SlideShare a Scribd company logo
1 of 442
Download to read offline
TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG:
LUẬT PHÁP, ĐỊA CHÍNH TRỊ VÀ
HỢP TÁC QUỐC TẾ
2
3
Đặng Đình Quý
(Chủ biên)
TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG:
LUẬT PHÁP, ĐỊA CHÍNH TRỊ VÀ
HỢP TÁC QUỐC TẾ
  
4
Các bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả chứ không phản ánh quan điểm của các cơ
quan, tổ chức nơi tác giả đang công tác, cũng như quan điểm của chủ biên và nhà xuất bản.
ISBN: 9786047705641
5
MỤC LỤC
	 LỜI GIỚI THIỆU .................................................................................................... 9
	 Đặng Đình Quý
	 Giám đốc Học viện Ngoại giao
Phần I: TẦM QUAN TRỌNG CỦA BIỂN ĐÔNG ĐỐI VỚI THẾ GIỚI VÀ
KHU VỰC ................................................................................................................ 17
1. 	 THỬ NHIỆT TẦM QUAN TRỌNG TOÀN CẦU CỦA
TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG .............................................................................. 19
	 GS. Geoffrey Till
2. 	 CÁC VẤN ĐỀ VÀ LỢI ÍCH TẠI BIỂN ĐÔNG.................................................. 41
ĐS. Rodolfo C. Severino
3. 	 MỸ “QUAY TRỞ LẠI” CHÂU Á VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG......................... 51
	 TS. Bronson Percival
Phần II: LỢI ÍCH CỦA CÁC BÊN TRONG VÀ NGOÀI KHU VỰC
Ở BIỂN ĐÔNG ....................................................................................................... 63
4. 	 TÓM TẮT VỀ RỦI RO CỦA VIỆC ÁP DỤNG CHÍNH TRỊ THỰC TIỄN
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG:
HỆ LỤY ĐỐI VỚI AN NINH KHU VỰC ......................................................... 65
	 TS. Renato Cruz De Castro
5. 	 TẠI SAO TRUNG QUỐC NHẤT ĐỊNH CẦN BIỂN ĐÔNG
CHO RIÊNG MÌNH: MỘT QUAN ĐIỂM DỰ ĐOÁN VÀ
ĐỘC LẬP TỪ BÊN NGOÀI ................................................................................. 83
	 Tướng (nghỉ hưu) Daniel Shaeffer
6. 	 ASEAN VÀ TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG .................................................... 95
	 NCS. Hà Anh Tuấn
7. 	 LỢI ÍCH CỦA ẤN ĐỘ Ở BIỂN ĐÔNG ........................................................... 109
TS. Vijay Sakhuja
8. 	 NGA VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG: ĐI TÌM MỘT CÁCH TIẾP CẬN
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ........................................................................................ 121
GS. Evgeny A.Kanaev
Mục lục
6
Phần III: NHỮNG DIỄN BIẾN GẦN ĐÂY Ở BIỂN ĐÔNG ..................................... 133
9. 	 TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG DIỄN BIẾN
GẦN ĐÂY VÀ TRIỂN VỌNG CHO TƯƠNG LAI ........................................ 135
	 TS. Trần Trường Thủy
10. 	CĂNG THẲNG GIA TĂNG TẠI BIỂN ĐÔNG: NGUYÊN NHÂN VÀ
GIẢI PHÁP............................................................................................................. 151
	 TS. S. D. Pradhan
11. 	NHỮNG SỰ KIỆN GẦN ĐÂY Ở BIỂN ĐÔNG VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM –
TRUNG QUỐC: PHÂN TÍCH QUA LĂNG KÍNH CỦA TRUYỀN THÔNG
TRUNG QUỐC VÀ CÁC BÁO CÁO CHÍNH THỨC................................... 161
Li Jianwei và Chen Pingping
12.	TRUNG QUỐC, VIỆT NAM VÀ TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG:
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC SỰ KIỆN
THÁNG 5 – 6 NĂM 2011 ................................................................................... 175
GS. Ramses Amer
13.	NHỮNG VẬN ĐỘNG TRONG NỘI KHỐI ASEAN VÀ
TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: TÁC ĐỘNG VỚI TIẾN TRÌNH DOC/COC
VÀ ĐỀ XUẤT ZOPFFC........................................................................................ 195
	 TS. Ian Storey
14. BẢN HƯỚNG DẪN THỰC THI DOC CÓ LÀM DỊU
CĂNG THẲNG Ở BIỂN ĐÔNG? ĐÁNH GIÁ NHỮNG DIỄN BIẾN
VÀ SAU KHI KÝ KẾT......................................................................................... 209
GS. Carlyle A. Thayer
15.	BIỂN ĐÔNG: SỰ TRỖI DẬY CỦA TRUNG QUỐC VÀ
NHỮNG HỆ LỤY ĐỐI VỚI HỢP TÁC AN NINH ....................................... 237
	 GS. Koichi Sato
Phần IV: TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG: NHỮNG KHÍA CẠNH
PHÁP LÝ QUỐC TẾ............................................................................................ 253
16. 	LUẬT PHÁP QUỐC TẾ Ở BIỂN ĐÔNG:
LIỆU ĐẨY MẠNH HAY GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP? ...... 255
	 GS. Stein Tønnesson
17. 	VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN
THÔNG VÀ TẠP CHÍ CHUYÊN NGÀNH LỚN NĂM 2010:
BIỂN ĐÔNG VÀ CÁC VÙNG BIỂN KHÁC .................................................. 275
TS. Koh Choong Suk và TS. Yearn Hong Choi
18.	NHỮNG PHÁT TRIỂN GẦN ĐÂY VỀ LUẬT ĐƯỜNG CƠ SỞ
CỦA PHILIPPIN .................................................................................................. 293
GS. TS. Raul C. Pangalangan
19. 	ĐƯỜNG CƠ SỞ THẲNG BAO QUANH CÁC ĐẢO
Mục lục
7
KHÔNG CẤU THÀNH MỘT QUỐC GIA QUẦN ĐẢO ............................. 301
	 GS. Erik Franckx và Marco Benatar
20. 	CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN NĂM 1982 CỦA LIÊN HỢP QUỐC VÀ
AN NINH HÀNG HẢI Ở BIỂN ĐÔNG........................................................... 313
	 TS. Nguyễn Thị Lan Anh
Phần V: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ QUẢN LÝ XUNG ĐỘT
Ở BIỂN ĐÔNG..................................................................................................... 327
21. 	CÁC KHU VỰC TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG: TRIỂN VỌNG
GIẢI QUYẾT BẰNG TRỌNG TÀI HOẶC Ý KIẾN TƯ VẤN ...................... 329
	 GS. Robert Beckman và Leonardo Bernard
22. 	VAI TRÒ CỦA QUỐC TẾ HÓA BIỂN ĐÔNG TRONG QUẢN LÝ VÀ
NGĂN NGỪA XUNG ĐỘT............................................................................... 347
GS. Leszek Buszynski
23. 	BIỂN ĐÔNG: HỢP TÁC VÌ AN NINH VÀ PHÁT TRIỂN Ở KHU VỰC .365
ĐS. Hasjim Djalal
Phần VI: PHƯƠNG CÁCH VÀ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY HỢP TÁC
	 Ở BIỂN ĐÔNG ................................................................................................... 373
24. 	GIẢI PHÁP CHO TRANH CHẤP NGHỀ CÁ Ở BIỂN ĐÔNG
THÔNG QUA HỢP TÁC VÀ QUẢN LÝ KHU VỰC .................................... 375
GS. Kuan-hsiung Dustin Wang
25. 	HỢP TÁC KHU VỰC Ở BIỂN ĐÔNG ............................................................ 389
GS. Jon Van Dyke
26.	MẠNG LƯỚI SONG PHƯƠNG CÁC KHU BẢO TỒN BIỂN
GIỮA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM: GIẢI PHÁP THAY THẾ CHO
LỆNH CẤM ĐÁNH BẮT CÁ ĐƠN PHƯƠNG CỦA TRUNG QUỐC
TRÊN BIỂN ĐÔNG?............................................................................................ 397
NCS. Vũ Hải Đăng
Phụ lục: Tiểu sử các tác giả................................................................................................. 431
8
9
LỜI GIỚI THIỆU
Đặng Đình Quý
Giám đốc Học viện Ngoại giao
Thời gian qua, cộng đồng khu vực và thế giới ngày càng quan tâm nhiều hơn tới
Biển Đông bởi ý nghĩa quan trọng của vùng biển này đối với hòa bình, ổn định và phát
triển, không chỉ của khu vực Đông Á mà của toàn Châu Á - Thái Bình Dương.
Trong 3-5 năm trở lại đây, tình hình Biển Đông cơ bản vẫn giữ được hòa bình, ổn
định nhưng cũng có lúc nguy cơ xung đột “nóng” đã hiện hữu. Sau nhiều năm bàn thảo,
ASEAN và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận về các Nguyên tắc triển khai Tuyên bố
về ứng xử của các bên ở Biển Đông. Giữa các nước liên quan trực tiếp tới tranh chấp,
nhất là giữa Việt Nam, Philippin và Trung Quốc cũng đã có rất nhiều nỗ lực ngoại giao.
Trên các hội nghị, diễn đàn chính thức của ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác, Biển
Đông và việc duy trì hòa bình, ổn định và phát triển ở Biển Đông đã trở thành chủ đề
quan trọng được quan tâm và thảo luận với tinh thần xây dựng. Từ một chủ đề bị coi là
“nhạy cảm”, Biển Đông đã được bàn thảo chính thức trên tinh thần tôn trọng luật pháp,
công khai, minh bạch vì lợi ích của các bên liên quan và lợi ích chung của cả cộng đồng
quốc tế.
Đồng hành cùng với những diễn biến tích cực trên, Biển Đông vẫn tiềm ẩn những
bất ổn mà nếu không có sự kiềm chế của các bên liên quan, sự tôn trọng các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế và những nỗ lực có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế thì
xung đột có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Biển Đông là một trong những khu vực có tranh
chấp phức tạp nhất trên thế giới. Sự phức tạp ấy đang gia tăng gấp bội do những biến
chuyển của tình hình kinh tế, chính trị, quân sự và an ninh ở khu vực. Bên cạnh những
vấn đề an ninh truyền thống như tranh chấp đảo, tranh chấp vùng biển, các vấn đề an
ninh phi truyền thống như cướp biển, cướp có vũ trang trên biển, ô nhiễm môi trường
biển, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên sinh vật biển, sự suy giảm đa dạng sinh học
biển, biến đổi khí hậu… đang ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Chính vì vậy, việc công bố các công trình nghiên cứu về Biển Đông đóng góp rất
thiết thực cho việc giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển ở Biển Đông. Chính những
hoạt động nghiên cứu và thảo luận này đã góp phần đưa Biển Đông vào “ra-đa” kiểm
Đặng Đình Quý
10
soát của cộng đồng quốc tế; bản chất của tranh chấp trên Biển Đông cũng như các vụ
việc xảy ra trên Biển Đông được phân tích, đánh giá trên tinh thần khoa học, khách
quan để dư luận trong nội bộ từng bên liên quan đến tranh chấp và dư luận quốc tế có
thông tin đầy đủ và nhiều chiều hơn. Những nỗ lực hợp tác trên đây mới chỉ là bước
đầu trên một con đường vô cùng lâu dài và gian khổ để các bên liên quan đến tranh
chấp, trực tiếp và không trực tiếp, hành động vì lợi ích của mình và tính đến lợi ích của
các bên liên quan khác và của cả cộng đồng quốc tế, hướng đến mục tiêu cuối cùng là
biến Biển Đông từ khu vực tranh chấp phức tạp, thực sự trở thành một khu vực hòa
bình, hợp tác và phát triển.
Trên tinh thần đó, Học viện Ngoại giao phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam tiếp
tục tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ ba với chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an
ninh và phát triển trong khu vực”. Nội dung của Hội thảo tập trung vào sáu nhóm chủ
đề chính sau: (i) Tầm quan trọng của Biển Đông đối với thế giới và khu vực; (ii) Lợi ích
của các nước trong và ngoài khu vực Biển Đông; (iii) Những diễn biến gần đây tại Biển
Đông; (iv) Những khía cạnh pháp lý quốc tế của tranh chấp Biển Đông; (iv) Vấn đề giải
quyết tranh chấp và quản lý xung đột ở Biển Đông; (vi) Phương cách và biện pháp thúc
đẩy hợp tác ở Biển Đông. Cuốn sách này tập hợp phần lớn tham luận của các học giả
trong nước và quốc tế tham gia Hội thảo theo các nhóm chủ đề trên.
Phần thứ nhất tập trung đánh giá tầm quan trọng của Biển Đông đối với thế giới
và khu vực.
GS. Geoffrey Till (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Biển, Đại học King,
Luân-đôn, Anh) cho rằng mặc dù Trung Quốc luôn khẳng định cần coi tranh chấp Biển
Đông là vấn đề hoàn toàn của các quốc gia liên quan và của khu vực, trên thực tế Biển
Đông ngày càng được xem là vấn đề toàn cầu. Tầm quan trọng chiến lược của tranh
chấp này được minh họa rõ ràng nhất bởi mối quan tâm từ Mỹ và các quốc gia khác về
các tác động có thể xảy ra của tranh chấp đối với tự do hàng hải, bởi mức độ, tính chất
và hệ quả của các chương trình hiện đại hóa hải quân của các bên tranh chấp. Tác giả
rút ra kết luận rằng khi những nguy cơ hiện hữu ở Biển Đông đang tăng nhiệt, cần có
sự minh bạch và những cái đầu lạnh ở cả trong và ngoài khu vực.
Bài viết của Ðại sứ Rodolfo C. Severino (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ASEAN
thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore) tập trung vào phân tích những bất
đồng còn tồn tại xung quanh tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là tuyên bố đường lưỡi
bò và tuyên bố ưu tiên đàm phán song phương với các quốc gia tranh chấp của Trung
Quốc. Tác giả chỉ ra cần phải nghiên cứu sự khác biệt, nếu có, giữa tính khả thi của Bộ
Quy tắc ứng xử và một tuyên bố chính trị và phân tích các hệ quả trong trường hợp xảy
ra xung đột giữa các quy định của luật mà một quốc gia cam kết với những gì mà họ
xem là lợi ích thiết yếu, cốt lõi, lợi ích dân tộc hay lợi ích của chế độ.
TS. Bronson Percival (Nhà nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Đông-Tây kiêm Cố
vấn cao cấp của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược tại Viện Chiến lược Hải quân, Mỹ)
trong bài tham luận của mình khẳng định Biển Đông sẽ vẫn là một vấn đề quan trọng
trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong tương lai gần vì những lợi ích hàng hải của
Mỹ tại đây và sự liên hệ mật thiết của Biển Đông với chính sách “xoay trục” Châu Á -
Lời giới thiệu
11
Thái Bình Dương của Mỹ thời kỳ hậu-Afghanistan. Tuy nhiên, một trong những vấn đề
thách thức nhất hiện nay là cách để Mỹ hợp tác với Trung Quốc và các nước ASEAN
nhằm khuyến khích Trung Quốc sửa đổi các yêu sách phù hợp hơn với các nguyên tắc
của luật pháp quốc tế.
Phần thứ hai phân tích lợi ích của các nước trong và ngoài khu vực Biển Đông.
TS. Renato Cruz De Castro (Khoa Nghiên cứu quốc tế, Đại học De La Salle, Manila,
Philippin) phân tích tác động của cách tiếp cận “chính trị thực tiễn” (realpolitik) mà
Trung Quốc đang áp dụng trong yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông đối với an ninh khu
vực. Các chiến thuật mà Trung Quốc sử dụng bao gồm: (i) trích dẫn yêu sách lịch sử;
(ii) áp dụng cách tiếp cận song phương để làm suy yếu ASEAN; (iii) dựa vào kế sách
“chia để trị” nhằm đối phó riêng từng nước thành viên ASEAN và tạo sự chia rẽ giữa
ASEAN và Mỹ; (iv) tăng cường sức mạnh hải quân cho phép Trung Quốc giải quyết
tranh chấp lãnh thổ theo cách riêng của mình. Kết luận, tác giả cho rằng việc Trung
Quốc sử dụng cách tiếp cận chính trị thực tiễn trong việc giải quyết tranh chấp Biển
Đông sẽ khiến cho Đông Á trong tương lai sẽ giống như Châu Âu trong quá khứ.
Về nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự hiếu chiến của Trung Quốc gần đây, Tướng (nghỉ
hưu) Daniel Schaeffer (Nhà nghiên cứu cao cấp, Viện Chính sách Châu Á 21, Pháp)
nhận định sự quả quyết này không chỉ dựa trên những lý do về kinh tế (như dầu, khí,
đánh bắt cá, bảo vệ môi trường…) mà còn liên quan đến bố trận quốc phòng của Trung
Quốc để chống lại với những gì mà Trung Quốc coi là “chính sách ngăn chặn” của Mỹ.
Với tính toán như vậy, Biển Đông trở thành một quân cờ - một quân cờ quan trọng trong
kế hoạch phòng thủ tổng thể Trung Quốc đang xây dựng nhằm hạn chế “mối đe dọa Mỹ”.
Đối với ASEAN, học giả Hà Anh Tuấn (Nghiên cứu sinh Tiến sĩ về Chính trị và
Quan hệ quốc tế tại Đại học New South Wales, Australia) cho rằng tuy được xem là một
trong những tổ chức khu vực thành công nhất trên thế giới nhưng ASEAN lại chưa thực
sự đóng vai trò đáng kể trong việc làm dịu những tranh cãi nóng bỏng ở Biển Đông.
Không kể tới sự khác biệt về lợi ích của các thành viên ASEAN và những ràng buộc theo
“Phương cách ASEAN”, vai trò hạn chế của ASEAN trong những tranh chấp này một
phần do những nỗ lực của Trung Quốc nhằm duy trì các đàm phán trong khuôn khổ
song phương. Vì ASEAN đang trên con đường hiện thực hóa ước mơ xây dựng Cộng
đồng nên những kết quả đó thấp hơn rất nhiều so với kỳ vọng của các nước thành viên
khi đương đầu với một mối lo ngại an ninh chung của khu vực. Chính vì vậy, ASEAN
có lợi ích, trách nhiệm, và khả năng để tham gia tích cực hơn trong vấn đề tranh chấp
tại Biển Đông và đóng góp vào quá trình giải quyết tranh chấp.
Bài viết của TS. Vijay Sakhuja (Giám đốc Nghiên cứu của Hội đồng Nghiên cứu Các
Vấn đề thế giới, Ấn Độ) tập trung phân tích các lợi ích của Ấn Độ ở Biển Đông. Mặc
dù không phải là một bên tranh chấp ở Biển Đông, nhưng các diễn biến tại Biển Đông
cũng tác động đến Ấn Độ trên nhiều phương diện. Ấn Độ có lợi ích thương mại hàng
hải ở khu vực, lợi ích trong việc khai thác dầu mỏ, khí đốt và đã tiến hành kinh doanh
năng lượng với Việt Nam kể từ cuối thập niên 1980. Ấn Độ cũng có những lo ngại mới
bắt nguồn từ cách Trung Quốc diễn giải “lợi ích cốt lõi”, theo đó Trung Quốc có thể mở
rộng lợi ích bao gồm cả khu vực tranh chấp ở biên giới với Ấn Độ.
Đặng Đình Quý
12
Trong bối cảnh các cách tiếp cận đa phương nhằm giải quyết tranh chấp Biển Đông
đang bộc lộ mức độ hiệu quả khá hạn chế, nghiên cứu của GS. Evgeny Kanaev (Nhà
nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương, Viện Kinh tế
Thế giới và Quan hệ Quốc tế, Viện Hàn lâm Khoa học Nga và Giáo sư Khoa Chính trị
Thế giới, Trường Kinh tế Cao cấp, Matxcơva, Nga) đưa ra những phân tích sâu sắc về
các lựa chọn chính sách của Nga đối với vấn đề Biển Đông và lập luận rằng cách tiếp
cận thực dụng hướng đến giải quyết vấn đề có thể đóng góp tích cực cho việc giảm thiểu
khả năng xung đột tại đây.
Phần thứ ba bao gồm những nghiên cứu xoay quanh những diễn biến gần đây ở
Biển Đông.
TS. Trần Trường Thủy (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông, Học viện
Ngoại giao Việt Nam) tổng hợp các diễn biến ở Biển Đông trong những năm vừa qua,
đặc biệt là tình hình hai năm trở lại đây và phân tích những tác động của nó đối với an
ninh, hợp tác và viễn cảnh của khu vực trong tương lai gần. Tác giả kết luận rằng Trung
Quốc và ASEAN cần hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử COC khu vực mang tính ràng buộc
về pháp lý - điều đó sẽ giúp giảm thiểu nguy cơ đe dọa đối với các bên liên quan và cho
phép họ tự tin hơn để tiến hành các hoạt động hợp tác sâu rộng hơn ở Biển Đông.
TS. S. D. Pradhan (Cựu Phó cố vấn An ninh quốc gia và Giáo sư Khoa Lịch Sử và
Quốc phòng, Trường Đại học Punjabi, Patiala, Ấn Độ) phân tích những nguyên nhân
chính khiến căng thẳng gia tăng ở Biển Đông trong thời gian gần đây và đánh giá vai
trò của Trung Quốc với tư cách là bên tranh chấp chính. Bài viết xem xét về cách nhìn
nhận của Trung Quốc cũng như các quốc gia khác có liên quan đến tranh chấp. Ngoài
ra, tác giả còn lưu ý đến những diễn biến tích cực gần đây trong đó bao gồm nỗ lực thúc
đẩy Tuyên bố ứng xử của các bên, tiến tới Bộ Quy tắc ứng xử cũng như những cố gắng
để giải quyết vấn đề thông qua đàm phán. Cuối cùng, bài viết đưa ra những đề xuất thiết
thực nhằm xoa dịu tình hình ngay lập tức, hướng đến giải quyết vấn đề trên tinh thần
thực sự hợp tác.
Bài viết của Li Jianwei (Giám đốc Trung tâm nghiên cứu khoa học biển thuộc Viện
nghiên cứu quốc gia Nam Hải, Hải Nam, Trung Quốc) và Chen Pingping (Nghiên cứu
viên tại Trung tâm nghiên cứu kinh tế biển thuộc Viện nghiên cứu quốc gia Nam Hải,
Trung Quốc) đi sâu nghiên cứu các vụ việc gần đây ở Biển Đông và tác động của chúng
đối với quan hệ Việt – Trung thông qua lăng kính của truyền thông và các báo cáo
chính thức của chính quyền trung ương Trung Quốc. Các tác giả cho rằng truyền thông
đóng một vai trò quan trọng trong thông tin đại chúng. Họ có khả năng truyền tải các
sự kiện mới xảy ra với tốc độ khá nhanh nhưng cũng có thể góp phần định hướng luồng
nhận thức tốt, xấu của dân chúng trước các vụ việc. Vì vậy, chính phủ hai nước cần thận
trọng trong việc công bố thông tin, cả thời điểm lẫn nội dung và cần thúc đẩy hơn nữa
hợp tác giữa truyền thông hai nước để thiết lập kênh thông tin hiệu quả hướng đến
củng cố mối quan hệ hữu nghị Việt – Trung, tạo môi trường thuận lợi cho việc quản lý
tranh chấp và hợp tác ở Biển Đông.
Trong khi đó, tham luận của GS. Ramses Amer (Giáo sư tại Viện nghiên cứu Hòa
bình và Xung đột và Nhà nghiên cứu cao cấp, Khoa Ngôn ngữ phương Đông, Đại học
Lời giới thiệu
13
Stockholm, Thụy Điển) tập trung cụ thể vào những sự kiện cắt cáp thăm dò dầu khí xảy
ra vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6/2011 giữa Việt Nam và Trung Quốc và cách thức hai
nước đối phó với những căng thẳng liên quan đến tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông.
Phân tích này được đặt trong bối cảnh rộng hơn về cách tiếp cận của Việt Nam – Trung
Quốc đối với quản lý tranh chấp biên giới trong giai đoạn kể từ khi bình thường hóa
quan hệ cuối năm 1991, nhằm đánh giá tổng thể những thách thức, tác động và bài học
