SlideShare a Scribd company logo
1 of 199
Download to read offline
Vì Sao Chúng Ta Tin ?
Tác giả: Paul E. Little
Lời Giới Thiệu
Dẫn Nhập: Cuốn Sách Này Ra Đời Như Thế Nào
1. Cơ Đốc Giáo Có Hợp Lý Không?
2. Có Đức Chúa Trời Không?
3. Có Phải Đấng Christ Là Đức Chúa Trời Không?
4. Đấng Christ Có Sống Lại Từ Cõi Chết Không?
5. Kinh Thánh Có Phải Là Lời Đức Chúa Trời Không?
6. Tài Liệu Kinh Thánh Có Đáng Tin Cậy Không?
7. Khảo Cổ Học Có Làm Sáng Tỏ Kinh Thánh Không?
8. Có Thể Có Phép Lạ Không?
9. Khoa Học và Kinh Thánh Có Mâu Thuẫn Không?
10. Tại Sao Có Đau Khổ Và Điều Ác?
11. Cơ Đốc Giáo Khác Gì Với Các Tôn Giáo Khác?
12. Kinh Nghiệm Cơ Đốc Nhân Có Giá Trị Không
Câu Hỏi Nghiên Cứu
Chú Thích
Lời Giới Thiệu
Vì Sao Chúng Ta Tin? của Paul E. Little là một quyển sách giá trị nhằm giải
đáp những thắc mắc về niềm tin Cơ Đốc, chẳng hạn Kinh Thánh và Khoa
học có mâu thuẫn nhau không? Phép lạ có thể xảy ra không? Tại sao Đức
Chúa Trời cho phép đau khổ và điều ác xảy ra? Những câu hỏi như trên cần
được trả lời cách thỏa đáng.
Cuốn sách đã được ấn hành trên một triệu bản. Hàng triệu người đã tìm được
trong cuốn sách nầy lời giải đáp hợp lý cho những thách thức hóc búa đối
với Cơ Đốc giáo. Cuốn sách đã được hiệu đính nhiều lần và bản hiệu đính
mới nhứt được bà Marie Little thực hiện năm 2000 với sự tham khảo ý kiến
của các nhà khoa học và khảo cổ học. Bản hiệu đính này đã sử dụng những
thông tin cập nhật của thế kỷ 21 nhằm cung ứng nền tảng vững chắc cho ai
tìm kiếm chân lý.
Trong ấn bản mới này có thêm phần câu hỏi nghiên cứu cho mỗi chương và
bảng liệt kê các sách tham khảo, rất tiện cho việc nghiên cứu cá nhân cũng
như thảo luận từng nhóm. Cuốn sách này cũng được dùng làm tài liệu cho
sinh viên học môn Biện Giáo.
Paul Little là giáo sư Đại Học Trinity Evangelical Divinity School cho đến
khi qua đời. Cả hai Ông Bà Paul và Marie Little từng hầu việc Chúa với Hội
Thông Công Sinh Viên Cơ Đốc Liên Đại Học (InterVasity Christian
Fellowship) trong suốt 25 năm.
Để đáp ứng nhu cầu học hỏi các tôi con Chúa, Viện Thần Học Việt Nam đã
dịch và ấn hành tập Vì Sao Chúng Ta Tin? theo bản hiệu đính mới nhứt này
với sự cho phép bản quyền của nhà xuất bản InterVarsity Press. Chúng tôi
xin chân thành cảm tạ quí tôi tớ con cái Chúa đã giúp đỡ trong việc chuyển
ngữ, hiệu đính, dàn trang, ấn loát và tạo điều kiện thuận lợi để tập sách này
đến tay người đọc.
Viện Thần Học Việt Nam
Tháng 12, 2003
Cuốn sách này ra đời như thế nào?
“Sau 2000 năm, không có câu hỏi nào có thể làm cho Cơ Đốc giáo bị sụp
đổ.” Với một lời tuyên bố đầy bí ẩn như vậy, chồng tôi, Paul, mở đầu khá
thích hợp cho bài nói chuyện về Cơ Đốc giáo của mình với các sinh viên tại
trường đại học.
Paul bước đến ngôi nhà “Hy Lạp” trong trường đại học Kansas để dự bữa ăn
tối lúc 6 giờ chiều với nỗi lo sợ, vì tại đây anh sẽ trình bày bài nói chuyện
trong vòng 15 phút và sau đó có giờ để thính giả đặt câu hỏi. Là nhân viên
mới làm việc với Hội Thông Công Sinh Viên Cơ Đốc, anh rất lo sợ. Anh
càng lo sợ hơn, phần vì đây là phòng hội của các sinh viên - những sinh viên
ưu tú. Hơn nữa, đây còn là phòng hội của những sinh viên Do Thái được
nhận học bổng! Sau đó anh thuật lại lời cầu nguyện của mình ngày hôm đó
khi anh bước vào cửa ngôi nhà:
Lạy Chúa, Ngài biết con luôn vấp váp khi con cố giải thích rõ ràng về nền
tảng Cơ Đốc giáo cho những người đầy nghi vấn. Tại sao con lại phải bắt
đầu tại nơi dành riêng cho những sinh viên xuất sắc nhất? Họ sẽ đánh bại
con và con sẽ không sống nổi đêm nay!
Paul kinh ngạc khi một chàng sinh viên trẻ tuổi đã quay trở lại với Chúa
trong đêm đó nhờ tư tưởng “mới” đó là Đức Chúa Trời sẽ ban cho anh một
đời sống mới và năng lực để sống đời sống đó. Sinh viên trẻ đó đã quyết
định trở thành Cơ Đốc nhân.
Được khích lệ bởi sự đáp ứng của sinh viên này, Paul tiếp tục công việc của
mình. Anh đi hết trường đại học này đến trường đại học khác, hướng dẫn các
sinh viên trong cư xá và những nhóm ái hữu, bỏ ra hàng tiếng đồng hồ
không hề mệt mỏi nói chuyện riêng với các sinh viên. Anh tìm mọi cách thu
hút sự chú ý của những người chán nản, những người trí thức, và những vận
động viên từ hàng trăm trường đại học khắp thế giới. Anh dùng những câu
hỏi để kích thích suy nghĩ và giúp cho người nghe xem xét lại thế giới quan
hiện tại của họ, từ thuyết tất định khoa học đến thuyết hiện sinh cực đoan.
Anh thêm vào những mẩu chuyện vui với cách nói dí dỏm. Anh nói: “ Tin
một điều gì đó không làm cho điều đó trở nên sự thật; chối bỏ không tin một
điều gì đó cũng không làm cho điều đó trở nên giả dối.” “Nhiều người nói
rằng họ không tin Kinh Thánh thật ra họ chưa bao giờ đọc Kinh Thánh.”
Trong hai mươi lăm năm diễn thuyết, Paul phát hiện ra rằng có mười hai câu
hỏi thường được đặt ra, bất kể nhóm người đó thuộc loại nào. Anh nói:
“Những câu hỏi cũng dễ đoán, nếu chúng ta suy nghĩ cặn kẽ câu trả lời cho
những câu hỏi thường nghe, chúng ta sẽ có câu trả lời cho câu hỏi đúng. Câu
trả lời đúng cho một câu hỏi sai thì chẳng ích lợi gì cả!” Từ việc suy gẫm
Kinh Thánh cách cá nhân và nhờ những công trình nghiên cứu các học giả
Kinh Thánh, anh đã đúc kết các câu trả lời của mình. Đó là cách quyển Vì
Sao Chúng Ta Tin? ra đời.
Sứ điệp trong toàn bộ quyển sách mới được hiệu đính này là hoàn toàn của
Paul. Tôi chỉ thêm vào một vài bằng chứng minh họa mới từ khảo cổ học và
khoa học. Trong mỗi lãnh vực, tôi đều bám sát nền tảng Kinh Thánh là điều
mà Paul đặc biệt chú ý. Hai học giả và cũng là nhân viên của Hội Thánh
Cộng Đồng Willow Creek, Judson Poling và Brad Mitchell, đã giúp đỡ
chúng tôi trong việc chuẩn bị bản hiệu đính này. Tôi rất biết ơn về sự chỉ dẫn
của họ.
Đã qua hai mươi bốn năm kể từ ngày được tin khủng khiếp về cái chết của
chồng tôi trong một tai nạn giao thông. Tôi kinh ngạc khi thấy Chúa vẫn còn
dùng những câu trả lời này. Paul có lẽ sẽ lắc đầu và nói rằng: “Đây là công
việc của Chúa; ánh sáng đến từ nơi Chúa.” Lời Kinh Thánh là chắc chắn và
đáng tin cậy trong ánh sáng của bất cứ sự thách đố nào.
Như Paul đã nói, không ai có thể nghĩ ra một câu hỏi nào có thể phá đổ Cơ
Đốc giáo mặc dù 2000 năm đã trôi qua. Nhiều câu chuyện tôi được nghe về
cách Chúa dùng những lời trong sách này đã khẳng định những ảnh hưởng
kỳ diệu của chân lý Chúa mà tất cả chúng ta tìm kiếm.
Mới đây tôi đưa quyển sách này cho một phụ nữ người Sikh trẻ tuổi có lòng
tìm kiếm. Sau khi cô và chồng cô viếng thăm tôi nhiều lần trong phòng
khách của tôi, cô nói với tôi: “Quyển sách này giải đáp tất cả các câu hỏi của
tôi.” Cô trở thành một người theo Chúa hết lòng - và hơn thế nữa, một người
vợ và một người mẹ tuyệt vời. Ân sủng Chúa thật lạ lùng.
Marie Little
Mt. Prospect, Illinois
Cơ Đốc Giáo Có Hợp Lý Không?
“Niềm tin là gì?” Vị giáo viên Trường Chúa Nhật hỏi và một cậu bé trả lời
trong chớp mắt: “Là tin điều mà ta biết là không có thật.”
Không có gì ngạc nhiên khi có những người đang tìm hiểu về niềm tin và Cơ
Đốc giáo định nghĩa theo cách này. Trong thực tế, có nhiều tín đồ âm thầm
hay công khai chấp nhận quan điểm như thế. Hơn hai mươi năm qua, tôi đã
từng đưa ra câu hỏi này trong các buổi thảo luận ở các trường đại học và cao
đẳng khắp đất nước. Một sinh viên đại học trung bình cũng có thể sẽ đưa ra
cùng một câu trả lời như cậu bé nọ. Có thể được diễn tả bằng những từ ngữ
khác nhau nhưng câu trả lời vẫn tiềm tàng ý tưởng tự đánh lừa và không tin
chắc.
Khi trình bày cho các sinh viên tôi dùng những từ ngữ đơn giản để mô tả ý
nghĩa niềm tin mà Kinh Thánh trình bày. Sau đó tôi đặt ra những câu hỏi cho
thính giả ở dưới. Những câu trả lời của họ cho thấy vấn đề đã được sáng tỏ.
Bạn vẫn cần đến trí óc
Những người tìm hiểu sẽ nhận xét một cách đầy thách thức rằng buổi thảo
luận thật là ích lợi bởi vì lần đầu tiên họ được nghe một bản đúc kết súc tích
và thực tế về sứ điệp Tin Lành. Những người đã tin thỉnh thoảng cũng nói
rằng họ rất thỏa mãn được nghe câu chuyện Tin Lành được biện giải một
cách mạch lạc trong những cuộc thảo luận công khai như vậy. Họ nhận ra
rằng họ không phải từ bỏ trí óc của mình khi trở thành một tín đồ!
Chúng ta sống trong một thế giới ngày càng có nhiều người sành điệu và học
thức với nhiều sự chọn lựa lôi cuốn sự chú ý của chúng ta. Vô tình những
điều chúng ta tin tưởng sẽ bị suy giảm vì nhiều thứ hấp dẫn khác và hệ thống
niềm tin của chúng ta bị lung lay. Thế giới như thế đòi hỏi chúng ta phải biết
tại sao chúng ta tin và xem xét những chân lý hỗ trợ cho niềm tin đó. Chúng
ta sống dựa trên những chân lý nào?
Đối với câu hỏi quan trọng là Cơ Đốc giáo có hợp lý không và có thể đứng
vững trước sự khảo nghiệm hay không, chúng ta cần bắt đầu với từ ngữ
niềm tin, một từ ngữ rất thường bị hiểu lầm. Có ba ý nghĩ nảy ra trong tâm
trí chúng ta.
Hằng ngày tất cả chúng ta đều sử dụng niềm tin. Khó tránh sử dụng niềm tin
- ngay cả khi gạt bỏ niềm tin tôn giáo qua một bên. Chúng ta có niềm tin nơi
bác sĩ, niềm tin nơi quầy hàng rau cải, niềm tin nơi người hò hẹn với chúng
ta. Thậm chí chúng ta cũng có niềm tin với chuyến xe lửa chở chúng ta đến
chỗ làm hay người bưu tá đem phiếu chi trả đến cho chúng ta. Nhà khoa học
có niềm tin nơi những phương pháp khoa học được nghiên cứu bởi những
nhà khoa học trước mà họ tin rằng là những con người chân thật. Niềm tin
đơn giản là sự tin cậy; chúng ta phải vận dụng niềm tin, ít ra trong một mức
độ nào đó, để có thể giao tiếp với thế giới thực tế này một cách có ý nghĩa.
Niềm tin chỉ có giá trị khi đối tượng được đặt đúng chỗ. Tin cậy vào một
thức ăn chưa được kiểm nghiệm, một bác sĩ không đủ trình độ hay một
người gian dối, thì niềm tin đó không có giá trị gì cả. Một ví dụ đáng buồn
về niềm tin bị đặt sai chỗ là câu chuyện của một sinh viên khi nói với tôi
rằng bạn gái của cậu từ lâu đã hẹn hò với một chàng trai khác nay cô ta sắp
kết hôn với cậu. Niềm tin có thể có ý định tốt nhưng đối tượng không đáng
tin và như thế niềm tin trở thành vô ích. Niềm tin dù ít ỏi nhưng được đặt nơi
một đối tượng đáng tin cậy thì vẫn có thể đem lại kết quả. Chẳng hạn, bạn có
một niềm tin yếu ớt trên một tảng băng dày, kết quả vẫn rất tích cực: tảng
băng sẽ chịu trọng lượng của bạn bất chấp niềm tin của bạn mạnh như thế
nào.
Thử nghiệm mức độ đáng tin cậy của đối tượng niềm tin là một lời khuyên
hợp lý và chắc chắn. Sự khôn ngoan dẫn chúng ta đến chỗ tìm hiểu sự thật
về bất cứ đối tượng nào của niềm tin chúng ta. Nếu đồng hồ chạy sai, chúng
ta chỉnh nó lại. Đó là một việc làm khôn ngoan. 1
Xét lại những suy nghĩ trước đây của chúng ta
Một vài ví dụ sau đây sẽ giúp chúng ta xem xét niềm tin như một phần bình
thường trong cuộc sống chúng ta. Từ đó chúng ta sẽ quay sang kiểm nghiệm
mức độ hợp lý của niềm tin Cơ Đốc cách khách quan nhất có thể được. Tính
khách quan chắc chắn được tô điểm do những suy nghĩ trước đây của chúng
ta về Cơ Đốc giáo. Những sự kiện nào chúng ta biết về nó? Chúng ta xem
xét nó như là điều hợp lý hay không hợp lý? Thích đáng hay không thích
đáng? Đối với những sinh viên thì suy nghĩ trước đây của họ được thể hiện
rõ ràng qua những câu hỏi họ đặt ra. Một số câu hỏi phần lớn liên quan đến
sự thiếu hiểu biết, một số khác là do hiểu lệch lạc nội dung cơ bản của Cơ
Đốc giáo. Luôn có những câu hỏi sâu sắc và yếu tố “tại sao” đầy bí ẩn được
đặt ra với lòng sốt sắng thật sự.
Suy nghĩ đầu tiên của một người là yếu tố cơ bản. “Những gì bạn nghĩ bạn
biết có thể làm bạn đau khổ” là tựa một bài báo của tờ Chicago Tribune. “Ít
hiểu biết cũng có thể tác hại đến khả năng tài chính của bạn” là đề mục nhỏ,
liệt kê khoảng hơn mười lăm ví dụ về những suy nghĩ ngớ ngẩn thông
thường của những nhà đầu tư, như “tôi cố gắng tiết kiệm tiền bạc bằng cách
đi mua đồ mỗi khi có hàng hạ giá.” Thiếu hiểu biết về niềm tin Cơ Đốc cũng
có thể tai hại như vậy. Lãnh vực nào chúng ta hiểu hết sức rõ ràng về Cơ
Đốc giáo và chỗ nào suy nghĩ chúng ta còn ngớ ngẩn?
Ngoài những suy nghĩ trước kia của chúng ta, một áng mây khác che mờ
niềm tin chúng ta là “chỉ số tình cảm” hay thường được gọi là E. Q. Dù cho
tổ tiên của chúng ta ở Hoa Kỳ hay ở một đất nước nào khác, thường có
những kiểu mẫu sai lầm về đời sống Cơ Đốc nhân làm cho chúng ta thất
vọng. Chỉ số tình cảm của chúng ta thậm chí lên đến tức giận khi chúng ta
nghe đến từ “Cơ Đốc nhân.” Dĩ nhiên chúng ta đều có một sự khó chịu về
một vài chuyện nào đó, nhưng sự nhận thức về nó cũng giúp ích cho chúng
ta. Mặt khác, có thể chúng ta không có một mối liên hệ nào với các Cơ Đốc
nhân hay Cơ Đốc giáo, nên chẳng hiểu biết gì và cũng không có sự khó chịu
nào cả. Dù sao khi tìm hiểu những suy nghĩ và cảm xúc nguyên thủy của
chúng ta càng nhiều, chúng ta càng có thể xem xét một cách khách quan
“trường hợp của Cơ Đốc giáo,” như cách C. S. Lewis dùng.
Cơ Đốc giáo theo Kinh Thánh có nền tảng rất rõ ràng và đầy đủ. Đây không
phải là một tôn giáo huyền bí. Nội dung của nó ẩn nấp dưới những biểu
tượng kỳ bí nào đó, như học giả R. C. Sproul nói. Theo Sproul, khi ai đó thì
thầm với bạn rằng ý nghĩa của cuộc sống là “một cái vỗ tay”, thì đó là huyền
bí. Đó không phải là nền tảng suy nghĩ hợp lý. Tất nhiên đó cũng không phải
là ý tưởng chúng tôi muốn trình bày về “lối suy nghĩ hợp lý”. 2
Bất cứ một tôn giáo nào cũng nhận rằng mình có những kinh nghiệm thuộc
linh suýt soát với chúng ta. Từ thế kỷ 19 vào thời của triết học gia Friedrich
Neitzsche đến ngày hôm nay, từ bên ngoài cộng đồng Cơ Đốc đến bên trong,
người ta cũng bảo là Đức Chúa Trời đã chết rồi. Chủ nghĩa đạo đức nhân
bản đang thu hút người ta mạnh mẽ hơn. Quyển Tôn Giáo Không Mạc Khải
(Religion Without Revelation) của Julian Huxley là một dẫn chứng rõ ràng
trong việc đề cập đến vấn đề Đức Chúa Trời đã chết. Tính đa nguyên đã
chiếm phương tiện thông tin hiện đại trong việc biến thế giới trở nên một
nhà. Chúng ta thường nghe những điều đại loại như:
1. Tất cả các tôn giáo đều có giá trị ngang nhau.
2. Những mâu thuẫn giữa các hệ thống tôn giáo được hoàn toàn chấp nhận.
3. Chân lý tuyệt đối không hề hiện hữu.
Cơ Đốc giáo được thử nghiệm một cách khách quan
Triết gia chuyên về phân tích Antony Flew chứng minh rằng đối với những
người còn đang tìm kiếm thì những khẳng định tôn giáo không thể kiểm
chứng được một cách khách quan cũng chỉ là vô nghĩa mà thôi. Ông dẫn
chứng một câu chuyện ngụ ngôn của John Wisdom:
“Lần nọ, có hai nhà thám hiểm đến một khu đất trống trong rừng già. Trong
khu đất trống ấy có rất nhiều hoa và cỏ dại. Một nhà thám hiểm nói: “Chắc
phải có một người trông vườn chăm sóc cho khu đất này.” Nhưng người kia
không đồng ý như vậy, ông ta bảo: “Không hề có ai lập vườn ở đây đâu.”
Thế là cả hai cắm trại ở đó để rình xem. Họ không thấy ai cả. ”Có lẽ người
làm vườn là một kẻ vô hình chăng? Vậy, họ làm một hàng rào bằng dây kẽm
gai. Rồi họ mắc điện vào đó. Họ cũng thả chó canh phòng (vì họ nhớ chuyện
Con Người Vô Hình của H. G. Well, tuy không bị nhìn thấy, nhưng có thể bị
đánh hơi và sờ chạm được). Nhưng họ không nghe một tiếng kêu nào chứng
tỏ có người đã xâm nhập khu đất ấy và bị điện giật. Cũng không hề có sự
chuyển động nào trên các đường dây kẽm gai cho thấy người vô hình có leo
vào. Bầy chó săn cũng không hề sủa lấy một tiếng. Dầu vậy, nhà thám hiểm
tin có người làm vườn, vẫn chưa chịu khuất phục và nói rằng: “Phải có một
người làm vườn vô hình mà điện không giật được; phải có một người làm
vườn vẫn bí mật đến chăm sóc khu vườn mà ông ấy yêu mến.” Cuối cùng,
kẻ hoài nghi đó cũng thất vọng: “Thế thì lời khẳng định ban đầu của mình
còn lại cái gì? Người làm vườn mà ta gọi là vô hình, không sờ chạm được,
vĩnh viễn mơ hồ kia có khác gì với một người làm vườn tưởng tượng hay
với một người làm vườn chẳng bao giờ hiện diện chút nào đâu?” 3
John Montgomery, một học giả Tin Lành, đã nhận xét về câu chuyện nầy:
“Trong niềm tin Cơ Đốc chúng ta không chỉ chủ trương suông rằng khu
vườn của thế gian này được một Đấng Làm Vườn đầy yêu thương chăm sóc,
nhưng chúng ta còn có những kinh nghiệm thực sự về chính Đấng Làm
Vườn nầy đã bước vào khung cảnh loài người qua con người Chúa Giê-xu
Christ (GiGa 20:14-15), và sự bước vào đó có thể kiểm chứng được qua sự
sống lại của Ngài.” 4
Hệ thống chân lý hợp lý
Niềm tin Cơ Đốc nhân ít được xem xét một cách nghiêm túc, nó chỉ được
xem như một trong số các chân lý được chứng thực mà không được nhìn
nhận dưới khía cạnh là được xây dựng trên một một chân lý được sáng tỏ
nào. Chân lý và mê tín khác nào bạn đồng hành.
Tuy nhiên điều ngược lại mới là thật. Chính Kinh Thánh nhấn mạnh tầm
quan trọng của quá trình thể hiện hợp lý. Chúa Giê-xu cũng nhấn mạnh điều
này với các môn đệ của Ngài: “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà
yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi” (Mat Mt 22:37). Toàn bộ con
người chúng ta có liên quan đến việc chúng ta đặt niềm tin nơi Ngài, tâm trí,
tình cảm và ý chí. Sứ đồ Phao-lô mô tả chính mình như là người “binh vực
và làm chứng đạo Tin Lành”, chẳng hạn ông đưa ra một lời biện giải cho
niềm tin của mình (Phi Pl 1:7). Tất cả những điều này ngụ ý về một sứ điệp
rõ ràng dễ hiểu có thể được hiểu và ủng hộ một cách hợp lý. Một đầu óc
không được soi sáng là một đầu óc không bao giờ cởi mở trước chân lý của
Đức Chúa Trời, nhưng sự soi sáng đem lại sự hiểu biết hoàn toàn thỏa đáng
khi dựa trên hệ thống chân lý hợp lý. Mỗi chúng ta từ lúc thơ ấu cho đến khi
trưởng thành đều cần lý luận và giải thích. Hãy nói với một đứa trẻ rằng nó
sẽ bị phỏng nếu sờ vào một bếp lò nóng. Bấy giờ nó mới quyết định sờ vào
hoặc không sờ vào. Nhưng nó đã được giải thích rồi. Tương tự như thế, sự
soi sáng xuất phát từ sự hiểu biết những chân lý Cơ Đốc cơ bản.
Niềm tin của Cơ Đốc nhân luôn luôn đi đôi với chân lý. Và chân lý luôn
luôn đối lập với sự giả dối (IITe 2Tx 2:11-12). Phao-lô đã gọi những người
không biết Chúa là người “không vâng phục lẽ thật” (RoRm 2:8). Những lời
khẳng định như vậy sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có một cách nào đó để
định nghĩa thật khách quan chân lý là gì. Vì những lý do thực tiễn, nếu điều
gì không thể thực hiện được thì chân lý và ngụy lý cũng như nhau. Câu hỏi
cơ bản là, chân lý tuyệt đối có hiện hữu không? Chúng ta có một bằng chứng
rõ ràng.
Sự tạo dựng trời đất làm sáng tỏ chân lý
Như sứ đồ Phao-lô dẫn chứng, bản thân thiên nhiên cung cấp cho con người
đủ thông tin để nhận biết rằng có một Đức Chúa Trời. Trong 1:19, ông nói
rằng “Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi.” Rất dễ cho con người thấy
Đức Chúa Trời, Ngài không hề giấu mặt. Sau đó Phao-lô bảo chúng ta nhìn
vào thiên nhiên. “Những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được... thì từ
buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy”, rồi ông tiếp tục kể ra hai phẩm
tánh chủ yếu của Ngài vẫn được bày tỏ ngang nhau “Quyền phép đời đời và
thần tính của Ngài ” (1:20).
Câu Kinh Thánh ngắn ngủi nhưng hiệu nghiệm này đã giải thích rằng Đức
Chúa Trời trông đợi chúng ta tin nơi Ngài dựa trên những bằng chứng đầy
đủ. Ngài cho chúng ta trí thông minh và lý luận hợp lý. Ngài đang nói với
chúng ta rằng: “Hãy nhìn xem thiên nhiên, ngay cả vũ trụ này, hoặc chính
thân thể của con thì con sẽ có bằng cớ về niềm tin nơi Đấng Tạo Hóa.” Tác
phẩm “thủ công”, một tuyệt tác đặc biệt của Đấng Tạo Hóa thiên thượng nói
cho chúng ta biết về sự chăm sóc tỉ mỉ và công việc liên tục của Ngài trong
công trình sáng tạo.
“Quyền phép đời đời” của Ngài không phải là một thuật ngữ dễ thuyết phục
trí óc của chúng ta. Bill Hybels cho chúng ta cách nhìn sơ khởi:
Đức Chúa Trời biết hết mọi việc. Không có câu hỏi nào làm Ngài phải lúng
túng… nhưng tri thức này còn vượt xa hơn cả những sự kiện hiện thời. Đức
Chúa Trời biết tất cả mọi việc vận hành ra sao. Hãy nghĩ về điều đó. Ngài có
sự hiểu biết trọn vẹn về tất cả bí ẩn của các ngành sinh vật học, sinh lý học,
động vật học, y học, tâm lý học, địa lý học, vật lý học, hóa học, và di truyền
học. Ngài biết các quy định của Thiên Đàng, cả những nguyên lý và sự vận
hành của mặt trời, mặt trăng và những đám mây. 5
Chúng ta có thể nói rằng những điều trên cho chúng ta một định nghĩa về sự
vô hạn, chứ không phải giới hạn như chúng ta. Hơn nữa, Đức Chúa Trời còn
biết cả bức tranh tổng quát vẽ mỗi khía cạnh trong đời sống cá nhân của
chúng ta nữa.
Nhìn vào bức tranh lớn
Sự kiện này càng động viên chúng ta khám phá những câu trả lời cho việc
làm thế nào chúng ta có thể thích hợp với “bức tranh lớn” từ chân trời của
Đức Chúa Trời. Tại sao chúng ta ở đây, sống trong gia đình này và ở nơi
này? Những việc chúng ta chọn lựa và những gì chúng ta làm mỗi ngày có gì
quan trọng không? Làm sao chúng ta lại sống ở đất nước này mà không phải
là một đất nước nào khác? Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta lìa cõi đời này?
Nhiều chương đã được viết ra dựa trên cái “tại sao” về sự hiện hữu của
chúng ta, đây không phải là câu hỏi mới. Thỉnh thoảng đây là những điều mà
chúng ta thắc mắc. Trong quyển sách bán chạy nhất, Khái Quát Lịch Sử Của
Thời Đại (A Brief History of Time), Stephen Hawking tổng kết cả cuộc đời
nghiên cứu và suy gẫm của mình bằng một câu hỏi. Sau khi kết luận những
luận điểm của mình về “cái gì” và “như thế nào” của vũ trụ, ông nói với vẻ
khao khát: “Giờ đây nếu chúng ta có thể biết được tại sao, thì chắc chắn
chúng ta đã có đầu óc của Đức Chúa Trời rồi.” 6
Đối với nhiều người, có thể nào có những câu hỏi riêng tư của “tấm lòng”
hoặc có thể là một cảm giác trống trải và mất mác kích thích những câu hỏi
như vậy? Một nữ diễn viên nổi tiếng đã diễn tả rất thích hợp cái cảm giác
“một khoảng trống trong tâm hồn” đã khiến cô bắt đầu tìm kiếm. Thực chất
bức tranh của Đức Chúa Trời cho chúng ta trong Kinh Thánh là đưa cho
chúng ta câu trả lời. Chúng ta không cần phải ở trong bóng tối. Có đầy đủ
từng chứng cớ chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết câu trả lời.
C. S. Lewis giải thích: “Chúng ta rất dễ tin rằng sợi dây thừng rất chắc khi
chúng ta chỉ dùng nó để cột một cái hộp, nhưng giả sử chúng ta phải dùng
sợi dây thừng đó để đu mình leo lên một vách núi dựng đứng. Chúng ta sẽ
thật sự muốn biết sợi dây thừng đó đáng tin cậy tới mức nào.” 7
Màn kính đạo đức bị che mờ
Màn kính đạo đức bị che mờ, hoặc sự mạc khải đầy trí tuệ của Đức Chúa
Trời có thể vô tình che mờ sự hiểu biết của chúng ta. Sức kéo của đạo đức
có thể trở nên nan giải, quá độ và không chịu từ bỏ chúng ta. Trong một số
trường hợp, vấn đề thật sự không phải là con người không thể tin - nhưng
mà là họ “sẽ không tin.” Chúa Giê-xu đã thẳng thừng vạch rõ đây chính là
cội rễ của vấn đề khi nói chuyện với những người Pha-ri-si sùng đạo, những
nhà cầm quyền hợp pháp thời bấy giờ. Ngài bảo họ: “Các ngươi không
muốn đến cùng ta để được sự sống” (GiGa 5:40). Sau đó Chúa Giê-xu tiếp
tục dạy rằng khi một kết ước đạo đức được thiết lập, nó sẽ đem lại sự hiểu
biết cho tâm trí. Thậm chí nó còn đem lại sự quyết tâm loại bỏ những cản trở
từ tâm trí. “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết
đạo lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta” (7:17).
Những nan đề về trí tuệ được khẳng định mà không được chứng minh
thường là màn khói bao phủ sự nổi loạn của đạo đức. Như nhà thơ Emily
Dickinson đã viết: “Không ai thất bại trong khoảnh khắc. Trượt ngã - là định
luật phá sản.”
Một câu hỏi lạc đề nữa chúng ta thường nghe là: “Nếu Cơ Đốc giáo là hợp lý
thì tại sao đa số những người có học thức lại không tin?” Câu trả lời thật
giản dị. Họ không tin chính vì một vấn đề giống y như lý do khiến đa số
những người không có học thức thường làm. Họ không muốn tin. Đó không
phải là một vấn đề của năng lực trí óc, vì có rất nhiều Cơ Đốc nhân xuất sắc
trong mọi lãnh vực về nghệ thuật và khoa học. Cuối cùng thì niềm tin cũng
chỉ là vấn đề của ý chí. Và Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta những chứng
cớ khởi điểm qua công trình sáng tạo của Ngài.
Có một sinh viên nọ nói với tôi rằng tôi đã trả lời thỏa mãn tất cả các câu hỏi
của anh. Tôi bèn hỏi: “Vậy anh sẽ trở thành một Cơ Đốc nhân chứ?”
“Không đâu”, anh ta trả lời.
Lúng túng, tôi hỏi: “Sao lại không?”
Anh ta thú nhận: “Thú thật là điều đó sẽ làm xáo trộn cuộc sống hiện tại của
tôi.” Anh ta nhận thức được rằng vấn đề thật sự của anh ta nằm ở phương
diện đạo đức chứ không phải trí thức.
John Stott thiết lập một thế quân bình khi ông tóm tắt câu chuyện Tin Lành:
“Chúng tôi không thể đồng lõa với sự kiêu ngạo về phương diện tri thức của
con người, nhưng phải nâng đỡ cho sự ngay thẳng của trí tuệ người ấy.”
Sự nghi ngờ dẫn đến sự sợ hãi
Ngay cả những Cơ Đốc nhân tận hiến cũng đặt vấn đề với niềm tin của mình
và tự hỏi không biết điều đó có thật hay không. Sự nghi ngờ có thể đem lại
nỗi sợ hãi đối với tâm linh và thường bị đè nén cách bệnh hoạn. Những
người sinh ra trong gia đình Cơ Đốc và giáo hội Cơ Đốc thấy rằng họ rất dễ
nghi ngờ tính xác thực của những kinh nghiệm thời thơ ấu. Từ nhỏ họ đã
chấp nhận sự kiện Cơ Đốc giáo chỉ dựa trên căn bản là sự tự tin và tin tưởng
nơi cha mẹ, bạn bè và mục sư. Khi lớn lên và phát triển về phương diện học
