SlideShare a Scribd company logo
1 of 54
Download to read offline
1



                            Chƣơng 1: MỞ ĐẦU
1.1.   Đặt vấn đề
       Tôm càng xanh Macrobrachium rosenbergii de Man 1879 là một trong những
đối tượng có giá trị kinh tế quan trọng ở nhiều nước trên thế giới. Đây là loài có kích
thước lớn nhất trong các loài tôm nước ngọt, thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng, chúng là
loài ăn tạp, dễ nuôi, ít bệnh tật cho nên nghề nuôi tôm càng xanh phát triển. Ở nước ta
hiện nay rất chú ý đến việc sản xuất và nuôi tôm càng xanh vì tôm có giá trị kinh tế
được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
       Tôm càng xanh được phân bố ở vùng Tây Nam Châu Á và Thái Bình Dương
nhưng tập trung nhiều nhất là Đông Nam Á, nước ta là nước có sản lượng tôm càng
xanh trong tự nhiên lớn hơn cả so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á, với sản
lượng khai thác khoảng 6000 tấn trên năm (1980), trong khi đó ở Thái Lan là 400 500
tấn trên năm, Malaysia là 120 tấn trên năm (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002).
       Nước ta, Đồng Bằng Sông Cửu Long là nơi có tiềm năng rất lớn cho nghề nuôi
trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm đang được phát triển mạnh. Tuy nhiên, một trở
ngại lớn trong nuôi thương phẩm tôm càng xanh là sự phân đàn khi nuôi chung tôm
đực và tôm cái, tôm đực thường lớn nhanh hơn tôm cái trong cùng quần đàn. Trở ngại
này làm ảnh hưởng đáng kể đến kích cỡ và sản lượng tôm thương phẩm, cho nên việc
sản xuất giống tôm càng xanh toàn đực để nâng cao hiệu quả và năng suất tôm nuôi.
       Trong qui trình sản xuất giống tôm càng xanh toàn đực, việc nuôi vỗ thành thục
tôm cái đã vi phẫu loại bỏ tuyến đực trở thành con cái có khả năng sinh sản như con cái
bình thường là rất quan trọng, bởi vì con cái này có số lượng ít. Do đó, cần hoàn thiện
được quy trình nuôi phù hợp.
       Xuất phát từ thực trạng đó, được sự đồng ý của Bộ Môn Công Nghệ Sinh Học,
Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh và Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng
Thủy Sản II, chúng tôi thực hiện đề tài “Đánh giá hiệu quả hệ thống tuần hoàn hở
nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) hậu bị trên bể composite cho
sản xuất đàn toàn đực”.
2


1.2.   Mục tiêu
       Đánh giá hiệu quả hệ thống tuần hoàn hở nuôi tôm càng xanh hậu bị trên bể
composite cho việc nâng cao tỷ lệ sống, tăng trưởng và thành thục sinh dục của tôm
càng xanh hậu bị trong quy trình sản xuất tôm càng xanh toàn đực.
1.3.   Nội dung
       Đánh giá các biến đổi môi trường trong các hệ thống tuần hoàn khác nhau, nuôi
tôm càng xanh hậu bị trong quy trình sản xuất tôm càng xanh toàn đực.
       Đánh giá các chỉ tiêu tăng trưởng, tỷ lệ sống và thành thục sinh dục của tôm
càng xanh hậu bị trong quy trình sản xuất đàn toàn đực.
3



                  Chƣơng 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.    Đặc điểm sinh học tôm càng xanh
       2.1.1. Đặc điểm phân loại
        Tôm càng xanh là một trong những nhóm động vật giáp xác, có vị trí phân loại
như sau:
Ngành tiết túc:                           Arthropoda
Ngành phụ:                                Anterata
Lớp giáp xác:                             Crustacea
Lớp phụ giáp xác bậc cao:                 Malacostraca
Bộ mười chân:                             Decapoda
Bộ phụ chân bơi:                          Natania
Phân bộ:                                  Caridea
Họ:                                       Palaemonidae
Họ phụ:                                   Palaemoninae
Giống:                                    Macrobrachium
Loài tôm càng xanh:                       Macrobrachium rosenbergii de Man 1879
Tên tiếng Anh:                            Freshwater giant prawn
       2.1.2. Phân bố
        Tôm càng xanh nước ngọt thuộc giống Macrobrachium phân bố khắp vùng
nhiệt đới và Á nhiệt đợi trên thế giới, tập trung ở khu vực Ấn Độ Dương và Tây Nam
Thái Bình Dương, chủ yếu ở khu vực châu Úc đến New Guinea, Trung Quốc và Ấn
Độ, tôm càng xanh có hầu hết ở các thủy vực nội địa như sông, hồ, đầm lầy, ruộng,
mương ao, đầm phá, hay các thủy vực nước lợ như cửa sông (Nguyễn Việt Thắng,
1993; M. B.New và S.Singholka, 1985).
        Tôm càng xanh phân bố ở hầu hết các quốc gia như Thái Lan (De Man, 1879;
Lanchester, 1879; Kemp, 1918), Miến Điện (Henderson, 1893), Malaysia (Lanchester,
1901), Ấn độ (Hurbest, 1792), Singapore, Nhật Bản ( Von Martens, 1868), Indonesia
(De Man, 1879), Australia (J. Roux, 1933) và Việt Nam (Serene, 1937) (trích dẫn bởi
Nguyễn Việt Thắng, 1993).
4


      Ở nước ta tôm càng xanh phân bố tự nhiên từ Cầu Đá Nha Trang trở vào, ở khu
vực Đông Nam Bộ và tập trung chủ yếu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (Phạm Văn
Tình, 2004).
      Ở Bán đảo Cà Mau phát hiện thấy tôm càng xanh phân bố với số lượng không
nhỏ ở các nồng độ muối từ 5 10‰, cũng phát hiện thấy chúng ở vùng Hòn Tre, nơi
nước biển được ngọt hóa bởi dòng nước ngọt của sông Cái Lớn có độ mặn là 20‰,
cũng tại Năm Căn ở nồng độ muối 15‰ cũng tìm thấy tôm càng xanh, tuy nhiên vùng
phân bố tập trung của chúng là vùng nước ngọt và lợ nhạt có độ muối dưới 6‰
(Nguyễn Việt Thắng, 1993).
     2.1.3. Hình thái
      Tôm càng xanh là loài có kích thước lớn nhất, thân tôm càng xanh hơi tròn, có
màu xanh nhạt, màu đặc trưng là đôi càng lớn có màu xanh lam sẩm hay nâu đỏ tùy
thuộc vào độ tuổi của tôm, phía cuối thân có màu xanh lam, hai bên giáp đầu ngực có
đường vân xanh, đỏ chạy dọc song song với thân (Lương Đình Chung, 1999).
      Cơ thể tôm càng xanh gồm hai phần chính: phần đầu ngực và phần thân. Phần
vỏ đầu ngực tận cùng là chủy, chủy ở phía trên có từ 12 14 gai và phía dưới có 12 13
gai, dưới vỏ đầu ngực có năm đôi chân bò, đôi chân ngực thứ 2 phát triển to, dài, có
nhiều gai nhỏ, đốt cuối có dạng kẹp, đôi chân ngực này gọi là càng. Phần mình gồm 6
đốt và đuôi, vỏ của đốt 2 trùm lên đốt 1 và đốt 3, phía dưới các đốt bụng là 5 đốt chân
bơi và tận cùng là chân đuôi hình phiến dẹp (Nguyễn Việt Thắng, 1995).
      Các phụ bộ có hình dạng, kích cỡ và chức năng khác nhau với hai đôi râu có
chức năng xúc giác, một đôi hàm lớn, hai đôi hàm nhỏ, ba đôi chân hàm có chức năng
giữ và nghiền mồi, năm đôi chân ngực có chức năng để bò, năm đôi chân bụng để bơi,
một đôi chân đuôi có chức năng như bánh lái và đôi càng dùng để bắt mồi và tự vệ
(Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003) ( hình 2.1).
      Tôm càng đực thành thục, to hơn tôm cái rõ rệt và đôi chân bò thứ 2 cũng lớn và
dài hơn, tỷ lệ phần đầu ngực của tôm đực thì lớn hơn và phần bụng thì nhỏ hơn tôm
cái, các lỗ sinh dục đực nằm giữa gốc của đôi chân bò thứ 5. Đầu của tôm cái thành
thục và đôi chân bò thứ 2 của nó nhỏ hơn nhiều so với tôm đực, lỗ sinh dục con cái,
nằm ở gốc đôi chân bò thứ 3, các tấm vỏ bụng thì dài hơn và phần bụng cũng rộng hơn,
5


các tấm vỏ bụng tạo thành một buồng rộng, trứng được chứa tại đó trong khoảng thời
gian từ lúc đẻ ra cho đến lúc nở (M.B.New và S.Singholka, 1985).




   Hình 2.1. Một số đặc điểm giải phẩu học của tôm càng xanh (hình vẽ của
Foster và Wickins (1972)).
     2.1.4. Môi trƣờng sống
       Nhiệt độ: nhiệt độ thích hợp cho hầu hết các giai đoạn của tôm dao động trong
khoảng 26 31oC, tốt nhất là 28 30oC. Nhiệt độ thấp dưới 13oC hay trên 38oC gây chết
tôm, khi nhiệt độ ngoài khoảng 22 33oC hoạt động, sinh trưởng và sinh sản của tôm sẽ
bị suy giảm, nhiệt độ cao thường làm cho tôm sớm thành thục và kích cỡ nhỏ (Nguyễn
Thanh Phương và ctv, 2003) .
       Độ pH: độ pH thích hợp nhất cho sinh trưởng của tôm từ 7 8,5, pH dưới 6,5 hay
trên 9,0 kéo dài không tốt cho tôm ở tất cả các giai đoạn (Nguyễn Thanh Phương và
ctv, 2003).
       Tác động của pH lên tỷ lệ sống của tôm càng xanh con ở pH 8,2, 7,4, 6,8, 6,2 và
5,6 là 100 , 88,9 , 94,4 , 94,4     và 94,4   trong 56 ngày theo dõi thí nghiệm. Sau
42 ngày tổng chiều dài và trọng lượng ở pH 5,6 thấp hơn ở pH 8,2 và sau 56 ngày trong
lượng của tôm ở pH 6,8 thấp hơn pH 8,2 (Su Mei Chen và Jiann Chu Chen, 2002).
       Độ mặn: đối với tôm cái mang trứng, chúng di chuyển ra cửa sông, ấu trùng nở
ra chỉ sống được trong môi trường nước có độ mặn từ 8 14‰, thích hợp nhất là
6


10 12‰, trong môi trường nước ngọt ấu trùng chết hoàn toàn (Lương Đình Chung,
1999).
         Tôm giống và tôm lớn cần sống trong nước ngọt để sinh trưởng tốt nhất, chúng
có thể chịu độ mặn từ 25‰ đến 30‰ (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003).
         Trong sản xuất giống nhân tạo duy trì độ mặn 12‰ trong suốt quá trình ương
cho đến khi thu hoạch tôm post-larvae (Nguyễn Việt Thắng, 1993).
         Oxy hòa tan (DO): hầu hết các loài thủy sản có thể sống trong điều kiện tối ưu
và trao đổi chất ở nồng độ oxy là 3 7 mg/l, chúng có thể sống ở nồng độ oxy thấp. Khi
DO nhỏ hơn 1 mg/l thì làm cho tôm bị chết ngạt, khi DO nhỏ hơn 2 mg/l thì tôm bị
stress (M.B.New và W.C.Valenti, 2000).
         Ngưỡng oxy của tôm cao hơn các loài cá nước ngọt, ở hầu hết cá nước ngọt là 2
mg/l và tôm càng xanh là 3 mg/l (Phạm Văn Tình, 2004).
         Đối với các giai đoạn biến thái của ấu trùng yêu cầu hàm lượng oxy từ 5 mg/l
trở lên (Lương Đình Chung, 1999).
         Hợp chất nitrogen (nitrite, nitrate, amonia): giới hạn cho phép của hàm lượng
các hợp chất nitrogen là: hàm lượng nitrite nhỏ hơn 0,1 mg/l, hàm lượng nitrate nhỏ
hơn 20 mg/l và hàm lượng amonia nhỏ hơn 0,1 mg/l (M.B.New và S.Singholka, 1985).
         Hàm lượng amonia nhỏ hơn hoặc bằng 0,09 mg/l giảm tăng trưởng ở tôm càng
xanh và amonia từ 0,45 mg/l giảm 50         tăng trưởng ở tôm Penaeid (Ferene Pekar,
1995).
         Trong hệ thống chảy tràn nuôi tôm nước ngọt hàm lượng NO2-N nhỏ hơn 1,4
mg/l (M.B.New và W.C.Valenti, 2000).
         Trong sản xuất giống hàm lượng nitrite duy trì dưới 0,1 mg/l và amonia dưới 0,1
mg/l (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003).
         Độ cứng: nước ngọt có độ cứng tổng cộng dưới 100 mg/l CaCO3 cho kết quả tốt
(M.B.New và S.Singholka, 1985).
         Nước trong ao hồ có độ cứng thích hợp cho nuôi tôm cá là 20 150 mg/l CaCO3,
nước có độ cứng cao quá (trên 300 mg/l CaCO3) sẽ gây ảnh hưởng không có lợi cho sự
tăng trưởng và lột xác của tôm (Vũ Thế Trụ, 1994).
7


       Độ cứng thích hợp nhất cho ương nuôi tôm trong khoảng 50 150 mg/l, đối với
ương nuôi ấu trùng, độ cứng thấp dưới 50 mg/l có thể gây ra hiện tượng vỏ mềm
(Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003).
     2.1.5. Chu kỳ sống
       Vòng đời tôm càng xanh có 4 giai đoạn bao gồm trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng
và tôm trưởng thành (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003) (hình 2.2).
       Tôm càng trưởng thành sống chủ yếu ở nước ngọt (sông, rạch, ao, hồ, đầm…),
chúng thành thục phát dục và giao vĩ đẻ trứng ở đó nhưng khi ôm trứng chúng có xu
thế bơi ra vùng nước lợ từ 6 18 ‰ có khi lên đến 20 25‰. Ở đó, ấu trùng được nở ra
và sống trôi nổi theo kiểu phù du, ấu trùng trải qua 11 lần lột xác, qua 12 giai đoạn biến
thái ấu trùng biến thành hậu ấu trùng, thời gian cho các giai đoạn biến thái từ 17 60
ngày, lúc này tôm con tiến về vùng nước ngọt (Nguyễn Việt Thắng, 1993).
       Tôm có thể di cư rất xa, trong phạm vi hơn 200 km từ bờ biển vào nội địa, khi
trưởng thành chúng lại di cư ra vùng nước lợ nơi có độ mặn thích hợp để sinh sản và
vòng đời lại tiếp tục (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003).




   Hình 2.2. Vòng đời của tôm càng xanh (hình vẽ của Foster và Wichkins (1972)).
     2.1.6. Lột xác và tăng trƣởng
       Trong quá trình lớn lên, tôm trải qua nhiều lần lột xác, chu kỳ lột xác của tôm
tùy thuộc vào nhiều yếu tố như kích cỡ của tôm, điều kiện dinh dưỡng, điều kiện môi
trường, giới tính và tình trạng sinh lý của tôm (Dương Tấn Lộc, 2001).
8


         Ấu trùng tôm càng xanh qua mỗi lần lột xác lại biến thái chuyển sang giai đoạn
phát dục mới, từ ấu trùng giai đoạn 1 đến tôm bột trải qua 11 lần lột xác, qua mỗi lần
lột xác tôm tăng trọng 20 30% (Lương Đình Chung, 1999).
         Từ tôm giống đến tôm trưởng thành, tôm lột xác nhiều lần để tăng trưởng cơ
thể, khi bị tổn hại các chi phụ như càng, chân… tôm lột xác để tái sinh (Lương Đình
Chung, 1999).
         Tôm nhỏ có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn tôm lớn, tôm đực lớn nhanh hơn tôm
cái (Phạm Văn Tình, 2004; Nguyễn Việt Thắng, 1993).
         Quá trình lột xác của tôm càng xanh bao gồm các giai đoạn như sau: giai đoạn
tiền lột xác, giai đoạn lột xác, giai đoạn hậu lột xác, giai đoạn giữa chu kỳ lột xác
(Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003).
         Trong thời gian chờ đợi lớp vỏ mới đủ cứng, tôm rất yếu ớt, dễ bị các động vật
khác sát hại.Tất cả các tôm cái thành thục sinh dục đều lột vỏ trước khi thụ tinh một
thời gian ngắn, gọi là thời kỳ tiền giao vĩ của tôm cái (Phạm Văn Trang và ctv, 1993).
   Trong quá trình lột xác tiền giao vĩ, tôm cái sẽ tiết ra hormon có tác dụng kích thích
tôm đực tìm đến, sự hiện diện của tôm đực còn giúp bảo vệ tôm cái mới lột khỏi bị các
tôm cái khác tấn công (Nguyễn Việt Thắng, 1993; Nguyễn Thanh Phương và ctv,
2003).
     2.1.7. Thành thục sinh dục
         Trong tự nhiên, cũng như trong ao, hồ nuôi với nguồn giống nhân tạo, tôm càng
xanh cái thành thục lần đầu ở khoảng 3 3,5 tháng tuổi kể từ hậu ấu trùng 10 15 ngày
tuổi, với kích cỡ tôm nhỏ nhất đạt thành thục khoảng 10 13 cm và 7,5 g (Nguyễn
Thanh Phương và ctv, 2003).
         Trong quá trình thành thục, buồng trứng trải qua 4 giai đoạn phát triển trong
vòng 14 20 ngày. Đặc trưng ở mỗi giai đoạn thành thục được trình bày theo Nguyễn
Thanh Phương và ctv (2003) như sau:
         Giai đoạn I: chưa thành thục. Buồng trứng nhỏ, trong suốt, nằm ở vùng chót sau
của khoang giáp đầu ngực, trứng có hình cầu với nhân rõ ràng và nguyên sinh chất
trong suốt, đường kính trứng đạt 0,064 0,128 mm.
9


       Giai đoạn II: chớm thành thục. Buồng trứng chiếm khoảng 1/4 1/2 chiều dài
của khoang giáp đầu ngực và có màu vàng, trứng hơi ngà ngà do có noãn hoàng trong
nguyên sinh chất, nhân không thấy rõ, trứng có đường kính 0,191 0,447 mm.
       Giai đoạn III: thành thục. Buồng trứng phát triển hơn và chiếm 3/4 chiều dài
khoang đầu ngực, có màu vàng cam, trứng hơi đục, nhân không thấy được do hình
thành noãn hoàng, trứng có đường kính 0,319 0,545 mm.
       Giai đoạn IV: chín muồi. Buồng trứng chiếm toàn bộ khoang giáp đầu ngực,
màu vàng xậm, trứng có hình cầu, đục do noãn hoàng tích tụ nhiều, đường kính trứng
0,447 0,766 mm.
       Khi buồng trứng đạt giai đoạn IV, tôm cái lột xác tiền giao vĩ.
     2.1.8. Sinh sản
       Tôm đực thành thục sinh lý có thể trạng khỏe mạnh (vỏ cứng) có thể tiến hành
giao vĩ, con cái hoàn tất lột xác mới tiến hành giao vĩ, quá trình giao vĩ của tôm có thể
chia thành 4 giai đoạn: tiếp xúc (contact), ôm giữ tôm cái (seizura), trèo lên lưng
(mounting), lật ngửa và gắn túi tinh (turning) (Nguyễn Việt Thắng, 1993).
       Toàn bộ quá trình tiếp xúc và giao vĩ xảy ra trong vòng 25 35 phút, sau khi giao
vĩ, tôm đực nằm cạnh tôm cái khoảng 5 10 phút, tôm đực bảo vệ tôm cái vốn còn vỏ
mềm khỏi bị tôm khác tất công (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003).
       Sau khi giao vĩ từ 6 20 giờ tôm cái bắt đầu đẻ trứng, những con cái chưa giao vĩ
nhưng đã thành thục, chín mùi sinh dục cũng có thể đẻ trong vòng 24 giờ sau khi lột vỏ
“tiền giao vĩ”, nhưng trứng của chúng sẽ không được thụ tinh, những trứng này chỉ
được giữ trong buồng ấp trứng vài giờ (Nguyễn Việt Thắng, 1993).
       Tôm cái mang trứng dưới bụng và bảo vệ trứng đến khi nở, thời gian ấp trứng
giao động từ ngày 17 23 ngày với nhiệt độ từ 26 30oC, suốt thời gian ấp trứng tôm cái
dùng chân bụng quạt nước, tạo dòng nước luôn chuyển qua thân bụng làm thoáng khí
cho trứng, trứng mới đẻ có màu vàng sáng chuyển dần sang màu da cam đến ngày thứ
12 màu da cam của trứng nhạt dần và ngả màu xám xanh nhạt và từ màu xám nhạt
chuyển dần sang xám đậm cho đến ngày nở có màu xám đậm đen (màu đen đó là mắt
10


của ấu trùng còn nằm trong trứng) lúc này sẵn sàng nở ra ấu trùng (Nguyễn Việt
Thắng, 1993).
         Tùy vào kích cỡ và trọng lượng của tôm cũng như chất lượng và số lần tham gia
sinh sản của chúng mà sức sinh sản của tôm có thể thay đổi từ 7.000 503.000 trứng,
thông thường khoảng 20.000 80.000 trứng, trung bình sức sinh sản tương đối của tôm
khoảng 500 1.000 trứng trên gram trọng lượng tôm. Tôm nuôi trong ao hồ, sức sinh
sản tương đối của chúng có thấp hơn, trung bình 300 600 trứng trên gam trọng lượng,
tôm cái có thể tái phát dục và đẻ lại sau 16 45 ngày hay có thể chỉ 7 ngày, chúng có
thể tái phát dục và đẻ lại 5 6 lần, sức sinh sản của tôm cũng thay đổi theo các lần đẻ
trứng của tôm (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003).
     2.1.9. Dinh dƣỡng
         Ấu trùng ăn liên tục và trong tự nhiên thức ăn chính là các phiêu sinh động vật
(chủ yếu là các giáp xác nhỏ), giun rất nhỏ và ấu trùng không xương sống thủy sinh
khác, hậu ấu trùng ngoài thức ăn ở giai đoạn ấu trùng chúng có thể ăn thêm các mảnh
vụn hữu cơ lớn hơn, có nguồn gốc động vật và thực vật (M.B.New và S.Singholka,
1985).
         Tôm càng là loài ăn tạp và thức ăn của chúng gồm các loài côn trùng thủy sinh
và ấu trùng của côn trùng, tảo, rong, hạt, quả, nhuyễn thể, giáp xác nhỏ, thịt cá, phế liệu
của cá và động vật khác, chúng cũng có thể ăn thịt lẫn nhau (M.B.New và S.Singholka,
1985).
         Ấu thể (nauplii) Artemia là một trong những loại thức ăn sống quan trọng cho
các giai đoạn đầu của ấu trùng tôm, ấu trùng tôm càng xanh có thể ăn ấu thể Artemia
ngay từ ngày thứ hai (giai đoạn 2) sau khi nở, hạn chế khi dùng Artemia làm thức ăn
cho ấu trùng nuôi đó là chúng thiếu các axít béo cần thiết, đặc biệt là các axít béo cao
phân tử không no, mà hầu hết các sinh vật biển không có khả năng tự tổng hợp
(Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002).
         Trong ương nuôi ấu trùng cần bổ sung thức ăn chế biến, trong thức ăn chế biến
có bổ sung thêm nhiều loại vitamin chính, vì ấu trùng tôm càng xanh có nhu cầu lớn
(Nguyễn Việt Thắng, 1993).
11


