Cơ sở lý luận về góp vốn bằng giá trị quyền sở hữu trí tuệ thành lập công ty tại Việt Nam. Quyền sở hữu trí tuệ là một loại quyền tài sản, do đó nó có đầy đủ đặc tính của quyền tài sản nói chung, đó là: chủ sở hữu có toàn quyền đối với tài sản của mình và không ai được sử dụng tài sản đó nếu không được sự cho phép của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, xuất phát từ tình chất đặc thù của đối tượng là tài sản trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ có những đặc điểm riêng để phân biệt với quyền sở hữu khác.
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
Cơ sở lý luận về góp vốn bằng giá trị quyền sở hữu trí tuệ thành lập công ty tại Việt Nam.docx
1. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
KHÁI QUÁT VỀ GÓP VỐN BẰNG GIÁ TRỊ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ
TUỆ THÀNH LẬP CÔNG TY TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền sở hữu trí tuệ
1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Tài sản trí tuệ là sản phẩm của trí óc con người, là tri thức của nhân loại.
Các tài sản này liên quan đến những thông tin mà có thể được thể hiện bằng các
vật thể hữu hình với số lượng bản sao không hạn chế, ở cùng một thời điểm và các
địa điểm khác nhau trên thế giới. Quyền sở hữu trong trường hợp này không phải
là quyền sở hữu bản thân các bản sao, mà chính là những thông tin chứa đựng
trong bản sao đó. Để bảo hộ những tài sản trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ đã ra đời
với tư cách là quyền của các tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ mà tổ chức,
các nhân đó phát minh, chế tạo.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, thuật ngữ sở hữu trí tuệ và Quyền sở
hữu trí tuệ được chính thức sử dụng từ Bộ luật dân sự năm 1995 và các đạo luật
được ban hành sau đó. Mặc dù không được định nghĩa trực tiếp song cấu trúc và
nội dung phần thứ 6 bộ luật dân sự cho thấy: Quyền sở hữu trí tuệ là một chế định
pháp lý gồm quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp được pháp luật quy định
và bảo hộ. Đó là một loại quyền sở hữu đặc biệt mà đối tượng là các sản phẩm
sáng tạo do lao động trí óc con người tạo ra, là sản phẩm trí tuệ con người. Bộ luật
dân sự năm 2005 đã bổ sung thêm đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ là quyền đối
với giống cây trồng.
Theo Lê Nết: “Quyền sở hữu trí tuệ là tập hợp các quyền đối với tài sản vô
hình là thành quả lao động sáng tạo hay uy tín kinh doanh của các chủ thể, được
pháp luật quy định bảo hộ”.
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) lại định nghĩa: “Sở hữu trí tuệ được
hiểu rộng rãi hơn và bao gồm các quyền liên quan tới các sảm phẩm văn
7
2. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
học, nghệ thuật, khoa học, sự trình diễn của các nghệ sĩ, các chương trình phát và
truyền thanh, phát và truyền hình, các sáng chế thuộc mọi lĩnh vực, các phát minh
khoa học, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các tên
thương mại và chỉ dẫn thương mại, chống cạnh tranh không lành mạnh và các
quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực hoa học, công nghệ,
văn học nghệ thuật”.
Quyền sở hữu trí tuệ là một loại đặc biệt của tài sản vô hình. Quyền sở hữu
trí tuệ mang đầy đủ đặc tính kinh tế , mang giá trị kinh tế như các loại tài sản vô
hình khác. Do tính đặc trưng của chúng, quyền sở hữu trí tuệ được công nhận pháp
lý và bảo hộ đặc biệt bới pháp luật quốc gia.
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 đã đưa ra khái niệm: Quyền sở hữu trí tuệ là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền
liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống
cây trồng.
Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với những
tài sản trí tuệ do con người sáng tạo. Đó là độc quyền được trao cho một người,
một nhóm người hoặc một tổ chức để khai thác, sử dụng, định đoạt những sản
phẩm của hoạt động sáng tạo trí tuệ.
1.1.2. Đặc điểm quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ là một loại quyền tài sản, do đó nó có đầy đủ đặc tính
của quyền tài sản nói chung, đó là: chủ sở hữu có toàn quyền đối với tài sản của
mình và không ai được sử dụng tài sản đó nếu không được sự cho phép của chủ
sở hữu. Bên cạnh đó, xuất phát từ tình chất đặc thù của đối tượng là tài sản trí tuệ,
quyền sở hữu trí tuệ có những đặc điểm riêng để phân biệt với quyền sở hữu khác.
