghệ nhân Lê Hồng Cẩn................................................ 43 4. Nghệ nhân Trần Minh Chính.......................................... 45 5. Nghệ nhân Nguyễn Thị Hà............................................. 47 6. Nghệ nhân Nguyễn Viết Hoài ........................................ 49 7. Nghệ nhân Trần Thị Lý.................................................. 51 8. Nghệ nhân Nguyễn Thanh Minh.................................... 53
  • 6. 8 9. Nghệ nhân Vũ Thị Thanh Minh ..................................... 55 10. Nghệ nhân Hoàng Bá Ngọc.......................................... 57 11. Nghệ nhân Phạm Thế Nhuần........................................ 59 12. Nghệ nhân Hoàng Tùng................................................ 61 13. Nghệ nhân Nguyễn Thị Hồng Vanh............................. 63 14. Nghệ nhân Dương Thị Xanh ........................................ 65 E. Nghệ nhân Đờn ca Tài tử, Cải lương.............................. 66 1. Nghệ nhân Nguyễn Văn Biểu......................................... 68 2. Nghệ nhân Huỳnh Văn Biểu .......................................... 70 3. Nghệ nhân Đinh Văn Chiêu ........................................... 72 4. Nghệ nhân Võ Văn Chuẩn.............................................. 74 5. Nghệ nhân Trà Văn Giai................................................. 76 6. Nghệ nhân Nguyễn Văn Giỏi ......................................... 78 7. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Hinh........................................ 80 8. Nghệ nhân Nguyễn Thế Huyện...................................... 82 9. Nghệ nhân Lê Hoàng Tấn............................................... 84 10. Nghệ nhân Lê Khắc Tùng ............................................ 86 11. Nghệ nhân Trương Văn Tự .......................................... 88 12. Nghệ nhân Nguyễn Văn Quế........................................ 90 F. Nghệ nhân Hát Ca trù ................................................ 92 1. Nghệ nhân Nguyễn Hồng Ấn ......................................... 93 2. Nghệ nhân Vũ Văn Cốm ................................................ 95 3. Nghệ nhân Đỗ Thị Dị ..................................................... 96 4. Nghệ nhân Phan Thị Duyệt ............................................ 97 5. Nghệ nhân Trần Văn Đài................................................ 99 6. Nghệ nhân Trần Thị Độ................................................ 101
  • 7. 9 7. Nghệ nhân Nguyễn Bá Hanh........................................ 103 8. Nghệ nhân Lê Thị Hân ................................................. 104 9. Nghệ nhân Nguyễn Đức Hồ ......................................... 105 10. Nghệ nhân Vũ Văn Hồng ........................................... 107 11. Nghệ nhân Nguyễn Thúy Hòa.................................... 109 12. Nghệ nhân Phạm Thị Huệ .......................................... 111 13. Nghệ nhân Phạm Thị Mận.......................................... 113 14. Nghệ nhân Nguyễn Văn Mùi...................................... 114 15. Nghệ nhân Đỗ Thị Khuê............................................. 116 16. Nghệ nhân Nguyễn Văn Khuê.................................... 118 17. Nghệ nhân Nguyễn Thị Kim ...................................... 120 18. Nghệ nhân Nguyễn Thị Sinh...................................... 121 19. Nghệ nhân Đỗ Thị Sông............................................. 123 20. Nghệ nhân Nguyễn Thị Thiệp.................................... 125 21. Nghệ nhân Đặng Thị Thục ......................................... 127 22. Nghệ nhân Võ Thanh Tuấn ........................................ 129 23. Nghệ nhân Nguyễn Văn Tuyến.................................. 131 24. Nghệ nhân Lê Thị Bạch Vân...................................... 133 25. Nghệ nhân Đặng Thị Thùy Vân ................................. 134 G. Nghệ nhân Hát Chầu văn ......................................... 136 1. Nghệ nhân Phan Thị Kim Dung................................... 136 2. Nghệ nhân Trần Thị Tâm ............................................. 138 H. Nghệ nhân Hát Chèo tàu .......................................... 140 1. Nghệ nhân Đông Sinh Nhật.......................................... 140 2. Nghệ nhân Ngô Thị Thu............................................... 142 3. Nghệ nhân Nguyễn Thị Tuyết...................................... 144
  • 8. 10 4. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Yến ....................................... 146 I. Nghệ nhân Hát Dân ca.............................................. 148 1. Nghệ nhân H’Ben......................................................... 148 2. Nghệ nhân Bàn Văn Khương ....................................... 150 3. Nghệ nhân Lò Văn Mặn ............................................... 152 4. Nghệ nhân Giàng A Măng............................................ 154 5. Nghệ nhân Hà Thị Mỳ.................................................. 156 6. Nghệ nhân Bàn Thị Nam.............................................. 158 7. Nghệ nhân Điêu Chính Ngâu ....................................... 160 8. Nghệ nhân Phạm Thị Niếu ........................................... 162 9. Nghệ nhân Quàng Văn Pâng ........................................ 164 10. Nghệ nhân Trương Thị Quý....................................... 166 11. Nghệ nhân Lý Chẩn Tờ .............................................. 168 12. Nghệ nhân Bàn Thị Vinh............................................ 170 J. Nghệ nhân Hát Đúm....................................................... 172 1. Nghệ nhân Phạm Thị Quyết ......................................... 172 K. Nghệ nhân Hát Giao duyên ........................................... 174 1. Nghệ nhân Nguyễn Văn Hưu ....................................... 174 L. Nghệ nhân Hát Nhà tơ, Hát Cửa đình....................... 176 1. Nghệ nhân Phùng Thị Gái............................................ 176 2. Nghệ nhân Trương Thị Phượng ................................... 178 3. Nghệ nhân Hoàng Thị Thảo ......................................... 180 4. Nghệ nhân Nguyễn Thị Từ........................................... 182 M. Nghệ nhân Hát Kể sử thi .......................................... 184 1. Nghệ nhân Mấu Thị Giêng........................................... 184 2. Nghệ nhân Cao Thị Quang........................................... 186 3. Nghệ nhân Cao Thị Thanh ........................................... 188
  • 9. 11 4. Nghệ nhân Mấu Quốc Tiến .......................................... 190 N. Nghệ nhân Hát Then ................................................ 191 1. Nghệ nhân Ngô Đức Nguyên ....................................... 191 2. Nghệ nhân Hà Thị Phương........................................... 193 3. Nghệ nhân Nông Thị Sin.............................................. 195 O. Nghệ nhân Hát Trống Quân ..................................... 197 1. Nghệ nhân Bùi Văn Bình ............................................. 197 2. Nghệ nhân Nguyễn Văn Bôn ....................................... 199 3. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Bổn ...................................... 201 4. Nghệ nhân Nguyễn Thị Điệp ....................................... 203 5. Nghệ nhân Nguyễn Thị Đưa ........................................ 205 6. Nghệ nhân Lê Thị Lâm ................................................ 207 7. Nghệ nhân Nguyễn Thị Lơ .......................................... 209 8. Nghệ nhân Lê Xuân Mau ............................................ 211 9. Nghệ nhân Hồ Văn Minh ............................................ 213 10. Nghệ nhân Tô Thị Tốn .............................................. 215 11. Nghệ nhân Nguyễn Thị Thóc .................................... 217 12. Nghệ nhân Nguyễn Thị Thanh Xuyên ...................... 219 P. Nghệ nhân Hát Văn.................................................. 220 1. Nghệ nhân Lê Bá Cao................................................... 220 2. Nghệ nhân Chu Đức Duyệt .......................................... 222 3. Nghệ nhân Nguyễn Ích Hựu......................................... 223 4. Nghệ nhân Hoàng Trọng Kha ...................................... 225 5. Nghệ nhân Nguyễn Văn Tuất....................................... 227 Q. Nghệ nhân Hát Xoan ................................................ 229 1. Nghệ nhân Nguyễn Thị Bảy......................................... 229 2. Nghệ nhân Nguyễn Thị Bẩm........................................ 230 3. Nghệ nhân Phan Thị Diệm ........................................... 231
  • 10. 12 4. Nghệ nhân Lê Thị Đá ................................................... 232 5. Nghệ nhân Nguyễn Thị Điệp........................................ 234 6. Nghệ nhân Nguyễn Văn Đọc........................................ 235 7. Nghệ nhân Nguyễn Thị Hon ....................................... 236 8. Nghệ nhân Bùi Thị Hội ............................................... 237 9. Nghệ nhân Nguyễn Thị Liên ....................................... 238 10. Nghệ nhân Nguyễn Thị Mót ...................................... 239 11. Nghệ nhân Nguyễn Thị Nhang .................................. 240 12. Nghệ nhân Nguyễn Thị Nhân .................................... 241 13. Nghệ nhân Nguyễn Thị Nhân .................................... 242 14. Nghệ nhân Phan Thị Kiếm ........................................ 243 15. Nghệ nhân Đào Thị Phụng ........................................ 244 16. Nghệ nhân Nguyễn Thị Quy ..................................... 245 17. Nghệ nhân Nguyễn Thị Sung .................................... 246 18. Nghệ nhân Lê Thị Tú ................................................ 247 19. Nghệ nhân Nguyễn Thị Thược .................................. 248 20. Nghệ nhân Nguyễn Văn Vỵ ...................................... 249 21. Nghệ nhân Bùi Thị Ý ................................................ 250 R. Nghệ nhân Kép Đàn đáy........................................... 251 1. Nghệ nhân Trần Văn Chấn........................................... 251 2. Nghệ nhân Phạm Văn Lận............................................ 253 3. Nghệ nhân Hồ Xuân Thể.............................................. 255 S. Nghệ nhân Khắp Thái .............................................. 257 1. Nghệ nhân Điêu Thị Xiêng .......................................... 257 T. Nghệ nhân Mo Mường, Mo Thái .................................. 259 1. Nghệ nhân Hoàng Văn Ành ......................................... 259 2. Nghệ nhân Hà Văn Dong ............................................. 262 3. Nghệ nhân Bùi Văn Đù ................................................ 264