vấn, thì họ xét lại những sự dạy dỗ trước kia.
Kinh nghiệm như thế rất lành mạnh và cần thiết cho niềm tin đích thực và
vững chắc. Không có gì phải sợ hay lo lắng về điều đó. Những lúc tôi đi du
lịch tới một chỗ mới, tôi vẫn thường tự hỏi khi nhìn vào đường phố và
những con người xa lạ “Little này, làm sao cậu biết là mình không hề bị một
chương trình tuyên truyền rầm rộ lôi kéo? Dù sao thì cậu cũng đâu có thấy
Đức Chúa Trời, có rờ, có nếm hay cảm biết Ngài đâu.” Và rồi tôi tiếp tục tự
hỏi làm sao tôi biết Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê-xu Christ của Kinh
Thánh là thật. Tôi luôn quay về với hai yếu tố cơ bản:
Khía cạnh khách quan, ngoại tại, những sự kiện lịch sử về sự phục sinh.
Khía cạnh chủ quan, nội tại, những từng trải cá nhân về Chúa Giê-xu mà tôi
đã nhận biết trong chính cuộc đời của mình qua những cuộc giải phẫu nguy
kịch và những quyết định khó khăn trong sự nghiệp.
Khi một người, dù già hay trẻ, bắt đầu thắc mắc và Đức Chúa Trời dường
như xa cách họ, thì chúng ta nên hoan nghênh sự nghi ngờ ấy như một cách
thức để tăng trưởng. Một Cơ Đốc nhân có thể giúp đỡ bằng cách hoan
nghênh sự chân thật và thẳng thắn, để tạo ra một bầu không khí cho một
người cảm thấy thoải mái để “trút bầu tâm sự” và bày tỏ những nghi ngờ của
mình. Nếu không, người đó có thể bị đẩy vào đường cùng, thậm chí họ sẽ
thối lui vì cớ họ nghĩ rằng một Cơ Đốc nhân tốt không bao giờ được nghi
ngờ. Họ không phải là người ngu ngốc. Thật đáng buồn, tôi đã chứng kiến
một vài người gặp phải sự phản hồi chẳng có chút cảm thông nào, họ nhanh
chóng sang số và kịch liệt binh vực ý kiến của mình, dầu việc làm đó không
xuất phát từ tấm lòng họ. Khi họ thoát ra khỏi áp lực phải tuân theo các hình
thức, họ giũ bỏ niềm tin của mình như lột bỏ một cái áo mưa bởi vì nó chưa
bao giờ là niềm tin của riêng họ cả.
Nghi ngờ và thắc mắc là bình thường đối với những con người biết suy nghĩ.
Thay vì tỏ ra khó chịu, bất mãn, tốt hơn là chúng ta nên lắng nghe người hỏi
mình, và nếu có thể, nên xoáy sâu vào câu hỏi hơn nữa. Rồi ta nên đề nghị
một lời giải đáp. Vì Cơ Đốc giáo tập trung vào một Đấng vốn là Chân lý nên
một cuộc khảo sát tỉ mỉ, cặn kẽ chẳng bao giờ làm hại cho đạo ấy cả.
Đừng hoảng sợ
Nếu chúng ta không có ngay câu trả lời, thiết tưởng không cần gì phải tỏ ra
hoảng sợ. Chúng ta có thể tiếp tục tìm kiếm, kết tinh câu hỏi lại và kiểm tra
ở những quyển sách chuyên về giải đáp những thắc mắc dường như khó giải
đáp. Không có lý gì một câu hỏi mới do một ai đó nghĩ ra tuần trước lại có
thể làm cho cả Cơ Đốc giáo phải sụp đổ. Những người sáng suốt đã từng suy
nghĩ về những câu hỏi thật sâu sắc của mọi thời đại và đều trả lời được cả.
Chúng ta không cần trả lời thật đầy đủ tất cả các câu hỏi, vì Chúa không hề
mạc khải đầy đủ tâm trí Ngài cho chúng ta về mọi vấn đề. “Những sự bí mật
thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta; song những sự bày tỏ thuộc về
chúng ta, và con cháu chúng ta đời đời” (PhuDnl 29:29). Đây không phải là
điều để trốn tránh trách nhiệm! Đức Chúa Trời ban cho chúng ta dư dật
những hiểu biết để có một nền tảng vững chắc đằng sau niềm tin và cuộc
sống của chúng ta. Cơ Đốc giáo dựa trên một niềm tin hợp lý. Nếu dùng cả
núi chứng cớ để kiểm tra ý tưởng bạn thì đừng sợ hãi. Ở trường cao đẳng và
đại học, khán giả có thể bao gồm 98% những người theo thuyết bất khả tri.
Định thần một chút bạn có thể dễ dàng đoán được câu hỏi thường được đặt
ra trong phần nửa tiếng đồng hồ. Những câu hỏi có thể đa dạng về mặt từ
ngữ, nhưng vấn đề tiềm ẩn đều giống nhau. Sự nhất quán này là cả một
nguồn giúp đỡ ích lợi để biết được những câu hỏi trọng tâm, chỗ nào cần
mài giũa sự hiểu biết của mình và làm thế nào để mài giũa những tư tưởng
trong quyển sách này.
Sự đáp ứng của những người nghi ngờ
Những người nghi ngờ là những người nhìn thấy những vấn đề rắc rối nằm ở
đâu. Sau khi được giải đáp cho những thắc mắc của mình, bước kế tiếp là sự
quyết định. Không quyết định gì cả tức là quyết định chống lại lập trường
Cơ Đốc giáo. Nghi ngờ liên tục về những thông tin đầy đủ có nghĩa là không
bỏ cuộc mà tiếp tục tìm kiếm và từ từ bạn sẽ được tưởng thưởng. “Cơ Đốc
giáo không phải là một phương thuốc có bằng công nhận sáng chế. Nó nêu
lên một loạt những sự kiện để trình bày cho bạn biết vũ trụ như thế nào. Nếu
Cơ Đốc giáo là giả dối thì không có một con người thành thật nào muốn tin
vào nó hết. Tuy nhiên, nếu nó là có thật, thì mọi con người thành thật đều
muốn tin vào nó... Đúng, Cơ Đốc giáo sẽ làm cho chúng ta trở nên tốt hơn -
tốt hơn nhiều so với bất cứ điều gì bạn có thể trông đợi!” 8
Chúng ta tin chắc rằng sự tìm kiếm hết lòng của chúng ta sẽ được thưởng.
Trong những trang tiếp theo chúng ta sẽ nhấn mạnh một số câu trả lời cho
những thắc mắc thường gặp và làm rõ những vấn đề đó. Bạn có thể tin điều
này, bỏi vì Cơ Đốc giáo là có thật và hợp lý. Chúa Giê-xu cho chúng ta một
lời khích lệ: “Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư
dật” (Giăng 10:10).
Đọc thêm
Clark, Kelly James. Philosophers Who Believe. Downers Grove, Ill:
InterVarsity Press, 1993.
Johnson, Philip E. Reason in the Balance. Downers Grove, Ill: InterVasity
Press, 1995.
____________. Objections Sustained. Downers Grove, Ill: InterVasity Press,
1998.
Có Đức Chúa Trời Không?
Trong đời sống con người, không có một câu hỏi nào sâu sắc đòi hỏi một
câu trả lời hơn là câu hỏi: Có Đức Chúa Trời không? Đây là một câu hỏi
thách thức mỗi con người biết suy nghĩ, và câu trả lời liên hệ với mỗi chúng
ta cho dù chúng ta đang ở đâu trong cuộc đời này.
Khi chúng tôi sống ở Dallas, một người quảng cáo cho quyển Những Tác
Phẩm Lớn Của Thế Giới Phương Tây (Great Books of the Western World)
thuyết phục chúng tôi mua trọn bộ 54 chương. Trong số 102 tư tưởng vĩ đại
nhất, tôi bắt đầu với số 29, Đức Chúa Trời. Biên tập viên, Mortimer Adler,
bắt đầu bằng lời giải thích: “Về phương diện tham khảo trọn vẹn, cũng như
trong sự đa dạng, đây là chương sách dày nhất (của bộ giới thiệu đề tài tổng
hợp). Lý do thật rõ ràng. Hậu quả của tư tưởng và hành động theo sau việc
chấp nhận hay chối bỏ Đức Chúa Trời vốn được dành nhiều chỗ hơn là để
giải đáp bất luận một câu hỏi căn bản nào khác.”
Adler tiếp tục liệt kê ra những ứng dụng thực tiễn: toàn bộ phương hướng
của cuộc sống con người đều chịu ảnh hưởng của việc con người có tự xem
mình như những hữu thể ưu việt trong vũ trụ hay nhận biết rằng có một hữu
thể siêu việt hơn mà họ nhận thức đó là đối tượng của sự kính sợ hay yêu
mến, một sức mạnh đang bị thách đố hay một Cứu Chúa phải thuận phục.
Trong số những người chấp nhận có thần thánh, điều tối quan trọng là vị
thần đó được hình dung như một ý niệm về Đức Chúa Trời đối tượng của
suy lý triết học- hay là một Đức Chúa Trời hằng sống mà con người thờ
phượng trong mọi hành động sùng kính bao gồm cả những nghi lễ tôn giáo.
1
Có Đức Chúa Trời trong ống nghiệm chăng?
Rõ ràng là chúng ta không thể xét nghiệm Đức Chúa Trời trong một ống
nghiệm hay chứng minh về Ngài bằng phương pháp khoa học (scientific
methodology) thông thường. Hơn nữa, chúng ta có thể nhấn mạnh tương tự
rằng chúng ta cũng không thể chứng minh về Napoleon bằng những phương
pháp khoa học được. Lý do nằm ở chính bản chất của lịch sử và trong sự
giới hạn của những phương pháp khoa học. Muốn cho một việc gì có thể
được chứng nghiệm bằng phương pháp khoa học, việc ấy phải được lặp đi
lặp lại. Một nhà khoa học không tuyên bố cho cả thế giới biết về một khám
phá mới chỉ dựa trên một thí nghiệm duy nhất mà thôi. Lịch sử trong chính
bản chất của nó là không thể được lặp lại. Không ai có thể quay lại thời ban
đầu của vũ trụ hay đem Napoleon sống lại hay lặp lại cuộc ám sát cố tổng
thống Lincoln hay sự đóng đinh của Chúa Giê-xu. Việc các biến cố không
thể được chứng minh bằng sự lặp lại không bác bỏ tính có thực của những
biến cố đó.
Có rất nhiều sự thật nằm bên ngoài phạm vi của những phương pháp khoa
học. Phương pháp khoa học chỉ hữu dụng với những vật thể có thể đo lường
được mà thôi. Chưa có ai từng thấy một mét tình yêu hay hai ký lô công lý,
nhưng nếu phủ nhận thực tại của chúng, thì người ấy phải là một tên điên.
Cứ khăng khăng đòi phải chứng minh Đức Chúa Trời bằng phương pháp
khoa học thì chẳng khác gì đòi dùng máy điện thoại để đo chất phóng xạ.
Sự vĩnh hằng trong tấm lòng của chúng ta
Có bằng chứng hiển nhiên nào về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời không?
Những nghiên cứu của những nhà nhân chủng học đã chỉ ra rằng có một
niềm tin phổ quát nơi Đức Chúa Trời trong hầu hết những dân tộc sơ khai
nhất ngày nay. Trong những chuyện huyền thoại và những chuyện lịch sử xa
xưa của mọi dân tộc khắp trên thế giới đều có một ý niệm nguyên thủy về
một Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa. Dường như cả trong ý thức của những
dân tộc ngày nay theo chủ nghĩa đa thần đều đã ý thức về sự hiện hữu một
Đức Chúa Trời tối cao nguyên thủy. Dù có những sự thêm thắt khác vào một
vị chúa không biết này, nhưng ý niệm về một Đức Chúa Trời vẫn còn đó.
Những nghiên cứu trong năm mươi năm trở lại đây đã thách thức quan niệm
tiến hóa về sự phát triển của tôn giáo. Thuyết độc thần - quan niệm rằng có
một Đức Chúa Trời - trở nên đỉnh cao của sự phát triển tiệm tiến bắt đầu
bằng những quan niệm về thuyết đa thần. Càng ngày chúng ta càng thấy rõ
rằng tín ngưỡng truyền thống ở khắp mọi nơi là niềm tin vào một Thượng
Đế tối cao. 2 Tác giả của sách Truyền Đạo nói về Đức Chúa Trời là Đấng
“khiến cho sự đời đời ở nơi lòng loài người” (TrGv 3:11).
Blaise Pascal, nhà toán học lỗi lạc của thế kỷ 17, viết về “khoảng trống có
hình dạng của Đức Chúa Trời” (the God-shaped vacuum) trong mỗi con
người. Augustine kết luận rằng: “Lòng của chúng ta không bao giờ yên nghỉ
cho tới khi tìm được yên nghỉ trong Ngài.”
Có nhiều bằng cớ chứng tỏ rằng đa số con người trong mọi thời đại và ở mọi
nơi luôn tin vào một loại thần hay các thần nào đó. Mặc dù việc này theo
nghĩa nào đi nữa không phải là một bằng chứng mang tính kết luận, nhưng
đây là một điểm liên hệ mở đầu đáng ghi nhớ khi chúng ta cố gắng giải đáp
câu hỏi lớn.
Luật Nhân Quả
Để bắt đầu, chúng ta hãy xem xét về luật nhân quả. Không có nguyên nhân
thì không bao giờ có hậu quả. Có một giấy nhắn trên cửa của bạn. Phải có ai
đó để nó ở đó. Bức họa ở trên tường, ai đó đã vẽ nó. Không có cái gì bắt
nguồn từ cái không có! Chúng ta là những con người và bản thân cả vũ trụ
này là kết quả cần có của một căn nguyên. Chúng ta tiến đến một nguyên
nhân không hề có căn nguyên, đó là Đức Chúa Trời.
Betrand Russell, người theo chủ nghĩa hoài nghi, đã nói một câu đáng kinh
ngạc trong quyển Tại Sao Tôi Không Phải Là Một Cơ Đốc Nhân (Why I am
Not Christian). Ông nói rằng khi ông còn nhỏ “Đức Chúa Trời” là câu trả lời
cho rất nhiều câu hỏi mà ông nêu lên để chất vấn về sự hiện hữu. Thất vọng
quá, ông hỏi rằng: “Vậy thì ai tạo ra Đức Chúa Trời?” Khi không có câu trả
lời nào thỏa mãn, ông nói rằng: “Toàn bộ đức tin của tôi bị sụp đổ.” Tiếc
thay câu hỏi của ông là một kinh nghiệm rất thông thường nhưng nó lại
không đáp ứng được câu hỏi đang bùng cháy.
Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa, Đấng Đầu Tiên, theo định nghĩa là đời đời.
Không ai tạo ra Ngài hết. Ngài tự hiện hữu. Nếu Đức Chúa Trời cũng là một
tạo vật được sáng tạo, Ngài không thể là căn nguyên được, Ngài cũng chỉ là
kết quả mà thôi. Ngài sẽ không là và cũng không thể là Đức Chúa Trời được.
R. C. Sproul, nhà văn và là một nhà diễn thuyết, giải thích rằng:
Là một Đấng đời đời, Đức Chúa Trời không phải là kết quả và vì Ngài
không phải là kết quả, Ngài không đòi hỏi căn nguyên. Ngài không có căn
nguyên. Điều quan trọng phải lưu ý phân biệt giữa một hữu thể không căn
nguyên, tự hiện hữu đời đời với một kết quả tự tạo ra nó trong quá trình tự
sáng tạo. 3
Thời gian vô định cộng với sự ngẫu nhiên chăng?
Không ai lại có thể nghĩ rằng một máy vi tính có thể được hình thành mà
không có một người vô cùng thông minh làm ra. Không thể nào một con khỉ
được nuôi ở nhà in lại có thể sắp chữ rồi in bài diễn văn tại Gettysburg của
Lincoln. Nếu chúng ta gặp một tập diễn văn như thế chắc chúng ta có thể kết
luận rằng phải có một đầu óc vô cùng thông minh mới có thể in nó ra. Làm
thế nào để chúng ta tin rằng cả vũ trụ này với tất cả sự phức tạp vô tận của
nó có thể xảy ra bằng sự ngẫu nhiên?
Chẳng hạn, mọi người đều nhìn nhận rằng thân thể người ta là cơ thể vô
cùng tuyệt diệu và phức tạp, một hệ thống tổ chức, một bản thiết kế và một
hiệu quả mà ai cũng phải lấy làm ngạc nhiên. Cho nên chúng ta rất xúc động
khi nghe lời tuyên bố sau đây của Albert Einstein: “Tôn giáo của tôi bao
gồm việc hạ mình chiêm ngưỡng Đấng vốn là Thần Linh tối cao vô hạn đã
tự bày tỏ chính Ngài trong những chi tiết nhỏ nhặt để chúng ta có thể hiểu
được bằng tâm trí mong manh yếu ớt của mình. Niềm tin sâu xa do xúc động
cho tôi biết về sự hiện diện của một năng lực tối thượng hữu lý, bộc lộ trong
một vũ trụ không thể lấy lý trí lãnh hội được, đã tạo thành ý niệm của tôi về
Đức Chúa Trời.” 4 Tuy vậy theo điều chúng ta biết, ông không bao giờ đạt
đến việc tin nhận Đức Chúa Trời có thân vị.
Có hai sự lựa chọn mà Cơ Đốc nhân và những người chưa tin giống nhau là:
Vũ trụ và toàn bộ con người khởi nguồn bởi sự tình cờ hay bởi mục đích và
theo sự thiết kế?
Những nhà khoa học từ lâu đã dựa vào thời gian vô hạn cộng với sự ngẫu
nhiên để giải thích về nguồn cội của cuộc sống. Từ quan niệm này họ tránh
được những kết luận không thể chấp nhận được về một căn nguyên mang
tính thần thánh. Tiến trình nầy đòi hỏi một sự giả định trước và những điều
kiện nào đó, hoặc giả định rằng không có sự sống nào có thể sinh ra nó. Vì
lý do nầy, muốn có sự việc xảy ra chắc chắn phải có
Một món súp cơ bản được chuẩn bị một cách lý tưởng
Bình điện phải được xạc thường xuyên
Một khoảng thời gian vô hạn - hàng hàng niên kỷ
Phải có một công thức cuộc sống như thế thì có thể mới tiến hóa được. Tuy
nhiên, những khó khăn mà lý thuyết này đưa ra quá lớn đến nỗi ngày nay
những nhà khoa học đó đang thẳng thừng chỉ ra những nhược điểm của nó.
Phi hành gia lỗi lạc Sir Fred Hoyle đã đề xuất một bảng tương đồng để mô tả
những khó khăn này. Ông hỏi: “Phải mất bao lâu một người bị bịt mắt mới
giải được trò chơi quay khối rubic?” Nếu một người mỗi phút xoay chuyển
một lần mà không ngừng nghỉ, Hoyle ước chừng rằng sẽ mất khoảng 3.5
nghìn tỉ năm! Do đó, ông kết luận rằng, khi xét tuổi thọ của một đời người
thì một người bị bịt mắt không bao giờ có thể giải nổi trò chơi quay khối
rubic.
Holye tiếp tục giải thích rằng khó khăn cũng xảy ra tương tự cho sự hình
thành ngẫu nhiên của chỉ một cái trong số hàng chuỗi amino acid của một tế
bào với khoảng 200.000 amino acid như vậy. Bây giờ nếu bạn tính toán thời
gian cần thiết để tất cả 100.000 amino acid của một tế bào trong cơ thể con
người liên kết lại với nhau bằng sự ngẫu nhiên, sẽ mất khoảng 293,5 lần số
tuổi ước chừng của trái đất (lấy tiêu chuẩn 4,6 tỉ năm). Sự kỳ quặc cho phép
việc này xảy ra còn lớn hơn việc một người bị bịt mắt giải được trò chơi
Rubic.
Trong một bảng so sánh tương đồng khác Hoyle bênh vực sự tranh luận của
mình. Ông ví nó với “kho chứa sắt, đồng vụn” (junkyard mentality) và hỏi:
“Có sự ngẫu nhiên nào một cơn lốc xoáy thổi qua một kho đồng, sắt vụn,
chứa các phần của chiếc 747 , ngẫu nhiên lắp chúng lại thành một chiếc máy
bay sẵn sàng cất cánh?” Hoyle trả lời rằng: “Khả năng cho việc đó xảy ra
quá nhỏ không đáng kể ngay cả khi cơn lốc xoáy đó có khả năng thổi qua đủ
các kho đồng nát để lấp đầy cả vũ trụ này!”
Trong quyển sách rất ấn tượng của ông Vũ Trụ Tài Tình (The Intelligient
Universe), Hoyle kết luận rằng: “Khi các nhà hóa sinh khám phá ra ngày
càng nhiều sự phức tạp đáng kinh sợ của cuộc sống, họ nhìn nhận rõ ràng là
sự sắp xếp tình cờ bởi ngẫu nhiên quá nhỏ đến nỗi có thể được loại bỏ hoàn
toàn. Cuộc sống này không thể được nảy sinh từ sự ngẫu nhiên.” 5
Trật tự và đồ án của vũ trụ
Khi chúng ta nói đến kiểu mẫu, chống lại với ý kiến về sự ngẫu nhiên, chúng
ta đang liên hệ với những phần có thể quan sát được của thế giới chúng ta, từ
những cái nhỏ nhất của nơtron và prôton đến sự rộng lớn bao la của dải thiên
hà. Ai hay cái gì đưa ra sự xác định hay những thông tin nguyên thủy để tất
cả chúng có thể liên kết lại với nhau? Thông tin này là cái chúng ta muốn
nói về đồ án. Tương tự khi so sánh với việc tìm kiếm một kế hoạch toàn hảo
lấy thủy tinh, kim loại và phốt-pho để tạo nên những vật chất như cái ti -vi
đầy chức năng. Không bao giờ có ai lại nghĩ tới việc đề xuất một sự “lựa
chọn tự nhiên” như vậy hay một quá trình tự lắp ráp tạo ra một sản phẩm
như vậy được. Thật sự thì ngay đến thuật ngữ “chọn lựa tự nhiên” cũng
không phải là một lời giải thích, nó chỉ là một cái tên thôi. Nó không thể nào
nói cho chúng ta biết làm thế nào những phần này đủ sự hiểu biết để tự hợp
lại với nhau dẫn đến kết quả cuối cùng thật hữu ích. Phải có một người nào
đó có đủ những thông tin để lắp ráp những phần đó vào ti-vi.
Cũng vậy, hệ thống vật chất của vũ trụ chúng ta cũng lớn tiếng tuyên bố
rằng có một người nào đó đã lập trình những lời hướng dẫn vào từng phần
riêng lẻ để sáng tạo nên thế giới mà chúng ta thấy. Tiến sĩ Robert Gangue
gợi ý rằng chúng ta có thể nói rằng nó được thiết kế một cách có chủ đích.
Nếu ai đó nói rằng cấu trúc cuộc sống có thể truy ra từ những tính chất vật
chất của những phần tử nhân nhỏ nhất, thì có những câu hỏi cần được giải
đáp:
Những phần tử này nảy sinh từ đâu?
Tại sao mà các hạt electron lại có điện tích và khối lượng như vậy?
Ai hay cái gì đã tạo ra giá trị của hằng số hấp dẫn?
Tại sao ánh sáng lại di chuyển với tốc độ chính xác của nó như vậy? 6
Từ vô số những ví dụ chúng ta có thể chứng tỏ về một sự thiết kế có chủ
định trước. Xem xét những tính chất đáng chú ý của nước, Tiến Sĩ I. J.
Henderson liệt kê một số những đặc tính mà chúng ta có thể ứng dụng vào
sự chủ định trước.
Nước có nhiệt độ riêng cao. Điều đó có nghĩa là những phản ứng hóa học
xảy ra trong cơ thể con người được giữ khá ổn định. Nếu nước có nhiệt độ
riêng thấp, tất cả chúng ta sẽ bị “sôi lên” chỉ với một cử động nhỏ. Khi
chúng ta nung một dung dịch lên thêm 10 độ bách phân, chúng ta đã làm
tăng tốc độ của phản ứng lên gấp đôi. Nếu nước không có đặc tính đó thì
khó mà có sự sống được.
Đại dương là máy điều nhiệt của thế giới. Nước phải mất khá nhiều nhiệt để
có thể chuyển từ trạng thái lỏng sang nước đá, và khi nước biến thành hơi,
nó đòi hỏi một lượng nhiệt thu vào cũng tương đương như vậy. Thế nên, đại
dương là một “trái độn) (cushion) chống lại sức nóng của mặt trời và những
luồng gió lạnh mùa đông. Nếu nhiệt độ của trái đất không được biển điều
chỉnh và duy trì ở một phạm vi nhất định thì sự sống hoặc là bị nấu chín
hoặc là bị đông lạnh đến chết.
Nước là chất dung môi tổng quát. Nó hòa tan các chất acid, các chất diêm cơ
và chất muối. Về phương diện hóa học, nó tương đối thụ động, cung ứng
một môi trường trung gian cho các phản ứng mà không dự phần vào. Trong
sự tuần hoàn huyết, nó là một dung dịch chứa ít nhất là sáu mươi bốn chất
khác nhau... Tất cả các dung môi khác chỉ là một thứ cáu cặn không hơn
kém. Nếu như nước không có những đặc tính độc đáo ấy, sự sống mà chúng
ta biết không thể nào hiện hữu được. 7
Bản thân trái đất cũng là một bằng chứng về một bảng thiết kế rất chi tiết.
“Nếu trái đất nhỏ hơn, thì sẽ không có tầng khí quyển (như trên thủy tinh và
mặt trăng); nhưng nếu nó lớn hơn, bầu khí quyển sẽ chứa đầy khí hidro ở
dạng tự do (như trên thổ tinh và mộc tinh). Khoảng cách từ mặt đất đến mặt
trời cũng rất chính xác - một thay đổi nhỏ xíu cũng làm cho trái đất quá nóng
hay quá lạnh. Mặt trăng của chúng ta, có lẽ là hành tinh duy nhất chịu trách
nhiệm về sự phân chia các châu lục và đại dương, là hành tinh rất đặc biệt
trong thái dương hệ và dường như được ra đời theo một cách khác với các
mặt trăng khác tương đối nhỏ hơn. Độ nghiêng của trục điạ cầu bảo đảm cho
sự xoay chuyển bốn mùa.” 8
Những ví dụ đáng kinh ngạc tương tự như vậy có thể được nhìn thấy trong
các sinh vật sống, bao gồm cả con người của chúng ta. Có khoảng gần mười
một triệu sinh vật sống trên trái đất, và mỗi sinh vật là một phép lạ sống.
Chúng là kết quả của một sự phức tạp có tổ chức đầy khác thường ở cấp độ
phân tử mà chúng ta chỉ có thể chiêm ngưỡng trong kinh ngạc. Hãy xem xét
đôi mắt của con người. Nhà thần học người Anh William Paley chỉ ra sự
“phối hợp hiệu quả và hài hòa giữa thủy tinh thể, võng mạc và não bộ; cho
phép con người nhìn thấy được; như là một bằng chứng mang tính kết luận
cho sự thiết kế của một Đấng Sáng Tạo đầy khôn ngoan. Do đó, bản thiết kế
đầy chức năng của các tế bào và những nét đặc trưng của nó được xem như
những bằng chứng về sự hiện hữu của một Đấng Thiết Kế.” 9 Chính Darwin
trong chương sách mang tực đề “Những điều vật lộn với lý thuyết” trong
quyển Nguồn Gốc Của Các Loài (The Origins of Species) có nói: “Giả sử
con mắt, với rất nhiều bộ phận làm việc chung với nhau... được cấu thành
bởi một sự lựa chọn tự nhiên, tôi phải thú nhận rằng, nó có vẻ như là một
điều vô lý vô cùng.”
Richard Lewontin, một sinh viên của Đại Học Harvard theo thuyết tiến hóa,
nói rằng những tế bào được “thiết kế rất cẩn thận và khéo léo” và gọi sự toàn
hảo của các tế bào là “bằng chứng chủ yếu nhất về một Đấng Thiết Kế Tối
Cao.” 10
Vũ trụ có sự khởi đầu
Vũ trụ được thiết kế cũng hàm ý rằng vũ trụ đã có một khởi đầu - có một
thời điểm mà thế giới được hình thành. Kinh Thánh mô tả theo cách này:
“Thuở xưa Chúa lập nền trái đất, các từng trời là công việc của tay Chúa”
(Thi Tv 102:25).
Các nhà khoa học cố tránh quan niệm cho rằng thời gian có khởi đầu hay kết
thúc vì như vậy là nó có sự can thiệp của thần thánh. Trải qua nhiều năm có
vô số học thuyết thay phiên nhau nảy nở.
Quan điểm thứ nhất cho rằng vũ trụ là một “quá trình sáng tạo liên tục/tình
trạng vững bền” (continuos creation/steady-state) được đề xuất bởi Hermenn
Bondi, Fred Hoyle và Tom Gold. Quan điểm này được Tiến Sĩ James
Brooks mô tả: “Quan điểm này cho rằng khi các dải thiên hà di chuyển xa ra
khỏi nhau, thì có những dải thiên hà mới được thành lập ở giữa những
khoảng trống, theo kiểu được “liên tục sáng tạo”. Vũ trụ lúc đó sẽ gần như
không thay đổi trong mọi thời điểm và mật độ của nó cũng sẽ khá đều đặn.
Kiểu mẫu được đưa ra này cho thấy rằng vật chất (trong dạng của hidro)
luôn luôn được tạo ra từ cái không có gì, và di chuyển xung quanh để trung
hòa sự pha loãng của vật chất xuất hiện khi các dải ngân hà di chuyển cách
xa nhau ra.” 11 Từ điều này và những yếu tố khác ông kết luận là vũ trụ
không có sự bắt đầu và nó là vô tận.
Tiến sĩ Robert Jastrow, người sáng lập Viện Nghiên Cứu Không Gian của cơ
quan NASA, giải thích điều ngược lại mới là đúng. Ngay giây phút một ngôi
sao được sinh ra, nó bắt đầu đốt cháy một phần hidro trong vũ trụ, và có một
sự pha loãng liên tục của hidro và những kim loại nạng hơn trong vũ trụ
ngày hôm nay. Ông kết luận rằng học thuyết về một vũ trụ không có bắt đầu
và kết thúc không thể đứng vững được. 12
Quan điểm thứ hai về sự bắt đầu của vũ trụ được các nhà khoa học đưa ra
được gọi là “kiểu mẫu giao động” (oscillating model). Quan điểm này cho
rằng vũ trụ giống như một cái lò xo, giãn ra và co lại, lặp lại chu trình một
cách vô hạn định. Cơ sở của học thuyết này cho rằng vũ trụ đã “đóng”, nghĩa
là, không có một năng lượng nào được đặt thêm vào. Sự giãn nở của vật chất
sẽ đạt đến một điểm nhất định nào đó và trọng lực kéo mọi vật lại với nhau
trước khi nó giãn nở nữa. Tuy nhiên, tất cả các bằng chứng đều bác bỏ điểm
này; vũ trụ rõ ràng là mất tỷ trọng của nó mà không có một dấu hiệu nào nên
sự giãn nở liên tục chưa bao giờ hay sẽ không bao giờ đảo ngược lại, cho
nên cũng không đóng lại.
Tiến Sĩ William L. Craig đưa ra kết luận của ông về hai kiểu mẫu trên rằng:
“Cả hai trạng thái vững bền và kiểu mẫu dao động của vũ trụ đều không
trùng khớp với các sự kiện mà ngành vũ trụ học quan sát. Do đó chúng ta có
thể kết luận một lần nữa rằng vũ trụ đã bắt đầu hiện hữu.” 13
Quan điểm thứ ba về sự khởi nguyên của vũ trụ được mọi người biết đến
như là thuyết “Big Bang.” Tiến Sĩ Edwin Hubble vẽ biểu đồ tốc độ của dải
thiên hà và khẳng định rằng tất cả các dải thiên hà đều di chuyển ra xa chúng
ta và cách xa nhau ra với một tốc độ khủng khiếp. Định luật mang tên ông
nói rằng: Các dải thiên hà càng cách xa nhau thì càng di chuyển nhanh hơn.
Sự ứng dụng gây sửng sốt của điều này là cùng một lúc tất cả các vật chất
được gói trong một khối dày đặc ở nhiệt độ hàng tỉ độ. Những nhà khoa học
quan sát hiện tượng này phát triển lý thuyết về vũ trụ nguyên thuỷ có lẽ
giống như một trái banh lửa được nung lửa trắng ngay từ giây phút đầu tiên
sau khi vụ nổ Big Bang xảy ra.
Lý thuyết nầy đã được xác nhận vào năm 1965 khi hai nhà vật lý học tìm ra
một khám phá bất ngờ rằng toàn bộ trái đất đã tắm trong lớp sáng yếu ớt của