Thứ nhất, tính vô hình của đối tượng sở hữu trí tuệ
8
3. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ mang đặc trưng vô hình; đặc tính này
hoàn toàn trái ngược với đặc tính hữu hình của tài sản vật chất. Là sản phẩm của
sáng tạo trí tuệ, mang tính vô hình nên đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ phải
được vật chất hóa, phải được thể hiện trên các vật cụ thể. Nói cách khác, tài sản
sở hữu trí tuệ vô hình phải được phản sánh, thể hiện thông qua những vật thể hữu
hình. Một vật thể hữu hình có thể vừa là đối tượng của quyền sở hữu tài sản vật
chất, lài vừa chứa đựng trong nó đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Đặc tính vô
hình của quyền sở hữu trí tuệ là đặc trưng quan trọng nhất.
Thứ hai, căn cứ phát sinh và xác lập quyền
Căn cứ phát sinh và xác lập quyền đối với quyền sở hữu trí tuệ khác với các
tài sản hữu hình. Quyền sở hữu đối với các tài sản hữu hình là thời điểm chủ sở
hữu xác lập việc chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản đó. Theo quy định của Bộ
luật dân sự, căn cứ xác lập quyền sở hữu gồm: do lao động, do hoạt động sản xuất,
kinh doanh hợp pháp; được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo quyết
định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; thu hoa lợi, lợi tức; tạo thành vật mới
do trộn lẫn, sáp nhập, chế biến; được thừa kế tài sản; chiếm hữu trong các điều
kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bỏ bỏ quên, bị chôn
dấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên; chiếm giữ
tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai phù hợp
với thời hiệu do pháp luật quy định (Điều 170).
Tuy nhiên, quyền sở hữu trí tuệ được tạo ra bởi trí tuệ của con người hoặc
từ những hoạt động cảm hứng. Hoạt động như vậy mang tính riêng biệt và có ý
thức, sáng tạo, khó có thể xác định chính xác theo quy tắc tài sản hữu hình thông
thường. Do đó, căn cứ phát sinh và xác lập quyền đối với quyền sở hữu trí tuệ hầu
hết là khi tiến hành thủ tục đăng ký bảo hộ hoặc nhận chuyển nhượng, thừa kế từ
chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ.
9
4. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Một số trường hợp ngoại lệ như quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền
tác giả; quyền đối với bí mật kinh doanh; quyền đối với tên thương mại. Căn cứ
phát sinh và xác lập đối với những quyền này được quy định cụ thể dứoi dạng các
điều kiện mà không phải tiến hành thủ tục đăng ký bảo hộ.
Thứ ba, quyền sở hữu trí tuệ bị giới hạn bởi quốc gia bảo hộ và thời hạn
bảo hộ
Khác với quyền sở hữu thông thường, quyền sở hữu trí tuệ bị giới hạn bởi
không gian và thời gian. Về không gian, việc bảo hộc mang tính lãnh thổ triệt để.
Điều này có nghĩa là quyền sở hữu trí tuệ chỉ phát sinh trên cơ sở công nhận bởi
cơ quan thẩm quyền một quốc gia cụ thể và chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh
thổ quốc gia đó. Có thê rlaasy ví dụ như sáng chế công nghiệp tại Việt Nam chỉ
được bảo hộ khi được được cấp văn bằng bảo hộc và cũng chỉ được bảo hộ trên
lãnh thổ Việt Nam. Chính bản thân sáng chế này là sản phẩm trí tuệ được thể hiện
ra bằng hiện vật, chứa đựng sáng tạo của người phát minh, gắn liền với quá trình
áp dụng sáng chế vào hoạt động sản xuất công nghiệp tạo lợi nhuận và thỏa mãn
nhu cầu vật chất của cong người. Hay nói cách khác, chỉ khi được áp dụng vào
sản xuất thì sáng chế mới có giá trị, mà giá trị do sáng chế mang lại thường có ảnh
hưởng lớn tới sự phát triển của khoa học kỹ thuật và kinh tế xã hội của quốc gia.