  • 11. 13 4. Nghệ nhân Hoàng Văn Đường..................................... 266 5. Nghệ nhân Hà Văn Lai ................................................. 268 U. Nghệ nhân Múa Bồng .................................................... 270 1. Nghệ nhân Triệu Đình Hồng ....................................... 270 V. Nghệ nhân Múa Lân Rồng........................................ 272 1. Nghệ nhân Trần Ngọc Thứ........................................... 272 W. Nghệ nhân Nghi lễ .................................................... 274 1. Nghệ nhân Đinh Văn Bán............................................. 274 2. Nghệ nhân Đinh Văn Bính ........................................... 276 Z. Nghệ nhân Nhạc cụ dân tộc ...................................... 278 1. Nghệ nhân Huỳnh Ngọc Ẩn ......................................... 278 2. Nghệ nhân Lương Đức Phùng...................................... 280 3. Nghệ nhân Đinh Trọng Túc ......................................... 282 Y. Nghệ nhân Tri thức dân gian và Chữ Nôm Dao......... 284 1. Nghệ nhân Kim Cho (Acha Wat)................................. 284 2. Nghệ nhân Lý Seo Chơ ................................................ 286 3. Nghệ nhân Tẩn Văn Siệu.............................................. 288 Z. Nghệ nhân Trò Kiều................................................. 290 1. Nghệ nhân Nguyễn Huýnh........................................... 290 2. Nghệ nhân Lê Mã Lương ............................................. 292 3. Nghệ nhân Trần Thị Phượng ....................................... 294 4. Nghệ nhân Hồ Kim Sơn .............................................. 296
  • 12. 14 PHẦN THỨ NHẤT NGHEÄ NHAÂN DAÂN GIAN - TAØI SAÛN VOÂ GIAÙ CUÛA NEÀN VAÊN HOÙA VIEÄT NAM GS.TSKH. Tô Ngọc Thanh Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam đã sáng tạo nên nền văn hoá dân tộc mình. Nền văn hoá đó phản ánh số phận lịch sử, tâm tư nguyện vọng, tình cảm tư tưởng, đạo đức đạo lý, phương cách ứng xử với thiên nhiên và xã hội; tất cả làm nên bản sắc văn hoá riêng của mỗi tộc người. Đó là tài sản vô cùng quý giá của đất nước ta. Những điều kiện chung về môi trường sinh thái, những thăng trầm của một diễn trình lịch sử dân tộc đã đoàn kết các dân tộc Việt Nam, chung tay nhau giữ nước và dựng nước. Nhờ vậy chúng ta có một nền văn hoá Việt Nam với những đặc điểm thống nhất nhưng lại được thể hiện đa dạng trong văn hoá mỗi dân tộc thành viên. Nhờ vậy mà ngày nay, chúng ta được thừa hưởng một gia tài văn hoá dân tộc phong phú, độc đáo để trên cơ sở đó giữ gìn và phát huy, thừa kế và phát triển, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam đương đại “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Gia tài văn hoá đó tồn tại trong những dạng vẻ được phân chia một cách tương đối là văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể. Nói là phân chia tương đối vì cả hai dạng tồn tại đều là kết quả của hoạt động sáng tạo của con người. Hơn nữa, gọi là vật thể nhưng trong đó hàm chứa cả giá trị phi vật thể. Một cái đình chẳng hạn, sẽ là cái đình đúng nghĩa nếu nó là nơi thờ thành hoàng, là nơi dân làng mở hội xuân - thu, là biểu tượng tâm linh
  • 13. 15 của cả làng. Trong chiến tranh chống Mỹ, nhiều cái đình được dùng chứa đạn dược, hay lương thực. Lúc đó cái đình là kho chứa, không bao hàm ý nghĩa của một trung tâm tâm linh nữa. Đó còn chưa kể đến kiểu dáng, cấu trúc, phương pháp xây dựng bằng mộng mẹo, những mảng trang trí của cái đình thể hiện giá trị tinh thần của người sáng tạo và xây dựng cái đình. Nếu định nghĩa di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần thì trong cái đình đã hàm chứa biết bao biểu hiện của chính di sản văn hoá phi vật thể. Ngoài ra, còn có những sản phẩm tồn tại hoàn toàn trong dạng phi vật thể với đặc điểm là nó được ghi nhớ trong khối óc, trong sự hiểu biết của con người và chỉ xuất hiện, chỉ được “vật chất hoá” khi con người hoạt động. Căn cứ vào mối quan hệ của con người với một đối tượng cụ thể, tôi tạm chia ra làm năm loại đối tượng văn hoá phi vật thể: Văn hoá sản xuất phản ánh mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, qua đó con người khai thác và bảo vệ thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Mảng văn hoá này bao gồm những hiểu biết, khám phá về môi trường thiên nhiên, về tập tính cây trồng và súc vật, về thổ nhưỡng và khí hậu, về kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi, về đánh bắt thuỷ sản và săn bắt thú rừng, về tưới tiêu thuỷ lợi, những kinh nghiệm và bí quyết thủ công mỹ nghệ… Văn hoá xã hội thể hiện mối quan hệ con người với cộng đồng từ cấp độ gia đình đến tộc họ, đến xóm làng, đến dân tộc và đất nước. Mảng văn hoá này bao gồm tất cả những quy định, quy ước để một xã hội ở một giai đoạn lịch sử cụ thể được vận hành cân bằng, bình ổn và đảm bảo phát triển lâu dài. Chúng ta tìm thấy ở đây các quy chế, luật pháp, luật tục, thể lệ, những điều cho phép và những cấm kỵ, chuẩn đạo đức và đạo lý, chuẩn ứng xử của cá nhân trong cuộc sống cộng đồng…
  • 14. 16 Văn hoá sinh hoạt thể hiện mối quan hệ của con người với những nhu cầu sinh học của chính con người, được quy định thông qua tập quán và quy ước của cộng đồng. Mảng văn hoá này bao gồm các phương thức ứng xử của mỗi dân tộc đối với việc ở, việc ăn, việc mặc, việc tắm giặt, việc ngủ, tình dục, bài tiết, giữ gìn sức khoẻ và chữa bệnh… Văn hoá tâm linh thể hiện mối quan hệ của con người với những điều không trông thấy, không giải thích được, nhưng lại được con người tin rằng có thật. Những tín ngưỡng, tôn giáo, những tập tục nghi lễ, những bùa chú, bùa ngải… thuộc về mảng văn hoá này. Văn hoá nghệ thuật thể hiện mối quan hệ của con người với cái Đẹp, bao gồm các biểu hiện trong văn học, âm nhạc, múa, sân khấu, trò chơi - trò diễn, trang trí, mẫu hoa văn, kiểu dáng nhà cửa và nội thất, kiểu dáng trang phục… Như vậy, văn hoá phi vật thể bao trùm hết mọi nẻo cuộc sống con người và chiếm một tỷ trọng lấn át trong vốn di sản văn hoá của dân tộc. Phân chia làm năm loại chỉ là một thao tác làm việc chứ trong thực tế chúng gắn bó chặt chẽ và biện chứng với nhau. Vốn di sản văn hoá phi vật thể ấy, do hoàn cảnh lịch sử nước ta, chủ yếu được lưu giữ trong trí nhớ con người. Do chỗ văn hoá phi vật thể chủ yếu là văn hoá dân gian, nó là kết quả sáng tạo chủ yếu của nhân dân lao động các dân tộc trong suốt quá trình lịch sử, được kết tinh và tích tụ lại. Xưa kia chẳng những nó được mọi người trong cộng đồng, dù ít hay nhiều, lưu giữ trong trí nhớ, mà còn được cộng đồng thực hành như những hoạt động thường ngày của cộng đồng. Nó thuộc về sở hữu của cộng đồng. Tuy nhiên, trong một thời điểm lịch sử nhất định, ở một cộng đồng thường xuất hiện những con người quy tụ trong họ gần như toàn bộ vốn liếng và tài năng sáng tạo của cộng đồng về một hay
  • 15. 17 một vài lĩnh vực nào đó của văn hoá. Do vậy, họ trở thành người đại diện, người đầu đàn của cộng đồng về lĩnh vực đó. Cộng đồng tự hào về họ vì nhờ có hoạt động sáng tạo của họ mà bản sắc văn hoá của cộng đồng được thể hiện tập trung, sắc nét. Đồng thời, chính họ là người lưu giữ và truyền dạy cho thế hệ sau vốn liếng văn hoá của cộng đồng. Chẳng những thế, bằng tài năng, tâm huyết và trình độ nghề nghiệp của mình, những người này đã tự mình sáng tạo hoặc chắt lọc sáng tạo của cả cộng đồng, góp phần bổ sung, làm giàu đẹp thêm cho truyền thống và bản sắc văn hoá cộng đồng. Tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hoá của Liên hiệp quốc - UNESCO đề nghị tặng họ danh hiệu Báu vật nhân văn sống (Living Human Treasures)(1) . Còn chúng ta thì vẫn quen gọi quý vị này là nghệ nhân. Nghệ nhân đóng vai trò then chốt trong việc giữ gìn, thực hành và lưu truyền các giá trị văn hoá dân tộc. Nếu không có họ thì chắc chắn một khối lượng lớn các giá trị văn hoá sẽ không được bảo lưu một cách tập trung nhất cũng như sẽ không có “thầy” để dạy dỗ lớp trẻ. Ở nước ta, vai trò của các nghệ nhân còn quan trọng hơn nữa. Đó là vì trong văn hoá của 54 dân tộc anh em thì chỉ người Việt (Kinh) mới có thành phần văn hoá chuyên nghiệp, bác học. Văn hoá của 53 dân tộc thiểu số thì vẫn mang nặng hoặc chỉ là văn hoá dân gian. Ngay như trong văn hoá Việt cũng có rất nhiều sáng tạo của văn hoá chuyên nghiệp đã được dân gian hoá, được phổ biến và lưu truyền bằng miệng theo phương thức dân gian. Một ví dụ: nhân dân ta ngày xưa rất thuộc Truyện Kiều, nhưng không mấy ai biết cụ Nguyễn Du là tác giả. Bởi vì Truyện Kiều của cụ đã bị “công hữu hoá” trở thành tài sản chung của toàn dân rồi. Mà văn hoá dân gian thì chủ yếu được ghi nhớ trong trí nhớ con người. Mọi công đoạn phổ biến, sáng tạo, bổ sung và truyền dạy được thực hiện thông qua 1 Khuyến nghị của UNESCO tại Đại hội đồng lần thứ 25, họp tại Paris, ngày 15/11/1989.
  • 16. 18 các hành động thực hành. Nếu không có các nghệ nhân thì cộng đồng làm sao có thể thực hiện được quy trình đó? Di sản văn hoá phi vật thể nước ta được sáng tạo trong quá khứ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 trở về trước. Như thế, các nghệ nhân nắm giữ di sản này ngày hôm nay ít nhất cũng phải 70 tuổi rồi. Lại thêm ba mươi năm chiến đấu giải phóng dân tộc không có điều kiện thực hành các hoạt động văn hoá dân gian. Lại thêm ngày nay xã hội tiến nhanh chưa từng có trong lịch sử dân tộc về phía công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hoà nhập trong xu thế toàn cầu hoá và đô thị hoá cuộc sống. Tất cả những nhân tố đó đang đẩy di sản văn hoá phi vật thể các dân tộc Việt Nam tới bờ vực của sự mai một. Nhiệm vụ của thế hệ chúng ta phải là: 1. Sưu tầm gấp rút để giữ gìn và phát huy toàn bộ giá trị di sản văn hoá phi vật thể của cha ông để lại. 2. Tôn vinh chăm sóc các nghệ nhân dân gian, những người thầy tài năng, trí tuệ và hết lòng với học trò. Để thực hiện hai nhiệm vụ nói trên, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, với mục đích tôn chỉ là “sưu tầm, nghiên cứu, giữ gìn, phổ biến và truyền dạy văn hoá - văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam”, đã quyết định hai chủ trương lớn: 1. Thông qua và huy động hơn 1000 hội viên cùng 2000 cộng tác viên cả nước thực hiện một kế hoạch gọi là “Tầm nhìn 2010” (View toward the year of 2010) với mục đích là từ nay đến năm 2010 cố gắng sưu tầm và giữ gìn được về cơ bản, toàn bộ di sản văn hoá phi vật thể của các dân tộc Việt Nam. Bởi vì vốn di sản đó đang nằm trong trí nhớ các nghệ nhân. Nếu ta không kịp thời sưu tầm thì đến năm 2010, dẫu có muốn cũng không còn ai cung cấp tư liệu và dạy bảo chúng ta nữa. Vì, các nghệ nhân đã quy tiên cả.