phóng xa. Những bước sóng này theo y khuôn những mẫu của bước sóng
trong vụ nổ lớn. Từ đó, những nhà khoa học một lần nữa xác nhận rằng
không có một sự giải thích rõ ràng nào khác hơn là giải thích những bước
sóng phóng xạ này là hậu quả của vụ nổ Big Bang.
Trước vụ nổ Big Bang
Tiến sĩ Robert Jastrow, là người theo thuyết bất khả tri về vấn đề tôn giáo,
nhận xét về lý thuyết của vụ nổ Big Bang:
Bây giờ chúng ta thấy rằng những bằng chứng thiên văn học đều dẫn tới
quan niệm của Kinh Thánh về nguồn gốc của thế giới. Chi tiết khác nhau,
nhưng những yếu tố căn bản trong thiên văn học và Kinh Thánh trong sách
Sáng Thế Ký thì giống nhau. Chuỗi sự kiện dẫn đến một sự khởi đầu thình
lình và đột ngột vào một thời điểm nhất định trong thời gian, trong một chớp
ánh sáng và năng lượng.
Một cách cổ điển, những nhà khoa học đã phủ nhận ý tưởng về một hiện
tượng tự nhiên không thể giải thích được, thậm chí với thời gian và tiền bạc
không giới hạn của họ. Có một loại tôn giáo trong khoa học, ấy là mỗi sự
kiện có thể được giải thích theo cách hợp lý như là kết quả của một sự kiện
trước đó; mỗi hậu quả phải có nguyên nhân của nó. Bây giờ khoa học chứng
minh rằng vũ trụ đã nổ để tồn tại trong một thời điểm nhất định. Khi hỏi:
“Nguyên nhân nào dẫn đến kết quả này? Ai hay cái gì đã đặt những vật chất
và năng lượng vào trong vũ trụ?” thì khoa học không thể trả lời những câu
hỏi này được.
Jastrow kết luận bằng câu nói bất hủ này:
Đối với nhà khoa học đã sống bằng niềm tin dựa vào sức mạnh của lý lẽ, thì
câu chuyện kết thúc như một cơn ác mộng. Ông ta đã leo lên những ngọn núi
của sự tự mãn; ông đang chuẩn bị chinh phục đỉnh cao nhất; ông bò qua tảng
đá cuối cùng và thấy một nhóm các nhà thần học đã ngồi đó hàng bao thế kỷ
đang chào đón mình. 14
Đối với nhiều người, đây là một sự phát triển đầy lạ lùng và đáng kinh ngạc
ngoại trừ những nhà thần học. Họ đã luôn luôn chấp nhận những lời được
chép trong Kinh Thánh. Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất.
Đa-vít, một trong những nhà thần học, nói cách khôn ngoan: “Các từng trời
rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giãi tỏ công việc tay
Ngài làm” (19:1). Và sứ đồ Phao-lô viết: “Vì điều chi có thể biết được về
Đức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Đức Chúa Trời đã tỏ đều đó cho
họ rồi, bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền
phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem
thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa
mình được” (RoRm 1:19-20). Điều mà Augustine thêm vào là: “Ai có thể
hiểu được sự huyền nhiệm này hay giải thích nó cho người khác được?”
Cuộc tranh luận về đạo đức
Nhưng vẫn còn một bằng chứng khác về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời mà
C. S. Lewis gọi là “đúng và sai được xem như là bằng chứng về ý nghĩa của
vũ trụ.” Có một ảnh hưởng hay mạng lịnh bên trong mỗi người chúng ta
buộc chúng ta phải cư xử theo cách nhất định nào đó. Lewis giải thích rằng
tự nhiên chúng ta thấy con người thường phản ứng về nhận thức đúng và sai.
Người nọ cãi với người kia: “Đây là chỗ của tôi. Tôi chiếm được nó trước!
Giả sử tôi hành động tương tự như bạn! Bạn có thích không? Thôi nào, bạn
đã hứa rồi mà.” Những người có học lẫn không học vẫn nói với nhau như
vậy hằng ngày, con nít và cả người lớn nữa.
Trong những cuộc tranh luận như vậy, có những yêu cầu đối với một số tiêu
chuẩn cư xử mà người kia phải chấp nhận. Người có lý do chính đáng để
làm việc đó; thì có thể làm việc đó. Người ta kêu gọi sự đáp ứng đối với một
số luật pháp, luật lệ, công bằng hay đạo đức vốn đã có sẵn trong họ. Hiếm
khi nào một người khác nói: “Ai thèm quan tâm đến tiêu chuẩn của bạn?”
Tiêu chuẩn đó đã có giữa họ rồi. Họ không thắc mắc về nó nữa. Lewis nói:
“Cãi lộn có nghĩa là cố gắng chỉ cho người kia thấy là họ đang sai.”
Luật pháp này liên hệ với cái phải xảy ra. Dù sao, chúng ta biết nó vẫn ở
trong chúng ta. Nó không chỉ là một bộ quy tắc văn hóa hay tiêu chuẩn văn
hóa. Nó còn là một sự nhất trí đáng ngạc nhiên từ nền văn minh này đến nền
văn minh khác về cái gọi là khuôn phép đạo đức. Và tất cả chúng ta đều
đồng ý rằng có một vài tiêu chuẩn đạo đức tốt hơn những tiêu chuẩn đạo đức
khác. “Nếu không thì không ý tưởng đạo đức nào thật hơn hay đúng hơn cái
khác, sẽ chẳng có nghĩa lý gì trong việc ưa chuộng đạo đức văn minh hơn là
đạo đức sơ khai, hay đạo đức Cơ Đốc giáo hơn là đạo đức Đức quốc xã.” 15
Lewis nói rằng luật đạo đức không thể chỉ là một qui ước mang tính xã hội.
Ông nói với chúng ta rằng nó phải hơn một bảng toán học. Chúng ta sẽ
chẳng bao giờ nói rằng bảng cửu chương là một qui ước xã hội để giúp
chúng ta và chúng ta có thể làm một bảng khác nếu chúng ta muốn. 2 cộng 2
luôn luôn là 4 bất luận nền văn hóa của nó là gì đi nữa. Vì vậy, nếu có một
bộ luật đạo đức, thì phải có một người đạo đức ban đạo luật đó. Kinh Thánh
mô tả con người được “tạo dựng theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời,” phân
biệt con người với tất cả các loài thọ tạo khác. Ảnh tượng đạo đức này có
trong chúng ta từ khi mới sanh ra bất kể nguồn gốc hay quốc tịch của chúng
ta là gì. Một người chưa bao giờ nghe con vật cưng (chó hay mèo) hỏi:
“Điều này đúng hay sai?” hay là “Điều này tốt hay xấu?” Những ý tưởng
như vậy chỉ có đặc biệt ở con người mà thôi, và đối với con người, ảnh
tượng đạo đức không phải là một phần mềm tùy ý chọn lựa. Vâng, có một
người đứng đằng sau toàn bộ vũ trụ. Người đó chính là Đức Chúa Trời,
Đấng có trí óc, tình cảm, sự nhận thức, ý chí và một nhân cách trọn vẹn.
Những điều này được ban cho chúng ta khi Ngài tạo dựng chúng ta, và điều
đó bao gồm luôn luật pháp đạo đức. Ngài quan tâm đến một sản phẩm hoàn
chỉnh - trong sự công chính, không ích kỷ, can đảm, đức tin tốt, lương thiện
và trung thành.
Luật pháp của Đức Chúa Trời không phải là cái gì đó xa lạ, phủ lên bên
ngoài chúng ta nhưng đan dệt vào bản chất chúng ta từ ngày sáng tạo. Có cái
gì đó sâu thẳm bên trong chúng ta vang dội điều có hay không, đúng hay sai
của Đức Chúa Trời. (Sứ điệp trong RoRm 2:15).
Phải chăng Thượng Đế không muốn con người hạnh phúc?
Có một điều quan trọng cần quan sát ở đây mặc dù có nhiều dấu hiệu của
Đức Chúa Trời trong thiên nhiên, chúng ta cũng chẳng bao giờ có thể biết
được một cách chắc chắn từ thiên nhiên rằng Ngài hiện hữu hay Ngài trông
như thế nào. Câu hỏi được đặt ra từ hàng thế kỷ trước: “Há có thể hiểu biết
được sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời, và thấu rõ Đấng Toàn Năng sao?”(
Giop G 11:7). Câu trả lời là không! Nếu Đức Chúa Trời không bày tỏ chính
Ngài, chúng ta cũng quờ quạng trong sự mập mờ và phỏng đoán mà thôi.
Rõ ràng ngày hôm nay trong vòng những người tin vào Đức Chúa Trời có
rất nhiều ý tưởng xa lạ về Đức Chúa Trời.
Chẳng hạn như một vài người tin rằng Thượng Đế không muốn con người
được hạnh phúc. Người ta xem Ngài như người trên ban công thiên đàng tìm
kiếm bất cứ ai có vẻ như đang tận hưởng cuộc đời thì truyền lệnh phải chấm
dứt.
Một số người khác nghĩ về Thượng Đế như một người cha rất giàu tình cảm
ở trên trời, vừa vuốt râu vừa nói: “Con cái bao giờ cũng là con cái!” Bất kể
bạn đã làm gì đi nữa thì cuối cùng cũng chẳng sao. Thượng Đế đối với tất cả
mọi người như nhau.
Nhiều người khác lại nghĩ về Ngài như một trái banh lửa khổng lồ và chúng
ta như những tia lửa nhỏ dần dần cũng sẽ bị hút trở lại phía trái banh khổng
lồ đó. Còn có những người, như Einstein, nghĩ Đức Chúa Trời như một sức
mạnh hay trí lực vô ngã (impersonal mind).
Đối với các nhà duy thần (deist), Đức Chúa Trời tạo dựng nên thế giới
nhưng chưa bao giờ xâm nhập vào nó. Ngài lên dây cót cho đồng hồ rồi để
nó chết mà không lên dây lại.
Tuy nhiên, đối với những người hữu thần (theist), Đức Chúa Trời là Đấng
sáng tạo và Đấng điều hành; Ngài có liên hệ cách cá nhân với công trình
sáng tạo của Ngài trong khi bày tỏ chính Ngài.
Herbert Spencer, một trong những người truyền bá thuyết bất khả tri một thế
kỷ trước đây, đã nhận xét rất chính xác rằng chẳng bao giờ có ai thấy một
con chim bay ra được ngoài từng không gian. Do đó, ông dùng loại suy để
kết luận rằng con người hữu hạn cũng không thế nào xâm nhập vào cõi vô
hạn được. Ngay khi Đức Chúa Trời có hiện diện đi nữa thì chúng ta cũng
không bao giờ biết Ngài một cách cá nhân hay biết bất cứ điều gì về sự hiện
hữu của Ngài.
Spencer đã đúng khi quan sát loài chim không bao giờ bay ra khỏi không
gian. Sự quan sát của ông đúng nhưng kết luận của ông bỏ sót một khả năng
lựa chọn quan trọng: Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa vô hạn, có thể xâm
nhập vào sự hữu hạn của chúng ta - Đấng vô hạn đã bước vào cõi hữu hạn,
do đó việc liên hệ với chúng ta là điều Ngài rất thích làm. Dĩ nhiên, đây là
điều Chúa đã làm.
Đức Chúa Trời đã bước vào cõi hữu hạn
Như tác giả sách Hê-bơ-rơ đã viết: “Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các
đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, rồi đến những
ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã
lập nên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian” (HeDt
1:1-2).
Qua suốt lịch sử, Đức Chúa Trời đã chủ động trong việc tương giao với loài
người. Sự mạc khải trọn vẹn nhất của Ngài là việc Ngài bước vào lịch sử
nhân loại qua con người của Đức Chúa Giê-xu Christ. Ngay điểm này, về
khía cạnh nhân cách của con người, chúng ta có thể hiểu được Ngài vì Ngài
đã từng sống với chúng ta.
Nếu bạn muốn biểu lộ tình thương của bạn cho một bầy kiến thì làm sao bạn
có thể làm điều đó một cách hữu hiệu nhất? Cách rõ ràng tốt nhất là bạn trở
thành một con kiến. Chỉ với cách này sự hiện hữu và hình dáng của bạn mới
có thể tương giao một cách đầy đủ và hữu hiệu. Đây chính là điều Đức Chúa
Trời đã làm cho chúng ta để chúng ta có thể nhận biết Ngài một cách rõ
ràng. J. B. Philips đã nói rất thích hợp: “Chúng ta là một hành tinh được
viếng thăm.” Câu trả lời hay nhất và rõ ràng nhất để chúng ta biết tại sao có
một Đức Chúa Trời, ấy là Ngài đã viếng thăm chúng ta. Những dấu hiệu
khác chúng ta bàn đến chỉ là những đầu mối và gợi ý mà thôi. Điều xác nhận
cách thuyết phục là sự giáng sinh, sự chết và phục sinh của Chúa Giê-xu
Christ.
Những đời sống được thay đổi
Những bằng chứng khác về sự hiện hữu hiển nhiên của Đức Chúa Trời là sự
hiện hữu rõ ràng của Ngài trong cuộc sống của những người đàn ông và đàn
bà ngày hôm nay. Nơi nào người ta chịu tin nhận và nhờ cậy Đức Chúa Giê-
xu Christ, thì con người được biến cải sâu xa và cuối cùng cả cộng đồng xã
hội ấy cũng được thay đổi. Một trong những ví dụ rất cảm động về sự kiện
đó đã do Ernest Gordon, một tù binh trong chiến tranh sau trở nên giáo sĩ
của trường đại học Princeton, kể lại. Trong cuốn sách Ngang Qua Thung
Lũng Sông Kwai (Through the Valley of Kwai) ông đã thuật lại các tù binh
trong thế chiến thứ hai bị người Nhật Bản giam tại Mã Lai hầu như bị biến
thành thú vật như thế nào. Họ lấy cắp thức ăn của những người khác cũng
đang chết đói như họ. Nhưng rồi trong cơn tuyệt vọng của mình, các tù nhân
quyết định rằng đọc Tân Ước sẽ là điều tốt cho họ.
Vì Gordon đã tốt nghiệp đại học, nên họ nhờ ông hướng dẫn việc đó. Ông
vốn là người theo chủ nghĩa hoài nghi, và những người yêu cầu ông hướng
dẫn cũng là những người chưa tin Chúa. Nhờ nhận lời mời, ông và nhiều
người khác đã tiếp nhận Đấng Christ, và làm quen với Ngài trong toàn thể
vẻ đẹp và quyền năng của Ngài từ những lời lẽ rõ ràng đơn sơ của Tân Ước.
Làm thế nào một nhóm người ăn cắp và cấu xé nhau như thế lại được biến
đổi thành một cộng đồng đầy yêu thương là câu chuyên đầy cảm động và
quyền năng, chứng tỏ rõ ràng sự thực hữu của Đức Chúa Trời qua Đức Chúa
Giê-xu Christ. Nhiều người khác trong xã hội hiện nay, trong những điều
kiện ít bi thảm hơn cũng đã kinh nghiệm những thực tế như vậy.
Do đó, cả trong công trình sáng tạo, lịch sử, và cuộc sống sinh hoạt hằng
ngày đều chứng tỏ rằng có một Đức Chúa Trời, và người ta có thể căn cứ
vào kinh nghiệm bản thân để biết được Ngài.
Đọc thêm
Lewis, C. S Mere Christianity. New York: Macmillan, 1986.
Packer, J. I Knowing God. Twentieth anniv. ed. Downers Grove, Ill.:
InterVarsity Press, 1993.
Có Phải Đấng Christ Là Đức Chúa Trời Không?
Nếu Đức Chúa Trời không chủ động và bày tỏ chính Ngài thì chúng ta
không thể biết được một cách chắc chắn là Ngài có hiện hữu không và Ngài
ra làm sao. Nếu không có sự chủ động và sự tự mặc khải của Ngài chúng ta
mắc kẹt trong sự phỏng đoán, những định kiến và những ý kiến không bao
giờ được sáng tỏ. Chúng ta có quyền được thắc mắc Ngài như thế nào và
thái độ của Ngài đối với chúng ta ra sao. Nếu chúng ta biết chắc chắn về sự
hiện hữu của Ngài nhưng biết Ngài giống như Adolf Hitler, nghĩa là hay
thay đổi ý kiến, nhiều tánh xấu, nhiều thành kiến và rất tàn bạo, thì khủng
khiếp biết bao!
Nhìn lướt qua chân trời của lịch sử chúng ta thấy có những manh mối chứng
tỏ rằng Đức Chúa Trời tự bày tỏ chính Ngài. Có một sự việc nổi bật. Cách
đây 2000 năm, tại một làng hẻo lánh thuộc xứ Palestine, một bé trai đã được
sinh ra trong chuồng chiên. Sự ra đời của con trẻ đó đã khiến cho Hê-rốt, vị
vua đang cai trị xứ ấy, khiếp sợ. Cố gắng tiêu diệt đứa trẻ được dự báo là
sinh ra để “làm vua xứ Giu-đa”, vua Hế-rốt ra lệnh giết tất cả bé trai 2 tuổi
trở xuống được sinh ra trong thành Bết-lê-hem. Ông hy vọng một cách vô
ích rằng mình sẽ tiêu diệt được bất kỳ một địch thủ nào. Lịch sử gọi ông là
“kẻ tàn sát những đứa trẻ vô tội” (Mat Mt 2:1-18).
Sự giáng sinh của Ngài chia đôi dòng thời gian. Cuộc đời của Con Trẻ này
đã được định trước để thay đổi tiến trình của lịch sử. Hai ngàn năm trước, sự
giáng thế của Ngài đã làm rung chuyển thế giới, thay đổi niên lịch và tập tục.
Người theo thuyết vô thần ở Mỹ vẫn ghi ngày lên tờ ngân phiếu của họ với
năm được tính từ ngày Chúa Giê-xu ra đời. Những người cai trị đất nước, ở
phương Đông hay phương Tây, bất kể tôn giáo của họ là gì, đều dùng năm
sinh gần đúng này của Ngài. Tự nhiên chúng ta tuyên bố sự giáng sinh của
Ngài trên những bức thư, những giấy tờ hợp pháp, và những quyển lịch làm
việc. Vào ngày chúng ta đặt ra để kỷ niệm ngày sinh của Ngài, thì khu đậu
xe của phố thương mại hoàn toàn vắng hoe.
Cậu bé nầy, có ngày sinh mà chúng ta vẫn còn ăn mừng, cùng với cha mẹ
sống ở thành Na-xa-rét, nơi Ngài học được nghề thợ mộc từ người cha trần
gian của Ngài. Ngay từ đầu Ngài đã là một đứa trẻ khác thường. Năm được
12 tuổi, Ngài đã khiến các học giả và các giáo sư dạy đạo tại Giê-ru-sa-lem
bối rối trước những câu hỏi của Ngài. Khi cha mẹ trách Ngài vì Ngài ở lại
khi họ đã lên đường trở về, Ngài đáp lại bằng một câu trả lời rất khó hiểu:
“Cha mẹ không biết tôi phải lo việc Cha tôi (Đức Chúa Trời) sao?” (LuLc
2:49). Câu trả lời của Ngài ngụ ý về mối quan hệ đặc biệt của Ngài với Đức
Chúa Trời.
Chàng thanh niên này đã sống trong sự âm thầm cho đến khi được 30 tuổi,
rồi bắt đầu chức vụ công khai suốt ba năm. Ngài là một người nhân hậu, và
được truyền tụng là “giới bình dân vui vẻ nghe Ngài giảng dạy.” Khác với
các giáo sư thời đó “Ngài giảng cách có quyền, chớ không phải như các thầy
thông giáo và người Pha-ri-si” (Mat Mt 7:29).
Chúa Giê-xu tuyên bố Ngài là Con Đức Chúa Trời
Chẳng bao lâu người ta thấy rõ ràng là Ngài đã làm xáo trộn tất cả và tuyên
bố nhiều câu về chính Ngài khiến mọi người đều kinh ngạc. Ngài bắt đầu tự
xưng là một nhân vật lỗi lạc hơn một giáo sư hay một nhà tiên tri nữa. Ngài
bắt đầu nói phán rõ ràng rằng Ngài là Đức Chúa Trời. Những lời giảng dạy
của Ngài đều qui tụ vào điều Ngài đã tự xưng. Câu hỏi tối quan trọng Ngài
đã nêu lên cho những người theo Ngài là: “Còn các ngươi thì xưng ta là ai?”
Khi Phi-e-rơ thưa rằng: “Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng
sống” (16:15-16), thì Chúa Giê-xu đã không cho là lạ và cũng không quở
trách Phi-e-rơ. Ngược lại, Ngài còn khen ông!
Chúa Giê-xu tuyên bố một cách dứt khoát rằng Ngài là Con của Đức Chúa
Trời. Những người nghe Ngài đã bị lời giảng của Ngài công kích nặng nề.
Chúng ta được biết rằng, dân Giu-đa càng kiếm cách nữa để giết Ngài,
chẳng những vì Ngài phạm ngày Sa-bát thôi, mà lại vì Ngài gọi Đức Chúa
Trời là Thân Phụ mình, tự cho mình bình đẳng với Đức Chúa Trời” (GiGa
5:18).
Vào một dịp khác, Ngài nói rằng: “Ta với Cha là một” (10:30). Dân Giu-đa
lập tức muốn ném đá Ngài. Ngài hỏi họ muốn giết Ngài vì việc gì. Họ trả
lời: “ Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá người, nhưng vì
lỗi lộng ngôn; ngươi là người mà tự xưng mình là Đức Chúa Trời” (10:33).
Chúa Giê-xu cũng tự xưng rõ ràng rằng Ngài có những thuộc tính mà chỉ có
ở Đức Chúa Trời. Khi người bại liệt được giòng xuống từ mái nhà và đặt
dưới chân Ngài, Ngài phán: “Hỡi con, tội lỗi con đã được tha” (Mac Mc
2:5). Việc này gây ra bất mãn lớn giữa vòng các thầy thông giáo. Họ nghĩ
thầm “Sao tên này dám phạm thượng như vậy? Ngoài Đức Chúa Trời ra, đâu
có ai tha tội được?” (2:7).
Chúa Giê-xu biết ý tưởng họ nên phán: “Bảo rằng, tội ngươi đã được tha,
hay là bảo người rằng: Hãy đứng dậy, vác giường mà đi, hai điều ấy đều nào
dễ hơn?” (2:8-9). Để hiệu quả hơn, Ngài trả lời câu hỏi bằng cách: “Vả hầu
cho các người biết Con người ở thế gian có quyền tha tội (ý Ngài muốn nói
rằng các ngươi bảo chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền tha tội là rất đúng,
nhưng việc đó không ai thấy, bây giờ ta làm một việc mà các ngươi có thể
thấy)” (2:10). Quay sang người bại, Ngài truyền lệnh: “Ta biểu ngươi, hãy
đứng dậy, vác giường đi về nhà” (2:11). Người đàn ông đứng dậy và đi!
Tên gọi Con người là danh xưng Chúa Giê-xu dùng để nói về chính Ngài,
nhưng đi kèm với những thuộc tính mà chỉ Đức Chúa Trời mới có. Trong lời
nói liên quan đến việc Chúa Giê-xu đến thế gian, Ngài nói về chính mình
như Con người đến để “ban sự sống của Ngài làm giá chuộc nhiều người.”
Đây không phải là lời phủ nhận về thần tính theo bất kỳ nghĩa nào. Đúng
hơn là danh xưng này bao gồm cả thần tính và sự giáng sinh của Ngài như
một phần của nhân loại. Quyền phép, những phép lạ, những sự dạy dỗ và
tính cách của Ngài, là những đặc điểm thật mà chỉ ở Đức Chúa Trời mới có.
Đến giờ quyết định, khi mạng sống của Ngài đang lâm nguy vì cớ những lời
tự xưng đó, thầy cả thượng phẩm đặt câu hỏi với Ngài một cách trực tiếp:
“Ấy chính ngươi là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời đáng ngợi khen phải
không?” Chúa Giê-xu đáp một cách bình thản: “Ta chính phải đó, các ngươi
sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự giữa
đám mây trên trời mà đến.” Bấy giờ thầy cả thượng phẩm xé áo mình ra mà
phán rằng: “Chúng ta có cần kiếm chứng cớ khác nữa làm chi? Các ngươi có
nghe lời lộng ngôn chăng?” (14:61-64).
John Stott tóm tắt lại như sau:
Mối liên hệ giữa Ngài với Đức Chúa Trời quá gần gũi nên tự nhiên Ngài
xem thái độ của một người đối với Ngài là thái độ của người đó đối với Đức
Chúa Trời. Cho nên:
Ai biết Ngài tức là biết Đức Chúa Trời
Ai thấy Ngài tức là thấy Đức Chúa Trời
Ai tin Ngài tức là tin Đức Chúa Trời
Ai tiếp nhận Ngài tức là tiếp nhận Đức Chúa Trời
Ai ghét Ngài tức là ghét Đức Chúa Trời
Ai tôn vinh Ngài tức là tôn vinh Đức Chúa Trời. 1
Chỉ có bốn trường hợp có thể xảy ra
Khi chúng ta đối diện với lời tự xưng về thần tính của Đấng Christ, chỉ có
bốn khả năng. Ngài hoặc là một kẻ nói dối, một người điên, một nhân vật
của truyền thuyết hoặc Ngài là Chân Lý. Nếu chúng ta nói Ngài không phải
là Chân Lý, thì lẽ đương nhiên chúng ta đã nhận ba khả năng còn lại, dù
chúng ta có ý thức như thế hay không. Xem xét những khả năng này rất ích
lợi cho chúng ta.
Chúa Giê-xu có nói dối khi tự xưng Ngài là Đức Chúa Trời khi Ngài biết
rằng Ngài không phải là Đức Chúa Trời không? Nếu như vậy, Ngài cố ý lừa
dối những người nghe Ngài để mượn uy quyền của Đức Chúa Trời cho
chính Ngài và cho lời giảng dạy của Ngài. Rất ít người hay hầu như không
có ai giữ quan điểm này một cách nghiêm túc. Ngay cả những người chối bỏ
thần tính của Ngài cũng khẳng định rằng Chúa Giê-xu là một giáo sư vĩ đại
đầy đạo đức. Họ thất bại khi không nhận thấy rằng hai quan điểm này hoàn
toàn trái ngược nhau. Chúa Giê-xu khó có thể là một giáo sư vĩ đại đầy đạo
đức nếu ngay ở điểm chính yếu trong sự giảng dạy của Ngài - lai lịch của
Ngài - Ngài lại là một kẻ nói dối có chủ ý.
Ngài có phải là một người điên không? Chấp nhận quan điểm này sẽ dẫn đến
việc làm méo mó cho bằng cớ. Thật sự thì chẳng có bằng chứng nào ủng hộ
quan điểm này. Trái lại, tất cả những bằng chứng đều hướng về phía ngược
lại. Tuy có vẻ nhẹ hơn, nhưng cũng không kém phần kinh ngạc khi nói rằng
Ngài chân thật nhưng tự lừa dối. Ngày nay một người nào đó tự xưng là
mình Đức Chúa Trời hay là món khoai tây chiên thì sẽ bị coi là “kẻ điên”, và
chúng ta sẽ giúp đỡ người ấy. Tuy nhiên từ ngữ nầy sẽ trở nên lố bịch nếu
chúng ta áp dụng vào Đấng Christ.
Khi nhìn vào đời sống của Đấng Christ, chúng ta không thấy bằng chứng
nào của sự dị thường và mất thăng bằng thường thấy trong những người loạn
trí. Hơn thế nữa, chúng ta chỉ thấy một sự điềm tĩnh vô hạn dưới những áp
lực của đối phương. Trước tòa công luận của Phi-lát, khi cuộc sống của Ngài
đang lâm nguy, Ngài đã rất điềm tĩnh và thản nhiên. Như C. S. Lewis đã nói:
“Lời giảng dạy sâu sắc và lành mạnh mang tính đạo đức của Ngài rõ ràng
không phù hợp với một người được chuẩn đoán là mắc bệnh hoang tưởng”
điều đó không thể nào hài hòa được. 2
Có phải Ngài là một truyền thuyết không? Khả năng thứ ba là tất cả những
gì những môn đệ nhiệt thành của Ngài thuật lại về lời tự xưng rằng Ngài là
Đức Chúa Trời và năng lực siêu nhiên của Ngài là một truyền thuyết. Thậm
chí có những lời đồn đại rằng lời tự xưng là Đức Chúa Trời, sự giảng dạy và
những phép lạ của Ngài chỉ được thêm vào từ thế kỷ thứ ba hay thứ tư sau
này. Họ đã đặt những lời vào miệng Ngài mà nếu chính Ngài được nghe
cũng phải kinh ngạc. Nếu Ngài tái lâm, chắc sẽ phủ nhận chúng lập tức.
Thuyết truyền khẩu này đã bị bác bỏ do những khám phá của ngành khảo cổ
học hiện đại qua ba yếu tố.
Bốn quyển sách tiểu sử của Đấng Christ (Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, Giăng)
được viết ra trong thời của những người sống đồng thời với Ngài đã được
chứng minh chắc chắn.
Tiến sĩ William F. Albright, một nhà khảo cổ học nổi tiếng thế giới đã kết
luận như vậy: “Không có lý do gì để tin rằng có quyển sách Phúc Âm nào
được viết sau năm 70 S.C.”
Cho rằng truyền thuyết về Đấng Christ, dưới dạng một sách Phúc Âm, lại
được lưu hành khắp nơi và gây ảnh hưởng sâu rộng như thế mà không có
một chút sự thật nào làm căn bản là điều không thể có được.
Nếu việc này xảy ra thì nó cũng kỳ lạ như việc có một người nào trong thời
đại của chúng ta viết tiểu sử về cố tổng thống John F. Kenedy, trong đó nói
rằng ông tự xưng mình là Đức Chúa Trời, tha thứ tội lỗi của mọi người và từ
cõi chết sống lại. Một câu chuyện hoang đường như thế không thể nào đứng
vững được bởi vì còn có quá nhiều người biết tổng thống! Trong ánh sáng
của những biên niên rất sớm và hợp lý của các cổ bản sách Phúc Âm thuyết
truyền khẩu không thể nào đứng vững được.
4. Chúa Giê-xu đã nói sự thật - Ngài chính là Đức Chúa Trời đến trần gian.
Về một phương diện thì lời tự xưng chẳng đáng kể bao nhiêu. Tuyên bố ba
hoa là điều rất dễ làm! Ai cũng có thể tự xưng hay được người ta xưng là
thần này thánh nọ khắp nơi trên thế giới. Tôi có thể tự xưng là Đức Chúa
Trời và bạn cũng có thể tự xưng là Đức Chúa Trời nhưng câu hỏi mà tất cả
chúng ta phải trả lời là: “Chúng ta đưa ra những bằng chứng gì để hậu thuẫn
cho lời tự xưng của chúng ta?” Trong trường hợp của tôi thì không cần đến 5
phút là tôi đã bị lột mặt nạ rồi. Và chắc trường hợp của bạn cũng không lâu
hơn thế.
Nhưng trong trường hợp của Chúa Giê-xu người Na-xa-rét, vấn đề không
đơn giản như vậy. Ngài có những bằng chứng để hậu thuẫn cho lời tự xưng
của Ngài. Ngài nói rằng: “Dầu các ngươi chẳng tin ta, hãy tin những việc ta,
để các ngươi hiểu và biết rằng Cha ở trong ta và ta ở trong Cha” (GiGa
10:38).
Những phẩm tính của Chúa Giê-xu chứng minh điều gì về Ngài?
Tính cách đạo đức của Ngài phù hợp với lời tự xưng của Ngài. Trước đây
chúng ta đã đề cập đến nhiều bệnh nhân trong nhà thương điên thường tự
xưng mình là thần thánh hay những nhân vật nổi tiếng nào đó, nhưng tính
cách của họ trái ngược với những lời tự xưng đó. Với Đấng Christ thì không
hề như vậy. Chúng ta không đem Đấng Christ để so sánh với những người
khác; chúng ta đưa những người khác đối chiếu với Ngài để thấy Ngài hoàn
toàn trái ngược với họ. Ngài là Đấng có một không hai - như chính Đức
Chúa Trời vốn độc nhất vô nhị vậy.
Chúa Giê-xu không hề phạm tội. Những phẩm chất trong đời sống của Ngài
cho phép Ngài thách thức kẻ thù của mình với câu hỏi: “Trong các ngươi có
ai bắt ta thú tội được chăng?” (GiGa 8:46). Mặc dù Ngài nói với những kẻ
rất muốn bới lông tìm vết để vạch ra một yếu điểm trong tính tình của Ngài,
nhưng tất cả đều im hơi lặng tiếng. Chúng ta đọc về chuyện Chúa Giê-xu
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin
Vi sao chung ta tin