Vì tính khó kiểm soát phạm vi phát tán của một loại tài sản vô hình cũng như tầm
ảnh hưởng, tính giá trị lớn của tài sản trí tuệ mà quyền sở hữu trí tuệ mang tính
lãnh thổ tuyệt đối.
Về mặt thời gian, quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ trong một khoảng thời
gian nhất định, vì đối tượng sở hữu trí tuệ là các sản phẩm trí tuệ dễ thay đổi, có
thể bị mai một, dễ bị thay thế so với sự phát triển của kinh tế, xã hội của đất nước.
Đối tượng quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả thường được bảo hộ
trong khoảng thời gian tương đối dài, tùy vào pháp luật của mỗi nước thì thông
thường từ 25 đến 100 năm. Khoảng thời gian này đảm bảo đầy đủ quyền
10
5. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
lợi của tác giả (tương ứng với thời gian tuổi đời con người). Các đối tượng sở hữu
công nghiệp mang lại nhiều lợi ích kinh tế, giảm chi phí trong sản xuất như sáng
chế, giải pháp hữu ích,… thì thường được bảo hộ trong một khoảng thời gian
tương đối ngắn (tối đa là 20 năm) và có thể được gia hạn bảo hộ. Hầu hết pháp
luật về sở hữu công nghiệp các nước đều quy định thời hạn bảo hộc sáng chế là
20 năm, thời hạn bảo hộc nhãn hiệu hàng hóa là 10 năm. Hết thời hạn bảo hộc,
chủ sở hữu sẽ mất độc quyền cũng như những quyền khác đối với đối tượng được
bảo hộ. Tuy nhiên, một số đối tượng sở hữu công nghiệp như tên thương mại, chỉ
dẫn địa lý, nhãn hiệu nổi tiếng,.. lại được bảo hộ vô thời hạn (chủ sở hữu cũng như
đối tượng phải đáp ứng một số điều kiện do pháp luật quy định). Sở dĩ các đối
tượng này được coi là những trường hợp đặc biệt do tính cố định của chúng; chúng
không dễ bị loại bỏ, trở nên lạc hậu trong quá trình khai khác, sử dụng.
Thứ tư, quyền năng sử dụng là quyền năng phổ biến
Đối với tài sản hữu hình, trong ba quyền năng của chủ sở hữu (chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt) thì quyền chiếm hữu dường như là quyền cơ bản và quan trọng
hơn cả. Trong rất nhiều trường hợp tranh chấp về sở hữu tài sản, chủ thể nào đang
chiếm hữu tài sản thường có lợi thế hơn hẳn so với các chủ thể khác. Điều này
xuất phát từ các đặc tính của tài sản hữu hình: vì hiện hữu trong hình thái vật chất
nên chủ thể chiếm hữu tài sản thì thường có thể khai thác công dụng của tài sản
đó.
Trong khi đó, đối với quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng lại được coi là
quyền năng cơ bản nhất. Điều này xuất phát từ tính vô hình của đối tượng sở hữu
trí tuệ. Chủ sở hữu khó có thể chiếm hữu (cầm, nắm, giữ) tài sản trí tuệ mà chỉ có
thể chiếm hữu hình thái vật chất được thể hiện của sở hữu trí tuệ. Chính bản thân
hình thái vật chất ấy không thể bị giới hạn số lượng sao chép, chính bản thân thông
tin trong hình thái vật chất ấy với có giá trị độc quyền. Quyền sử
11
6. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
dụng tài sản là quyền của chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung khai thác công
dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ khai thác
quyền này thông qua hành vi ứng dụng vào các loại vật chất hữu hình cụ thể và
phát sinh giá trị quá trình sử dụng, vận hành, khai thác các laoij vật chất hữu hình
này. Vì vậy, về bản chất việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là bảo hộc độc quyền
khai thác, sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ.
Cũng phải nhắc thêm, quyền sử dụng của chủ sở hữu đối với tài sản hữu
hình sẽ làm giảm tính tác dụng của nó đối với người khác. Nhưng đối với tài sản
trí tuệ, việc chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng sẽ không làm thuyên giảm tính
tác dụng của nó đối với các chủ thể khác. Có thể nhận thấy đặc tính này trong
trường hợp chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ li-xăng quyền cảu mình cho người
khác sử dụng. Khác với quyền sở hữu tài sản thông thường, quyền sở hữu trí tuệ
đem lại cho các cá nhân đặc quyền kiểm soát đối với một đối tượng nào đó. Quyền
sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu kiểm soát số lượng sản phẩm được khai thác
và thiết lập mức giá độc quyền trong phạm vi giới hạn mà lượng cầu sản phẩm
chấp nhận. Do vậy bất kỳ người nào muốn thực hiện việc khai thác giá trị tài sản
trí tuệ đều phải được sự cho phép của người có bản quyền và phải trả tiền.