  • 17. 19 2. Thông qua quy chế phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân dân gian của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam”, nhằm tôn vinh những người lưu giữ, thực hành và truyền dạy vốn di sản văn hoá văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam. Danh hiệu này được trao cho quý vị căn cứ trên tài năng chuyên ngành và sự đóng góp với công tác của Hội. Do vậy, đây là danh hiệu do Ban Chấp hành Hội phong tặng để ghi nhận tài năng và sự đóng góp của quý vị với công tác Hội. Căn cứ tiêu chuẩn quy định tại Quy chế công nhận danh hiệu Nghệ nhân dân gian của Hội đã được Ban Chấp hành Hội nhất trí thông qua tại kỳ họp thứ năm, khoá IV, ngày 10/6/2002, căn cứ hồ sơ do các chi hội, tỉnh thành hội gửi về Văn phòng Hội, cho đến nay (2010), Hội đồng xét danh hiệu đã bỏ phiếu và chọn ra được 180 vị trong cả nước. Hội sẽ tiếp tục xét phong tặng danh hiệu các đợt tới, mỗi năm một lần. Thông qua việc thực hiện kế hoạch “Tầm nhìn 2010”, các chi hội, tỉnh - thành hội chắc chắn sẽ phát hiện thêm các nghệ nhân tài danh nhưng chưa được biết đến. Mặt khác, qua việc phong tặng danh hiệu, Hội sẽ có thêm những người thầy về văn hoá văn nghệ dân gian và nhờ đó, kế hoạch “Tầm nhìn 2010” sẽ được thực hiện với tốc độ nhanh hơn, có chất lượng hơn. Công lao của các vị nghệ nhân là vô cùng to lớn. Chính nhờ có các vị mà qua bao nhiêu sóng gió, thăng trầm của lịch sử, vốn văn hoá - văn nghệ dân gian ngàn xưa của dân tộc Việt Nam vẫn được giữ gìn đến ngày nay. Phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của tổ chức Hội và các hội viên đến những người thầy tâm huyết và tài giỏi của mình. Nếu không có hạnh phúc được các vị nghệ nhân chỉ
  • 18. 20 bảo, cung cấp tư liệu thì sẽ không có bất cứ công trình sưu tầm, nghiên cứu nào hết. Hy vọng rằng danh hiệu khiêm tốn này sẽ được các vị nghệ nhân xem như một biểu hiện chút lòng tôn kính hết mực mà những người học trò nhỏ của các vị muốn kính dâng những người thầy của mình. Cuốn sách nhỏ này là tập thứ ba trong bộ sách của Hội viết về thân thế, tài năng và sự nghiệp của quý vị được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian của Hội. T.N.T
  • 19. 21 MASTER OF FOLKLORE AN INVALUABLE PROPERTY OF VIETNAM TRADITIONAL CULTURE (A Brief Introduction) By Prof. Dr.of Sciences To Ngoc Thanh President Association of Vietnamese Folklore Passed thousand-years history, each from 54 Vietnam ethnic groups has created own ethnic traditional culture which expressed its historical fortune, its aspirations for a peaceful and prosperous life, its moral standards, its behavioural attitudes to nature and society. The common historical, environmental conditions of a common historical process was a very important factor which has unified all Vietnam 54 ethnic groups into the task of protecting and building own Fatherland. Thank to that, nowaday we are inheriting a Vietnam traditional culture featuring common characteristics which expressed in different cultural nuances of each ethnic culture. That is the “culture key-stone” on which today we can inherit to build our contemporary “advanced and bold with national identity culture”. Depending to our historical conditions, the traditional cultural property was created, existed and developed in the form of lolklore which mainly was preserved by humman memory and was “materialized” in all kinds of people’s activities.
  • 20. 22 In Vietnam, according to the relationship of human being and any concrete object, we can divide the folklore into five different domains as follow: The culture of material production expressing the relation between human being and the nature through which the people are exploiting and at the same time, protecting the natural environment for their existence and development. The social culture expressing the relation between human being and his social community and institutions on different levels of family, clan, village, ethnicity and country. The every day life’s culture expressing the relation between human being and it’s biological demands such as eating, sleeping, secreting and sexual desire etc… Although these are biodesires but each ethnicity has own behavioural cultural expressions. The religious culture expressing the relation between human being and all “invisible things” but the people entirely believe that they are really existing. All kinds of art, including the applied one, expressing the relation between human being and the beauty. We can find out the expressions of this domain in literature, music, fine art, theatre, decoration, architecture etc… So, we can consider that the intangible culture are being in all corners of the people’s life. As a form of folk-culture the community is it’s owner. But in certain historical moment in each community are often appearing some ones who posses almost all knowledges and skilll of any domnain from folk-cultural fund of community. They become the representative, the leader of community in that folk-cultural domain. Thank to their creative
  • 21. 23 activities, the cultural identity of community becomes clearer. They are not only the preservers and bearers, but also are the teachers transmitting and passing down the cultural tradition of community to the younger generation. The UNESCO rewarded them with honor title “Living Human Treasures”. In Vietnam, according to our habit, we call them as “Masters of Folklore”. The role of Master-Bearers in our country is very important, because in the culture of 54 ethnic groups, we can find out the professional component only in the culture of Viet ethnic minority. The culture of 53 ethnic minorities is folklore preserved by human memory. In such case, all work stages such as creation, prevervation, supplementation, dissemination and transmittion are realized only through the practical activities of Masters-Bearers. They are worthy to be rewarded with any honoring title. Adopted and realized the Rules for Rewarding the Honor Title “Master of Folklore”, the Association of Vietnamese folklore would like to express their deep thank to their teachers. T.N.T
  • 22. 24 PHẦN THỨ HAI QUY CHEÁ COÂNG NHAÄN DANH HIEÄU “NGHEÄ NHAÂN DAÂN GIAN” CUÛA HOÄI VAÊN NGHEÄ DAÂN GIAN VIEÄT NAM Điều 1: Bối cảnh lịch sử Ngày nay, ở Việt Nam có 54 tộc người chung sống, mỗi tộc người đều có một tài sản văn hoá - văn nghệ dân gian phong phú, độc đáo, được lưu giữ trong trí nhớ, được truyền miệng, truyền ngón từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tài sản văn hoá này hiện đang có nguy cơ mai một trước sự biến đổi nhanh chóng về nhiều mặt của xã hội. Thực hiện khuyến nghị của UNESCO về việc “Bảo vệ văn hoá cổ truyền và văn hoá dân gian” được thông qua tại kỳ họp toàn thể Đại hội đồng lần thứ 25 tại Paris ngày 15/11/1989. Thực hiện Điều 26, Luật Di sản văn hoá, được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/6/2001 tại kỳ họp thứ chín, khoá X, đã ghi “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt”. Nhận thấy, cho đến nay ở nước ta vẫn chưa có một quy chế công nhận và tôn vinh các nghệ nhân văn hoá - văn nghệ dân gian. Rất đáng lo ngại rằng các nghệ nhân hiện đã vào tuổi 70 - 80. Căn cứ Nghị quyết Đại hội IV, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam ngày 13/5/2000.
  • 23. 25 Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam công bố và thực hiện Quy chế công nhận danh hiệu “NGHỆ NHÂN DÂN GIAN” của Hội. Điều 2: Mục đích Tôn vinh tài năng sáng tạo, công lao giữ gìn, thực hành truyền dạy giá trị, kỹ năng, bí quyết của văn hoá - văn nghệ dân gian các tộc người Việt Nam. Điều 3: Tiêu chuẩn - nghĩa vụ 3.1. Nắm giữ và thực hành ở trình độ cao những giá trị, kỹ năng, bí quyết văn hoá - văn nghệ dân gian. 3.2. Sẵn sàng và có khả năng truyền dạy toàn bộ hiểu biết của mình cho thế hệ trẻ. 3.3. Khi được Hội yêu cầu, sẵn sàng cung cấp, thực hành, trình diễn những vốn hiểu biết của mình về văn hoá - văn nghệ dân gian để Hội tiến hành sưu tầm, lưu giữ. Điều 4: Quyền lợi 4.1. Được tặng Bằng công nhận và Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian Việt Nam” của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. 4.2. Được mời tham gia các hoạt động khoa học và ngành nghề do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức như Hội thảo, triển lãm, biểu diễn… Điều 5: Quy trình tuyển chọn 5.1. Các tổ chức cơ sở của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (chi hội, tỉnh - thành hội) căn cứ Quy chế này tuyển chọn, lên danh sách, làm hồ sơ trình Ban Chấp hành Trung ương Hội. 5.2. Hồ sơ đăng ký tuyển chọn gồm: - Sơ yếu lý lịch có chứng nhận của cơ quan có thẩm quyền
  • 24. 26 - Tóm tắt thành tích hoạt động và trình độ nghề nghiệp. - Bản sao hay ảnh chụp một số sản phẩm do nghệ nhân làm hoặc truyền bảo cho con cháu làm. 5.3. Ban Chấp hành Trung ương Hội sẽ xét định kỳ các hồ sơ đăng ký mỗi năm một lần vào kỳ họp thứ hai hàng năm. 5.4. Việc trao bằng công nhận và huy chương do Ban Chấp hành Trung ương Hội cùng với tổ chức cơ sở của Hội tổ chức. Điều 6: Khen thưởng và kỷ luật 6.1. Nghệ nhân dân gian có thành tích được khen thưởng theo chế độ khen thưởng hiện hành của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. 6.2. Nghệ nhân vi phạm Quy chế này sẽ bị tước danh hiệu Nghệ nhân dân gian, thu hồi Bằng công nhận và huy hiệu. Điều 7: Quy chế này được thông qua tại kỳ hợp thường kỳ thứ năm khoá IV ngày 10/6/2002 của Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam và có hiệu lực từ ngày Tổng Thư ký Hội ký. Mọi sửa chữa ở Quy chế này phải được ít nhất 2/3 uỷ viên Ban Chấp hành thông qua. Hà Nội, ngày 20 tháng 6 năm 2002 TM. BAN CHẤP HÀNH Tổng Thư ký(*) GS.TSKH. Tô Ngọc Thanh (đã ký) (*) Từ Đại hội II đến Đại hội IV, theo Điều lệ Hội VNDG Việt Nam, chức danh lãnh đạo Hội cao nhất là Tổng Thư ký. Đến Đại hội V (2005 - 2010), chức danh cao nhất là Chủ tịch Hội, không có chức danh Tổng Thư ký.