More Related Content

Viewers also liked

Curiosity killed the cat but created a category
Curiosity killed the cat but created a category Curiosity killed the cat but created a category
Curiosity killed the cat but created a category Anil Kulkarni
 
Social media and retail banking white paper
Social media and retail banking white paperSocial media and retail banking white paper
Social media and retail banking white paperMichael Chinwuba
 
красная шапочка
красная шапочкакрасная шапочка
красная шапочкаganyan
 
Trasporto merci attraverso le alpi 2012 (secondo dossier)
Trasporto merci attraverso le alpi 2012 (secondo dossier)Trasporto merci attraverso le alpi 2012 (secondo dossier)
Trasporto merci attraverso le alpi 2012 (secondo dossier)INTERALPES Alcotra 2007-2013
 
Scene by scene
Scene by sceneScene by scene
Scene by scenejuhelmiah
 

Viewers also liked (6)

Curiosity killed the cat but created a category
Curiosity killed the cat but created a category Curiosity killed the cat but created a category
Curiosity killed the cat but created a category
 
Social media and retail banking white paper
Social media and retail banking white paperSocial media and retail banking white paper
Social media and retail banking white paper
 
Audience
AudienceAudience
Audience
 
красная шапочка
красная шапочкакрасная шапочка
красная шапочка
 
Trasporto merci attraverso le alpi 2012 (secondo dossier)
Trasporto merci attraverso le alpi 2012 (secondo dossier)Trasporto merci attraverso le alpi 2012 (secondo dossier)
Trasporto merci attraverso le alpi 2012 (secondo dossier)
 
Scene by scene
Scene by sceneScene by scene
Scene by scene
 

Similar to Vi sao chung ta tin

Nhung thac mac ve doi song
Nhung thac mac ve doi songNhung thac mac ve doi song
Nhung thac mac ve doi songLong Do Hoang
 
Sách YOUCAT - Giáo lý Công giáo cho người trẻ
Sách YOUCAT - Giáo lý Công giáo cho người trẻSách YOUCAT - Giáo lý Công giáo cho người trẻ
Sách YOUCAT - Giáo lý Công giáo cho người trẻgxduchoa
 
Toi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanToi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanco_doc_nhan
 
Toi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanToi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanLong Do Hoang
 
Hoi thanh cua ta
Hoi thanh cua taHoi thanh cua ta
Hoi thanh cua taco_doc_nhan
 
Tân ước lược khảo - BOB UTLEY.pdf
Tân ước lược khảo - BOB UTLEY.pdfTân ước lược khảo - BOB UTLEY.pdf
Tân ước lược khảo - BOB UTLEY.pdfMario Chen
 
Nội san Loisusong.net 2013-09
Nội san Loisusong.net 2013-09Nội san Loisusong.net 2013-09
Nội san Loisusong.net 2013-09Word of Life
 
http://crador3s.blogspot.com/
http://crador3s.blogspot.com/http://crador3s.blogspot.com/
http://crador3s.blogspot.com/Daiquyetd Ha
 
Phuong phap saon bai giang 1
Phuong phap saon bai giang 1Phuong phap saon bai giang 1
Phuong phap saon bai giang 1co_doc_nhan
 
Loi ngo tu coi tam linh a5new
Loi ngo tu coi tam linh a5newLoi ngo tu coi tam linh a5new
Loi ngo tu coi tam linh a5newThe Golden Ages
 
Lời ngỏ từ cõi tâm linh
Lời ngỏ từ cõi tâm linhLời ngỏ từ cõi tâm linh
Lời ngỏ từ cõi tâm linhNguyen Ha Linh
 
Sach cua nhung cau hoi
Sach cua nhung cau hoiSach cua nhung cau hoi
Sach cua nhung cau hoiPhmPh12
 
Hoi thanh theo dung muc dinh(gian luot)
Hoi thanh theo dung muc dinh(gian luot)Hoi thanh theo dung muc dinh(gian luot)
Hoi thanh theo dung muc dinh(gian luot)co_doc_nhan
 