       Nuôi tôm càng xanh thương phẩm sử dụng thức ăn tổng hợp dạng viên, có hàm
lượng protein từ 20-30% là phù hợp (Phạm Văn Tình, 2004).
2.2.   Công nghệ sản xuất tôm càng xanh toàn đực
       2.2.1. Phƣơng pháp chuyển đổi giới tính tôm càng xanh đực tạo tôm cái giả
       Xác định giới tính tôm càng xanh ở giai đoạn sớm: dưới kính hiển vi soi nổi độ
phóng đại 30 lần có thể xác định được giới tính post-lavae 30 60 ngày ( PL30-60 ) thông
qua lỗ mở sinh dục đực ở gốc chân bò 5 hay phần phụ đực ở chân bơi 2. Cố định tôm
để vi phẫu, cố định tôm bằng đất sét nặng đồ chơi, dùng tay nhẹ nhàng bắt từng con,
lật ngửa bụng lên trên, gắn đầu chủy, đuôi và các chân bơi bằng đất sét, tiến hành vi
phẫu loại bỏ tuyến đực dưới kính hiển vi soi nổi ở độ phóng đại 30 lần (Nguyễn Văn
Hảo và ctv, 2004).
       2.2.2. Kiểm tra chất lƣợng tôm sau khi vi phẫu loại bỏ tuyến đực
       Giai đoạn sớm: kiểm tra dưới kính hiển vi sôi nổi độ phóng đại 30 lần, 7 ngày
sau khi vi phẫu, tiến hành cắt bỏ một chân bơi 2 (có gai sinh dục phụ) và thả nuôi tiếp,
30 ngày sau vi phẫu, cắt lại một chân bơi 2 đã cắt trước đó và kiểm tra dưới kính hiển
vi soi nổi độ phóng đại 30 lần. Có hai trường hợp:
   Chân bơi thứ 2 mọc lại có gai sinh dục phụ A.M (Apendix masculina-AM), vi phẫu
không thành công được loại bỏ.
   Chân bơi thứ 2 mọc lại không có A.M: là tôm đã biệt hóa và chuyển đổi giới tính,
giữ lại các con tôm này (Nguyễn Văn Hảo và ctv, 2004).
       2.2.3. Kiểm tra nhiễm sắc thể giới tính của tôm mẹ thông qua thế hệ F1
       Khi tôm thành thục, sinh sản, nuôi tách riêng đàn con và tôm mẹ trong lồng có
gắn nhãn. Khi đạt cỡ PL25-30 thì tiến hành vi phẫu 250-300 con, số còn lại tiếp tục nuôi
đến PL70, thu ngẫu nhiên 500 con/quần đàn, kiểm tra tỉ lệ đực cái (ít nhất cũng phải 100
con). Nếu thế hệ là 100% tôm đực thì tôm mẹ là cái giả, giữ lại đàn con đã vi phẫu,
ngược lại loại bỏ (Nguyễn Văn Hảo và ctv, 2004).
12


2.3.     Hệ thống nuôi vỗ thành thục tôm bố mẹ
         2.3.1. Nuôi trong ao đất
         Diện tích ao từ 500 1000 m2, được cải tạo kỹ có cấp và thoát nước, độ sâu của
ao 2 m, độ sâu nước nuôi 1,5 m (Phạm Văn Tình, 2004; Nguyễn Thị Thanh Thủy,
2002).
         Chọn tôm khỏe mạnh, không thương tật, trọng lượng tôm đực trên 50 g/con, tôm
cái trên 25 g/con để có sức sinh sản thực tế khoảng 15.000 20.000 ấu trùng trên tôm
mẹ, mật độ nuôi 4 5 con/m2 và tỷ lệ đực cái 1:4 (Phạm Văn Tình, 2004; Nguyễn Thị
Thanh Thủy, 2002).
         Nước nuôi luôn trong sạch, oxy hòa tan luôn đạt trên 3,5 mg/l, pH từ 7 8,5.
Thay nước 2 3 ngày một lần, thay khoảng 15 20% thể tích nước nuôi (Nguyễn Thị
Thanh Thủy, 2002).
         Thức ăn sử dụng là thức ăn viên tổng hợp có hàm lượng đạm trên 25%. Lượng
thức ăn trong ngày 7% trọng lượng thân, ngày cho ăn 2 lần sáng và chiều tối, thức ăn
được rải đều khắp ao, có thể sử dụng thức ăn tươi sống như tôm cá vụn thay thế 1/3
thức ăn viên (Phạm Văn Tình, 2004; Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002).
         2.3.2. Nuôi trong bể xi măng
   Bể xi măng tròn hoặc vuông kích thước 3 5 m3, mật độ từ 10 15 con trên bể, tỷ lệ
đực cái là 1:4. Đáy có phủ một lớp mỏng khoảng 10 cm đất bùn cát và san hô để tạo
môi trường gần giống với môi trường tự nhiên của tôm, mỗi bể bỏ một vài ống nhựa
đường kính 15 20 cm, chiều dài 20 30 cm để làm chỗ ẩn nấp của tôm khi lột xác
(Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002).
         Nước dùng cho nuôi tôm bố mẹ không cần xử lý kỹ, thường dùng nước giếng
đào có độ mặn từ 0 8‰ lọc qua túi lọc, định kỳ thay nước hàng ngày hoặc hai ngày
một lần tùy theo mức độ ô nhiễm của nước (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002).
         Thức ăn hàng ngày cho tôm bố mẹ gồm tôm, mực, cá vụn, cho ăn hai lần trong
ngày vào buổi sáng và chiều tối (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002).
13


         2.3.3. Nuôi trong bể composite
   Bể composite có dung tích 3 m3, có tuần hòan, mật độ nuôi là 10 con trên bể, tỉ lệ
đực cái là 1:4, sử dụng thức ăn viên 40% protein và bổ sung thức ăn tươi hai ngày cho
ăn một lần như: mực ống, trùn chỉ, gan, ốc, nhộng tằm, thức ăn thừa và cặn loại bỏ
bằng cách xả đáy, định kỳ 2 tuần làm tổng vệ sinh một lần (Nguyễn Văn Hảo và ctv,
2004).
   Nguyên tắc hoạt động được miêu tả theo hình vẽ sau:

              Hệ thống cấp
              nước                    Hệ thống sục khí




                                                    Máy bơm 1
     Máy                             AO LẮNG
     nén
     khí                                            Máy bơm 2

                                                                   Cống




                                                                Sông Rạch Chiếc
     Nước vào             Nước ra          Van xả

              Hình 2.3. Hệ thống tuần hoàn trên bể composite
         2.3.4. Sơ lƣợc nuôi tôm cá tuần hoàn trên bể composite
         Hệ thống chảy tràn được thiết kế cho nuôi nuôi tôm hùm, bể 40 lít đáy cầu có
tuần hoàn, đã được biến đổi nuôi tôm Cancer irroratus, sử dụng lớp lưới 280 m đặt
dưới đáy của hệ thống chảy tràn, tốc độ chảy 2,5 3 l/phút trong suốt quá trình phát
triển từ giai đoạn zoeae 1 đến giai đoạn tiền megalopa, sau đó là 1 1,5 l/phút, tỷ lệ
14


sống đến giai đoạn megalopae là 69           (Mireille Charmantier-Daures và Guy
Charmantier, 2003).
      Ảnh hưởng diện tích mặt đáy và giá thể lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu
trùng (giai đoạn 2) của tôm Pacifastacus leniusculus. Thí nghiệm gồm ba loại đáy là
sỗi nhỏ, sỗi mịn và đáy không, có sử dụng giá thể. Quan sát thấy được sự tăng trưởng
nhanh về trọng lượng và chiều dài trên bể đáy sỗi và tỷ lệ sống của đáy sỗi từ 30,1
đến 49,8   cao hơn đáy không (R.Savolainen và ctv, 2003).
15



           Chƣơng 3: VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP
3.1.    Thời gian và đia điểm
        3.1.1. Thời gian
        Thời gian: từ 07/03/2005 đến 07/08/2005.
        3.1.2. Địa điểm
        Địa điểm thực hiện: tại Trại Thực Nghiệm Nuôi Thủy Sản Thủ Đức, Phòng sinh
học thực nghiệm,Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản II, số 658 Kha Vạn Cân
phường Linh Đông, quận Thủ Đức- thành phố Hồ Chí Minh.
3.2.    Vật liệu
        3.2.1. Đối tƣợng thí nghiệm
        Tôm càng xanh đực được vi phẫu loại bỏ tuyến đực, đã kiểm tra chất lượng. Ở
Trại Thực Nghiệm Nuôi Thủy Sản Thủ Đức, Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản
II.
        3.2.2. Hệ thống nuôi và nguồn nƣớc sử dụng
        Ao nuôi 1200 m2, 800 m2, ao lắng 840 m2, bể composite 3 m3, hệ thống sục khí,
hệ thống dẫn nước, hệ thống điện, vật dụng nền đáy (cát, san hô), giá thể (chà cây, ống,
dây).
        Nguồn nước sử dụng từ sông Rạch Chiếc, lấy nước vào ao lắng vào những ngày
triều cường.
16



               Hệ thống cấp nước      Hệ thống sục khí




                                                     Máy bơm 1
        Máy                           AO LẮNG
        nén
        khí                                          Máy bơm 2

                                                                      Cống




                                                                   Sông Rạch Chiếc
        Nước vào           Nước ra          Van xả


       Hình 3.4. Hệ thống tuần hoàn trên bể composite nuôi tôm càng xanh hậu bị
         3.2.3. Dụng cụ và hoá chất đo môi trƣờng
         Nhiệt kế, máy đo pH, đĩa secchi, pipet 10 ml, pipet chuẩn độ 25 ml, ống đong
250 ml, chai thủy tinh nút mài 250 ml…
         Hoá chất bao gồm hồ tinh bột, H2SO4 đậm đặc, NaOH, NaN3, KI, MnSO4.4H2O,
dung dịch Na2S2O3 0,1 N…
         Ngoài ra còn các dụng cụ không thể thiếu được như máy bơm chìm 400 w, máy
nén khí 500 w, xô, cân, lưới…
3.3.     Phƣơng pháp nghiên cứu và bố trí thí nghiệm
         3.3.1. Bố trí thí nghiệm
         Thí nghiệm được bố trí 3 nghiệm thức: bể composite đáy cát, bể composite đáy
san hô có lớp lưới, bể đáy không, mỗi nghiệm thức lập lại 4 lần.
         Nghiệm thức 1: bể có lót một lớp cát dày 10 cm ở đáy bể, giá thể là cây, ống,
dây.
17


         Nghiệm thức 2: bể có lót một lớp san hô ở đáy dày 10 cm và phủ một lớp lưới
bên trên, giá thể là cây, ống, dây.
         Nghiệm thức 3: bể không bố trí lót đáy, giá thể là cây, ống, dây.
         Tôm thả nuôi có trọng lượng trung bình trong bể 14 17 g, mật độ nuôi là 15 30
con trên bể.
         Lượng nước tuần hoàn giống nhau ở các bể thí nghiệm và dòng chảy là 7,5 lít
trên phút




                         10 cm


         Bể đáy cát               Bể đáy san hô               Bể đáy không

               Hình 3.5. Bố trí thí nghiệm của bể composite
         3.3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
         3.3.2.1. Đánh giá các biến động môi trƣờng trong các hệ thống tuần hoàn
         khác nhau nuôi tôm càng xanh hậu bị
         Đo pH bằng máy ( pHScan 2 Waterproof), mỗi ngày hai lần vào lúc 7 giờ sáng
và 2 giờ chiều.
         Đo nhiệt độ bằng nhiệt kế rượu, mỗi ngày hai lần vào lúc 7 giờ sáng và 2 giờ
chiều.
         Đo DO bằng phương pháp Winkler, mỗi ngày hai lần vào lúc 7 giờ sáng và 2
giờ chiều.
         Đo amonia bằng test kit (sera NH+4/NH3 Test Kit-Germany), đo vào buổi chiều
hai lần trong tuần.
         Đo nitrite bằng test kit (sera NO2 Test Kist- Germany), đo vào buổi chiều hai lần
trong tuần.
         Đo độ trong bằng đĩa secchi vào buổi sáng một lần trong ngày.
18


       Đo CaCO3 bằng phương pháp chuẩn độ bằng EDTA, chỉ đo ở nước của ao lắng.
       Đo H2S bằng phương pháp chuẩn độ, chỉ đo ở nước của ao lắng.
       3.3.2.2. Đánh giá các chỉ tiêu tăng trƣởng và tỷ lệ sống
       Trước thí nghiệm và sau mỗi ba tuần tôm được cân, đo chiều dài, đồng thời đếm
số lượng tôm.
       3.3.2.3. Đánh giá chỉ tiêu thành thục sinh dục
       Kiểm tra sự phát triển tuyến sinh dục của tôm, kích thước, màu sắc, đẻ trứng,
màu sắc trứng (giai đoạn thành thục sinh dục).
       3.3.2.4. Kỹ thuật chăm sóc và cho ăn
       Vệ sinh bể và các giá thể hai tuần một lần. Cho ăn hai lần trong ngày 6 giờ sáng
và 5 giờ chiều bằng thức ăn viên, thức ăn tươi như cá vụn, mực, nhộng tằm hai ngày
một lần.
       Thiết kế nước chảy tràn, bằng hệ thống nước cấp ở đáy, sát thành bể để tạo ra
dòng chảy làm sạch.
3.4.   Xử lý số liệu
       Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel, sử dụng trắc nghiệm t và trắc nghiệm
F.
19



             Chƣơng 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
       Chúng tôi thực hiện các thí nghiệm đánh giá hệ thống tuần hoàn nuôi tôm càng
xanh hậu bị bằng cách khảo sát các yếu tố môi trường trong các hệ thống nuôi sau đây:
- Khảo sát môi trường của ao lắng.
- Khảo sát môi trường trong từng bể nuôi của mỗi nghiệm thức thí nghiệm.
- Khảo sát môi trường từng nghiệm thức thí nghiệm.
4.1.   Ao lắng
       4.1.1. Nhiệt độ




   Đồ thị 4.1. Biến động nhiệt độ nƣớc ao lắng
       Trong suốt thời gian nuôi, nước được cấp vào ao lắng và từ đây nước được bơm
trực tiếp lên bể nuôi. Sự biến động nhiệt độ của ao lắng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe của tôm nuôi, biến động nhiệt độ buổi sáng từ 28 33oC và biến động nhiệt độ
buổi chiều từ 29 36oC. Hầu hết các ngày nhiệt độ buổi chiều biến động từ 33oC trở lên
(đồ thị 4.1), nhìn trên đồ thị ta thấy thời gian đầu nhiệt độ nước rất cao vì thí nghiệm
được tiến hành vào giữa mùa nắng.
       4.1.2. Độ pH




  Đồ thi 4.2. Biến động độ pH trong nƣớc ao lắng
20




       Trong suốt quá trình nuôi nước ao lắng có độ pH buổi sáng biến động từ (7 8,3)
và pH buổi chiều biến động từ (7,3 9,6) (đồ thị 4.2), trong thời gian đầu pH cao có
ngày pH đạt mức 9,6 vì thời gian bố trí thí nghiệm vào tháng 3 ở mùa nắng nên khí hậu
nóng và tảo ở ao lắng mau tàn và khi tảo tàn làm cho độ pH tăng.
       4.1.3. Một số yếu tố khác
         Bảng 4.1. Chỉ tiêu thủy hoá trong nƣớc ao lắng
               pH                 sáng (7 8,3) ; chiều (7,3 9,6)
            Nhiệt độ            sáng (28 33oC) ; chiều (29 36oC)
            NH4-N                          0,201 mg/l
            NO2-N                          0,128 mg/l
              H2 S                          0,01 mg/l
            CaCO3                          33,33 mg/l

       Các yếu tố môi trường trong ao lắng (nguồn cung cấp nước cho hệ thống nuôi)
có nhiệt độ và pH cao quá ngưỡng vào một số thời điểm. Những bất lợi này ảnh hưởng
đến sức khỏe, tăng trưởng và thành thục của tôm. Nguồn nước cho vào trong hệ thống
nuôi cần phải đạt các giới hạn về yêu cầu môi trường sống của tôm càng xanh. Trong
điều kiện Trại Thực Nghiệm Thủ Đức cần chọn thời điểm hợp lý khi lấy nước từ sông
Rạch Chiếc. Nước nuôi lấy vào ao lắng nhiều lần trong tháng, nên cần có hệ thống xử
lý, lắng lọc trước khi cho vào hệ thống tuần hoàn.
4.2.   Môi trƣờng của từng bể nuôi trong 3 nghiệm thức thí nghiệm
       Để đánh giá hệ thống tuần hoàn nuôi tôm càng xanh hậu bị, chúng tôi phân tích
và so sánh các chỉ tiêu môi trường giữa 3 nguồn nước đó là nước đầu vào, nước trong
bể và nước đầu ra ở 3 nghiệm thức: bể đáy cát, bể đáy san hô có lưới và bể đáy không.
       4.2.1. Yếu tố nhiệt độ và pH
       i) Nghiệm thức 1 (bể đáy cát B2, B3, C4)
       Nhiệt độ:
       Nhiệt độ buổi sáng và buổi chiều giữa nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra
của bể B2, B3, C4 là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhiệt độ trung
bình buổi sáng đo được trong bể B2, B3, C4 lần lượt là 29,84oC; 29,84oC; 29,82oC:
21


nhiệt độ này thích hợp cho tôm. Nhiệt độ trung bình buổi chiều là 31,38oC; 31,33oC;
31,35oC. Do đó ở cả 3 bể đều có nhiệt độ trung bình buổi chiều cao hơn ngưỡng thích
hợp của tôm, trong đó bể B2 có nhiệt độ cao hơn bể B3 và C4.
       Độ pH:
       Độ pH buổi sáng của nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra của bể B2, B3,
C4 là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH buổi chiều giữa (nước đầu
vào; nước đầu ra) của bể B2, B3 là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Riêng ở bể
B2 có pH (nước trong bể; nước đầu vào) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Độ pH trung bình buổi sáng đo được của B2, B3, C4 là 7,39; 7,34; 7,37 và pH trung
bình buổi chiều đo được trong bể B2, B3, C4 lần lượt là 7,82; 7,81; 8,03 đều nằm trong
khoảng thích hợp của tôm, theo M.B.New và S.Singholka (1985) pH thích hợp cho tôm
từ 7   8,5 (bảng 4.2, 4.3, 4.5, 4.6, 4.8, 4.9 phần phụ lục).
       ii) Nghiệm thức 2 (bể đáy san hô có lưới B5, B7, C3)
       Nhiệt độ:
       Nhiệt độ buổi sáng và buổi chiều giữa nước đầu vào, nước đầu ra, nước trong
bể ở B5, B7, C3 là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhiệt độ trung bình
buổi sáng đo được trong bể B5, B7, C3 là 29,85oC; 30,04oC; 29,84oC, nhiệt độ này
thích hợp cho tôm và nhiệt độ trung bình buổi chiều đo được trong bể B5, B7, C3 lần
lượt là 31,37oC; 31,62oC; 31,35oC. Như vậy nhiệt độ buổi chiều đều bị quá ngưỡng đối
với tôm, mặt dù trong bể B7 nhiệt độ cao hơn bể B5 và C3 phần nào cho thấy ảnh
hưởng đến sức khỏe của tôm, đồng thời làm giảm tỷ lệ sống và khả năng thành thục
của tôm.
       Độ pH:
       Độ pH buổi sáng của nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra của bể B5, B7,
C3 là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH buổi chiều (nước đầu vào;
nước đầu ra) của bể B5, C3 là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong đó pH
trung bình buổi sáng của bể B5, B7, C3 là 7,36; 7,37; 7,4 và pH trung bình buổi chiều
tương ứng là 7,85; 7,88; 8,0 đều thích hợp đôi với tôm (bảng 4.11, 4.12, 4.14, 4.15,
4.17, 4.18 phần phụ lục).
22


        iii) Nghiệm thức 3 (bể đáy không B9, B10, C2)
        Nhiệt độ:
        Nhiệt độ buổi sáng, chiều giữa nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra là khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhiệt độ trung bình buổi sáng trong bể B9,
B10, C2 lần lượt là 29,86oC; 29,77oC; 29,86oC nằm trong ngưỡng thích hợp và nhiệt độ
trung bình buổi chiều là 31,36oC; 31,29oC, 31,34oC.
        Trong đó bể B9 có nhiệt độ cao hơn bể B10 và C3 với nhiệt độ cao này phần
nào ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm.
        Độ pH:
        Độ pH buổi sáng, chiều giữa nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra là khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH trung bình buổi sáng trong bể B9,
B10, C2 lần lượt là 7,37; 7,34; 7,4 và pH trung bình buổi chiều là 7,85; 7,81;7,99 đều
thích hợp cho tôm (bảng 4.20, 4.21, 4.23, 4.24, 4.26, 4.27 phần phụ lục).
        4.2.2. Yếu tố nitrite và amonia
        i) Nghiệm thức 1 (bể đáy cát B2, B3,C4)
        Nitrite: qua các chỉ số nitrite đo được của từng bể trong nghiệm thức này ta
thấy:
        Ở bể B2 và C4: chỉ số nitrite giữa nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra là
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Bể B3 chỉ số nitrite so sánh cặp (nước
đầu vào; nước trong bể) và (nước đầu vào; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05). Sự khác biệt này giúp ta đánh giá hiệu quả của việc xử lý lượng nitrite
trong phần sau.
        Lượng nitrite trung bình đo được ở các bể B2, B3, C4 lần lượt là 0,15 mg/l; 0,17
mg/l; 0,16 mg/l. Qua xử lý, so sánh chỉ số nitrite của nước trong bể và nước đầu ra thì
lượng nitrite lưu lại trong bể B2, B3, C4 lần lượt là 0,02 mg/l; 0,03 mg/l và 0,02 mg/l.
Do đó hiệu quả xử lý lượng nitrite trong bể không thải được hoàn toàn ra ngoài, ở bể
B3 lượng nitrite lưu lại cao hơn bể B2, C4 và lượng nitrite trong bể B3 cao do đó nó
ảnh hưởng đến tôm.
23


       Amonia:
       Bể B2, B3: so sánh cặp chỉ số amonia (nước đầu vào; nước trong bể) và (nước
đầu vào; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05); bể C4: so sánh cặp ở
cả 3 nguồn nước đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
       Lượng amonia trung bình đo được trong bể B2, B3, C4 tương ứng là 0,35 mg/l;
0,37 mg/l và 0,34 mg/l, trong đó lưu lượng amonia trong bể B2, B3,C4 lần lượt là 0,05
mg/l; 0,03 mg/l và 0,04 mg/l. Do đó hiệu quả thải lượng amonia của nước trong bể ra
ngoài là không hoàn toàn , cụ thể là ở bể B2 chỉ số amonia lưu lại trong bể cao hơn bể
B3 và C4. Vì vậy sự ô nhiễm trong bể B2 cao sẽ gây bất lợi trực tiếp đến tôm (bảng
4.4, 4.6, 4.10 phần phụ lục).
       ii) Nghiệm thức 2 (bể đáy san hô có lưới B5, B7, C3)
       Nitrite :
       Bể B7, C3: so sánh cặp chỉ số nitrite của (nước đầu vào; nước đầu ra), (nước đầu
vào; nước trong bể) và (nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05). Riêng ở bể B5 chỉ số nitrite so sánh cặp (nước đầu vào; nước đầu
ra) và (nước đầu vào; nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
       Lượng nitrite trung bình đo được ở các bể B5, B7, C3 lần lượt là 0,16 mg/l; 0,15
mg/l; 0,16 mg/l, trong đó lượng nitrite lưu lại trong bể B5, B7, C3 lần lượt là 0,02 mg/l;
0,01 mg/l và 0,01mg/l. Vì vậy lương nitrite lưu lại ở các bể trong nghiệm thức này
không có sự khác biệt lớn do đó lượng nitrite thải ra ngoài hiệu quả hơn ở các bể đáy
cát.
       Amonia:
       Bể B7, C3 chỉ số amonia so sánh từ các cặp (nước đầu vào; nước đầu ra), (nước
đầu vào; nước trong bể) và (nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05). Riêng ở bể B5 chỉ số amonia so sánh cặp (nước đầu vào; nước đầu ra) và
(nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
       Lượng amonia trung bình trung đo được trong bể B5, B7,C3 tương ứng là 0,37
mg/l; 0,35 mg/l và 0,34 mg/l, trong đó lượng amonia lưu lại trong bể B5, B7, C3 lần
lượt là 0,05mg/l, 0,02mg/l và 0,03 mg/l. Do đó hiệu quả đưa lượng amonia ra ngoài ở
bể B5, B7, C3 là không hiệu quả là dò dòng chảy không đủ mạnh để đưa các chất cặn
24


và thức ăn thừa ra ngoài. Chính vì thế lượng amonia lưu lại trong bể B5 cao sẽ gây ảnh
hưởng đến sức khỏe của tôm và đồng thời gây chết tôm (bảng 4.13, 4.16, 4.19 phần
phụ lục).
        iii) Nghiệm thức 3 (bể đáy không B9, B10, C2)
        Nitrite:
        Ở bể B9, B10, C2: so sánh các cặp chỉ số nitrite của (nước đầu vào; nước trong
bể) và (nước đầu vào; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy
nhiên lượng nitrite trung bình đo được trong bể B9, B10, C2 tương ứng là 0,17 mg/l;
0,17 mg/l và 0,15 mg/l, trong khi đó lượng nitrite lưu lại trong bể B9, B10, C2 lần lượt
là 0,02 mg/l; 0,01 mg/l và 0,01 mg/l giống như lưu lượng nitrite trong bể cát. Cho nên
lượng ô nhiễm trong bể B9 cao hơn bể B10, C2 được thể hiện cụ thể qua chỉ số nitrite
trong bể và chỉ số nitrite lưu lại trong bể, do đó sẽ gây bất lợi cho tôm.
        Amonia:
        Bể B9, B10, C2: so sánh cặp chỉ số amonia của (nước đầu vào; nước trong bể)
và (nước đầu vào; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
        Lượng amonia trung bình đo được trong bể B9, B10, C2 tương ứng là 0,39 mg/l,
0,33 mg/l, 0,3 mg/l, qua so sánh chỉ số amonia giữa nước trong bể và nước đầu ra thì
lượng amonia lưu lại trong bể B9, B10, C2 lần lượt là 0,03mg/l, 0,03mg/l, 0,02mg/l.
Tuy nhiên ở bể B9 lượng amonia trong bể cao hơn lượng amonia trong các bể đáy cát
và đáy san hô, cho nên sự ô nhiễm trong bể này cao ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm.
Mặc dù lượng amonia lưu lại trong bể B9 so với các bể ở đáy cát và đáy san hô là thấp
hơn, do đó phần nào làm giảm bớt ảnh hưởng đến tôm (bảng 4.22, 4.25,4.28 phần phụ
lục).
4.3.    Các yếu tố khác
        Chỉ số DO và độ trong được phân tích ở phần 4.4 của từng nghiệm thức thí
nghiệm.
25