  • 25. 27 RULES FOR REWARDING THE HONOR TITLE “MASTER OF FOLKLORE” OF ASSOCIATION OF VIETNAMESE FOLKLORISTS ARTICLE 1 Nowadays in Vietnam are cohabiting 54 ethnic groups each of which having a rich and unique fund of folk-culture and folk-arts. This cultural asset was preserved mainly by human memory and was passed down orally from generations to generations. In recent time this cultural heritage is being in danger of disappearance for ever by the very rapidly changes of society. Realising the Recommendation of UNESCO on “Safeguarding the Traditional Culture and the Folklore” adopted in the 25th UNESCO World Conference, held in Paris on November, 15, 1989. Realising the Article 26 from the “LAW FOR CULTURAL HERITAGE” adopted by Vietnam National Assembly at its 9th Session-10th Term on June, 29th 2001: “The State respects, honoring and with good policies treating the folk-culture beares and artists who preserve and disseminate the special valuable traditional arts and know-how”. Considering that until now in our country there is not any measure or action to recognise and honor our bearers of folk- culture, folk-literature and arts. Worring about that our bearers now are on 70-80 old age. Basing on the decision of IVth National Congress of Association of Vietnamese Folklorists, held in Hanoi on May, 13, 2000.
  • 26. 28 The Association of Vietnamese Folklorists promulgates and realises the Rules for Rewarding the honor title “Master of Folklore” to famous folk-culture bearers among Vietnamese ethnic groups. ARTICLE 2 The rewarding aims to honor and recongnise the creative talent, the merit of Masters of Folklore in preservation, practise and passing down all values, skills, know-how of folk-culture, folk-literature, folk-arts of all 54 Vietnamese ethnic groups. The rewarding creates the auspicious conditions for: a/ Recognition and rewarding of the community to those bearers who embody all cultural traditional skills and technology and are their holders at highest level. b/ Preservation of skills, technology, needed for continuing creation and functioning safeguarding all constituting expressions, genres, forms, types of traditional culture and folklore. c/ Training younger generations to possess and to be masters in skills, expressions, types, forms of traditional culture and flolklore. d/ Encouraging younger generations to involve in learning, practising, transmitting skills, know-how for ensuring the existence of the original authentic traditional culture and the national cultural identity. ARTICLE 3: Criterion and duties of Rewardees a/ Posseing and practising on highest level the knowledges skills, expression of one or some genres, types, forms of traditional culture and folklore.
  • 27. 29 b/ Being ready for passing down all own knowledges, skills, know-how to those younger people who voluntary involve to learn and continue the tradition. c/ Being ready for providing, pratising of performing, showing all own skill knowledges to supply the collection and archives of Association of Vietnamese Folklorists. (AVF) d/ To be recognised by the people of own community as their bearer on highest level of the traditional culture and folklore of community. c/ To be recognised by local authorities as good and legal citizen. ARTICLE 4: Benefit of Rewardee a/ Having a Certificate for the title Master of Floklore and a insignia of “Merit for preservation of folklore - culture” rewarded by the AVF. b/ To be invited to attend all scientific and professional workshops and activities held by the AVF. c/ To be invited as honor guest to attend the National Congress of AVF. d/ To be suppied with a modest financial support to maintain own professional activities and train the younger people. ARTICLE 5: Procedure of Rewardee selection and nomination a/ According to the criterion said in the Article 3 of these Rules, each provincial branch of AVF with select, listing and completing all necessary personal files concerning the merit and contributions of the rewardee. Then, submit all files to the Central Standing Committee of the AVF.
  • 28. 30 b/ The files must to include: - Curriculum Vitae of Rewwardee with the legal notarisation of local authorities. - Desciption in brief the capacity, skills, know-how and the training works to the younger people of the Rewardee. - Some copies or photoes of Rewardee’s productions and of his apprentices. c/ The Central Standing Committee will hold two selecting sessions each years to select and vote to nominate new Rewardees. d/ The Central Standing Committee will organize the rewarding ceremonies to confer the Certificat and the Medal to each rewardee. ARTICLE 6: Praising and punishing a/ Those Rewardee who have great contributions will be rewarded following the rewarding rule of the AVF. b/ The Certificat and the Medal will be took back if the Rewardee does not complete own duties determinated by the Rules. ARTICLE 7: These Rules were adopted by the Central Standing Committee of AVF at its Fifth session - IV Congress on June, 10, 2002 and come into force with the signature of the AVF General Secretay. Ha Noi, 20/6/2002 General Sercretary Prof.Dr. of Sciences To Ngoc Thanh (Signed)
  • 29. 31 PHẦN THỨ BA CAÙC NGHEÄ NHAÂN ÑÖÔÏC PHONG TAËNG TRONG CAÙC NAÊM 2010 - 2012 A. ÂM NHẠC DÂN GIAN Nghệ nhân NGUYỄN VĂN THỰC Nghệ nhân Nguyễn Văn Thực, sinh năm 1937, tại xóm Chăm, tổ 14, phường Thái Bình, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình; Dân tộc: Mường Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy âm nhạc dân gian Mường Mr. Nguyen Van Thuc Year of birth: 1937 Place of birth: Cham village, Thai Binh quarter, Hoa Binh city, Hoa Binh province Ethnicity: Muong ethnic minority Practising and transmitting folk musical of Muong ethnic minority Từ khi còn bé, nghệ nhân đã theo ông bà và cha mẹ học đánh cồng chiêng và các loại nhạc cụ của dân tộc như sáo ôi, nhị, đàn tâm, pí kẻo (kèn), sáo ngang, sáo dọc, trống. Đến năm mười bảy tuổi, ông đã tham gia biểu diễn dân ca, kéo nhị, thổi sáo, đánh
  • 30. 32 chiêng tại các lễ tế ở đình làng, lễ mừng nhà mới, đám cưới. Các bài cồng chiêng, kéo nhị, thổi sáo ôi, sáo ngang mà nghệ nhân trình tấu đều rất thuần thục. Các bài chiêng cổ đến nay nghệ nhân còn đánh được và được mọi người khen là đánh hay, đánh có hồn như: Pắc pôông pắc hoa; liên khúc gồm ba bài: Đi đường (túm một), Bến rậm sông bờ (túm hai), Chầm khầm; Đi đường, Bông trắng bông vàng, Pôông ba, Đi đường mường động, Giới chiêng… Từ năm 1956, Đội Văn nghệ xã Thái Bình được thành lập, ông là người đánh cồng chiêng và đàn sáo chủ chốt trong đội, vừa biểu diễn, vừa huấn luyện thêm cho anh em. Từ năm 1958, ông được bầu làm đội trưởng đội văn nghệ. Từ đó ông cùng anh em trong đội đi biểu diễn ở nhiều nơi cho khách trong và ngoài nước cùng thưởng thức âm nhạc dân gian của dân tộc mình. Đội văn nghệ đi biểu diễn giành được nhiều huy chương, giải nhất, giải nhì, cờ thi đua và giấy khen của trung ương và của tỉnh, hiện còn được lưu tại phường Thái Bình. Là người hiểu biết nhiều, nắm vững được nhiều bản nhạc và nhạc cụ, lại làm đội trưởng đội văn nghệ của xã hơn bốn chục năm nên nghệ nhân đã truyền dạy được cho nhiều người biết đánh cồng chiêng, biểu diễn các loại nhạc cụ của dân tộc. Hiện nay tuy tuổi đã cao nhưng nghệ nhân vẫn tận tình giảng dạy cho các cháu trong đội văn nghệ để các cháu ngày càng biểu diễn thuần thục các loại nhạc cụ của dân tộc mình. Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Nguyễn Văn Thực đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 20 tháng 12 năm 2011, theo Quyết định số 56/QĐKT-VNDG.
  • 31. 33 B. ẨM THỰC Nghệ nhân BÙI NGỌC THÁI Nghệ nhân Bùi Ngọc Thái, sinh năm 1949, tại phố Nguyễn Thái Học, thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng, Hà Nội; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy Ẩm thực Mr. Bui Ngoc Thai Year of birth: 1949 Place of birth: Nguyen Thai Hoc street, Phung commune, Hoai Duc district, Ha Noi province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the skill of Culinary culture Nghệ nhân Bùi Ngọc Thái là người con của thị trấn Phùng với thương hiệu nem Phùng Thái Cam nổi tiếng khắp vùng Hoài Đức, ông được sinh ra trong gia đình có nghề làm nem Phùng từ đầu thế kỷ XIX. Sau khi nhập ngũ trở về địa phương, ông lại tiếp tục phát huy nghề làm nem truyền thống của gia đình, ông đã đúc kết được nhiều kỹ năng kinh nghiệm làm nem. Ông đã đưa thương hiệu nem Phùng Thái Cam ngày một vang xa và chiếm phần lớn trên thị trường. Ngoài việc sản xuất và duy trì nghề truyền thống, làm kinh tế gia đình, ông còn truyền dạy nghề làm nem cho con em trong vùng, tạo thành hệ thống mạng lưới sản xuất nem ở trong vùng thị trấn, đồng thời lưu giữ được nghề truyền thống của quê hương.
  • 32. 34 Với lòng say mê nghề truyền thống và những cống hiến của mình, nghệ nhân Bùi Ngọc Thái đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ dân gian và tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Văn nghệ dân gian ngày 20 tháng 12 năm 2011, theo Quyết định số 51/QĐKT-VNDG.
  • 33. 35 C. CẤP SẮC VÀ HÁT DÂN CA Nghệ nhân LƯƠNG PHU DÙNG Nghệ nhân Lương Phu Dùng, sinh năm 1940, tại thôn Thanh Sơn, xã Quảng Lợi, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh; Dân tộc: Dao Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy cấp sắc Mr. Lương Phu Dung Year of birth: 1940 Place of birth: Thanh Son village, Quang Loi commune, Dam Ha district, Quang Ninh province Ethnicity: Zao ethnic minority Practice and transmitting dances in maturity ceremony and folk songs singing of Zao ethnic minority Thuở nhỏ, nghệ nhân đã được tham dự các lễ cấp sắc, lớn lên học nghề thầy cúng và làm thầy cúng tại các lễ cấp sắc (thắc) cho con trai dân tộc Dao Thanh Y ở địa phương. Từ năm 1985 đến nay, nghệ nhân tự nghiên cứu sách Nôm Dao, giúp đỡ truyền dạy cho nhiều người biết chữ Hán Nôm và truyền dạy các nghi lễ cấp sắc cho các học sinh dân tộc Dao ở huyện Đầm Hà và tham gia sưu tầm, gìn giữ bản sắc văn hóa và phong tục người Dao ở huyện Đầm Hà.
  • 34. 36 Nghệ nhân Lương Phu Dùng đang truyền dạy lễ Cấp sắc Nghệ nhân Lương Phu Dùng đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 4 tháng 12 năm 2012, theo Quyết định số 38/QĐKT-VNDG.