Nhung dieu kho hieu tronh kinh thanh
Nhung dieu kho hieu tronh kinh thanhNhung dieu kho hieu tronh kinh thanh
Nhung dieu kho hieu tronh kinh thanhco_doc_nhan
 
Phuong phap saon bai giang 2
Phuong phap saon bai giang 2Phuong phap saon bai giang 2
Phuong phap saon bai giang 2co_doc_nhan
 
Ngu kinh va lich su
Ngu kinh va lich suNgu kinh va lich su
Ngu kinh va lich suco_doc_nhan
 

Similar to Vi sao chung ta tin (20)

Nhung thac mac ve doi song
Nhung thac mac ve doi songNhung thac mac ve doi song
Nhung thac mac ve doi song
 
Biet kinh thanh
Biet kinh thanhBiet kinh thanh
Biet kinh thanh
 
Sách YOUCAT - Giáo lý Công giáo cho người trẻ
Sách YOUCAT - Giáo lý Công giáo cho người trẻSách YOUCAT - Giáo lý Công giáo cho người trẻ
Sách YOUCAT - Giáo lý Công giáo cho người trẻ
 
Toi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanToi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhan
 
Toi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhanToi muon la co doc nhan
Toi muon la co doc nhan
 
Hoi thanh cua ta
Hoi thanh cua taHoi thanh cua ta
Hoi thanh cua ta
 
Tân ước lược khảo - BOB UTLEY.pdf
Tân ước lược khảo - BOB UTLEY.pdfTân ước lược khảo - BOB UTLEY.pdf
Tân ước lược khảo - BOB UTLEY.pdf
 
Nội san Loisusong.net 2013-09
Nội san Loisusong.net 2013-09Nội san Loisusong.net 2013-09
Nội san Loisusong.net 2013-09
 
So 179
So 179So 179
So 179
 
Tro ve mai nha xua
Tro ve mai nha xuaTro ve mai nha xua
Tro ve mai nha xua
 
http://crador3s.blogspot.com/
http://crador3s.blogspot.com/http://crador3s.blogspot.com/
http://crador3s.blogspot.com/
 
Phuong phap saon bai giang 1
Phuong phap saon bai giang 1Phuong phap saon bai giang 1
Phuong phap saon bai giang 1
 
Loi ngo tu coi tam linh a5new
Loi ngo tu coi tam linh a5newLoi ngo tu coi tam linh a5new
Loi ngo tu coi tam linh a5new
 
Lời ngỏ từ cõi tâm linh
Lời ngỏ từ cõi tâm linhLời ngỏ từ cõi tâm linh
Lời ngỏ từ cõi tâm linh
 
Sach cua nhung cau hoi
Sach cua nhung cau hoiSach cua nhung cau hoi
Sach cua nhung cau hoi
 
Hoi thanh theo dung muc dinh(gian luot)
Hoi thanh theo dung muc dinh(gian luot)Hoi thanh theo dung muc dinh(gian luot)
Hoi thanh theo dung muc dinh(gian luot)
 
Nhung dieu kho hieu tronh kinh thanh
Nhung dieu kho hieu tronh kinh thanhNhung dieu kho hieu tronh kinh thanh
Nhung dieu kho hieu tronh kinh thanh
 
Phuong phap saon bai giang 2
Phuong phap saon bai giang 2Phuong phap saon bai giang 2
Phuong phap saon bai giang 2
 
LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬTLỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
 
Ngu kinh va lich su
Ngu kinh va lich suNgu kinh va lich su
Ngu kinh va lich su
 

More from co_doc_nhan

Vai net ve hoi thanh dau tien
Vai net ve hoi thanh dau tienVai net ve hoi thanh dau tien
Vai net ve hoi thanh dau tienco_doc_nhan
 
Truong dang christ
Truong dang christTruong dang christ
Truong dang christco_doc_nhan
 
Su phuc hung hau den
Su phuc hung hau denSu phuc hung hau den
Su phuc hung hau denco_doc_nhan
 
Su phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanhSu phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanhco_doc_nhan
 
Phuong phap day dao
Phuong phap day daoPhuong phap day dao
Phuong phap day daoco_doc_nhan
 
Phuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chuaPhuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chuaco_doc_nhan
 
Nhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh daoNhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh daoco_doc_nhan
 
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nhoNhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nhoco_doc_nhan
 
Nhiem vu giao duc
Nhiem vu giao ducNhiem vu giao duc
Nhiem vu giao ducco_doc_nhan
 
Nhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanhNhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanhco_doc_nhan
 
Nguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuongNguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuongco_doc_nhan
 
Nguyen tac giang day
Nguyen tac giang dayNguyen tac giang day
Nguyen tac giang dayco_doc_nhan
 

More from co_doc_nhan (20)

Vai net ve hoi thanh dau tien
Vai net ve hoi thanh dau tienVai net ve hoi thanh dau tien
Vai net ve hoi thanh dau tien
 
Truong nhan su
Truong nhan suTruong nhan su
Truong nhan su
 
Truong dang christ
Truong dang christTruong dang christ
Truong dang christ
 
Thuat lanh dao
Thuat lanh daoThuat lanh dao
Thuat lanh dao
 
Tho phuong dct
Tho phuong dctTho phuong dct
Tho phuong dct
 
Tho phuong dct
Tho phuong dctTho phuong dct
Tho phuong dct
 
Tho phuong dct
Tho phuong dctTho phuong dct
Tho phuong dct
 
Su phuc hung hau den
Su phuc hung hau denSu phuc hung hau den
Su phuc hung hau den
 
Su phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanhSu phat trien tu nhien cua hoi thanh
Su phat trien tu nhien cua hoi thanh
 
Phuong phap day dao
Phuong phap day daoPhuong phap day dao
Phuong phap day dao
 
Phuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chuaPhuong cach rao giang loi chua
Phuong cach rao giang loi chua
 
Phuc vu chua
Phuc vu chuaPhuc vu chua
Phuc vu chua
 
Phuc vu chua
Phuc vu chuaPhuc vu chua
Phuc vu chua
 
Nhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh daoNhung nguyen tac lanh dao
Nhung nguyen tac lanh dao
 
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nhoNhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
Nhung dieu tot lanh den voi cac nhom nho
 
Nhom thanh cong
Nhom thanh congNhom thanh cong
Nhom thanh cong
 
Nhiem vu giao duc
Nhiem vu giao ducNhiem vu giao duc
Nhiem vu giao duc
 
Nhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanhNhan lanh va gin giu su chua lanh
Nhan lanh va gin giu su chua lanh
 
Nguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuongNguyen tac tho phuong
Nguyen tac tho phuong
 
Nguyen tac giang day
Nguyen tac giang dayNguyen tac giang day
Nguyen tac giang day
 