rút ra từ các sự kiện tháng 5-6/2011.
Về vai trò của ASEAN trong tranh chấp Biển Đông, TS. Ian Storey (Nhà nghiên cứu
cao cấp tại Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore) cho rằng ngoài sự không khoan
nhượng từ phía Trung Quốc, việc quản lý xung đột và giải quyết tranh chấp tại Biển
Đông đang bị chính những vấn đề trong nội khối ASEAN cản trở, đặc biệt là vấn đề
đồng thuận. Trong khi các nước ASEAN tỏ ra ủng hộ một Bộ Quy tắc ứng xử (COC)
trên Biển Đông, thì Trung Quốc khá miễn cưỡng và ngần ngại trong đàm phán. Đề
xuất của Philippin về việc biến Biển Đông thành một khu vực Hòa bình, Tự do, Hữu
nghị và Hợp tác (ZOPFFC) cũng là vấn đề gây nhiều bàn cãi do sự phản đối từ Trung
Quốc, và cũng bởi đề xuất đó đòi hỏi ASEAN phải tỏ rõ thái độ trước yêu sách mở
rộng của Trung Quốc. Tóm lại, triển vọng hiện thực hóa COC và ZOPFFC là không
mấy khả thi.
GS. Carlyle A. Thayer (Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học New South
Wales, Australia) xem xét những diễn biến tác động đến an ninh ở Biển Đông trước và
sau khi thông qua Bản Hướng dẫn thực thi tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông
ngày 20/7/2011. Ông kết luận rằng những thỏa thuận song phương giữa Trung Quốc và
các bên yêu sách khác là cần thiết nhưng chưa phải là điều kiện đủ để duy trì an ninh
ở Biển Đông khi nào Trung Quốc vẫn tiếp tục khẳng định “chủ quyền không thể tranh
cãi” đối với các khu vực hàng hải.
Tham luận của GS. Koichi Sato (Đại học Tổng hợp J. F. Oberlin, Tokyo, Nhật Bản)
tập trung phân tích những thách thức trên biển, đồng thời đánh giá tác động đối với
hợp tác an ninh giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng (bao gồm cả Nhật Bản và
Mỹ) trong bối cảnh các nhà ngoại giao Trung Quốc khẳng định với quan chức chính
quyền Obama rằng Trung Quốc sẽ không chấp nhận bất kỳ hành động can thiệp nào
tại Biển Đông, khu vực mà Trung Quốc hiện coi là một phần “lợi ích cốt lõi” thuộc chủ
quyền của mình. Hải quân Quân giải phóng nhân dân và các cơ quan an ninh hàng hải
Trung Quốc đã bắt đầu triển khai tàu chiến và tàu tuần tra tại Biển Đông và căng thẳng
giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á đang có xu hướng gia tăng.
Phần bốn thảo luận những khía cạnh pháp lý quốc tế của tranh chấp Biển Đông.
Trong bài viết của mình, GS. Stein Tønnesson (Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo
(PRIO), Na Uy) tìm hiểu mối tác động qua lại giữa sức mạnh và luật pháp ở Biển Đông.
Liệu luật pháp quốc tế có làm trầm trọng thêm các tranh chấp bằng cách khuyến khích
các yêu sách mâu thuẫn nhau? Hay nó góp phần thiết lập các nguyên tắc và đưa ra
những biện pháp giúp xử lý và giải quyết xung đột? Tác giả trả lời câu hỏi bằng cách
xem xét sự phát triển của luật pháp quốc tế đã ảnh hưởng như thế nào đến các xung
đột ở Biển Đông và chứng minh tính đan xen song song trong lịch sử giữa các giai đoạn
Đặng Đình Quý
14
xung đột và lắng dịu và sự phát triển pháp lý, cả trong luật pháp quốc tế dựa trên tập
quán và điều ước.
Nghiên cứu của TS. Koh Choong Suk (Chủ tịch Hội Nghiên cứu Ieodo, Hàn Quốc)
và Yearn Hong Choi (Nhà nghiên cứu cao cấp tại Hội Nghiên cứu Ieodo) phân tích
vùng đặc quyền kinh tế qua góc nhìn của các phương tiện truyền thông lớn và các tạp
chí học thuật năm 2010, tập trung vào Biển Đông và so sánh với một số vùng biển khác.
GS.TS. Raul C. Pangalangan (Đại học Philippin) bàn về Luật Đường cơ sở mới được
thông qua gần đây của Philippin. Luật này được hy vọng cuối cùng sẽ giải quyết được
tình thế khó xử của Philippin về bề rộng vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Tuy
nhiên hy vọng đó đã không trở thành hiện thực.
GS. Erik Franckx (Thành viên Tòa trọng tài thường trực và Trưởng khoa Luật Quốc
tế và Luật Châu Âu, Đại học Vrije, Brussel, Bỉ) và Marco Benatar (Đại học Vrije) tập
trung vào vấn đề áp dụng đường cơ sở quần đảo đối với các quần đảo ở giữa biển - đó là
những quần đảo thuộc về một quốc gia mà do một hay nhiều lý do không thể được xem
như là quốc gia quần đảo theo Luật Biển Quốc tế 1982. Bài tham luận xem xét các lập
luận pháp lý đã được dùng để hỗ trợ cho khả năng vẽ đường cơ sở thẳng xung quanh các
quần đảo nằm ở xa đất liền trong luật pháp quốc tế, cũng như các cuộc tranh luận và các
dự thảo đề xuất đã được thảo luận sôi nổi tại các cuộc họp của Hội nghị lần thứ 3 của
Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Trên cơ sở đó, tác giả rà soát thực tiễn hoạt động của các
nước để làm rõ liệu các nước không phải là quốc gia quần đảo theo Công ước 1982 có thể
có quyền theo luật pháp hiện thời để vẽ một hệ thống các đường cơ sở thẳng xung quanh
các quần đảo ở giữa đại dương, theo cơ sở của Điều 47 (về các đường cơ sở quần đảo)
hơn là theo cơ sở của Điều 7 (về các đường cơ sở thẳng) của Công ước này hay không.
Tác giả đi đến kết luận rằng các quốc gia nên tránh vẽ đường cơ sở thẳng xung quanh
các quần đảo xa đất liền bởi nó đi ngược lại với tinh thần và văn bản của Công ước 1982.
TS. Nguyễn Thị Lan Anh (Phó Trưởng khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao Việt
Nam) cho rằng dưới góc độ an ninh truyền thống, những xung đột về yêu sách lãnh thổ và
vùng biển ngày càng gay gắt sẽ khiến cho xung đột vũ trang có thể xảy ra tại khu vực Biển
Đông. Việc xuống cấp của môi trường đa dạng sinh học biển, khai thác quá mức các nguồn
tài nguyên biển, đe dọa tự do, an toàn hàng hải và các chuyến bay cũng như sự bất ổn định
của đời sống người dân ven biển đang là những nguy cơ trong thời điểm hiện tại. Tất cả
những điều này đặt an ninh của Biển Đông ở mức báo động cao. Công ước Luật Biển năm
1982 của Liên Hợp Quốc là một khuôn khổ pháp lý đa phương và toàn diện nhằm giúp các
quốc gia sử dụng và quản lý biển một cách hòa bình, công bằng và bền vững trên cơ sở tôn
trọng chủ quyền lẫn nhau. Tuy nhiên, để áp dụng hiệu quả các quy định của Công ước vào
bối cảnh đặc thù của Biển Đông, các quốc gia cần cụ thể hóa các quy định của Công ước
để xây dựng một bộ luật ứng xử có hiệu lực ràng buộc trong khu vực.
Phần năm tìm hiểu các biện pháp quản lý xung đột và giải quyết tranh chấp ở Biển
Đông.
Bài viết của GS. Robert Beckman (Giám đốc Trung tâm Luật Quốc tế, Đại học Quốc
gia Singapore) và Leonardo Bernard (Trung tâm Luật Quốc tế) nghiên cứu những cản
Lời giới thiệu
15
trở chính đối với việc xác định các khu vực tranh chấp tại Biển Đông và các nghĩa
vụ theo luật quốc tế của các quốc gia yêu sách liên quan đến các khu vực tranh chấp,
trong đó bao gồm giới hạn của luật đối với những hành động đơn phương mà quốc gia
được phép thực hiện trong các khu vực tranh chấp. Tác giả cho rằng trước khi các cuộc
thương thảo nghiêm túc về các thỏa thuận khai thác chung có thể được bắt đầu, các
quốc gia liên quan phải nhất trí về một hoặc nhiều các khu vực tranh chấp mà tại đó sẽ
tuân thủ theo các thỏa thuận khai thác. Điều này sẽ khó khăn vì Trung Quốc vẫn chưa
làm rõ các cơ sở yêu sách của nước này tại các vùng biển ở Biển Đông và do đó, các
khu vực có yêu sách chồng lấn trở nên không rõ ràng. Các khu vực có tranh chấp cũng
không được làm rõ vì không có sự đồng thuận về tình trạng của các đảo tranh chấp.
GS. Leszek Buszynski (Nhà nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm nghiên cứu Chiến
lược và Quốc phòng, Đại học Quốc gia Australia) nhận định quá trình phát triển của
tranh chấp Biển Đông liên quan tới các vấn đề chiến lược rộng lớn hơn: một mặt là
chiến lược hải quân của Trung Quốc khi nước này tăng cường năng lực hải quân, mặt
khác là sự hiện diện của Mỹ ở phía Tây Thái Bình Dương và những mối quan hệ đồng
minh của Mỹ trong khu vực. Vì thế, một thỏa thuận ngăn ngừa xung đột là cần thiết
để tránh gây leo thang những vụ việc nhỏ trở thành xung đột, từ đó cản trở quá trình
giải quyết các yêu sách chồng lấn. Thỏa thuận này nên tính tới hai cường quốc gia quan
trọng, Mỹ và Trung Quốc, đồng thời bao gồm các bên yêu sách của ASEAN.
Trong tham luận của mình, Đại sứ Hasjim Djalal (Giám đốc Trung tâm nghiên cứu
Đông Nam Á, Indonesia) bàn về những cách tiếp cận chính thức và không chính thức
nhằm quản lý tranh chấp Biển Đông và tăng cường hợp tác vì an ninh và phát triển
lâu dài của khu vực. Tác giả nhấn mạnh cách tiếp cận không chính thức về Biển Đông
không nhằm mục đích giải quyết tranh chấp lãnh thổ giữa các bên yêu sách khác nhau,
nhưng giúp đạt được ba điều: (i) đưa ra các chương trình hợp tác, trong đó tất cả các
bên đều tham gia; (ii) thúc đẩy đối thoại giữa các bên có lợi ích trực tiếp, để họ có thể
tìm ra giải pháp cho vấn đề; và (iii) thúc đẩy tiến trình xây dựng lòng tin để các bên tin
tưởng lẫn nhau.
Phần sáu viết về các phương cách và biện pháp thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông.
GS. Kuan-hsiung Dustin Wang (Viện Khoa học Chính trị, Đại học Quốc gia Đài
Loan) cho rằng để giải quyết tranh chấp và thúc đẩy hợp tác tại khu vực Biển Đông,
việc bảo tồn và quản lý nguồn cá có thể được xem là điểm khởi đầu. Các chính sách bảo
vệ và quản lý nguồn cá cần phải được thực thi trong một cơ chế tổng thể, ở các cấp độ
quốc gia, khu vực và quốc tế, để có thể hoàn thành được mục tiêu chính sách. Tác giả đi
đến kết luận rằng các tổ chức quản lý nghề cá khu vực là cần thiết để bảo tồn và quản lý
nguồn cá ở Biển Đông và tiến tới giải quyết tranh chấp tại Biển Đông.
Theo GS. Jon Van Dyke (Trường Luật William S. Richardson, Đại học Hawaii, Mỹ),
Biển Đông là biển nửa kín được điều chỉnh theo Phần 9 của Công ước Luật Biển; do
đó, Điều 123 quy định các quốc gia kề cận với biển kín/nửa kín “hợp tác với nhau để
thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định trong Công ước” để quản lý, bảo tồn, thăm
dò và khai thác các tài nguyên sinh vật biển, đồng thời phối hợp thực hiện các hoạt
động bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Tuy nhiên, các nước quanh Biển Đông đã thất
Đặng Đình Quý
16
bại trong việc thành lập một tổ chức khu vực hiệu quả, và hình thức hợp tác “trực tiếp”
nhìn chung cũng không thành công. Chưa có một tổ chức về quản lý nghề cá chung
hiệu quả được thành lập. Tổ chức điều phối các nước Biển Đông Á (COBSEA) gần như
không có hoạt động và Tổ chức đối tác về quản lý môi trường các quốc gia Biển Đông
Á (PEMSEA) chỉ đạt được một số thành tựu khiêm tốn.
Học giả Vũ Hải Đăng (Nghiên cứu sinh Tiến sĩ về Luật môi trường Biển tại Trường
Luật Schulich, Đại học Dalhousie, Canada) ủng hộ việc thành lập một mạng lưới quản
lý các khu vực bảo tồn biển song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam tại khu vực
phía Đông Bắc Biển Đông, với tư cách là một giải pháp thay thế cho lệnh cấm đánh cá
hàng năm của Trung Quốc tại khu vực. Tác giả cũng phân tích một số triển vọng về
cách thức thiết lập mạng lưới cũng như cách thức quản lý các thành tố của mạng lưới,
đồng thời xem xét các yêu sách chồng lấn tại khu vực dựa trên việc phân biệt yếu tố địa
lý và sinh học.
Tóm lại, phần lớn các ý kiến tập trung đánh giá các tác động tiêu cực của chiến lược
Trung Quốc trên Biển Đông, cho rằng sự hung hăng trên thực địa và thái độ mập mờ
về yêu sách của Bắc Kinh có thể là nguyên nhân chủ yếu khiến căng thẳng leo thang và
khả năng xung đột luôn bị đẩy ở mức cao. Là bên tranh chấp chính ở Biển Đông và là
cường quốc quan trọng ở khu vực, Trung Quốc cần có những hành xử đúng mực để
duy trì môi trường hòa bình ổn định, khôi phục niềm tin của các nước láng giềng bởi
đây cũng là lợi ích phát triển của Trung Quốc.
Dựa trên kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp biển của nhiều nước trên thế giới,
các đại biểu và học giả đã đề xuất một số biện pháp thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông, trong
đó đáng chú ý là các sáng kiến về xây dựng một cơ chế quản lý nghề cá ở cấp khu vực
và kiểm soát ô nhiễm biển thực sự hiệu quả, thiết lập một mạng lưới các khu bảo tồn
biển song phương hoặc đa phương như một giải pháp thay thế cho lệnh cấm đánh bắt
cá đơn phương hiện nay... Các học giả cũng nhất trí rằng để giải quyết các tranh chấp
ở Biển Đông một cách hòa bình, trong thời gian tới các bên liên quan cần kiên trì đàm
phán, tăng cường đối thoại trên tinh thần hợp tác và tôn trọng luật pháp quốc tế, kiềm
chế các hành động bạo lực, cũng như cần minh bạch hóa các yêu sách chủ quyền về biển
đảo. Nhiều học giả kêu gọi các bên trong khi hợp tác thực thi DOC cần xây dựng một
Bộ Quy tắc ứng xử (COC) mang tính ràng buộc hơn nhằm giúp xây dựng lòng tin giữa
các nước để tạo môi trường hòa bình, ổn định, và khuyến khích các bên hợp tác quản
lý và khai thác các nguồn tài nguyên ở Biển Đông một cách hòa bình.
Hội thảo tiếp tục nhận được sự quan tâm của đông đảo học giả trong và ngoài nước,
xem đây là một diễn đàn tích cực góp phần vào việc đưa ra các sáng kiến giúp quản lý
tranh chấp ở Biển Đông, tăng cường an ninh, hợp tác và phát triển ở khu vực.
Phần I
TẦM QUAN TRỌNG CỦA BIỂN ĐÔNG
ĐỐI VỚI THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
18
19
1
THỬ NHIỆT TẦM QUAN TRỌNG TOÀN CẦU
CỦA TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG
GS. Geoffrey Till
Giám đốc Trung tâm Corbett về Nghiên cứu Chính sách Biển,
Đại học King, Luân Đôn, Anh
Tóm tắt
Mặc dù Trung Quốc luôn khẳng định cần coi tranh chấp Biển Đông là vấn đề hoàn toàn
của các quốc gia liên quan và của khu vực, trên thực tế nó ngày càng được xem là vấn đề
toàn cầu. Điều này là bởi vấn đề Biển Đông đang là thước đo để đánh giá vai trò và chính
sách của Trung Quốc trong tương lai – một vấn đề ngày càng làm đau đầu đối với Hoa Kỳ
và một số nước ngoài khu vực. Tầm quan trọng chiến lược của tranh chấp này được minh
họa rõ ràng nhất bởi các mối quan tâm bên ngoài về tác động có thể xảy ra của tranh chấp
đối với tự do hàng hải và bởi mức độ, tính chất và hậu quả của chương trình hiện đại hóa
hải quân của các bên tranh chấp. Vì những nguy cơ đang hiện hữu khi Biển Đông tăng
nhiệt, cần có sự rõ ràng và những cái đầu lạnh ở cả trong và ngoài khu vực.
Giới thiệu: Vấn đề toàn cầu hay khu vực?
Hai cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề Biển Đông vốn đã phức tạp và khó khăn
giờ đã sáng tỏ. Cách nhìn thứ nhất, được Trung Quốc thể hiện một cách kiên định và
mạnh mẽ, là vấn đề này nên được nhìn nhận như một vấn đề khu vực chứ không phải
là vấn đề toàn cầu. Bắc Kinh đã phản ứng mạnh với bài phát biểu của bà Hillary Clinton
trong đó nêu lợi ích của Mỹ ở Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN Việt Nam tháng 7 năm
2010.1
Trên website chính thức của mình, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì
liên tục cảnh cáo việc Mỹ dính líu sâu hơn vào vấn đề Biển Đông, cho rằng điều này sẽ
1.	 Tuy nhiên, điều đáng chú ý là rất nhiều điểm trong diễn văn của bà Clinton có thể đã xuất hiện trong một tuyên
bố của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 10/05/1995. Vì thế, bài diễn văn này không thực sự gây bất ngờ.
GS. Geoffrey Till
20
làm gia tăng căng thẳng trong khu vực. “Nếu vấn đề này bị biến thành một vấn đề quốc
tế hoặc đa phương thì hậu quả sẽ như thế nào? Điều này chỉ làm vấn đề càng xấu đi và
khó đạt được giải pháp… Tốt nhất là nên đạt được sự đồng thuận rằng các tranh chấp sẽ
được giải quyết hòa bình thông qua các cuộc tham vấn thiện chí vì hòa bình, ổn định ở
Biển Đông và những mối quan hệ láng giềng hữu hảo.”2
Vấn đề Biển Đông là một vấn đề
khu vực, và nó chỉ có thể được giải quyết bởi các nước trong khu vực. Vấn đề đã đủ căng
thẳng và nhạy cảm khi có quá nhiều quốc gia yêu sách ở Biển Đông và sự chồng lấn về
quyền tài phán cần giải quyết, thế thì, tại sao lại phải làm cho mọi việc xấu hơn bằng
cách lôi kéo thêm các nước không có yêu sách chủ quyền ở khu vực vào tranh chấp?
Ngược lại, nhà chiến lược đầu thế kỷ 20 Halford Mackinder từ nhiều năm trước đã
đưa ra luận điểm sau này được nhiều người nhìn nhận là một luận điểm quan trọng:
“Sự thống nhất của đại dương là yếu tố tự nhiên đơn giản giúp xác định giá trị vượt trội
của sức mạnh biển trong thế giới hiện đại.”3
Do biển kết nối tất cả các quốc gia với nhau,
các nước bên ngoài khu vực cũng có lợi ích lớn trong việc quản lý xung đột và kết quả
của tranh chấp, đặc biệt khi họ là các quốc gia biển, do đó việc họ muốn thể hiện lợi ích
của mình trong các vấn đề này là dễ hiểu. Vì vậy, tranh chấp Biển Đông nên được xem
như một vấn đề toàn cầu và cộng đồng quốc tế có lợi ích trong việc quản lý hòa bình
các tranh chấp này với hy vọng một ngày nào đó sẽ tìm ra một giải pháp. Ngoại trưởng
Mỹ Hillary Clinton cho rằng, “Cách thức để đo sức mạnh của một cộng đồng các quốc
gia là xem xét cộng đồng đó phản ứng lại những mối đe dọa đối với các quốc gia thành
viên, láng giềng, và khu vực như thế nào.”4
Bên cạnh đó, tại cuộc Đối thoại Shangri-La
tháng 6/2011, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates cũng đã tiếp tục nhấn mạnh
quan điểm rằng tranh chấp Biển Đông là một vấn đề toàn cầu với tầm quan trọng và
những hệ lụy mang tính toàn cầu của nó. Theo đó, các vai trò và hệ lụy có tính toàn
cầu của tranh chấp đã giúp biện minh cho Mỹ và các nước bên ngoài khác trong nỗ lực
duy trì vai trò đảm bảo các lợi ích rộng lớn của những nước này tại khu vực. Ông Gates
thậm chí còn sẵn sàng đặt cược 100 đô-la Mỹ rằng, “Trong vòng 5 năm tới, ảnh hưởng
của nước Mỹ ở khu vực [sẽ] mạnh mẽ hơn hoặc ít nhất là cũng giữ nguyên như hiện
nay.”5
Vì vậy, câu hỏi được đặt ra là, tại sao Mỹ và các quốc gia ngoài khu vực lại có lợi
ích như vậy ở vấn đề Biển Đông và hệ quả của việc này là gì? Vài lý do có thể được đưa
ra như sau:
An ninh – Vấn đề chung và không thể chia cắt
Trước hết, có quan điểm cho rằng trong thời kỳ toàn cầu hóa, vấn đề an ninh quốc
tế không thể bị chia nhỏ theo các khu vực địa lý rời rạc. Theo đó, các quốc gia bên ngoài
một khu vực ngày càng quan ngại hơn về việc thỉnh thoảng tranh chấp trong khu vực
lại nóng lên, không chỉ bởi vì những sự bất ổn này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các nước
đó. Kinh tế của thế giới bên ngoài bị ảnh hưởng rất lớn vào những sự kiện diễn ra xung
2.	 ‘China Warns US to Stay Out of Islands Dispute’, New York Times, 26/7/2010.
3.	 Halford Mackinder, Britain and the British Seas (London: D. Appleton & Co Ltd., 1914) tr. 12.
4.	 ‘US takes on Maritime Spats’, Wall Street Journal, 24/7/2010
5.	 ‘Not Littorally Shangri-La’, The Economist, 9/6/2011.
Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp Biển Đông
21
quanh và ngay tại khu vực Đông Nam Á vì đây là một thị trường quan trọng, một nguồn
hàng hóa, dịch vụ, và là điểm thu hút chủ yếu của ngành du lịch. Cuộc khủng hoảng
tiền tệ Châu Á những năm 90 ảnh hưởng tới Châu Âu, cũng như tình hình suy thoái
kinh tế thế giới hiện tại đều chứng minh một điều rằng toàn bộ nền kinh tế thế giới là
không thể bị chia cắt. Vì những lý do này, toàn bộ các quốc gia khác trên thế giới có lợi
ích lớn trong việc ổn định và thịnh vượng trong khu vực được tiếp tục duy trì, và do đó,
như người ta thường nói: lá cờ đi sau thương mại (thương mại chi phối các chính sách
về quan hệ quốc tế). Những cân nhắc chính trị và chiến lược cũng cho thấy điều này.
Những nhận định bên ngoài về việc tăng sức nóng ở khu vực
Nhìn từ bên ngoài, dù chính xác hay không, chính sách của Trung Quốc nửa đầu năm
2011 dường như trở lại với phong cách quyết đoán đầu năm 2010 với việc can thiệp vào
các tàu thăm dò hoạt động phục vụ lợi ích của Việt Nam và Philippin trong các khu vực
tranh chấp ở Biển Đông. Tháng 6/2011, một tàu chiến Trung Quốc đã nổ súng vào ba tàu
đánh cá của Philippin gần bãi san hô Jackson.6
Trong Thông điệp Liên Bang cuối tháng 7,
Tổng thống Philippin Benigno Aquino đã nói: “Chúng tôi không muốn căng thẳng thêm
với bất cứ quốc gia nào, nhưng chúng tôi phải để thế giới biết rằng chúng thôi luôn sẵn
sàng bảo vệ những thứ thuộc về chúng tôi.” Vì lý do này, tàu Rajah Humabon hàng đầu
của Hải quân Philippin đã được phái đến nơi mà một số người ở Manila giờ đây gọi là
“Biển Tây Philippin.”’7
Người ta cũng chưa chắc liệu Mỹ có coi nhóm đảo Kalayaan (KIG)
là một đối tượng được đặt trong Hiệp ước Tương hỗ An ninh Mỹ – Philippin ký năm
1951, trước khi yêu sách chủ quyền của Philippin về nhóm đảo này được bàn thảo, song
ít nhất, Mỹ sẽ rất quan tâm đến những bước phát triển mới này.