Thứ năm, căn cứ chấm dứt quyền sở hữu tài sản.
Đối với tài sản nói chung, pháp luật quy định quyền sở hữu chấm dứt trong
các trường hợp: Chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu của mình cho người khác; chủ
sở hữu từ chối quyền sở hữu của mình; tài sản bị tiêu hủy; tài sản bị xử lý để thực
hiện nghĩa vụ của chủ sở hữu; tài sản bị trưng mua; tài sản bị tịch thu; vật bị đánh
rơi, bị bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên
mà người khác đã được xác lập quyền sở hữu trong các điều kiện do pháp luật quy
định.
12
7. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Cũng giống như quyền sở hữu tài sản thông thường, quyền sở hữu trí tuệ
cũng đều được phát sinh và chấm dứt dựa trên những căn cứ nhất định. Những căn
cứ này không dựa trên điều kiện tồn tại của tài sản như đối với các quyền tài sản
hữu hình mà dựa trên thời hạn bảo hộ của Nhà nước đối với tài sản trí tuệ. Khi đã
chấm dứt sự bảo hộ do hết thời hạn thì chủ sở hữu hay người nắm bản quyền
không còn vị thế độc quyền của mình nữa, mọi hành vi khai thác, sử dụng đều
được thực hiện hợp pháp nhằm đảm bảo cân bằng hài hòa lợi ích của chủ sở hữu
quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích chung của toàn xã hội.
Mặt khác, phải khẳng định tính đặc thù trong mối liên hệ giữa tài sản và chủ
sở hữu không thể chấm dứt khi tài sản được chuyển nhượng. Đối với tài sản hữu
hình, một khi chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản thông qua các
hình thức bán, tặng cho, thừa kế,… thì mọi sự liên hệ đối với tài sản của chủ sở
hữu sẽ chấm dứt từ thời điểm chuyển giao. Ngược lại chủ sở hữu quyền sở hữu trí
tuệ khi thực hiện quyền năng định đoạt tài sản của mình, trong một số trường hợp
pháp luật quy định vẫn có thể thông qua quyền nhân thân của mình nhằm kiểm
soát tài sản. Cụ thể trong trường hợp quyền tác giả, quyền nhân thân là quyền gắn
liền với người sáng tạo ra tác phẩm và không thể chuyển giao được. Bất kỳ trường
hợp thay đổi tác phẩm sau khi chuyển nhượng bản quyền đều phải thông báo và
nhận được sự đồng ý của tác giả. Việc kiểm soát này không nằm ngoài mục đích
bảo vệ chính tác phẩm sáng tạo, sự vẹn toàn của ý tưởng mà tác giả muốn truyền
đạt đến người khác.
1.1.3. Phân loại quyền sở hữu trí tuệ được dùng để góp vốn thành lập
công ty
Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ đó chính là các tài sản trí tuệ. “Tài
sản trí tuệ” có thể được hiểu là bao gồm tất cả các thông tin có giá trị thương mại.
Còn theo khái niệm được thừa nhận rộng khắp, “tài sản trí tuệ” là những thành
quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo thể hiện thành
13
8. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
các vật thể hữu hình trong cùng một thời gian và không gian với số lượng bản sao
không giới hạn và được thừa nhận là tài sản. Hình thức hữu hình của tài sản trí tuệ
có thể kể đến như: tác phẩm văn học, nghệ thuật; cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tình mang chương trình được mã hóa;
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn; nhãn hiệu,
tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh; giống cây trồng vật nuôi mới,…
Quyền tác giả là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với tác phẩm văn
học, nghệ thuật và khoa học do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, thường gọi là bản
quyền tác giả. Quyền tác giả thường được xác lập đối với những người sáng tạo ra
tác phẩm gốc về văn học, kịch, âm nhạc, nghệ thuật. Nội dung quyền tác giả bao
gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân cho phép người sáng tạo
kiểm soát được việc khai thác, sao chép, cải biên, công bố tác phẩm của mình và
không thể chuyển giao cho người khác. Quyền tài sản bao gồm những quyền nhằm
khai thác, sử dụng tác phẩm như là tác phẩm tái sinh; biểu diễn tác phẩm trước
công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác
phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến,
mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiễn kỹ thuật nào khác; cho thuê bản
gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính,… Quyền tài sản có
thể chuyển giao cho người khác thực hiện hoặc chính người sáng tạo tác phẩm
thực hiện.
Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với
cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang
chương trình được mã hóa. Đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm
các cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình mã hoá. Chủ thể của quyền này bao gồm người biểu diễn, nhà
sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng. Sở dĩ đây được
14
9. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
gọi là quyền liên quan đến quyền tác giả do đối tượng của quyền này là tác phẩm
phái sinh dựa trên tác phẩm gốc của tác giả. Tuy nhiên, những đối tượng này,
thông qua sự sáng tạo, công sức trí tuệ của chủ thể quyền liên quan đã biến đổi
một phần hay toàn bộ về hình thức và cũng có thể là nội dung để đưa đến công
chúng.
Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm quyền đối với sáng chế, thiết kế bố trí
mạch tích hợp bán dẫn, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên
thương mại, bí mật kinh doanh và các quyền sở hữu công nghiệp khác do pháp
luật quy định. Quyền sở hữu công nghiệp bảo hộc quyền sử dụng độc quyền vì
mục đích kinh tế và quyền định đoạt của các chủ sở hữu các đối tượng sở hữu
công nghiệp, chống lại việc khai tác bất hợp pháp ở quy mô công nghiệp. Đối
tượng của sở hữu công nghiệp rất rộng nhưng chủ yếu là sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại.
Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm
giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên. Sáng
chế sẽ được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế nếu có tính mới;
tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp.
Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm, thể hiện bằng
đường nét, hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp các yếu tố đó. Để được bảo hộ,
kiểu dáng công nghiệp phải có tính mới đối với thế giới, có tính sáng tạo và có khả
năng áp dụng công nghiệp. Kiểu dáng công nghiệp có chức năng thẩm mỹ, hấp
dẫn thị hiếu người tiêu dùng bằng nét độc đáo, vẽ đẹp và nâng cao tính tiện ích
của sản phẩm.
Chỉ dẫn địa lý không chỉ là tên gọi xuất xứ hàng hóa như thường được hiểu
mà còn bao gồm cả dấu hiện, biểu tượng, hình ảnh dùng để chỉ một khu vực địa
lý. Đối với những sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý phải là sản phẩm có đặc
15
10. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác mà không một khu
vực địa lý khác có. Đối với những đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa
chỉ dẫn địa lý là những đối tượng chỉ mang tính gọi chung cho hàng hóa quốc gia
hay có thể gây nhầm lẫn về nguồn gốc địa lý thực của sản phẩm.
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức,
cá nhân khác nhau. Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đồng thời đáp ứng hai điều kiện:
Dấu hiệu sử dụng làm nhãn hiệu là (i) dấu hiệu nhìn thấy được, có thể là dưới dạng
chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ảnh ba chiều hoặc kết hợp các yếu
tố trên, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc; (ii) dấu hiệu đó có khả năng
phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của
chủ thể khác. Nhãn hiệu phải đăng ký và được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng
bảo hộ là Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Chủ sở hữu có toàn quyền đối với
nhãn hiệu đang được bảo hộ. Phân loại nhãn hiệu bao gồm nhãn hiệu tập thể, nhãn
hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu nổi tiếng.
Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh
doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh
khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh. Khu vực kinh doanh là khu vực
đại lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc danh tiếng. Để được
bảo hộ, tên thương mại phải có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh sử dụng
tên đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực.
Quyền đối với giống cây trồng: Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc
cùng một cấp phân loại thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các
chu kỳ nhân giống, có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu
gien hoặc sự phối hợp các kiểu gien quy định và phân biệt được với bất kỳ quần
thể giống cây trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả
năng di truyền được.