  • 35. 37 Nghệ nhân LÝ VĂN ÚT Nghệ nhân Lý Văn Út, sinh năm 1941, thôn 2, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh; Dân tộc: Dao Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy nhảy cấp sắc và hát dân ca Mr. Ly Van Ut Year of birth: 1941 Place of birth: 2 village, Bang Ca commune, Hoanh Bo district, Quang Ninh province Ethnicity: Zao ethnic minority Practice and transmitting dances in maturity ceremony and folk songs singing of Zao ethnic minority Hiện nay ông là một già làng có uy tín trong cộng đồng, được mọi người trong thôn bản kính trọng. Năm 25 tuổi ông đã làm thầy và đi theo các thầy cúng trong bản làm nghề, đến năm 32 tuổi ông làm thầy chính, được người dân trong bản mường tín nhiệm mời đi cúng lễ cho gia đình mình. Đến nay ông đã có hơn ba mươi năm trong nghề. Ông là người rất am hiểu về vốn văn hóa dân gian dân tộc mình, đặc biệt là trong các nghi lễ nhảy cấp sắc và thuộc nhiều bài dân ca, dân vũ của người Dao. Trên ba chục năm tận tình truyền dạy, ông đã đào tạo trưởng thành được sáu thầy lớn, mười lăm thầy nhỏ và dạy cho rất nhiều thanh niên trong làng biết nhảy các điệu múa trong lễ cấp
  • 36. 38 sắc. Ông cũng là một trong những người có nhiều đóng góp cho việc thành lập và duy trì Đội Văn nghệ dân gian Dao Thanh Y xã Bằng Cả. Nghệ nhân không chỉ truyền dạy cho con cháu trong xã mà còn tận tình chỉ bảo cho các cháu xã khác như Quảng La, Tân Dân, Uông Bí… Trong gia đình nội tộc, con trai thì biết được các nghi lễ cúng, cấp sắc, con gái biết hát đối đáp, hát giao duyên. Ông thường xuyên dạy bảo cho con cháu và những người trong làng hiểu và giữ gìn truyền thống văn hóa của dân tộc mình, lấy làm tự hào về những gì dân tộc mình còn lưu giữ được. Nghệ nhân Lý Văn Út đang thực hành nghi lễ Cấp sắc của người Dao Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Lý Văn Út đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 28 tháng 12 năm 2011, theo Quyết định số 67/QĐKT-VNDG.
  • 37. 39 D. DÂN CA VÍ GIẶM Nghệ nhân NGUYỄN ĐÌNH ÁI Nghệ nhân Nguyễn Đình Ái, sinh năm 1946, tại khối 3, phường Đậu Liên, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mr. Nguyen Dinh Ai Year of birth: 1946 Place of birth: Dau Lien precinct, Hong Linh commune, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Hiện nay, nghệ nhân đang tham gia sinh hoạt tại Câu lạc bộ Dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ phường Đậu Liên. Nghệ nhân nắm vững các làn điệu dân ca như: Ví giặm phường Vải, Ví đò đưa, Ví giặm xẩm, Giặm kể, Giặm nối, Giận thương, Hò khoan đi đường, Hát khuyên, Ca trù, Sắc bùa… Tuy sức khỏe yếu, nhưng nghệ nhân vẫn cố gắng cùng câu lạc bộ truyền dạy cho nhiều thế hệ biết hát các làn điệu dân ca, tiêu biểu như một số học viên: Phạm Thị Hòa, Nguyễn Thị Cúc, Nguyễn Thị Huế, Thái Thị Liêm, Nguyễn Phương… Trong quá trình hoạt động, nghệ nhân đã có một số tiểu phẩm như: “Hát mừng chiến thắng” tham gia Liên hoan văn nghệ toàn vùng, “Giữ vững niềm tin” tham gia Liên hoan văn nghệ vùng Đông Nam Bộ…
  • 38. 40 Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Nguyễn Đình Ái đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 23/QĐKT-VNDG.
  • 39. 41 Nghệ nhân TRẦN KHÁNH CẨM Nghệ nhân Trần Khánh Cẩm, sinh năm 1938, tại xã Bắc Kỳ, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mr. Tran Khanh Cam Year of birth: 1938 Place of birth: Bac Ky commune, Ky Anh district, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Là người con được sinh ra ở vùng đất đậm chất văn hóa truyền thống giàu bản sắc, nồng nàn chất điệu Ví giặm của xứ Nghệ Tĩnh, ngay từ nhỏ nghệ nhân đã được nghe, được học và thấm nhuần các làn điệu Ví giặm quê hương mình. Khi trưởng thành nghệ nhân đã hòa mình vào đời sống văn hóa nghệ thuật, từ đoàn Văn công Nghệ Tĩnh, rồi phòng Văn hóa huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Nghệ nhân luôn tích cực chăm chút cho các làn điệu Ví giặm bằng tất cả lòng say mê nhiệt tình của mình với văn hóa truyền thống quê hương. Sau này, khi về nghỉ hưu, nghệ nhân đã mở lớp truyền dạy các làn điệu dân ca Ví giặm mà mình đã nhọc công sưu tầm bảo tồn bấy lâu cho các thế hệ con trẻ. Hiện nay ông đã đào tạo được hàng chục người trở thành những người hát Ví giỏi và đang công tác văn hóa nghệ thuật tại Đoàn Văn công Hà Tĩnh. Ngoài ra, ông
  • 40. 42 còn đào tạo một số cháu học sinh ở huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh biết hát Ví giặm. Với lòng yêu nghề tha thiết và những cống hiến của mình, nghệ nhân Trần Khánh Cẩm đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp Văn nghệ dân gian ngày 09 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 06/QĐKT-VNDG.
  • 41. 43 Nghệ nhân LÊ HỒNG CẨN Nghệ nhân Lê Hồng Cẩn, sinh năm 1943, tại khối 5, phường Đức Thuận, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mr. Le Hong Can Year of birth: 1943 Place of birth: Duc Thuan prencinct, Hong Linh commune, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Từ năm 1964 đến năm 1975, nghệ nhân đã tham gia các chương trình giao lưu văn nghệ, các cuộc thi về âm nhạc, nổi bật nhất là ở đoàn văn công thuộc Đoàn Bình - Trị - Thiên, nghệ nhân trực tiếp tham gia chỉ đạo, dàn dựng một số tiết mục và đã đạt giải nhất toàn đoàn tại cuộc thi “Tiếng hát chiến sĩ”. Năm 1967, đạt giải nhì tại Hội diễn chiến trường B5 Quảng Trị. Sau khi quân đoàn chuyển ra Hà Bắc (cũ), nghệ nhân đã được bầu làm Trưởng ban Ban Công tác văn hóa của Trung đoàn, luôn đi đầu trong các phong trào văn hóa văn nghệ. Năm 1983, xuất ngũ trở về địa phương, tiếp tục tham gia phong trào văn hóa văn nghệ. Trong quá trình hoạt động, nghệ nhân truyền dạy cho nhiều thế hệ như: Huỳnh Thị Xuyên, Nguyễn Thị Liên, Đoàn Anh Dũng, Nguyễn Thị Khoa, Nguyễn Thị Luận, Nguyễn Thị
  • 42. 44 Hải, Võ Thị Huyền, Lê Thị Son… Nghệ nhân đã thực hành các bài múa như “Hò mái nhị”, các làn điệu: Lý đò đưa, hát ví giặm, vè Nghệ Tĩnh, lẩy kiều… Nghệ nhân Lê Hồng Cẩn đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 24/QĐKT-VNDG.
  • 43. 45 Nghệ nhân TRẦN MINH CHÍNH Nghệ nhân Trần Minh Chính, sinh năm 1953, tại xã Thạch Tân, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mr. Tran Minh Chinh Year of birth: 1953 Place of birth: Thach Tan commune, Thach Ha district, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Vùng đất nơi nghệ nhân Minh Chính sinh ra có truyền thống văn hóa văn nghệ, bản thân nghệ nhân tìm thấy những điều kỳ diệu trong văn hóa dân gian nói chung, dân ca Ví giặm nói riêng là một món ăn tinh thần không thể thiếu được của những người dân lao động. Trong hơn 30 năm qua, nghệ nhân được sự truyền dạy của các nghệ nhân đi trước, đến nay, nghệ nhân đã nắm giữ được năm thể hát Ví gồm: Ví phường cấy, Ví phường vải, Ví phường nón, Ví đò đưa; bốn thể hát Vè, Giặm xứ Nghệ: Giặm ru, Giặm cửa quyền, Giặm nối, Giặm kể; nắm giữ được ba thể hát Vè, Xẩm xứ Nghệ: Vè, Xẩm thuốc bắc, Xẩm thuốc nam; và một số làn điệu khác. Nghệ nhân đã cùng các nghệ nhân khác tìm cách bảo lưu và trao truyền cho lớp trẻ ở địa phương, đã có rất nhiều người trở thành hạt nhân hát dân ca Nghệ Tĩnh. Bản thân ông là hạt nhân và là đội
  • 44. 46 trưởng đội văn nghệ Thạch Tân có phong trào mạnh gần 40 năm nay, góp phần xây dựng hàng chục đội văn nghệ trong huyện, tỉnh. Nghệ nhân Trần Minh Chính đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 12/QĐKT-VNDG.
  • 45. 47 Nghệ nhân NGUYỄN THỊ HÀ Nghệ nhân Nguyễn Thị Hà, sinh năm 1951, tại xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mrs. Nguyen Thi Ha Year of birth: 1951 Place of birth: Truong Loc commune, Can Loc district, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Nghệ nhân rất may mắn vì được sinh ra trong gia đình có truyền thống văn hóa nghệ thuật. Ngay từ khi còn bé, nghệ nhân đã được sống trên quê hương có làn điệu dân ca Ví giặm được mọi người dân lao động yêu mến. Vì vậy trong suốt hơn bốn mươi năm qua, bản thân nhờ có sự truyền dạy của chú mình là nghệ sĩ ưu tú Trần Đức Duy và các thế hệ nghệ nhân đi trước như nghệ sĩ ưu tú Xuân Năm, Thanh Bảng, cộng với sự đam mê, tự học hỏi đến nay nghệ nhân nắm giữ được năm thể hát Ví gồm: hát Ví phường cấy, Ví phường vải, Ví phường nón, Ví đò đưa và một số làn điệu khác. Với vốn hiểu biết của mình về các làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh gốc, ý thức được phải bảo vệ di sản của cha ông, nghệ nhân đã truyền dạy miễn phí tại nhà cho lớp trẻ của xã nhà và các xã lân cận một tuần hai buổi tối. Hiện nay, số học viên do nghệ nhân đào
  • 46. 48 tạo và truyền dạy lên tới trên năm mươi người, trong đó những học viên trẻ do nghệ nhân đào tạo và truyền dạy đã hát được các làn điệu gốc và phối hợp phục dựng không gian hát phường vải Trường Lưu, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc ở địa phương. Có những học viên như Nguyễn Thị Huệ, Trần Thị Thanh, Lê Duy Tịnh… đã là những thành viên tích cực của Câu lạc bộ Hát phường vải Trường Lưu. Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Nguyễn Thị Hà đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 19/QĐKT-VNDG.