Vào thời điểm sự việc cắt dây cáp của Việt Nam ngày 26/05/2011 diễn ra, Phát ngôn
viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga đã cảnh báo: “Hải quân Việt Nam
sẽ làm mọi thứ cần thiết để bảo vệ vững chắc hòa bình, độc lập, chủ quyền, và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam.”8
Sau đó, vụ cắt cáp diễn ra, tàu tuần tra Việt Nam đã quay lại
khu vực, được hộ tống bởi 8 tàu khác. Đỉnh điểm của vụ việc này là lệnh đơn phương
cấm đánh bắt cá của Trung Quốc ở các vùng nước tranh chấp và việc rất nhiều thuyền
đánh cá Trung Quốc xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã làm tình
huống xấu thêm.9
Những sự việc như vậy đã khuấy động tinh thần dân tộc trong các
tầng lớp dân cư, đặc biệt khi các tường thuật của giới truyền thông khiến cộng đồng
mạng thấy được tầm quan trọng phương tiện truyền thông của thế kỷ 21 này, thì chính
quyền không thể xem nhẹ. Trên thực tế, một số “cuộc tấn công mạng” sau đó có thể
khiến bầu không khí càng trở nên căng thẳng hơn.10
6.	 ‘Behind recent gunboat diplomacy in the South China Sea’, IISS Strategic Comments, 8/2011.
7.	 ‘Navy Flagship to patrol PH waters only, says Palace, Philippine Daily Inquirer, 21/6/2011.
8.	 ‘Vietnam demands China stop sovereignty violations’, Thanh Nien Daily, 30/5/2011.
9.	 ‘Chinese fishing boats violate Vietnam waters: gov’t mulls patrol boats’ Thanh Nien Daily, 29/5/2011.
10.	Đây là vấn đề chung của cả khu vực. ‘Japan targeted by cyber attacks “from China”’, The Telegraph, 20/9/2011.
Việc các cuộc tấn công vào các nhà thầu vũ khí của tập đoàn công nghệ nặng IHI và Mitsubishi trùng với ngày kỷ
niệm của sự kiện Mãn Châu năm 1931, khiến cho các phương tiện truyền thông đổ thêm dầu vào lửa rằng các tin
GS. Geoffrey Till
22
Theo sau việc gia tăng căng thẳng này, các nhà quan sát đã chú ý đến mức độ liên kết
và hợp tác ngày càng tăng giữa các quốc gia thành viên ASEAN, không chỉ ở các cuộc
họp của ASEAN ở Việt Nam, nơi những đánh giá của bà Hillary Clinton nhận được
sự ủng hộ của một số quốc gia nhất định trong khu vực. Cuộc gặp chính thức đầu tiên
của tất cả những người đứng đầu hải quân các quốc gia ASEAN đã được tổ chức bên lề
hội nghị này. Các bên đã đồng ý thiết lập đường dây nóng để trao đổi thông tin và cùng
nhau bàn bạc về các hoạt động phối hợp.11
Tháng này, Việt Nam và Indonesia đã đồng
ý tổ chức những cuộc tuần tra chung ở phần phía Nam Biển Đông.12
Việc hiện đại hóa và các hoạt động của hải quân trong khu vực
Thật khó tin rằng việc gia tăng căng thẳng dần dần trong khu vực hoàn toàn không
liên quan đến các chương trình hiện đại hóa hải quân đang được thực hiện. Rất nhiều
người sẽ tranh luận rằng trên thực tế đây là một trong các cách phản ứng cơ bản của
khu vực đối với vấn đề Biển Đông. Hầu hết các bên yêu sách đều đang nâng cấp những
căn cứ quân sự mà họ duy trì ở các đảo trên Biển Đông do họ chiếm đóng, bao gồm
đường băng và nhiều loại công trình khác nhau: Trung Quốc (trên đảo Subi, Nam
Johnson và Bãi đá chữ thập), Đài Loan (trên đảo Itu Aba/đảo Đài Bình).13
Căng thẳng gia tăng ở khu vực đã đẩy mạnh việc triển khai quân sự, cũng như
việc tăng cường một lực lượng cảnh vệ biển và đáng lo ngại hơn là cả lực lượng không
quân và hải quân. Tháng 7 và tháng 8/2010 (ngay sau những nhận xét của bà Clinton
ở ASEAN), Trung Quốc tiến hành cuộc diễn tập lớn mang tên “Tiên phong 2010” bao
gồm việc bắn những tên lửa dẫn đường và thử nghiệm hệ thống không quân bảo vệ
chống tên lửa ở Biển Đông. Sau đó vào tháng 11/2010, Trung Quốc thực hiện một cuộc
tập trận lớn cả trên cạn và dưới nước với gần 100 tàu chiến, tàu ngầm và máy bay tham
gia. Về việc này, Thời báo Hoàn Cầu đưa tin: “Đây cơ bản là một cuộc diễn tập quân sự
thường kỳ, nhưng nó cũng dựa trên tình hình chiến đấu hiện nay ở Biển Đông.” Báo
này dẫn lời nhà phân tích Bắc Kinh, Li Jie khi ông nhận xét rằng “Đây không phải là
một tín hiệu đặc biệt nhưng chúng tôi đã chọn một sân khấu để thể hiện khả năng và
sức mạnh hải quân của chúng tôi.” Ảnh hưởng của các lực lượng thủy bộ hỗn hợp đối
với tình hình Biển Đông được đặc biệt lưu ý. Việt Nam cũng đã tổ chức một cuộc diễn
tập trực tiếp ở ngoài khơi Biển Đông, trên đảo Hòn Ong, cách tỉnh Quảng Nam 20 dặm
vào ngày 13/06/2011.14
Việc mở rộng dần dần tham vọng hoạt động và bành trướng Quân đội Giải phóng
Nhân dân Trung Quốc (Hải quân) (PLA[N]) trong vài năm gần đây được người ta chú ý
tặc Trung Quốc chính là người thực hiện chuyện này. Chính phủ Trung Quốc phủ nhận việc dính líu này, chỉ ra
rằng chính nước này cũng là mục tiêu của rất nhiều vụ tấn công mạng.
11.	‘ASEAN Navy Chiefs to Set up hotline amid maritime territory dispute’ Bangkok Post, 5/8/2011.
12.	‘Indonesia/Vietnam Agree Joint maritime Patrols’, AFP, 15/9/2011.
13.	Christian Le Miere, Waves of Concern: Southeast Asian States Plan Naval Defences, Jane’s Intelligence Review,
5/2011, tr. 8-13; ABC Asia Pacific News, ‘China criticizes Vietnam’s decision to renovate airstrip on Spratlys.’
14.	‘Cbina launches more large-scale military exercises’ AFP 3/8/2010; ‘Chinese military holds naval drills in South
China Sea’, The Straits Times, 4/11/2010; ‘Tensions rise in South China Sea’, Jane’s Defence Weekly, 22/6/2011.
Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp Biển Đông
23
nhiều (chí ít là Mỹ) và gần đây càng được nhấn mạnh ngay sau chuyến khởi hành đầu tiên
của chiếc tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc Shi Lang. PLA[N] nhìn chung vẫn kém Hải
quân Mỹ rõ rệt, nhưng khoảng cách về khả năng chiến đấu giữa nó và Hạm đội 7 [với 60-
70 tàu và tàu ngầm, khoảng 250 máy bay có thể hạ cánh trên biển và trên đất liền, và 40,000
người] đang được thu hẹp một cách đáng kể. Trong một số lĩnh vực, Lực lượng Phòng vệ
Biển Nhật Bản nhỉnh hơn PLA[N] về mặt công nghệ, nhưng khoảng cách này cũng dần
được thu hẹp. Thêm vào đó, việc mở rộng các cơ sở vật chất như đã được dự đoán của
Trung Quốc ở Tam Á, để bao gồm khả năng đặt lực lượng tàu sân bay ở đây, cũng dường
như đang tăng lợi thế quân sự cho Trung Quốc so với các nước láng giềng phía Nam.
Người ta bắt đầu kháo nhau rằng Trung Quốc có ý định triển khai DF-21D ASBMs ở căn
cứ tên lửa Shaoguan ở tỉnh Quảng Châu, với tầm bắn có thể vươn tới Biển Đông.
Trung Quốc triển khai chiếc tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN) thế
hệ Jin và một vài chiếc tàu ngầm hạt nhân (SSN) thế hệ Han và Shang ở Tam Á cùng
với nhiều tàu ngầm chạy diesel hiện đại (SSK) như Kilo và Song, như một phần trong số
21 chiếc tàu ngầm ở Hạm đội Nam hải của nước này. Về phần mình, các nước ASEAN
dường như đặc biệt quan tâm đến việc đầu tư vào SSK; chi phí và tham vọng của dự
án này có thể được biện minh bởi giá trị rõ ràng của chúng trong chiến lược phong tỏa
biển (sea denial) để chống lại việc triển khai tàu trên mặt nước của kẻ địch mạnh hơn
vào khu vực họ có lợi ích. Ở đây, ý định của Việt Nam khi mua 6 tàu ngầm tinh vi Kilo
636 từ phía Nga và 2 SSKs Scorpene từ Pháp đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới
phân tích. Singapore, Thái Lan, và Indonesia cũng đã hoàn thành hoặc đang xem xét kế
hoạch mua tàu ngầm.15
Một vài nước trong khu vực dường như cũng đang mở rộng và hiện đại hóa các hạm
đội tàu chiến trên mặt nước, tàu hộ tống nhỏ và máy bay tuần tra ngoài khơi. Ví dụ,
Việt Nam với lực lượng hải quân nhỏ và cũ kỹ từ những năm 60, 70 từ thế kỷ trước đã
tăng cường hạm đội nhỏ hạng Petya với 2 tàu chiến hạng Gepard. Việt Nam rất nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ bờ biển.16
Các quốc gia ASEAN tổng cộng đã
triển khai 40 tàu chiến so với 20 tàu chiến (và 8 tàu khu trục) ở Hạm đội Nam hải của
PLAN. Thêm vào đó, các lực lượng không quân khu vực cũng đang được hiện đại hóa.
Việt Nam đang mua các máy bay chiến đấu Sukhoi SU-30. Đài Loan liên tục xem xét
việc mua một thế hệ các máy bay tấn công nhanh để bảo vệ đảo Ba Bình, và đã đặt mua
4 tàu khu trục hạng Keelung trong những năm gần đây. Brunei đã có 2 chiếc tàu lớn tuần
tra ngoài khơi (OPV) và đang đặt thêm 1 chiếc nữa. Tương tự, Philippin cũng đã mua
một chiếc tàu lớn hạng Hamilton và đang xem xét việc mở rộng cơ sở vật chất của lực
lượng quốc phòng nước này.17
Làn sóng hiện đại hóa hải quân trong khu vực hiện nay vẫn chưa đến mức để được
xem là một cuộc chạy đua vũ trang truyền thống. Thay vào đó, người ta có thể tranh
15.	Christian Le Miere, Waves of Concern: Southeast Asian States Plan Naval Defences, Jane’s Intelligence Review,
5/2011, tr. 8-13. Tuy nhiên, khát vọng của Hải quân Thái Lan theo hướng này đã bị kéo chậm trở lại. ‘Submarine
plan torpedoed,’ Bangkok Post, 20/9/2011.
16.	‘Vietnam looks to expand coastal defence assets’ Jane’s Defence Weekly 24/8/2011.
17.	‘Phillippines to boost S. China Sea Defences’ Straits Times, 8/9/2011.
GS. Geoffrey Till
24
luận rằng việc hiện đại hóa hải quân này là một biểu hiện của khát vọng hoàn toàn “bình
thường” của các quốc gia biển đang ngày càng thịnh vượng hơn nhằm tăng cường sức
mạnh toàn diện và xây dựng ngành công nghiệp quốc phòng của quốc gia mình. Thêm
vào đó, thực ra tiến trình này tự nó diễn ra không quá nhanh, và trong một số trường hợp
còn có sự dính líu của Trung Quốc khi nước này đề nghị bán 2 chiếc SSK hạng Song cho
Thái Lan. Tuy vậy, những diễn biến này có thể trở nên không kiểm soát được, đặc biệt
nếu chúng dẫn đến những sự việc ngoài ý muốn có khả năng leo thang nhanh trên biển.
Từ đó, chúng có thể làm nảy sinh một cuộc chạy đua vũ trang hải quân quy mô lớn với
những hệ quả bất lợi cho sự ổn định quốc tế vốn có mối quan hệ mật thiết đến các cuộc
chạy đua vũ trang nói chung.
Trên lý thuyết, việc tăng cường lực lượng bảo vệ bờ biển song song với các cơ quan dân
sự thực thi luật hàng hải khác nên được coi là những hành động không mang tính khiêu
khích hay cần lo ngại. Trong lĩnh vực này, Trung Quốc đang thực sự dẫn đầu, điều này
cũng nhất quán với sự tái khẳng định về tầm quan trọng của lĩnh vực hàng hải trong Kế
hoạch 5 năm lần thứ 12 tháng 3/2011. Lực lượng Hải giám Trung Quốc (CMS), mới được
thành lập năm 1998, trực thuộc Cục Đại dương Quốc gia, đã bắt đầu xây dựng 36 tàu
thanh tra, 54 xuồng máy, và định hướng đến năm 2015 sẽ có 15.000 nhân lực, 16 máy bay,
và 350 tàu tuần tra lớn.18
Việc máy bay trực thăng loại 3000 tấn mới chuyên chở tàu tuần
tra Haixun 31 thực hiện chuyến hành trình qua Biển Đông đến Singapore được công bố
rộng rãi đã thu hút rất nhiều sự quan tâm.19
Thêm vào đó, Bộ Chỉ huy Thực thi Luật đánh
bắt cá và Cục An toàn Hàng hải cũng đang xây dựng lực lượng tuần tra riêng của mình.
Những nước khác trong khu vực đang theo gót trong phạm vi nguồn lực sẵn có của
mình. Ví dụ, Việt Nam liên tục xem xét việc mở rộng khả năng thành lập Lực lượng Kiểm
ngư để bảo vệ tàu đánh cá của Việt Nam và ngăn chặn tàu lớn của Trung Quốc hoạt động
trong vùng đánh cá của nước này.20
Cơ quan Thực thi luật Hàng hải Malaysia (MMEA)
được thành lập tháng 6 năm 2005, với việc chuyển nhượng lại 17 tàu lớn từ Hải quân
Hoàng gia Malaysia mặc dù an ninh của 5 thực thể trên Biển Đông vẫn được giao cho Hải
quân, và với 2 trong số các tàu Corvette hạng Kedah của nước này đang được triển khai
trong khu vực (Khu vực Hải quân II). Dù những tàu này về chức năng thì rõ ràng là ít mang
tính khiêu khích hơn tàu chiến, nhưng trên thực tế lại phụ thuộc phần lớn vào cách thức
chúng được sử dụng. Nhớ lại, chúng ta có thể thấy rằng sự kiện Impeccable là do thuyền
đánh cá và tàu loại này gây ra. Một vài nhà phân tích nhận định rằng, vì những lý do mang
tính thể chế hơn là lý do dân tộc chủ nghĩa mà những cơ quan này cảm thấy cần phải “biện
minh” cho ngân sách của họ thông qua các hành động quyết đoán hơn.
Việc kêu gọi bên ngoài nhập cuộc – để phản ứng lại với những sự mất cân
bằng trong khu vực?
Phản ứng thứ hai của khu vực đối với những căng thẳng ngày càng lên cao ở Biển
Đông là việc kêu gọi các nước ngoài khu vực can dự vào tình hình đang tiến triển ở Biển
18.	Yang Fang, China’s new marine Interests: Implications for Southeast Asia, RSIS Commentary, 6/2011.
19.	‘Chinese marine patrol ship Haixun 31 arrives in Singapore for visit’, Xinhuanet 19/6/2011.
20.	‘Chinese fishing boats violate Vietnam waters: gov’t mulls patrol boats’, Thanh Nien Daily, 29/5/2011.
Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp Biển Đông
25
Đông. Ví dụ, Việt Nam đã thể hiện xu hướng kêu gọi sự ủng hộ về mặt chính trị từ các
quốc gia bên ngoài Đông Nam Á như một cách thức để kiềm chế sự tự do hành động
của Trung Quốc, cường quốc lớn nhất khu vực. Tháng 11/2010 việc Việt Nam cho phép
các lực lượng hải quân bên ngoài sử dụng các cơ sở vật chất ở Vịnh Cam Ranh (được
nâng cấp với sự giúp đỡ chủ yếu của Nga) đã thu hút rất nhiều sự quan tâm, và dường
như đã dẫn đến tăng cường sự hiện diện của Nga, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, và Hàn Quốc
ở khu vực.21
Lực lượng Đặc nhiệm số 5 của Nga có vai trò mở rộng Hạm đội Viễn Đông
vẫn duy trì lợi ích liên tục ở Biển Đông. Cũng đã có biểu hiện của sự xích lại gần nhau
giữa Việt Nam và Mỹ thông qua những chuyến thăm của các quan chức hải quân cấp
cao của Mỹ đến Việt Nam; giữa Việt Nam và Ấn Độ, nước mà bởi một số lý do riêng,
luôn sẵn sàng giữ vai trò lớn hơn trong khu vực, có lẽ là do những lo lắng của họ về vai
trò ngày càng tăng lên của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương. Trong bối cảnh này, vụ đồn
đại rằng tàu tấn công đổ bộ INS Airavat của Ấn Độ đã bị thách thức trên hành trình về
nước sau chuyến thăm Việt Nam tháng 7/2011 có thể cho thấy những quan ngại của Bắc
Kinh về sự hiện diện “bất hợp pháp/không chính danh” của tàu chiến nước ngoài ở khu
vực mà nước này coi như phần lãnh thổ của mình tại Biển Đông.22
Mặc dù vậy, các lực lượng hải quân nước ngoài vẫn tiếp tục duy trì sự hiện diện
quan trọng trong khu vực. Thông qua các cuộc tập trận COBRA GOLD, CARAT và
chương trình tập trận Seacat, Hải quân Mỹ thường xuyên tổ chức rất nhiều cuộc diễn
tập với các quốc gia Đông Nam Á.23
Gần đây nhất là việc phái một chiếc SSN đến tập
trận với Hải quân Malaysia, được cho là để giới thiệu tàu ngầm với Hải quân Hoàng gia
Malaysia. Quan hệ hải quân đang được cải thiện ổn định giữa Việt Nam và Mỹ đã đem
lại rất nhiều sự quan tâm.24
Cuộc diễn tập ba bên lần thứ tư giữa Mỹ, Nhật và Úc cũng
được thực hiện ở Biển Đông ngoài khơi Brunei.25
Bằng các biện pháp như vậy, Mỹ đã thể hiện rằng mình sẵn lòng thay đổi bất cứ ấn
tượng nào của bên ngoài về việc nước này có thể xem xét việc giảm vai trò của mình ở
Tây Thái Bình Dương, dù là do sự xao nhãng chiến lược hay những điểm yếu rõ ràng
trong nền kinh tế Mỹ. Phản ứng như vậy đã được thể hiện qua việc Mỹ cho tàu quay lại
chính xác địa điểm nơi xảy ra cuộc chạm trán của tàu Impeccable một tuần sau sự kiện,
lần này với sự hộ tống của tàu sân bay DDG USS Chung Hoon. Việc Mỹ tái nhấn mạnh
vào châu Á – Thái Bình Dương phần nào cũng là kết quả các nhận định riêng của Mỹ về
các biến chuyển gần đây trong chính sách của Trung Quốc cũng như những quan ngại
về tác động của nó đối với lợi ích dài hạn của Mỹ ở khu vực.
21.	“Twist of fate sees old foes as allies in power tussle”, Financial Times, 15/6/2011.
22.	“China confronted Indian warship of Vietnam” Financial Times, 1/9/2011. Mặc dù còn chưa rõ ràng [do trên con
tàu không tìm thấy nguồn phát tín hiệu radio] song đây cũng là một sự kiện quan trọng. Vì con tàu (của Ấn Độ)
này dường như đang trên đường di chuyển và chưa thực hiện cuộc diễn tập nào, hay thu thập các thông tin quân
sự, hoặc đang trong bất kỳ dạng chiến dịch nào, điều này này gây hoài nghi cho các tuyên bố trước đây của Trung
Quốc rằng nước này sẽ “tôn trọng sự tự do đi lại của tàu thuyền hoặc máy bay từ các nước liên quan, miễn là điều
này phù hợp với luật pháp quốc tế.” Ben Blanchard, “China says Will Respect South Seas Navigation Freedom”,
Reuters, 31/7/2010.
23.	“US Joins Naval Drill in Southeast Asia”, Xinhuanet, 17/6/2011.
24.	“US Vietnam in Exercises Amid Tensions with China”, Wall Street Journal, 16/7/2011.
25.	“Joint Drills to be held in S China Sea”, The Yomiuri Shimbun, 9/7/2011.
GS. Geoffrey Till
26
Ở hội nghị ASEAN năm 2010 tại Việt Nam, các nước ASEAN đã chuẩn bị để đưa
vấn đề Biển Đông ra song song với những nhận xét được trích dẫn rất nhiều của bà
Clinton, bỏ ngoài tai những yêu cầu của Bắc Kinh. Sự đồng lòng rõ ràng với Mỹ trong
vấn đề này sẽ có thể khiến Trung Quốc mất tinh thần – thậm chí còn gióng hồi chuông
cảnh báo cho nước này rằng Bắc Kinh cần nhận thấy Mỹ đã rời bỏ vị trí trung lập trong
quá khứ về vấn đề quyền tài phán.26
Tuy nhiên, đây cũng là điều mà các nước ASEAN
đều nhận thức được, đó là vấn đề biển trong mối quan hệ đôi khi căng thẳng giữa
Trung Quốc và Mỹ chỉ là một phần nhỏ trong bức tranh tổng thể và không nhất thiết
là sẽ chiếm vị trí chủ yếu trong mối quan hệ Trung-Mỹ. Quan hệ thương mại, nhân
quyền, việc bán vũ khí cho Đài Loan, hay cuộc cạnh tranh chiến lược giữa hai nước
này mới thực sự quan trọng và là những nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến chính sách
của Washington, đến mức các căng thẳng ở Biển Đông có thể chỉ là hệ quả chứ không
phải nguyên nhân của mối quan hệ xấu đi giữa hai nước. Vì vậy, một số nước ASEAN
tỏ ra lo lắng khi bị cuốn vào một tranh chấp chiến lược không phải do họ gây ra, rằng
tranh chấp này không thực sự tập trung vào Biển Đông nhưng lại có thể gây ra hậu quả
bất lợi cho nền hòa bình và ổn định của các nước này. Điều này lại càng đúng với các
nước ASEAN không có lợi ích trực tiếp trong tranh chấp quyền tài phán ở Biển Đông,
như Campuchia, Lào, Thái Lan, và Myanmar. Một vài nước lo lắng rằng Washington có
chương trình nghị sự riêng cho sự trở lại của họ ở Biển Đông. Họ lo lắng rằng mục đích
của Mỹ là để cạnh tranh với đối thủ lớn nhất là Trung Quốc hơn là xuất phát từ quan
ngại cho lợi ích của các quốc gia khu vực, đồng thời họ cũng lo ngại rằng cam kết mang
tính ý thức hệ vì nền dân chủ và nhân quyền kiểu Mỹ đôi khi hoàn toàn không phù hợp
với tình hình ở một vài quốc gia khu vực.
Đánh giá phản ứng của các cường quốc bên ngoài khu vực trong tranh chấp
Biển Đông
Vậy câu hỏi lại được đặt ra là – tại sao các cường quốc bên ngoài khu vực có xu
hướng chấp nhận quan điểm rằng họ nên đóng một vai trò nào đó trong tranh chấp
Biển Đông? Có ít nhất 3 lý do cho vấn đề này:
1. Tầm quan trọng về mặt chính trị của tranh chấp
Bởi an ninh là một vấn đề chung và không thể chia cắt, việc giải quyết tranh chấp
được xem là quan trọng do kết quả của nó có thể ảnh hưởng đến cấu trúc an ninh tương
lai của thế giới, và ít nhất ảnh hưởng đến vai trò tương lai của một nước Trung Quốc
hùng mạnh hơn trong các vấn đề quốc tế. Dù đúng hay sai, chính sách của Trung Quốc
ở Biển Đông được theo dõi cẩn thận bởi qua đó các nhà quan sát sẽ nắm bắt được nhận
thức của Trung Quốc về chính mình và những ý định sắp tới ở khu vực. Tất nhiên, đây
chỉ là một trong rất nhiều yếu tố nhưng lại là yếu tố có khả năng định hướng các quan
26.	Mark Valencia trong bài viết của mình ở Hội nghị năm 2010 đã chỉ ra tầm quan trọng của cụm từ trong tuyên
bố của Clinton: “Những yêu sách chủ quyền hợp pháp ở Biển Đông chỉ nên đến từ các tuyên bố chủ quyền hợp
pháp đối với các đảo đất” như là minh chứng cho điều này. ‘The South China Sea: Back to the Future.” “Obama
Administration Takes a Tougher Tone with China”, Washington Post, 30/7/2010.
Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp Biển Đông
27
niệm không chỉ của các quốc gia láng giềng mà còn có xu hướng củng cố lợi ích của các
cường quốc ngoài khu vực.
Do đó, Ngoại trưởng Nhật Bản Matsumoto tháng 9/2011 đã phát biểu rằng:
Nhật có lợi ích lớn ở các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông bởi chúng có tác động đến
hòa bình và an ninh của khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và chúng cũng liên quan
mật thiết với việc bảo đảm an ninh hàng hải của khu vực.27
Bởi so với nhiều quốc gia khác, Trung Quốc bị rất nhiều nước coi là thiếu minh
bạch trong chính sách đối ngoại, nên người ta tập trung rất nhiều vào hành động của
Trung Quốc hơn là chú ý vào điều nước này nói. Tuy vậy, ít nhất là với người ngoài,
giọng điệu khá diều hâu của Thời báo Hoàn Cầu lại rất khác với những nhận xét công