4.4.     Môi trƣờng của từng nghiệm thức thí nghiệm
         4.4.1. Yếu tố nhiệt độ và pH
         i) Nghiệm thức 1 (bể đáy cát)
         Dưới đây là bảng số liệu rút gọn được xử lý từ các số liệu ghi nhận hàng ngày
trong suốt quá trình làm thí nghiệm từ 3 nguồn nước của bể nuôi.
       Bảng 4.29. Bể đáy cát: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung bình
      buổi sáng (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi sáng (dƣới đƣờng chéo)
                        Nước đầu vào (1)       Nước đầu ra (2)   Nước trong bể (3)
                                                   0,0012              0,0019
                                                     (1)
      Nước đầu vào (1)                        (30,61     1,043;  (30,61(1) 1,043;
                                              29,74(2) 1,146)     29,79(3) 1,92)
                             0,7154                                    0,1402
                              (1)
       Nước đầu ra (2) (7,32       0,084;                        (29,74(2) 1,146;
                         7,30(2) 0,045)                            29,79(3) 1,92)
                             0,2900                0,0240
                              (1)
      Nước trong bể (3) (7,32      0,084;      (7,30(2) 0,045;
                        7,36(3) 0,063)         7,36(3) 0,063)
  Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể.

         Với số liệu từ bảng 4.29 ở mục nhiệt độ buổi sáng chúng tôi ghi nhận được:
         Nhiệt độ trung bình của hệ thống bể cát giữa (nước đầu vào; nước đầu ra) có p
= 0,0012 và (nước đầu vào; nước trong bể) có p = 0,0019 điều cho sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê vì (p < 0,05).
         Nhìn chung vào buổi sáng nhiệt độ của 3 nguồn nước có sự chênh lệch, tuy
nhiên nhiệt độ trung bình trong hệ thống bể cát là 29,79oC với nhiệt độ này nằm trong
ngưỡng thích hợp của tôm. Trong khi đó nhiệt độ trung bình đầu ra là 29,74oC thấp hơn
nhiệt độ trong bể là do nước đầu ra ở đáy bể.
         Cũng từ bảng 4.29 ở mục pH buổi sáng chúng tôi ghi nhận được:
         Độ pH trung bình của nước (nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa
thống kê (P < 0,05). Tuy nhiên độ pH trung bình trong bể 7,36, với pH này thích hợp
cho tôm. Độ pH nước đầu vào 7,3 đây là pH của nước ao lắng được bơm trực tiếp lên
bể.
26


         Tương tự như trên chúng tôi cũng ghi nhận được nhiệt độ và pH vào buổi chiều.
        Bảng 4.30. Bể đáy cát: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung
        bình buổi chiều (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi chiều (dƣới
                                     đƣờng chéo).
                Nước đầu vào (1)              Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3)
                                                  0,00002            0,0011
                                                     (1)
       Nước đầu vào (1)                      (32,18      1,287; (32,18(1) 1,287;
                                              31,25(2) 1,302) 31,35(3) 1,395)
                               0,0925                                0,2216
                                (1)
        Nước đầu ra (2) (7,94       0,326;                      (31,35(3) 1,395;
                           7,76(2) 0,195)                       31,25(2) 1,302)
                               0,4236              0,0046
                                (1)
       Nước trong bể (3) (7,94      0,326;    (7,88(3) 0,207;
                           7,88(3) 0,207)      7,76(2) 0,195)
       Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể

         Theo bảng 4.30 số liệu chúng tôi ghi nhận ở phần mục nhiệt độ buổi chiều như
sau:
         Nhiệt độ trung bình của (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước
trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong khi đó nhiệt độ trung bình
của nước trong bể là 31,35oC với nhiệt độ này cao hơn ngưỡng nhiệt độ thích hợp của
tôm, theo M.B.New (2002) tôm thành thục được nuôi trong bể ở nhiệt độ tốt nhất từ
27 31oC nhưng theo Su-Mei Chen và Jiann-Chu Chen (2002) nhiệt độ tốt nhất cho
sinh trưởng của tôm từ 29 31oC.
         Cũng từ bảng 4.30 trên ở mục pH buổi chiều chúng tôi ghi nhận được như sau:
         Độ pH nước trung bình buổi chiều giữa (nước trong bể; nước đầu ra) là khác
biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Độ pH nước trung bình buổi chiều trong bể 7,88,
độ pH này nằm trong ngưỡng thích hợp cho tôm, theo một số tác giả như M.B.New và
S.Singholka (1985); M.B.New (2002) pH thích hợp cho tôm từ 7 8,5.
         Độ pH trung bình nước đầu ra buổi sáng và buổi chiều thấp hơn so với pH trung
bình của nước trong bể là do sự phân hủy thức ăn thừa và chất cặn ở đáy bể.
27


       ii) Nghiệm thức 2 (bể đáy san hô có lớp lưới)
       Cũng tương tự như ở bể đáy cát chúng tôi cũng ghi nhận số liệu hàng ngày và
được xử lý thu gọn ở bảng dưới đây:
    Bảng 4.31. Bể đáy san hô: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung
      bình buổi sáng (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi sáng (dƣới
                                  đƣờng chéo)
                      Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3)
                                                0,0008            0,0031
                                                  (1)
    Nước đầu vào (1)                      (30,62      1,050; (30,62(1) 1,050;
                                          29,76(2) 1,151) 29,83(3) 1,208)
                           0,7542                                 0,1817
                            (1)
    Nước đầu ra (2)    (7,32    0,089;                       (29,83(3) 1,208;
                       7,33(2) 0,055)                        29,76(2) 1,151)
                           0,0997               0,1767
                            (1)
    Nước trong bể (3) (7,32     0,089;     (7,37(3) 0,055;
                       7,37(3 ) 0,055)      7,33(2) 0,055)
    Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể.

       Theo bảng 4.31ở mục nhiệt độ buổi sáng chúng tôi đã ghi nhận được như sau:
       Nhiệt độ trung bình buổi sáng (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào;
nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên nhiệt độ trung
bình buổi sáng trong bể 29,83oC nằm trong ngưỡng thích hợp cho tôm.
       Theo bảng 4.31 ở mục pH buổi sáng chúng tôi cũng ghi nhận được:
       Độ pH trung bình của nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra là khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH trung bình trong bể 7,37 nằm trong
ngưỡng thích hợp cho tôm tăng trưởng.
       Tương tự như trên chúng tôi cũng ghi nhận được nhiệt độ và pH buổi chiều.
28


          Bảng 4.32. Bể đáy san hô: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ
        trung bình buổi chiều (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi chiều
                                   (dƣới đƣờng chéo)
                         Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3)
                                                  0,00003            0,0027
                                                     (1)
       Nước đầu vào (1)                      (32,17      1,293; (32,17(1) 1,293;
                                              31,26(2) 1,321) 31,37(3) 1,423)
                              0,0805                                 0,1977
                               (1)
        Nước đầu ra (2) (7,95       0,322;                      (31,37(3) 1,423;
                          7,74(2) 0,195)                         31,26(2) 1,321)
                              0,2690               0,0182
                               (1)
       Nước trong bể (3) (7,95      0,322;    (7,88(3) 0,239;
                          7,88(3) 0,239)       7,74(2) 0,195)
       Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể.

        Theo bảng 4.32 ở mục nhiệt độ buổi chiều chúng tôi ghi nhận như sau:
         Nhiệt độ trung bình giữa (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước
trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Nhiệt đô trung bình trong bể
31,37oC cao hơn ngưỡng thích hợp của tôm. Đối chiếu chỉ tiêu nhiệt độ ở nghiệm thức
này với hai nghiệm thức còn lại thì có thể thấy nghiệm thức san hô có lượng nhiệt cao
hơn.
        Theo bảng 4.32 ở mục pH buổi chiều chúng tôi ghi nhận được:
        Độ pH trung bình của nước trong bể và nước đầu ra là khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05). Trong khi đó độ pH trung bình của nước trong bể 7,88 nằm trong
ngưỡng của tôm.
        iii) Nghiệm thức 3 (bể đáy không)
        Tương tự như trên đây là bảng số liệu đã được xử lý từ số liệu ghi nhận hàng
ngày trong hệ thống bể đáy không trong suốt quá trình thí nghiệm.
29


       Bảng 4.33. Bể đáy không: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung
        bình buổi sáng (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi sáng (dƣới
                                     đƣờng chéo)
                         Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3)
                                                 0,0008            0,0019
                                                   (1)
       Nước đầu vào (1)                     (30,61     1,054; (30,61(1) 1,054;
                                            29,73(2) 1,140) 29,79(3) 1,186)
                              0,6714                               0,1942
                               (1)
       Nước đầu ra (2)   (7,31     0,089;                     (29,79(3) 1,186;
                          7,30(2) 0,063)                      29,73(2) 1,140)
                              0,1041             0,0222
                               (1)
       Nước trong bể (3) (7,31     0,089; (7,36(3) 0,077;
                          7,36(3) 0,077)     7,30(2) 0,063)
       Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể.

         Theo bảng 4.33 ở mục nhiệt độ buổi sáng chúng tôi đã ghi nhận được:
         Nhiệt độ trung bình của (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước
trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên nhiệt độ trung bình của
nước trong bể 29,79oC nằm trong ngưỡng thích hợp của tôm.
         Từ bảng 4.33 ở phần pH buổi sáng được thể hiện cụ thể như sau:
         Độ pH nước trung bình của nước trong bể và nước đầu ra là khác biệt có ý
nghĩa thống kê (p < 0,05). Độ pH nước trung bình trong bể 7,36 nằm trong ngưỡng của
tôm.
         Tương tự như trên số liệu về nhiệt và pH buổi chiều được ghi nhận dưới bảng
sau:
       Bảng 4.34. Bể đáy không: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung
        bình buổi chiều (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi chiều (dƣới
                                     đƣờng chéo)
                         Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3)
                                                 0,0001             0,0005
                                                   (1)
       Nước đầu vào (1)                     (32,19     1,315; (32,19(1) 1,315;
                                            31,24(2) 1,303) 31,34(3) 1,387)
                              0,0255                               0,21512
                               (1)
       Nước đầu ra (2)    (7,94    0,327;                      (31,34(3) 1,387;
                          7,75(2) 0,212)                       31,24(2) 1,303)
                              0,2799             0,0071
                               (1)
       Nước trong bể (3) (7,94     0,327; (7,88(3) 0,232;
                          7,88(3) 0,232)     7,75(2) 0,212)
30


    Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể.

       Kết quả thể hiện ở bảng 4.34 ở mục nhiệt độ buổi chiều như sau:
       Nhiệt độ trung bình giữa (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước
trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên nhiệt độ trung bình
của nước trong bể 31,34oC cao hơn nhiệt độ thích hợp của tôm.
       Theo bảng 4.34 thì độ pH nước trung bình (nước đầu vào; nước đầu ra) và
(nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Độ pH nước
trung bình trong bể 7,88 nằm trong ngưỡng thích hợp đối với tôm.
       4.4.2 Số ngày có nhiệt độ, pH quá ngƣỡng trong các nghiệm thức
    Bảng 4.35. Giá trị p của trắc nghiệm t giữa số ngày trung bình có pH quá
     ngƣỡng (trên đƣờng chéo) và số ngày trung bình có nhiệt độ quá ngƣỡng
                                           (dƣới đƣờng chéo)
                               Bể đáy cát (1)           Bể đáy san hô (2) Bể đáy không (3)
   Bể đáy cát (1)                                              0,7277                     0,5728
                                                                (1)        (2)
                                                         (2,09 ; 2,13 )             (2,09(1) ; 2,50(3))
     Bể đáy san hô (2)              0,2532                                                0,6096
                                     (1)         (2)
                              (5,00 ; 5,33 )                                        (2,50(3) ; 2,13(2))
   Bể đáy không (3)                      1                     0,2532
                                     (1)         (3)
                              (5,00 ; 5,00 )             (5,33(2) ; 5,00(3))
 Ghi chú: (1) Số ngày trung bình bể cát, (2) số ngày trung bình bể san hô, (3) số ngày trung bình bể đáy không

       Trong quá trình thí nghiệm nhiệt độ có ngày đạt mức 36 oC cho nên phần nào
cũng ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm. Nhưng theo M.B.New và W.C.Valenti (2000)
tôm trưởng thành có khả năng chịu được nhiệt độ rộng từ 18 34oC.
       Số ngày trung bình quá ngưỡng nhiệt độ và pH của hệ thống bể cát, bể san hô có
lớp lưới, bể đáy không là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
       Trong hệ thống bể cát và không lót đáy có số ngày trung bìnnh nhiệt độ quá
ngưỡng là 5 ngày, trong hệ thống bể san hô có lớp lưới số ngày trung bình 5,33 ngày
cao hơn bể không lót đáy và bể cát, do đó số lần sốc nhiệt của tôm trong hệ thống bể
san hô có lớp lưới cao cho nên tôm thường bị stress và ảnh hưởng đến sức khỏe của
tôm.
       Tuy nhiên nhiệt độ trong hai buổi sáng và chiều thì thấy rằng loại đáy bố trí ở
trong bể không gây ảnh hưởng nhiều đến nhiệt độ trong bể. Lý do đây là hệ thống tuần
31


hoàn, nước ra vào liên tục, nhiệt độ trong bể phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ của ao
lắng.
         Ngoài ra còn do hệ thống ống dẫn nước đầu vào quá nhỏ, bị đốt nóng thành ống
khi trời nắng làm cho nhiệt độ nước trong ống tăng khi được cấp vào bể nuôi.
         Độ pH quá ngưỡng biến động từ 8,6 9,4, với pH cao sẽ gây bất lợi cho tôm, khi
pH tăng thì làm cho lượng amonia tăng có thể gây độc cho tôm.
         4.4.3 Lƣợng oxy hòa tan (DO) trong các nghiệm thức
          Bảng 4.36. Gía trị p của trắc nghiệm t DO trung bình buổi chiều (trên
               đƣờng chéo) và DO trung bình buổi sáng (dƣới đƣờng chéo)
                             Bể đáy cát (1)  Bể đáy san hô (2) Bể đáy không (3)
                                                  0,0021            0,5714
                                                    (1)
          Bể đáy cát (1)                      (5,29 ± 0,274;    (5,29(1) ± 0,274;
                                                   (2)
                                              5,17 ± 0,219)     5,27(3) ± 0,210)
                                0,1354                              0,0004
         Bể đáy san hô (2) (4,75(1) ± 0,351;                    (5,27(3) ± 0,210;
                            4,70(2) ± 0,373)                    5,17(2) ± 0,219)
                                0,1115            0,0052
                                 (1)
         Bể đáy không (3) (4,75 ± 0,351;      (4,81(3) ± 0,361;
                            4,81(3) ± 0,361)  4,70(2) ± 0,373)
    Ghi chú: (1) DO trung bình bể đáy cát, (2) DO trung bình bể đáy san hô, (3) DO trung bình bể đáy không.

         Nhìn chung lượng DO trung bình sáng và chiều trong hệ thống bể cát từ
4,75 5,29 mg/l, trong hệ thống bể san hô từ 4,7 5,17 mg/l, trong hệ thống bể không lót
đáy từ 4,81 5,27 mg/l thích hợp cho tôm, theo M.B.New và W.C.Valenti (2000) DO
thích hợp cho tôm từ 3 7 mg/l.
         Hàm lượng DO trong hệ thống bể cát và bể san hô, bể san hô và bể không lót
đáy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên lượng DO cao thích hợp
cho nhu cầu oxy của tôm không ảnh hưởng lớn đối với sự sinh trưởng của tôm.
         4.4.4 Độ trong của các nghiệm thức thí nghiệm
        Bảng 4.37. Gía trị p của trắc nghiệm t so sánh độ trong của bể đáy
                         cát, bể đáy san hô, bể đáy không
                             Bể đáy san hô (2)        Bể đáy không (3)
                                          -13
                                  8,05.10                  0,000663
                                     (1)
         Bể đáy cát (1)       (24,77 ± 2,979;          (24,77(1) ± 2,979;
                                    (2)
                              28,12 ± 3,542)           25,97(3) ± 3,696)
        Bể đáy san hô (2)                                               4,74.10-8
32


                                                                      (28,12(2) ± 3,542;
                                                                      25,97(3) ± 3,696)
     Ghi chú: (1) độ trong trung bình bể đáy cát, (2) độ trong trung bình bể đáy san hô, (3) độ trong trung bình
bể đáy không.

        Độ trong trung bình trong hệ thống bể cát, san hô, bể không lót đáy có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Độ trong trung bình của hệ thống bể cát 24,8 cm,
bể san hô có lưới 28,9 cm, bể không lót đáy 26,24 cm. Nhận thấy độ trong ở bể cát thấp
nhất trong 3 nghiệm thức đáy bể, chúng tôi có nhận định sơ bộ như sau:
        Có thể do lượng cát quá ít không đủ để lắng đọng hay giử lại những chất cặn
hữu cơ lơ lửng.
        Có thể là do các chất bùn cặn lơ lửng trong ao lắng được bơm liên tục lên bể qua
lượng nước đầu vào.
        Độ sâu của nước trong bể thấp và bể thí nghiệm tương đối nhỏ.
        Đây là hệ thống tuần hoàn nên nước trong bể bị xáo trộn liên tục.
        Trong hệ thống bể san hô có độ trong cao vì nền đáy san hô có khả năng lắng
các chất bùn cặn và các chất thải dưới khe hở của lớp san hô dưới lớp lưới.
        Độ trong trong 3 nghiệm thức thí nghiệm khác nhau, tuy nhiên không ảnh
hưởng lớn đến hoạt động bắt mồi của tôm.
        4.4.5 Khảo sát lƣợng amonia và nitrite trong các nghiệm thức
        Với việc đánh giá hiệu quả của 3 nền đáy trong cùng môt hệ thống tuần hoàn thì
chúng tôi chú trọng đến chỉ tiêu nitrite và amonia do chúng ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khỏe, tỷ lệ sống và thành thục sinh dục của tôm.
        Do đó việc ghi nhận số liệu và theo dõi được xử lý hàng ngày để kịp thời hạn
chế những nguy cơ gây hại cho tôm có thể xảy ra. Dưới đây là các bảng kết quả đã
được xử lý thu gọn theo thứ tự: bể đáy cát, bể đáy san hô có lưới và bể đáy không.

      Bảng 4.38. Bể đáy cát: giá trị p của trắc nghiệm t giữa NO2-N trung bình
            (trên đƣờng chéo) và NH4-N trung bình (dƣới đƣờng chéo)
                         Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3)
                                                  0,000352          1,49.10-7
     Nước đầu vào (1)                         (0,11(1) 0,026;   (0,11(1) 0,026;
                                               0,14(2) 0,026)   0,16(3) 0,030)
33


                                      0,0288                                              4,7.10-6
    Nước đầu ra (2)              (0,22(1) 0,045;                                      (0,16(3) 0,030;
                                 0,31(2) 0,063)                                       0,14(2) 0,026)
                                      0,0244                    0,0977
    Nước trong bể (3)            (0,22(1) 0,045;            (0,34(3) 0,089;
                                  0,34(3) 0,089)            0,31(2) 0,063)
 Ghi chú: ( 1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể .

    Bảng 4.39. Bể đáy san hô: giá trị p của trắc nghiệm t giữa NO2-N trung bình
            (trên đƣờng chéo) và NH4-N trung bình (dƣới đƣờng chéo)
                   Nước đầu vào (1)      Nước đầu ra (2)     Nước trong bể (3)
                                             8,71.10-5             1,75.10-7
   Nước đầu vào
                                         (0,11(1) ± 0,032;     (0,11(1) 0,032;
   (1)
                                         0,15(2) ± 0,035)      0,16(3) 0,035)
                        0,0047                                      0,0005
                         (1)
   Nước đầu ra (2) (0,22     0,037;                            (0,16(3) 0,035;
                    0,35(2) 0,017)                              0,15(2) 0,035)

   Nước trong bể     0,0059                                0,5887
   (3)           (0,22(1) 0,037;                       (0,37(3) 0,064;
                 0,37(3) 0,064)                        0,35(2) 0,017)
 Ghi chú: ( 1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể.