16
11. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
1.2. Khái quát về góp vốn thành lập công ty
1.2.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty
Mục tiêu thành lập của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng là vì mục đích lợi
nhuận, cá nhân, tổ chức khi muốn trở thành thành viên hay cổ đông của doanh
nghiệp đều muốn hưởng lợi nhuận. Dựa trên nguyên tắc công bằng, việc chia lợi
nhuận giữa các thành viên hay cổ đông này phải tùy thuộc vào tỷ lệ vốn đóng góp
vào quỹ chung của công ty để sử dụng. Khi mà các hình thức đóng góp càng ngày
càng trở nên đa dạng nhằm thu hút càng nhiều cá nhân, tổ chức vào hoạt động
kinh doanh thì pháp luật càng cần phải đưa ra những quy định loại tài sản góp vốn,
định giá tài sản và chuyển quyền sử dụng các loại tài sản khác nhau.
Theo Luật doanh nghiệp 2014, hành vi góp vốn được hiểu là việc góp tài
sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập
doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập. Xét
trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi tập trung vào hành vi góp vốn thành lập doanh
nghiệp.
1.2.2. Thỏa thuận góp vốn thành lập công ty
Góp vốn thành lập công ty khác với hoạt động góp vốn thông thường, là
bước quan trọng trong quá trình đăng ký thành lập doanh nghiệp. Hình thức thể
hiện việc góp vốn có thể là hợp đồng dạng văn bản riêng hoặc thể hiện ngay trong
Điều lệ công ty. Nội dung của hợp đồng thỏa thuận góp vốn thể hiện được nội
dung chính việc cá nhân, tổ chức góp phần vốn là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp
của mình để hợp tác sản xuất, kinh doanh với cá nhân, hộ gia đình, chủ thể khác
và hưởng một hoặc một số quyền lợi từ doanh nghiệp mới thành lập theo quy định
pháp luật dân sự và pháp luật doanh nghiệp, bao gồm các nguyên tắc tự do ý chí,
giới hạn tài sản góp vốn, giới hạn ngành nghề kinh doanh,…
17
12. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Pháp luật Việt Nam đồng nhất hợp đồng thành lập doanh nghiệp với điều
lệ doanh nghiệp trong khi pháp luật quốc tế thiên về khái niệm điều lệ doanh
nghiệp là các quy tắc nội bộ của doanh nghiệp, có thể ghi nhận những nguyên tắc
quản lý nhân sự hay văn hóa doanh nghiệp, văn hóa công sở. Trong khi đó, hợp
đồng thành lập doanh nghiệp ghi nhận phần góp vốn của các thành viên, số vốn
đóng góp hay cổ phần sẽ mua, cách thức phân chia lợi nhuận và chế độ trách nhiệm
đối với từng thành viên/ nhóm thành viên.
1.2.3. Tài sản góp vốn thành lập doanh nghiệp
Những doanh nghiệp thành lập theo hiệu lực của Luật doanh nghiệp năm
2005 sẽ khó có thể đóng góp thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ khi
mà Luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 quy định tài sản có thể dùng để góp
vốn thành lập doanh nghiệp bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản;
đồng thời mở rộng các tài sản thống nhất trong Điều lệ doanh nghiệp. Thì đến khi
Luật doanh nghiệp năm 2014 có hiệu lực đã sử đổi nhiều quy định điều chỉnh vấn
đề này, cụ thể: tài sản góp vốn có thể là “Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển
đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí
quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.”
Tuy nhiên, nhà làm luật Việt Nam vẫn sử dụng phương pháp liệt kê để
hướng dẫn các loại tài sản được góp vốn, việc này rất dễ dẫn tới sự không đầy đủ,
giới hạn hình thức góp vốn của cá nhân, tổ chức. Các nước trên thế giới như Hoa
Kỳ, Pháp, Nhật Bản, Đức thường không mang tính liệt kê đối với khái niệm “tài
sản” mà chỉ phân ra làm động sản hoặc bất động sản, mỗi loại có những quy định
áp dụng riêng và đề cao tính thỏa thuận của các cá nhân, tổ chức tự thống nhất về
các tài sản làm tài sản chung khi thành lập.
