1. Học liệu mở: Kích thích cạnh tranh trong giáo dục ĐH
Tags: Hoa Kỳ, Việt Nam, ký túc xá, cho tất cả, tạo điều kiện, có điều kiện, học liệu, học tập, tài liệu, thế
giới, môn học, cạnh tranh, ĐH, Sv, nguồn
- Ngày nay, con đường đến trường học của mỗi SV không chỉ là từký túc xá hay từnhà đến lớp học nữa,
mà còn là từchiếc máy tính nối internet tới các trường ĐH khác trên thế giới, nơi mà các tài liệu học tập
đang mởrộng cho tất cả mọi người.
Với "con đường đến trường" từmáy tính tới OCW, SVVN có thể tiếp cận nội dung học của các ĐH nổi
tiếng (Ảnh: Lê Anh Dũng)
Kể từkhi MIT bắt đầu đưa nội dung các môn học lên internet vào đầu năm 2001, nhiều trường ĐH lớn
khác ởMỹ cũng nhưtrên toàn thế giới đã truy cập và sửdụng làm tài liệu hỗ trợtrong giảng dạy học tập
và nghiên cứu.
Kết quả là đã tạo ra một phong trào trên thế giới trong việc ứng dụng và phát triển các nguồn học liệu
mởđể thúc đẩy giảng dạy và nghiên cứu rất hiệu quả.
Mục tiêu phát triển nguồn học liệu mởcủa các ĐH lớn nhưMIT, ngoài việc chia sẻ kiến thức của mình với
bên ngoài, còn đem lại cho họ nhiều lợi ích.
Đưa nội dung các môn học lên mạng sẽ thúc đẩy chất lượng giảng dạy và học tập của SV, giáo viên trong
trường nhờmôi trường mởcạnh tranh. Giáo viên đưa tài liệu nên mạng luôn phải có trách nhiệm cao,
đảm bảo chất lượng môn học.Sinh viên có thể tìm hiểu các môn học kỹ hơn trước khi lựa chọn môn học
và trước giờlớp.
Mô hình học liệu mởtạo điều kiện cho SV và giáo viên ởcác khoa và các bộ môn khác nhau có thể học
hỏi và hợp tác liên ngành trong học tập, giảng dạy và nghiên cứu.Và đương nhiên, học liệu mởgiúp
quảng bá hình ảnh của trường với thế giới cũng nhưđặt bản thân trường vào vị trí cạnh tranh cao hơn.
Dựán học liệu mởthành công thể hiện tầm nhìn và các nguyên tắc cơbản trong phát triển giáo dục đại
học; đó là: mởcửa, minh bạch và cạnh tranh (openness, academic integrity and competitiveness).
2. Cơhội lớn không thể bỏ qua
Lâu nay, ta thường nói nhiều về việc ứng dụng công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế đất nước mà
ít nhấn mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin ngay chính trong giáo dục đào tạo. Nếu mọi giáo viên
và sinh viên có điều kiện truy cập internet tốc độ cao 24/24 giờthì chúng ta hy vọng sẽ có được đột phá
trong giáo dục.
Việc tận dụng các nguồn học liệu mởđảm bảo cho SV và giáo viên bổ sung nguồn thông tin đầy đủ, đa
dạng và phong phú. Ngày nay, con đường đến trường học của mỗi SV không chỉ là từký túc xá hay từnhà
đến lớp học nữa, mà còn là từchiếc máy tính nối internet tới các trường ĐH khác trên thế giới, nơi mà các
tài liệu học tập đang mởrộng cho tất cả mọi người.
Nguồn học liệu mởcòn giúp mọi người phát triển tưduy tựhọc trởthành “học, học nữa, học mãi” .Thống
kê từcác nguồn học liệu mởcho thấy, phần lớn những người truy cập vào những học liệu mởnày hiện là
sinh viên, giáo sư, giảng viên và những người tựhọc. Trong số đối tượng tựhọc, chủ yếu là những người đã
tốt nghiệp ĐH, đang đi làm và có nhu cầu học tập thêm để bổ sung kiến thức mới.