   Bảng 4.40. Bể đáy không: giá trị p của trắc nghiệm t giữa NO2-N trung bình
           (trên đƣờng chéo) và NH4-N trung bình (dƣới đƣờng chéo)
                     Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2)       Nước trong bể (3)
                                                    -5
                                             5,33.10             8,51.10-7
   Nước đầu vào (1)                      (0,11(1) 0,026;     (0,11(1) 0,026;
                                         0,15(2) 0,033)      0,16(3) 0,036)
                          0,0095                                 2,53.10-5
   Nước đầu ra (2)   (0,21(1) 0,046;                         (0,16(3) 0,036;
                      0,31(2) 0,064)                         0,15(2) 0,033)
                          0,0115              0,1413
                           (1)
   Nước trong bể (3) (0,21     0,046;    (0,33(3) 0,070;
                      0,33(3) 0,070)     0,31(2) 0,064)
  Ghi chú: ( 1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể .
       Theo số liệu từ 3 bảng 4.38, 4.39, 4.40 ở mục hàm lượng nitrite chúng tôi ghi
nhận được:
       Chỉ tiêu nitrite:
       Lượng nitrite trung bình của (nước đầu vào; nước đầu ra), (nước đầu vào; nước
trong bể) và (nước trong bể, nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
34


         Hiệu quả xử lý chất thải hữu cơ lơ lửng trong nước được đánh giá thông qua khả
năng thải amonia, nitrite...trong bể ra ngoài, nghĩa là lượng nitrite nguồn nước trong bể
và nước đầu ra có chỉ số đo là như nhau. Qua số liệu xử lý thống kê, chỉ số nitrite trung
bình của nước trong bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không đều là 0,16 mg/l. Tuy
nhiên với lượng nitrite này thì cao hơn ngưỡng thích hợp của tôm, theo M.B.New và
W.C.Valenti (2000) lượng nitrite phải dưới 0,1 mg/l. Trong khi đó lượng nitrite nước
đầu ra của bể đáy san hô và bể đáy không đều 0,15 mg/l. Riêng bể đáy cát là 0,14 mg/l
thấp hơn bể đáy cát và bể đáy không. Vì vậy, qua số liệu xử lý lượng lưu lại ở bể đáy
san đáy cát, bể đáy không và bể đáy san hô lần lượt là 0,02 mg/l; 0,01 mg/l; 0,01 mg/l.
Chỉ số nitrite lưu lại trong bể đáy cát gấp 2 lần (0,02/0,01) bể đáy san hô và đáy
không.
         Dựa vào kết quả dư lượng nitrite còn lại ở nguồn nước trong bể, ta có thể thấy
phần nào hệ thống bể đáy san hô và bể đáy không là có hiệu quả hơn, mặc dù hiệu quả
là không cao.
         Chỉ tiêu amonia:
         Kết quả số liệu ở 3 bảng 4.38, 4.39 và 4.40 về lượng amonia từ 3 nghiệm thức
(bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không) chúng tôi có kết luận sau:
         Lượng amonia trung bình của (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào;
nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tuy nhiên lượng amonia
trung bình trong bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không lần lượt là 0,34 mg/l; 0,37
mg/l và 0,33 mg/l, cả 3 chỉ số amonia này đều cao hơn ngưỡng thích hợp của tôm, theo
New (1990) lượng amonia thấp hơn 0,1 mg/l. Tuy nhiên cả 3 chỉ số amonia này là
amonia tổng số, gây độc cho tôm khi pH tăng, theo M.B.New và W.C.Valenti (2000)
khi pH 8,5 9,0 thì amonia tổng số cao hơn 1 mg/l. Điều này cũng tạo ra những kết quả
không mong muốn từ quá trình thử nghiệm 3 nghiệm thức. Trong quá trình nuôi tác
động của hệ đáy lọc không đủ xử lý, làm giảm lượng amonia nên chúng tôi cố gắng
hạn chế một số ảnh hưởng gây độc trực tiếp đến tôm của amonia bằng kiểm soát pH,
nước vào và ra phải liên tục...Cũng tương tự như so sánh chỉ số dư lượng amonia lưu
lại trong bể ở hệ thống bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không tương ứng là 0,03 mg/l;
0,02 mg/l và 0,02 mg/l thì có thể nhìn nhận sơ bộ là khả năng xử lý amonia ở bể đáy
35


cát thấp nhất. Mặc dù vậy nhưng chỉ số amonia trung bình trong nghiệm thức bể đáy
cát và đáy không là thấp hơn so với bể đáy san hô, nghĩa là lượng ô nhiễm trong 2
nghiệm thức (bể đáy cát và đáy không) thấp hơn lượng ô nhiễm trong nghiệm thức đáy
san hô và đó có thể là lý do chính dẫn đến tỷ lệ sống và thành thục trong bể san hô là
thấp nhất.
        Tuy nhiên trong quá trình thí nghiệm, các chỉ số đo lượng nitrite và amonia từ
nguồn nước đầu vào (ao lắng) thường lớn hơn ngưỡng cho phép, có thể là nguồn nước
bị ô nhiễm từ sông, đây là một trong những hạn chế của đề tài. Do điều kiện không cho
phép nên chúng tôi không xử lý nước ao lắng trước khi cho chạy vào hệ thống tuần
hoàn nên số liệu đo lường các chỉ số nitrite cũng như amonia ngay từ ban đầu là đã khá
cao so với cho phép. Chúng tôi nhận định vấn đề này và hy vọng sẽ có những phương
pháp xử lý hay bố trí lại cho phù hợp với yêu cầu nghiên cứu hơn.
        4.4.6 Số ngày có hàm lƣợng amonia và nitrite quá ngƣỡng
     Bảng 4.4.1. Giá trị p của trắc nghiệm t giữa số ngày trung bình có NO2-N
         quá ngƣỡng trên (đƣờng chéo) và số ngày trung bình có NH4-N quá
                                     ngƣỡng (dƣới đƣờng chéo)
                               Bể đáy cát (1)           Bể đáy san hô (2) Bể đáy không (3)
     Bể đáy cát (1)                                            0,7952                     0,5892
                                                         (6,84(1) ; 6,34(2))        (6,84(1) ; 5,83(3))
                                    0,1346                                                0,2010
     Bể đáy san hô (2)               (1)         (2)
                              (2,92 ; 2,17 )                                        (6,34(2) ; 5,83(3))
    Bể đáy không (3)                0,6376                     0,4744
                              (2,92 ; 2,67 ) (2,17(2) ; 2,67(3))
                                     (1)         (3)

  Ghi chú:(1) Số ngày trung bình bể cát, (2) số ngày trung bình bể san hô, (3) số ngày trung bình bể đáy không.

        Số ngày trung bình có hàm lượng nitrite và amonia quá ngưỡng trong hệ thống
bể đáy cát, bể đáy san hô có lưới và bể đáy không là khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05).
        Chất nitrite và amonia là chất độc khi hàm lượng cao hơn ngưỡng thích hợp của
tôm, trong quá trình nuôi hàm lượng nitrite có ngày đạt 0,2 mg/l, mức cho phép là dưới
0,1 mg/l với hàm lượng nitrite cao làm cho tôm bị chết, trong hệ thống bể đáy cát trung
bình có 6,84 ngày lượng nitrite đạt mức 0,2 mg/l, bể san đáy hô có lưới là 6,34 ngày,
bể không lót đáy là 5,83 ngày.
36


       Hàm lượng amonia cao trong bể có ngày đạt từ 0,5 mg/l trở lên, với hàm lượng
này có thể gây độc cho tôm theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2003) và Nguyễn Việt
Thắng (1995) hàm lượng amonia dưới 0,1 mg/l, trong hệ thống bể đáy cát có số ngày
trung bình có hàm lượng amonia cao là 2,92 ngày, bể đáy san hô có lưới là 2,17 ngày
và bể đáy không 2,67 ngày.


      4.4.7 Đánh giá tỷ lệ sống và tăng trƣởng của tôm trong các nghiệm thức
    4.5.1.     Tỷ lệ sống

      Bảng 4.42. Gía trị p của trắc nghiệm t về tỷ lệ sống trung bình ( trên
            đƣờng chéo) và tăng trọng trung bình ( dƣới đƣờng chéo)
                         Bể đáy cát (1) Bể đáy san hô (2) Bể đáy không (3)
                                              0,0503              0,0836
                                               (1)
    Bể đáy cát (1)                       (0,94 ± 0,055;       (0,94(1) ± 0,055;
                                          0,83(2) ± 0,182)    0,89(3) ± 0,110)
                            0,7726                                0,3536
                             (1)
    Bể đáy san hô (2) (0,15 ± 0,095;                          (0,83(2) ± 0,182;
                            (2)
                        0,14 ± 0,063)                         0,89(3) ± 0,110)
                            0,3979            0,3902
    Bể đáy không (3)   (0,15 ± 0,095; (0,14(2) ± 0,063;
                             (1)

                        0,11(3) ± 0,063) 0,11(3) ± 0,063)
    Ghi chú: (1) trung bình bể đáy cát, (2) trung bình bể đáy san hô, (3) trung bình bể đáy không.

      Kết quả số liệu trong bảng 4.42 ở mục tỷ lệ sống chúng tôi ghi nhận được:
      Số liệu so sánh tỷ lệ sống của (bể đáy cát; bể đáy san hô) và (bể đáy san hô; bể
đáy không) là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Trên thực tế chúng tôi
ghi nhận tỷ lệ sống của hệ thống bể đáy cát đạt 94 , bể đáy san hô 83 , bể đáy không
89 . Ở bể đáy san hô có tỷ lệ sống thấp là vì bị ô nhiễm dưới lớp lưới, các chất cặn,
thức ăn thừa lắng đọng dưới lớp lưới phân hủy tạo chất độc đối với tôm, làm cho tôm
bị chết, được thể hiện cụ thể qua chỉ số amonia cao trong bể và việc xử lý nitrite ra
ngoài không hoàn toàn của bể đáy san hô và đồng thời lượng nitrite lưu lại trong bể
cao. Ngoài ra lớp lưới ở bể đáy san hô lâu ngày bị đóng rong làm tắt nghẽn lỗ thoát
dòng chảy không đưa được chất cặn ra ngoài do đó nó ảnh hưởng đến tỷ lệ sống.
37


    4.5.2.     Tăng trƣởng
       Bảng 4.43. Trọng lƣợng ban đầu của tôm
            Số bể          Bể đáy cát   Bể đáy san hô            Bể đáy không

                 1                  6,65          6,45               5,65

                 2                   14          19,85               17,8

                 3                  21,38        24,63              25,47

             Trung bình             14,01        16,98              16,31

       Trọng lượng ban đầu trong hệ thống bể đáy cát, bể đáy san hô có lưới, bể đáy
không là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tỷ lệ tăng trọng được thực
hiện dựa vào việc cân đo trọng lượng tôm thí nghiệm định kỳ 29-33 ngày trên lần bằng
cân điện tử. Quan sát thấy tôm có màu sắc sáng, trong, không có hiện tượng đen thân
và đóng rong, do dòng chảy dược thiết kế gần mặt đáy với vận tốc dòng chảy là 7,5 lít
trên phút.
       Theo số liệu từ bảng 4.42 phân tích ở mục trọng lượng chúng tôi ghi nhận được:
       So sánh sự tăng trưởng trung bình trong bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không
là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tuy nhiên khả năng tăng trọng trung
bình trong bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không lần lượt là 0,15 g/ngày; 0,14 g/ngày;
0,11 g/ngày. Như vậy sự tăng trọng của nghiệm thức đáy cát là cao nhất, do trọng
lượng ban đầu của nhóm tôm khảo sát là tôm nhỏ, tôm trong giai đoạn trưởng thành,
cho tỷ lệ tăng trọng là cao nhất.
    4.5.3.     Số lƣợng tôm thành thục trong các nghiệm thức




       Biểu đồ 4.1. Số con thành thục sinh dục
38


      Kết quả thể hiện ở đồ thị 4.1, qua các đợt thí nghiệm khả năng thành thục của
tôm trong hệ thống bể cát cao hơn hệ thống bể đáy không và bể đáy san hô. Tuy nhiên
trong hệ thống bể san hô có lưới khả năng thành thục của tôm là thấp nhất trung bình là
2,25 con trên đợt và trong hệ thống cát là 16,25 con trên đợt và hệ thống bể không lót
đáy là 6,75 con trên đợt. Khả năng thành thục của tôm tăng qua các đợt thí nghiệm: đợt
1 số tôm thành thục ít là do thí nghiệm mới được bố trí, tôm còn nhỏ, chưa trưởng
thành, nên tỷ lệ thành thục thấp, đợt thí nghiệm thứ 3 số con thành thục ở bể đáy san hô
không có, nguyên nhân là do ô nhiễm môi trường nước xảy ra (chỉ số aminia cao _bảng
4.39) trong bể làm tôm chết nhiều, tôm chết trước khi thành thục sinh dục.
      Qua biểu đồ ta thấy tỷ lệ thành thục ở nghiệm thức bể cát là cao nhất, đồng thời
với trọng lượng ban đầu thả là thấp nhất nên chúng tôi có ý kiến về phần nhận xét này
như sau:
      Đáy cát là nền đáy rất gần với nền đáy ngoài tự nhiên, phù hợp với sinh lý tôm.
      Có thể tôm ở nghiệm thức bể đáy cát được nuôi thuần trong bể vào giai đoạn
nhỏ nên thời gian thích nghi, tăng trưởng và sinh trưởng liên tục dẫn đến khả năng
thành thục tự nhiên là cao nhất
39



                    Chƣơng 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1.     Kết luận
         Nhiệt độ trung bình buổi chiều ở cả 3 nghiệm thức đều quá ngưỡng thích hợp
hợp của tôm. Nhưng trong nghiệm thức 2 (bể đáy san hô) có số ngày nhiệt quá ngưỡng
cao hơn nghiệm thức 1(bể đáy cát) và nghiệm thức 2 (bể đáy không).
         Độ pH trung bình buổi sáng và buổi chiều ở 3 nghiệm thức đều nằm trong
ngưỡng thích hợp của tôm.
         Hàm lượng nitrite trung bình ở 3 nghiệm thức bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy
không đều như nhau, lượng lưu lại trong bể đáy cát cao hơn bể đáy san hô và bể đáy
không.
         Hàm lượng amonia trong nghiệm thức bể đáy san hô cao hơn bể đáy cát và bể
đáy không.
         Hiệu quả đưa amonia và nitrite ra ngoài của ba hệ thống bể đáy cát, bể đáy san
hô, bể đáy không là không hoàn toàn. Tuy nhiên hiệu quả đưa amonia và nitrite ra
ngoài của hệ thống bể đáy cát thấp hơn hệ thống bể đáy san hôn và bể đáy không.
         Đối với các nền đáy khác nhau ảnh hưởng đến khả năng thành thục và tỷ lệ sống
của tôm càng xanh. Bể đáy cát có tỷ sống và thành thục sinh dục cao hơn bể đáy san hô
có lớp lưới và bể đáy không.
         Sự tăng trọng của tôm ở bể đáy cát, bể đáy san hô có lớp lưới, bể đáy không là
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
         Hệ thống cấp nước gần mặt đáy tạo dòng chảy cho tôm và đẩy thức ăn thừa,
chất cặn ra ngoài, đồng thời giúp cho tôm không bị đóng rong. Tuy nhiên dòng chảy
yếu làm lắng đọng thức ăn thừa và cặn dưới lớp lưới của bể đáy san hô làm cho môi
trường dưới đáy bể bị ô nhiểm.
         Tăng giá thể để hạn chế sự ăn thịt lẫn nhau của tôm càng xanh trong bể nuôi.
         Nguồn nước cấp từ sông Rạch Chiếc không đạt chất lượng khi cấp vào ao lắng
cho nên ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm.
40


5.2.   Đề xuất
       Cần có nghiên cứu nền đáy san hô nghiền nhỏ không lót lưới dưới đáy so sánh
với các hệ thống khác để còn kết luận về hệ thống nuôi có nền đáy phù hợp.
       Hệ thống cấp nước ở gần mặt đáy với tốc độ dòng chảy là 15 lít trên phút.
       Các đối tượng thí nghiệm phải cùng lứa và có trọng lượng bằng nhau.
       Cần đánh giá chỉ tiêu vi sinh vật trong hệ thống bể nuôi.
       Nước cấp vào ao lắng phải được xử lý trước khi bơm trực tiếp lên bể.

           Nước vào
                               Ao lắng


                       Lọc cơ học              Lọc sinh học          Bể lắng

                                                               Nước ra
                       Hệ thống bể


                                    Sơ đồ xử lý nước ao lắng
41



                         TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng việt
1.     Lương Đình Chung, 1999. Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi tôm càng xanh. Nhà
xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 70 trang.
2.     Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Tuần, Hoàng Thị Thủy Tiên, Lâm Quyền, Nguyễn
Đức Minh, Nguyễn Nhứt, Huỳnh Thị Hồng Châu, 2004. Kết quả bước đầu sản xuất
giống tôm càng toàn đực. Tuyển tập nghề cá Sông Cửu Long số đặc biệt: tr 159-175.
Nhà xuất bản Nông nghiệp, Tp. Hồ Chí Minh.
3.     M.B.New và S.Singholka, 1985. Sổ tay nuôi tôm càng xanh (Trương Quang Trí
dịch). Nhà xuất bản tổng hợp Hậu Giang, Khoa Thủy Sản Trường Đại Học Cần Thơ.
140 trang.
4.     Nguyễn Thanh Phương, Trần Ngọc Hải, Trần Thị Thanh Hiền, MarcyN. Wilder,
2003. Nguyên lý và kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii). Nhà xuất bản Nông nghiệp,TP. Hồ Chí Minh. 127 trang.
5.     Phạm Văn Trang, Trần Văn Vỹ, Nguyễn Duy Khóat, 1993. Nuôi tôm nước ngọt
và nước lợ xuất khẩu. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 112 trang.
6.     Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002. Kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh. Nhà
xuất bản Nông nghiệp,TP. Hồ Chí Minh. 67 trang.
7.     Vũ Thế Trụ,1994. Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Nhà xuất bản Nông
nghiệp, TP. Hồ Chí Minh. 201 trang.
8.     Phạm Văn Tình, 2004. 46 câu hỏi đáp về sản xuất giống và nuôi tôm càng xanh
(Macrobrachium rosenbergii). Nhà xuất Nông nghiệp,TP. Hồ Chí Minh. 70 trang.
9.     Phạm Văn Tình, 2004. Kỹ thuật nuôi tôm càng xanh. Nhà xuất Nông nghiệp,TP.
Hồ Chí Minh. 45 trang.
10.    Nguyễn Việt Thắng, 1993. Một số đặc điểm sinh học và ứng dụng qui trình kỹ
thuật sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii de Man 1879) ở
Đồng Bằng Nam Bộ. Luận án phó tiến sĩ khoa học Trường Đại Học Thủy Sản Nha
Trang. 175 trang.
42


11.    Nguyễn Việt Thắng, 1995. Kỹ thuật nuôi tôm càng xanh. Nhà xuất bản Nông
nghiệp, Tp. Hồ Chí Minh. Trang.
Tài liệu tiếng anh
12.    Amir Sagi, Dan Cohen, Yoram Milner, 1989. Effect of androgenic gland
ablation on morphotypic differentation and sexual characteristics of male freshwater
prawns, Macrobrachium rosenbergii. General and comparative endocrinology 77:
p.15-22. Life sciences institute, the Hebrew University of Jerusalem. Jerusalem, Israel.
13.    Amir Sagi and Dan Cohen, 1990. Growth, maturation and progeny of sex-
reversed Macrobrachium rosenbergii males. World aquaculture report 21: p.87-90.
Aquaculture production technology (Israel) Ltd. Jerusalem, Israel.
14.    Michael Bernard New and Wagner Cotroni Valenti, 2000. Freshwater prawn
culture the farming of Macrobrachium rosenbergii. Blackwell Science, USA. p435.
15.    Mireille Charmantier-Daures and Guy Charmantier, 2003. Mass culture of
Cancer irroratus larvae (crustacea, decapoda): adaptation of a flow-through sea-water
systerm. Aquaculture: p.25-39, france.
16.    Michael Bernard New , 1990. Freshwater prawn cultrure: a review. Aquaculture
88: 99-143.
17.    Michael Bernard New., 2002. Farming freshwater prawn. A manual for the
culture of the giant river prawn (Macrobrachium rosenbergii). FAO fisheries technical
428. Food and Argiculture of the United Nations. 207 pages.
18.    Ferene Pekar, 1995. Fish pond dynamics and fish pond management. Can Tho,
Viet Nam. p.445.
19.    R.Savolainen, K.Ruohonen and J.Tulonen, 2003. Effects of bottom substrate
and presence of shelter in experimental tanks on growth and survival of signal crayfish,
Pacifastacus leniusculus (Dana) juveniles. Aquaculture Research
20.    Su Mei Chen and Jim Chu Chen, 2002. Effects of pH on survival, growth,
molting and feeding of giant freshwater prawn Macrobrachium rosenbergii.
Aquaculture 218: p.613–623. Deparment of Aquaculture, National Taiwan Ocean
University. Keeling, Taiwan.
43



                                   PHỤ LỤC
1. Phƣơng phápWinkler
1.1 Nguyên tắc
   Trong nước Mn2+ và NaOH phản ứng tạo kết tủa Mn(OH)2. Hydroxide Mn II bị oxy
hòa tan trong nước oxy hóa tạo thành MnO2 kết tủa màu nâu.
   Khi thêm H2SO4 đậm đặc vào, phản ứng oxy hóa giữa KI và MnO2 xảy ra, giải
phóng I2. I2 được định lượng bằng dung dịch Na2S2O3 và từ đó tính ra được hàm lượng
oxy hòa tan trong nước.
 2Mn(OH)2        +   O2                 2MnO2     +      2H2O
 2MnO2       + 4H+ + I-                 Mn2+ +    I2 +   2H2O
1.2 Hóa chất
   Dung dịch kiềm i-ốt: hòa tan 33 g NaOH vào một ít nước cất. Thêm 10 g KI và 1 g
NaN3 thêm nước vào vừa đủ 100 ml.
   Dung dịch MnSO4: hòa tan 34,6 g MnSO4.H2SO4 trong nước cất, lọc và pha loãng
thành 100 ml.
   Dung dịch chuẩn Na2S2O3: chuẩn bị dung dịch Na2S2O3 0,1 N chuẩn từ dung dịch
chuẩn có sẵn trên thị trừơng.
   Dung dịch tinh bột 1%: hòa tan 1 g tinh bột với 100 ml nước và đun sôi trong vài
phút.
   Dung dịch H2SO4 đậm đặc.
1.2 Cách tiến hành
   Cho mẫu vào đầy chai thủy tinh (nút mài thủy tinh) có thể tích 250 -300 ml, cho
vào mẫu nước 2 ml dung dịch MnSO4 và 2 ml dung dịch kiềm i-ốt, đậy nắp lại và lắc
đều bằng cách lật ngược chai, để kết tủa lắng vài phút (nước có hàm lượng ion Cl-cao
cần để lắng 10 phút).
   Thêm vào 2 ml H2SO4 dọc theo thành cổ chai, đậy nắp lại và lắc đều cho đến khi kết
tủa hoàn toàn hòa tan và I2 được phân tán đều. Sau đó lấy ra 50 ml để chuẩn độ với
dung dich Na2S2O3 0,1 N chuẩn cho đến khi dung dịch có màu vàng nhạt, thêm vào 1
ml dung dịch tinh bột và tiếp tục chuẩn độ cho đến khi màu xanh hoàn toàn biến mất.
Thủy Sản
Thủy Sản
Thủy Sản
Thủy Sản
Thủy Sản
Thủy Sản
Thủy Sản
Thủy Sản
Thủy Sản
Thủy Sản
Thủy Sản

More Related Content

Similar to Thủy Sản

đáNh giá mức độ ảnh hưởng của tảo haematococcus pluvialis lên sức đề kháng củ...
đáNh giá mức độ ảnh hưởng của tảo haematococcus pluvialis lên sức đề kháng củ...đáNh giá mức độ ảnh hưởng của tảo haematococcus pluvialis lên sức đề kháng củ...
đáNh giá mức độ ảnh hưởng của tảo haematococcus pluvialis lên sức đề kháng củ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
De án môi trường .
De án môi trường .De án môi trường .
De án môi trường .seo
 
Handbook 2 - ETP (for print)
Handbook 2 - ETP (for print)Handbook 2 - ETP (for print)
Handbook 2 - ETP (for print)Dong Quang Hong
 
Ky thuat nuoi ca loc den
Ky thuat nuoi ca loc denKy thuat nuoi ca loc den
Ky thuat nuoi ca loc dennhatthai1969
 
an toàn vệ sinh thực phẩm
an toàn vệ sinh thực phẩman toàn vệ sinh thực phẩm
an toàn vệ sinh thực phẩmThu Trúc
 
Ảnh hưởng các yếu tố môi trường đến sự phát triển của rong nho biển
Ảnh hưởng các yếu tố môi trường đến sự phát triển của rong nho biểnẢnh hưởng các yếu tố môi trường đến sự phát triển của rong nho biển
Ảnh hưởng các yếu tố môi trường đến sự phát triển của rong nho biểnTrần Trung
 
Nghiên cứu tuyển chọn một số vi khuẩn có hoạt tính phân giải protein cao ứng ...
Nghiên cứu tuyển chọn một số vi khuẩn có hoạt tính phân giải protein cao ứng ...Nghiên cứu tuyển chọn một số vi khuẩn có hoạt tính phân giải protein cao ứng ...
Nghiên cứu tuyển chọn một số vi khuẩn có hoạt tính phân giải protein cao ứng ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
THỰC TRẠNG KHAI THÁC VÀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN THỦY HẢI SẢN Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN TH...
THỰC TRẠNG KHAI THÁC VÀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN THỦY HẢI SẢN Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN TH...THỰC TRẠNG KHAI THÁC VÀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN THỦY HẢI SẢN Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN TH...
THỰC TRẠNG KHAI THÁC VÀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN THỦY HẢI SẢN Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN TH...nataliej4
 
Benh hoc thuy_san
Benh hoc thuy_sanBenh hoc thuy_san
Benh hoc thuy_sanLong Nguyen
 
Đồ Án Sấy Thiết Kế Hệ Thống Sấy Mực Dùng Thiết Bị Sấy Buồng Năng Suất 750 Kg mẻ
Đồ Án Sấy Thiết Kế Hệ Thống Sấy Mực Dùng Thiết Bị Sấy Buồng Năng Suất 750 Kg mẻĐồ Án Sấy Thiết Kế Hệ Thống Sấy Mực Dùng Thiết Bị Sấy Buồng Năng Suất 750 Kg mẻ
Đồ Án Sấy Thiết Kế Hệ Thống Sấy Mực Dùng Thiết Bị Sấy Buồng Năng Suất 750 Kg mẻnataliej4
 
đề Tài ốc hương
đề Tài ốc hươngđề Tài ốc hương
đề Tài ốc hươngLong Nguyen
 
Chuyên Đề 13 ĐVTS.pptx
Chuyên Đề 13 ĐVTS.pptxChuyên Đề 13 ĐVTS.pptx
Chuyên Đề 13 ĐVTS.pptxhoangminhTran8
 
Danh gia tac dong cua cong trinh thuy dien trung son den da
Danh gia tac dong cua cong trinh thuy dien trung son den da Danh gia tac dong cua cong trinh thuy dien trung son den da
Danh gia tac dong cua cong trinh thuy dien trung son den da atrieu69
 
Tiểu luận cnshđv
Tiểu luận cnshđvTiểu luận cnshđv
Tiểu luận cnshđvCon Ruồi
 
Trongtruong so28b 09
Trongtruong so28b 09Trongtruong so28b 09
Trongtruong so28b 09Thái Bình
 

Similar to Thủy Sản (20)

đáNh giá mức độ ảnh hưởng của tảo haematococcus pluvialis lên sức đề kháng củ...
đáNh giá mức độ ảnh hưởng của tảo haematococcus pluvialis lên sức đề kháng củ...đáNh giá mức độ ảnh hưởng của tảo haematococcus pluvialis lên sức đề kháng củ...
đáNh giá mức độ ảnh hưởng của tảo haematococcus pluvialis lên sức đề kháng củ...
 