khai mang tính xoa dịu của lãnh đạo nước này và thường được dẫn chứng minh họa
cho những phân tích về trường hợp xấu nhất của những hành động đó.
Việc quản lý tranh chấp cũng được xem như một biện pháp giúp nhận rõ quá trình
ra quyết định ở Trung Quốc, đặc biệt là chính sách an ninh. Trong thời đại công dân
mạng internet – netizen – ngày càng có ảnh hưởng, chính quyền không thể phớt lờ chủ
nghĩa dân tộc đang trỗi dậy trong dân chúng. Người dân Trung Quốc coi chiến dịch bảo
vệ cái mà họ coi là đảo của họ và quyền tài phán của những vùng nước này chính là tiêu
chí để đánh giá chính phủ đang quản lý mọi việc như thế nào. Do đó, những hoạt động
bất hợp pháp của nước ngoài trong vùng nước được coi là lãnh thổ quốc gia sẽ vấp phải
sự phản đối mạnh mẽ.28
Điều này có lẽ là nhân tố chính trong vụ Impeccable.29
Gần đây
khi được phóng viên báo Asahai Shimbun hỏi tại sao Trung Quốc lại lo lắng nhiều như
vậy về Biển Đông, Đô đốc Ngô Thắng Lợi, Tổng Tư lệnh PLA[N] trả lời: “Bạn sẽ cảm
thấy như thế nào nếu tôi cắt cánh tay và chân ra khỏi cơ thể bạn? Đó là cách mà Trung
Quốc cảm thấy về Biển Đông.”30
Sự nhạy cảm với các hành động của Trung Quốc càng tăng lên bởi nhận thức chung
rằng một sự thay đổi chiến lược lớn trong quan hệ quốc tế đang diễn ra. Do vậy, sự
thách thức của Trung Quốc đối với các khái niệm tự do biển cả của Mỹ trở thành vấn
đề khá đau đầu với Mỹ, vì nó dường như là dấu hiệu cho sự chuyển dịch quyền lực chiến
lược kể từ thời điểm cách đây 15 năm khi Mỹ vẫn còn có thể thoải mái trong vai trò
“không thể thiếu” của mình và khả năng “chỉ huy” hệ thống quốc tế.31
Kể từ đó, tấn công
khủng bố, các cuộc chiến tranh trên bộ kéo dài ở Iraq và Afghanistan và cuộc “Đại suy
thoái” đã xói mòn sự tự tin của nước Mỹ. Hiện nay, thậm chí ngay cả sự thống trị lâu dài
của nước này ở Thái Bình Dương dường như cũng đang bị thách thức khi một đối thủ
27.	Quoted in ‘South China Sea Dispute: Harbinger of regional Strategic Shift?”, Asahi Shimbun, 10/9/2011.
28.	‘China warns US to Stay Out of Islands Dispute’ New York Times 28/7/2010. Tất nhiên, “Hiệu ứng Netizen” cũng
tác động đến các nước yêu sách khác trong tranh chấp Biển Đông. Với Việt Nam, những thay đổi trong các sự kiện
đầu năm 2011 đã chứng tỏ điều này. Thomas J. Christensen, “Posing Problems without Catching Up: China’s Rise
and Challenges for US Security Policy” International Security, Spring 2011, tr. 5-40.
29.	Mastro, op cit, tr. 225. Li Mingjiang, China’s new security posture: Non-confrontational assertiveness, The Straits
Times, 19/5/2011.
30.	Quoted in William Choong, “Mistrust hurts naval cooperation in region”, The Straits Times, 27/5/2011.
31.	Charkles Krauthammer, “America Rules: Thank God” and James Chace, “A Sunlit America Summer”, both in
Time, 4/8/1997.
GS. Geoffrey Till
28
mới đã xuất hiện trên trận địa. Trong mắt Mỹ, Trung Quốc chỉ là một cường quốc lục
địa [và là một cường quốc khá lạc hậu], đang sử dụng sức mạnh biển cả và công nghiệp
để tiến vào nơi mà Mỹ đã quen coi là sân sau và từ đó làm giảm ưu thế tuyệt đối trên
biển của Mỹ ở Thái Bình Dương. Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng khi Trung Quốc có
thể lợi dụng những điểm yếu trên biển của Mỹ tốt hơn là Mỹ có thể lợi dụng các điểm
yếu của Trung Quốc trên lãnh thổ của họ. Do đó, sự quyết đoán của Trung Quốc trong
những vùng biển gần có thể dễ dàng được coi như biểu tượng của quá trình chuyển đổi
quan trọng trong quan hệ giữa các cường quốc và dẫn đến những hành động quá đà.
Với Mỹ, khi đó, rất nhiều lợi ích đang và sẽ gặp rủi ro, ít nhất là khả năng duy trì sự
thống trị các nguồn lợi chung toàn cầu, điều mà Andrew Hart và Bruce Jones gần đây
đã nhắc tới như là… “một yếu tố quan trọng tạo ra vị trí độc tôn cho quân đội Mỹ và
bảo đảm vai trò kinh tế Mỹ cũng như của các đồng minh, đồng thời giúp Washington
giảm thiểu ảnh hưởng của những thế lực đối lập.”32
Ở Mỹ, người ta tập trung quan ngại này vào khái niệm “Hiện diện tích cực” một vấn
đề mà tầm quan trọng của nó liên tục được tái khẳng định trong các văn kiện chính
thức của Mỹ.
2. Việc duy trì các mối quan hệ
Năm 2009, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã đưa ra một luận điểm quan
trọng, rằng có những giới hạn có thể làm suy yếu mạng lưới đồng minh và đối tác gắn
với ảnh hưởng của Mỹ ở đây:
Khi xem xét các chương trình hiện đại hóa quân đội của những quốc gia như Trung
Quốc, chúng ta nên ít chú ý đến khả năng thách thức sức mạnh Mỹ một cách ngang
tầm – như máy bay chiến đấu với máy bay chiến đấu, hoặc tàu với tàu – mà nên quan
tâm nhiều hơn đến khả năng họ có thể gây cản trở việc tự do đi lại và làm giảm các lựa
chọn chiến lược của chúng ta. Đầu tư của họ vào vũ khí chống tàu và tên lửa đạn đạo có
thể đe dọa cách Mỹ triển khai sức mạnh và giúp đỡ các đồng minh ở Thái Bình Dương
– đặc biệt là các căn cứ không quân và những nhóm tàu sân bay.33
Tầm quan trọng của việc tự do đi lại và sự hiện diện tích cực trong mối quan hệ
chính trị của Mỹ với các đồng minh và đối tác trong khu vực là lý do nước này đầu tư
vào chiến lược Không-Hải quân [được nói đến sau đây] khá tốn kém và yêu cầu công
nghệ cao, mặc dù biết rằng một kế hoạch chiến lược-quân sự rẻ hơn và hiệu quả hơn đối
với thách thức từ Trung Quốc vẫn có thể được sử dụng để tạo áp lực cho những tuyến
đường giao thông hàng hải và liên lạc của nước này.
Nhóm lý do thứ hai giải thích tại sao Mỹ cảm thấy tự do hàng hải quan trọng thì
chung chung hơn và ít quen thuộc hơn. Mỹ nhận ra rằng nước này sẽ ngày càng bị thôi
thúc trong việc tự mình giải quyết một loạt các nguy cơ khác nhau đối với hệ thống
thương mại toàn cầu. Vấn đề rõ ràng nhất của Hải quân Mỹ là sự giảm dần về số lượng
tàu chiến mà nước này có thể triển khai ở bất cứ thời điểm nào. Dù sức mạnh quân sự
nói riêng có gia tăng, các tàu chiến vẫn chỉ đặt ở một địa điểm tại một thời điểm. Điều
32.	Andrew F. Hart and Bruce D. Jones, “How Do Rising Powers Rise?” Survival 12/2010-1/2011.
33.	“Race on for next generation of anti-ship missiles” The Straits Times 11/1/2011.
Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp Biển Đông
29
này làm giảm mức độ bao quát hằng ngày và đặt ra một vấn đề thực sự về khoảng cách-
thời gian trong việc đưa tàu đến các khu vực cần thiết, đặc biệt là khi có thông báo gấp.
Đô đốc Mike Mullen cũng đưa ra luận điểm cung cấp tương tự vào năm 2005.
Thực tiễn ngày nay là các dàn xếp và mô thức an ninh trong quá khứ không còn
đủ cho tương lai. Và những thách thức ngày nay quá đa dạng để có thể giải quyết một
mình; chúng cần đến nhiều khả năng và nguồn lực hơn mức mà bất cứ quốc gia đơn lẻ
nào có thể đáp ứng.34
Bởi lẽ đại dương trên thế giới, nói theo thuật ngữ của Nga, thì rất rộng lớn. Việc bảo
vệ “những tài nguyên chung” chống lại những nguy cơ này đòi hỏi sự hợp tác của các
lực lượng hàng hải [cả hải quân và lực lượng bảo vệ bờ biển] trên toàn thế giới:
An ninh biển toàn cầu chỉ có thể đạt được thông qua sự hội nhập giữa hợp tác, nhận
thức và các sáng kiến ứng phó trên biển ở cấp độ quốc gia và khu vực.35
Do đó, trong những năm gần đây, áp lực ngày càng lớn đối với Mỹ là làm sao để
thuyết phục các đối tác và đồng minh cho phép sử dụng tàu và căn cứ quân sự, điều có
thể giúp tăng cường vị thế của Mỹ.
Các hạn chế về ngân sách mà Hải quân Mỹ đang phải trải qua hiện nay có thể dẫn
đến việc Mỹ sẽ coi trọng quan hệ với các cường quốc biển đang trỗi dậy khác ở Châu
Á – Thái Bình Dương hơn là các cường quốc đã có vị thế trong Chiến lược hợp tác của
nước này năm 2007.36
Cùng lúc đó, ở Trung Quốc cũng đã có sự ghi nhận vai trò của Hải quân Mỹ và Lực
lượng Bảo vệ bờ biển trong việc duy trì ổn định toàn cầu, bao gồm khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương nơi sự hiện diện của Mỹ có thể được coi là đem đến một số lợi ích cho
Trung Quốc, ít nhất là làm giảm khả năng bành trướng của các cường quốc hải quân
khác trong khu vực, và đóng góp vật chất cho việc quản lý trật tự trên biển như: chống
cướp biển, buôn bán thuốc phiện và người, và ô nhiễm biển.37
Sự hiện diện của Mỹ ở
các vùng biển gần Trung Quốc không phải lúc nào cũng bị coi là một trò chơi một mất
một còn.
Giống như vậy, dù ở mức độ thấp hơn, nhưng chúng ta có thể rút ra rằng các chủ thể
khác bên ngoài khu vực như thành viên của Liên minh Châu Âu, Ấn Độ, và Nhật Bản
đều có các gói động cơ kinh tế, chính trị và chiến lược để phát triển và duy trì quan hệ
của họ với các quốc gia trong khu vực.
3. Yếu tố hàng hải mang tính chiến lược
Vấn đề Biển Đông có yếu tố chiến lược rất lớn bởi ngay từ đầu đây là cuộc tranh
chấp về quyền tài phán trên biển và khu vực này cũng là tuyến đường lưu thông quan
trọng của các tàu buôn, một bộ phận không thể thiếu trong hệ hống thương mại thế
34.	Admiral Mike Mullen, in John B. Hattendorf, Seventeenth Annual Seapower Symposium: Report of Proceedings
[Newport: Naval war College Press, 2005] tr. 5.
35.	NOC2010, tldd, tr.. 36
36.	Address of Admiral Jonathan W Greenert to the 20th International Seapower Symposium, 19/10/2011.
37.	Wu Xinbo ‘The End of the Silver Lining: A Chinese View of the US-Japanese Alliance, The Washington Quarterly
29, no 1 2005- 06
GS. Geoffrey Till
30
giới. Theo bà Clinton thì “Mỹ có lợi ích quốc gia đối với tự do hàng hải, tự do tiếp cận
các tài nguyên biển chung ở Châu Á và tôn trọng luật quốc tế ở Biển Đông.”38
Điều này tóm lại thành hai vấn đề cụ thể. Vấn đề thứ nhất liên quan đến tuyến
đường lưu thông không bị cản trở của các tàu thương mại mà cả hệ thống thương mại
thế giới hoàn toàn phụ thuộc vào. Ngoài ra, đối với Mỹ, cũng như các nước khác, khái
niệm tự do ở các vùng biển còn có khía cạnh văn hóa. Trước đây, tư tưởng này đã thâm
nhập vào đến chính sách Mỹ kể từ khi thành lập nền Cộng hòa, thậm chí nhiều khi dẫn
đến xung đột. Sự tự do trên biển có thể được mô tả bằng thuật ngữ rất văn hoa như sau:
Tại đây bạn có thể mở rộng không giới hạn và không có rào cản, tại đây bạn có cả
đại dương rộng mở, điều hiện nay là một phương thức liên lạc tuyệt vời của thiên nhiên.
Không có các ngọn núi khó vượt qua, không có các sa mạc nóng như lửa đốt, con đường
rộng mở… sau đó hãy tưởng tượng ra một con đường dẫn đến mọi nơi và bạn sẽ biết
ý nghĩa của những điều tuyệt vời này, giao thông trên biển… An toàn trong thời bình
trước mọi mối đe dọa, trừ các hiểm họa thiên nhiên từ biển, sự tự do này, các đường
giao thông lớn nhất, đông nhất, rộng mở cho tất cả, được tất cả mọi người sử dụng, có
ý nghĩa sống còn đối với xu hướng hiện đại của nền văn minh, là điều mà không ai có
thể thách thức.39
Trọng tâm của vấn đề này là khi sự tự do của tuyến đường lưu thông thương mại
trên biển bị cản trở, cộng đồng thương thuyền quốc tế chắc chắn sẽ ngay lập tức trở nên
lo ngại. Tuy nhiên, có lẽ ở khu vực này tự do hàng hải sẽ không bị cản trở bởi Trung
Quốc đã liên tục tìm cách nói rõ rằng sự di chuyển tự do của tàu bè thương mại ở Biển
Đông không phải là vấn đề gây tranh cãi. Tướng Trần Bỉnh Đức đã cho rằng:
Ở Biển Đông, tự do di chuyển chưa bao giờ là một vấn đề. Nó chỉ là cái cớ làm nhạy
cảm thêm vấn đề.40
Trên thực tế, Trung Quốc hiện nay có nhiều lợi ích trong việc đảm bảo di chuyển
an toàn cho hơn 74.000 tàu thuyền thương mại qua lại ở eo Malacca và qua Biển Đông
mỗi năm.
Do đó mối lo ngại quốc tế về sự quan tâm lớn hơn và có tính mâu thuẫn của Trung
Quốc đối với các hoạt động thăm dò thương mại của Việt Nam và Philipin trở nên rõ
ràng hơn vào khoảng thời gian đầu năm 2011.41
Vào ngày 2/3/2011, 2 thuyền tuần tra
của Trung Quốc đã đối đầu với tàu thăm dò MV Veritas Voyager của Philipin (Tàu của
Pháp, được đăng ký ở Singapore và được tập đoàn năng lượng Forum Enegy PLC vận
hành) ở khu vực Bãi Cỏ Rong (Reed Bank) và yêu cầu tàu này rời đi.
Ngày 26/5 và 8/6/2011, tàu của Trung Quốc đã cắt và phá hủy các dây cáp địa chấn
mà tàu thăm dò của PetroVietnam đang kéo đi trong khu vực Việt Nam coi là vùng đặc
quyền kinh tế của mình.42
Mỹ cũng không đồng tình việc ép các công ty dầu khí phương
38.	“Walker’s World: US draws line in sea” United Press International, 26/7/2010.
39.	Dixon, W. MacNeile, The Fleets Behind the Fleet (London: Hodder & Stoughton, ?1917) tr. 94-5.
40.	“China warns US to stay out of South China sea dispute” Jane’s Defence Weekly, 20/7/2011.
41.	Carlyle A. Thayer, China’s New Wave of Aggressive Assertiveness in the South China Sea - Bài nghiên cứu trong hội
nghị về an ninh hàng hải ở Biển Đông, CSIS, Washington DC 20-21/6/2011.
42.	“Tensions rise in South China Sea” Jane’s Defence Weekly, 22/6/2011; Luận điểm này được nhắc lại trong cuộc đối
thoại năm 2011. Một trong ba vụ việc trên do đại tướng Phùng Quang Thanh báo cáo, vụ việc xảy ra “trong vùng
Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp Biển Đông
31
Tây như BP và ExxonMobil không được tham gia vào các dự án khai thác với Việt
Nam.43
Các tranh chấp trong khu vực như vậy cũng có một số tác động nhất định đối
với người ngoài cuộc, nhất là các công ty nước ngoài có liên quan. Ví dụ, tàu thăm dò
Viking-2, có liên quan trong việc cắt dây cáp lần 2 trong tháng 6/2011 theo báo cáo được
đăng ký ở Na-uy.44
Thêm một minh chứng nữa, một công ty của Canada là Talisman
Energy và công ty của Pháp CGG Veritas cùng với Forum Energy có trụ sở ở Anh đều
là đối tác trong các dự án khai thác của PetroVietnam. Hơn nữa, Ấn Độ cũng ngày càng
liên quan nhiều hơn đến việc khai thác dầu trong các khu vực nhạy cảm ở Biển Đông.45
Rõ ràng chính việc quốc tế hóa thăm dò khai thác dầu khí đã biến vấn đề ở Biển Đông
thành vấn đề toàn cầu.
Bất chấp điều này, vấn đề bất đồng thực sự nằm ở khía cạnh thứ hai của tự do hàng
hải, đó là việc di chuyển và hoạt động của các tàu chiến. Bảo vệ điều này rõ ràng là vấn
đề ưu tiên chiến lược đối với Mỹ. Đô đốc hải quân Mike Mullen nói “Chúng ta phải tiếp
tục có khả năng phản ứng nhanh trong các cuộc khủng hoảng nhân đạo và quyết liệt
trong những lúc xảy ra xung đột.”46
Hình thức hiện diện tích cực phụ thuộc vào điều
kiện của từng khu vực cụ thể. “Các lực lượng hoạt động theo sứ mệnh, phân bổ trên
toàn cầu” được hình thành nhằm đối phó với hàng loạt các nhiệm vụ có yêu cầu thấp
hơn, góp phần “duy trì sự ổn định, ngăn chặn khủng hoảng, và chống lại chủ nghĩa
khủng bố.” Mặt khác, “các lực lượng chiến đấu tinh nhuệ tập trung theo khu vực” được
yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ “khó khăn” hơn như bảo vệ lợi ích sống còn của Mỹ,
bảo vệ đồng minh; “… và để cản trở, ngăn chặn và nếu cần thiết thì đánh bại các kẻ thù
tiềm ẩn.”47
Tuy nhiên, điểm chung của hai loại sứ mệnh này là sự cần thiết phải hoạt
động ở các vùng duyên hải.
Tầm quan trọng của khái niệm này trong tư duy chiến lược hải quân của Mỹ lý giải
tại sao trước đây Mỹ tham gia nhiều diễn tập tự do hàng hải với “thái độ cương quyết”
trong quá khứ như các cuộc tuần tra ở Vịnh Sirte vào giữa những năm 1980 và vụ va
chạm có liên quan tới USS Caron với tàu chiến của Liên Xô ở Biển Đen năm 1988.48
Những cuộc tranh chấp giữa Mỹ và Liên Xô ở Biển Đen, với Lybia ở khu vực “đường tử
thần” vào những năm 1980, hay với Indonesia về cách hiểu của nước này liên quan đến
đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam.” Nhận xét tại cuộc đối thoại Shangri-La của IISS ngày 5 /6/2011 Vụ
việc được báo cáo xảy ra cách bờ biển Việt Nam 120 hải lí.
43.	Alluded to in Robert Gates’ statement at the Shangri-la Dialogue of 2008. See Clive Schofield and Ian Storey “The
South China Sea Dispute: Increasing Stakes and Rising Tensions”, Jamestown Foundation, tháng 11 năm 2009, tr.
39. Luận điểm này được nhắc lại trong cuộc đối thoại năm 2011. Mức độ áp lực của Trung Quốc lên các công ty
dầu khí nước ngoài, được báo cáo càng ngày càng rõ trong thời gian gần đây. Wikileaks cho hay. “Beijing pressure
intense in South China Sea row”, South China Morning Post, 23/9/2011.
44.	“Vietnam accuses China of harassing another boat”, Reuters, 9/6/2011.
45.	“India, Vietnam Explore Waters Claimed by China”, Defense News, 10/10/2011.
46.	“What I believe: Eight Tenets That Guide my vision for the 21st Century”, Proceedings of the USNI, 1/2006, tr. 14.
47.	NOC2010, op cit, tr. 32.
48.	Vấn đề này sau đó đã được giải quyết thông qua Hiệp định Xô- Mỹ được ký ngày 23/9/1989 tại Jackson Hole,
Wyoming trong đó Liên Xô đồng ý về quyền của Tàu chiến nước ngoài được qua lại “vô hại” những vùng nước có
chủ quyền và đổi lại Mỹ đã đồng ý không tham gia thêm nữa vào các hoạt động tự do hàng hải như vậy nữa. Vấn
đề gây tranh cãi ở đây là quyền của nước ngoài trong vùng Biển có chủ quyền không phải vùng đặc quyền kinh tế.
GS. Geoffrey Till
32
quyền của các quốc gia quần đảo đều là các cuộc tranh chấp về tự do hàng hải, song
cũng đồng thời là sự xung đột giữa cách nhìn của khu vực và quốc tế về vai trò của các
cường quốc biển.
Sự khẳng định về những quyền mà Mỹ cho là của mình được người Mỹ đồng tình
bởi thực tế biển cả đều “kết nối” với nhau và chấp nhận hạn chế tự do hàng hải ở một
khu vực sẽ tạo tiền lệ khiến nguyên tắc này bị suy yếu đáng kể ở các khu vực khác. Luận
điểm tương tự cũng có thể áp dụng cho “không phận quốc tế.”49
Theo đó, tự do hàng hải đã và đang trở thành vấn đề đau đầu giữa Trung Quốc
và Mỹ. Theo cách Trung Quốc hiểu về các điều khoản trong UNCLOS, nước này cho
rằng tự do hàng hải trong vùng đặc quyền kinh tế của nước khác thì bị hạn chế và có
điều kiện hơn so với cách hiểu của Mỹ, đặc biệt là khi các tàu chiến tìm cách sử dụng
quyền đó.
Các sự kiện gần đây cũng cho thấy rằng Trung Quốc cũng có những điểm yếu như
các nước khác, nhất là đối với các hoạt động trái phép của Vệ binh Cách mạng Iran ở
vùng Vịnh, sự cướp bóc của các hải tặc Xômali hay như sự mất ổn định và trật tự ở các
vùng biển ngoài khơi khác. Là một cường quốc hàng hải đang lớn mạnh với các lợi ích
quốc gia ngày càng mở rộng và cộng đồng người Hoa kiều ngày càng phát triển, Trung
Quốc đang có mối quan tâm ngày càng lớn đối với tự do hàng hải, đại dương của thế
giới như một “nguồn tài nguyên vô hạn” trong việc “bảo vệ hệ thống” toàn cầu. Theo đó,
trong cuộc họp ARF vào tháng 7 năm 2011, các quan chức Trung Quốc đề xuất được
chủ trì cuộc hội thảo về tự do hàng hải.
Tuy nhiên, Bắc Kinh lại tỏ ra lo ngại về tự do hàng hải của các tàu chiến, đặc biệt là
trong vùng Đặc quyền Kinh tế.50
Do đó, Thiếu tướng PLA Luo Yuan đã phát biểu: “Cái
gọi là sự hiện diện tích cực thực của Mỹ chất có nghĩa là Mỹ được quyền gửi các tàu
chiến của nước này đến mọi ngóc ngách của thế giới… Theo cách này, Mỹ thậm chí có
thể tuyên bố rằng Hoàng Hải và Biển Đông đều nằm trong ranh giới an ninh của nước
này.”51
Trung Quốc chỉ ra rằng tàu sân bay USS George Washington đã chạy trên Hoàng
Hải, và máy bay của tàu này có thể vươn tới Bắc Kinh. Nếu tính thêm yếu tố văn hóa
chiến lược đặc trưng của Trung Quốc, một quốc gia trong lịch sử dễ bị tổn thương trước
các nguy cơ từ biển, không chỉ riêng ở khu vực này và xét đến các hệ quả nghiêm trọng
cho Trung Quốc nếu các hoạt động như thế này không bị ngăn chặn, thì sự nhạy cảm
của người Trung Quốc đối với các hoạt động và sự xuất hiện trái phép trong “các khu
vực biển của Trung Quốc” là điều hoàn toàn có thể hiểu được.
49.	“Chinese jets cannot chase spy planes away says US admiral”, The Independent, 27/7/2011.
50.	Michael Parkinson, “Collision Course: China and US make waves in South China Sea” Jane’s Intelligence Review
5/2009. ‘China navy criticizes dispatch of US destroyers: state media’ AFP electronic report accessed in http://
www.spacewar.com/reports 16/3/ 2009. For a balanced review of this complex issue see Klein, Natalie, Maritime
Security and the Law of the Sea (Oxford: OUP, 2011) tr. 217-224. Klein argues that intelligence gathering in the
EEZ is legal, but wonders whether this is desirable (tr. 221). This was also the 2005 view of the regional experts
who reviewed the issue in 2005. See Sam Bateman’s introduction to “Prospective Guidelines for Navigation and
Overflight in the Exclusive Economic Zone”, 144 Maritime Studies, tr.17, 23.
51. Luyo Yuan, “PLA General: US engaging in gunboat diplomacy”, People’s daily, 12/8/2010. Trích nguồn tại Mani-
com, op cit.
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te
Tranh chap bien dong   luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te