Vi sao chung ta tin

  • 1. Vì Sao Chúng Ta Tin ? Tác giả: Paul E. Little Lời Giới Thiệu Dẫn Nhập: Cuốn Sách Này Ra Đời Như Thế Nào 1. Cơ Đốc Giáo Có Hợp Lý Không? 2. Có Đức Chúa Trời Không? 3. Có Phải Đấng Christ Là Đức Chúa Trời Không? 4. Đấng Christ Có Sống Lại Từ Cõi Chết Không? 5. Kinh Thánh Có Phải Là Lời Đức Chúa Trời Không? 6. Tài Liệu Kinh Thánh Có Đáng Tin Cậy Không? 7. Khảo Cổ Học Có Làm Sáng Tỏ Kinh Thánh Không? 8. Có Thể Có Phép Lạ Không? 9. Khoa Học và Kinh Thánh Có Mâu Thuẫn Không? 10. Tại Sao Có Đau Khổ Và Điều Ác? 11. Cơ Đốc Giáo Khác Gì Với Các Tôn Giáo Khác? 12. Kinh Nghiệm Cơ Đốc Nhân Có Giá Trị Không Câu Hỏi Nghiên Cứu Chú Thích Lời Giới Thiệu Vì Sao Chúng Ta Tin? của Paul E. Little là một quyển sách giá trị nhằm giải đáp những thắc mắc về niềm tin Cơ Đốc, chẳng hạn Kinh Thánh và Khoa học có mâu thuẫn nhau không? Phép lạ có thể xảy ra không? Tại sao Đức Chúa Trời cho phép đau khổ và điều ác xảy ra? Những câu hỏi như trên cần được trả lời cách thỏa đáng. Cuốn sách đã được ấn hành trên một triệu bản. Hàng triệu người đã tìm được trong cuốn sách nầy lời giải đáp hợp lý cho những thách thức hóc búa đối với Cơ Đốc giáo. Cuốn sách đã được hiệu đính nhiều lần và bản hiệu đính mới nhứt được bà Marie Little thực hiện năm 2000 với sự tham khảo ý kiến của các nhà khoa học và khảo cổ học. Bản hiệu đính này đã sử dụng những thông tin cập nhật của thế kỷ 21 nhằm cung ứng nền tảng vững chắc cho ai tìm kiếm chân lý. Trong ấn bản mới này có thêm phần câu hỏi nghiên cứu cho mỗi chương và bảng liệt kê các sách tham khảo, rất tiện cho việc nghiên cứu cá nhân cũng như thảo luận từng nhóm. Cuốn sách này cũng được dùng làm tài liệu cho sinh viên học môn Biện Giáo. Paul Little là giáo sư Đại Học Trinity Evangelical Divinity School cho đến khi qua đời. Cả hai Ông Bà Paul và Marie Little từng hầu việc Chúa với Hội
  • 2. Thông Công Sinh Viên Cơ Đốc Liên Đại Học (InterVasity Christian Fellowship) trong suốt 25 năm. Để đáp ứng nhu cầu học hỏi các tôi con Chúa, Viện Thần Học Việt Nam đã dịch và ấn hành tập Vì Sao Chúng Ta Tin? theo bản hiệu đính mới nhứt này với sự cho phép bản quyền của nhà xuất bản InterVarsity Press. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ quí tôi tớ con cái Chúa đã giúp đỡ trong việc chuyển ngữ, hiệu đính, dàn trang, ấn loát và tạo điều kiện thuận lợi để tập sách này đến tay người đọc. Viện Thần Học Việt Nam Tháng 12, 2003 Cuốn sách này ra đời như thế nào? “Sau 2000 năm, không có câu hỏi nào có thể làm cho Cơ Đốc giáo bị sụp đổ.” Với một lời tuyên bố đầy bí ẩn như vậy, chồng tôi, Paul, mở đầu khá thích hợp cho bài nói chuyện về Cơ Đốc giáo của mình với các sinh viên tại trường đại học. Paul bước đến ngôi nhà “Hy Lạp” trong trường đại học Kansas để dự bữa ăn tối lúc 6 giờ chiều với nỗi lo sợ, vì tại đây anh sẽ trình bày bài nói chuyện trong vòng 15 phút và sau đó có giờ để thính giả đặt câu hỏi. Là nhân viên mới làm việc với Hội Thông Công Sinh Viên Cơ Đốc, anh rất lo sợ. Anh càng lo sợ hơn, phần vì đây là phòng hội của các sinh viên - những sinh viên ưu tú. Hơn nữa, đây còn là phòng hội của những sinh viên Do Thái được nhận học bổng! Sau đó anh thuật lại lời cầu nguyện của mình ngày hôm đó khi anh bước vào cửa ngôi nhà: Lạy Chúa, Ngài biết con luôn vấp váp khi con cố giải thích rõ ràng về nền tảng Cơ Đốc giáo cho những người đầy nghi vấn. Tại sao con lại phải bắt đầu tại nơi dành riêng cho những sinh viên xuất sắc nhất? Họ sẽ đánh bại con và con sẽ không sống nổi đêm nay! Paul kinh ngạc khi một chàng sinh viên trẻ tuổi đã quay trở lại với Chúa trong đêm đó nhờ tư tưởng “mới” đó là Đức Chúa Trời sẽ ban cho anh một đời sống mới và năng lực để sống đời sống đó. Sinh viên trẻ đó đã quyết định trở thành Cơ Đốc nhân. Được khích lệ bởi sự đáp ứng của sinh viên này, Paul tiếp tục công việc của mình. Anh đi hết trường đại học này đến trường đại học khác, hướng dẫn các sinh viên trong cư xá và những nhóm ái hữu, bỏ ra hàng tiếng đồng hồ không hề mệt mỏi nói chuyện riêng với các sinh viên. Anh tìm mọi cách thu hút sự chú ý của những người chán nản, những người trí thức, và những vận
  • 3. động viên từ hàng trăm trường đại học khắp thế giới. Anh dùng những câu hỏi để kích thích suy nghĩ và giúp cho người nghe xem xét lại thế giới quan hiện tại của họ, từ thuyết tất định khoa học đến thuyết hiện sinh cực đoan. Anh thêm vào những mẩu chuyện vui với cách nói dí dỏm. Anh nói: “ Tin một điều gì đó không làm cho điều đó trở nên sự thật; chối bỏ không tin một điều gì đó cũng không làm cho điều đó trở nên giả dối.” “Nhiều người nói rằng họ không tin Kinh Thánh thật ra họ chưa bao giờ đọc Kinh Thánh.” Trong hai mươi lăm năm diễn thuyết, Paul phát hiện ra rằng có mười hai câu hỏi thường được đặt ra, bất kể nhóm người đó thuộc loại nào. Anh nói: “Những câu hỏi cũng dễ đoán, nếu chúng ta suy nghĩ cặn kẽ câu trả lời cho những câu hỏi thường nghe, chúng ta sẽ có câu trả lời cho câu hỏi đúng. Câu trả lời đúng cho một câu hỏi sai thì chẳng ích lợi gì cả!” Từ việc suy gẫm Kinh Thánh cách cá nhân và nhờ những công trình nghiên cứu các học giả Kinh Thánh, anh đã đúc kết các câu trả lời của mình. Đó là cách quyển Vì Sao Chúng Ta Tin? ra đời. Sứ điệp trong toàn bộ quyển sách mới được hiệu đính này là hoàn toàn của Paul. Tôi chỉ thêm vào một vài bằng chứng minh họa mới từ khảo cổ học và khoa học. Trong mỗi lãnh vực, tôi đều bám sát nền tảng Kinh Thánh là điều mà Paul đặc biệt chú ý. Hai học giả và cũng là nhân viên của Hội Thánh Cộng Đồng Willow Creek, Judson Poling và Brad Mitchell, đã giúp đỡ chúng tôi trong việc chuẩn bị bản hiệu đính này. Tôi rất biết ơn về sự chỉ dẫn của họ. Đã qua hai mươi bốn năm kể từ ngày được tin khủng khiếp về cái chết của chồng tôi trong một tai nạn giao thông. Tôi kinh ngạc khi thấy Chúa vẫn còn dùng những câu trả lời này. Paul có lẽ sẽ lắc đầu và nói rằng: “Đây là công việc của Chúa; ánh sáng đến từ nơi Chúa.” Lời Kinh Thánh là chắc chắn và đáng tin cậy trong ánh sáng của bất cứ sự thách đố nào. Như Paul đã nói, không ai có thể nghĩ ra một câu hỏi nào có thể phá đổ Cơ Đốc giáo mặc dù 2000 năm đã trôi qua. Nhiều câu chuyện tôi được nghe về cách Chúa dùng những lời trong sách này đã khẳng định những ảnh hưởng kỳ diệu của chân lý Chúa mà tất cả chúng ta tìm kiếm. Mới đây tôi đưa quyển sách này cho một phụ nữ người Sikh trẻ tuổi có lòng tìm kiếm. Sau khi cô và chồng cô viếng thăm tôi nhiều lần trong phòng khách của tôi, cô nói với tôi: “Quyển sách này giải đáp tất cả các câu hỏi của tôi.” Cô trở thành một người theo Chúa hết lòng - và hơn thế nữa, một người vợ và một người mẹ tuyệt vời. Ân sủng Chúa thật lạ lùng. Marie Little Mt. Prospect, Illinois
  • 4. Cơ Đốc Giáo Có Hợp Lý Không? “Niềm tin là gì?” Vị giáo viên Trường Chúa Nhật hỏi và một cậu bé trả lời trong chớp mắt: “Là tin điều mà ta biết là không có thật.” Không có gì ngạc nhiên khi có những người đang tìm hiểu về niềm tin và Cơ Đốc giáo định nghĩa theo cách này. Trong thực tế, có nhiều tín đồ âm thầm hay công khai chấp nhận quan điểm như thế. Hơn hai mươi năm qua, tôi đã từng đưa ra câu hỏi này trong các buổi thảo luận ở các trường đại học và cao đẳng khắp đất nước. Một sinh viên đại học trung bình cũng có thể sẽ đưa ra cùng một câu trả lời như cậu bé nọ. Có thể được diễn tả bằng những từ ngữ khác nhau nhưng câu trả lời vẫn tiềm tàng ý tưởng tự đánh lừa và không tin chắc. Khi trình bày cho các sinh viên tôi dùng những từ ngữ đơn giản để mô tả ý nghĩa niềm tin mà Kinh Thánh trình bày. Sau đó tôi đặt ra những câu hỏi cho thính giả ở dưới. Những câu trả lời của họ cho thấy vấn đề đã được sáng tỏ. Bạn vẫn cần đến trí óc Những người tìm hiểu sẽ nhận xét một cách đầy thách thức rằng buổi thảo luận thật là ích lợi bởi vì lần đầu tiên họ được nghe một bản đúc kết súc tích và thực tế về sứ điệp Tin Lành. Những người đã tin thỉnh thoảng cũng nói rằng họ rất thỏa mãn được nghe câu chuyện Tin Lành được biện giải một cách mạch lạc trong những cuộc thảo luận công khai như vậy. Họ nhận ra rằng họ không phải từ bỏ trí óc của mình khi trở thành một tín đồ! Chúng ta sống trong một thế giới ngày càng có nhiều người sành điệu và học thức với nhiều sự chọn lựa lôi cuốn sự chú ý của chúng ta. Vô tình những điều chúng ta tin tưởng sẽ bị suy giảm vì nhiều thứ hấp dẫn khác và hệ thống niềm tin của chúng ta bị lung lay. Thế giới như thế đòi hỏi chúng ta phải biết tại sao chúng ta tin và xem xét những chân lý hỗ trợ cho niềm tin đó. Chúng ta sống dựa trên những chân lý nào? Đối với câu hỏi quan trọng là Cơ Đốc giáo có hợp lý không và có thể đứng vững trước sự khảo nghiệm hay không, chúng ta cần bắt đầu với từ ngữ niềm tin, một từ ngữ rất thường bị hiểu lầm. Có ba ý nghĩ nảy ra trong tâm trí chúng ta. Hằng ngày tất cả chúng ta đều sử dụng niềm tin. Khó tránh sử dụng niềm tin - ngay cả khi gạt bỏ niềm tin tôn giáo qua một bên. Chúng ta có niềm tin nơi bác sĩ, niềm tin nơi quầy hàng rau cải, niềm tin nơi người hò hẹn với chúng ta. Thậm chí chúng ta cũng có niềm tin với chuyến xe lửa chở chúng ta đến chỗ làm hay người bưu tá đem phiếu chi trả đến cho chúng ta. Nhà khoa học có niềm tin nơi những phương pháp khoa học được nghiên cứu bởi những nhà khoa học trước mà họ tin rằng là những con người chân thật. Niềm tin
  • 5. đơn giản là sự tin cậy; chúng ta phải vận dụng niềm tin, ít ra trong một mức độ nào đó, để có thể giao tiếp với thế giới thực tế này một cách có ý nghĩa. Niềm tin chỉ có giá trị khi đối tượng được đặt đúng chỗ. Tin cậy vào một thức ăn chưa được kiểm nghiệm, một bác sĩ không đủ trình độ hay một người gian dối, thì niềm tin đó không có giá trị gì cả. Một ví dụ đáng buồn về niềm tin bị đặt sai chỗ là câu chuyện của một sinh viên khi nói với tôi rằng bạn gái của cậu từ lâu đã hẹn hò với một chàng trai khác nay cô ta sắp kết hôn với cậu. Niềm tin có thể có ý định tốt nhưng đối tượng không đáng tin và như thế niềm tin trở thành vô ích. Niềm tin dù ít ỏi nhưng được đặt nơi một đối tượng đáng tin cậy thì vẫn có thể đem lại kết quả. Chẳng hạn, bạn có một niềm tin yếu ớt trên một tảng băng dày, kết quả vẫn rất tích cực: tảng băng sẽ chịu trọng lượng của bạn bất chấp niềm tin của bạn mạnh như thế nào. Thử nghiệm mức độ đáng tin cậy của đối tượng niềm tin là một lời khuyên hợp lý và chắc chắn. Sự khôn ngoan dẫn chúng ta đến chỗ tìm hiểu sự thật về bất cứ đối tượng nào của niềm tin chúng ta. Nếu đồng hồ chạy sai, chúng ta chỉnh nó lại. Đó là một việc làm khôn ngoan. 1 Xét lại những suy nghĩ trước đây của chúng ta Một vài ví dụ sau đây sẽ giúp chúng ta xem xét niềm tin như một phần bình thường trong cuộc sống chúng ta. Từ đó chúng ta sẽ quay sang kiểm nghiệm mức độ hợp lý của niềm tin Cơ Đốc cách khách quan nhất có thể được. Tính khách quan chắc chắn được tô điểm do những suy nghĩ trước đây của chúng ta về Cơ Đốc giáo. Những sự kiện nào chúng ta biết về nó? Chúng ta xem xét nó như là điều hợp lý hay không hợp lý? Thích đáng hay không thích đáng? Đối với những sinh viên thì suy nghĩ trước đây của họ được thể hiện rõ ràng qua những câu hỏi họ đặt ra. Một số câu hỏi phần lớn liên quan đến sự thiếu hiểu biết, một số khác là do hiểu lệch lạc nội dung cơ bản của Cơ Đốc giáo. Luôn có những câu hỏi sâu sắc và yếu tố “tại sao” đầy bí ẩn được đặt ra với lòng sốt sắng thật sự. Suy nghĩ đầu tiên của một người là yếu tố cơ bản. “Những gì bạn nghĩ bạn biết có thể làm bạn đau khổ” là tựa một bài báo của tờ Chicago Tribune. “Ít hiểu biết cũng có thể tác hại đến khả năng tài chính của bạn” là đề mục nhỏ, liệt kê khoảng hơn mười lăm ví dụ về những suy nghĩ ngớ ngẩn thông thường của những nhà đầu tư, như “tôi cố gắng tiết kiệm tiền bạc bằng cách đi mua đồ mỗi khi có hàng hạ giá.” Thiếu hiểu biết về niềm tin Cơ Đốc cũng có thể tai hại như vậy. Lãnh vực nào chúng ta hiểu hết sức rõ ràng về Cơ Đốc giáo và chỗ nào suy nghĩ chúng ta còn ngớ ngẩn? Ngoài những suy nghĩ trước kia của chúng ta, một áng mây khác che mờ niềm tin chúng ta là “chỉ số tình cảm” hay thường được gọi là E. Q. Dù cho
  • 6. tổ tiên của chúng ta ở Hoa Kỳ hay ở một đất nước nào khác, thường có những kiểu mẫu sai lầm về đời sống Cơ Đốc nhân làm cho chúng ta thất vọng. Chỉ số tình cảm của chúng ta thậm chí lên đến tức giận khi chúng ta nghe đến từ “Cơ Đốc nhân.” Dĩ nhiên chúng ta đều có một sự khó chịu về một vài chuyện nào đó, nhưng sự nhận thức về nó cũng giúp ích cho chúng ta. Mặt khác, có thể chúng ta không có một mối liên hệ nào với các Cơ Đốc nhân hay Cơ Đốc giáo, nên chẳng hiểu biết gì và cũng không có sự khó chịu nào cả. Dù sao khi tìm hiểu những suy nghĩ và cảm xúc nguyên thủy của chúng ta càng nhiều, chúng ta càng có thể xem xét một cách khách quan “trường hợp của Cơ Đốc giáo,” như cách C. S. Lewis dùng. Cơ Đốc giáo theo Kinh Thánh có nền tảng rất rõ ràng và đầy đủ. Đây không phải là một tôn giáo huyền bí. Nội dung của nó ẩn nấp dưới những biểu tượng kỳ bí nào đó, như học giả R. C. Sproul nói. Theo Sproul, khi ai đó thì thầm với bạn rằng ý nghĩa của cuộc sống là “một cái vỗ tay”, thì đó là huyền bí. Đó không phải là nền tảng suy nghĩ hợp lý. Tất nhiên đó cũng không phải là ý tưởng chúng tôi muốn trình bày về “lối suy nghĩ hợp lý”. 2 Bất cứ một tôn giáo nào cũng nhận rằng mình có những kinh nghiệm thuộc linh suýt soát với chúng ta. Từ thế kỷ 19 vào thời của triết học gia Friedrich Neitzsche đến ngày hôm nay, từ bên ngoài cộng đồng Cơ Đốc đến bên trong, người ta cũng bảo là Đức Chúa Trời đã chết rồi. Chủ nghĩa đạo đức nhân bản đang thu hút người ta mạnh mẽ hơn. Quyển Tôn Giáo Không Mạc Khải (Religion Without Revelation) của Julian Huxley là một dẫn chứng rõ ràng trong việc đề cập đến vấn đề Đức Chúa Trời đã chết. Tính đa nguyên đã chiếm phương tiện thông tin hiện đại trong việc biến thế giới trở nên một nhà. Chúng ta thường nghe những điều đại loại như: 1. Tất cả các tôn giáo đều có giá trị ngang nhau. 2. Những mâu thuẫn giữa các hệ thống tôn giáo được hoàn toàn chấp nhận. 3. Chân lý tuyệt đối không hề hiện hữu. Cơ Đốc giáo được thử nghiệm một cách khách quan Triết gia chuyên về phân tích Antony Flew chứng minh rằng đối với những người còn đang tìm kiếm thì những khẳng định tôn giáo không thể kiểm chứng được một cách khách quan cũng chỉ là vô nghĩa mà thôi. Ông dẫn chứng một câu chuyện ngụ ngôn của John Wisdom: “Lần nọ, có hai nhà thám hiểm đến một khu đất trống trong rừng già. Trong khu đất trống ấy có rất nhiều hoa và cỏ dại. Một nhà thám hiểm nói: “Chắc phải có một người trông vườn chăm sóc cho khu đất này.” Nhưng người kia không đồng ý như vậy, ông ta bảo: “Không hề có ai lập vườn ở đây đâu.” Thế là cả hai cắm trại ở đó để rình xem. Họ không thấy ai cả. ”Có lẽ người làm vườn là một kẻ vô hình chăng? Vậy, họ làm một hàng rào bằng dây kẽm
  • 7. gai. Rồi họ mắc điện vào đó. Họ cũng thả chó canh phòng (vì họ nhớ chuyện Con Người Vô Hình của H. G. Well, tuy không bị nhìn thấy, nhưng có thể bị đánh hơi và sờ chạm được). Nhưng họ không nghe một tiếng kêu nào chứng tỏ có người đã xâm nhập khu đất ấy và bị điện giật. Cũng không hề có sự chuyển động nào trên các đường dây kẽm gai cho thấy người vô hình có leo vào. Bầy chó săn cũng không hề sủa lấy một tiếng. Dầu vậy, nhà thám hiểm tin có người làm vườn, vẫn chưa chịu khuất phục và nói rằng: “Phải có một người làm vườn vô hình mà điện không giật được; phải có một người làm vườn vẫn bí mật đến chăm sóc khu vườn mà ông ấy yêu mến.” Cuối cùng, kẻ hoài nghi đó cũng thất vọng: “Thế thì lời khẳng định ban đầu của mình còn lại cái gì? Người làm vườn mà ta gọi là vô hình, không sờ chạm được, vĩnh viễn mơ hồ kia có khác gì với một người làm vườn tưởng tượng hay với một người làm vườn chẳng bao giờ hiện diện chút nào đâu?” 3 John Montgomery, một học giả Tin Lành, đã nhận xét về câu chuyện nầy: “Trong niềm tin Cơ Đốc chúng ta không chỉ chủ trương suông rằng khu vườn của thế gian này được một Đấng Làm Vườn đầy yêu thương chăm sóc, nhưng chúng ta còn có những kinh nghiệm thực sự về chính Đấng Làm Vườn nầy đã bước vào khung cảnh loài người qua con người Chúa Giê-xu Christ (GiGa 20:14-15), và sự bước vào đó có thể kiểm chứng được qua sự sống lại của Ngài.” 4 Hệ thống chân lý hợp lý Niềm tin Cơ Đốc nhân ít được xem xét một cách nghiêm túc, nó chỉ được xem như một trong số các chân lý được chứng thực mà không được nhìn nhận dưới khía cạnh là được xây dựng trên một một chân lý được sáng tỏ nào. Chân lý và mê tín khác nào bạn đồng hành. Tuy nhiên điều ngược lại mới là thật. Chính Kinh Thánh nhấn mạnh tầm quan trọng của quá trình thể hiện hợp lý. Chúa Giê-xu cũng nhấn mạnh điều này với các môn đệ của Ngài: “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi” (Mat Mt 22:37). Toàn bộ con người chúng ta có liên quan đến việc chúng ta đặt niềm tin nơi Ngài, tâm trí, tình cảm và ý chí. Sứ đồ Phao-lô mô tả chính mình như là người “binh vực và làm chứng đạo Tin Lành”, chẳng hạn ông đưa ra một lời biện giải cho niềm tin của mình (Phi Pl 1:7). Tất cả những điều này ngụ ý về một sứ điệp rõ ràng dễ hiểu có thể được hiểu và ủng hộ một cách hợp lý. Một đầu óc không được soi sáng là một đầu óc không bao giờ cởi mở trước chân lý của Đức Chúa Trời, nhưng sự soi sáng đem lại sự hiểu biết hoàn toàn thỏa đáng khi dựa trên hệ thống chân lý hợp lý. Mỗi chúng ta từ lúc thơ ấu cho đến khi trưởng thành đều cần lý luận và giải thích. Hãy nói với một đứa trẻ rằng nó sẽ bị phỏng nếu sờ vào một bếp lò nóng. Bấy giờ nó mới quyết định sờ vào
  • 8. hoặc không sờ vào. Nhưng nó đã được giải thích rồi. Tương tự như thế, sự soi sáng xuất phát từ sự hiểu biết những chân lý Cơ Đốc cơ bản. Niềm tin của Cơ Đốc nhân luôn luôn đi đôi với chân lý. Và chân lý luôn luôn đối lập với sự giả dối (IITe 2Tx 2:11-12). Phao-lô đã gọi những người không biết Chúa là người “không vâng phục lẽ thật” (RoRm 2:8). Những lời khẳng định như vậy sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có một cách nào đó để định nghĩa thật khách quan chân lý là gì. Vì những lý do thực tiễn, nếu điều gì không thể thực hiện được thì chân lý và ngụy lý cũng như nhau. Câu hỏi cơ bản là, chân lý tuyệt đối có hiện hữu không? Chúng ta có một bằng chứng rõ ràng. Sự tạo dựng trời đất làm sáng tỏ chân lý Như sứ đồ Phao-lô dẫn chứng, bản thân thiên nhiên cung cấp cho con người đủ thông tin để nhận biết rằng có một Đức Chúa Trời. Trong 1:19, ông nói rằng “Đức Chúa Trời đã tỏ điều đó cho họ rồi.” Rất dễ cho con người thấy Đức Chúa Trời, Ngài không hề giấu mặt. Sau đó Phao-lô bảo chúng ta nhìn vào thiên nhiên. “Những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được... thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy”, rồi ông tiếp tục kể ra hai phẩm tánh chủ yếu của Ngài vẫn được bày tỏ ngang nhau “Quyền phép đời đời và thần tính của Ngài ” (1:20). Câu Kinh Thánh ngắn ngủi nhưng hiệu nghiệm này đã giải thích rằng Đức Chúa Trời trông đợi chúng ta tin nơi Ngài dựa trên những bằng chứng đầy đủ. Ngài cho chúng ta trí thông minh và lý luận hợp lý. Ngài đang nói với chúng ta rằng: “Hãy nhìn xem thiên nhiên, ngay cả vũ trụ này, hoặc chính thân thể của con thì con sẽ có bằng cớ về niềm tin nơi Đấng Tạo Hóa.” Tác phẩm “thủ công”, một tuyệt tác đặc biệt của Đấng Tạo Hóa thiên thượng nói cho chúng ta biết về sự chăm sóc tỉ mỉ và công việc liên tục của Ngài trong công trình sáng tạo. “Quyền phép đời đời” của Ngài không phải là một thuật ngữ dễ thuyết phục trí óc của chúng ta. Bill Hybels cho chúng ta cách nhìn sơ khởi: Đức Chúa Trời biết hết mọi việc. Không có câu hỏi nào làm Ngài phải lúng túng… nhưng tri thức này còn vượt xa hơn cả những sự kiện hiện thời. Đức Chúa Trời biết tất cả mọi việc vận hành ra sao. Hãy nghĩ về điều đó. Ngài có sự hiểu biết trọn vẹn về tất cả bí ẩn của các ngành sinh vật học, sinh lý học, động vật học, y học, tâm lý học, địa lý học, vật lý học, hóa học, và di truyền học. Ngài biết các quy định của Thiên Đàng, cả những nguyên lý và sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và những đám mây. 5 Chúng ta có thể nói rằng những điều trên cho chúng ta một định nghĩa về sự vô hạn, chứ không phải giới hạn như chúng ta. Hơn nữa, Đức Chúa Trời còn
  • 9. biết cả bức tranh tổng quát vẽ mỗi khía cạnh trong đời sống cá nhân của chúng ta nữa. Nhìn vào bức tranh lớn Sự kiện này càng động viên chúng ta khám phá những câu trả lời cho việc làm thế nào chúng ta có thể thích hợp với “bức tranh lớn” từ chân trời của Đức Chúa Trời. Tại sao chúng ta ở đây, sống trong gia đình này và ở nơi này? Những việc chúng ta chọn lựa và những gì chúng ta làm mỗi ngày có gì quan trọng không? Làm sao chúng ta lại sống ở đất nước này mà không phải là một đất nước nào khác? Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta lìa cõi đời này? Nhiều chương đã được viết ra dựa trên cái “tại sao” về sự hiện hữu của chúng ta, đây không phải là câu hỏi mới. Thỉnh thoảng đây là những điều mà chúng ta thắc mắc. Trong quyển sách bán chạy nhất, Khái Quát Lịch Sử Của Thời Đại (A Brief History of Time), Stephen Hawking tổng kết cả cuộc đời nghiên cứu và suy gẫm của mình bằng một câu hỏi. Sau khi kết luận những luận điểm của mình về “cái gì” và “như thế nào” của vũ trụ, ông nói với vẻ khao khát: “Giờ đây nếu chúng ta có thể biết được tại sao, thì chắc chắn chúng ta đã có đầu óc của Đức Chúa Trời rồi.” 6 Đối với nhiều người, có thể nào có những câu hỏi riêng tư của “tấm lòng” hoặc có thể là một cảm giác trống trải và mất mác kích thích những câu hỏi như vậy? Một nữ diễn viên nổi tiếng đã diễn tả rất thích hợp cái cảm giác “một khoảng trống trong tâm hồn” đã khiến cô bắt đầu tìm kiếm. Thực chất bức tranh của Đức Chúa Trời cho chúng ta trong Kinh Thánh là đưa cho chúng ta câu trả lời. Chúng ta không cần phải ở trong bóng tối. Có đầy đủ từng chứng cớ chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết câu trả lời. C. S. Lewis giải thích: “Chúng ta rất dễ tin rằng sợi dây thừng rất chắc khi chúng ta chỉ dùng nó để cột một cái hộp, nhưng giả sử chúng ta phải dùng sợi dây thừng đó để đu mình leo lên một vách núi dựng đứng. Chúng ta sẽ thật sự muốn biết sợi dây thừng đó đáng tin cậy tới mức nào.” 7 Màn kính đạo đức bị che mờ Màn kính đạo đức bị che mờ, hoặc sự mạc khải đầy trí tuệ của Đức Chúa Trời có thể vô tình che mờ sự hiểu biết của chúng ta. Sức kéo của đạo đức có thể trở nên nan giải, quá độ và không chịu từ bỏ chúng ta. Trong một số trường hợp, vấn đề thật sự không phải là con người không thể tin - nhưng mà là họ “sẽ không tin.” Chúa Giê-xu đã thẳng thừng vạch rõ đây chính là cội rễ của vấn đề khi nói chuyện với những người Pha-ri-si sùng đạo, những nhà cầm quyền hợp pháp thời bấy giờ. Ngài bảo họ: “Các ngươi không muốn đến cùng ta để được sự sống” (GiGa 5:40). Sau đó Chúa Giê-xu tiếp tục dạy rằng khi một kết ước đạo đức được thiết lập, nó sẽ đem lại sự hiểu biết cho tâm trí. Thậm chí nó còn đem lại sự quyết tâm loại bỏ những cản trở
  • 10. từ tâm trí. “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta” (7:17). Những nan đề về trí tuệ được khẳng định mà không được chứng minh thường là màn khói bao phủ sự nổi loạn của đạo đức. Như nhà thơ Emily Dickinson đã viết: “Không ai thất bại trong khoảnh khắc. Trượt ngã - là định luật phá sản.” Một câu hỏi lạc đề nữa chúng ta thường nghe là: “Nếu Cơ Đốc giáo là hợp lý thì tại sao đa số những người có học thức lại không tin?” Câu trả lời thật giản dị. Họ không tin chính vì một vấn đề giống y như lý do khiến đa số những người không có học thức thường làm. Họ không muốn tin. Đó không phải là một vấn đề của năng lực trí óc, vì có rất nhiều Cơ Đốc nhân xuất sắc trong mọi lãnh vực về nghệ thuật và khoa học. Cuối cùng thì niềm tin cũng chỉ là vấn đề của ý chí. Và Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta những chứng cớ khởi điểm qua công trình sáng tạo của Ngài. Có một sinh viên nọ nói với tôi rằng tôi đã trả lời thỏa mãn tất cả các câu hỏi của anh. Tôi bèn hỏi: “Vậy anh sẽ trở thành một Cơ Đốc nhân chứ?” “Không đâu”, anh ta trả lời. Lúng túng, tôi hỏi: “Sao lại không?” Anh ta thú nhận: “Thú thật là điều đó sẽ làm xáo trộn cuộc sống hiện tại của tôi.” Anh ta nhận thức được rằng vấn đề thật sự của anh ta nằm ở phương diện đạo đức chứ không phải trí thức. John Stott thiết lập một thế quân bình khi ông tóm tắt câu chuyện Tin Lành: “Chúng tôi không thể đồng lõa với sự kiêu ngạo về phương diện tri thức của con người, nhưng phải nâng đỡ cho sự ngay thẳng của trí tuệ người ấy.” Sự nghi ngờ dẫn đến sự sợ hãi Ngay cả những Cơ Đốc nhân tận hiến cũng đặt vấn đề với niềm tin của mình và tự hỏi không biết điều đó có thật hay không. Sự nghi ngờ có thể đem lại nỗi sợ hãi đối với tâm linh và thường bị đè nén cách bệnh hoạn. Những người sinh ra trong gia đình Cơ Đốc và giáo hội Cơ Đốc thấy rằng họ rất dễ nghi ngờ tính xác thực của những kinh nghiệm thời thơ ấu. Từ nhỏ họ đã chấp nhận sự kiện Cơ Đốc giáo chỉ dựa trên căn bản là sự tự tin và tin tưởng nơi cha mẹ, bạn bè và mục sư. Khi lớn lên và phát triển về phương diện học vấn, thì họ xét lại những sự dạy dỗ trước kia. Kinh nghiệm như thế rất lành mạnh và cần thiết cho niềm tin đích thực và vững chắc. Không có gì phải sợ hay lo lắng về điều đó. Những lúc tôi đi du lịch tới một chỗ mới, tôi vẫn thường tự hỏi khi nhìn vào đường phố và những con người xa lạ “Little này, làm sao cậu biết là mình không hề bị một chương trình tuyên truyền rầm rộ lôi kéo? Dù sao thì cậu cũng đâu có thấy Đức Chúa Trời, có rờ, có nếm hay cảm biết Ngài đâu.” Và rồi tôi tiếp tục tự