De án môi trường .
De án môi trường .De án môi trường .
De án môi trường .
 
Handbook 2 - ETP (for print)
Handbook 2 - ETP (for print)Handbook 2 - ETP (for print)
Handbook 2 - ETP (for print)
 
Ky thuat nuoi ca loc den
Ky thuat nuoi ca loc denKy thuat nuoi ca loc den
Ky thuat nuoi ca loc den
 
an toàn vệ sinh thực phẩm
an toàn vệ sinh thực phẩman toàn vệ sinh thực phẩm
an toàn vệ sinh thực phẩm
 
Ảnh hưởng các yếu tố môi trường đến sự phát triển của rong nho biển
Ảnh hưởng các yếu tố môi trường đến sự phát triển của rong nho biểnẢnh hưởng các yếu tố môi trường đến sự phát triển của rong nho biển
Ảnh hưởng các yếu tố môi trường đến sự phát triển của rong nho biển
 
Nghiên cứu tuyển chọn một số vi khuẩn có hoạt tính phân giải protein cao ứng ...
Nghiên cứu tuyển chọn một số vi khuẩn có hoạt tính phân giải protein cao ứng ...Nghiên cứu tuyển chọn một số vi khuẩn có hoạt tính phân giải protein cao ứng ...
Nghiên cứu tuyển chọn một số vi khuẩn có hoạt tính phân giải protein cao ứng ...
 
THỰC TRẠNG KHAI THÁC VÀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN THỦY HẢI SẢN Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN TH...
THỰC TRẠNG KHAI THÁC VÀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN THỦY HẢI SẢN Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN TH...THỰC TRẠNG KHAI THÁC VÀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN THỦY HẢI SẢN Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN TH...
THỰC TRẠNG KHAI THÁC VÀ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN THỦY HẢI SẢN Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN TH...
 
Kỹ thuật nuôi cá ao
Kỹ thuật nuôi cá aoKỹ thuật nuôi cá ao
Kỹ thuật nuôi cá ao
 
Bài Tiểu Luận Môi Trường Đề Tài Sinh Thái Biển, 9 Điểm.docx
Bài Tiểu Luận Môi Trường Đề Tài Sinh Thái Biển, 9 Điểm.docxBài Tiểu Luận Môi Trường Đề Tài Sinh Thái Biển, 9 Điểm.docx
Bài Tiểu Luận Môi Trường Đề Tài Sinh Thái Biển, 9 Điểm.docx
 
Lan van
Lan vanLan van
Lan van
 
Benh hoc thuy_san
Benh hoc thuy_sanBenh hoc thuy_san
Benh hoc thuy_san
 
Đồ Án Sấy Thiết Kế Hệ Thống Sấy Mực Dùng Thiết Bị Sấy Buồng Năng Suất 750 Kg mẻ
Đồ Án Sấy Thiết Kế Hệ Thống Sấy Mực Dùng Thiết Bị Sấy Buồng Năng Suất 750 Kg mẻĐồ Án Sấy Thiết Kế Hệ Thống Sấy Mực Dùng Thiết Bị Sấy Buồng Năng Suất 750 Kg mẻ
Đồ Án Sấy Thiết Kế Hệ Thống Sấy Mực Dùng Thiết Bị Sấy Buồng Năng Suất 750 Kg mẻ
 
đề Tài ốc hương
đề Tài ốc hươngđề Tài ốc hương
đề Tài ốc hương
 
Bài Tiểu Luận Môi Trường Đề Tài Sinh Thái Biển.docx
Bài Tiểu Luận Môi Trường Đề Tài Sinh Thái Biển.docxBài Tiểu Luận Môi Trường Đề Tài Sinh Thái Biển.docx
Bài Tiểu Luận Môi Trường Đề Tài Sinh Thái Biển.docx
 
Chuyên Đề 13 ĐVTS.pptx
Chuyên Đề 13 ĐVTS.pptxChuyên Đề 13 ĐVTS.pptx
Chuyên Đề 13 ĐVTS.pptx
 
Danh gia tac dong cua cong trinh thuy dien trung son den da
Danh gia tac dong cua cong trinh thuy dien trung son den da Danh gia tac dong cua cong trinh thuy dien trung son den da
Danh gia tac dong cua cong trinh thuy dien trung son den da
 
Ca chinh
Ca chinhCa chinh
Ca chinh
 
Tiểu luận cnshđv
Tiểu luận cnshđvTiểu luận cnshđv
Tiểu luận cnshđv
 
Trongtruong so28b 09
Trongtruong so28b 09Trongtruong so28b 09
Trongtruong so28b 09
 

Recently uploaded

chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 

Recently uploaded (20)

chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 

Thủy Sản

  • 1. 1 Chƣơng 1: MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề Tôm càng xanh Macrobrachium rosenbergii de Man 1879 là một trong những đối tượng có giá trị kinh tế quan trọng ở nhiều nước trên thế giới. Đây là loài có kích thước lớn nhất trong các loài tôm nước ngọt, thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng, chúng là loài ăn tạp, dễ nuôi, ít bệnh tật cho nên nghề nuôi tôm càng xanh phát triển. Ở nước ta hiện nay rất chú ý đến việc sản xuất và nuôi tôm càng xanh vì tôm có giá trị kinh tế được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Tôm càng xanh được phân bố ở vùng Tây Nam Châu Á và Thái Bình Dương nhưng tập trung nhiều nhất là Đông Nam Á, nước ta là nước có sản lượng tôm càng xanh trong tự nhiên lớn hơn cả so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á, với sản lượng khai thác khoảng 6000 tấn trên năm (1980), trong khi đó ở Thái Lan là 400 500 tấn trên năm, Malaysia là 120 tấn trên năm (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002). Nước ta, Đồng Bằng Sông Cửu Long là nơi có tiềm năng rất lớn cho nghề nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm đang được phát triển mạnh. Tuy nhiên, một trở ngại lớn trong nuôi thương phẩm tôm càng xanh là sự phân đàn khi nuôi chung tôm đực và tôm cái, tôm đực thường lớn nhanh hơn tôm cái trong cùng quần đàn. Trở ngại này làm ảnh hưởng đáng kể đến kích cỡ và sản lượng tôm thương phẩm, cho nên việc sản xuất giống tôm càng xanh toàn đực để nâng cao hiệu quả và năng suất tôm nuôi. Trong qui trình sản xuất giống tôm càng xanh toàn đực, việc nuôi vỗ thành thục tôm cái đã vi phẫu loại bỏ tuyến đực trở thành con cái có khả năng sinh sản như con cái bình thường là rất quan trọng, bởi vì con cái này có số lượng ít. Do đó, cần hoàn thiện được quy trình nuôi phù hợp. Xuất phát từ thực trạng đó, được sự đồng ý của Bộ Môn Công Nghệ Sinh Học, Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh và Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản II, chúng tôi thực hiện đề tài “Đánh giá hiệu quả hệ thống tuần hoàn hở nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) hậu bị trên bể composite cho sản xuất đàn toàn đực”.
  • 2. 2 1.2. Mục tiêu Đánh giá hiệu quả hệ thống tuần hoàn hở nuôi tôm càng xanh hậu bị trên bể composite cho việc nâng cao tỷ lệ sống, tăng trưởng và thành thục sinh dục của tôm càng xanh hậu bị trong quy trình sản xuất tôm càng xanh toàn đực. 1.3. Nội dung Đánh giá các biến đổi môi trường trong các hệ thống tuần hoàn khác nhau, nuôi tôm càng xanh hậu bị trong quy trình sản xuất tôm càng xanh toàn đực. Đánh giá các chỉ tiêu tăng trưởng, tỷ lệ sống và thành thục sinh dục của tôm càng xanh hậu bị trong quy trình sản xuất đàn toàn đực.
  • 3. 3 Chƣơng 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Đặc điểm sinh học tôm càng xanh 2.1.1. Đặc điểm phân loại Tôm càng xanh là một trong những nhóm động vật giáp xác, có vị trí phân loại như sau: Ngành tiết túc: Arthropoda Ngành phụ: Anterata Lớp giáp xác: Crustacea Lớp phụ giáp xác bậc cao: Malacostraca Bộ mười chân: Decapoda Bộ phụ chân bơi: Natania Phân bộ: Caridea Họ: Palaemonidae Họ phụ: Palaemoninae Giống: Macrobrachium Loài tôm càng xanh: Macrobrachium rosenbergii de Man 1879 Tên tiếng Anh: Freshwater giant prawn 2.1.2. Phân bố Tôm càng xanh nước ngọt thuộc giống Macrobrachium phân bố khắp vùng nhiệt đới và Á nhiệt đợi trên thế giới, tập trung ở khu vực Ấn Độ Dương và Tây Nam Thái Bình Dương, chủ yếu ở khu vực châu Úc đến New Guinea, Trung Quốc và Ấn Độ, tôm càng xanh có hầu hết ở các thủy vực nội địa như sông, hồ, đầm lầy, ruộng, mương ao, đầm phá, hay các thủy vực nước lợ như cửa sông (Nguyễn Việt Thắng, 1993; M. B.New và S.Singholka, 1985). Tôm càng xanh phân bố ở hầu hết các quốc gia như Thái Lan (De Man, 1879; Lanchester, 1879; Kemp, 1918), Miến Điện (Henderson, 1893), Malaysia (Lanchester, 1901), Ấn độ (Hurbest, 1792), Singapore, Nhật Bản ( Von Martens, 1868), Indonesia (De Man, 1879), Australia (J. Roux, 1933) và Việt Nam (Serene, 1937) (trích dẫn bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993).
  • 4. 4 Ở nước ta tôm càng xanh phân bố tự nhiên từ Cầu Đá Nha Trang trở vào, ở khu vực Đông Nam Bộ và tập trung chủ yếu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (Phạm Văn Tình, 2004). Ở Bán đảo Cà Mau phát hiện thấy tôm càng xanh phân bố với số lượng không nhỏ ở các nồng độ muối từ 5 10‰, cũng phát hiện thấy chúng ở vùng Hòn Tre, nơi nước biển được ngọt hóa bởi dòng nước ngọt của sông Cái Lớn có độ mặn là 20‰, cũng tại Năm Căn ở nồng độ muối 15‰ cũng tìm thấy tôm càng xanh, tuy nhiên vùng phân bố tập trung của chúng là vùng nước ngọt và lợ nhạt có độ muối dưới 6‰ (Nguyễn Việt Thắng, 1993). 2.1.3. Hình thái Tôm càng xanh là loài có kích thước lớn nhất, thân tôm càng xanh hơi tròn, có màu xanh nhạt, màu đặc trưng là đôi càng lớn có màu xanh lam sẩm hay nâu đỏ tùy thuộc vào độ tuổi của tôm, phía cuối thân có màu xanh lam, hai bên giáp đầu ngực có đường vân xanh, đỏ chạy dọc song song với thân (Lương Đình Chung, 1999). Cơ thể tôm càng xanh gồm hai phần chính: phần đầu ngực và phần thân. Phần vỏ đầu ngực tận cùng là chủy, chủy ở phía trên có từ 12 14 gai và phía dưới có 12 13 gai, dưới vỏ đầu ngực có năm đôi chân bò, đôi chân ngực thứ 2 phát triển to, dài, có nhiều gai nhỏ, đốt cuối có dạng kẹp, đôi chân ngực này gọi là càng. Phần mình gồm 6 đốt và đuôi, vỏ của đốt 2 trùm lên đốt 1 và đốt 3, phía dưới các đốt bụng là 5 đốt chân bơi và tận cùng là chân đuôi hình phiến dẹp (Nguyễn Việt Thắng, 1995). Các phụ bộ có hình dạng, kích cỡ và chức năng khác nhau với hai đôi râu có chức năng xúc giác, một đôi hàm lớn, hai đôi hàm nhỏ, ba đôi chân hàm có chức năng giữ và nghiền mồi, năm đôi chân ngực có chức năng để bò, năm đôi chân bụng để bơi, một đôi chân đuôi có chức năng như bánh lái và đôi càng dùng để bắt mồi và tự vệ (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003) ( hình 2.1). Tôm càng đực thành thục, to hơn tôm cái rõ rệt và đôi chân bò thứ 2 cũng lớn và dài hơn, tỷ lệ phần đầu ngực của tôm đực thì lớn hơn và phần bụng thì nhỏ hơn tôm cái, các lỗ sinh dục đực nằm giữa gốc của đôi chân bò thứ 5. Đầu của tôm cái thành thục và đôi chân bò thứ 2 của nó nhỏ hơn nhiều so với tôm đực, lỗ sinh dục con cái, nằm ở gốc đôi chân bò thứ 3, các tấm vỏ bụng thì dài hơn và phần bụng cũng rộng hơn,
  • 5. 5 các tấm vỏ bụng tạo thành một buồng rộng, trứng được chứa tại đó trong khoảng thời gian từ lúc đẻ ra cho đến lúc nở (M.B.New và S.Singholka, 1985). Hình 2.1. Một số đặc điểm giải phẩu học của tôm càng xanh (hình vẽ của Foster và Wickins (1972)). 2.1.4. Môi trƣờng sống Nhiệt độ: nhiệt độ thích hợp cho hầu hết các giai đoạn của tôm dao động trong khoảng 26 31oC, tốt nhất là 28 30oC. Nhiệt độ thấp dưới 13oC hay trên 38oC gây chết tôm, khi nhiệt độ ngoài khoảng 22 33oC hoạt động, sinh trưởng và sinh sản của tôm sẽ bị suy giảm, nhiệt độ cao thường làm cho tôm sớm thành thục và kích cỡ nhỏ (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003) . Độ pH: độ pH thích hợp nhất cho sinh trưởng của tôm từ 7 8,5, pH dưới 6,5 hay trên 9,0 kéo dài không tốt cho tôm ở tất cả các giai đoạn (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). Tác động của pH lên tỷ lệ sống của tôm càng xanh con ở pH 8,2, 7,4, 6,8, 6,2 và 5,6 là 100 , 88,9 , 94,4 , 94,4 và 94,4 trong 56 ngày theo dõi thí nghiệm. Sau 42 ngày tổng chiều dài và trọng lượng ở pH 5,6 thấp hơn ở pH 8,2 và sau 56 ngày trong lượng của tôm ở pH 6,8 thấp hơn pH 8,2 (Su Mei Chen và Jiann Chu Chen, 2002). Độ mặn: đối với tôm cái mang trứng, chúng di chuyển ra cửa sông, ấu trùng nở ra chỉ sống được trong môi trường nước có độ mặn từ 8 14‰, thích hợp nhất là
  • 6. 6 10 12‰, trong môi trường nước ngọt ấu trùng chết hoàn toàn (Lương Đình Chung, 1999). Tôm giống và tôm lớn cần sống trong nước ngọt để sinh trưởng tốt nhất, chúng có thể chịu độ mặn từ 25‰ đến 30‰ (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). Trong sản xuất giống nhân tạo duy trì độ mặn 12‰ trong suốt quá trình ương cho đến khi thu hoạch tôm post-larvae (Nguyễn Việt Thắng, 1993). Oxy hòa tan (DO): hầu hết các loài thủy sản có thể sống trong điều kiện tối ưu và trao đổi chất ở nồng độ oxy là 3 7 mg/l, chúng có thể sống ở nồng độ oxy thấp. Khi DO nhỏ hơn 1 mg/l thì làm cho tôm bị chết ngạt, khi DO nhỏ hơn 2 mg/l thì tôm bị stress (M.B.New và W.C.Valenti, 2000). Ngưỡng oxy của tôm cao hơn các loài cá nước ngọt, ở hầu hết cá nước ngọt là 2 mg/l và tôm càng xanh là 3 mg/l (Phạm Văn Tình, 2004). Đối với các giai đoạn biến thái của ấu trùng yêu cầu hàm lượng oxy từ 5 mg/l trở lên (Lương Đình Chung, 1999). Hợp chất nitrogen (nitrite, nitrate, amonia): giới hạn cho phép của hàm lượng các hợp chất nitrogen là: hàm lượng nitrite nhỏ hơn 0,1 mg/l, hàm lượng nitrate nhỏ hơn 20 mg/l và hàm lượng amonia nhỏ hơn 0,1 mg/l (M.B.New và S.Singholka, 1985). Hàm lượng amonia nhỏ hơn hoặc bằng 0,09 mg/l giảm tăng trưởng ở tôm càng xanh và amonia từ 0,45 mg/l giảm 50 tăng trưởng ở tôm Penaeid (Ferene Pekar, 1995). Trong hệ thống chảy tràn nuôi tôm nước ngọt hàm lượng NO2-N nhỏ hơn 1,4 mg/l (M.B.New và W.C.Valenti, 2000). Trong sản xuất giống hàm lượng nitrite duy trì dưới 0,1 mg/l và amonia dưới 0,1 mg/l (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). Độ cứng: nước ngọt có độ cứng tổng cộng dưới 100 mg/l CaCO3 cho kết quả tốt (M.B.New và S.Singholka, 1985). Nước trong ao hồ có độ cứng thích hợp cho nuôi tôm cá là 20 150 mg/l CaCO3, nước có độ cứng cao quá (trên 300 mg/l CaCO3) sẽ gây ảnh hưởng không có lợi cho sự tăng trưởng và lột xác của tôm (Vũ Thế Trụ, 1994).
  • 7. 7 Độ cứng thích hợp nhất cho ương nuôi tôm trong khoảng 50 150 mg/l, đối với ương nuôi ấu trùng, độ cứng thấp dưới 50 mg/l có thể gây ra hiện tượng vỏ mềm (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). 2.1.5. Chu kỳ sống Vòng đời tôm càng xanh có 4 giai đoạn bao gồm trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng và tôm trưởng thành (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003) (hình 2.2). Tôm càng trưởng thành sống chủ yếu ở nước ngọt (sông, rạch, ao, hồ, đầm…), chúng thành thục phát dục và giao vĩ đẻ trứng ở đó nhưng khi ôm trứng chúng có xu thế bơi ra vùng nước lợ từ 6 18 ‰ có khi lên đến 20 25‰. Ở đó, ấu trùng được nở ra và sống trôi nổi theo kiểu phù du, ấu trùng trải qua 11 lần lột xác, qua 12 giai đoạn biến thái ấu trùng biến thành hậu ấu trùng, thời gian cho các giai đoạn biến thái từ 17 60 ngày, lúc này tôm con tiến về vùng nước ngọt (Nguyễn Việt Thắng, 1993). Tôm có thể di cư rất xa, trong phạm vi hơn 200 km từ bờ biển vào nội địa, khi trưởng thành chúng lại di cư ra vùng nước lợ nơi có độ mặn thích hợp để sinh sản và vòng đời lại tiếp tục (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). Hình 2.2. Vòng đời của tôm càng xanh (hình vẽ của Foster và Wichkins (1972)). 2.1.6. Lột xác và tăng trƣởng Trong quá trình lớn lên, tôm trải qua nhiều lần lột xác, chu kỳ lột xác của tôm tùy thuộc vào nhiều yếu tố như kích cỡ của tôm, điều kiện dinh dưỡng, điều kiện môi trường, giới tính và tình trạng sinh lý của tôm (Dương Tấn Lộc, 2001).
  • 8. 8 Ấu trùng tôm càng xanh qua mỗi lần lột xác lại biến thái chuyển sang giai đoạn phát dục mới, từ ấu trùng giai đoạn 1 đến tôm bột trải qua 11 lần lột xác, qua mỗi lần lột xác tôm tăng trọng 20 30% (Lương Đình Chung, 1999). Từ tôm giống đến tôm trưởng thành, tôm lột xác nhiều lần để tăng trưởng cơ thể, khi bị tổn hại các chi phụ như càng, chân… tôm lột xác để tái sinh (Lương Đình Chung, 1999). Tôm nhỏ có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn tôm lớn, tôm đực lớn nhanh hơn tôm cái (Phạm Văn Tình, 2004; Nguyễn Việt Thắng, 1993). Quá trình lột xác của tôm càng xanh bao gồm các giai đoạn như sau: giai đoạn tiền lột xác, giai đoạn lột xác, giai đoạn hậu lột xác, giai đoạn giữa chu kỳ lột xác (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). Trong thời gian chờ đợi lớp vỏ mới đủ cứng, tôm rất yếu ớt, dễ bị các động vật khác sát hại.Tất cả các tôm cái thành thục sinh dục đều lột vỏ trước khi thụ tinh một thời gian ngắn, gọi là thời kỳ tiền giao vĩ của tôm cái (Phạm Văn Trang và ctv, 1993). Trong quá trình lột xác tiền giao vĩ, tôm cái sẽ tiết ra hormon có tác dụng kích thích tôm đực tìm đến, sự hiện diện của tôm đực còn giúp bảo vệ tôm cái mới lột khỏi bị các tôm cái khác tấn công (Nguyễn Việt Thắng, 1993; Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). 2.1.7. Thành thục sinh dục Trong tự nhiên, cũng như trong ao, hồ nuôi với nguồn giống nhân tạo, tôm càng xanh cái thành thục lần đầu ở khoảng 3 3,5 tháng tuổi kể từ hậu ấu trùng 10 15 ngày tuổi, với kích cỡ tôm nhỏ nhất đạt thành thục khoảng 10 13 cm và 7,5 g (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). Trong quá trình thành thục, buồng trứng trải qua 4 giai đoạn phát triển trong vòng 14 20 ngày. Đặc trưng ở mỗi giai đoạn thành thục được trình bày theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2003) như sau: Giai đoạn I: chưa thành thục. Buồng trứng nhỏ, trong suốt, nằm ở vùng chót sau của khoang giáp đầu ngực, trứng có hình cầu với nhân rõ ràng và nguyên sinh chất trong suốt, đường kính trứng đạt 0,064 0,128 mm.
  • 9. 9 Giai đoạn II: chớm thành thục. Buồng trứng chiếm khoảng 1/4 1/2 chiều dài của khoang giáp đầu ngực và có màu vàng, trứng hơi ngà ngà do có noãn hoàng trong nguyên sinh chất, nhân không thấy rõ, trứng có đường kính 0,191 0,447 mm. Giai đoạn III: thành thục. Buồng trứng phát triển hơn và chiếm 3/4 chiều dài khoang đầu ngực, có màu vàng cam, trứng hơi đục, nhân không thấy được do hình thành noãn hoàng, trứng có đường kính 0,319 0,545 mm. Giai đoạn IV: chín muồi. Buồng trứng chiếm toàn bộ khoang giáp đầu ngực, màu vàng xậm, trứng có hình cầu, đục do noãn hoàng tích tụ nhiều, đường kính trứng 0,447 0,766 mm. Khi buồng trứng đạt giai đoạn IV, tôm cái lột xác tiền giao vĩ. 2.1.8. Sinh sản Tôm đực thành thục sinh lý có thể trạng khỏe mạnh (vỏ cứng) có thể tiến hành giao vĩ, con cái hoàn tất lột xác mới tiến hành giao vĩ, quá trình giao vĩ của tôm có thể chia thành 4 giai đoạn: tiếp xúc (contact), ôm giữ tôm cái (seizura), trèo lên lưng (mounting), lật ngửa và gắn túi tinh (turning) (Nguyễn Việt Thắng, 1993). Toàn bộ quá trình tiếp xúc và giao vĩ xảy ra trong vòng 25 35 phút, sau khi giao vĩ, tôm đực nằm cạnh tôm cái khoảng 5 10 phút, tôm đực bảo vệ tôm cái vốn còn vỏ mềm khỏi bị tôm khác tất công (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). Sau khi giao vĩ từ 6 20 giờ tôm cái bắt đầu đẻ trứng, những con cái chưa giao vĩ nhưng đã thành thục, chín mùi sinh dục cũng có thể đẻ trong vòng 24 giờ sau khi lột vỏ “tiền giao vĩ”, nhưng trứng của chúng sẽ không được thụ tinh, những trứng này chỉ được giữ trong buồng ấp trứng vài giờ (Nguyễn Việt Thắng, 1993). Tôm cái mang trứng dưới bụng và bảo vệ trứng đến khi nở, thời gian ấp trứng giao động từ ngày 17 23 ngày với nhiệt độ từ 26 30oC, suốt thời gian ấp trứng tôm cái dùng chân bụng quạt nước, tạo dòng nước luôn chuyển qua thân bụng làm thoáng khí cho trứng, trứng mới đẻ có màu vàng sáng chuyển dần sang màu da cam đến ngày thứ 12 màu da cam của trứng nhạt dần và ngả màu xám xanh nhạt và từ màu xám nhạt chuyển dần sang xám đậm cho đến ngày nở có màu xám đậm đen (màu đen đó là mắt
  • 10. 10 của ấu trùng còn nằm trong trứng) lúc này sẵn sàng nở ra ấu trùng (Nguyễn Việt Thắng, 1993). Tùy vào kích cỡ và trọng lượng của tôm cũng như chất lượng và số lần tham gia sinh sản của chúng mà sức sinh sản của tôm có thể thay đổi từ 7.000 503.000 trứng, thông thường khoảng 20.000 80.000 trứng, trung bình sức sinh sản tương đối của tôm khoảng 500 1.000 trứng trên gram trọng lượng tôm. Tôm nuôi trong ao hồ, sức sinh sản tương đối của chúng có thấp hơn, trung bình 300 600 trứng trên gam trọng lượng, tôm cái có thể tái phát dục và đẻ lại sau 16 45 ngày hay có thể chỉ 7 ngày, chúng có thể tái phát dục và đẻ lại 5 6 lần, sức sinh sản của tôm cũng thay đổi theo các lần đẻ trứng của tôm (Nguyễn Thanh Phương và ctv, 2003). 2.1.9. Dinh dƣỡng Ấu trùng ăn liên tục và trong tự nhiên thức ăn chính là các phiêu sinh động vật (chủ yếu là các giáp xác nhỏ), giun rất nhỏ và ấu trùng không xương sống thủy sinh khác, hậu ấu trùng ngoài thức ăn ở giai đoạn ấu trùng chúng có thể ăn thêm các mảnh vụn hữu cơ lớn hơn, có nguồn gốc động vật và thực vật (M.B.New và S.Singholka, 1985). Tôm càng là loài ăn tạp và thức ăn của chúng gồm các loài côn trùng thủy sinh và ấu trùng của côn trùng, tảo, rong, hạt, quả, nhuyễn thể, giáp xác nhỏ, thịt cá, phế liệu của cá và động vật khác, chúng cũng có thể ăn thịt lẫn nhau (M.B.New và S.Singholka, 1985). Ấu thể (nauplii) Artemia là một trong những loại thức ăn sống quan trọng cho các giai đoạn đầu của ấu trùng tôm, ấu trùng tôm càng xanh có thể ăn ấu thể Artemia ngay từ ngày thứ hai (giai đoạn 2) sau khi nở, hạn chế khi dùng Artemia làm thức ăn cho ấu trùng nuôi đó là chúng thiếu các axít béo cần thiết, đặc biệt là các axít béo cao phân tử không no, mà hầu hết các sinh vật biển không có khả năng tự tổng hợp (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002). Trong ương nuôi ấu trùng cần bổ sung thức ăn chế biến, trong thức ăn chế biến có bổ sung thêm nhiều loại vitamin chính, vì ấu trùng tôm càng xanh có nhu cầu lớn (Nguyễn Việt Thắng, 1993).
  • 11. 11 Nuôi tôm càng xanh thương phẩm sử dụng thức ăn tổng hợp dạng viên, có hàm lượng protein từ 20-30% là phù hợp (Phạm Văn Tình, 2004). 2.2. Công nghệ sản xuất tôm càng xanh toàn đực 2.2.1. Phƣơng pháp chuyển đổi giới tính tôm càng xanh đực tạo tôm cái giả Xác định giới tính tôm càng xanh ở giai đoạn sớm: dưới kính hiển vi soi nổi độ phóng đại 30 lần có thể xác định được giới tính post-lavae 30 60 ngày ( PL30-60 ) thông qua lỗ mở sinh dục đực ở gốc chân bò 5 hay phần phụ đực ở chân bơi 2. Cố định tôm để vi phẫu, cố định tôm bằng đất sét nặng đồ chơi, dùng tay nhẹ nhàng bắt từng con, lật ngửa bụng lên trên, gắn đầu chủy, đuôi và các chân bơi bằng đất sét, tiến hành vi phẫu loại bỏ tuyến đực dưới kính hiển vi soi nổi ở độ phóng đại 30 lần (Nguyễn Văn Hảo và ctv, 2004). 2.2.2. Kiểm tra chất lƣợng tôm sau khi vi phẫu loại bỏ tuyến đực Giai đoạn sớm: kiểm tra dưới kính hiển vi sôi nổi độ phóng đại 30 lần, 7 ngày sau khi vi phẫu, tiến hành cắt bỏ một chân bơi 2 (có gai sinh dục phụ) và thả nuôi tiếp, 30 ngày sau vi phẫu, cắt lại một chân bơi 2 đã cắt trước đó và kiểm tra dưới kính hiển vi soi nổi độ phóng đại 30 lần. Có hai trường hợp: Chân bơi thứ 2 mọc lại có gai sinh dục phụ A.M (Apendix masculina-AM), vi phẫu không thành công được loại bỏ. Chân bơi thứ 2 mọc lại không có A.M: là tôm đã biệt hóa và chuyển đổi giới tính, giữ lại các con tôm này (Nguyễn Văn Hảo và ctv, 2004). 2.2.3. Kiểm tra nhiễm sắc thể giới tính của tôm mẹ thông qua thế hệ F1 Khi tôm thành thục, sinh sản, nuôi tách riêng đàn con và tôm mẹ trong lồng có gắn nhãn. Khi đạt cỡ PL25-30 thì tiến hành vi phẫu 250-300 con, số còn lại tiếp tục nuôi đến PL70, thu ngẫu nhiên 500 con/quần đàn, kiểm tra tỉ lệ đực cái (ít nhất cũng phải 100 con). Nếu thế hệ là 100% tôm đực thì tôm mẹ là cái giả, giữ lại đàn con đã vi phẫu, ngược lại loại bỏ (Nguyễn Văn Hảo và ctv, 2004).
  • 12. 12 2.3. Hệ thống nuôi vỗ thành thục tôm bố mẹ 2.3.1. Nuôi trong ao đất Diện tích ao từ 500 1000 m2, được cải tạo kỹ có cấp và thoát nước, độ sâu của ao 2 m, độ sâu nước nuôi 1,5 m (Phạm Văn Tình, 2004; Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002). Chọn tôm khỏe mạnh, không thương tật, trọng lượng tôm đực trên 50 g/con, tôm cái trên 25 g/con để có sức sinh sản thực tế khoảng 15.000 20.000 ấu trùng trên tôm mẹ, mật độ nuôi 4 5 con/m2 và tỷ lệ đực cái 1:4 (Phạm Văn Tình, 2004; Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002). Nước nuôi luôn trong sạch, oxy hòa tan luôn đạt trên 3,5 mg/l, pH từ 7 8,5. Thay nước 2 3 ngày một lần, thay khoảng 15 20% thể tích nước nuôi (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002). Thức ăn sử dụng là thức ăn viên tổng hợp có hàm lượng đạm trên 25%. Lượng thức ăn trong ngày 7% trọng lượng thân, ngày cho ăn 2 lần sáng và chiều tối, thức ăn được rải đều khắp ao, có thể sử dụng thức ăn tươi sống như tôm cá vụn thay thế 1/3 thức ăn viên (Phạm Văn Tình, 2004; Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002). 2.3.2. Nuôi trong bể xi măng Bể xi măng tròn hoặc vuông kích thước 3 5 m3, mật độ từ 10 15 con trên bể, tỷ lệ đực cái là 1:4. Đáy có phủ một lớp mỏng khoảng 10 cm đất bùn cát và san hô để tạo môi trường gần giống với môi trường tự nhiên của tôm, mỗi bể bỏ một vài ống nhựa đường kính 15 20 cm, chiều dài 20 30 cm để làm chỗ ẩn nấp của tôm khi lột xác (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002). Nước dùng cho nuôi tôm bố mẹ không cần xử lý kỹ, thường dùng nước giếng đào có độ mặn từ 0 8‰ lọc qua túi lọc, định kỳ thay nước hàng ngày hoặc hai ngày một lần tùy theo mức độ ô nhiễm của nước (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002). Thức ăn hàng ngày cho tôm bố mẹ gồm tôm, mực, cá vụn, cho ăn hai lần trong ngày vào buổi sáng và chiều tối (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002).
  • 13. 13 2.3.3. Nuôi trong bể composite Bể composite có dung tích 3 m3, có tuần hòan, mật độ nuôi là 10 con trên bể, tỉ lệ đực cái là 1:4, sử dụng thức ăn viên 40% protein và bổ sung thức ăn tươi hai ngày cho ăn một lần như: mực ống, trùn chỉ, gan, ốc, nhộng tằm, thức ăn thừa và cặn loại bỏ bằng cách xả đáy, định kỳ 2 tuần làm tổng vệ sinh một lần (Nguyễn Văn Hảo và ctv, 2004). Nguyên tắc hoạt động được miêu tả theo hình vẽ sau: Hệ thống cấp nước Hệ thống sục khí Máy bơm 1 Máy AO LẮNG nén khí Máy bơm 2 Cống Sông Rạch Chiếc Nước vào Nước ra Van xả Hình 2.3. Hệ thống tuần hoàn trên bể composite 2.3.4. Sơ lƣợc nuôi tôm cá tuần hoàn trên bể composite Hệ thống chảy tràn được thiết kế cho nuôi nuôi tôm hùm, bể 40 lít đáy cầu có tuần hoàn, đã được biến đổi nuôi tôm Cancer irroratus, sử dụng lớp lưới 280 m đặt dưới đáy của hệ thống chảy tràn, tốc độ chảy 2,5 3 l/phút trong suốt quá trình phát triển từ giai đoạn zoeae 1 đến giai đoạn tiền megalopa, sau đó là 1 1,5 l/phút, tỷ lệ
  • 14. 14 sống đến giai đoạn megalopae là 69 (Mireille Charmantier-Daures và Guy Charmantier, 2003). Ảnh hưởng diện tích mặt đáy và giá thể lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng (giai đoạn 2) của tôm Pacifastacus leniusculus. Thí nghiệm gồm ba loại đáy là sỗi nhỏ, sỗi mịn và đáy không, có sử dụng giá thể. Quan sát thấy được sự tăng trưởng nhanh về trọng lượng và chiều dài trên bể đáy sỗi và tỷ lệ sống của đáy sỗi từ 30,1 đến 49,8 cao hơn đáy không (R.Savolainen và ctv, 2003).