Dựa vào quy định nêu trên, ta có thể phân loại tài sản để góp vốn thành lập
công ty gồm những đối tượng sau:
18
13. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng. Thay cho khái niệm quy
định trong Luật doanh nghiệp 2005 liệt kê tiền và giấy tờ có giá, Luật doanh nghiệp
2014 đã chỉ rõ tiền thông hành tại Việt Nam và ngoại tệ do pháp luật Việt Nam
cho phép tự do chuyển đổi. Việc pháp luật cho phép góp vồn bằng tiền có tính
chất giống với việc bỏ tiền ra mua quyền lợi trong doanh nghiệp, chỉ có điều quyền
lợi ấy được tạo ra do chính những người góp vốn và hình thành trong tương lai.
Cũng theo quy định về tài sản được phép góp vốn, vàng cũng được coi là
tài sản được phép sử dụng. Tuy nhiên, theo Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý
hoạt động kinh doanh vàng, việc thanh toán bằng vàng bị coi là hành vi vi phạm
trong hoạt động kinh doanh vàng nên việc quy định như trên tạo nên mâu thuẫn
giữa các văn bản pháp luật. Liệu rằng quy định cá nhân, tổ chức được phép góp
vốn bằng vàng có là thừa thãi khi muốn đưa nguồn vốn vào kinh doanh lại phải
thông qua bước chuyển đổi sang tiền mặt, chênh lệch tỷ giá giữa thời điểm góp
vốn và thời điểm chuyển đổi sử dụng có thể khiến doanh nghiệp thất thu một khoản
không nhỏ?
Giá trị quyền sử dụng đất. Đất đai thông thường được coi là bất động sản,
tức là một loại tài sản. Riêng đối với Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước thống nhất quản lý, nghĩa là không một con người hay tổ chức cá thể
nào có quyền tài sản. Vậy nên, để các bên có thể đem góp vốn, quyền sử dụng đất
phải được định giá thông qua các bên thỏa thuận định giá, đồng thời các bên cùng
chịu trách nhiệm về thỏa thuận định giá đó hoặc thuê tổ chức định giá chuyên
nghiệp.1
Ở Việt Nam, quyền sử dụng đất là tài sản phải đăng ký, do vậy sau khi thỏa
thuận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất thì thời điểm góp vốn, bên góp vốn
bằng quyền sử dụng đất phải chuyển quyền sử dụng đất cho doanh
1
Điều 37 Luật doanh nghiệp 2014
19
14. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
nghiệp và doanh nghiệp là chủ thể đăng ký để được cấy Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Kể từ thời điểm doanh nghiệp hoàn thành việc đăng ký quyền sử dụng
đất thì việc góp vốn thành lập doanh nghiệp của thành viên hoặc cổ đông được
hoàn thành. Đây chính là điểm đặc thù của hình thức góp vốn bằng loại tài sản đặc
thù - giá trị quyền sử dụng đất.
Giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật. Điểm mới của
Luật doanh nghiệp 2014 so với Luật doanh nghiệp 2005 đó chính là quy định rõ
về hình thức góp vốn bằng giá trị quyền sở hữu trí tuệ. Bằng phương pháp liệt kê,
luật đã quy định các đối tượng được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả,
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống
cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật về sở hữu
trí tuệ.2
Các loại tài sản trí tuệ dùng góp vốn thành lập doanh nghiệp phải kể đến
các yếu tố sau: mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ; tên thương mại;
biển hiệu; nhãn hiệu; bí mật kinh doanh,…
Cũng như giá trị quyền sử dụng đất, yêu cầu của Luật doanh nghiệp 2014
đối với tài sản đặc thù này về định giá tài sản và chuyển quyền sử dụng được quy
định cụ thể thông qua các điều luật.
Ngoài ra, còn rất nhiều yếu tố có thể coi là tài sản có giá trị góp vốn, lấy ví
dụ như tri thức, kinh nghiệm làm việc. Tri thức nếu được định nghĩa trên phương
diện hành vi có thể quan sát được là khả năng của một cá nhân hay một nhóm thực
hiệ, hoặc chỉ dẫn, xui khiến những người khác thực hiện các quy dình nhằm tạo ra
sự chuyển hóa có thể sự báo được của các vật liệu. Loại thành tố này khó có thể
định nghĩa và nhận dạng, có thể đó là chu trình hoạt động của doanh nghiệp, hay
kinh nghiệm quản lý nhân sự của một trưởng phòng. Chính yếu tố
2
Điều 35, khoản 2 Luật doanh nghiệp 2014
20
15. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
khó xác định đó gây cản trở việc pháp điển hóa thành điều luật. Tuy nhiên không
thể hoàn toàn phủ nhận các hình thức góp vốn khác với liệt kê trong điều luật. Dựa
trên nguyên tắc tôn trọng tự do thỏa thuận của các bên, việc định giá có thể do
thành viên tự thỏa thuận khi góp vốn và cùng chịu trách nhiệm thỏa thuận đó, pháp
luật chỉ quy định những nguyên tắc chung nhất để đảm bảo sự công bằng trong
góp vốn và đảm bảo được lợi ích của một thực thể độc lập sau này đó là doanh
nghiệp được thành lập.