More Related Content

What's hot

What's hot (14)

Luận văn: Chính sách giải phóng mặt bằng TP Hà Nội, HOT
Luận văn: Chính sách giải phóng mặt bằng TP Hà Nội, HOTLuận văn: Chính sách giải phóng mặt bằng TP Hà Nội, HOT
Luận văn: Chính sách giải phóng mặt bằng TP Hà Nội, HOT
 
Đề tài: Vấn đề giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển Đông
Đề tài: Vấn đề giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển ĐôngĐề tài: Vấn đề giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển Đông
Đề tài: Vấn đề giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển Đông
 
Luận văn: Chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, HOT, 9đ
Luận văn: Chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, HOT, 9đLuận văn: Chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, HOT, 9đ
Luận văn: Chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, HOT, 9đ
 
Đề tài: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn - thực tiễn tại TAND huyệ...
Đề tài: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn -  thực tiễn tại TAND huyệ...Đề tài: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn -  thực tiễn tại TAND huyệ...
Đề tài: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn - thực tiễn tại TAND huyệ...
 
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật Biển 1982 - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật Biển 1982 - Gửi miễn phí q...Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật Biển 1982 - Gửi miễn phí q...
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật Biển 1982 - Gửi miễn phí q...
 
Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng huyện Hoành Bồ, HAY
Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng huyện Hoành Bồ, HAYCông tác bồi thường giải phóng mặt bằng huyện Hoành Bồ, HAY
Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng huyện Hoành Bồ, HAY
 
Đề tài: Quyền công dân trong xét xử vụ án hôn nhân và gia đình
Đề tài: Quyền công dân trong xét xử vụ án hôn nhân và gia đìnhĐề tài: Quyền công dân trong xét xử vụ án hôn nhân và gia đình
Đề tài: Quyền công dân trong xét xử vụ án hôn nhân và gia đình
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dânLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
 
Luận văn:Trách nhiệm của các chủ thể trong xây dựng văn bản quy phạm
Luận văn:Trách nhiệm của các chủ thể trong xây dựng văn bản quy phạmLuận văn:Trách nhiệm của các chủ thể trong xây dựng văn bản quy phạm
Luận văn:Trách nhiệm của các chủ thể trong xây dựng văn bản quy phạm
 
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOTĐề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với khai thác hải sản ở Bình Định
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với khai thác hải sản ở Bình ĐịnhLuận văn: Quản lý nhà nước đối với khai thác hải sản ở Bình Định
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với khai thác hải sản ở Bình Định
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng NgãiLuận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, tỉnh Quảng Ngãi
 
Đề tài: Kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đai của cán bộ, HOT
Đề tài: Kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đai của cán bộ, HOTĐề tài: Kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đai của cán bộ, HOT
Đề tài: Kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đai của cán bộ, HOT
 
Đề tài chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng, ĐIỂM 8
Đề tài  chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng, ĐIỂM 8Đề tài  chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng, ĐIỂM 8
Đề tài chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng, ĐIỂM 8
 

Viewers also liked

Viewers also liked (18)

Cac loai hinh doanh nghiep o viet nam
Cac loai hinh doanh nghiep o viet namCac loai hinh doanh nghiep o viet nam
Cac loai hinh doanh nghiep o viet nam
 
Ap dung phap luat trong giai quyet tranh chap dat dai
Ap dung phap luat trong giai quyet tranh chap dat daiAp dung phap luat trong giai quyet tranh chap dat dai
Ap dung phap luat trong giai quyet tranh chap dat dai
 
Luan van ve hop dong chuyen nhuong quyen su dung dat
Luan van ve hop dong chuyen nhuong quyen su dung datLuan van ve hop dong chuyen nhuong quyen su dung dat
Luan van ve hop dong chuyen nhuong quyen su dung dat
 
Dia ly bien dong voi hoang sa va truong sa
Dia ly bien dong voi hoang sa va truong saDia ly bien dong voi hoang sa va truong sa
Dia ly bien dong voi hoang sa va truong sa
 
Nguoi viet pham chat & thoi hu tat xau
Nguoi viet   pham chat & thoi hu tat xauNguoi viet   pham chat & thoi hu tat xau
Nguoi viet pham chat & thoi hu tat xau
 
Giao trinh luat so sanh
Giao trinh luat so sanhGiao trinh luat so sanh
Giao trinh luat so sanh
 
Ve tai san tri tue tu do kinh doanh tu do hop dong va ... tckhpl so 2(69)-2012
Ve tai san tri tue   tu do kinh doanh tu do hop dong va ... tckhpl so 2(69)-2012Ve tai san tri tue   tu do kinh doanh tu do hop dong va ... tckhpl so 2(69)-2012
Ve tai san tri tue tu do kinh doanh tu do hop dong va ... tckhpl so 2(69)-2012
 
Nghi dinh 15 2015 ve doi tac dau tu
Nghi dinh 15 2015 ve doi tac dau tuNghi dinh 15 2015 ve doi tac dau tu
Nghi dinh 15 2015 ve doi tac dau tu
 
Lai suat trong hop dong vay tien
Lai suat trong hop dong vay tienLai suat trong hop dong vay tien
Lai suat trong hop dong vay tien
 
Nhung diem yeu cua he thong ngan hang viet nam hien nay
Nhung diem yeu cua he thong ngan hang viet nam hien nayNhung diem yeu cua he thong ngan hang viet nam hien nay
Nhung diem yeu cua he thong ngan hang viet nam hien nay
 
Tong hop vuong mac ve to tung
Tong hop vuong mac ve to tungTong hop vuong mac ve to tung
Tong hop vuong mac ve to tung
 
Bộ luật Tố tụng hình sự - Tiếng anh
Bộ luật Tố tụng hình sự - Tiếng anhBộ luật Tố tụng hình sự - Tiếng anh
Bộ luật Tố tụng hình sự - Tiếng anh
 
Bao cao ra soat luat dat dai
Bao cao ra soat luat dat daiBao cao ra soat luat dat dai
Bao cao ra soat luat dat dai
 
Quy dinh phap luat ve chao ban chung khoan va nhung bai viet khac
Quy dinh phap luat ve chao ban chung khoan va nhung bai viet khacQuy dinh phap luat ve chao ban chung khoan va nhung bai viet khac
Quy dinh phap luat ve chao ban chung khoan va nhung bai viet khac
 
Khuyen hoc
Khuyen hocKhuyen hoc
Khuyen hoc
 
Thực trạng về hình phạt trong pháp luật hình sự VN
Thực trạng về hình phạt trong pháp luật hình sự VNThực trạng về hình phạt trong pháp luật hình sự VN
Thực trạng về hình phạt trong pháp luật hình sự VN
 
Bao cao ra soat luat dat dai
Bao cao ra soat luat dat daiBao cao ra soat luat dat dai
Bao cao ra soat luat dat dai
 
Tai lieu chuong trinh dao tao tham phan so cap (tap 1)
Tai lieu chuong trinh dao tao tham phan so cap (tap 1)Tai lieu chuong trinh dao tao tham phan so cap (tap 1)
Tai lieu chuong trinh dao tao tham phan so cap (tap 1)
 

Similar to Tranh chap bien dong luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te

Similar to Tranh chap bien dong luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te (20)

Bien dong huong toi mot khu vuc hoa binh anh ninh va hop tac
Bien dong   huong toi mot khu vuc hoa binh anh ninh va hop tacBien dong   huong toi mot khu vuc hoa binh anh ninh va hop tac
Bien dong huong toi mot khu vuc hoa binh anh ninh va hop tac
 
Bien dong quan ly tranh chap va dinh huong giai phap
Bien dong   quan ly tranh chap va dinh huong giai phapBien dong   quan ly tranh chap va dinh huong giai phap
Bien dong quan ly tranh chap va dinh huong giai phap
 
Vai trò của liên hợp quốc trong thế giới ngày nay và những đóng góp của Việt ...
Vai trò của liên hợp quốc trong thế giới ngày nay và những đóng góp của Việt ...Vai trò của liên hợp quốc trong thế giới ngày nay và những đóng góp của Việt ...
Vai trò của liên hợp quốc trong thế giới ngày nay và những đóng góp của Việt ...
 
Giải quyết tranh chấp trên Biển Đông theo phương thức phi tài phán
Giải quyết tranh chấp trên Biển Đông theo phương thức phi tài phánGiải quyết tranh chấp trên Biển Đông theo phương thức phi tài phán
Giải quyết tranh chấp trên Biển Đông theo phương thức phi tài phán
 
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOTLuận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
Luận văn: Hòa giải ở cơ sở (qua thực tiễn tỉnh Hải Dương), HOT
 
Quá trình phát triển của xã hội tiêu dùng Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai
Quá trình phát triển của xã hội tiêu dùng Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ haiQuá trình phát triển của xã hội tiêu dùng Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai
Quá trình phát triển của xã hội tiêu dùng Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai
 
Luận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAY
Luận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAYLuận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAY
Luận án: Những yếu tố triết học trong tín ngưỡng dân gian, HAY
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Chiến Lược Biển Đông Của Trung Quốc Dưới Thời Tập Cận Bình
Khoá Luận Tốt Nghiệp Chiến Lược Biển Đông Của Trung Quốc Dưới Thời Tập Cận BìnhKhoá Luận Tốt Nghiệp Chiến Lược Biển Đông Của Trung Quốc Dưới Thời Tập Cận Bình
Khoá Luận Tốt Nghiệp Chiến Lược Biển Đông Của Trung Quốc Dưới Thời Tập Cận Bình
 
Luận án: Tác động của biến đổi khí hậu đến khai thác thuỷ sản
Luận án: Tác động của biến đổi khí hậu đến khai thác thuỷ sảnLuận án: Tác động của biến đổi khí hậu đến khai thác thuỷ sản
Luận án: Tác động của biến đổi khí hậu đến khai thác thuỷ sản
 
Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAY
Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAYĐấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAY
Đấu tranh chính trị ở Khánh Hòa trong kháng chiến chống Mỹ, HAY
 
Các Thể Chế Của Liên Hợp Quốc Và Vấn Đề Giải Quyết Tranh Chấp Của Việt Nam Tr...
Các Thể Chế Của Liên Hợp Quốc Và Vấn Đề Giải Quyết Tranh Chấp Của Việt Nam Tr...Các Thể Chế Của Liên Hợp Quốc Và Vấn Đề Giải Quyết Tranh Chấp Của Việt Nam Tr...
Các Thể Chế Của Liên Hợp Quốc Và Vấn Đề Giải Quyết Tranh Chấp Của Việt Nam Tr...
 
Đấu tranh chính trị ở Quảng Nam - Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ
Đấu tranh chính trị ở Quảng Nam - Đà Nẵng trong kháng chiến chống MỹĐấu tranh chính trị ở Quảng Nam - Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ
Đấu tranh chính trị ở Quảng Nam - Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ
 
Đề tài: Quy chế pháp lý của các đảo theo Công ước luật biển, HOT
Đề tài: Quy chế pháp lý của các đảo theo Công ước luật biển, HOTĐề tài: Quy chế pháp lý của các đảo theo Công ước luật biển, HOT
Đề tài: Quy chế pháp lý của các đảo theo Công ước luật biển, HOT
 
Luận án: Ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị, HAY
Luận án: Ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị, HAYLuận án: Ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị, HAY
Luận án: Ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị, HAY
 
Luận văn: Ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị, HOT
Luận văn: Ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị, HOTLuận văn: Ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị, HOT
Luận văn: Ẩn dụ ý niệm trong các diễn ngôn chính trị, HOT
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Luận án: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường SaLuận án: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Luận án: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường SaĐề tài: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
 
Vấn đề giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển Đông, HAY
Vấn đề giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển Đông, HAYVấn đề giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển Đông, HAY
Vấn đề giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển Đông, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về phân chia di sản thừa kế tại Tòa án nhân d...
 
Luận án: Quan hệ Hàn Quốc - Hoa Kỳ (1993 - 2012), HAY
Luận án: Quan hệ Hàn Quốc - Hoa Kỳ (1993 - 2012), HAYLuận án: Quan hệ Hàn Quốc - Hoa Kỳ (1993 - 2012), HAY
Luận án: Quan hệ Hàn Quốc - Hoa Kỳ (1993 - 2012), HAY
 