  • 47. 49 Nghệ nhân NGUYỄN VIẾT HOÀI Nghệ nhân Nguyễn Viết Hoài, sinh năm 1946, tại khối 3, phường Nam Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mrs. Nguyen Viet Hoai Year of birth: 1946 Place of birth: Nam Hong precinct, Hong Linh commune, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Hơn 40 năm tham gia hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - văn nghệ trong quân đội, nghệ nhân từng là diễn viên kiêm sáng tác, đạo diễn, chỉ huy các đoàn văn công như: Tỉnh đội Hà Tĩnh, Đoàn 22B Quân khu 4, Tỉnh đội Nghệ Tĩnh. Vốn đam mê âm nhạc dân tộc, nhất là dân ca mọi miền đất nước, rồi nghệ thuật hát tuồng, chèo, cải lương… đặc biệt là dân ca xứ Nghệ quê hương. Sau ngày được nghỉ hưu về tiếp tục hoạt động gắn bó với phong trào văn hóa văn nghệ ở cơ sở (thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc và thị xã Hồng Lĩnh). Có điều kiện thuận lợi hơn, nên nhiều năm nay nghệ nhân lại tiếp tục sưu tầm, ghi lại và lưu giữ các làn điệu dân ca hò, vè, ví, giặm, hát ru lời cổ. Hiện nay, nghệ nhân có trong tay văn bản ký âm và nắm khá chắc các làn điệu dân ca xứ Nghệ (bao gồm những làn điệu như: hò, vè, ví, giặm, và các làn điệu mới
  • 48. 50 được nghệ nhân cải biên phát triển trong thời gian gần đây. Bên cạnh nghệ nhân cũng nắm được ít nhiều nghệ thuật hát Ca trù, chèo kiều, và hát ru… Đồng thời, nghệ nhân còn dùng chất liệu âm nhạc dân ca cổ để cải biên, phát triển sáng tạo thêm được một số làn điệu mới để ứng dụng vào các vở kịch dân ca Nghệ Tĩnh mà mình sáng tác. Trong quá trình công tác, nghệ nhân đã trực tiếp truyền dạy kỹ năng hát dân ca và ngâm thơ cho nhiều thế hệ diễn viên trong các đoàn văn công mà mình phụ trách, có người nay đã thành danh như NSƯT Lệ Thanh, rồi Bích Tuyển, Hồng Huệ, Hồng Doãn… Nghệ nhân Nguyễn Viết Hoài đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 22/QĐKT-VNDG.
  • 49. 51 Nghệ nhân TRẦN THỊ LÝ Nghệ nhân Trần Thị Lý, sinh năm 1950, tại xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mrs. Tran Thi Ly Year of birth: 1950 Place of birth: Truong Loc commune, Can Loc district, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Nghệ nhân là con gái của nghệ sĩ ưu tú Trần Đức Duy và rất may mắn được sinh ra trên mảnh đất có truyền thống văn hóa văn nghệ, nơi sinh ra các danh nhân dòng họ Nguyễn Huy là những người ham mê hát Ví giặm. Ngày nay, dân ca Ví giặm là một món ăn tinh thần không thể thiếu được của những người dân lao động nơi này. Vì vậy, trong hơn bốn mươi năm qua, bản thân nhờ có sự truyền dạy của cha mình và các thế hệ nghệ nhân đi trước như nghệ sĩ ưu tú Xuân Năm, Vi Phong, cộng với sự đam mê tự học hỏi của cá nhân, nghệ nhân đã nắm giữ được năm thể hát ví gồm: hát Ví phường cấy, Ví phường vải, Ví phường nón, Ví đò đưa; bốn thể hát vè, giặm xứ Nghệ, gồm: Giặm rum, Giặm cửa quyền, Giặm nối, Giặm kể… và một số làn điệu khác. Với những hiểu biết của mình về dân ca Nghệ Tĩnh, nghệ nhân đã truyền dạy miễn phí cho lớp trẻ xã nhà và các xã lân cận
  • 50. 52 một tuần hai buổi tối. Hiện nay số học viên do nghệ nhân đào tạo và truyền dạy lên tới khoảng năm mươi người. Trong đó có nhiều học viên trẻ đã đi tham gia liên hoan hát dân ca cấp huyện, cấp tỉnh và đạt giải cao, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân gian địa phương. Hiện nay các học viên như Nguyễn Thị Huệ, Nguyễn Thị Sương, Trần Đình Hùng… là những học viên xuất sắc và là nòng cốt của Câu lạc bộ Hát phường vải Trường Lưu. Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Trần Thị Lý đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 18/QĐKT-VNDG.
  • 51. 53 Nghệ nhân NGUYỄN THANH MINH Nghệ nhân Nguyễn Thanh Minh, sinh năm 1944, tại khối 6, phường Tân Giang, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mr. Nguyễn Thanh Minh Year of birth: 1944 Place of birth: Tan Giang quarter, Ha Tinh city, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Là người con của quê hương câu hò Ví Giặm, nghệ nhân trưởng thành từ những lời ca câu hò đậm chất quê hương, khi lớn lên ông vào quân đội, hoạt động trong lĩnh vực văn công. Sẵn vốn văn hóa văn nghệ được học hỏi từ những bậc cao niên trong làng, cộng với những kinh nghiệm do tìm tòi học hỏi trong suốt quá trình công tác, nghệ nhân đã thông thạo rất nhiều các làn điệu dân ca vùng Thanh Nghệ Tĩnh. Ông đã biểu diễn ở nhiều nơi suốt từ miền Trung vào miền Nam, nghệ nhân cũng đã gặt hái được nhiều thành công, nhiều giải thưởng từ lĩnh vực hát dân ca vùng Thanh Nghệ Tĩnh. Khi về nghỉ hưu, ông tiếp tục sưu tầm nghiên cứu các làn điệu dân ca truyền thống độc đáo đang có nguy cơ bị mai một trong đời sống cộng đồng. Sau đó ông có mở lớp truyền dạy lại
  • 52. 54 cho thế hệ trẻ là con em trong vùng, từ đó duy trì được những nét văn hóa dân ca truyền thống của quê hương. Từ những lớp truyền dạy của ông đã có rất nhiều thế hệ học trò hát dân ca rất thành công và đạt nhiều thành tích cao. Nghệ nhân Nguyễn Thanh Minh đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 09/QĐKT-VNDG.
  • 53. 55 Nghệ nhân VŨ THỊ THANH MINH Nghệ nhân Vũ Thị Thanh Minh, sinh năm 1954, tại xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mrs. Vu Thi Thanh Minh Year of birth: 1954 Place of birth: Cam My commune, Cam Xuyen district, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Nghệ nhân sinh ra trên vùng đất Hà Tĩnh có bề dày văn hóa truyền thống lâu đời, lại được thừa hưởng lòng say mê hoạt động văn hóa nghệ thuật từ người cha là biên đạo múa, do vậy nghệ nhân đã được học hỏi và say mê văn hóa nghệ thuật từ nhỏ, đặc biệt là lĩnh vực hát Ví ở địa phương. Khi trưởng thành nghệ nhân tích cực tham gia vào các hoạt động văn hóa văn nghệ ở địa phương, cùng với lòng say mê tìm tòi học hỏi, nghệ nhân đã nắm giữ kỹ thuật, kinh nghiệm và hát được các thể loại như: hát Ví phường vải, Ví phường chài, Ví phường nón, Ví đò đưa... Từ năm 2000 trở lại đây, nghệ nhân đã tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ hát Ví ở địa phương, mở lớp truyền dạy hát ví cho các thế hệ thanh thiếu niên trong vùng, nhờ đó mà nghệ thuật hát ví ở
  • 54. 56 địa phương nơi nghệ nhân sinh sống được khôi phục và hoạt động rất mạnh trong đời sống lao động của cộng đồng. Với những cống hiến của mình Nghệ nhân Vũ Thị Thanh Minh đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng Danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 08/QĐKT-VNDG.
  • 55. 57 Nghệ nhân HOÀNG BÁ NGỌC Nghệ nhân Hoàng Bá Ngọc, sinh năm 1955, tại Thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mr. Hoang Ba Ngoc Year of birth: 1955 Place of birth: Thien Cam town, Cam Xuyen district, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Từ bao đời nay, dân ca Ví Giặm là một món ăn tinh thần không thể thiếu được của người dân lao động xứ Nghệ. Chính vì vậy mà nghệ nhân đã ý thức được trách nhiệm của mình là phải bảo vệ các di sản của cha ông như những thứ thiêng liêng nhất của dân tộc mình để truyền lại cho muôn đời sau. Trong mấy chục năm qua, nhờ có sự truyền dạy của các thế hệ nghệ nhân đi trước như nghệ sĩ ưu tú Trần Đức Duy, Xuân Năm, Thanh Bảng, cộng với sự đam mê tự học hỏi của cá nhân, ông đã nắm giữ được năm thể hát ví, gồm: hát Ví phường cấy, Ví phường vải, Ví phường nón, Ví đò đưa và một số làn điệu dân gian khác. Với vốn hiểu biết của mình về làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh, nghệ nhân đã truyền dạy miễn phí tại nhà cho lớp trẻ của xã và những người ở xã lân cận một tuần hai buổi tối. Hiện nay, số học
  • 56. 58 viên do nghệ nhân truyền dạy lên tới khoảng năm mươi người, trong đó những học viên trẻ do ông đào tạo và truyền dạy đã hát được các làn điệu gốc và phối hợp phục dựng không gian hát ví phường chài, hò chèo cạn Cẩm Nhượng, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân gian đặc sắc ở địa phương. Cụ thể, các học viên Nguyễn Thị Hường, Trần Thị Thúy, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Minh… là những thành viên tích cực của Câu lạc bộ Hát dân ca Ví Giặm thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên. Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Hoàng Bá Ngọc đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 20/QĐKT-VNDG.
  • 57. 59 Nghệ nhân PHẠM THẾ NHUẦN Nghệ nhân Phạm Thế Nhuần, sinh năm 1950, tại xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mr. Pham The Nhuan Year of birth: 1950 Place of birth: Cam My commune, Cam Xuyen district, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Sinh ra trong một gia đình có truyền thống say mê văn hóa văn nghệ, nghệ nhân đã được gia đình tôi luyện văn nghệ truyền thống từ nhỏ bằng những lời ca tiếng hát thấm đượm tình quê hương Hà Tĩnh. Khi trưởng thành nghệ nhân lại có thời gian tham gia hoạt động trong đoàn văn công Hà Tĩnh, do đó nghệ nhân càng có nhiều điều kiện học hỏi và nâng cao kiến thức về văn hóa văn nghệ truyền thống như hát Ví phường vải, Ví phường chài, phường nón, phường cấy và rất nhiều làn điệu khác thuộc lĩnh vực dân ca Nghệ Tĩnh. Khi trở về địa phương, nghệ nhân đã phát huy tình yêu dân ca xứ Nghệ của gia đình, cả gia đình thường đi biểu diễn và tham gia các cuộc thi tiếng hát dân ca ở địa phương và gặt hái rất nhiều thành công.
  • 58. 60 Nghệ nhân đã cùng vợ mình mở lớp truyền dạy dân ca cho các thế hệ con em trong vùng, từ những lớp truyền dạy của nghệ nhân Phạm Thế Nhuần đã có nhiều người thành đạt và gặt hái được thành công từ các cuộc thi dân ca trong và ngoài tỉnh. Với những cống hiến của mình nghệ nhân Phạm Thế Nhuần đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 10/QĐKT-VNDG.