1.3. Góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ
Phải khẳng định rằng quyền sở hữu trí tuệ là một quyền tài sản. Nó có đầy
đủ những đặc tính của quyền tài sản đó là có thể định giá được bằng tiền và có thể
quyển giao trong giáo dịch dân sự. Nghĩa là, nó có thể được sử dụng để góp vốn,
mua, bán, tặng cho,… Quyền sở hữu trí tuệ đã mang lại cho chủ sở hữu tài sản trí
tuệ những quyền như đối với các loại tài sản khác, trong đó có quyền góp vốn
thành lập doanh nghiệp. Và việc góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở
hữu trí tuệ cũng được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp 2014 lại
quy định: “Tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi,
vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết
kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam”3
. Theo khái
niệm nêu trên, ta có thể hiểu đối tượng dùng để góp vốn thành lập doanh nghiệp
bằng quyền sở hữu trí tuệ là “giá trị quyền sở hữu trí tuệ”. Theo đó, giá trị quyền
sở hữu trí tuệ là giá trị bằng tiền của quyền sở hữu trí tuệ đối với các đối tượng sở
hữu trí tuệ được xác định trong thời hạn bảo hộ. Ở đây, dường như có sự mâu
thuẫn với các quy định của pháp luật về góp vốn thành lập doanh nghiệp. Theo
quy định của pháp luật trong hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp, sẽ có sự
dịch chuyển về tài sản góp vốn từ bên góp vốn sang cho doanh nghiệp nhận góp
vốn. Tuy nhiên, nếu sử dụng khái niệm “giá trị quyền sở
3
Điều 35, khoản 1 Luật doanh nghiệp 2014
21
16. Dịch vụ viết thuê đề tài – KB Zalo/Tele 0917.193.864 – luanvantrust.com
Kham thảo miễn phí – Kết bạn Zalo/Tele mình 0917.193.864
hữu trí tuệ” thì sẽ không thể hiện được sự chuyển dịch tài sản đó. Ngay chính khái
niệm “giá trị sở hữu trí tuệ” cũng khó xác định do khi hình thành tài sản trí tuệ,
giá trị của nó chưa thể định ra chính xác ngay lập tức. Đối với loại tài sản này, cần
phải xác định thời điểm định giá trị, hoàn cảnh trị giá và nhiều yếu tố dễ thay đổi
khác. Cũng không thể không nhắc đến đối tượng các bên hướng đến khi góp vốn
bằng quyền sở hữu trí tuệ chính là bản thân quyền, hay đúng hơn là quyền được
sử dụng các tài sản trí tuệ. Còn việc xác định giá trị quyền sở hữu trí tuệ có thể do
các bên định đoạt. Dường như ở đây đang có sự không thống nhất về đối tượng
góp vốn là quyền sở hữu trí tuệ.
Việc góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ buộc người góp
vốn phải đảm bảo cho doanh nghiệp khai thác tài sản để đem lại các lợi ích phát
sinh từ đó. Ngược lại, người góp vốn có quyền lợi tương ứng trong doanh nghiệp
theo thỏa thuận trong điều lệ công ty. Do quy mô rộng lớn của đối tượng quyền
sở hữu trí tuệ nên việc thỏa thuận giữa các bên trong quá trình định giá và xác định
quyền lợi cần được khuyến khích thực hiện theo đúng pháp luật sở hữu trí tuệ.
Có thể rút ra định nghĩa về góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở
hữu trí tuệ như sau: “Góp vốn thành lập doanh nghiệp bằng quyền sở hữu trí tuệ
là việc các chủ thể quyền chuyển giao quyền sở hữu hoặc chuyển nhượng quyền
sử dụng đối với tài sản trí tuệ của mình để góp vốn thành lập doanh nghiệp”.