Tranh chap bien dong luat phap-dia chinh tri va hop tac quoc te

  • 1.
  • 2. TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: LUẬT PHÁP, ĐỊA CHÍNH TRỊ VÀ HỢP TÁC QUỐC TẾ
  • 3. 2
  • 4. 3 Đặng Đình Quý (Chủ biên) TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: LUẬT PHÁP, ĐỊA CHÍNH TRỊ VÀ HỢP TÁC QUỐC TẾ   
  • 5. 4 Các bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả chứ không phản ánh quan điểm của các cơ quan, tổ chức nơi tác giả đang công tác, cũng như quan điểm của chủ biên và nhà xuất bản. ISBN: 9786047705641
  • 6. 5 MỤC LỤC LỜI GIỚI THIỆU .................................................................................................... 9 Đặng Đình Quý Giám đốc Học viện Ngoại giao Phần I: TẦM QUAN TRỌNG CỦA BIỂN ĐÔNG ĐỐI VỚI THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC ................................................................................................................ 17 1. THỬ NHIỆT TẦM QUAN TRỌNG TOÀN CẦU CỦA TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG .............................................................................. 19 GS. Geoffrey Till 2. CÁC VẤN ĐỀ VÀ LỢI ÍCH TẠI BIỂN ĐÔNG.................................................. 41 ĐS. Rodolfo C. Severino 3. MỸ “QUAY TRỞ LẠI” CHÂU Á VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG......................... 51 TS. Bronson Percival Phần II: LỢI ÍCH CỦA CÁC BÊN TRONG VÀ NGOÀI KHU VỰC Ở BIỂN ĐÔNG ....................................................................................................... 63 4. TÓM TẮT VỀ RỦI RO CỦA VIỆC ÁP DỤNG CHÍNH TRỊ THỰC TIỄN TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: HỆ LỤY ĐỐI VỚI AN NINH KHU VỰC ......................................................... 65 TS. Renato Cruz De Castro 5. TẠI SAO TRUNG QUỐC NHẤT ĐỊNH CẦN BIỂN ĐÔNG CHO RIÊNG MÌNH: MỘT QUAN ĐIỂM DỰ ĐOÁN VÀ ĐỘC LẬP TỪ BÊN NGOÀI ................................................................................. 83 Tướng (nghỉ hưu) Daniel Shaeffer 6. ASEAN VÀ TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG .................................................... 95 NCS. Hà Anh Tuấn 7. LỢI ÍCH CỦA ẤN ĐỘ Ở BIỂN ĐÔNG ........................................................... 109 TS. Vijay Sakhuja 8. NGA VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG: ĐI TÌM MỘT CÁCH TIẾP CẬN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ........................................................................................ 121 GS. Evgeny A.Kanaev
  • 7. Mục lục 6 Phần III: NHỮNG DIỄN BIẾN GẦN ĐÂY Ở BIỂN ĐÔNG ..................................... 133 9. TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG DIỄN BIẾN GẦN ĐÂY VÀ TRIỂN VỌNG CHO TƯƠNG LAI ........................................ 135 TS. Trần Trường Thủy 10. CĂNG THẲNG GIA TĂNG TẠI BIỂN ĐÔNG: NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP............................................................................................................. 151 TS. S. D. Pradhan 11. NHỮNG SỰ KIỆN GẦN ĐÂY Ở BIỂN ĐÔNG VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM – TRUNG QUỐC: PHÂN TÍCH QUA LĂNG KÍNH CỦA TRUYỀN THÔNG TRUNG QUỐC VÀ CÁC BÁO CÁO CHÍNH THỨC................................... 161 Li Jianwei và Chen Pingping 12. TRUNG QUỐC, VIỆT NAM VÀ TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC SỰ KIỆN THÁNG 5 – 6 NĂM 2011 ................................................................................... 175 GS. Ramses Amer 13. NHỮNG VẬN ĐỘNG TRONG NỘI KHỐI ASEAN VÀ TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: TÁC ĐỘNG VỚI TIẾN TRÌNH DOC/COC VÀ ĐỀ XUẤT ZOPFFC........................................................................................ 195 TS. Ian Storey 14. BẢN HƯỚNG DẪN THỰC THI DOC CÓ LÀM DỊU CĂNG THẲNG Ở BIỂN ĐÔNG? ĐÁNH GIÁ NHỮNG DIỄN BIẾN VÀ SAU KHI KÝ KẾT......................................................................................... 209 GS. Carlyle A. Thayer 15. BIỂN ĐÔNG: SỰ TRỖI DẬY CỦA TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG HỆ LỤY ĐỐI VỚI HỢP TÁC AN NINH ....................................... 237 GS. Koichi Sato Phần IV: TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG: NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ QUỐC TẾ............................................................................................ 253 16. LUẬT PHÁP QUỐC TẾ Ở BIỂN ĐÔNG: LIỆU ĐẨY MẠNH HAY GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP? ...... 255 GS. Stein Tønnesson 17. VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG VÀ TẠP CHÍ CHUYÊN NGÀNH LỚN NĂM 2010: BIỂN ĐÔNG VÀ CÁC VÙNG BIỂN KHÁC .................................................. 275 TS. Koh Choong Suk và TS. Yearn Hong Choi 18. NHỮNG PHÁT TRIỂN GẦN ĐÂY VỀ LUẬT ĐƯỜNG CƠ SỞ CỦA PHILIPPIN .................................................................................................. 293 GS. TS. Raul C. Pangalangan 19. ĐƯỜNG CƠ SỞ THẲNG BAO QUANH CÁC ĐẢO
  • 8. Mục lục 7 KHÔNG CẤU THÀNH MỘT QUỐC GIA QUẦN ĐẢO ............................. 301 GS. Erik Franckx và Marco Benatar 20. CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN NĂM 1982 CỦA LIÊN HỢP QUỐC VÀ AN NINH HÀNG HẢI Ở BIỂN ĐÔNG........................................................... 313 TS. Nguyễn Thị Lan Anh Phần V: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ QUẢN LÝ XUNG ĐỘT Ở BIỂN ĐÔNG..................................................................................................... 327 21. CÁC KHU VỰC TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG: TRIỂN VỌNG GIẢI QUYẾT BẰNG TRỌNG TÀI HOẶC Ý KIẾN TƯ VẤN ...................... 329 GS. Robert Beckman và Leonardo Bernard 22. VAI TRÒ CỦA QUỐC TẾ HÓA BIỂN ĐÔNG TRONG QUẢN LÝ VÀ NGĂN NGỪA XUNG ĐỘT............................................................................... 347 GS. Leszek Buszynski 23. BIỂN ĐÔNG: HỢP TÁC VÌ AN NINH VÀ PHÁT TRIỂN Ở KHU VỰC .365 ĐS. Hasjim Djalal Phần VI: PHƯƠNG CÁCH VÀ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY HỢP TÁC Ở BIỂN ĐÔNG ................................................................................................... 373 24. GIẢI PHÁP CHO TRANH CHẤP NGHỀ CÁ Ở BIỂN ĐÔNG THÔNG QUA HỢP TÁC VÀ QUẢN LÝ KHU VỰC .................................... 375 GS. Kuan-hsiung Dustin Wang 25. HỢP TÁC KHU VỰC Ở BIỂN ĐÔNG ............................................................ 389 GS. Jon Van Dyke 26. MẠNG LƯỚI SONG PHƯƠNG CÁC KHU BẢO TỒN BIỂN GIỮA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM: GIẢI PHÁP THAY THẾ CHO LỆNH CẤM ĐÁNH BẮT CÁ ĐƠN PHƯƠNG CỦA TRUNG QUỐC TRÊN BIỂN ĐÔNG?............................................................................................ 397 NCS. Vũ Hải Đăng Phụ lục: Tiểu sử các tác giả................................................................................................. 431
  • 9. 8
  • 10. 9 LỜI GIỚI THIỆU Đặng Đình Quý Giám đốc Học viện Ngoại giao Thời gian qua, cộng đồng khu vực và thế giới ngày càng quan tâm nhiều hơn tới Biển Đông bởi ý nghĩa quan trọng của vùng biển này đối với hòa bình, ổn định và phát triển, không chỉ của khu vực Đông Á mà của toàn Châu Á - Thái Bình Dương. Trong 3-5 năm trở lại đây, tình hình Biển Đông cơ bản vẫn giữ được hòa bình, ổn định nhưng cũng có lúc nguy cơ xung đột “nóng” đã hiện hữu. Sau nhiều năm bàn thảo, ASEAN và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận về các Nguyên tắc triển khai Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông. Giữa các nước liên quan trực tiếp tới tranh chấp, nhất là giữa Việt Nam, Philippin và Trung Quốc cũng đã có rất nhiều nỗ lực ngoại giao. Trên các hội nghị, diễn đàn chính thức của ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác, Biển Đông và việc duy trì hòa bình, ổn định và phát triển ở Biển Đông đã trở thành chủ đề quan trọng được quan tâm và thảo luận với tinh thần xây dựng. Từ một chủ đề bị coi là “nhạy cảm”, Biển Đông đã được bàn thảo chính thức trên tinh thần tôn trọng luật pháp, công khai, minh bạch vì lợi ích của các bên liên quan và lợi ích chung của cả cộng đồng quốc tế. Đồng hành cùng với những diễn biến tích cực trên, Biển Đông vẫn tiềm ẩn những bất ổn mà nếu không có sự kiềm chế của các bên liên quan, sự tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và những nỗ lực có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế thì xung đột có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Biển Đông là một trong những khu vực có tranh chấp phức tạp nhất trên thế giới. Sự phức tạp ấy đang gia tăng gấp bội do những biến chuyển của tình hình kinh tế, chính trị, quân sự và an ninh ở khu vực. Bên cạnh những vấn đề an ninh truyền thống như tranh chấp đảo, tranh chấp vùng biển, các vấn đề an ninh phi truyền thống như cướp biển, cướp có vũ trang trên biển, ô nhiễm môi trường biển, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên sinh vật biển, sự suy giảm đa dạng sinh học biển, biến đổi khí hậu… đang ngày càng trở nên nghiêm trọng. Chính vì vậy, việc công bố các công trình nghiên cứu về Biển Đông đóng góp rất thiết thực cho việc giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển ở Biển Đông. Chính những hoạt động nghiên cứu và thảo luận này đã góp phần đưa Biển Đông vào “ra-đa” kiểm
  • 11. Đặng Đình Quý 10 soát của cộng đồng quốc tế; bản chất của tranh chấp trên Biển Đông cũng như các vụ việc xảy ra trên Biển Đông được phân tích, đánh giá trên tinh thần khoa học, khách quan để dư luận trong nội bộ từng bên liên quan đến tranh chấp và dư luận quốc tế có thông tin đầy đủ và nhiều chiều hơn. Những nỗ lực hợp tác trên đây mới chỉ là bước đầu trên một con đường vô cùng lâu dài và gian khổ để các bên liên quan đến tranh chấp, trực tiếp và không trực tiếp, hành động vì lợi ích của mình và tính đến lợi ích của các bên liên quan khác và của cả cộng đồng quốc tế, hướng đến mục tiêu cuối cùng là biến Biển Đông từ khu vực tranh chấp phức tạp, thực sự trở thành một khu vực hòa bình, hợp tác và phát triển. Trên tinh thần đó, Học viện Ngoại giao phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam tiếp tục tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ ba với chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực”. Nội dung của Hội thảo tập trung vào sáu nhóm chủ đề chính sau: (i) Tầm quan trọng của Biển Đông đối với thế giới và khu vực; (ii) Lợi ích của các nước trong và ngoài khu vực Biển Đông; (iii) Những diễn biến gần đây tại Biển Đông; (iv) Những khía cạnh pháp lý quốc tế của tranh chấp Biển Đông; (iv) Vấn đề giải quyết tranh chấp và quản lý xung đột ở Biển Đông; (vi) Phương cách và biện pháp thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông. Cuốn sách này tập hợp phần lớn tham luận của các học giả trong nước và quốc tế tham gia Hội thảo theo các nhóm chủ đề trên. Phần thứ nhất tập trung đánh giá tầm quan trọng của Biển Đông đối với thế giới và khu vực. GS. Geoffrey Till (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Biển, Đại học King, Luân-đôn, Anh) cho rằng mặc dù Trung Quốc luôn khẳng định cần coi tranh chấp Biển Đông là vấn đề hoàn toàn của các quốc gia liên quan và của khu vực, trên thực tế Biển Đông ngày càng được xem là vấn đề toàn cầu. Tầm quan trọng chiến lược của tranh chấp này được minh họa rõ ràng nhất bởi mối quan tâm từ Mỹ và các quốc gia khác về các tác động có thể xảy ra của tranh chấp đối với tự do hàng hải, bởi mức độ, tính chất và hệ quả của các chương trình hiện đại hóa hải quân của các bên tranh chấp. Tác giả rút ra kết luận rằng khi những nguy cơ hiện hữu ở Biển Đông đang tăng nhiệt, cần có sự minh bạch và những cái đầu lạnh ở cả trong và ngoài khu vực. Bài viết của Ðại sứ Rodolfo C. Severino (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ASEAN thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore) tập trung vào phân tích những bất đồng còn tồn tại xung quanh tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là tuyên bố đường lưỡi bò và tuyên bố ưu tiên đàm phán song phương với các quốc gia tranh chấp của Trung Quốc. Tác giả chỉ ra cần phải nghiên cứu sự khác biệt, nếu có, giữa tính khả thi của Bộ Quy tắc ứng xử và một tuyên bố chính trị và phân tích các hệ quả trong trường hợp xảy ra xung đột giữa các quy định của luật mà một quốc gia cam kết với những gì mà họ xem là lợi ích thiết yếu, cốt lõi, lợi ích dân tộc hay lợi ích của chế độ. TS. Bronson Percival (Nhà nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Đông-Tây kiêm Cố vấn cao cấp của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược tại Viện Chiến lược Hải quân, Mỹ) trong bài tham luận của mình khẳng định Biển Đông sẽ vẫn là một vấn đề quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong tương lai gần vì những lợi ích hàng hải của Mỹ tại đây và sự liên hệ mật thiết của Biển Đông với chính sách “xoay trục” Châu Á -
  • 12. Lời giới thiệu 11 Thái Bình Dương của Mỹ thời kỳ hậu-Afghanistan. Tuy nhiên, một trong những vấn đề thách thức nhất hiện nay là cách để Mỹ hợp tác với Trung Quốc và các nước ASEAN nhằm khuyến khích Trung Quốc sửa đổi các yêu sách phù hợp hơn với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Phần thứ hai phân tích lợi ích của các nước trong và ngoài khu vực Biển Đông. TS. Renato Cruz De Castro (Khoa Nghiên cứu quốc tế, Đại học De La Salle, Manila, Philippin) phân tích tác động của cách tiếp cận “chính trị thực tiễn” (realpolitik) mà Trung Quốc đang áp dụng trong yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông đối với an ninh khu vực. Các chiến thuật mà Trung Quốc sử dụng bao gồm: (i) trích dẫn yêu sách lịch sử; (ii) áp dụng cách tiếp cận song phương để làm suy yếu ASEAN; (iii) dựa vào kế sách “chia để trị” nhằm đối phó riêng từng nước thành viên ASEAN và tạo sự chia rẽ giữa ASEAN và Mỹ; (iv) tăng cường sức mạnh hải quân cho phép Trung Quốc giải quyết tranh chấp lãnh thổ theo cách riêng của mình. Kết luận, tác giả cho rằng việc Trung Quốc sử dụng cách tiếp cận chính trị thực tiễn trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông sẽ khiến cho Đông Á trong tương lai sẽ giống như Châu Âu trong quá khứ. Về nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự hiếu chiến của Trung Quốc gần đây, Tướng (nghỉ hưu) Daniel Schaeffer (Nhà nghiên cứu cao cấp, Viện Chính sách Châu Á 21, Pháp) nhận định sự quả quyết này không chỉ dựa trên những lý do về kinh tế (như dầu, khí, đánh bắt cá, bảo vệ môi trường…) mà còn liên quan đến bố trận quốc phòng của Trung Quốc để chống lại với những gì mà Trung Quốc coi là “chính sách ngăn chặn” của Mỹ. Với tính toán như vậy, Biển Đông trở thành một quân cờ - một quân cờ quan trọng trong kế hoạch phòng thủ tổng thể Trung Quốc đang xây dựng nhằm hạn chế “mối đe dọa Mỹ”. Đối với ASEAN, học giả Hà Anh Tuấn (Nghiên cứu sinh Tiến sĩ về Chính trị và Quan hệ quốc tế tại Đại học New South Wales, Australia) cho rằng tuy được xem là một trong những tổ chức khu vực thành công nhất trên thế giới nhưng ASEAN lại chưa thực sự đóng vai trò đáng kể trong việc làm dịu những tranh cãi nóng bỏng ở Biển Đông. Không kể tới sự khác biệt về lợi ích của các thành viên ASEAN và những ràng buộc theo “Phương cách ASEAN”, vai trò hạn chế của ASEAN trong những tranh chấp này một phần do những nỗ lực của Trung Quốc nhằm duy trì các đàm phán trong khuôn khổ song phương. Vì ASEAN đang trên con đường hiện thực hóa ước mơ xây dựng Cộng đồng nên những kết quả đó thấp hơn rất nhiều so với kỳ vọng của các nước thành viên khi đương đầu với một mối lo ngại an ninh chung của khu vực. Chính vì vậy, ASEAN có lợi ích, trách nhiệm, và khả năng để tham gia tích cực hơn trong vấn đề tranh chấp tại Biển Đông và đóng góp vào quá trình giải quyết tranh chấp. Bài viết của TS. Vijay Sakhuja (Giám đốc Nghiên cứu của Hội đồng Nghiên cứu Các Vấn đề thế giới, Ấn Độ) tập trung phân tích các lợi ích của Ấn Độ ở Biển Đông. Mặc dù không phải là một bên tranh chấp ở Biển Đông, nhưng các diễn biến tại Biển Đông cũng tác động đến Ấn Độ trên nhiều phương diện. Ấn Độ có lợi ích thương mại hàng hải ở khu vực, lợi ích trong việc khai thác dầu mỏ, khí đốt và đã tiến hành kinh doanh năng lượng với Việt Nam kể từ cuối thập niên 1980. Ấn Độ cũng có những lo ngại mới bắt nguồn từ cách Trung Quốc diễn giải “lợi ích cốt lõi”, theo đó Trung Quốc có thể mở rộng lợi ích bao gồm cả khu vực tranh chấp ở biên giới với Ấn Độ.
  • 13. Đặng Đình Quý 12 Trong bối cảnh các cách tiếp cận đa phương nhằm giải quyết tranh chấp Biển Đông đang bộc lộ mức độ hiệu quả khá hạn chế, nghiên cứu của GS. Evgeny Kanaev (Nhà nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương, Viện Kinh tế Thế giới và Quan hệ Quốc tế, Viện Hàn lâm Khoa học Nga và Giáo sư Khoa Chính trị Thế giới, Trường Kinh tế Cao cấp, Matxcơva, Nga) đưa ra những phân tích sâu sắc về các lựa chọn chính sách của Nga đối với vấn đề Biển Đông và lập luận rằng cách tiếp cận thực dụng hướng đến giải quyết vấn đề có thể đóng góp tích cực cho việc giảm thiểu khả năng xung đột tại đây. Phần thứ ba bao gồm những nghiên cứu xoay quanh những diễn biến gần đây ở Biển Đông. TS. Trần Trường Thủy (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông, Học viện Ngoại giao Việt Nam) tổng hợp các diễn biến ở Biển Đông trong những năm vừa qua, đặc biệt là tình hình hai năm trở lại đây và phân tích những tác động của nó đối với an ninh, hợp tác và viễn cảnh của khu vực trong tương lai gần. Tác giả kết luận rằng Trung Quốc và ASEAN cần hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử COC khu vực mang tính ràng buộc về pháp lý - điều đó sẽ giúp giảm thiểu nguy cơ đe dọa đối với các bên liên quan và cho phép họ tự tin hơn để tiến hành các hoạt động hợp tác sâu rộng hơn ở Biển Đông. TS. S. D. Pradhan (Cựu Phó cố vấn An ninh quốc gia và Giáo sư Khoa Lịch Sử và Quốc phòng, Trường Đại học Punjabi, Patiala, Ấn Độ) phân tích những nguyên nhân chính khiến căng thẳng gia tăng ở Biển Đông trong thời gian gần đây và đánh giá vai trò của Trung Quốc với tư cách là bên tranh chấp chính. Bài viết xem xét về cách nhìn nhận của Trung Quốc cũng như các quốc gia khác có liên quan đến tranh chấp. Ngoài ra, tác giả còn lưu ý đến những diễn biến tích cực gần đây trong đó bao gồm nỗ lực thúc đẩy Tuyên bố ứng xử của các bên, tiến tới Bộ Quy tắc ứng xử cũng như những cố gắng để giải quyết vấn đề thông qua đàm phán. Cuối cùng, bài viết đưa ra những đề xuất thiết thực nhằm xoa dịu tình hình ngay lập tức, hướng đến giải quyết vấn đề trên tinh thần thực sự hợp tác. Bài viết của Li Jianwei (Giám đốc Trung tâm nghiên cứu khoa học biển thuộc Viện nghiên cứu quốc gia Nam Hải, Hải Nam, Trung Quốc) và Chen Pingping (Nghiên cứu viên tại Trung tâm nghiên cứu kinh tế biển thuộc Viện nghiên cứu quốc gia Nam Hải, Trung Quốc) đi sâu nghiên cứu các vụ việc gần đây ở Biển Đông và tác động của chúng đối với quan hệ Việt – Trung thông qua lăng kính của truyền thông và các báo cáo chính thức của chính quyền trung ương Trung Quốc. Các tác giả cho rằng truyền thông đóng một vai trò quan trọng trong thông tin đại chúng. Họ có khả năng truyền tải các sự kiện mới xảy ra với tốc độ khá nhanh nhưng cũng có thể góp phần định hướng luồng nhận thức tốt, xấu của dân chúng trước các vụ việc. Vì vậy, chính phủ hai nước cần thận trọng trong việc công bố thông tin, cả thời điểm lẫn nội dung và cần thúc đẩy hơn nữa hợp tác giữa truyền thông hai nước để thiết lập kênh thông tin hiệu quả hướng đến củng cố mối quan hệ hữu nghị Việt – Trung, tạo môi trường thuận lợi cho việc quản lý tranh chấp và hợp tác ở Biển Đông. Trong khi đó, tham luận của GS. Ramses Amer (Giáo sư tại Viện nghiên cứu Hòa bình và Xung đột và Nhà nghiên cứu cao cấp, Khoa Ngôn ngữ phương Đông, Đại học
  • 14. Lời giới thiệu 13 Stockholm, Thụy Điển) tập trung cụ thể vào những sự kiện cắt cáp thăm dò dầu khí xảy ra vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6/2011 giữa Việt Nam và Trung Quốc và cách thức hai nước đối phó với những căng thẳng liên quan đến tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông. Phân tích này được đặt trong bối cảnh rộng hơn về cách tiếp cận của Việt Nam – Trung Quốc đối với quản lý tranh chấp biên giới trong giai đoạn kể từ khi bình thường hóa quan hệ cuối năm 1991, nhằm đánh giá tổng thể những thách thức, tác động và bài học rút ra từ các sự kiện tháng 5-6/2011. Về vai trò của ASEAN trong tranh chấp Biển Đông, TS. Ian Storey (Nhà nghiên cứu cao cấp tại Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore) cho rằng ngoài sự không khoan nhượng từ phía Trung Quốc, việc quản lý xung đột và giải quyết tranh chấp tại Biển Đông đang bị chính những vấn đề trong nội khối ASEAN cản trở, đặc biệt là vấn đề đồng thuận. Trong khi các nước ASEAN tỏ ra ủng hộ một Bộ Quy tắc ứng xử (COC) trên Biển Đông, thì Trung Quốc khá miễn cưỡng và ngần ngại trong đàm phán. Đề xuất của Philippin về việc biến Biển Đông thành một khu vực Hòa bình, Tự do, Hữu nghị và Hợp tác (ZOPFFC) cũng là vấn đề gây nhiều bàn cãi do sự phản đối từ Trung Quốc, và cũng bởi đề xuất đó đòi hỏi ASEAN phải tỏ rõ thái độ trước yêu sách mở rộng của Trung Quốc. Tóm lại, triển vọng hiện thực hóa COC và ZOPFFC là không mấy khả thi. GS. Carlyle A. Thayer (Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học New South Wales, Australia) xem xét những diễn biến tác động đến an ninh ở Biển Đông trước và sau khi thông qua Bản Hướng dẫn thực thi tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông ngày 20/7/2011. Ông kết luận rằng những thỏa thuận song phương giữa Trung Quốc và các bên yêu sách khác là cần thiết nhưng chưa phải là điều kiện đủ để duy trì an ninh ở Biển Đông khi nào Trung Quốc vẫn tiếp tục khẳng định “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với các khu vực hàng hải. Tham luận của GS. Koichi Sato (Đại học Tổng hợp J. F. Oberlin, Tokyo, Nhật Bản) tập trung phân tích những thách thức trên biển, đồng thời đánh giá tác động đối với hợp tác an ninh giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng (bao gồm cả Nhật Bản và Mỹ) trong bối cảnh các nhà ngoại giao Trung Quốc khẳng định với quan chức chính quyền Obama rằng Trung Quốc sẽ không chấp nhận bất kỳ hành động can thiệp nào tại Biển Đông, khu vực mà Trung Quốc hiện coi là một phần “lợi ích cốt lõi” thuộc chủ quyền của mình. Hải quân Quân giải phóng nhân dân và các cơ quan an ninh hàng hải Trung Quốc đã bắt đầu triển khai tàu chiến và tàu tuần tra tại Biển Đông và căng thẳng giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á đang có xu hướng gia tăng. Phần bốn thảo luận những khía cạnh pháp lý quốc tế của tranh chấp Biển Đông. Trong bài viết của mình, GS. Stein Tønnesson (Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo (PRIO), Na Uy) tìm hiểu mối tác động qua lại giữa sức mạnh và luật pháp ở Biển Đông. Liệu luật pháp quốc tế có làm trầm trọng thêm các tranh chấp bằng cách khuyến khích các yêu sách mâu thuẫn nhau? Hay nó góp phần thiết lập các nguyên tắc và đưa ra những biện pháp giúp xử lý và giải quyết xung đột? Tác giả trả lời câu hỏi bằng cách xem xét sự phát triển của luật pháp quốc tế đã ảnh hưởng như thế nào đến các xung đột ở Biển Đông và chứng minh tính đan xen song song trong lịch sử giữa các giai đoạn