  • 11. hỏi làm sao tôi biết Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê-xu Christ của Kinh Thánh là thật. Tôi luôn quay về với hai yếu tố cơ bản: Khía cạnh khách quan, ngoại tại, những sự kiện lịch sử về sự phục sinh. Khía cạnh chủ quan, nội tại, những từng trải cá nhân về Chúa Giê-xu mà tôi đã nhận biết trong chính cuộc đời của mình qua những cuộc giải phẫu nguy kịch và những quyết định khó khăn trong sự nghiệp. Khi một người, dù già hay trẻ, bắt đầu thắc mắc và Đức Chúa Trời dường như xa cách họ, thì chúng ta nên hoan nghênh sự nghi ngờ ấy như một cách thức để tăng trưởng. Một Cơ Đốc nhân có thể giúp đỡ bằng cách hoan nghênh sự chân thật và thẳng thắn, để tạo ra một bầu không khí cho một người cảm thấy thoải mái để “trút bầu tâm sự” và bày tỏ những nghi ngờ của mình. Nếu không, người đó có thể bị đẩy vào đường cùng, thậm chí họ sẽ thối lui vì cớ họ nghĩ rằng một Cơ Đốc nhân tốt không bao giờ được nghi ngờ. Họ không phải là người ngu ngốc. Thật đáng buồn, tôi đã chứng kiến một vài người gặp phải sự phản hồi chẳng có chút cảm thông nào, họ nhanh chóng sang số và kịch liệt binh vực ý kiến của mình, dầu việc làm đó không xuất phát từ tấm lòng họ. Khi họ thoát ra khỏi áp lực phải tuân theo các hình thức, họ giũ bỏ niềm tin của mình như lột bỏ một cái áo mưa bởi vì nó chưa bao giờ là niềm tin của riêng họ cả. Nghi ngờ và thắc mắc là bình thường đối với những con người biết suy nghĩ. Thay vì tỏ ra khó chịu, bất mãn, tốt hơn là chúng ta nên lắng nghe người hỏi mình, và nếu có thể, nên xoáy sâu vào câu hỏi hơn nữa. Rồi ta nên đề nghị một lời giải đáp. Vì Cơ Đốc giáo tập trung vào một Đấng vốn là Chân lý nên một cuộc khảo sát tỉ mỉ, cặn kẽ chẳng bao giờ làm hại cho đạo ấy cả. Đừng hoảng sợ Nếu chúng ta không có ngay câu trả lời, thiết tưởng không cần gì phải tỏ ra hoảng sợ. Chúng ta có thể tiếp tục tìm kiếm, kết tinh câu hỏi lại và kiểm tra ở những quyển sách chuyên về giải đáp những thắc mắc dường như khó giải đáp. Không có lý gì một câu hỏi mới do một ai đó nghĩ ra tuần trước lại có thể làm cho cả Cơ Đốc giáo phải sụp đổ. Những người sáng suốt đã từng suy nghĩ về những câu hỏi thật sâu sắc của mọi thời đại và đều trả lời được cả. Chúng ta không cần trả lời thật đầy đủ tất cả các câu hỏi, vì Chúa không hề mạc khải đầy đủ tâm trí Ngài cho chúng ta về mọi vấn đề. “Những sự bí mật thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta; song những sự bày tỏ thuộc về chúng ta, và con cháu chúng ta đời đời” (PhuDnl 29:29). Đây không phải là điều để trốn tránh trách nhiệm! Đức Chúa Trời ban cho chúng ta dư dật những hiểu biết để có một nền tảng vững chắc đằng sau niềm tin và cuộc sống của chúng ta. Cơ Đốc giáo dựa trên một niềm tin hợp lý. Nếu dùng cả núi chứng cớ để kiểm tra ý tưởng bạn thì đừng sợ hãi. Ở trường cao đẳng và
  • 12. đại học, khán giả có thể bao gồm 98% những người theo thuyết bất khả tri. Định thần một chút bạn có thể dễ dàng đoán được câu hỏi thường được đặt ra trong phần nửa tiếng đồng hồ. Những câu hỏi có thể đa dạng về mặt từ ngữ, nhưng vấn đề tiềm ẩn đều giống nhau. Sự nhất quán này là cả một nguồn giúp đỡ ích lợi để biết được những câu hỏi trọng tâm, chỗ nào cần mài giũa sự hiểu biết của mình và làm thế nào để mài giũa những tư tưởng trong quyển sách này. Sự đáp ứng của những người nghi ngờ Những người nghi ngờ là những người nhìn thấy những vấn đề rắc rối nằm ở đâu. Sau khi được giải đáp cho những thắc mắc của mình, bước kế tiếp là sự quyết định. Không quyết định gì cả tức là quyết định chống lại lập trường Cơ Đốc giáo. Nghi ngờ liên tục về những thông tin đầy đủ có nghĩa là không bỏ cuộc mà tiếp tục tìm kiếm và từ từ bạn sẽ được tưởng thưởng. “Cơ Đốc giáo không phải là một phương thuốc có bằng công nhận sáng chế. Nó nêu lên một loạt những sự kiện để trình bày cho bạn biết vũ trụ như thế nào. Nếu Cơ Đốc giáo là giả dối thì không có một con người thành thật nào muốn tin vào nó hết. Tuy nhiên, nếu nó là có thật, thì mọi con người thành thật đều muốn tin vào nó... Đúng, Cơ Đốc giáo sẽ làm cho chúng ta trở nên tốt hơn - tốt hơn nhiều so với bất cứ điều gì bạn có thể trông đợi!” 8 Chúng ta tin chắc rằng sự tìm kiếm hết lòng của chúng ta sẽ được thưởng. Trong những trang tiếp theo chúng ta sẽ nhấn mạnh một số câu trả lời cho những thắc mắc thường gặp và làm rõ những vấn đề đó. Bạn có thể tin điều này, bỏi vì Cơ Đốc giáo là có thật và hợp lý. Chúa Giê-xu cho chúng ta một lời khích lệ: “Ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật” (Giăng 10:10). Đọc thêm Clark, Kelly James. Philosophers Who Believe. Downers Grove, Ill: InterVarsity Press, 1993. Johnson, Philip E. Reason in the Balance. Downers Grove, Ill: InterVasity Press, 1995. ____________. Objections Sustained. Downers Grove, Ill: InterVasity Press, 1998. Có Đức Chúa Trời Không? Trong đời sống con người, không có một câu hỏi nào sâu sắc đòi hỏi một câu trả lời hơn là câu hỏi: Có Đức Chúa Trời không? Đây là một câu hỏi thách thức mỗi con người biết suy nghĩ, và câu trả lời liên hệ với mỗi chúng
  • 13. ta cho dù chúng ta đang ở đâu trong cuộc đời này. Khi chúng tôi sống ở Dallas, một người quảng cáo cho quyển Những Tác Phẩm Lớn Của Thế Giới Phương Tây (Great Books of the Western World) thuyết phục chúng tôi mua trọn bộ 54 chương. Trong số 102 tư tưởng vĩ đại nhất, tôi bắt đầu với số 29, Đức Chúa Trời. Biên tập viên, Mortimer Adler, bắt đầu bằng lời giải thích: “Về phương diện tham khảo trọn vẹn, cũng như trong sự đa dạng, đây là chương sách dày nhất (của bộ giới thiệu đề tài tổng hợp). Lý do thật rõ ràng. Hậu quả của tư tưởng và hành động theo sau việc chấp nhận hay chối bỏ Đức Chúa Trời vốn được dành nhiều chỗ hơn là để giải đáp bất luận một câu hỏi căn bản nào khác.” Adler tiếp tục liệt kê ra những ứng dụng thực tiễn: toàn bộ phương hướng của cuộc sống con người đều chịu ảnh hưởng của việc con người có tự xem mình như những hữu thể ưu việt trong vũ trụ hay nhận biết rằng có một hữu thể siêu việt hơn mà họ nhận thức đó là đối tượng của sự kính sợ hay yêu mến, một sức mạnh đang bị thách đố hay một Cứu Chúa phải thuận phục. Trong số những người chấp nhận có thần thánh, điều tối quan trọng là vị thần đó được hình dung như một ý niệm về Đức Chúa Trời đối tượng của suy lý triết học- hay là một Đức Chúa Trời hằng sống mà con người thờ phượng trong mọi hành động sùng kính bao gồm cả những nghi lễ tôn giáo. 1 Có Đức Chúa Trời trong ống nghiệm chăng? Rõ ràng là chúng ta không thể xét nghiệm Đức Chúa Trời trong một ống nghiệm hay chứng minh về Ngài bằng phương pháp khoa học (scientific methodology) thông thường. Hơn nữa, chúng ta có thể nhấn mạnh tương tự rằng chúng ta cũng không thể chứng minh về Napoleon bằng những phương pháp khoa học được. Lý do nằm ở chính bản chất của lịch sử và trong sự giới hạn của những phương pháp khoa học. Muốn cho một việc gì có thể được chứng nghiệm bằng phương pháp khoa học, việc ấy phải được lặp đi lặp lại. Một nhà khoa học không tuyên bố cho cả thế giới biết về một khám phá mới chỉ dựa trên một thí nghiệm duy nhất mà thôi. Lịch sử trong chính bản chất của nó là không thể được lặp lại. Không ai có thể quay lại thời ban đầu của vũ trụ hay đem Napoleon sống lại hay lặp lại cuộc ám sát cố tổng thống Lincoln hay sự đóng đinh của Chúa Giê-xu. Việc các biến cố không thể được chứng minh bằng sự lặp lại không bác bỏ tính có thực của những biến cố đó. Có rất nhiều sự thật nằm bên ngoài phạm vi của những phương pháp khoa học. Phương pháp khoa học chỉ hữu dụng với những vật thể có thể đo lường được mà thôi. Chưa có ai từng thấy một mét tình yêu hay hai ký lô công lý, nhưng nếu phủ nhận thực tại của chúng, thì người ấy phải là một tên điên.
  • 14. Cứ khăng khăng đòi phải chứng minh Đức Chúa Trời bằng phương pháp khoa học thì chẳng khác gì đòi dùng máy điện thoại để đo chất phóng xạ. Sự vĩnh hằng trong tấm lòng của chúng ta Có bằng chứng hiển nhiên nào về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời không? Những nghiên cứu của những nhà nhân chủng học đã chỉ ra rằng có một niềm tin phổ quát nơi Đức Chúa Trời trong hầu hết những dân tộc sơ khai nhất ngày nay. Trong những chuyện huyền thoại và những chuyện lịch sử xa xưa của mọi dân tộc khắp trên thế giới đều có một ý niệm nguyên thủy về một Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa. Dường như cả trong ý thức của những dân tộc ngày nay theo chủ nghĩa đa thần đều đã ý thức về sự hiện hữu một Đức Chúa Trời tối cao nguyên thủy. Dù có những sự thêm thắt khác vào một vị chúa không biết này, nhưng ý niệm về một Đức Chúa Trời vẫn còn đó. Những nghiên cứu trong năm mươi năm trở lại đây đã thách thức quan niệm tiến hóa về sự phát triển của tôn giáo. Thuyết độc thần - quan niệm rằng có một Đức Chúa Trời - trở nên đỉnh cao của sự phát triển tiệm tiến bắt đầu bằng những quan niệm về thuyết đa thần. Càng ngày chúng ta càng thấy rõ rằng tín ngưỡng truyền thống ở khắp mọi nơi là niềm tin vào một Thượng Đế tối cao. 2 Tác giả của sách Truyền Đạo nói về Đức Chúa Trời là Đấng “khiến cho sự đời đời ở nơi lòng loài người” (TrGv 3:11). Blaise Pascal, nhà toán học lỗi lạc của thế kỷ 17, viết về “khoảng trống có hình dạng của Đức Chúa Trời” (the God-shaped vacuum) trong mỗi con người. Augustine kết luận rằng: “Lòng của chúng ta không bao giờ yên nghỉ cho tới khi tìm được yên nghỉ trong Ngài.” Có nhiều bằng cớ chứng tỏ rằng đa số con người trong mọi thời đại và ở mọi nơi luôn tin vào một loại thần hay các thần nào đó. Mặc dù việc này theo nghĩa nào đi nữa không phải là một bằng chứng mang tính kết luận, nhưng đây là một điểm liên hệ mở đầu đáng ghi nhớ khi chúng ta cố gắng giải đáp câu hỏi lớn. Luật Nhân Quả Để bắt đầu, chúng ta hãy xem xét về luật nhân quả. Không có nguyên nhân thì không bao giờ có hậu quả. Có một giấy nhắn trên cửa của bạn. Phải có ai đó để nó ở đó. Bức họa ở trên tường, ai đó đã vẽ nó. Không có cái gì bắt nguồn từ cái không có! Chúng ta là những con người và bản thân cả vũ trụ này là kết quả cần có của một căn nguyên. Chúng ta tiến đến một nguyên nhân không hề có căn nguyên, đó là Đức Chúa Trời. Betrand Russell, người theo chủ nghĩa hoài nghi, đã nói một câu đáng kinh ngạc trong quyển Tại Sao Tôi Không Phải Là Một Cơ Đốc Nhân (Why I am Not Christian). Ông nói rằng khi ông còn nhỏ “Đức Chúa Trời” là câu trả lời cho rất nhiều câu hỏi mà ông nêu lên để chất vấn về sự hiện hữu. Thất vọng
  • 15. quá, ông hỏi rằng: “Vậy thì ai tạo ra Đức Chúa Trời?” Khi không có câu trả lời nào thỏa mãn, ông nói rằng: “Toàn bộ đức tin của tôi bị sụp đổ.” Tiếc thay câu hỏi của ông là một kinh nghiệm rất thông thường nhưng nó lại không đáp ứng được câu hỏi đang bùng cháy. Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa, Đấng Đầu Tiên, theo định nghĩa là đời đời. Không ai tạo ra Ngài hết. Ngài tự hiện hữu. Nếu Đức Chúa Trời cũng là một tạo vật được sáng tạo, Ngài không thể là căn nguyên được, Ngài cũng chỉ là kết quả mà thôi. Ngài sẽ không là và cũng không thể là Đức Chúa Trời được. R. C. Sproul, nhà văn và là một nhà diễn thuyết, giải thích rằng: Là một Đấng đời đời, Đức Chúa Trời không phải là kết quả và vì Ngài không phải là kết quả, Ngài không đòi hỏi căn nguyên. Ngài không có căn nguyên. Điều quan trọng phải lưu ý phân biệt giữa một hữu thể không căn nguyên, tự hiện hữu đời đời với một kết quả tự tạo ra nó trong quá trình tự sáng tạo. 3 Thời gian vô định cộng với sự ngẫu nhiên chăng? Không ai lại có thể nghĩ rằng một máy vi tính có thể được hình thành mà không có một người vô cùng thông minh làm ra. Không thể nào một con khỉ được nuôi ở nhà in lại có thể sắp chữ rồi in bài diễn văn tại Gettysburg của Lincoln. Nếu chúng ta gặp một tập diễn văn như thế chắc chúng ta có thể kết luận rằng phải có một đầu óc vô cùng thông minh mới có thể in nó ra. Làm thế nào để chúng ta tin rằng cả vũ trụ này với tất cả sự phức tạp vô tận của nó có thể xảy ra bằng sự ngẫu nhiên? Chẳng hạn, mọi người đều nhìn nhận rằng thân thể người ta là cơ thể vô cùng tuyệt diệu và phức tạp, một hệ thống tổ chức, một bản thiết kế và một hiệu quả mà ai cũng phải lấy làm ngạc nhiên. Cho nên chúng ta rất xúc động khi nghe lời tuyên bố sau đây của Albert Einstein: “Tôn giáo của tôi bao gồm việc hạ mình chiêm ngưỡng Đấng vốn là Thần Linh tối cao vô hạn đã tự bày tỏ chính Ngài trong những chi tiết nhỏ nhặt để chúng ta có thể hiểu được bằng tâm trí mong manh yếu ớt của mình. Niềm tin sâu xa do xúc động cho tôi biết về sự hiện diện của một năng lực tối thượng hữu lý, bộc lộ trong một vũ trụ không thể lấy lý trí lãnh hội được, đã tạo thành ý niệm của tôi về Đức Chúa Trời.” 4 Tuy vậy theo điều chúng ta biết, ông không bao giờ đạt đến việc tin nhận Đức Chúa Trời có thân vị. Có hai sự lựa chọn mà Cơ Đốc nhân và những người chưa tin giống nhau là: Vũ trụ và toàn bộ con người khởi nguồn bởi sự tình cờ hay bởi mục đích và theo sự thiết kế? Những nhà khoa học từ lâu đã dựa vào thời gian vô hạn cộng với sự ngẫu nhiên để giải thích về nguồn cội của cuộc sống. Từ quan niệm này họ tránh được những kết luận không thể chấp nhận được về một căn nguyên mang tính thần thánh. Tiến trình nầy đòi hỏi một sự giả định trước và những điều
  • 16. kiện nào đó, hoặc giả định rằng không có sự sống nào có thể sinh ra nó. Vì lý do nầy, muốn có sự việc xảy ra chắc chắn phải có Một món súp cơ bản được chuẩn bị một cách lý tưởng Bình điện phải được xạc thường xuyên Một khoảng thời gian vô hạn - hàng hàng niên kỷ Phải có một công thức cuộc sống như thế thì có thể mới tiến hóa được. Tuy nhiên, những khó khăn mà lý thuyết này đưa ra quá lớn đến nỗi ngày nay những nhà khoa học đó đang thẳng thừng chỉ ra những nhược điểm của nó. Phi hành gia lỗi lạc Sir Fred Hoyle đã đề xuất một bảng tương đồng để mô tả những khó khăn này. Ông hỏi: “Phải mất bao lâu một người bị bịt mắt mới giải được trò chơi quay khối rubic?” Nếu một người mỗi phút xoay chuyển một lần mà không ngừng nghỉ, Hoyle ước chừng rằng sẽ mất khoảng 3.5 nghìn tỉ năm! Do đó, ông kết luận rằng, khi xét tuổi thọ của một đời người thì một người bị bịt mắt không bao giờ có thể giải nổi trò chơi quay khối rubic. Holye tiếp tục giải thích rằng khó khăn cũng xảy ra tương tự cho sự hình thành ngẫu nhiên của chỉ một cái trong số hàng chuỗi amino acid của một tế bào với khoảng 200.000 amino acid như vậy. Bây giờ nếu bạn tính toán thời gian cần thiết để tất cả 100.000 amino acid của một tế bào trong cơ thể con người liên kết lại với nhau bằng sự ngẫu nhiên, sẽ mất khoảng 293,5 lần số tuổi ước chừng của trái đất (lấy tiêu chuẩn 4,6 tỉ năm). Sự kỳ quặc cho phép việc này xảy ra còn lớn hơn việc một người bị bịt mắt giải được trò chơi Rubic. Trong một bảng so sánh tương đồng khác Hoyle bênh vực sự tranh luận của mình. Ông ví nó với “kho chứa sắt, đồng vụn” (junkyard mentality) và hỏi: “Có sự ngẫu nhiên nào một cơn lốc xoáy thổi qua một kho đồng, sắt vụn, chứa các phần của chiếc 747 , ngẫu nhiên lắp chúng lại thành một chiếc máy bay sẵn sàng cất cánh?” Hoyle trả lời rằng: “Khả năng cho việc đó xảy ra quá nhỏ không đáng kể ngay cả khi cơn lốc xoáy đó có khả năng thổi qua đủ các kho đồng nát để lấp đầy cả vũ trụ này!” Trong quyển sách rất ấn tượng của ông Vũ Trụ Tài Tình (The Intelligient Universe), Hoyle kết luận rằng: “Khi các nhà hóa sinh khám phá ra ngày càng nhiều sự phức tạp đáng kinh sợ của cuộc sống, họ nhìn nhận rõ ràng là sự sắp xếp tình cờ bởi ngẫu nhiên quá nhỏ đến nỗi có thể được loại bỏ hoàn toàn. Cuộc sống này không thể được nảy sinh từ sự ngẫu nhiên.” 5 Trật tự và đồ án của vũ trụ Khi chúng ta nói đến kiểu mẫu, chống lại với ý kiến về sự ngẫu nhiên, chúng ta đang liên hệ với những phần có thể quan sát được của thế giới chúng ta, từ những cái nhỏ nhất của nơtron và prôton đến sự rộng lớn bao la của dải thiên hà. Ai hay cái gì đưa ra sự xác định hay những thông tin nguyên thủy để tất
  • 17. cả chúng có thể liên kết lại với nhau? Thông tin này là cái chúng ta muốn nói về đồ án. Tương tự khi so sánh với việc tìm kiếm một kế hoạch toàn hảo lấy thủy tinh, kim loại và phốt-pho để tạo nên những vật chất như cái ti -vi đầy chức năng. Không bao giờ có ai lại nghĩ tới việc đề xuất một sự “lựa chọn tự nhiên” như vậy hay một quá trình tự lắp ráp tạo ra một sản phẩm như vậy được. Thật sự thì ngay đến thuật ngữ “chọn lựa tự nhiên” cũng không phải là một lời giải thích, nó chỉ là một cái tên thôi. Nó không thể nào nói cho chúng ta biết làm thế nào những phần này đủ sự hiểu biết để tự hợp lại với nhau dẫn đến kết quả cuối cùng thật hữu ích. Phải có một người nào đó có đủ những thông tin để lắp ráp những phần đó vào ti-vi. Cũng vậy, hệ thống vật chất của vũ trụ chúng ta cũng lớn tiếng tuyên bố rằng có một người nào đó đã lập trình những lời hướng dẫn vào từng phần riêng lẻ để sáng tạo nên thế giới mà chúng ta thấy. Tiến sĩ Robert Gangue gợi ý rằng chúng ta có thể nói rằng nó được thiết kế một cách có chủ đích. Nếu ai đó nói rằng cấu trúc cuộc sống có thể truy ra từ những tính chất vật chất của những phần tử nhân nhỏ nhất, thì có những câu hỏi cần được giải đáp: Những phần tử này nảy sinh từ đâu? Tại sao mà các hạt electron lại có điện tích và khối lượng như vậy? Ai hay cái gì đã tạo ra giá trị của hằng số hấp dẫn? Tại sao ánh sáng lại di chuyển với tốc độ chính xác của nó như vậy? 6 Từ vô số những ví dụ chúng ta có thể chứng tỏ về một sự thiết kế có chủ định trước. Xem xét những tính chất đáng chú ý của nước, Tiến Sĩ I. J. Henderson liệt kê một số những đặc tính mà chúng ta có thể ứng dụng vào sự chủ định trước. Nước có nhiệt độ riêng cao. Điều đó có nghĩa là những phản ứng hóa học xảy ra trong cơ thể con người được giữ khá ổn định. Nếu nước có nhiệt độ riêng thấp, tất cả chúng ta sẽ bị “sôi lên” chỉ với một cử động nhỏ. Khi chúng ta nung một dung dịch lên thêm 10 độ bách phân, chúng ta đã làm tăng tốc độ của phản ứng lên gấp đôi. Nếu nước không có đặc tính đó thì khó mà có sự sống được. Đại dương là máy điều nhiệt của thế giới. Nước phải mất khá nhiều nhiệt để có thể chuyển từ trạng thái lỏng sang nước đá, và khi nước biến thành hơi, nó đòi hỏi một lượng nhiệt thu vào cũng tương đương như vậy. Thế nên, đại dương là một “trái độn) (cushion) chống lại sức nóng của mặt trời và những luồng gió lạnh mùa đông. Nếu nhiệt độ của trái đất không được biển điều chỉnh và duy trì ở một phạm vi nhất định thì sự sống hoặc là bị nấu chín hoặc là bị đông lạnh đến chết.
  • 18. Nước là chất dung môi tổng quát. Nó hòa tan các chất acid, các chất diêm cơ và chất muối. Về phương diện hóa học, nó tương đối thụ động, cung ứng một môi trường trung gian cho các phản ứng mà không dự phần vào. Trong sự tuần hoàn huyết, nó là một dung dịch chứa ít nhất là sáu mươi bốn chất khác nhau... Tất cả các dung môi khác chỉ là một thứ cáu cặn không hơn kém. Nếu như nước không có những đặc tính độc đáo ấy, sự sống mà chúng ta biết không thể nào hiện hữu được. 7 Bản thân trái đất cũng là một bằng chứng về một bảng thiết kế rất chi tiết. “Nếu trái đất nhỏ hơn, thì sẽ không có tầng khí quyển (như trên thủy tinh và mặt trăng); nhưng nếu nó lớn hơn, bầu khí quyển sẽ chứa đầy khí hidro ở dạng tự do (như trên thổ tinh và mộc tinh). Khoảng cách từ mặt đất đến mặt trời cũng rất chính xác - một thay đổi nhỏ xíu cũng làm cho trái đất quá nóng hay quá lạnh. Mặt trăng của chúng ta, có lẽ là hành tinh duy nhất chịu trách nhiệm về sự phân chia các châu lục và đại dương, là hành tinh rất đặc biệt trong thái dương hệ và dường như được ra đời theo một cách khác với các mặt trăng khác tương đối nhỏ hơn. Độ nghiêng của trục điạ cầu bảo đảm cho sự xoay chuyển bốn mùa.” 8 Những ví dụ đáng kinh ngạc tương tự như vậy có thể được nhìn thấy trong các sinh vật sống, bao gồm cả con người của chúng ta. Có khoảng gần mười một triệu sinh vật sống trên trái đất, và mỗi sinh vật là một phép lạ sống. Chúng là kết quả của một sự phức tạp có tổ chức đầy khác thường ở cấp độ phân tử mà chúng ta chỉ có thể chiêm ngưỡng trong kinh ngạc. Hãy xem xét đôi mắt của con người. Nhà thần học người Anh William Paley chỉ ra sự “phối hợp hiệu quả và hài hòa giữa thủy tinh thể, võng mạc và não bộ; cho phép con người nhìn thấy được; như là một bằng chứng mang tính kết luận cho sự thiết kế của một Đấng Sáng Tạo đầy khôn ngoan. Do đó, bản thiết kế đầy chức năng của các tế bào và những nét đặc trưng của nó được xem như những bằng chứng về sự hiện hữu của một Đấng Thiết Kế.” 9 Chính Darwin trong chương sách mang tực đề “Những điều vật lộn với lý thuyết” trong quyển Nguồn Gốc Của Các Loài (The Origins of Species) có nói: “Giả sử con mắt, với rất nhiều bộ phận làm việc chung với nhau... được cấu thành bởi một sự lựa chọn tự nhiên, tôi phải thú nhận rằng, nó có vẻ như là một điều vô lý vô cùng.” Richard Lewontin, một sinh viên của Đại Học Harvard theo thuyết tiến hóa, nói rằng những tế bào được “thiết kế rất cẩn thận và khéo léo” và gọi sự toàn hảo của các tế bào là “bằng chứng chủ yếu nhất về một Đấng Thiết Kế Tối Cao.” 10
  • 19. Vũ trụ có sự khởi đầu Vũ trụ được thiết kế cũng hàm ý rằng vũ trụ đã có một khởi đầu - có một thời điểm mà thế giới được hình thành. Kinh Thánh mô tả theo cách này: “Thuở xưa Chúa lập nền trái đất, các từng trời là công việc của tay Chúa” (Thi Tv 102:25). Các nhà khoa học cố tránh quan niệm cho rằng thời gian có khởi đầu hay kết thúc vì như vậy là nó có sự can thiệp của thần thánh. Trải qua nhiều năm có vô số học thuyết thay phiên nhau nảy nở. Quan điểm thứ nhất cho rằng vũ trụ là một “quá trình sáng tạo liên tục/tình trạng vững bền” (continuos creation/steady-state) được đề xuất bởi Hermenn Bondi, Fred Hoyle và Tom Gold. Quan điểm này được Tiến Sĩ James Brooks mô tả: “Quan điểm này cho rằng khi các dải thiên hà di chuyển xa ra khỏi nhau, thì có những dải thiên hà mới được thành lập ở giữa những khoảng trống, theo kiểu được “liên tục sáng tạo”. Vũ trụ lúc đó sẽ gần như không thay đổi trong mọi thời điểm và mật độ của nó cũng sẽ khá đều đặn. Kiểu mẫu được đưa ra này cho thấy rằng vật chất (trong dạng của hidro) luôn luôn được tạo ra từ cái không có gì, và di chuyển xung quanh để trung hòa sự pha loãng của vật chất xuất hiện khi các dải ngân hà di chuyển cách xa nhau ra.” 11 Từ điều này và những yếu tố khác ông kết luận là vũ trụ không có sự bắt đầu và nó là vô tận. Tiến sĩ Robert Jastrow, người sáng lập Viện Nghiên Cứu Không Gian của cơ quan NASA, giải thích điều ngược lại mới là đúng. Ngay giây phút một ngôi sao được sinh ra, nó bắt đầu đốt cháy một phần hidro trong vũ trụ, và có một sự pha loãng liên tục của hidro và những kim loại nạng hơn trong vũ trụ ngày hôm nay. Ông kết luận rằng học thuyết về một vũ trụ không có bắt đầu và kết thúc không thể đứng vững được. 12 Quan điểm thứ hai về sự bắt đầu của vũ trụ được các nhà khoa học đưa ra được gọi là “kiểu mẫu giao động” (oscillating model). Quan điểm này cho rằng vũ trụ giống như một cái lò xo, giãn ra và co lại, lặp lại chu trình một cách vô hạn định. Cơ sở của học thuyết này cho rằng vũ trụ đã “đóng”, nghĩa là, không có một năng lượng nào được đặt thêm vào. Sự giãn nở của vật chất sẽ đạt đến một điểm nhất định nào đó và trọng lực kéo mọi vật lại với nhau trước khi nó giãn nở nữa. Tuy nhiên, tất cả các bằng chứng đều bác bỏ điểm này; vũ trụ rõ ràng là mất tỷ trọng của nó mà không có một dấu hiệu nào nên sự giãn nở liên tục chưa bao giờ hay sẽ không bao giờ đảo ngược lại, cho nên cũng không đóng lại. Tiến Sĩ William L. Craig đưa ra kết luận của ông về hai kiểu mẫu trên rằng: “Cả hai trạng thái vững bền và kiểu mẫu dao động của vũ trụ đều không trùng khớp với các sự kiện mà ngành vũ trụ học quan sát. Do đó chúng ta có