  • 59. 61 Nghệ nhân HOÀNG TÙNG Nghệ nhân Hoàng Tùng, sinh năm 1945, tại xã Kỳ Hải, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mr. Hoang Tung Year of birth: 1945 Place of birth: Ky Hai commune, Ky Anh district, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Sinh ra và lớn lên trên vùng đất từ bao đời nay, dân ca Ví Giặm là món ăn tinh thần của người dân Hà Tĩnh, chính điều này nghệ nhân Hoàng Tùng đã ý thức được cần phải bảo vệ các di sản của cha ông để trao truyền lại cho các thế hệ con cháu sau này. Vì vậy, mấy chục năm qua nghệ nhân đã được cha chú và các nghệ nhân đi trước truyền dạy cộng với sự đam mê những làn điệu dân ca, nghệ nhân Hoàng Tùng đã có những đóng góp tích cực trong hoạt động văn hóa văn nghệ. Bản thân ông đã nắm giữ được năm thể hát Ví gồm: Ví phường cấy, Ví phường vải, Ví phường nón, Ví đò đưa và một số làn điệu khác. Điều đặc biệt là nghệ nhân đã sưu tầm và ghi âm lại tất cả những làn điệu gốc do NSƯT Trần Đức Duy, người hát Ví Giặm nổi tiếng ở Hà Tĩnh để làm cơ sở truyền dạy lại cho con cháu. Với những làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh gốc mà nghệ nhân đã nắm giữ, nghệ nhân đã truyền lại cho thế hệ trẻ trong xã và các
  • 60. 62 vùng lân cận. Hiện nay, số học trò mà nghệ nhân đã trao truyền lên tới hơn 50 người, trong đó có học viên trẻ đã hát được các làn điệu gốc. Nghệ nhân Hoàng Tùng đã phối hợp với địa phương phục dựng không gian hát Sắc bùa ở xã Kỳ Hải, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân gian đặc sắc ở địa phương. Nghệ nhân Hoàng Tùng đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 11/QĐKT-VNDG.
  • 61. 63 Nghệ nhân NGUYỄN THỊ HỒNG VANH Nghệ nhân Nguyễn Thị Hồng Vanh, sinh năm 1955, tại xã Thạch Liên, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mrs. Nguyen Thi Hong Vanh Year of birth: 1955 Place of birth: Thach Lien commune, Thach Ha district, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Là người con của quê hương Hà Tĩnh, vùng đất giàu bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, với các làn điệu dân ca thấm đẫm trữ tình. Nhờ đó mà từ lúc sinh ra và lớn lên, nghệ nhân luôn được đắm mình trong các làn điệu dân ca của đất mẹ Hà Tĩnh. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, nghệ nhân đã có lòng say mê với làn điệu dân ca, bà đã tham gia rất tích cực vào các phong trào văn hóa, văn nghệ của nhà trường cũng như ở địa phương. Lại được mẹ và các thế hệ đi trước truyền dạy cho các làn điệu dân ca của quê hương xứ sở nên nghệ nhân sớm lĩnh hội và phát huy được niềm đam mê của mình với các câu hò, điệu ví... Khi trưởng thành, nghệ nhân đã hoạt động trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ rất tích cực ở địa phương, nghệ nhân đã đi sưu tầm các làn điệu bị thất truyền để phục dựng và biểu diễn mỗi khi có
  • 62. 64 dịp. Bà còn mở các lớp truyền dạy dân ca cho thế hệ con em trong vùng, từ đó mà các làn điệu dân ca do bà dày công sưu tầm và phục dựng được lưu giữ một cách sinh động. Với những cống hiến của mình nghệ nhân Nguyễn Thị Hồng Vanh đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 19 tháng 7 năm 2012, theo Quyết định số 07/QĐKT-VNDG.
  • 63. 65 Nghệ nhân DƯƠNG THỊ XANH Nghệ nhân Dương Thị Xanh, sinh năm 1975, tại Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy dân ca Ví, Giặm Mrs. Dương Thi Xanh Year of birth: 1975 Place of birth: Co Dam commune, Nghi Xuan, Ha Tinh province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the folk songs and Vi Giam singing Là người con của quê hương câu hò Ví Giặm, nghệ nhân trưởng thành từ những lời ca câu hò đậm chất quê hương, sẵn vốn văn hóa văn nghệ được học hỏi từ những bậc cao niên trong làng, cộng với những kinh nghiệm do tìm tòi học hỏi trong suốt quá trình hoạt động, nghệ nhân đã thông thạo rất nhiều các làn điệu dân ca vùng Thanh Nghệ Tĩnh. Bà đã biểu diễn ở nhiều nơi suốt từ miền Trung vào miền Nam, nghệ nhân cũng đã gặt hái được nhiều thành công, nhiều giải thưởng từ lĩnh vực hát dân ca vùng Thanh Nghệ Tĩnh. Với những công hiến của mình nghệ nhân Dương Thị Xanh đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ dân gian và tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 10 tháng 10 năm 2011, theo Quyết định số 22/QĐKT-VNDG.
  • 64. 66 E. ĐỜN CA TÀI TỬ, CẢI LƯƠNG Theo tư liệu lịch sử, Đờn ca Tài tử là thể loại âm nhạc thính phòng có nguồn gốc từ Nhã nhạc cung đình Huế, do ông Nguyễn Quang Đại, một vị quan nhạc của triều đình, truyền vào Nam từ cuối thế kỷ XIX và nhạc lễ Nam Bộ Nhạc Đờn ca Tài tử phổ biến ở hầu hết các xóm làng Nam Bộ với hai phong cách lớn là phong cách "miền Đông" và "miền Tây". Tham gia các cuộc hoà tấu Đờn ca Tài tử, các nghệ nhân thể hiện mối quan hệ "tri âm, tri kỷ", "đồng khí tương cầu" làm trọng, chứ không phải là trình diễn trên sân khấu như bây giờ. Vì thế nên mới gọi là "Tài tử". Cho đến nay, ngoài những nghệ nhân trình độ cao, hầu như mỗi người dân Nam Bộ đều biết ca một vài "câu" hoặc đờn một vài "lớp" trong vốn Đờn ca Tài tử. Những bài ca Vọng cổ nằm lòng, bài ruột sẽ được trình diễn, thậm chí có bài nội dung không dính dáng gì với hoàn cảnh thực tại vẫn ca "chay" (không có đệm đờn). Không có ai nghe thì ca cho "mình ên" nghe cho đã. Vì "nghệ sĩ" trước tiên là người thưởng thức sản phẩm của chính mình. Do vậy, Đờn ca Tài tử được trình diễn trong các lễ hội, đình đám, cưới hỏi, giỗ chạp, buổi tiễn đưa tân binh, đơn vị bộ đội lên đường đánh giặc... không vụ lợi, không cần thù lao, gọi là "giúp vui”, mang tính cộng đồng sâu sắc, bình đẳng giữa mọi người, nhưng cũng là dịp để các Tài tử bày tỏ tâm sự và phô diễn tài năng. Ai biết đờn thì đờn, biết ca thì ca, một bài cũng được, thậm chí đờn ca có lỡ "rớt" nhịp cũng chẳng ai chê cười mà còn động viên, khuyến khích. Những người không biết đờn ca, đủ cả trẻ già trai gái, cả người đi đường thích thì tham gia, cũng tự nhiên đến ngồi nghe với thái độ chăm chú thưởng thức, động viên các Tài tử ca đờn càng hay hơn, nếu có bánh trái, trà lá bồi dưỡng cho ban Tài tử càng tốt. Ban Tài tử nào, ở ấp, xã nào cũng có đông đảo khán, thính giả trung thành. Cuộc chơi không hạn định giờ giấc, chỉ khi mọi người cảm thấy thỏa mãn thì chia tay ra về dù đã khuya còn hẹn lại buổi tối hôm sau.
  • 65. 67 Cứ như vậy thành lệ. Không ai bảo ai, hằng ngày làm lụng vất vả trên đồng ruộng, hoặc có chuyện đi xa, đến chiều phải tranh thủ về để kịp có mặt tham gia hoặc thưởng thức buổi Đờn ca Tài tử. Năm này tháng nọ, cũng lặp lại những bài bản cũ - lâu lâu mới có lời ca mới - nhưng người đờn lẫn người nghe vẫn không ai thấy chán, mà trái lại họ như bị ghiền (nghiện) không có không được. Thỉnh thoảng, để "thay đổi không khí" vài người giỏi chữ nghĩa, nắm vững bài bản vừa sáng tác vừa ca, gọi là "văn sống" rất được hoan nghênh. Nhiều nam, nữ thanh niên sáng dạ nghe riết thuộc lời, thuộc giọng, được vào ca, lâu thành nghề. Nguồn: theo www.hanam.gov.vn
  • 66. 68 Nghệ nhân NGUYỄN VĂN BIỂU Nghệ nhân Nguyễn Văn Biểu (tên thường gọi Ba Móng), sinh năm 1912, mất năm 1986, tại xã Hữu Định, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy Đờn ca Tài tử Mr. Nguyen Van Bieu Year of birth: 1912 Passed away: 1986 Place of birth: Huu Dinh commune, Chau Thanh district, Ben Tre province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the Southern Amateur music - Don ca Tai tu Từ nhỏ, nghệ nhân được cha rước thầy dạy võ và dạy đờn về dạy tại nhà. Nhờ sự say mê chăm chỉ tập luyện ông đã nắm vững kiến thức cơ bản hệ thống bài bản nhạc tài tử cũng như nhạc lễ. Ông sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ như: đờn kìm, đờn cò, đờn tranh, đờn độc huyền và nhạc cụ nhạc lễ như: trống, kèn… danh tiếng của ông lan rộng trong tỉnh. Ông trở thành thầy dạy đờn tài tử, nhạc lễ và đờn cho nhiều gánh hát ở Bến Tre như: gánh Ngọc Quang, gánh Kim Hoa, Thanh Nga - Hữu Tín và gánh Thanh Hương. Ngoài ra, ông còn được cậu ruột là ông Bầu Hiển chủ
  • 67. 69 gánh hát bội Thanh Hương hướng dẫn nghệ thuật đánh trống và thổi kèn hát bội. Năm 1960 do chiến tranh lan rộng, ông xa gia đình đến thành phố Mỹ Tho đờn cho gánh hát Đại Nghĩa. Ở đây, ngoài đờn cho gánh hát ông còn dạy đờn cho nhiều học trò. Năm 1962, ông về Bến Tre dạy đờn ca tài tử và nhạc lễ, thời gian này ông đào tạo rất nhiều học trò cho các ban nhạc lễ trong và ngoài tỉnh. Năm 1977, ông là cộng tác viên đờn cổ cho Đài phát thanh Bến Tre, đã từng thu thanh nhiều chương trình ca cổ tài tử với các nghệ nhân đờn ca trong tỉnh và ngoài tỉnh. Trọn cuộc đời, nghệ nhân đã dạy gần 200 học trò về nhạc lễ và đờn ca tài tử trong đó có hai người con trai của ông cũng nối nghiệp cha, nhiều học trò đã sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ, bài bản tài tử, cải lương và nhạc lễ. Nghệ nhân Nguyễn Văn Biểu đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam truy tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 28 tháng 12 năm 2012, theo Quyết định số 58/QĐKT-VNDG.