SV không có điều kiện du học vẫn có thể học tập những kiến thức tiên tiến của thế giới qua các nguồn
học liệu mở.Đối với sinh viên chuẩn bị du học, đây là cơhội để hiểu được các trường ĐH ởcác nước phát
triển; từđó, có đị nh hướng cũng nhưkế hoạch tốt hơn cho trong con đường học tập của mình.
Tăng tốc nhưthế nào?
Bộ GD -ĐT nên chủ trương để tất cả các trường ĐH VN đưa nội dung các môn học lên mạng Internet.Điều
này sẽ có tác động đến chất lượng và hiệu quả giảng dạy ĐH vì giáo viên bắt buộc phải soạn bài kỹ và
chất lượng để đưa lên mạng của trường và hòa vào mạng internet toàn cầu.
Các môn học khi đưa lên mạng sẽ được đánh giá từnhiều phía về chất lượng, nội dung và sẽ thu được
đóng góp ý kiến hoàn thiện của đông đảo người quan tâm.
3. Các môn học thế mạnh của Viêt Nam ví dụ nhưLị ch sửViệt Nam, văn hoá Việt Nam khi đưa lên mạng
internet sẽ là nguồn tài liệu quý để thế giới, trong đó có cả Việt kiều, học hỏi để hiểu biết chính xác về
Việt Nam. Đây cũng là một cách để quảng bá hình ảnh đất nước.
Đưa tài liệu giảng dạy của các môn học của các trường ĐH Việt Nam cũng làm cho SV Việt Nam phải cạnh
tranh hơn vì các tài liệu đó cũng được chia sẻ với số đông những người không được ngồi ghế giảng đường
ĐH.Vì thế, SV trong trường ĐH sẽ phải học nhiều hơn để tạo sựkhác biệt với số đông đó.
Các trường ĐH nên chủ chương đưa nội dung các môn học của mình lên mạng, đồng thời tạo điều kiện và
khuyến khích SV học tập tham khảo tài liệu từcác nguồn học liệu mởtrên thế giới. Tạo điều kiện bằng
cách đầu tưnhiều phòng máy tính nối mạng, mởcửa cho SV sửdụng 24/24 giờ;phát động phong trào cho
giáo viên và SV trong trường ĐH tham khảo và học tập từcác nguồn học liệu mở. Và tất nhiên là phải có
kế hoạch nâng cao khả năng ngoại ngữcho SV.
Các gia đình có điều kiện nên đầu tưmột khoản tiền để mua máy tính và kết nối internet để tạo điều
kiện cho con cái và bản thân bố mẹ học tập qua internet.
Giới thiệu đị a chỉ truy cập một số các nguồn học liệu mở(OCW)
1.OCW của Học viện Công nghệ Massachusetts, Hoa Kỳ: http://ocw.mit.edu
Thưviện các luận án MIT: https://dspace.mit.edu
2. OCW trường ĐH Rice, Hoa Kỳ: http://cnx.rice.edu
3. OCW của trường ĐH bang Utah, Hoa Kỳ: http://ocw.usu.edu
4. OCW của Tuft University, Hoa Kỳ: http://ocw.tufts.edu
5. OCW của nhóm các trường ĐH công nghệ của Pháp (Paristech): http://www.paristech.org
4. 6. OCW của nhóm các trường ĐH hàng đầu của Nhật Bn (Japan OCW Alliance): http://www.jocw.jp
Keio University: http://ocw.dmc.keio.ac.jp
Kyoto University: http://ocw.kyoto-u.ac.jp/en/
Osaka University: http://ocw.osaka-u.ac.jp
Tokyo Institute of Technology: http://www.ocw.titech.ac.jp
University of Tokyo: http://ocw.u-tokyo.ac.jp/english
Waseda University: http://www.waseda.jp/ocw
7. OCW của nhóm các trường ĐH hàng đầu của Trung Quốc (CORE): http://www.core.org.cn/en/
8. OCW tại Việt Nam:
Học liệu mởquốc tế tại Việt Nam: http://ocw.fetp.edu.vn/home.cfm
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbrigtht: http://ocw.fetp.edu.vn/home.cfm
Nguyễn Quang Hoàng (Học viện Công nghệ Massachusetts, Hoa Kỳ)
Việt Báo (Theo_VietNamNet)