  • 15. 15 Chƣơng 3: VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP 3.1. Thời gian và đia điểm 3.1.1. Thời gian Thời gian: từ 07/03/2005 đến 07/08/2005. 3.1.2. Địa điểm Địa điểm thực hiện: tại Trại Thực Nghiệm Nuôi Thủy Sản Thủ Đức, Phòng sinh học thực nghiệm,Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản II, số 658 Kha Vạn Cân phường Linh Đông, quận Thủ Đức- thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Vật liệu 3.2.1. Đối tƣợng thí nghiệm Tôm càng xanh đực được vi phẫu loại bỏ tuyến đực, đã kiểm tra chất lượng. Ở Trại Thực Nghiệm Nuôi Thủy Sản Thủ Đức, Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản II. 3.2.2. Hệ thống nuôi và nguồn nƣớc sử dụng Ao nuôi 1200 m2, 800 m2, ao lắng 840 m2, bể composite 3 m3, hệ thống sục khí, hệ thống dẫn nước, hệ thống điện, vật dụng nền đáy (cát, san hô), giá thể (chà cây, ống, dây). Nguồn nước sử dụng từ sông Rạch Chiếc, lấy nước vào ao lắng vào những ngày triều cường.
  • 16. 16 Hệ thống cấp nước Hệ thống sục khí Máy bơm 1 Máy AO LẮNG nén khí Máy bơm 2 Cống Sông Rạch Chiếc Nước vào Nước ra Van xả Hình 3.4. Hệ thống tuần hoàn trên bể composite nuôi tôm càng xanh hậu bị 3.2.3. Dụng cụ và hoá chất đo môi trƣờng Nhiệt kế, máy đo pH, đĩa secchi, pipet 10 ml, pipet chuẩn độ 25 ml, ống đong 250 ml, chai thủy tinh nút mài 250 ml… Hoá chất bao gồm hồ tinh bột, H2SO4 đậm đặc, NaOH, NaN3, KI, MnSO4.4H2O, dung dịch Na2S2O3 0,1 N… Ngoài ra còn các dụng cụ không thể thiếu được như máy bơm chìm 400 w, máy nén khí 500 w, xô, cân, lưới… 3.3. Phƣơng pháp nghiên cứu và bố trí thí nghiệm 3.3.1. Bố trí thí nghiệm Thí nghiệm được bố trí 3 nghiệm thức: bể composite đáy cát, bể composite đáy san hô có lớp lưới, bể đáy không, mỗi nghiệm thức lập lại 4 lần. Nghiệm thức 1: bể có lót một lớp cát dày 10 cm ở đáy bể, giá thể là cây, ống, dây.
  • 17. 17 Nghiệm thức 2: bể có lót một lớp san hô ở đáy dày 10 cm và phủ một lớp lưới bên trên, giá thể là cây, ống, dây. Nghiệm thức 3: bể không bố trí lót đáy, giá thể là cây, ống, dây. Tôm thả nuôi có trọng lượng trung bình trong bể 14 17 g, mật độ nuôi là 15 30 con trên bể. Lượng nước tuần hoàn giống nhau ở các bể thí nghiệm và dòng chảy là 7,5 lít trên phút 10 cm Bể đáy cát Bể đáy san hô Bể đáy không Hình 3.5. Bố trí thí nghiệm của bể composite 3.3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 3.3.2.1. Đánh giá các biến động môi trƣờng trong các hệ thống tuần hoàn khác nhau nuôi tôm càng xanh hậu bị Đo pH bằng máy ( pHScan 2 Waterproof), mỗi ngày hai lần vào lúc 7 giờ sáng và 2 giờ chiều. Đo nhiệt độ bằng nhiệt kế rượu, mỗi ngày hai lần vào lúc 7 giờ sáng và 2 giờ chiều. Đo DO bằng phương pháp Winkler, mỗi ngày hai lần vào lúc 7 giờ sáng và 2 giờ chiều. Đo amonia bằng test kit (sera NH+4/NH3 Test Kit-Germany), đo vào buổi chiều hai lần trong tuần. Đo nitrite bằng test kit (sera NO2 Test Kist- Germany), đo vào buổi chiều hai lần trong tuần. Đo độ trong bằng đĩa secchi vào buổi sáng một lần trong ngày.
  • 18. 18 Đo CaCO3 bằng phương pháp chuẩn độ bằng EDTA, chỉ đo ở nước của ao lắng. Đo H2S bằng phương pháp chuẩn độ, chỉ đo ở nước của ao lắng. 3.3.2.2. Đánh giá các chỉ tiêu tăng trƣởng và tỷ lệ sống Trước thí nghiệm và sau mỗi ba tuần tôm được cân, đo chiều dài, đồng thời đếm số lượng tôm. 3.3.2.3. Đánh giá chỉ tiêu thành thục sinh dục Kiểm tra sự phát triển tuyến sinh dục của tôm, kích thước, màu sắc, đẻ trứng, màu sắc trứng (giai đoạn thành thục sinh dục). 3.3.2.4. Kỹ thuật chăm sóc và cho ăn Vệ sinh bể và các giá thể hai tuần một lần. Cho ăn hai lần trong ngày 6 giờ sáng và 5 giờ chiều bằng thức ăn viên, thức ăn tươi như cá vụn, mực, nhộng tằm hai ngày một lần. Thiết kế nước chảy tràn, bằng hệ thống nước cấp ở đáy, sát thành bể để tạo ra dòng chảy làm sạch. 3.4. Xử lý số liệu Số liệu được xử lý bằng phần mềm Excel, sử dụng trắc nghiệm t và trắc nghiệm F.
  • 19. 19 Chƣơng 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Chúng tôi thực hiện các thí nghiệm đánh giá hệ thống tuần hoàn nuôi tôm càng xanh hậu bị bằng cách khảo sát các yếu tố môi trường trong các hệ thống nuôi sau đây: - Khảo sát môi trường của ao lắng. - Khảo sát môi trường trong từng bể nuôi của mỗi nghiệm thức thí nghiệm. - Khảo sát môi trường từng nghiệm thức thí nghiệm. 4.1. Ao lắng 4.1.1. Nhiệt độ Đồ thị 4.1. Biến động nhiệt độ nƣớc ao lắng Trong suốt thời gian nuôi, nước được cấp vào ao lắng và từ đây nước được bơm trực tiếp lên bể nuôi. Sự biến động nhiệt độ của ao lắng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của tôm nuôi, biến động nhiệt độ buổi sáng từ 28 33oC và biến động nhiệt độ buổi chiều từ 29 36oC. Hầu hết các ngày nhiệt độ buổi chiều biến động từ 33oC trở lên (đồ thị 4.1), nhìn trên đồ thị ta thấy thời gian đầu nhiệt độ nước rất cao vì thí nghiệm được tiến hành vào giữa mùa nắng. 4.1.2. Độ pH Đồ thi 4.2. Biến động độ pH trong nƣớc ao lắng
  • 20. 20 Trong suốt quá trình nuôi nước ao lắng có độ pH buổi sáng biến động từ (7 8,3) và pH buổi chiều biến động từ (7,3 9,6) (đồ thị 4.2), trong thời gian đầu pH cao có ngày pH đạt mức 9,6 vì thời gian bố trí thí nghiệm vào tháng 3 ở mùa nắng nên khí hậu nóng và tảo ở ao lắng mau tàn và khi tảo tàn làm cho độ pH tăng. 4.1.3. Một số yếu tố khác Bảng 4.1. Chỉ tiêu thủy hoá trong nƣớc ao lắng pH sáng (7 8,3) ; chiều (7,3 9,6) Nhiệt độ sáng (28 33oC) ; chiều (29 36oC) NH4-N 0,201 mg/l NO2-N 0,128 mg/l H2 S 0,01 mg/l CaCO3 33,33 mg/l Các yếu tố môi trường trong ao lắng (nguồn cung cấp nước cho hệ thống nuôi) có nhiệt độ và pH cao quá ngưỡng vào một số thời điểm. Những bất lợi này ảnh hưởng đến sức khỏe, tăng trưởng và thành thục của tôm. Nguồn nước cho vào trong hệ thống nuôi cần phải đạt các giới hạn về yêu cầu môi trường sống của tôm càng xanh. Trong điều kiện Trại Thực Nghiệm Thủ Đức cần chọn thời điểm hợp lý khi lấy nước từ sông Rạch Chiếc. Nước nuôi lấy vào ao lắng nhiều lần trong tháng, nên cần có hệ thống xử lý, lắng lọc trước khi cho vào hệ thống tuần hoàn. 4.2. Môi trƣờng của từng bể nuôi trong 3 nghiệm thức thí nghiệm Để đánh giá hệ thống tuần hoàn nuôi tôm càng xanh hậu bị, chúng tôi phân tích và so sánh các chỉ tiêu môi trường giữa 3 nguồn nước đó là nước đầu vào, nước trong bể và nước đầu ra ở 3 nghiệm thức: bể đáy cát, bể đáy san hô có lưới và bể đáy không. 4.2.1. Yếu tố nhiệt độ và pH i) Nghiệm thức 1 (bể đáy cát B2, B3, C4) Nhiệt độ: Nhiệt độ buổi sáng và buổi chiều giữa nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra của bể B2, B3, C4 là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhiệt độ trung bình buổi sáng đo được trong bể B2, B3, C4 lần lượt là 29,84oC; 29,84oC; 29,82oC:
  • 21. 21 nhiệt độ này thích hợp cho tôm. Nhiệt độ trung bình buổi chiều là 31,38oC; 31,33oC; 31,35oC. Do đó ở cả 3 bể đều có nhiệt độ trung bình buổi chiều cao hơn ngưỡng thích hợp của tôm, trong đó bể B2 có nhiệt độ cao hơn bể B3 và C4. Độ pH: Độ pH buổi sáng của nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra của bể B2, B3, C4 là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH buổi chiều giữa (nước đầu vào; nước đầu ra) của bể B2, B3 là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Riêng ở bể B2 có pH (nước trong bể; nước đầu vào) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Độ pH trung bình buổi sáng đo được của B2, B3, C4 là 7,39; 7,34; 7,37 và pH trung bình buổi chiều đo được trong bể B2, B3, C4 lần lượt là 7,82; 7,81; 8,03 đều nằm trong khoảng thích hợp của tôm, theo M.B.New và S.Singholka (1985) pH thích hợp cho tôm từ 7 8,5 (bảng 4.2, 4.3, 4.5, 4.6, 4.8, 4.9 phần phụ lục). ii) Nghiệm thức 2 (bể đáy san hô có lưới B5, B7, C3) Nhiệt độ: Nhiệt độ buổi sáng và buổi chiều giữa nước đầu vào, nước đầu ra, nước trong bể ở B5, B7, C3 là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhiệt độ trung bình buổi sáng đo được trong bể B5, B7, C3 là 29,85oC; 30,04oC; 29,84oC, nhiệt độ này thích hợp cho tôm và nhiệt độ trung bình buổi chiều đo được trong bể B5, B7, C3 lần lượt là 31,37oC; 31,62oC; 31,35oC. Như vậy nhiệt độ buổi chiều đều bị quá ngưỡng đối với tôm, mặt dù trong bể B7 nhiệt độ cao hơn bể B5 và C3 phần nào cho thấy ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm, đồng thời làm giảm tỷ lệ sống và khả năng thành thục của tôm. Độ pH: Độ pH buổi sáng của nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra của bể B5, B7, C3 là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH buổi chiều (nước đầu vào; nước đầu ra) của bể B5, C3 là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong đó pH trung bình buổi sáng của bể B5, B7, C3 là 7,36; 7,37; 7,4 và pH trung bình buổi chiều tương ứng là 7,85; 7,88; 8,0 đều thích hợp đôi với tôm (bảng 4.11, 4.12, 4.14, 4.15, 4.17, 4.18 phần phụ lục).
  • 22. 22 iii) Nghiệm thức 3 (bể đáy không B9, B10, C2) Nhiệt độ: Nhiệt độ buổi sáng, chiều giữa nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nhiệt độ trung bình buổi sáng trong bể B9, B10, C2 lần lượt là 29,86oC; 29,77oC; 29,86oC nằm trong ngưỡng thích hợp và nhiệt độ trung bình buổi chiều là 31,36oC; 31,29oC, 31,34oC. Trong đó bể B9 có nhiệt độ cao hơn bể B10 và C3 với nhiệt độ cao này phần nào ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm. Độ pH: Độ pH buổi sáng, chiều giữa nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH trung bình buổi sáng trong bể B9, B10, C2 lần lượt là 7,37; 7,34; 7,4 và pH trung bình buổi chiều là 7,85; 7,81;7,99 đều thích hợp cho tôm (bảng 4.20, 4.21, 4.23, 4.24, 4.26, 4.27 phần phụ lục). 4.2.2. Yếu tố nitrite và amonia i) Nghiệm thức 1 (bể đáy cát B2, B3,C4) Nitrite: qua các chỉ số nitrite đo được của từng bể trong nghiệm thức này ta thấy: Ở bể B2 và C4: chỉ số nitrite giữa nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Bể B3 chỉ số nitrite so sánh cặp (nước đầu vào; nước trong bể) và (nước đầu vào; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Sự khác biệt này giúp ta đánh giá hiệu quả của việc xử lý lượng nitrite trong phần sau. Lượng nitrite trung bình đo được ở các bể B2, B3, C4 lần lượt là 0,15 mg/l; 0,17 mg/l; 0,16 mg/l. Qua xử lý, so sánh chỉ số nitrite của nước trong bể và nước đầu ra thì lượng nitrite lưu lại trong bể B2, B3, C4 lần lượt là 0,02 mg/l; 0,03 mg/l và 0,02 mg/l. Do đó hiệu quả xử lý lượng nitrite trong bể không thải được hoàn toàn ra ngoài, ở bể B3 lượng nitrite lưu lại cao hơn bể B2, C4 và lượng nitrite trong bể B3 cao do đó nó ảnh hưởng đến tôm.
  • 23. 23 Amonia: Bể B2, B3: so sánh cặp chỉ số amonia (nước đầu vào; nước trong bể) và (nước đầu vào; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05); bể C4: so sánh cặp ở cả 3 nguồn nước đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Lượng amonia trung bình đo được trong bể B2, B3, C4 tương ứng là 0,35 mg/l; 0,37 mg/l và 0,34 mg/l, trong đó lưu lượng amonia trong bể B2, B3,C4 lần lượt là 0,05 mg/l; 0,03 mg/l và 0,04 mg/l. Do đó hiệu quả thải lượng amonia của nước trong bể ra ngoài là không hoàn toàn , cụ thể là ở bể B2 chỉ số amonia lưu lại trong bể cao hơn bể B3 và C4. Vì vậy sự ô nhiễm trong bể B2 cao sẽ gây bất lợi trực tiếp đến tôm (bảng 4.4, 4.6, 4.10 phần phụ lục). ii) Nghiệm thức 2 (bể đáy san hô có lưới B5, B7, C3) Nitrite : Bể B7, C3: so sánh cặp chỉ số nitrite của (nước đầu vào; nước đầu ra), (nước đầu vào; nước trong bể) và (nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Riêng ở bể B5 chỉ số nitrite so sánh cặp (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Lượng nitrite trung bình đo được ở các bể B5, B7, C3 lần lượt là 0,16 mg/l; 0,15 mg/l; 0,16 mg/l, trong đó lượng nitrite lưu lại trong bể B5, B7, C3 lần lượt là 0,02 mg/l; 0,01 mg/l và 0,01mg/l. Vì vậy lương nitrite lưu lại ở các bể trong nghiệm thức này không có sự khác biệt lớn do đó lượng nitrite thải ra ngoài hiệu quả hơn ở các bể đáy cát. Amonia: Bể B7, C3 chỉ số amonia so sánh từ các cặp (nước đầu vào; nước đầu ra), (nước đầu vào; nước trong bể) và (nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Riêng ở bể B5 chỉ số amonia so sánh cặp (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Lượng amonia trung bình trung đo được trong bể B5, B7,C3 tương ứng là 0,37 mg/l; 0,35 mg/l và 0,34 mg/l, trong đó lượng amonia lưu lại trong bể B5, B7, C3 lần lượt là 0,05mg/l, 0,02mg/l và 0,03 mg/l. Do đó hiệu quả đưa lượng amonia ra ngoài ở bể B5, B7, C3 là không hiệu quả là dò dòng chảy không đủ mạnh để đưa các chất cặn
  • 24. 24 và thức ăn thừa ra ngoài. Chính vì thế lượng amonia lưu lại trong bể B5 cao sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm và đồng thời gây chết tôm (bảng 4.13, 4.16, 4.19 phần phụ lục). iii) Nghiệm thức 3 (bể đáy không B9, B10, C2) Nitrite: Ở bể B9, B10, C2: so sánh các cặp chỉ số nitrite của (nước đầu vào; nước trong bể) và (nước đầu vào; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên lượng nitrite trung bình đo được trong bể B9, B10, C2 tương ứng là 0,17 mg/l; 0,17 mg/l và 0,15 mg/l, trong khi đó lượng nitrite lưu lại trong bể B9, B10, C2 lần lượt là 0,02 mg/l; 0,01 mg/l và 0,01 mg/l giống như lưu lượng nitrite trong bể cát. Cho nên lượng ô nhiễm trong bể B9 cao hơn bể B10, C2 được thể hiện cụ thể qua chỉ số nitrite trong bể và chỉ số nitrite lưu lại trong bể, do đó sẽ gây bất lợi cho tôm. Amonia: Bể B9, B10, C2: so sánh cặp chỉ số amonia của (nước đầu vào; nước trong bể) và (nước đầu vào; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Lượng amonia trung bình đo được trong bể B9, B10, C2 tương ứng là 0,39 mg/l, 0,33 mg/l, 0,3 mg/l, qua so sánh chỉ số amonia giữa nước trong bể và nước đầu ra thì lượng amonia lưu lại trong bể B9, B10, C2 lần lượt là 0,03mg/l, 0,03mg/l, 0,02mg/l. Tuy nhiên ở bể B9 lượng amonia trong bể cao hơn lượng amonia trong các bể đáy cát và đáy san hô, cho nên sự ô nhiễm trong bể này cao ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm. Mặc dù lượng amonia lưu lại trong bể B9 so với các bể ở đáy cát và đáy san hô là thấp hơn, do đó phần nào làm giảm bớt ảnh hưởng đến tôm (bảng 4.22, 4.25,4.28 phần phụ lục). 4.3. Các yếu tố khác Chỉ số DO và độ trong được phân tích ở phần 4.4 của từng nghiệm thức thí nghiệm.
  • 25. 25 4.4. Môi trƣờng của từng nghiệm thức thí nghiệm 4.4.1. Yếu tố nhiệt độ và pH i) Nghiệm thức 1 (bể đáy cát) Dưới đây là bảng số liệu rút gọn được xử lý từ các số liệu ghi nhận hàng ngày trong suốt quá trình làm thí nghiệm từ 3 nguồn nước của bể nuôi. Bảng 4.29. Bể đáy cát: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung bình buổi sáng (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi sáng (dƣới đƣờng chéo) Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3) 0,0012 0,0019 (1) Nước đầu vào (1) (30,61 1,043; (30,61(1) 1,043; 29,74(2) 1,146) 29,79(3) 1,92) 0,7154 0,1402 (1) Nước đầu ra (2) (7,32 0,084; (29,74(2) 1,146; 7,30(2) 0,045) 29,79(3) 1,92) 0,2900 0,0240 (1) Nước trong bể (3) (7,32 0,084; (7,30(2) 0,045; 7,36(3) 0,063) 7,36(3) 0,063) Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể. Với số liệu từ bảng 4.29 ở mục nhiệt độ buổi sáng chúng tôi ghi nhận được: Nhiệt độ trung bình của hệ thống bể cát giữa (nước đầu vào; nước đầu ra) có p = 0,0012 và (nước đầu vào; nước trong bể) có p = 0,0019 điều cho sự khác biệt có ý nghĩa thống kê vì (p < 0,05). Nhìn chung vào buổi sáng nhiệt độ của 3 nguồn nước có sự chênh lệch, tuy nhiên nhiệt độ trung bình trong hệ thống bể cát là 29,79oC với nhiệt độ này nằm trong ngưỡng thích hợp của tôm. Trong khi đó nhiệt độ trung bình đầu ra là 29,74oC thấp hơn nhiệt độ trong bể là do nước đầu ra ở đáy bể. Cũng từ bảng 4.29 ở mục pH buổi sáng chúng tôi ghi nhận được: Độ pH trung bình của nước (nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Tuy nhiên độ pH trung bình trong bể 7,36, với pH này thích hợp cho tôm. Độ pH nước đầu vào 7,3 đây là pH của nước ao lắng được bơm trực tiếp lên bể.
  • 26. 26 Tương tự như trên chúng tôi cũng ghi nhận được nhiệt độ và pH vào buổi chiều. Bảng 4.30. Bể đáy cát: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung bình buổi chiều (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi chiều (dƣới đƣờng chéo). Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3) 0,00002 0,0011 (1) Nước đầu vào (1) (32,18 1,287; (32,18(1) 1,287; 31,25(2) 1,302) 31,35(3) 1,395) 0,0925 0,2216 (1) Nước đầu ra (2) (7,94 0,326; (31,35(3) 1,395; 7,76(2) 0,195) 31,25(2) 1,302) 0,4236 0,0046 (1) Nước trong bể (3) (7,94 0,326; (7,88(3) 0,207; 7,88(3) 0,207) 7,76(2) 0,195) Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể Theo bảng 4.30 số liệu chúng tôi ghi nhận ở phần mục nhiệt độ buổi chiều như sau: Nhiệt độ trung bình của (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong khi đó nhiệt độ trung bình của nước trong bể là 31,35oC với nhiệt độ này cao hơn ngưỡng nhiệt độ thích hợp của tôm, theo M.B.New (2002) tôm thành thục được nuôi trong bể ở nhiệt độ tốt nhất từ 27 31oC nhưng theo Su-Mei Chen và Jiann-Chu Chen (2002) nhiệt độ tốt nhất cho sinh trưởng của tôm từ 29 31oC. Cũng từ bảng 4.30 trên ở mục pH buổi chiều chúng tôi ghi nhận được như sau: Độ pH nước trung bình buổi chiều giữa (nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05). Độ pH nước trung bình buổi chiều trong bể 7,88, độ pH này nằm trong ngưỡng thích hợp cho tôm, theo một số tác giả như M.B.New và S.Singholka (1985); M.B.New (2002) pH thích hợp cho tôm từ 7 8,5. Độ pH trung bình nước đầu ra buổi sáng và buổi chiều thấp hơn so với pH trung bình của nước trong bể là do sự phân hủy thức ăn thừa và chất cặn ở đáy bể.
  • 27. 27 ii) Nghiệm thức 2 (bể đáy san hô có lớp lưới) Cũng tương tự như ở bể đáy cát chúng tôi cũng ghi nhận số liệu hàng ngày và được xử lý thu gọn ở bảng dưới đây: Bảng 4.31. Bể đáy san hô: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung bình buổi sáng (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi sáng (dƣới đƣờng chéo) Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3) 0,0008 0,0031 (1) Nước đầu vào (1) (30,62 1,050; (30,62(1) 1,050; 29,76(2) 1,151) 29,83(3) 1,208) 0,7542 0,1817 (1) Nước đầu ra (2) (7,32 0,089; (29,83(3) 1,208; 7,33(2) 0,055) 29,76(2) 1,151) 0,0997 0,1767 (1) Nước trong bể (3) (7,32 0,089; (7,37(3) 0,055; 7,37(3 ) 0,055) 7,33(2) 0,055) Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể. Theo bảng 4.31ở mục nhiệt độ buổi sáng chúng tôi đã ghi nhận được như sau: Nhiệt độ trung bình buổi sáng (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên nhiệt độ trung bình buổi sáng trong bể 29,83oC nằm trong ngưỡng thích hợp cho tôm. Theo bảng 4.31 ở mục pH buổi sáng chúng tôi cũng ghi nhận được: Độ pH trung bình của nước đầu vào, nước trong bể, nước đầu ra là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH trung bình trong bể 7,37 nằm trong ngưỡng thích hợp cho tôm tăng trưởng. Tương tự như trên chúng tôi cũng ghi nhận được nhiệt độ và pH buổi chiều.
  • 28. 28 Bảng 4.32. Bể đáy san hô: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung bình buổi chiều (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi chiều (dƣới đƣờng chéo) Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3) 0,00003 0,0027 (1) Nước đầu vào (1) (32,17 1,293; (32,17(1) 1,293; 31,26(2) 1,321) 31,37(3) 1,423) 0,0805 0,1977 (1) Nước đầu ra (2) (7,95 0,322; (31,37(3) 1,423; 7,74(2) 0,195) 31,26(2) 1,321) 0,2690 0,0182 (1) Nước trong bể (3) (7,95 0,322; (7,88(3) 0,239; 7,88(3) 0,239) 7,74(2) 0,195) Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể. Theo bảng 4.32 ở mục nhiệt độ buổi chiều chúng tôi ghi nhận như sau: Nhiệt độ trung bình giữa (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Nhiệt đô trung bình trong bể 31,37oC cao hơn ngưỡng thích hợp của tôm. Đối chiếu chỉ tiêu nhiệt độ ở nghiệm thức này với hai nghiệm thức còn lại thì có thể thấy nghiệm thức san hô có lượng nhiệt cao hơn. Theo bảng 4.32 ở mục pH buổi chiều chúng tôi ghi nhận được: Độ pH trung bình của nước trong bể và nước đầu ra là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Trong khi đó độ pH trung bình của nước trong bể 7,88 nằm trong ngưỡng của tôm. iii) Nghiệm thức 3 (bể đáy không) Tương tự như trên đây là bảng số liệu đã được xử lý từ số liệu ghi nhận hàng ngày trong hệ thống bể đáy không trong suốt quá trình thí nghiệm.
  • 29. 29 Bảng 4.33. Bể đáy không: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung bình buổi sáng (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi sáng (dƣới đƣờng chéo) Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3) 0,0008 0,0019 (1) Nước đầu vào (1) (30,61 1,054; (30,61(1) 1,054; 29,73(2) 1,140) 29,79(3) 1,186) 0,6714 0,1942 (1) Nước đầu ra (2) (7,31 0,089; (29,79(3) 1,186; 7,30(2) 0,063) 29,73(2) 1,140) 0,1041 0,0222 (1) Nước trong bể (3) (7,31 0,089; (7,36(3) 0,077; 7,36(3) 0,077) 7,30(2) 0,063) Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể. Theo bảng 4.33 ở mục nhiệt độ buổi sáng chúng tôi đã ghi nhận được: Nhiệt độ trung bình của (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên nhiệt độ trung bình của nước trong bể 29,79oC nằm trong ngưỡng thích hợp của tôm. Từ bảng 4.33 ở phần pH buổi sáng được thể hiện cụ thể như sau: Độ pH nước trung bình của nước trong bể và nước đầu ra là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Độ pH nước trung bình trong bể 7,36 nằm trong ngưỡng của tôm. Tương tự như trên số liệu về nhiệt và pH buổi chiều được ghi nhận dưới bảng sau: Bảng 4.34. Bể đáy không: giá trị p của trắc nghiệm t giữa nhiệt độ trung bình buổi chiều (trên đƣờng chéo) và pH trung bình buổi chiều (dƣới đƣờng chéo) Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3) 0,0001 0,0005 (1) Nước đầu vào (1) (32,19 1,315; (32,19(1) 1,315; 31,24(2) 1,303) 31,34(3) 1,387) 0,0255 0,21512 (1) Nước đầu ra (2) (7,94 0,327; (31,34(3) 1,387; 7,75(2) 0,212) 31,24(2) 1,303) 0,2799 0,0071 (1) Nước trong bể (3) (7,94 0,327; (7,88(3) 0,232; 7,88(3) 0,232) 7,75(2) 0,212)
  • 30. 30 Ghi chú: (1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể. Kết quả thể hiện ở bảng 4.34 ở mục nhiệt độ buổi chiều như sau: Nhiệt độ trung bình giữa (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên nhiệt độ trung bình của nước trong bể 31,34oC cao hơn nhiệt độ thích hợp của tôm. Theo bảng 4.34 thì độ pH nước trung bình (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước trong bể; nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Độ pH nước trung bình trong bể 7,88 nằm trong ngưỡng thích hợp đối với tôm. 4.4.2 Số ngày có nhiệt độ, pH quá ngƣỡng trong các nghiệm thức Bảng 4.35. Giá trị p của trắc nghiệm t giữa số ngày trung bình có pH quá ngƣỡng (trên đƣờng chéo) và số ngày trung bình có nhiệt độ quá ngƣỡng (dƣới đƣờng chéo) Bể đáy cát (1) Bể đáy san hô (2) Bể đáy không (3) Bể đáy cát (1) 0,7277 0,5728 (1) (2) (2,09 ; 2,13 ) (2,09(1) ; 2,50(3)) Bể đáy san hô (2) 0,2532 0,6096 (1) (2) (5,00 ; 5,33 ) (2,50(3) ; 2,13(2)) Bể đáy không (3) 1 0,2532 (1) (3) (5,00 ; 5,00 ) (5,33(2) ; 5,00(3)) Ghi chú: (1) Số ngày trung bình bể cát, (2) số ngày trung bình bể san hô, (3) số ngày trung bình bể đáy không Trong quá trình thí nghiệm nhiệt độ có ngày đạt mức 36 oC cho nên phần nào cũng ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm. Nhưng theo M.B.New và W.C.Valenti (2000) tôm trưởng thành có khả năng chịu được nhiệt độ rộng từ 18 34oC. Số ngày trung bình quá ngưỡng nhiệt độ và pH của hệ thống bể cát, bể san hô có lớp lưới, bể đáy không là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Trong hệ thống bể cát và không lót đáy có số ngày trung bìnnh nhiệt độ quá ngưỡng là 5 ngày, trong hệ thống bể san hô có lớp lưới số ngày trung bình 5,33 ngày cao hơn bể không lót đáy và bể cát, do đó số lần sốc nhiệt của tôm trong hệ thống bể san hô có lớp lưới cao cho nên tôm thường bị stress và ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm. Tuy nhiên nhiệt độ trong hai buổi sáng và chiều thì thấy rằng loại đáy bố trí ở trong bể không gây ảnh hưởng nhiều đến nhiệt độ trong bể. Lý do đây là hệ thống tuần