  • 20. thể kết luận một lần nữa rằng vũ trụ đã bắt đầu hiện hữu.” 13 Quan điểm thứ ba về sự khởi nguyên của vũ trụ được mọi người biết đến như là thuyết “Big Bang.” Tiến Sĩ Edwin Hubble vẽ biểu đồ tốc độ của dải thiên hà và khẳng định rằng tất cả các dải thiên hà đều di chuyển ra xa chúng ta và cách xa nhau ra với một tốc độ khủng khiếp. Định luật mang tên ông nói rằng: Các dải thiên hà càng cách xa nhau thì càng di chuyển nhanh hơn. Sự ứng dụng gây sửng sốt của điều này là cùng một lúc tất cả các vật chất được gói trong một khối dày đặc ở nhiệt độ hàng tỉ độ. Những nhà khoa học quan sát hiện tượng này phát triển lý thuyết về vũ trụ nguyên thuỷ có lẽ giống như một trái banh lửa được nung lửa trắng ngay từ giây phút đầu tiên sau khi vụ nổ Big Bang xảy ra. Lý thuyết nầy đã được xác nhận vào năm 1965 khi hai nhà vật lý học tìm ra một khám phá bất ngờ rằng toàn bộ trái đất đã tắm trong lớp sáng yếu ớt của phóng xa. Những bước sóng này theo y khuôn những mẫu của bước sóng trong vụ nổ lớn. Từ đó, những nhà khoa học một lần nữa xác nhận rằng không có một sự giải thích rõ ràng nào khác hơn là giải thích những bước sóng phóng xạ này là hậu quả của vụ nổ Big Bang. Trước vụ nổ Big Bang Tiến sĩ Robert Jastrow, là người theo thuyết bất khả tri về vấn đề tôn giáo, nhận xét về lý thuyết của vụ nổ Big Bang: Bây giờ chúng ta thấy rằng những bằng chứng thiên văn học đều dẫn tới quan niệm của Kinh Thánh về nguồn gốc của thế giới. Chi tiết khác nhau, nhưng những yếu tố căn bản trong thiên văn học và Kinh Thánh trong sách Sáng Thế Ký thì giống nhau. Chuỗi sự kiện dẫn đến một sự khởi đầu thình lình và đột ngột vào một thời điểm nhất định trong thời gian, trong một chớp ánh sáng và năng lượng. Một cách cổ điển, những nhà khoa học đã phủ nhận ý tưởng về một hiện tượng tự nhiên không thể giải thích được, thậm chí với thời gian và tiền bạc không giới hạn của họ. Có một loại tôn giáo trong khoa học, ấy là mỗi sự kiện có thể được giải thích theo cách hợp lý như là kết quả của một sự kiện trước đó; mỗi hậu quả phải có nguyên nhân của nó. Bây giờ khoa học chứng minh rằng vũ trụ đã nổ để tồn tại trong một thời điểm nhất định. Khi hỏi: “Nguyên nhân nào dẫn đến kết quả này? Ai hay cái gì đã đặt những vật chất và năng lượng vào trong vũ trụ?” thì khoa học không thể trả lời những câu hỏi này được. Jastrow kết luận bằng câu nói bất hủ này:
  • 21. Đối với nhà khoa học đã sống bằng niềm tin dựa vào sức mạnh của lý lẽ, thì câu chuyện kết thúc như một cơn ác mộng. Ông ta đã leo lên những ngọn núi của sự tự mãn; ông đang chuẩn bị chinh phục đỉnh cao nhất; ông bò qua tảng đá cuối cùng và thấy một nhóm các nhà thần học đã ngồi đó hàng bao thế kỷ đang chào đón mình. 14 Đối với nhiều người, đây là một sự phát triển đầy lạ lùng và đáng kinh ngạc ngoại trừ những nhà thần học. Họ đã luôn luôn chấp nhận những lời được chép trong Kinh Thánh. Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất. Đa-vít, một trong những nhà thần học, nói cách khôn ngoan: “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giãi tỏ công việc tay Ngài làm” (19:1). Và sứ đồ Phao-lô viết: “Vì điều chi có thể biết được về Đức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho họ, Đức Chúa Trời đã tỏ đều đó cho họ rồi, bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bổn tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được” (RoRm 1:19-20). Điều mà Augustine thêm vào là: “Ai có thể hiểu được sự huyền nhiệm này hay giải thích nó cho người khác được?” Cuộc tranh luận về đạo đức Nhưng vẫn còn một bằng chứng khác về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời mà C. S. Lewis gọi là “đúng và sai được xem như là bằng chứng về ý nghĩa của vũ trụ.” Có một ảnh hưởng hay mạng lịnh bên trong mỗi người chúng ta buộc chúng ta phải cư xử theo cách nhất định nào đó. Lewis giải thích rằng tự nhiên chúng ta thấy con người thường phản ứng về nhận thức đúng và sai. Người nọ cãi với người kia: “Đây là chỗ của tôi. Tôi chiếm được nó trước! Giả sử tôi hành động tương tự như bạn! Bạn có thích không? Thôi nào, bạn đã hứa rồi mà.” Những người có học lẫn không học vẫn nói với nhau như vậy hằng ngày, con nít và cả người lớn nữa. Trong những cuộc tranh luận như vậy, có những yêu cầu đối với một số tiêu chuẩn cư xử mà người kia phải chấp nhận. Người có lý do chính đáng để làm việc đó; thì có thể làm việc đó. Người ta kêu gọi sự đáp ứng đối với một số luật pháp, luật lệ, công bằng hay đạo đức vốn đã có sẵn trong họ. Hiếm khi nào một người khác nói: “Ai thèm quan tâm đến tiêu chuẩn của bạn?” Tiêu chuẩn đó đã có giữa họ rồi. Họ không thắc mắc về nó nữa. Lewis nói: “Cãi lộn có nghĩa là cố gắng chỉ cho người kia thấy là họ đang sai.” Luật pháp này liên hệ với cái phải xảy ra. Dù sao, chúng ta biết nó vẫn ở trong chúng ta. Nó không chỉ là một bộ quy tắc văn hóa hay tiêu chuẩn văn hóa. Nó còn là một sự nhất trí đáng ngạc nhiên từ nền văn minh này đến nền văn minh khác về cái gọi là khuôn phép đạo đức. Và tất cả chúng ta đều đồng ý rằng có một vài tiêu chuẩn đạo đức tốt hơn những tiêu chuẩn đạo đức
  • 22. khác. “Nếu không thì không ý tưởng đạo đức nào thật hơn hay đúng hơn cái khác, sẽ chẳng có nghĩa lý gì trong việc ưa chuộng đạo đức văn minh hơn là đạo đức sơ khai, hay đạo đức Cơ Đốc giáo hơn là đạo đức Đức quốc xã.” 15 Lewis nói rằng luật đạo đức không thể chỉ là một qui ước mang tính xã hội. Ông nói với chúng ta rằng nó phải hơn một bảng toán học. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ nói rằng bảng cửu chương là một qui ước xã hội để giúp chúng ta và chúng ta có thể làm một bảng khác nếu chúng ta muốn. 2 cộng 2 luôn luôn là 4 bất luận nền văn hóa của nó là gì đi nữa. Vì vậy, nếu có một bộ luật đạo đức, thì phải có một người đạo đức ban đạo luật đó. Kinh Thánh mô tả con người được “tạo dựng theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời,” phân biệt con người với tất cả các loài thọ tạo khác. Ảnh tượng đạo đức này có trong chúng ta từ khi mới sanh ra bất kể nguồn gốc hay quốc tịch của chúng ta là gì. Một người chưa bao giờ nghe con vật cưng (chó hay mèo) hỏi: “Điều này đúng hay sai?” hay là “Điều này tốt hay xấu?” Những ý tưởng như vậy chỉ có đặc biệt ở con người mà thôi, và đối với con người, ảnh tượng đạo đức không phải là một phần mềm tùy ý chọn lựa. Vâng, có một người đứng đằng sau toàn bộ vũ trụ. Người đó chính là Đức Chúa Trời, Đấng có trí óc, tình cảm, sự nhận thức, ý chí và một nhân cách trọn vẹn. Những điều này được ban cho chúng ta khi Ngài tạo dựng chúng ta, và điều đó bao gồm luôn luật pháp đạo đức. Ngài quan tâm đến một sản phẩm hoàn chỉnh - trong sự công chính, không ích kỷ, can đảm, đức tin tốt, lương thiện và trung thành. Luật pháp của Đức Chúa Trời không phải là cái gì đó xa lạ, phủ lên bên ngoài chúng ta nhưng đan dệt vào bản chất chúng ta từ ngày sáng tạo. Có cái gì đó sâu thẳm bên trong chúng ta vang dội điều có hay không, đúng hay sai của Đức Chúa Trời. (Sứ điệp trong RoRm 2:15). Phải chăng Thượng Đế không muốn con người hạnh phúc? Có một điều quan trọng cần quan sát ở đây mặc dù có nhiều dấu hiệu của Đức Chúa Trời trong thiên nhiên, chúng ta cũng chẳng bao giờ có thể biết được một cách chắc chắn từ thiên nhiên rằng Ngài hiện hữu hay Ngài trông như thế nào. Câu hỏi được đặt ra từ hàng thế kỷ trước: “Há có thể hiểu biết được sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời, và thấu rõ Đấng Toàn Năng sao?”( Giop G 11:7). Câu trả lời là không! Nếu Đức Chúa Trời không bày tỏ chính Ngài, chúng ta cũng quờ quạng trong sự mập mờ và phỏng đoán mà thôi. Rõ ràng ngày hôm nay trong vòng những người tin vào Đức Chúa Trời có rất nhiều ý tưởng xa lạ về Đức Chúa Trời. Chẳng hạn như một vài người tin rằng Thượng Đế không muốn con người được hạnh phúc. Người ta xem Ngài như người trên ban công thiên đàng tìm kiếm bất cứ ai có vẻ như đang tận hưởng cuộc đời thì truyền lệnh phải chấm
  • 23. dứt. Một số người khác nghĩ về Thượng Đế như một người cha rất giàu tình cảm ở trên trời, vừa vuốt râu vừa nói: “Con cái bao giờ cũng là con cái!” Bất kể bạn đã làm gì đi nữa thì cuối cùng cũng chẳng sao. Thượng Đế đối với tất cả mọi người như nhau. Nhiều người khác lại nghĩ về Ngài như một trái banh lửa khổng lồ và chúng ta như những tia lửa nhỏ dần dần cũng sẽ bị hút trở lại phía trái banh khổng lồ đó. Còn có những người, như Einstein, nghĩ Đức Chúa Trời như một sức mạnh hay trí lực vô ngã (impersonal mind). Đối với các nhà duy thần (deist), Đức Chúa Trời tạo dựng nên thế giới nhưng chưa bao giờ xâm nhập vào nó. Ngài lên dây cót cho đồng hồ rồi để nó chết mà không lên dây lại. Tuy nhiên, đối với những người hữu thần (theist), Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo và Đấng điều hành; Ngài có liên hệ cách cá nhân với công trình sáng tạo của Ngài trong khi bày tỏ chính Ngài. Herbert Spencer, một trong những người truyền bá thuyết bất khả tri một thế kỷ trước đây, đã nhận xét rất chính xác rằng chẳng bao giờ có ai thấy một con chim bay ra được ngoài từng không gian. Do đó, ông dùng loại suy để kết luận rằng con người hữu hạn cũng không thế nào xâm nhập vào cõi vô hạn được. Ngay khi Đức Chúa Trời có hiện diện đi nữa thì chúng ta cũng không bao giờ biết Ngài một cách cá nhân hay biết bất cứ điều gì về sự hiện hữu của Ngài. Spencer đã đúng khi quan sát loài chim không bao giờ bay ra khỏi không gian. Sự quan sát của ông đúng nhưng kết luận của ông bỏ sót một khả năng lựa chọn quan trọng: Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa vô hạn, có thể xâm nhập vào sự hữu hạn của chúng ta - Đấng vô hạn đã bước vào cõi hữu hạn, do đó việc liên hệ với chúng ta là điều Ngài rất thích làm. Dĩ nhiên, đây là điều Chúa đã làm. Đức Chúa Trời đã bước vào cõi hữu hạn Như tác giả sách Hê-bơ-rơ đã viết: “Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập nên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian” (HeDt 1:1-2). Qua suốt lịch sử, Đức Chúa Trời đã chủ động trong việc tương giao với loài người. Sự mạc khải trọn vẹn nhất của Ngài là việc Ngài bước vào lịch sử nhân loại qua con người của Đức Chúa Giê-xu Christ. Ngay điểm này, về khía cạnh nhân cách của con người, chúng ta có thể hiểu được Ngài vì Ngài đã từng sống với chúng ta.
  • 24. Nếu bạn muốn biểu lộ tình thương của bạn cho một bầy kiến thì làm sao bạn có thể làm điều đó một cách hữu hiệu nhất? Cách rõ ràng tốt nhất là bạn trở thành một con kiến. Chỉ với cách này sự hiện hữu và hình dáng của bạn mới có thể tương giao một cách đầy đủ và hữu hiệu. Đây chính là điều Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta để chúng ta có thể nhận biết Ngài một cách rõ ràng. J. B. Philips đã nói rất thích hợp: “Chúng ta là một hành tinh được viếng thăm.” Câu trả lời hay nhất và rõ ràng nhất để chúng ta biết tại sao có một Đức Chúa Trời, ấy là Ngài đã viếng thăm chúng ta. Những dấu hiệu khác chúng ta bàn đến chỉ là những đầu mối và gợi ý mà thôi. Điều xác nhận cách thuyết phục là sự giáng sinh, sự chết và phục sinh của Chúa Giê-xu Christ. Những đời sống được thay đổi Những bằng chứng khác về sự hiện hữu hiển nhiên của Đức Chúa Trời là sự hiện hữu rõ ràng của Ngài trong cuộc sống của những người đàn ông và đàn bà ngày hôm nay. Nơi nào người ta chịu tin nhận và nhờ cậy Đức Chúa Giê- xu Christ, thì con người được biến cải sâu xa và cuối cùng cả cộng đồng xã hội ấy cũng được thay đổi. Một trong những ví dụ rất cảm động về sự kiện đó đã do Ernest Gordon, một tù binh trong chiến tranh sau trở nên giáo sĩ của trường đại học Princeton, kể lại. Trong cuốn sách Ngang Qua Thung Lũng Sông Kwai (Through the Valley of Kwai) ông đã thuật lại các tù binh trong thế chiến thứ hai bị người Nhật Bản giam tại Mã Lai hầu như bị biến thành thú vật như thế nào. Họ lấy cắp thức ăn của những người khác cũng đang chết đói như họ. Nhưng rồi trong cơn tuyệt vọng của mình, các tù nhân quyết định rằng đọc Tân Ước sẽ là điều tốt cho họ. Vì Gordon đã tốt nghiệp đại học, nên họ nhờ ông hướng dẫn việc đó. Ông vốn là người theo chủ nghĩa hoài nghi, và những người yêu cầu ông hướng dẫn cũng là những người chưa tin Chúa. Nhờ nhận lời mời, ông và nhiều người khác đã tiếp nhận Đấng Christ, và làm quen với Ngài trong toàn thể vẻ đẹp và quyền năng của Ngài từ những lời lẽ rõ ràng đơn sơ của Tân Ước. Làm thế nào một nhóm người ăn cắp và cấu xé nhau như thế lại được biến đổi thành một cộng đồng đầy yêu thương là câu chuyên đầy cảm động và quyền năng, chứng tỏ rõ ràng sự thực hữu của Đức Chúa Trời qua Đức Chúa Giê-xu Christ. Nhiều người khác trong xã hội hiện nay, trong những điều kiện ít bi thảm hơn cũng đã kinh nghiệm những thực tế như vậy. Do đó, cả trong công trình sáng tạo, lịch sử, và cuộc sống sinh hoạt hằng ngày đều chứng tỏ rằng có một Đức Chúa Trời, và người ta có thể căn cứ vào kinh nghiệm bản thân để biết được Ngài. Đọc thêm Lewis, C. S Mere Christianity. New York: Macmillan, 1986.
  • 25. Packer, J. I Knowing God. Twentieth anniv. ed. Downers Grove, Ill.: InterVarsity Press, 1993. Có Phải Đấng Christ Là Đức Chúa Trời Không? Nếu Đức Chúa Trời không chủ động và bày tỏ chính Ngài thì chúng ta không thể biết được một cách chắc chắn là Ngài có hiện hữu không và Ngài ra làm sao. Nếu không có sự chủ động và sự tự mặc khải của Ngài chúng ta mắc kẹt trong sự phỏng đoán, những định kiến và những ý kiến không bao giờ được sáng tỏ. Chúng ta có quyền được thắc mắc Ngài như thế nào và thái độ của Ngài đối với chúng ta ra sao. Nếu chúng ta biết chắc chắn về sự hiện hữu của Ngài nhưng biết Ngài giống như Adolf Hitler, nghĩa là hay thay đổi ý kiến, nhiều tánh xấu, nhiều thành kiến và rất tàn bạo, thì khủng khiếp biết bao! Nhìn lướt qua chân trời của lịch sử chúng ta thấy có những manh mối chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời tự bày tỏ chính Ngài. Có một sự việc nổi bật. Cách đây 2000 năm, tại một làng hẻo lánh thuộc xứ Palestine, một bé trai đã được sinh ra trong chuồng chiên. Sự ra đời của con trẻ đó đã khiến cho Hê-rốt, vị vua đang cai trị xứ ấy, khiếp sợ. Cố gắng tiêu diệt đứa trẻ được dự báo là sinh ra để “làm vua xứ Giu-đa”, vua Hế-rốt ra lệnh giết tất cả bé trai 2 tuổi trở xuống được sinh ra trong thành Bết-lê-hem. Ông hy vọng một cách vô ích rằng mình sẽ tiêu diệt được bất kỳ một địch thủ nào. Lịch sử gọi ông là “kẻ tàn sát những đứa trẻ vô tội” (Mat Mt 2:1-18). Sự giáng sinh của Ngài chia đôi dòng thời gian. Cuộc đời của Con Trẻ này đã được định trước để thay đổi tiến trình của lịch sử. Hai ngàn năm trước, sự giáng thế của Ngài đã làm rung chuyển thế giới, thay đổi niên lịch và tập tục. Người theo thuyết vô thần ở Mỹ vẫn ghi ngày lên tờ ngân phiếu của họ với năm được tính từ ngày Chúa Giê-xu ra đời. Những người cai trị đất nước, ở phương Đông hay phương Tây, bất kể tôn giáo của họ là gì, đều dùng năm sinh gần đúng này của Ngài. Tự nhiên chúng ta tuyên bố sự giáng sinh của Ngài trên những bức thư, những giấy tờ hợp pháp, và những quyển lịch làm việc. Vào ngày chúng ta đặt ra để kỷ niệm ngày sinh của Ngài, thì khu đậu xe của phố thương mại hoàn toàn vắng hoe. Cậu bé nầy, có ngày sinh mà chúng ta vẫn còn ăn mừng, cùng với cha mẹ sống ở thành Na-xa-rét, nơi Ngài học được nghề thợ mộc từ người cha trần gian của Ngài. Ngay từ đầu Ngài đã là một đứa trẻ khác thường. Năm được 12 tuổi, Ngài đã khiến các học giả và các giáo sư dạy đạo tại Giê-ru-sa-lem bối rối trước những câu hỏi của Ngài. Khi cha mẹ trách Ngài vì Ngài ở lại khi họ đã lên đường trở về, Ngài đáp lại bằng một câu trả lời rất khó hiểu: “Cha mẹ không biết tôi phải lo việc Cha tôi (Đức Chúa Trời) sao?” (LuLc
  • 26. 2:49). Câu trả lời của Ngài ngụ ý về mối quan hệ đặc biệt của Ngài với Đức Chúa Trời. Chàng thanh niên này đã sống trong sự âm thầm cho đến khi được 30 tuổi, rồi bắt đầu chức vụ công khai suốt ba năm. Ngài là một người nhân hậu, và được truyền tụng là “giới bình dân vui vẻ nghe Ngài giảng dạy.” Khác với các giáo sư thời đó “Ngài giảng cách có quyền, chớ không phải như các thầy thông giáo và người Pha-ri-si” (Mat Mt 7:29). Chúa Giê-xu tuyên bố Ngài là Con Đức Chúa Trời Chẳng bao lâu người ta thấy rõ ràng là Ngài đã làm xáo trộn tất cả và tuyên bố nhiều câu về chính Ngài khiến mọi người đều kinh ngạc. Ngài bắt đầu tự xưng là một nhân vật lỗi lạc hơn một giáo sư hay một nhà tiên tri nữa. Ngài bắt đầu nói phán rõ ràng rằng Ngài là Đức Chúa Trời. Những lời giảng dạy của Ngài đều qui tụ vào điều Ngài đã tự xưng. Câu hỏi tối quan trọng Ngài đã nêu lên cho những người theo Ngài là: “Còn các ngươi thì xưng ta là ai?” Khi Phi-e-rơ thưa rằng: “Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống” (16:15-16), thì Chúa Giê-xu đã không cho là lạ và cũng không quở trách Phi-e-rơ. Ngược lại, Ngài còn khen ông! Chúa Giê-xu tuyên bố một cách dứt khoát rằng Ngài là Con của Đức Chúa Trời. Những người nghe Ngài đã bị lời giảng của Ngài công kích nặng nề. Chúng ta được biết rằng, dân Giu-đa càng kiếm cách nữa để giết Ngài, chẳng những vì Ngài phạm ngày Sa-bát thôi, mà lại vì Ngài gọi Đức Chúa Trời là Thân Phụ mình, tự cho mình bình đẳng với Đức Chúa Trời” (GiGa 5:18). Vào một dịp khác, Ngài nói rằng: “Ta với Cha là một” (10:30). Dân Giu-đa lập tức muốn ném đá Ngài. Ngài hỏi họ muốn giết Ngài vì việc gì. Họ trả lời: “ Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá người, nhưng vì lỗi lộng ngôn; ngươi là người mà tự xưng mình là Đức Chúa Trời” (10:33). Chúa Giê-xu cũng tự xưng rõ ràng rằng Ngài có những thuộc tính mà chỉ có ở Đức Chúa Trời. Khi người bại liệt được giòng xuống từ mái nhà và đặt dưới chân Ngài, Ngài phán: “Hỡi con, tội lỗi con đã được tha” (Mac Mc 2:5). Việc này gây ra bất mãn lớn giữa vòng các thầy thông giáo. Họ nghĩ thầm “Sao tên này dám phạm thượng như vậy? Ngoài Đức Chúa Trời ra, đâu có ai tha tội được?” (2:7). Chúa Giê-xu biết ý tưởng họ nên phán: “Bảo rằng, tội ngươi đã được tha, hay là bảo người rằng: Hãy đứng dậy, vác giường mà đi, hai điều ấy đều nào dễ hơn?” (2:8-9). Để hiệu quả hơn, Ngài trả lời câu hỏi bằng cách: “Vả hầu cho các người biết Con người ở thế gian có quyền tha tội (ý Ngài muốn nói rằng các ngươi bảo chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền tha tội là rất đúng, nhưng việc đó không ai thấy, bây giờ ta làm một việc mà các ngươi có thể thấy)” (2:10). Quay sang người bại, Ngài truyền lệnh: “Ta biểu ngươi, hãy
  • 27. đứng dậy, vác giường đi về nhà” (2:11). Người đàn ông đứng dậy và đi! Tên gọi Con người là danh xưng Chúa Giê-xu dùng để nói về chính Ngài, nhưng đi kèm với những thuộc tính mà chỉ Đức Chúa Trời mới có. Trong lời nói liên quan đến việc Chúa Giê-xu đến thế gian, Ngài nói về chính mình như Con người đến để “ban sự sống của Ngài làm giá chuộc nhiều người.” Đây không phải là lời phủ nhận về thần tính theo bất kỳ nghĩa nào. Đúng hơn là danh xưng này bao gồm cả thần tính và sự giáng sinh của Ngài như một phần của nhân loại. Quyền phép, những phép lạ, những sự dạy dỗ và tính cách của Ngài, là những đặc điểm thật mà chỉ ở Đức Chúa Trời mới có. Đến giờ quyết định, khi mạng sống của Ngài đang lâm nguy vì cớ những lời tự xưng đó, thầy cả thượng phẩm đặt câu hỏi với Ngài một cách trực tiếp: “Ấy chính ngươi là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời đáng ngợi khen phải không?” Chúa Giê-xu đáp một cách bình thản: “Ta chính phải đó, các ngươi sẽ thấy Con người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự giữa đám mây trên trời mà đến.” Bấy giờ thầy cả thượng phẩm xé áo mình ra mà phán rằng: “Chúng ta có cần kiếm chứng cớ khác nữa làm chi? Các ngươi có nghe lời lộng ngôn chăng?” (14:61-64). John Stott tóm tắt lại như sau: Mối liên hệ giữa Ngài với Đức Chúa Trời quá gần gũi nên tự nhiên Ngài xem thái độ của một người đối với Ngài là thái độ của người đó đối với Đức Chúa Trời. Cho nên: Ai biết Ngài tức là biết Đức Chúa Trời Ai thấy Ngài tức là thấy Đức Chúa Trời Ai tin Ngài tức là tin Đức Chúa Trời Ai tiếp nhận Ngài tức là tiếp nhận Đức Chúa Trời Ai ghét Ngài tức là ghét Đức Chúa Trời Ai tôn vinh Ngài tức là tôn vinh Đức Chúa Trời. 1 Chỉ có bốn trường hợp có thể xảy ra Khi chúng ta đối diện với lời tự xưng về thần tính của Đấng Christ, chỉ có bốn khả năng. Ngài hoặc là một kẻ nói dối, một người điên, một nhân vật của truyền thuyết hoặc Ngài là Chân Lý. Nếu chúng ta nói Ngài không phải là Chân Lý, thì lẽ đương nhiên chúng ta đã nhận ba khả năng còn lại, dù chúng ta có ý thức như thế hay không. Xem xét những khả năng này rất ích lợi cho chúng ta.
  • 28. Chúa Giê-xu có nói dối khi tự xưng Ngài là Đức Chúa Trời khi Ngài biết rằng Ngài không phải là Đức Chúa Trời không? Nếu như vậy, Ngài cố ý lừa dối những người nghe Ngài để mượn uy quyền của Đức Chúa Trời cho chính Ngài và cho lời giảng dạy của Ngài. Rất ít người hay hầu như không có ai giữ quan điểm này một cách nghiêm túc. Ngay cả những người chối bỏ thần tính của Ngài cũng khẳng định rằng Chúa Giê-xu là một giáo sư vĩ đại đầy đạo đức. Họ thất bại khi không nhận thấy rằng hai quan điểm này hoàn toàn trái ngược nhau. Chúa Giê-xu khó có thể là một giáo sư vĩ đại đầy đạo đức nếu ngay ở điểm chính yếu trong sự giảng dạy của Ngài - lai lịch của Ngài - Ngài lại là một kẻ nói dối có chủ ý. Ngài có phải là một người điên không? Chấp nhận quan điểm này sẽ dẫn đến việc làm méo mó cho bằng cớ. Thật sự thì chẳng có bằng chứng nào ủng hộ quan điểm này. Trái lại, tất cả những bằng chứng đều hướng về phía ngược lại. Tuy có vẻ nhẹ hơn, nhưng cũng không kém phần kinh ngạc khi nói rằng Ngài chân thật nhưng tự lừa dối. Ngày nay một người nào đó tự xưng là mình Đức Chúa Trời hay là món khoai tây chiên thì sẽ bị coi là “kẻ điên”, và chúng ta sẽ giúp đỡ người ấy. Tuy nhiên từ ngữ nầy sẽ trở nên lố bịch nếu chúng ta áp dụng vào Đấng Christ. Khi nhìn vào đời sống của Đấng Christ, chúng ta không thấy bằng chứng nào của sự dị thường và mất thăng bằng thường thấy trong những người loạn trí. Hơn thế nữa, chúng ta chỉ thấy một sự điềm tĩnh vô hạn dưới những áp lực của đối phương. Trước tòa công luận của Phi-lát, khi cuộc sống của Ngài đang lâm nguy, Ngài đã rất điềm tĩnh và thản nhiên. Như C. S. Lewis đã nói: “Lời giảng dạy sâu sắc và lành mạnh mang tính đạo đức của Ngài rõ ràng không phù hợp với một người được chuẩn đoán là mắc bệnh hoang tưởng” điều đó không thể nào hài hòa được. 2 Có phải Ngài là một truyền thuyết không? Khả năng thứ ba là tất cả những gì những môn đệ nhiệt thành của Ngài thuật lại về lời tự xưng rằng Ngài là Đức Chúa Trời và năng lực siêu nhiên của Ngài là một truyền thuyết. Thậm chí có những lời đồn đại rằng lời tự xưng là Đức Chúa Trời, sự giảng dạy và những phép lạ của Ngài chỉ được thêm vào từ thế kỷ thứ ba hay thứ tư sau này. Họ đã đặt những lời vào miệng Ngài mà nếu chính Ngài được nghe cũng phải kinh ngạc. Nếu Ngài tái lâm, chắc sẽ phủ nhận chúng lập tức. Thuyết truyền khẩu này đã bị bác bỏ do những khám phá của ngành khảo cổ học hiện đại qua ba yếu tố. Bốn quyển sách tiểu sử của Đấng Christ (Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca, Giăng) được viết ra trong thời của những người sống đồng thời với Ngài đã được chứng minh chắc chắn. Tiến sĩ William F. Albright, một nhà khảo cổ học nổi tiếng thế giới đã kết luận như vậy: “Không có lý do gì để tin rằng có quyển sách Phúc Âm nào
  • 29. được viết sau năm 70 S.C.” Cho rằng truyền thuyết về Đấng Christ, dưới dạng một sách Phúc Âm, lại được lưu hành khắp nơi và gây ảnh hưởng sâu rộng như thế mà không có một chút sự thật nào làm căn bản là điều không thể có được. Nếu việc này xảy ra thì nó cũng kỳ lạ như việc có một người nào trong thời đại của chúng ta viết tiểu sử về cố tổng thống John F. Kenedy, trong đó nói rằng ông tự xưng mình là Đức Chúa Trời, tha thứ tội lỗi của mọi người và từ cõi chết sống lại. Một câu chuyện hoang đường như thế không thể nào đứng vững được bởi vì còn có quá nhiều người biết tổng thống! Trong ánh sáng của những biên niên rất sớm và hợp lý của các cổ bản sách Phúc Âm thuyết truyền khẩu không thể nào đứng vững được. 4. Chúa Giê-xu đã nói sự thật - Ngài chính là Đức Chúa Trời đến trần gian. Về một phương diện thì lời tự xưng chẳng đáng kể bao nhiêu. Tuyên bố ba hoa là điều rất dễ làm! Ai cũng có thể tự xưng hay được người ta xưng là thần này thánh nọ khắp nơi trên thế giới. Tôi có thể tự xưng là Đức Chúa Trời và bạn cũng có thể tự xưng là Đức Chúa Trời nhưng câu hỏi mà tất cả chúng ta phải trả lời là: “Chúng ta đưa ra những bằng chứng gì để hậu thuẫn cho lời tự xưng của chúng ta?” Trong trường hợp của tôi thì không cần đến 5 phút là tôi đã bị lột mặt nạ rồi. Và chắc trường hợp của bạn cũng không lâu hơn thế. Nhưng trong trường hợp của Chúa Giê-xu người Na-xa-rét, vấn đề không đơn giản như vậy. Ngài có những bằng chứng để hậu thuẫn cho lời tự xưng của Ngài. Ngài nói rằng: “Dầu các ngươi chẳng tin ta, hãy tin những việc ta, để các ngươi hiểu và biết rằng Cha ở trong ta và ta ở trong Cha” (GiGa 10:38). Những phẩm tính của Chúa Giê-xu chứng minh điều gì về Ngài? Tính cách đạo đức của Ngài phù hợp với lời tự xưng của Ngài. Trước đây chúng ta đã đề cập đến nhiều bệnh nhân trong nhà thương điên thường tự xưng mình là thần thánh hay những nhân vật nổi tiếng nào đó, nhưng tính cách của họ trái ngược với những lời tự xưng đó. Với Đấng Christ thì không hề như vậy. Chúng ta không đem Đấng Christ để so sánh với những người khác; chúng ta đưa những người khác đối chiếu với Ngài để thấy Ngài hoàn toàn trái ngược với họ. Ngài là Đấng có một không hai - như chính Đức Chúa Trời vốn độc nhất vô nhị vậy. Chúa Giê-xu không hề phạm tội. Những phẩm chất trong đời sống của Ngài cho phép Ngài thách thức kẻ thù của mình với câu hỏi: “Trong các ngươi có ai bắt ta thú tội được chăng?” (GiGa 8:46). Mặc dù Ngài nói với những kẻ rất muốn bới lông tìm vết để vạch ra một yếu điểm trong tính tình của Ngài, nhưng tất cả đều im hơi lặng tiếng. Chúng ta đọc về chuyện Chúa Giê-xu