  • 15. Đặng Đình Quý 14 xung đột và lắng dịu và sự phát triển pháp lý, cả trong luật pháp quốc tế dựa trên tập quán và điều ước. Nghiên cứu của TS. Koh Choong Suk (Chủ tịch Hội Nghiên cứu Ieodo, Hàn Quốc) và Yearn Hong Choi (Nhà nghiên cứu cao cấp tại Hội Nghiên cứu Ieodo) phân tích vùng đặc quyền kinh tế qua góc nhìn của các phương tiện truyền thông lớn và các tạp chí học thuật năm 2010, tập trung vào Biển Đông và so sánh với một số vùng biển khác. GS.TS. Raul C. Pangalangan (Đại học Philippin) bàn về Luật Đường cơ sở mới được thông qua gần đây của Philippin. Luật này được hy vọng cuối cùng sẽ giải quyết được tình thế khó xử của Philippin về bề rộng vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Tuy nhiên hy vọng đó đã không trở thành hiện thực. GS. Erik Franckx (Thành viên Tòa trọng tài thường trực và Trưởng khoa Luật Quốc tế và Luật Châu Âu, Đại học Vrije, Brussel, Bỉ) và Marco Benatar (Đại học Vrije) tập trung vào vấn đề áp dụng đường cơ sở quần đảo đối với các quần đảo ở giữa biển - đó là những quần đảo thuộc về một quốc gia mà do một hay nhiều lý do không thể được xem như là quốc gia quần đảo theo Luật Biển Quốc tế 1982. Bài tham luận xem xét các lập luận pháp lý đã được dùng để hỗ trợ cho khả năng vẽ đường cơ sở thẳng xung quanh các quần đảo nằm ở xa đất liền trong luật pháp quốc tế, cũng như các cuộc tranh luận và các dự thảo đề xuất đã được thảo luận sôi nổi tại các cuộc họp của Hội nghị lần thứ 3 của Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Trên cơ sở đó, tác giả rà soát thực tiễn hoạt động của các nước để làm rõ liệu các nước không phải là quốc gia quần đảo theo Công ước 1982 có thể có quyền theo luật pháp hiện thời để vẽ một hệ thống các đường cơ sở thẳng xung quanh các quần đảo ở giữa đại dương, theo cơ sở của Điều 47 (về các đường cơ sở quần đảo) hơn là theo cơ sở của Điều 7 (về các đường cơ sở thẳng) của Công ước này hay không. Tác giả đi đến kết luận rằng các quốc gia nên tránh vẽ đường cơ sở thẳng xung quanh các quần đảo xa đất liền bởi nó đi ngược lại với tinh thần và văn bản của Công ước 1982. TS. Nguyễn Thị Lan Anh (Phó Trưởng khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao Việt Nam) cho rằng dưới góc độ an ninh truyền thống, những xung đột về yêu sách lãnh thổ và vùng biển ngày càng gay gắt sẽ khiến cho xung đột vũ trang có thể xảy ra tại khu vực Biển Đông. Việc xuống cấp của môi trường đa dạng sinh học biển, khai thác quá mức các nguồn tài nguyên biển, đe dọa tự do, an toàn hàng hải và các chuyến bay cũng như sự bất ổn định của đời sống người dân ven biển đang là những nguy cơ trong thời điểm hiện tại. Tất cả những điều này đặt an ninh của Biển Đông ở mức báo động cao. Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc là một khuôn khổ pháp lý đa phương và toàn diện nhằm giúp các quốc gia sử dụng và quản lý biển một cách hòa bình, công bằng và bền vững trên cơ sở tôn trọng chủ quyền lẫn nhau. Tuy nhiên, để áp dụng hiệu quả các quy định của Công ước vào bối cảnh đặc thù của Biển Đông, các quốc gia cần cụ thể hóa các quy định của Công ước để xây dựng một bộ luật ứng xử có hiệu lực ràng buộc trong khu vực. Phần năm tìm hiểu các biện pháp quản lý xung đột và giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Bài viết của GS. Robert Beckman (Giám đốc Trung tâm Luật Quốc tế, Đại học Quốc gia Singapore) và Leonardo Bernard (Trung tâm Luật Quốc tế) nghiên cứu những cản
  • 16. Lời giới thiệu 15 trở chính đối với việc xác định các khu vực tranh chấp tại Biển Đông và các nghĩa vụ theo luật quốc tế của các quốc gia yêu sách liên quan đến các khu vực tranh chấp, trong đó bao gồm giới hạn của luật đối với những hành động đơn phương mà quốc gia được phép thực hiện trong các khu vực tranh chấp. Tác giả cho rằng trước khi các cuộc thương thảo nghiêm túc về các thỏa thuận khai thác chung có thể được bắt đầu, các quốc gia liên quan phải nhất trí về một hoặc nhiều các khu vực tranh chấp mà tại đó sẽ tuân thủ theo các thỏa thuận khai thác. Điều này sẽ khó khăn vì Trung Quốc vẫn chưa làm rõ các cơ sở yêu sách của nước này tại các vùng biển ở Biển Đông và do đó, các khu vực có yêu sách chồng lấn trở nên không rõ ràng. Các khu vực có tranh chấp cũng không được làm rõ vì không có sự đồng thuận về tình trạng của các đảo tranh chấp. GS. Leszek Buszynski (Nhà nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Quốc phòng, Đại học Quốc gia Australia) nhận định quá trình phát triển của tranh chấp Biển Đông liên quan tới các vấn đề chiến lược rộng lớn hơn: một mặt là chiến lược hải quân của Trung Quốc khi nước này tăng cường năng lực hải quân, mặt khác là sự hiện diện của Mỹ ở phía Tây Thái Bình Dương và những mối quan hệ đồng minh của Mỹ trong khu vực. Vì thế, một thỏa thuận ngăn ngừa xung đột là cần thiết để tránh gây leo thang những vụ việc nhỏ trở thành xung đột, từ đó cản trở quá trình giải quyết các yêu sách chồng lấn. Thỏa thuận này nên tính tới hai cường quốc gia quan trọng, Mỹ và Trung Quốc, đồng thời bao gồm các bên yêu sách của ASEAN. Trong tham luận của mình, Đại sứ Hasjim Djalal (Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á, Indonesia) bàn về những cách tiếp cận chính thức và không chính thức nhằm quản lý tranh chấp Biển Đông và tăng cường hợp tác vì an ninh và phát triển lâu dài của khu vực. Tác giả nhấn mạnh cách tiếp cận không chính thức về Biển Đông không nhằm mục đích giải quyết tranh chấp lãnh thổ giữa các bên yêu sách khác nhau, nhưng giúp đạt được ba điều: (i) đưa ra các chương trình hợp tác, trong đó tất cả các bên đều tham gia; (ii) thúc đẩy đối thoại giữa các bên có lợi ích trực tiếp, để họ có thể tìm ra giải pháp cho vấn đề; và (iii) thúc đẩy tiến trình xây dựng lòng tin để các bên tin tưởng lẫn nhau. Phần sáu viết về các phương cách và biện pháp thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông. GS. Kuan-hsiung Dustin Wang (Viện Khoa học Chính trị, Đại học Quốc gia Đài Loan) cho rằng để giải quyết tranh chấp và thúc đẩy hợp tác tại khu vực Biển Đông, việc bảo tồn và quản lý nguồn cá có thể được xem là điểm khởi đầu. Các chính sách bảo vệ và quản lý nguồn cá cần phải được thực thi trong một cơ chế tổng thể, ở các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế, để có thể hoàn thành được mục tiêu chính sách. Tác giả đi đến kết luận rằng các tổ chức quản lý nghề cá khu vực là cần thiết để bảo tồn và quản lý nguồn cá ở Biển Đông và tiến tới giải quyết tranh chấp tại Biển Đông. Theo GS. Jon Van Dyke (Trường Luật William S. Richardson, Đại học Hawaii, Mỹ), Biển Đông là biển nửa kín được điều chỉnh theo Phần 9 của Công ước Luật Biển; do đó, Điều 123 quy định các quốc gia kề cận với biển kín/nửa kín “hợp tác với nhau để thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định trong Công ước” để quản lý, bảo tồn, thăm dò và khai thác các tài nguyên sinh vật biển, đồng thời phối hợp thực hiện các hoạt động bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Tuy nhiên, các nước quanh Biển Đông đã thất
  • 17. Đặng Đình Quý 16 bại trong việc thành lập một tổ chức khu vực hiệu quả, và hình thức hợp tác “trực tiếp” nhìn chung cũng không thành công. Chưa có một tổ chức về quản lý nghề cá chung hiệu quả được thành lập. Tổ chức điều phối các nước Biển Đông Á (COBSEA) gần như không có hoạt động và Tổ chức đối tác về quản lý môi trường các quốc gia Biển Đông Á (PEMSEA) chỉ đạt được một số thành tựu khiêm tốn. Học giả Vũ Hải Đăng (Nghiên cứu sinh Tiến sĩ về Luật môi trường Biển tại Trường Luật Schulich, Đại học Dalhousie, Canada) ủng hộ việc thành lập một mạng lưới quản lý các khu vực bảo tồn biển song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam tại khu vực phía Đông Bắc Biển Đông, với tư cách là một giải pháp thay thế cho lệnh cấm đánh cá hàng năm của Trung Quốc tại khu vực. Tác giả cũng phân tích một số triển vọng về cách thức thiết lập mạng lưới cũng như cách thức quản lý các thành tố của mạng lưới, đồng thời xem xét các yêu sách chồng lấn tại khu vực dựa trên việc phân biệt yếu tố địa lý và sinh học. Tóm lại, phần lớn các ý kiến tập trung đánh giá các tác động tiêu cực của chiến lược Trung Quốc trên Biển Đông, cho rằng sự hung hăng trên thực địa và thái độ mập mờ về yêu sách của Bắc Kinh có thể là nguyên nhân chủ yếu khiến căng thẳng leo thang và khả năng xung đột luôn bị đẩy ở mức cao. Là bên tranh chấp chính ở Biển Đông và là cường quốc quan trọng ở khu vực, Trung Quốc cần có những hành xử đúng mực để duy trì môi trường hòa bình ổn định, khôi phục niềm tin của các nước láng giềng bởi đây cũng là lợi ích phát triển của Trung Quốc. Dựa trên kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp biển của nhiều nước trên thế giới, các đại biểu và học giả đã đề xuất một số biện pháp thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông, trong đó đáng chú ý là các sáng kiến về xây dựng một cơ chế quản lý nghề cá ở cấp khu vực và kiểm soát ô nhiễm biển thực sự hiệu quả, thiết lập một mạng lưới các khu bảo tồn biển song phương hoặc đa phương như một giải pháp thay thế cho lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương hiện nay... Các học giả cũng nhất trí rằng để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông một cách hòa bình, trong thời gian tới các bên liên quan cần kiên trì đàm phán, tăng cường đối thoại trên tinh thần hợp tác và tôn trọng luật pháp quốc tế, kiềm chế các hành động bạo lực, cũng như cần minh bạch hóa các yêu sách chủ quyền về biển đảo. Nhiều học giả kêu gọi các bên trong khi hợp tác thực thi DOC cần xây dựng một Bộ Quy tắc ứng xử (COC) mang tính ràng buộc hơn nhằm giúp xây dựng lòng tin giữa các nước để tạo môi trường hòa bình, ổn định, và khuyến khích các bên hợp tác quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên ở Biển Đông một cách hòa bình. Hội thảo tiếp tục nhận được sự quan tâm của đông đảo học giả trong và ngoài nước, xem đây là một diễn đàn tích cực góp phần vào việc đưa ra các sáng kiến giúp quản lý tranh chấp ở Biển Đông, tăng cường an ninh, hợp tác và phát triển ở khu vực.
  • 18. Phần I TẦM QUAN TRỌNG CỦA BIỂN ĐÔNG ĐỐI VỚI THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
  • 19. 18
  • 20. 19 1 THỬ NHIỆT TẦM QUAN TRỌNG TOÀN CẦU CỦA TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG GS. Geoffrey Till Giám đốc Trung tâm Corbett về Nghiên cứu Chính sách Biển, Đại học King, Luân Đôn, Anh Tóm tắt Mặc dù Trung Quốc luôn khẳng định cần coi tranh chấp Biển Đông là vấn đề hoàn toàn của các quốc gia liên quan và của khu vực, trên thực tế nó ngày càng được xem là vấn đề toàn cầu. Điều này là bởi vấn đề Biển Đông đang là thước đo để đánh giá vai trò và chính sách của Trung Quốc trong tương lai – một vấn đề ngày càng làm đau đầu đối với Hoa Kỳ và một số nước ngoài khu vực. Tầm quan trọng chiến lược của tranh chấp này được minh họa rõ ràng nhất bởi các mối quan tâm bên ngoài về tác động có thể xảy ra của tranh chấp đối với tự do hàng hải và bởi mức độ, tính chất và hậu quả của chương trình hiện đại hóa hải quân của các bên tranh chấp. Vì những nguy cơ đang hiện hữu khi Biển Đông tăng nhiệt, cần có sự rõ ràng và những cái đầu lạnh ở cả trong và ngoài khu vực. Giới thiệu: Vấn đề toàn cầu hay khu vực? Hai cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề Biển Đông vốn đã phức tạp và khó khăn giờ đã sáng tỏ. Cách nhìn thứ nhất, được Trung Quốc thể hiện một cách kiên định và mạnh mẽ, là vấn đề này nên được nhìn nhận như một vấn đề khu vực chứ không phải là vấn đề toàn cầu. Bắc Kinh đã phản ứng mạnh với bài phát biểu của bà Hillary Clinton trong đó nêu lợi ích của Mỹ ở Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN Việt Nam tháng 7 năm 2010.1 Trên website chính thức của mình, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì liên tục cảnh cáo việc Mỹ dính líu sâu hơn vào vấn đề Biển Đông, cho rằng điều này sẽ 1. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là rất nhiều điểm trong diễn văn của bà Clinton có thể đã xuất hiện trong một tuyên bố của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 10/05/1995. Vì thế, bài diễn văn này không thực sự gây bất ngờ.
  • 21. GS. Geoffrey Till 20 làm gia tăng căng thẳng trong khu vực. “Nếu vấn đề này bị biến thành một vấn đề quốc tế hoặc đa phương thì hậu quả sẽ như thế nào? Điều này chỉ làm vấn đề càng xấu đi và khó đạt được giải pháp… Tốt nhất là nên đạt được sự đồng thuận rằng các tranh chấp sẽ được giải quyết hòa bình thông qua các cuộc tham vấn thiện chí vì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và những mối quan hệ láng giềng hữu hảo.”2 Vấn đề Biển Đông là một vấn đề khu vực, và nó chỉ có thể được giải quyết bởi các nước trong khu vực. Vấn đề đã đủ căng thẳng và nhạy cảm khi có quá nhiều quốc gia yêu sách ở Biển Đông và sự chồng lấn về quyền tài phán cần giải quyết, thế thì, tại sao lại phải làm cho mọi việc xấu hơn bằng cách lôi kéo thêm các nước không có yêu sách chủ quyền ở khu vực vào tranh chấp? Ngược lại, nhà chiến lược đầu thế kỷ 20 Halford Mackinder từ nhiều năm trước đã đưa ra luận điểm sau này được nhiều người nhìn nhận là một luận điểm quan trọng: “Sự thống nhất của đại dương là yếu tố tự nhiên đơn giản giúp xác định giá trị vượt trội của sức mạnh biển trong thế giới hiện đại.”3 Do biển kết nối tất cả các quốc gia với nhau, các nước bên ngoài khu vực cũng có lợi ích lớn trong việc quản lý xung đột và kết quả của tranh chấp, đặc biệt khi họ là các quốc gia biển, do đó việc họ muốn thể hiện lợi ích của mình trong các vấn đề này là dễ hiểu. Vì vậy, tranh chấp Biển Đông nên được xem như một vấn đề toàn cầu và cộng đồng quốc tế có lợi ích trong việc quản lý hòa bình các tranh chấp này với hy vọng một ngày nào đó sẽ tìm ra một giải pháp. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cho rằng, “Cách thức để đo sức mạnh của một cộng đồng các quốc gia là xem xét cộng đồng đó phản ứng lại những mối đe dọa đối với các quốc gia thành viên, láng giềng, và khu vực như thế nào.”4 Bên cạnh đó, tại cuộc Đối thoại Shangri-La tháng 6/2011, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates cũng đã tiếp tục nhấn mạnh quan điểm rằng tranh chấp Biển Đông là một vấn đề toàn cầu với tầm quan trọng và những hệ lụy mang tính toàn cầu của nó. Theo đó, các vai trò và hệ lụy có tính toàn cầu của tranh chấp đã giúp biện minh cho Mỹ và các nước bên ngoài khác trong nỗ lực duy trì vai trò đảm bảo các lợi ích rộng lớn của những nước này tại khu vực. Ông Gates thậm chí còn sẵn sàng đặt cược 100 đô-la Mỹ rằng, “Trong vòng 5 năm tới, ảnh hưởng của nước Mỹ ở khu vực [sẽ] mạnh mẽ hơn hoặc ít nhất là cũng giữ nguyên như hiện nay.”5 Vì vậy, câu hỏi được đặt ra là, tại sao Mỹ và các quốc gia ngoài khu vực lại có lợi ích như vậy ở vấn đề Biển Đông và hệ quả của việc này là gì? Vài lý do có thể được đưa ra như sau: An ninh – Vấn đề chung và không thể chia cắt Trước hết, có quan điểm cho rằng trong thời kỳ toàn cầu hóa, vấn đề an ninh quốc tế không thể bị chia nhỏ theo các khu vực địa lý rời rạc. Theo đó, các quốc gia bên ngoài một khu vực ngày càng quan ngại hơn về việc thỉnh thoảng tranh chấp trong khu vực lại nóng lên, không chỉ bởi vì những sự bất ổn này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các nước đó. Kinh tế của thế giới bên ngoài bị ảnh hưởng rất lớn vào những sự kiện diễn ra xung 2. ‘China Warns US to Stay Out of Islands Dispute’, New York Times, 26/7/2010. 3. Halford Mackinder, Britain and the British Seas (London: D. Appleton & Co Ltd., 1914) tr. 12. 4. ‘US takes on Maritime Spats’, Wall Street Journal, 24/7/2010 5. ‘Not Littorally Shangri-La’, The Economist, 9/6/2011.
  • 22. Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp Biển Đông 21 quanh và ngay tại khu vực Đông Nam Á vì đây là một thị trường quan trọng, một nguồn hàng hóa, dịch vụ, và là điểm thu hút chủ yếu của ngành du lịch. Cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á những năm 90 ảnh hưởng tới Châu Âu, cũng như tình hình suy thoái kinh tế thế giới hiện tại đều chứng minh một điều rằng toàn bộ nền kinh tế thế giới là không thể bị chia cắt. Vì những lý do này, toàn bộ các quốc gia khác trên thế giới có lợi ích lớn trong việc ổn định và thịnh vượng trong khu vực được tiếp tục duy trì, và do đó, như người ta thường nói: lá cờ đi sau thương mại (thương mại chi phối các chính sách về quan hệ quốc tế). Những cân nhắc chính trị và chiến lược cũng cho thấy điều này. Những nhận định bên ngoài về việc tăng sức nóng ở khu vực Nhìn từ bên ngoài, dù chính xác hay không, chính sách của Trung Quốc nửa đầu năm 2011 dường như trở lại với phong cách quyết đoán đầu năm 2010 với việc can thiệp vào các tàu thăm dò hoạt động phục vụ lợi ích của Việt Nam và Philippin trong các khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Tháng 6/2011, một tàu chiến Trung Quốc đã nổ súng vào ba tàu đánh cá của Philippin gần bãi san hô Jackson.6 Trong Thông điệp Liên Bang cuối tháng 7, Tổng thống Philippin Benigno Aquino đã nói: “Chúng tôi không muốn căng thẳng thêm với bất cứ quốc gia nào, nhưng chúng tôi phải để thế giới biết rằng chúng thôi luôn sẵn sàng bảo vệ những thứ thuộc về chúng tôi.” Vì lý do này, tàu Rajah Humabon hàng đầu của Hải quân Philippin đã được phái đến nơi mà một số người ở Manila giờ đây gọi là “Biển Tây Philippin.”’7 Người ta cũng chưa chắc liệu Mỹ có coi nhóm đảo Kalayaan (KIG) là một đối tượng được đặt trong Hiệp ước Tương hỗ An ninh Mỹ – Philippin ký năm 1951, trước khi yêu sách chủ quyền của Philippin về nhóm đảo này được bàn thảo, song ít nhất, Mỹ sẽ rất quan tâm đến những bước phát triển mới này. Vào thời điểm sự việc cắt dây cáp của Việt Nam ngày 26/05/2011 diễn ra, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga đã cảnh báo: “Hải quân Việt Nam sẽ làm mọi thứ cần thiết để bảo vệ vững chắc hòa bình, độc lập, chủ quyền, và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.”8 Sau đó, vụ cắt cáp diễn ra, tàu tuần tra Việt Nam đã quay lại khu vực, được hộ tống bởi 8 tàu khác. Đỉnh điểm của vụ việc này là lệnh đơn phương cấm đánh bắt cá của Trung Quốc ở các vùng nước tranh chấp và việc rất nhiều thuyền đánh cá Trung Quốc xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã làm tình huống xấu thêm.9 Những sự việc như vậy đã khuấy động tinh thần dân tộc trong các tầng lớp dân cư, đặc biệt khi các tường thuật của giới truyền thông khiến cộng đồng mạng thấy được tầm quan trọng phương tiện truyền thông của thế kỷ 21 này, thì chính quyền không thể xem nhẹ. Trên thực tế, một số “cuộc tấn công mạng” sau đó có thể khiến bầu không khí càng trở nên căng thẳng hơn.10 6. ‘Behind recent gunboat diplomacy in the South China Sea’, IISS Strategic Comments, 8/2011. 7. ‘Navy Flagship to patrol PH waters only, says Palace, Philippine Daily Inquirer, 21/6/2011. 8. ‘Vietnam demands China stop sovereignty violations’, Thanh Nien Daily, 30/5/2011. 9. ‘Chinese fishing boats violate Vietnam waters: gov’t mulls patrol boats’ Thanh Nien Daily, 29/5/2011. 10. Đây là vấn đề chung của cả khu vực. ‘Japan targeted by cyber attacks “from China”’, The Telegraph, 20/9/2011. Việc các cuộc tấn công vào các nhà thầu vũ khí của tập đoàn công nghệ nặng IHI và Mitsubishi trùng với ngày kỷ niệm của sự kiện Mãn Châu năm 1931, khiến cho các phương tiện truyền thông đổ thêm dầu vào lửa rằng các tin
  • 23. GS. Geoffrey Till 22 Theo sau việc gia tăng căng thẳng này, các nhà quan sát đã chú ý đến mức độ liên kết và hợp tác ngày càng tăng giữa các quốc gia thành viên ASEAN, không chỉ ở các cuộc họp của ASEAN ở Việt Nam, nơi những đánh giá của bà Hillary Clinton nhận được sự ủng hộ của một số quốc gia nhất định trong khu vực. Cuộc gặp chính thức đầu tiên của tất cả những người đứng đầu hải quân các quốc gia ASEAN đã được tổ chức bên lề hội nghị này. Các bên đã đồng ý thiết lập đường dây nóng để trao đổi thông tin và cùng nhau bàn bạc về các hoạt động phối hợp.11 Tháng này, Việt Nam và Indonesia đã đồng ý tổ chức những cuộc tuần tra chung ở phần phía Nam Biển Đông.12 Việc hiện đại hóa và các hoạt động của hải quân trong khu vực Thật khó tin rằng việc gia tăng căng thẳng dần dần trong khu vực hoàn toàn không liên quan đến các chương trình hiện đại hóa hải quân đang được thực hiện. Rất nhiều người sẽ tranh luận rằng trên thực tế đây là một trong các cách phản ứng cơ bản của khu vực đối với vấn đề Biển Đông. Hầu hết các bên yêu sách đều đang nâng cấp những căn cứ quân sự mà họ duy trì ở các đảo trên Biển Đông do họ chiếm đóng, bao gồm đường băng và nhiều loại công trình khác nhau: Trung Quốc (trên đảo Subi, Nam Johnson và Bãi đá chữ thập), Đài Loan (trên đảo Itu Aba/đảo Đài Bình).13 Căng thẳng gia tăng ở khu vực đã đẩy mạnh việc triển khai quân sự, cũng như việc tăng cường một lực lượng cảnh vệ biển và đáng lo ngại hơn là cả lực lượng không quân và hải quân. Tháng 7 và tháng 8/2010 (ngay sau những nhận xét của bà Clinton ở ASEAN), Trung Quốc tiến hành cuộc diễn tập lớn mang tên “Tiên phong 2010” bao gồm việc bắn những tên lửa dẫn đường và thử nghiệm hệ thống không quân bảo vệ chống tên lửa ở Biển Đông. Sau đó vào tháng 11/2010, Trung Quốc thực hiện một cuộc tập trận lớn cả trên cạn và dưới nước với gần 100 tàu chiến, tàu ngầm và máy bay tham gia. Về việc này, Thời báo Hoàn Cầu đưa tin: “Đây cơ bản là một cuộc diễn tập quân sự thường kỳ, nhưng nó cũng dựa trên tình hình chiến đấu hiện nay ở Biển Đông.” Báo này dẫn lời nhà phân tích Bắc Kinh, Li Jie khi ông nhận xét rằng “Đây không phải là một tín hiệu đặc biệt nhưng chúng tôi đã chọn một sân khấu để thể hiện khả năng và sức mạnh hải quân của chúng tôi.” Ảnh hưởng của các lực lượng thủy bộ hỗn hợp đối với tình hình Biển Đông được đặc biệt lưu ý. Việt Nam cũng đã tổ chức một cuộc diễn tập trực tiếp ở ngoài khơi Biển Đông, trên đảo Hòn Ong, cách tỉnh Quảng Nam 20 dặm vào ngày 13/06/2011.14 Việc mở rộng dần dần tham vọng hoạt động và bành trướng Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (Hải quân) (PLA[N]) trong vài năm gần đây được người ta chú ý tặc Trung Quốc chính là người thực hiện chuyện này. Chính phủ Trung Quốc phủ nhận việc dính líu này, chỉ ra rằng chính nước này cũng là mục tiêu của rất nhiều vụ tấn công mạng. 11. ‘ASEAN Navy Chiefs to Set up hotline amid maritime territory dispute’ Bangkok Post, 5/8/2011. 12. ‘Indonesia/Vietnam Agree Joint maritime Patrols’, AFP, 15/9/2011. 13. Christian Le Miere, Waves of Concern: Southeast Asian States Plan Naval Defences, Jane’s Intelligence Review, 5/2011, tr. 8-13; ABC Asia Pacific News, ‘China criticizes Vietnam’s decision to renovate airstrip on Spratlys.’ 14. ‘Cbina launches more large-scale military exercises’ AFP 3/8/2010; ‘Chinese military holds naval drills in South China Sea’, The Straits Times, 4/11/2010; ‘Tensions rise in South China Sea’, Jane’s Defence Weekly, 22/6/2011.