  • 31. 31 hoàn, nước ra vào liên tục, nhiệt độ trong bể phụ thuộc chủ yếu vào nhiệt độ của ao lắng. Ngoài ra còn do hệ thống ống dẫn nước đầu vào quá nhỏ, bị đốt nóng thành ống khi trời nắng làm cho nhiệt độ nước trong ống tăng khi được cấp vào bể nuôi. Độ pH quá ngưỡng biến động từ 8,6 9,4, với pH cao sẽ gây bất lợi cho tôm, khi pH tăng thì làm cho lượng amonia tăng có thể gây độc cho tôm. 4.4.3 Lƣợng oxy hòa tan (DO) trong các nghiệm thức Bảng 4.36. Gía trị p của trắc nghiệm t DO trung bình buổi chiều (trên đƣờng chéo) và DO trung bình buổi sáng (dƣới đƣờng chéo) Bể đáy cát (1) Bể đáy san hô (2) Bể đáy không (3) 0,0021 0,5714 (1) Bể đáy cát (1) (5,29 ± 0,274; (5,29(1) ± 0,274; (2) 5,17 ± 0,219) 5,27(3) ± 0,210) 0,1354 0,0004 Bể đáy san hô (2) (4,75(1) ± 0,351; (5,27(3) ± 0,210; 4,70(2) ± 0,373) 5,17(2) ± 0,219) 0,1115 0,0052 (1) Bể đáy không (3) (4,75 ± 0,351; (4,81(3) ± 0,361; 4,81(3) ± 0,361) 4,70(2) ± 0,373) Ghi chú: (1) DO trung bình bể đáy cát, (2) DO trung bình bể đáy san hô, (3) DO trung bình bể đáy không. Nhìn chung lượng DO trung bình sáng và chiều trong hệ thống bể cát từ 4,75 5,29 mg/l, trong hệ thống bể san hô từ 4,7 5,17 mg/l, trong hệ thống bể không lót đáy từ 4,81 5,27 mg/l thích hợp cho tôm, theo M.B.New và W.C.Valenti (2000) DO thích hợp cho tôm từ 3 7 mg/l. Hàm lượng DO trong hệ thống bể cát và bể san hô, bể san hô và bể không lót đáy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tuy nhiên lượng DO cao thích hợp cho nhu cầu oxy của tôm không ảnh hưởng lớn đối với sự sinh trưởng của tôm. 4.4.4 Độ trong của các nghiệm thức thí nghiệm Bảng 4.37. Gía trị p của trắc nghiệm t so sánh độ trong của bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không Bể đáy san hô (2) Bể đáy không (3) -13 8,05.10 0,000663 (1) Bể đáy cát (1) (24,77 ± 2,979; (24,77(1) ± 2,979; (2) 28,12 ± 3,542) 25,97(3) ± 3,696) Bể đáy san hô (2) 4,74.10-8
  • 32. 32 (28,12(2) ± 3,542; 25,97(3) ± 3,696) Ghi chú: (1) độ trong trung bình bể đáy cát, (2) độ trong trung bình bể đáy san hô, (3) độ trong trung bình bể đáy không. Độ trong trung bình trong hệ thống bể cát, san hô, bể không lót đáy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Độ trong trung bình của hệ thống bể cát 24,8 cm, bể san hô có lưới 28,9 cm, bể không lót đáy 26,24 cm. Nhận thấy độ trong ở bể cát thấp nhất trong 3 nghiệm thức đáy bể, chúng tôi có nhận định sơ bộ như sau: Có thể do lượng cát quá ít không đủ để lắng đọng hay giử lại những chất cặn hữu cơ lơ lửng. Có thể là do các chất bùn cặn lơ lửng trong ao lắng được bơm liên tục lên bể qua lượng nước đầu vào. Độ sâu của nước trong bể thấp và bể thí nghiệm tương đối nhỏ. Đây là hệ thống tuần hoàn nên nước trong bể bị xáo trộn liên tục. Trong hệ thống bể san hô có độ trong cao vì nền đáy san hô có khả năng lắng các chất bùn cặn và các chất thải dưới khe hở của lớp san hô dưới lớp lưới. Độ trong trong 3 nghiệm thức thí nghiệm khác nhau, tuy nhiên không ảnh hưởng lớn đến hoạt động bắt mồi của tôm. 4.4.5 Khảo sát lƣợng amonia và nitrite trong các nghiệm thức Với việc đánh giá hiệu quả của 3 nền đáy trong cùng môt hệ thống tuần hoàn thì chúng tôi chú trọng đến chỉ tiêu nitrite và amonia do chúng ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tỷ lệ sống và thành thục sinh dục của tôm. Do đó việc ghi nhận số liệu và theo dõi được xử lý hàng ngày để kịp thời hạn chế những nguy cơ gây hại cho tôm có thể xảy ra. Dưới đây là các bảng kết quả đã được xử lý thu gọn theo thứ tự: bể đáy cát, bể đáy san hô có lưới và bể đáy không. Bảng 4.38. Bể đáy cát: giá trị p của trắc nghiệm t giữa NO2-N trung bình (trên đƣờng chéo) và NH4-N trung bình (dƣới đƣờng chéo) Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3) 0,000352 1,49.10-7 Nước đầu vào (1) (0,11(1) 0,026; (0,11(1) 0,026; 0,14(2) 0,026) 0,16(3) 0,030)
  • 33. 33 0,0288 4,7.10-6 Nước đầu ra (2) (0,22(1) 0,045; (0,16(3) 0,030; 0,31(2) 0,063) 0,14(2) 0,026) 0,0244 0,0977 Nước trong bể (3) (0,22(1) 0,045; (0,34(3) 0,089; 0,34(3) 0,089) 0,31(2) 0,063) Ghi chú: ( 1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể . Bảng 4.39. Bể đáy san hô: giá trị p của trắc nghiệm t giữa NO2-N trung bình (trên đƣờng chéo) và NH4-N trung bình (dƣới đƣờng chéo) Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3) 8,71.10-5 1,75.10-7 Nước đầu vào (0,11(1) ± 0,032; (0,11(1) 0,032; (1) 0,15(2) ± 0,035) 0,16(3) 0,035) 0,0047 0,0005 (1) Nước đầu ra (2) (0,22 0,037; (0,16(3) 0,035; 0,35(2) 0,017) 0,15(2) 0,035) Nước trong bể 0,0059 0,5887 (3) (0,22(1) 0,037; (0,37(3) 0,064; 0,37(3) 0,064) 0,35(2) 0,017) Ghi chú: ( 1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể. Bảng 4.40. Bể đáy không: giá trị p của trắc nghiệm t giữa NO2-N trung bình (trên đƣờng chéo) và NH4-N trung bình (dƣới đƣờng chéo) Nước đầu vào (1) Nước đầu ra (2) Nước trong bể (3) -5 5,33.10 8,51.10-7 Nước đầu vào (1) (0,11(1) 0,026; (0,11(1) 0,026; 0,15(2) 0,033) 0,16(3) 0,036) 0,0095 2,53.10-5 Nước đầu ra (2) (0,21(1) 0,046; (0,16(3) 0,036; 0,31(2) 0,064) 0,15(2) 0,033) 0,0115 0,1413 (1) Nước trong bể (3) (0,21 0,046; (0,33(3) 0,070; 0,33(3) 0,070) 0,31(2) 0,064) Ghi chú: ( 1) trung bình nước vào, (2) trung bình nước ra, (3) trung bình nước trong bể . Theo số liệu từ 3 bảng 4.38, 4.39, 4.40 ở mục hàm lượng nitrite chúng tôi ghi nhận được: Chỉ tiêu nitrite: Lượng nitrite trung bình của (nước đầu vào; nước đầu ra), (nước đầu vào; nước trong bể) và (nước trong bể, nước đầu ra) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
  • 34. 34 Hiệu quả xử lý chất thải hữu cơ lơ lửng trong nước được đánh giá thông qua khả năng thải amonia, nitrite...trong bể ra ngoài, nghĩa là lượng nitrite nguồn nước trong bể và nước đầu ra có chỉ số đo là như nhau. Qua số liệu xử lý thống kê, chỉ số nitrite trung bình của nước trong bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không đều là 0,16 mg/l. Tuy nhiên với lượng nitrite này thì cao hơn ngưỡng thích hợp của tôm, theo M.B.New và W.C.Valenti (2000) lượng nitrite phải dưới 0,1 mg/l. Trong khi đó lượng nitrite nước đầu ra của bể đáy san hô và bể đáy không đều 0,15 mg/l. Riêng bể đáy cát là 0,14 mg/l thấp hơn bể đáy cát và bể đáy không. Vì vậy, qua số liệu xử lý lượng lưu lại ở bể đáy san đáy cát, bể đáy không và bể đáy san hô lần lượt là 0,02 mg/l; 0,01 mg/l; 0,01 mg/l. Chỉ số nitrite lưu lại trong bể đáy cát gấp 2 lần (0,02/0,01) bể đáy san hô và đáy không. Dựa vào kết quả dư lượng nitrite còn lại ở nguồn nước trong bể, ta có thể thấy phần nào hệ thống bể đáy san hô và bể đáy không là có hiệu quả hơn, mặc dù hiệu quả là không cao. Chỉ tiêu amonia: Kết quả số liệu ở 3 bảng 4.38, 4.39 và 4.40 về lượng amonia từ 3 nghiệm thức (bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không) chúng tôi có kết luận sau: Lượng amonia trung bình của (nước đầu vào; nước đầu ra) và (nước đầu vào; nước trong bể) là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tuy nhiên lượng amonia trung bình trong bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không lần lượt là 0,34 mg/l; 0,37 mg/l và 0,33 mg/l, cả 3 chỉ số amonia này đều cao hơn ngưỡng thích hợp của tôm, theo New (1990) lượng amonia thấp hơn 0,1 mg/l. Tuy nhiên cả 3 chỉ số amonia này là amonia tổng số, gây độc cho tôm khi pH tăng, theo M.B.New và W.C.Valenti (2000) khi pH 8,5 9,0 thì amonia tổng số cao hơn 1 mg/l. Điều này cũng tạo ra những kết quả không mong muốn từ quá trình thử nghiệm 3 nghiệm thức. Trong quá trình nuôi tác động của hệ đáy lọc không đủ xử lý, làm giảm lượng amonia nên chúng tôi cố gắng hạn chế một số ảnh hưởng gây độc trực tiếp đến tôm của amonia bằng kiểm soát pH, nước vào và ra phải liên tục...Cũng tương tự như so sánh chỉ số dư lượng amonia lưu lại trong bể ở hệ thống bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không tương ứng là 0,03 mg/l; 0,02 mg/l và 0,02 mg/l thì có thể nhìn nhận sơ bộ là khả năng xử lý amonia ở bể đáy
  • 35. 35 cát thấp nhất. Mặc dù vậy nhưng chỉ số amonia trung bình trong nghiệm thức bể đáy cát và đáy không là thấp hơn so với bể đáy san hô, nghĩa là lượng ô nhiễm trong 2 nghiệm thức (bể đáy cát và đáy không) thấp hơn lượng ô nhiễm trong nghiệm thức đáy san hô và đó có thể là lý do chính dẫn đến tỷ lệ sống và thành thục trong bể san hô là thấp nhất. Tuy nhiên trong quá trình thí nghiệm, các chỉ số đo lượng nitrite và amonia từ nguồn nước đầu vào (ao lắng) thường lớn hơn ngưỡng cho phép, có thể là nguồn nước bị ô nhiễm từ sông, đây là một trong những hạn chế của đề tài. Do điều kiện không cho phép nên chúng tôi không xử lý nước ao lắng trước khi cho chạy vào hệ thống tuần hoàn nên số liệu đo lường các chỉ số nitrite cũng như amonia ngay từ ban đầu là đã khá cao so với cho phép. Chúng tôi nhận định vấn đề này và hy vọng sẽ có những phương pháp xử lý hay bố trí lại cho phù hợp với yêu cầu nghiên cứu hơn. 4.4.6 Số ngày có hàm lƣợng amonia và nitrite quá ngƣỡng Bảng 4.4.1. Giá trị p của trắc nghiệm t giữa số ngày trung bình có NO2-N quá ngƣỡng trên (đƣờng chéo) và số ngày trung bình có NH4-N quá ngƣỡng (dƣới đƣờng chéo) Bể đáy cát (1) Bể đáy san hô (2) Bể đáy không (3) Bể đáy cát (1) 0,7952 0,5892 (6,84(1) ; 6,34(2)) (6,84(1) ; 5,83(3)) 0,1346 0,2010 Bể đáy san hô (2) (1) (2) (2,92 ; 2,17 ) (6,34(2) ; 5,83(3)) Bể đáy không (3) 0,6376 0,4744 (2,92 ; 2,67 ) (2,17(2) ; 2,67(3)) (1) (3) Ghi chú:(1) Số ngày trung bình bể cát, (2) số ngày trung bình bể san hô, (3) số ngày trung bình bể đáy không. Số ngày trung bình có hàm lượng nitrite và amonia quá ngưỡng trong hệ thống bể đáy cát, bể đáy san hô có lưới và bể đáy không là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Chất nitrite và amonia là chất độc khi hàm lượng cao hơn ngưỡng thích hợp của tôm, trong quá trình nuôi hàm lượng nitrite có ngày đạt 0,2 mg/l, mức cho phép là dưới 0,1 mg/l với hàm lượng nitrite cao làm cho tôm bị chết, trong hệ thống bể đáy cát trung bình có 6,84 ngày lượng nitrite đạt mức 0,2 mg/l, bể san đáy hô có lưới là 6,34 ngày, bể không lót đáy là 5,83 ngày.
  • 36. 36 Hàm lượng amonia cao trong bể có ngày đạt từ 0,5 mg/l trở lên, với hàm lượng này có thể gây độc cho tôm theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2003) và Nguyễn Việt Thắng (1995) hàm lượng amonia dưới 0,1 mg/l, trong hệ thống bể đáy cát có số ngày trung bình có hàm lượng amonia cao là 2,92 ngày, bể đáy san hô có lưới là 2,17 ngày và bể đáy không 2,67 ngày. 4.4.7 Đánh giá tỷ lệ sống và tăng trƣởng của tôm trong các nghiệm thức 4.5.1. Tỷ lệ sống Bảng 4.42. Gía trị p của trắc nghiệm t về tỷ lệ sống trung bình ( trên đƣờng chéo) và tăng trọng trung bình ( dƣới đƣờng chéo) Bể đáy cát (1) Bể đáy san hô (2) Bể đáy không (3) 0,0503 0,0836 (1) Bể đáy cát (1) (0,94 ± 0,055; (0,94(1) ± 0,055; 0,83(2) ± 0,182) 0,89(3) ± 0,110) 0,7726 0,3536 (1) Bể đáy san hô (2) (0,15 ± 0,095; (0,83(2) ± 0,182; (2) 0,14 ± 0,063) 0,89(3) ± 0,110) 0,3979 0,3902 Bể đáy không (3) (0,15 ± 0,095; (0,14(2) ± 0,063; (1) 0,11(3) ± 0,063) 0,11(3) ± 0,063) Ghi chú: (1) trung bình bể đáy cát, (2) trung bình bể đáy san hô, (3) trung bình bể đáy không. Kết quả số liệu trong bảng 4.42 ở mục tỷ lệ sống chúng tôi ghi nhận được: Số liệu so sánh tỷ lệ sống của (bể đáy cát; bể đáy san hô) và (bể đáy san hô; bể đáy không) là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Trên thực tế chúng tôi ghi nhận tỷ lệ sống của hệ thống bể đáy cát đạt 94 , bể đáy san hô 83 , bể đáy không 89 . Ở bể đáy san hô có tỷ lệ sống thấp là vì bị ô nhiễm dưới lớp lưới, các chất cặn, thức ăn thừa lắng đọng dưới lớp lưới phân hủy tạo chất độc đối với tôm, làm cho tôm bị chết, được thể hiện cụ thể qua chỉ số amonia cao trong bể và việc xử lý nitrite ra ngoài không hoàn toàn của bể đáy san hô và đồng thời lượng nitrite lưu lại trong bể cao. Ngoài ra lớp lưới ở bể đáy san hô lâu ngày bị đóng rong làm tắt nghẽn lỗ thoát dòng chảy không đưa được chất cặn ra ngoài do đó nó ảnh hưởng đến tỷ lệ sống.
  • 37. 37 4.5.2. Tăng trƣởng Bảng 4.43. Trọng lƣợng ban đầu của tôm Số bể Bể đáy cát Bể đáy san hô Bể đáy không 1 6,65 6,45 5,65 2 14 19,85 17,8 3 21,38 24,63 25,47 Trung bình 14,01 16,98 16,31 Trọng lượng ban đầu trong hệ thống bể đáy cát, bể đáy san hô có lưới, bể đáy không là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tỷ lệ tăng trọng được thực hiện dựa vào việc cân đo trọng lượng tôm thí nghiệm định kỳ 29-33 ngày trên lần bằng cân điện tử. Quan sát thấy tôm có màu sắc sáng, trong, không có hiện tượng đen thân và đóng rong, do dòng chảy dược thiết kế gần mặt đáy với vận tốc dòng chảy là 7,5 lít trên phút. Theo số liệu từ bảng 4.42 phân tích ở mục trọng lượng chúng tôi ghi nhận được: So sánh sự tăng trưởng trung bình trong bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Tuy nhiên khả năng tăng trọng trung bình trong bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không lần lượt là 0,15 g/ngày; 0,14 g/ngày; 0,11 g/ngày. Như vậy sự tăng trọng của nghiệm thức đáy cát là cao nhất, do trọng lượng ban đầu của nhóm tôm khảo sát là tôm nhỏ, tôm trong giai đoạn trưởng thành, cho tỷ lệ tăng trọng là cao nhất. 4.5.3. Số lƣợng tôm thành thục trong các nghiệm thức Biểu đồ 4.1. Số con thành thục sinh dục
  • 38. 38 Kết quả thể hiện ở đồ thị 4.1, qua các đợt thí nghiệm khả năng thành thục của tôm trong hệ thống bể cát cao hơn hệ thống bể đáy không và bể đáy san hô. Tuy nhiên trong hệ thống bể san hô có lưới khả năng thành thục của tôm là thấp nhất trung bình là 2,25 con trên đợt và trong hệ thống cát là 16,25 con trên đợt và hệ thống bể không lót đáy là 6,75 con trên đợt. Khả năng thành thục của tôm tăng qua các đợt thí nghiệm: đợt 1 số tôm thành thục ít là do thí nghiệm mới được bố trí, tôm còn nhỏ, chưa trưởng thành, nên tỷ lệ thành thục thấp, đợt thí nghiệm thứ 3 số con thành thục ở bể đáy san hô không có, nguyên nhân là do ô nhiễm môi trường nước xảy ra (chỉ số aminia cao _bảng 4.39) trong bể làm tôm chết nhiều, tôm chết trước khi thành thục sinh dục. Qua biểu đồ ta thấy tỷ lệ thành thục ở nghiệm thức bể cát là cao nhất, đồng thời với trọng lượng ban đầu thả là thấp nhất nên chúng tôi có ý kiến về phần nhận xét này như sau: Đáy cát là nền đáy rất gần với nền đáy ngoài tự nhiên, phù hợp với sinh lý tôm. Có thể tôm ở nghiệm thức bể đáy cát được nuôi thuần trong bể vào giai đoạn nhỏ nên thời gian thích nghi, tăng trưởng và sinh trưởng liên tục dẫn đến khả năng thành thục tự nhiên là cao nhất
  • 39. 39 Chƣơng 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Kết luận Nhiệt độ trung bình buổi chiều ở cả 3 nghiệm thức đều quá ngưỡng thích hợp hợp của tôm. Nhưng trong nghiệm thức 2 (bể đáy san hô) có số ngày nhiệt quá ngưỡng cao hơn nghiệm thức 1(bể đáy cát) và nghiệm thức 2 (bể đáy không). Độ pH trung bình buổi sáng và buổi chiều ở 3 nghiệm thức đều nằm trong ngưỡng thích hợp của tôm. Hàm lượng nitrite trung bình ở 3 nghiệm thức bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không đều như nhau, lượng lưu lại trong bể đáy cát cao hơn bể đáy san hô và bể đáy không. Hàm lượng amonia trong nghiệm thức bể đáy san hô cao hơn bể đáy cát và bể đáy không. Hiệu quả đưa amonia và nitrite ra ngoài của ba hệ thống bể đáy cát, bể đáy san hô, bể đáy không là không hoàn toàn. Tuy nhiên hiệu quả đưa amonia và nitrite ra ngoài của hệ thống bể đáy cát thấp hơn hệ thống bể đáy san hôn và bể đáy không. Đối với các nền đáy khác nhau ảnh hưởng đến khả năng thành thục và tỷ lệ sống của tôm càng xanh. Bể đáy cát có tỷ sống và thành thục sinh dục cao hơn bể đáy san hô có lớp lưới và bể đáy không. Sự tăng trọng của tôm ở bể đáy cát, bể đáy san hô có lớp lưới, bể đáy không là khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Hệ thống cấp nước gần mặt đáy tạo dòng chảy cho tôm và đẩy thức ăn thừa, chất cặn ra ngoài, đồng thời giúp cho tôm không bị đóng rong. Tuy nhiên dòng chảy yếu làm lắng đọng thức ăn thừa và cặn dưới lớp lưới của bể đáy san hô làm cho môi trường dưới đáy bể bị ô nhiểm. Tăng giá thể để hạn chế sự ăn thịt lẫn nhau của tôm càng xanh trong bể nuôi. Nguồn nước cấp từ sông Rạch Chiếc không đạt chất lượng khi cấp vào ao lắng cho nên ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm.
  • 40. 40 5.2. Đề xuất Cần có nghiên cứu nền đáy san hô nghiền nhỏ không lót lưới dưới đáy so sánh với các hệ thống khác để còn kết luận về hệ thống nuôi có nền đáy phù hợp. Hệ thống cấp nước ở gần mặt đáy với tốc độ dòng chảy là 15 lít trên phút. Các đối tượng thí nghiệm phải cùng lứa và có trọng lượng bằng nhau. Cần đánh giá chỉ tiêu vi sinh vật trong hệ thống bể nuôi. Nước cấp vào ao lắng phải được xử lý trước khi bơm trực tiếp lên bể. Nước vào Ao lắng Lọc cơ học Lọc sinh học Bể lắng Nước ra Hệ thống bể Sơ đồ xử lý nước ao lắng
  • 41. 41 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng việt 1. Lương Đình Chung, 1999. Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi tôm càng xanh. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 70 trang. 2. Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Tuần, Hoàng Thị Thủy Tiên, Lâm Quyền, Nguyễn Đức Minh, Nguyễn Nhứt, Huỳnh Thị Hồng Châu, 2004. Kết quả bước đầu sản xuất giống tôm càng toàn đực. Tuyển tập nghề cá Sông Cửu Long số đặc biệt: tr 159-175. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Tp. Hồ Chí Minh. 3. M.B.New và S.Singholka, 1985. Sổ tay nuôi tôm càng xanh (Trương Quang Trí dịch). Nhà xuất bản tổng hợp Hậu Giang, Khoa Thủy Sản Trường Đại Học Cần Thơ. 140 trang. 4. Nguyễn Thanh Phương, Trần Ngọc Hải, Trần Thị Thanh Hiền, MarcyN. Wilder, 2003. Nguyên lý và kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii). Nhà xuất bản Nông nghiệp,TP. Hồ Chí Minh. 127 trang. 5. Phạm Văn Trang, Trần Văn Vỹ, Nguyễn Duy Khóat, 1993. Nuôi tôm nước ngọt và nước lợ xuất khẩu. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 112 trang. 6. Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2002. Kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh. Nhà xuất bản Nông nghiệp,TP. Hồ Chí Minh. 67 trang. 7. Vũ Thế Trụ,1994. Cải tiến kỹ thuật nuôi tôm tại Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, TP. Hồ Chí Minh. 201 trang. 8. Phạm Văn Tình, 2004. 46 câu hỏi đáp về sản xuất giống và nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii). Nhà xuất Nông nghiệp,TP. Hồ Chí Minh. 70 trang. 9. Phạm Văn Tình, 2004. Kỹ thuật nuôi tôm càng xanh. Nhà xuất Nông nghiệp,TP. Hồ Chí Minh. 45 trang. 10. Nguyễn Việt Thắng, 1993. Một số đặc điểm sinh học và ứng dụng qui trình kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii de Man 1879) ở Đồng Bằng Nam Bộ. Luận án phó tiến sĩ khoa học Trường Đại Học Thủy Sản Nha Trang. 175 trang.
  • 42. 42 11. Nguyễn Việt Thắng, 1995. Kỹ thuật nuôi tôm càng xanh. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Tp. Hồ Chí Minh. Trang. Tài liệu tiếng anh 12. Amir Sagi, Dan Cohen, Yoram Milner, 1989. Effect of androgenic gland ablation on morphotypic differentation and sexual characteristics of male freshwater prawns, Macrobrachium rosenbergii. General and comparative endocrinology 77: p.15-22. Life sciences institute, the Hebrew University of Jerusalem. Jerusalem, Israel. 13. Amir Sagi and Dan Cohen, 1990. Growth, maturation and progeny of sex- reversed Macrobrachium rosenbergii males. World aquaculture report 21: p.87-90. Aquaculture production technology (Israel) Ltd. Jerusalem, Israel. 14. Michael Bernard New and Wagner Cotroni Valenti, 2000. Freshwater prawn culture the farming of Macrobrachium rosenbergii. Blackwell Science, USA. p435. 15. Mireille Charmantier-Daures and Guy Charmantier, 2003. Mass culture of Cancer irroratus larvae (crustacea, decapoda): adaptation of a flow-through sea-water systerm. Aquaculture: p.25-39, france. 16. Michael Bernard New , 1990. Freshwater prawn cultrure: a review. Aquaculture 88: 99-143. 17. Michael Bernard New., 2002. Farming freshwater prawn. A manual for the culture of the giant river prawn (Macrobrachium rosenbergii). FAO fisheries technical 428. Food and Argiculture of the United Nations. 207 pages. 18. Ferene Pekar, 1995. Fish pond dynamics and fish pond management. Can Tho, Viet Nam. p.445. 19. R.Savolainen, K.Ruohonen and J.Tulonen, 2003. Effects of bottom substrate and presence of shelter in experimental tanks on growth and survival of signal crayfish, Pacifastacus leniusculus (Dana) juveniles. Aquaculture Research 20. Su Mei Chen and Jim Chu Chen, 2002. Effects of pH on survival, growth, molting and feeding of giant freshwater prawn Macrobrachium rosenbergii. Aquaculture 218: p.613–623. Deparment of Aquaculture, National Taiwan Ocean University. Keeling, Taiwan.
  • 43. 43 PHỤ LỤC 1. Phƣơng phápWinkler 1.1 Nguyên tắc Trong nước Mn2+ và NaOH phản ứng tạo kết tủa Mn(OH)2. Hydroxide Mn II bị oxy hòa tan trong nước oxy hóa tạo thành MnO2 kết tủa màu nâu. Khi thêm H2SO4 đậm đặc vào, phản ứng oxy hóa giữa KI và MnO2 xảy ra, giải phóng I2. I2 được định lượng bằng dung dịch Na2S2O3 và từ đó tính ra được hàm lượng oxy hòa tan trong nước. 2Mn(OH)2 + O2 2MnO2 + 2H2O 2MnO2 + 4H+ + I- Mn2+ + I2 + 2H2O 1.2 Hóa chất Dung dịch kiềm i-ốt: hòa tan 33 g NaOH vào một ít nước cất. Thêm 10 g KI và 1 g NaN3 thêm nước vào vừa đủ 100 ml. Dung dịch MnSO4: hòa tan 34,6 g MnSO4.H2SO4 trong nước cất, lọc và pha loãng thành 100 ml. Dung dịch chuẩn Na2S2O3: chuẩn bị dung dịch Na2S2O3 0,1 N chuẩn từ dung dịch chuẩn có sẵn trên thị trừơng. Dung dịch tinh bột 1%: hòa tan 1 g tinh bột với 100 ml nước và đun sôi trong vài phút. Dung dịch H2SO4 đậm đặc. 1.2 Cách tiến hành Cho mẫu vào đầy chai thủy tinh (nút mài thủy tinh) có thể tích 250 -300 ml, cho vào mẫu nước 2 ml dung dịch MnSO4 và 2 ml dung dịch kiềm i-ốt, đậy nắp lại và lắc đều bằng cách lật ngược chai, để kết tủa lắng vài phút (nước có hàm lượng ion Cl-cao cần để lắng 10 phút). Thêm vào 2 ml H2SO4 dọc theo thành cổ chai, đậy nắp lại và lắc đều cho đến khi kết tủa hoàn toàn hòa tan và I2 được phân tán đều. Sau đó lấy ra 50 ml để chuẩn độ với dung dich Na2S2O3 0,1 N chuẩn cho đến khi dung dịch có màu vàng nhạt, thêm vào 1 ml dung dịch tinh bột và tiếp tục chuẩn độ cho đến khi màu xanh hoàn toàn biến mất.