  • 68. 70 Nghệ nhân HUỲNH VĂN BIỂU Nghệ nhân Huỳnh Văn Biểu (tên thường gọi Hai Biểu), sinh năm 1912, mất năm 1981, tại làng Mỹ Lệ, quận Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn, nay là xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước, tỉnh Long An; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy Đờn ca Tài tử Mr. Huynh Van Bieu Year of birth: 1912 Passed away: 1981 Place of birth: My Le village, Can Duoc district, Long An province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the Southern Amateur music - Don ca Tai tu Nghệ nhân Hai Biểu sinh ra và lớn lên trên vùng đất có truyền thống về nhạc lễ, nhạc hát bội và nhạc tài tử, nhạc sân khấu cải lương Nam Bộ. Ông ngoại của nghệ nhân Hai Biểu là ông Năm Xem, người học trò thuộc thế hệ đầu tiên của nghệ nhân Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi) khi ông đến truyền dạy âm nhạc truyền thống tại vùng Mỹ Lệ, Tân Lân, Cần Đước. Thời niên thiếu, nghệ nhân Hai Biểu học đờn tranh với người thầy đầu tiên là nghệ nhân Tư Chí (thân sinh của nghệ nhân Tư
  • 69. 71 Bền), người cùng làng Mỹ Lệ, sau đó tiếp tục thọ giáo nghệ nhân Năm Khiết ở làng Thuận Thành, huyện Cần Giuộc - học trò thế hệ đầu tiên của nghệ nhân Nguyễn Quang Đại. Nghệ nhân Hai Biểu học nhạc tài tử Nam Bộ với các nhạc sư nổi tiếng trong vùng, tham gia phong trào đờn ca tài tử rồi làm nhạc sĩ trong các ban nhạc sân khấu cải lương nổi tiếng ở Nam Bộ, nghệ nhân Hai Biểu thể hiện tài năng sân khấu cải lương nổi tiếng ở Nam Bộ. Ông sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ truyền thống, nhưng nổi tiếng nhất là ngón đờn tranh. Với uy tín chuyên môn vượt trội so với các nhạc sĩ nghệ nhân đương thời, ông được bổ nhiệm phụ trách chuyên môn Ban cổ nhạc - Đài phát thanh Pháp Á Sài Gòn, hãng đĩa ASIA, ban nhạc hát bội Vân Hạc Sài Gòn và được mời làm nhạc sư thỉnh giảng ngành Quốc nhạc, Trường Quốc gia âm nhạc kịch nghệ Sài Gòn. Ông đào tạo được nhiều thế hệ học trò thành danh trong và ngoài nước. Nghệ nhân - nhạc sư Huỳnh Văn Biểu trọn đời vì sự nghiệp phát triển nghệ thuật đờn ca tài tử, sân khấu hát bội và sân khấu cải lương Nam Bộ. Đặc biệt nổi tiếng nhất là nghệ thuật diễn tấu đàn tranh trong cả lĩnh vực nghệ thuật đờn ca tài tử, sân khấu hát bội và sân khấu cải lương Nam Bộ. Cây đàn tranh đã từng gắn bó với ông trong quá trình hoạt động nghệ thuật hiện còn lưu giữ, trưng bày tại Bảo tàng Long An. Nghệ nhân Huỳnh Văn Biểu đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam truy tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 20 tháng 12 năm 2011, theo Quyết định số 36/QĐKT-VNDG.
  • 70. 72 Nghệ nhân ĐINH VĂN CHIÊU Nghệ nhân Đinh Văn Chiêu, sinh năm 1897, mất năm 1968, tại xã Tân Lân, huyện Cần Đước, tỉnh Long An; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy Đờn ca Tài tử Mr. Đinh Van Chieu Year of birth: 1897 Passed away: 1968 Place of birth: Tan Lan commune, Can Duoc district, Long An province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the Southern Amateur music - Don ca Tai tu Ông sinh ra trong một gia đình có thân thế, cha ông là Đinh Văn Cang, một điền chủ giàu có nổi tiếng ở tỉnh Chợ Lớn lúc bấy giờ. Cha ông cũng là một người rất đam mê và am hiểu về âm nhạc truyền thống, cha ông đã truyền cảm hứng và niềm đam mê cho ông. Ông được cha cho theo học thầy Nguyễn Quang Đại, nghệ danh là Ba Đợi, ông học rất xuất sắc và có tham gia vào các cuộc thi đờn ca tài tử trong vùng, ông luôn đạt giải thi xuất sắc, được mệnh danh là “Các tay đờn xuất chúng, vô địch”. Đương thời nghệ nhân Chín Chiêu sử dụng được hầu hết các loại nhạc cụ trong dàn nhạc tài tử Nam Bộ, đặc biệt ông rất
  • 71. 73 nổi danh với các loại nhạc cụ như tỳ bà, kìm, cò, nơi ông sinh sống được gọi theo tên của ông là xóm Chín Chiêu. Ông đã dành cả cuộc đời cho âm nhạc đờn ca tài tử, không những chỉ biểu diễn, ông còn truyền dạy lại cho các thế hệ học trò là con em trong vùng. Nhiều thế hệ học trò do ông đào tạo cũng nổi tiếng và thành danh trong sự nghiệp đờn ca. Các loại nhạc cụ mà ông sử dụng được bảo tàng Long An sưu tầm và bảo quản cho đến tận ngày nay. Với những cống hiến của mình nghệ nhân Đinh Văn Chiêu đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam truy tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp Văn nghệ dân gian ngày 20 tháng 12 năm 2011, theo Quyết định số 33/QĐKT-VNDG.
  • 72. 74 Nghệ nhân VÕ VĂN CHUẨN Nghệ nhân Võ Văn Chuẩn (Tư Bền), sinh năm 1921, tại làng Mỹ Lệ, quận Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước, tỉnh Long An); Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy nhạc Đờn ca Tài tử Mr. Vo Van Chuan Year of birth: 1921 Place of birth: My Le village, Can Duoc district, Long An province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the Southern Amateur music - Don ca Tai tu Sinh ra và lớn lên trên vùng đất có truyền thống nổi tiếng lâu đời về nghệ thuật hát bội, nhạc lễ, đờn ca tài tử và sân khấu cải lương, lại được sống trong một gia đình có nhiều thành viên cả ba thế hệ đều đam mê chơi nhạc tài tử Nam Bộ, nghệ nhân Tư Bền đến với nghệ thuật đờn ca tài tử từ năm 11 tuổi. Được cha mình là nghệ nhân, nhạc sĩ Võ Văn Chí (Tư Chí) một nghệ nhân sử dụng được nhiều nhạc khí (cả ba bộ hơi và bộ dây) hết lòng truyền dạy. Không thỏa mãn với sự phát triển tài năng nghệ thuật, ông tìm đến trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp và học hỏi thêm ở các nghệ nhân tên tuổi như: Bảy Quế, Năm Giai, Năm Lương, Hai Biểu… Tuy không hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp như một số nghệ
  • 73. 75 nhân nhạc lễ, hát bội hay sân khấu cải lương, nhưng nghệ nhân, nhạc sĩ Tư Bền luôn nhiệt huyết với nghề, thường xuyên tham gia sinh hoạt đờn ca tài tử Nam Bộ, ông đào tạo được nhiều môn đệ đờn và ca tài tử Nam Bộ. Trong những thập niên 50 - 60 của thế kỷ XX, ông từng đứng ra thành lập một nhóm hoạt động nghệ thuật sân khấu Cải lương không chuyên, phục vụ nhân dân địa phương trong các dịp hội hè, đình đám. Đặc biệt nhóm sân khấu Cải lương không chuyên này toàn là những nam thanh niên sinh hoạt trong các nhóm đờn ca tài tử trong vùng và đều là những môn đệ do ông đào tạo. Do có nhiều thành tích trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị của Đờn ca tài tử, nghệ nhân Võ Văn Chuẩn đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 20 tháng 12 năm 2011, theo Quyết định số 39/QĐKT-VNDG.
  • 74. 76 Nghệ nhân TRÀ VĂN GIAI Nghệ nhân Trà Văn Giai, sinh năm 1912, mất năm 2005, tại xã Tân Lân, huyện Cần Đước, tỉnh Long An; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy Đờn ca Tài tử Mr. Tra Van Giai Year of birth: 1912 Pased away: 2005 Place of birth: Tan Lan commune, Can Duoc district, Long An province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the Southern Amateur music - Don ca Tai tu Ông may mắn được học người thầy là nghệ nhân nhạc sư Nguyễn Văn Láo (Chín Láo) - vốn là truyền nhân xuất sắc thuộc thế hệ học trò đầu tiên của nghệ nhân nhạc sư Nguyễn Quang Đại - hết lòng truyền dạy lễ, nhạc tài tử Nam Bộ. Từ thập niên 40 cho đến cuối thế kỷ XX, ông làm chủ Ban nhạc lễ nổi tiếng khắp vùng Cần Đước, Cần Giuộc, ai ai cũng biết tiếng “nhạc Giai”. Về nhạc tài tử Nam Bộ, ông thường chơi trong nhóm các nghệ nhân lừng danh trong vùng như: Bảy Quế, Chín Phàng, Năm Lòng, Sáu Quýnh… Ông sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ trong dàn nhạc lễ, nhạc tài tử Nam Bộ, đã đào tạo nhiều thế hệ học trò, góp phần rất lớn vào việc duy trì và phát triển dòng nhạc tài tử và nhạc lễ
  • 75. 77 Nam Bộ. Tuy ông không có điều kiện thu đĩa, thu đài phát thanh để lưu lại tiếng nhạc của mình, nhưng tài nghệ và tên tuổi của ông không kém các nhạc sĩ, nghệ nhân nổi tiếng như Tư Huỳnh, Bảy Quế, Hai Biểu, Năm Lòng, Tám Nhứt… Hiện nay Bảo tàng Long An còn lưu giữ, trưng bày cây đờn cò đã gắn bó suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật của nghệ nhân nhạc sư Năm Giai. Với những cống hiến của mình, nghệ nhân Trà Văn Giai đã được Ban Chấp hành Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam truy tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian và tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian ngày 20 tháng 12 năm 2011, theo Quyết định số 37/QĐKT-VNDG.
  • 76. 78 Nghệ nhân NGUYỄN VĂN GIỎI Nghệ nhân Nguyễn Văn Giỏi (tên thường gọi Mười Út), sinh năm 1915, mất năm 1995, tại xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre; Dân tộc: Kinh Lĩnh vực phong tặng: Thực hành và truyền dạy Đờn ca Tài tử Mr. Nguyen Van Gioi Year of birth: 1915 Passed away: 1995 Place of birth: Tan Thanh Binh commune, Mo Cay Bac district, Ben Tre province Ethnicity: Viet (Kinh) ethnic majority Practising and transmitting the Southern Amateur music - Don ca Tai tu Nghệ nhân Nguyễn Văn Giỏi là con trai út trong một gia đình nhạc lễ, ngay từ nhỏ ông đã được truyền dạy và tham gia ban nhạc lễ gia đình phục vụ tang lễ ở xã, huyện trong tỉnh. Khi phong trào đờn ca tài tử phát triển cũng như hình thành nghệ thuật sân khấu cải lương vào những năm 1935, nghệ nhân Nguyễn Văn Giỏi đã nổi tiếng đàn hay, hát giỏi ở cù lao Minh thuộc tỉnh Bến Tre. Thời đó ông đã biết sử dụng nhiều nhạc cụ như: đờn bầu, đờn cò, đờn kìm, đờn gáo… nhưng nổi bật và điêu luyện nhất là cây đờn tranh. Năm 1946, ông tham gia cách mạng làm công an viên ở xã Tân Thành Bình. Năm 1947, ông ở lại quê nhà làm vườn và dạy