  • 24. Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp Biển Đông 23 nhiều (chí ít là Mỹ) và gần đây càng được nhấn mạnh ngay sau chuyến khởi hành đầu tiên của chiếc tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc Shi Lang. PLA[N] nhìn chung vẫn kém Hải quân Mỹ rõ rệt, nhưng khoảng cách về khả năng chiến đấu giữa nó và Hạm đội 7 [với 60- 70 tàu và tàu ngầm, khoảng 250 máy bay có thể hạ cánh trên biển và trên đất liền, và 40,000 người] đang được thu hẹp một cách đáng kể. Trong một số lĩnh vực, Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản nhỉnh hơn PLA[N] về mặt công nghệ, nhưng khoảng cách này cũng dần được thu hẹp. Thêm vào đó, việc mở rộng các cơ sở vật chất như đã được dự đoán của Trung Quốc ở Tam Á, để bao gồm khả năng đặt lực lượng tàu sân bay ở đây, cũng dường như đang tăng lợi thế quân sự cho Trung Quốc so với các nước láng giềng phía Nam. Người ta bắt đầu kháo nhau rằng Trung Quốc có ý định triển khai DF-21D ASBMs ở căn cứ tên lửa Shaoguan ở tỉnh Quảng Châu, với tầm bắn có thể vươn tới Biển Đông. Trung Quốc triển khai chiếc tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN) thế hệ Jin và một vài chiếc tàu ngầm hạt nhân (SSN) thế hệ Han và Shang ở Tam Á cùng với nhiều tàu ngầm chạy diesel hiện đại (SSK) như Kilo và Song, như một phần trong số 21 chiếc tàu ngầm ở Hạm đội Nam hải của nước này. Về phần mình, các nước ASEAN dường như đặc biệt quan tâm đến việc đầu tư vào SSK; chi phí và tham vọng của dự án này có thể được biện minh bởi giá trị rõ ràng của chúng trong chiến lược phong tỏa biển (sea denial) để chống lại việc triển khai tàu trên mặt nước của kẻ địch mạnh hơn vào khu vực họ có lợi ích. Ở đây, ý định của Việt Nam khi mua 6 tàu ngầm tinh vi Kilo 636 từ phía Nga và 2 SSKs Scorpene từ Pháp đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới phân tích. Singapore, Thái Lan, và Indonesia cũng đã hoàn thành hoặc đang xem xét kế hoạch mua tàu ngầm.15 Một vài nước trong khu vực dường như cũng đang mở rộng và hiện đại hóa các hạm đội tàu chiến trên mặt nước, tàu hộ tống nhỏ và máy bay tuần tra ngoài khơi. Ví dụ, Việt Nam với lực lượng hải quân nhỏ và cũ kỹ từ những năm 60, 70 từ thế kỷ trước đã tăng cường hạm đội nhỏ hạng Petya với 2 tàu chiến hạng Gepard. Việt Nam rất nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ bờ biển.16 Các quốc gia ASEAN tổng cộng đã triển khai 40 tàu chiến so với 20 tàu chiến (và 8 tàu khu trục) ở Hạm đội Nam hải của PLAN. Thêm vào đó, các lực lượng không quân khu vực cũng đang được hiện đại hóa. Việt Nam đang mua các máy bay chiến đấu Sukhoi SU-30. Đài Loan liên tục xem xét việc mua một thế hệ các máy bay tấn công nhanh để bảo vệ đảo Ba Bình, và đã đặt mua 4 tàu khu trục hạng Keelung trong những năm gần đây. Brunei đã có 2 chiếc tàu lớn tuần tra ngoài khơi (OPV) và đang đặt thêm 1 chiếc nữa. Tương tự, Philippin cũng đã mua một chiếc tàu lớn hạng Hamilton và đang xem xét việc mở rộng cơ sở vật chất của lực lượng quốc phòng nước này.17 Làn sóng hiện đại hóa hải quân trong khu vực hiện nay vẫn chưa đến mức để được xem là một cuộc chạy đua vũ trang truyền thống. Thay vào đó, người ta có thể tranh 15. Christian Le Miere, Waves of Concern: Southeast Asian States Plan Naval Defences, Jane’s Intelligence Review, 5/2011, tr. 8-13. Tuy nhiên, khát vọng của Hải quân Thái Lan theo hướng này đã bị kéo chậm trở lại. ‘Submarine plan torpedoed,’ Bangkok Post, 20/9/2011. 16. ‘Vietnam looks to expand coastal defence assets’ Jane’s Defence Weekly 24/8/2011. 17. ‘Phillippines to boost S. China Sea Defences’ Straits Times, 8/9/2011.
  • 25. GS. Geoffrey Till 24 luận rằng việc hiện đại hóa hải quân này là một biểu hiện của khát vọng hoàn toàn “bình thường” của các quốc gia biển đang ngày càng thịnh vượng hơn nhằm tăng cường sức mạnh toàn diện và xây dựng ngành công nghiệp quốc phòng của quốc gia mình. Thêm vào đó, thực ra tiến trình này tự nó diễn ra không quá nhanh, và trong một số trường hợp còn có sự dính líu của Trung Quốc khi nước này đề nghị bán 2 chiếc SSK hạng Song cho Thái Lan. Tuy vậy, những diễn biến này có thể trở nên không kiểm soát được, đặc biệt nếu chúng dẫn đến những sự việc ngoài ý muốn có khả năng leo thang nhanh trên biển. Từ đó, chúng có thể làm nảy sinh một cuộc chạy đua vũ trang hải quân quy mô lớn với những hệ quả bất lợi cho sự ổn định quốc tế vốn có mối quan hệ mật thiết đến các cuộc chạy đua vũ trang nói chung. Trên lý thuyết, việc tăng cường lực lượng bảo vệ bờ biển song song với các cơ quan dân sự thực thi luật hàng hải khác nên được coi là những hành động không mang tính khiêu khích hay cần lo ngại. Trong lĩnh vực này, Trung Quốc đang thực sự dẫn đầu, điều này cũng nhất quán với sự tái khẳng định về tầm quan trọng của lĩnh vực hàng hải trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 tháng 3/2011. Lực lượng Hải giám Trung Quốc (CMS), mới được thành lập năm 1998, trực thuộc Cục Đại dương Quốc gia, đã bắt đầu xây dựng 36 tàu thanh tra, 54 xuồng máy, và định hướng đến năm 2015 sẽ có 15.000 nhân lực, 16 máy bay, và 350 tàu tuần tra lớn.18 Việc máy bay trực thăng loại 3000 tấn mới chuyên chở tàu tuần tra Haixun 31 thực hiện chuyến hành trình qua Biển Đông đến Singapore được công bố rộng rãi đã thu hút rất nhiều sự quan tâm.19 Thêm vào đó, Bộ Chỉ huy Thực thi Luật đánh bắt cá và Cục An toàn Hàng hải cũng đang xây dựng lực lượng tuần tra riêng của mình. Những nước khác trong khu vực đang theo gót trong phạm vi nguồn lực sẵn có của mình. Ví dụ, Việt Nam liên tục xem xét việc mở rộng khả năng thành lập Lực lượng Kiểm ngư để bảo vệ tàu đánh cá của Việt Nam và ngăn chặn tàu lớn của Trung Quốc hoạt động trong vùng đánh cá của nước này.20 Cơ quan Thực thi luật Hàng hải Malaysia (MMEA) được thành lập tháng 6 năm 2005, với việc chuyển nhượng lại 17 tàu lớn từ Hải quân Hoàng gia Malaysia mặc dù an ninh của 5 thực thể trên Biển Đông vẫn được giao cho Hải quân, và với 2 trong số các tàu Corvette hạng Kedah của nước này đang được triển khai trong khu vực (Khu vực Hải quân II). Dù những tàu này về chức năng thì rõ ràng là ít mang tính khiêu khích hơn tàu chiến, nhưng trên thực tế lại phụ thuộc phần lớn vào cách thức chúng được sử dụng. Nhớ lại, chúng ta có thể thấy rằng sự kiện Impeccable là do thuyền đánh cá và tàu loại này gây ra. Một vài nhà phân tích nhận định rằng, vì những lý do mang tính thể chế hơn là lý do dân tộc chủ nghĩa mà những cơ quan này cảm thấy cần phải “biện minh” cho ngân sách của họ thông qua các hành động quyết đoán hơn. Việc kêu gọi bên ngoài nhập cuộc – để phản ứng lại với những sự mất cân bằng trong khu vực? Phản ứng thứ hai của khu vực đối với những căng thẳng ngày càng lên cao ở Biển Đông là việc kêu gọi các nước ngoài khu vực can dự vào tình hình đang tiến triển ở Biển 18. Yang Fang, China’s new marine Interests: Implications for Southeast Asia, RSIS Commentary, 6/2011. 19. ‘Chinese marine patrol ship Haixun 31 arrives in Singapore for visit’, Xinhuanet 19/6/2011. 20. ‘Chinese fishing boats violate Vietnam waters: gov’t mulls patrol boats’, Thanh Nien Daily, 29/5/2011.
  • 26. Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp Biển Đông 25 Đông. Ví dụ, Việt Nam đã thể hiện xu hướng kêu gọi sự ủng hộ về mặt chính trị từ các quốc gia bên ngoài Đông Nam Á như một cách thức để kiềm chế sự tự do hành động của Trung Quốc, cường quốc lớn nhất khu vực. Tháng 11/2010 việc Việt Nam cho phép các lực lượng hải quân bên ngoài sử dụng các cơ sở vật chất ở Vịnh Cam Ranh (được nâng cấp với sự giúp đỡ chủ yếu của Nga) đã thu hút rất nhiều sự quan tâm, và dường như đã dẫn đến tăng cường sự hiện diện của Nga, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, và Hàn Quốc ở khu vực.21 Lực lượng Đặc nhiệm số 5 của Nga có vai trò mở rộng Hạm đội Viễn Đông vẫn duy trì lợi ích liên tục ở Biển Đông. Cũng đã có biểu hiện của sự xích lại gần nhau giữa Việt Nam và Mỹ thông qua những chuyến thăm của các quan chức hải quân cấp cao của Mỹ đến Việt Nam; giữa Việt Nam và Ấn Độ, nước mà bởi một số lý do riêng, luôn sẵn sàng giữ vai trò lớn hơn trong khu vực, có lẽ là do những lo lắng của họ về vai trò ngày càng tăng lên của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương. Trong bối cảnh này, vụ đồn đại rằng tàu tấn công đổ bộ INS Airavat của Ấn Độ đã bị thách thức trên hành trình về nước sau chuyến thăm Việt Nam tháng 7/2011 có thể cho thấy những quan ngại của Bắc Kinh về sự hiện diện “bất hợp pháp/không chính danh” của tàu chiến nước ngoài ở khu vực mà nước này coi như phần lãnh thổ của mình tại Biển Đông.22 Mặc dù vậy, các lực lượng hải quân nước ngoài vẫn tiếp tục duy trì sự hiện diện quan trọng trong khu vực. Thông qua các cuộc tập trận COBRA GOLD, CARAT và chương trình tập trận Seacat, Hải quân Mỹ thường xuyên tổ chức rất nhiều cuộc diễn tập với các quốc gia Đông Nam Á.23 Gần đây nhất là việc phái một chiếc SSN đến tập trận với Hải quân Malaysia, được cho là để giới thiệu tàu ngầm với Hải quân Hoàng gia Malaysia. Quan hệ hải quân đang được cải thiện ổn định giữa Việt Nam và Mỹ đã đem lại rất nhiều sự quan tâm.24 Cuộc diễn tập ba bên lần thứ tư giữa Mỹ, Nhật và Úc cũng được thực hiện ở Biển Đông ngoài khơi Brunei.25 Bằng các biện pháp như vậy, Mỹ đã thể hiện rằng mình sẵn lòng thay đổi bất cứ ấn tượng nào của bên ngoài về việc nước này có thể xem xét việc giảm vai trò của mình ở Tây Thái Bình Dương, dù là do sự xao nhãng chiến lược hay những điểm yếu rõ ràng trong nền kinh tế Mỹ. Phản ứng như vậy đã được thể hiện qua việc Mỹ cho tàu quay lại chính xác địa điểm nơi xảy ra cuộc chạm trán của tàu Impeccable một tuần sau sự kiện, lần này với sự hộ tống của tàu sân bay DDG USS Chung Hoon. Việc Mỹ tái nhấn mạnh vào châu Á – Thái Bình Dương phần nào cũng là kết quả các nhận định riêng của Mỹ về các biến chuyển gần đây trong chính sách của Trung Quốc cũng như những quan ngại về tác động của nó đối với lợi ích dài hạn của Mỹ ở khu vực. 21. “Twist of fate sees old foes as allies in power tussle”, Financial Times, 15/6/2011. 22. “China confronted Indian warship of Vietnam” Financial Times, 1/9/2011. Mặc dù còn chưa rõ ràng [do trên con tàu không tìm thấy nguồn phát tín hiệu radio] song đây cũng là một sự kiện quan trọng. Vì con tàu (của Ấn Độ) này dường như đang trên đường di chuyển và chưa thực hiện cuộc diễn tập nào, hay thu thập các thông tin quân sự, hoặc đang trong bất kỳ dạng chiến dịch nào, điều này này gây hoài nghi cho các tuyên bố trước đây của Trung Quốc rằng nước này sẽ “tôn trọng sự tự do đi lại của tàu thuyền hoặc máy bay từ các nước liên quan, miễn là điều này phù hợp với luật pháp quốc tế.” Ben Blanchard, “China says Will Respect South Seas Navigation Freedom”, Reuters, 31/7/2010. 23. “US Joins Naval Drill in Southeast Asia”, Xinhuanet, 17/6/2011. 24. “US Vietnam in Exercises Amid Tensions with China”, Wall Street Journal, 16/7/2011. 25. “Joint Drills to be held in S China Sea”, The Yomiuri Shimbun, 9/7/2011.
  • 27. GS. Geoffrey Till 26 Ở hội nghị ASEAN năm 2010 tại Việt Nam, các nước ASEAN đã chuẩn bị để đưa vấn đề Biển Đông ra song song với những nhận xét được trích dẫn rất nhiều của bà Clinton, bỏ ngoài tai những yêu cầu của Bắc Kinh. Sự đồng lòng rõ ràng với Mỹ trong vấn đề này sẽ có thể khiến Trung Quốc mất tinh thần – thậm chí còn gióng hồi chuông cảnh báo cho nước này rằng Bắc Kinh cần nhận thấy Mỹ đã rời bỏ vị trí trung lập trong quá khứ về vấn đề quyền tài phán.26 Tuy nhiên, đây cũng là điều mà các nước ASEAN đều nhận thức được, đó là vấn đề biển trong mối quan hệ đôi khi căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ chỉ là một phần nhỏ trong bức tranh tổng thể và không nhất thiết là sẽ chiếm vị trí chủ yếu trong mối quan hệ Trung-Mỹ. Quan hệ thương mại, nhân quyền, việc bán vũ khí cho Đài Loan, hay cuộc cạnh tranh chiến lược giữa hai nước này mới thực sự quan trọng và là những nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến chính sách của Washington, đến mức các căng thẳng ở Biển Đông có thể chỉ là hệ quả chứ không phải nguyên nhân của mối quan hệ xấu đi giữa hai nước. Vì vậy, một số nước ASEAN tỏ ra lo lắng khi bị cuốn vào một tranh chấp chiến lược không phải do họ gây ra, rằng tranh chấp này không thực sự tập trung vào Biển Đông nhưng lại có thể gây ra hậu quả bất lợi cho nền hòa bình và ổn định của các nước này. Điều này lại càng đúng với các nước ASEAN không có lợi ích trực tiếp trong tranh chấp quyền tài phán ở Biển Đông, như Campuchia, Lào, Thái Lan, và Myanmar. Một vài nước lo lắng rằng Washington có chương trình nghị sự riêng cho sự trở lại của họ ở Biển Đông. Họ lo lắng rằng mục đích của Mỹ là để cạnh tranh với đối thủ lớn nhất là Trung Quốc hơn là xuất phát từ quan ngại cho lợi ích của các quốc gia khu vực, đồng thời họ cũng lo ngại rằng cam kết mang tính ý thức hệ vì nền dân chủ và nhân quyền kiểu Mỹ đôi khi hoàn toàn không phù hợp với tình hình ở một vài quốc gia khu vực. Đánh giá phản ứng của các cường quốc bên ngoài khu vực trong tranh chấp Biển Đông Vậy câu hỏi lại được đặt ra là – tại sao các cường quốc bên ngoài khu vực có xu hướng chấp nhận quan điểm rằng họ nên đóng một vai trò nào đó trong tranh chấp Biển Đông? Có ít nhất 3 lý do cho vấn đề này: 1. Tầm quan trọng về mặt chính trị của tranh chấp Bởi an ninh là một vấn đề chung và không thể chia cắt, việc giải quyết tranh chấp được xem là quan trọng do kết quả của nó có thể ảnh hưởng đến cấu trúc an ninh tương lai của thế giới, và ít nhất ảnh hưởng đến vai trò tương lai của một nước Trung Quốc hùng mạnh hơn trong các vấn đề quốc tế. Dù đúng hay sai, chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông được theo dõi cẩn thận bởi qua đó các nhà quan sát sẽ nắm bắt được nhận thức của Trung Quốc về chính mình và những ý định sắp tới ở khu vực. Tất nhiên, đây chỉ là một trong rất nhiều yếu tố nhưng lại là yếu tố có khả năng định hướng các quan 26. Mark Valencia trong bài viết của mình ở Hội nghị năm 2010 đã chỉ ra tầm quan trọng của cụm từ trong tuyên bố của Clinton: “Những yêu sách chủ quyền hợp pháp ở Biển Đông chỉ nên đến từ các tuyên bố chủ quyền hợp pháp đối với các đảo đất” như là minh chứng cho điều này. ‘The South China Sea: Back to the Future.” “Obama Administration Takes a Tougher Tone with China”, Washington Post, 30/7/2010.
  • 28. Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp Biển Đông 27 niệm không chỉ của các quốc gia láng giềng mà còn có xu hướng củng cố lợi ích của các cường quốc ngoài khu vực. Do đó, Ngoại trưởng Nhật Bản Matsumoto tháng 9/2011 đã phát biểu rằng: Nhật có lợi ích lớn ở các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông bởi chúng có tác động đến hòa bình và an ninh của khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và chúng cũng liên quan mật thiết với việc bảo đảm an ninh hàng hải của khu vực.27 Bởi so với nhiều quốc gia khác, Trung Quốc bị rất nhiều nước coi là thiếu minh bạch trong chính sách đối ngoại, nên người ta tập trung rất nhiều vào hành động của Trung Quốc hơn là chú ý vào điều nước này nói. Tuy vậy, ít nhất là với người ngoài, giọng điệu khá diều hâu của Thời báo Hoàn Cầu lại rất khác với những nhận xét công khai mang tính xoa dịu của lãnh đạo nước này và thường được dẫn chứng minh họa cho những phân tích về trường hợp xấu nhất của những hành động đó. Việc quản lý tranh chấp cũng được xem như một biện pháp giúp nhận rõ quá trình ra quyết định ở Trung Quốc, đặc biệt là chính sách an ninh. Trong thời đại công dân mạng internet – netizen – ngày càng có ảnh hưởng, chính quyền không thể phớt lờ chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy trong dân chúng. Người dân Trung Quốc coi chiến dịch bảo vệ cái mà họ coi là đảo của họ và quyền tài phán của những vùng nước này chính là tiêu chí để đánh giá chính phủ đang quản lý mọi việc như thế nào. Do đó, những hoạt động bất hợp pháp của nước ngoài trong vùng nước được coi là lãnh thổ quốc gia sẽ vấp phải sự phản đối mạnh mẽ.28 Điều này có lẽ là nhân tố chính trong vụ Impeccable.29 Gần đây khi được phóng viên báo Asahai Shimbun hỏi tại sao Trung Quốc lại lo lắng nhiều như vậy về Biển Đông, Đô đốc Ngô Thắng Lợi, Tổng Tư lệnh PLA[N] trả lời: “Bạn sẽ cảm thấy như thế nào nếu tôi cắt cánh tay và chân ra khỏi cơ thể bạn? Đó là cách mà Trung Quốc cảm thấy về Biển Đông.”30 Sự nhạy cảm với các hành động của Trung Quốc càng tăng lên bởi nhận thức chung rằng một sự thay đổi chiến lược lớn trong quan hệ quốc tế đang diễn ra. Do vậy, sự thách thức của Trung Quốc đối với các khái niệm tự do biển cả của Mỹ trở thành vấn đề khá đau đầu với Mỹ, vì nó dường như là dấu hiệu cho sự chuyển dịch quyền lực chiến lược kể từ thời điểm cách đây 15 năm khi Mỹ vẫn còn có thể thoải mái trong vai trò “không thể thiếu” của mình và khả năng “chỉ huy” hệ thống quốc tế.31 Kể từ đó, tấn công khủng bố, các cuộc chiến tranh trên bộ kéo dài ở Iraq và Afghanistan và cuộc “Đại suy thoái” đã xói mòn sự tự tin của nước Mỹ. Hiện nay, thậm chí ngay cả sự thống trị lâu dài của nước này ở Thái Bình Dương dường như cũng đang bị thách thức khi một đối thủ 27. Quoted in ‘South China Sea Dispute: Harbinger of regional Strategic Shift?”, Asahi Shimbun, 10/9/2011. 28. ‘China warns US to Stay Out of Islands Dispute’ New York Times 28/7/2010. Tất nhiên, “Hiệu ứng Netizen” cũng tác động đến các nước yêu sách khác trong tranh chấp Biển Đông. Với Việt Nam, những thay đổi trong các sự kiện đầu năm 2011 đã chứng tỏ điều này. Thomas J. Christensen, “Posing Problems without Catching Up: China’s Rise and Challenges for US Security Policy” International Security, Spring 2011, tr. 5-40. 29. Mastro, op cit, tr. 225. Li Mingjiang, China’s new security posture: Non-confrontational assertiveness, The Straits Times, 19/5/2011. 30. Quoted in William Choong, “Mistrust hurts naval cooperation in region”, The Straits Times, 27/5/2011. 31. Charkles Krauthammer, “America Rules: Thank God” and James Chace, “A Sunlit America Summer”, both in Time, 4/8/1997.
  • 29. GS. Geoffrey Till 28 mới đã xuất hiện trên trận địa. Trong mắt Mỹ, Trung Quốc chỉ là một cường quốc lục địa [và là một cường quốc khá lạc hậu], đang sử dụng sức mạnh biển cả và công nghiệp để tiến vào nơi mà Mỹ đã quen coi là sân sau và từ đó làm giảm ưu thế tuyệt đối trên biển của Mỹ ở Thái Bình Dương. Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng khi Trung Quốc có thể lợi dụng những điểm yếu trên biển của Mỹ tốt hơn là Mỹ có thể lợi dụng các điểm yếu của Trung Quốc trên lãnh thổ của họ. Do đó, sự quyết đoán của Trung Quốc trong những vùng biển gần có thể dễ dàng được coi như biểu tượng của quá trình chuyển đổi quan trọng trong quan hệ giữa các cường quốc và dẫn đến những hành động quá đà. Với Mỹ, khi đó, rất nhiều lợi ích đang và sẽ gặp rủi ro, ít nhất là khả năng duy trì sự thống trị các nguồn lợi chung toàn cầu, điều mà Andrew Hart và Bruce Jones gần đây đã nhắc tới như là… “một yếu tố quan trọng tạo ra vị trí độc tôn cho quân đội Mỹ và bảo đảm vai trò kinh tế Mỹ cũng như của các đồng minh, đồng thời giúp Washington giảm thiểu ảnh hưởng của những thế lực đối lập.”32 Ở Mỹ, người ta tập trung quan ngại này vào khái niệm “Hiện diện tích cực” một vấn đề mà tầm quan trọng của nó liên tục được tái khẳng định trong các văn kiện chính thức của Mỹ. 2. Việc duy trì các mối quan hệ Năm 2009, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã đưa ra một luận điểm quan trọng, rằng có những giới hạn có thể làm suy yếu mạng lưới đồng minh và đối tác gắn với ảnh hưởng của Mỹ ở đây: Khi xem xét các chương trình hiện đại hóa quân đội của những quốc gia như Trung Quốc, chúng ta nên ít chú ý đến khả năng thách thức sức mạnh Mỹ một cách ngang tầm – như máy bay chiến đấu với máy bay chiến đấu, hoặc tàu với tàu – mà nên quan tâm nhiều hơn đến khả năng họ có thể gây cản trở việc tự do đi lại và làm giảm các lựa chọn chiến lược của chúng ta. Đầu tư của họ vào vũ khí chống tàu và tên lửa đạn đạo có thể đe dọa cách Mỹ triển khai sức mạnh và giúp đỡ các đồng minh ở Thái Bình Dương – đặc biệt là các căn cứ không quân và những nhóm tàu sân bay.33 Tầm quan trọng của việc tự do đi lại và sự hiện diện tích cực trong mối quan hệ chính trị của Mỹ với các đồng minh và đối tác trong khu vực là lý do nước này đầu tư vào chiến lược Không-Hải quân [được nói đến sau đây] khá tốn kém và yêu cầu công nghệ cao, mặc dù biết rằng một kế hoạch chiến lược-quân sự rẻ hơn và hiệu quả hơn đối với thách thức từ Trung Quốc vẫn có thể được sử dụng để tạo áp lực cho những tuyến đường giao thông hàng hải và liên lạc của nước này. Nhóm lý do thứ hai giải thích tại sao Mỹ cảm thấy tự do hàng hải quan trọng thì chung chung hơn và ít quen thuộc hơn. Mỹ nhận ra rằng nước này sẽ ngày càng bị thôi thúc trong việc tự mình giải quyết một loạt các nguy cơ khác nhau đối với hệ thống thương mại toàn cầu. Vấn đề rõ ràng nhất của Hải quân Mỹ là sự giảm dần về số lượng tàu chiến mà nước này có thể triển khai ở bất cứ thời điểm nào. Dù sức mạnh quân sự nói riêng có gia tăng, các tàu chiến vẫn chỉ đặt ở một địa điểm tại một thời điểm. Điều 32. Andrew F. Hart and Bruce D. Jones, “How Do Rising Powers Rise?” Survival 12/2010-1/2011. 33. “Race on for next generation of anti-ship missiles” The Straits Times 11/1/2011.
  • 30. Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp Biển Đông 29 này làm giảm mức độ bao quát hằng ngày và đặt ra một vấn đề thực sự về khoảng cách- thời gian trong việc đưa tàu đến các khu vực cần thiết, đặc biệt là khi có thông báo gấp. Đô đốc Mike Mullen cũng đưa ra luận điểm cung cấp tương tự vào năm 2005. Thực tiễn ngày nay là các dàn xếp và mô thức an ninh trong quá khứ không còn đủ cho tương lai. Và những thách thức ngày nay quá đa dạng để có thể giải quyết một mình; chúng cần đến nhiều khả năng và nguồn lực hơn mức mà bất cứ quốc gia đơn lẻ nào có thể đáp ứng.34 Bởi lẽ đại dương trên thế giới, nói theo thuật ngữ của Nga, thì rất rộng lớn. Việc bảo vệ “những tài nguyên chung” chống lại những nguy cơ này đòi hỏi sự hợp tác của các lực lượng hàng hải [cả hải quân và lực lượng bảo vệ bờ biển] trên toàn thế giới: An ninh biển toàn cầu chỉ có thể đạt được thông qua sự hội nhập giữa hợp tác, nhận thức và các sáng kiến ứng phó trên biển ở cấp độ quốc gia và khu vực.35 Do đó, trong những năm gần đây, áp lực ngày càng lớn đối với Mỹ là làm sao để thuyết phục các đối tác và đồng minh cho phép sử dụng tàu và căn cứ quân sự, điều có thể giúp tăng cường vị thế của Mỹ. Các hạn chế về ngân sách mà Hải quân Mỹ đang phải trải qua hiện nay có thể dẫn đến việc Mỹ sẽ coi trọng quan hệ với các cường quốc biển đang trỗi dậy khác ở Châu Á – Thái Bình Dương hơn là các cường quốc đã có vị thế trong Chiến lược hợp tác của nước này năm 2007.36 Cùng lúc đó, ở Trung Quốc cũng đã có sự ghi nhận vai trò của Hải quân Mỹ và Lực lượng Bảo vệ bờ biển trong việc duy trì ổn định toàn cầu, bao gồm khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nơi sự hiện diện của Mỹ có thể được coi là đem đến một số lợi ích cho Trung Quốc, ít nhất là làm giảm khả năng bành trướng của các cường quốc hải quân khác trong khu vực, và đóng góp vật chất cho việc quản lý trật tự trên biển như: chống cướp biển, buôn bán thuốc phiện và người, và ô nhiễm biển.37 Sự hiện diện của Mỹ ở các vùng biển gần Trung Quốc không phải lúc nào cũng bị coi là một trò chơi một mất một còn. Giống như vậy, dù ở mức độ thấp hơn, nhưng chúng ta có thể rút ra rằng các chủ thể khác bên ngoài khu vực như thành viên của Liên minh Châu Âu, Ấn Độ, và Nhật Bản đều có các gói động cơ kinh tế, chính trị và chiến lược để phát triển và duy trì quan hệ của họ với các quốc gia trong khu vực. 3. Yếu tố hàng hải mang tính chiến lược Vấn đề Biển Đông có yếu tố chiến lược rất lớn bởi ngay từ đầu đây là cuộc tranh chấp về quyền tài phán trên biển và khu vực này cũng là tuyến đường lưu thông quan trọng của các tàu buôn, một bộ phận không thể thiếu trong hệ hống thương mại thế 34. Admiral Mike Mullen, in John B. Hattendorf, Seventeenth Annual Seapower Symposium: Report of Proceedings [Newport: Naval war College Press, 2005] tr. 5. 35. NOC2010, tldd, tr.. 36 36. Address of Admiral Jonathan W Greenert to the 20th International Seapower Symposium, 19/10/2011. 37. Wu Xinbo ‘The End of the Silver Lining: A Chinese View of the US-Japanese Alliance, The Washington Quarterly 29, no 1 2005- 06
  • 31. GS. Geoffrey Till 30 giới. Theo bà Clinton thì “Mỹ có lợi ích quốc gia đối với tự do hàng hải, tự do tiếp cận các tài nguyên biển chung ở Châu Á và tôn trọng luật quốc tế ở Biển Đông.”38 Điều này tóm lại thành hai vấn đề cụ thể. Vấn đề thứ nhất liên quan đến tuyến đường lưu thông không bị cản trở của các tàu thương mại mà cả hệ thống thương mại thế giới hoàn toàn phụ thuộc vào. Ngoài ra, đối với Mỹ, cũng như các nước khác, khái niệm tự do ở các vùng biển còn có khía cạnh văn hóa. Trước đây, tư tưởng này đã thâm nhập vào đến chính sách Mỹ kể từ khi thành lập nền Cộng hòa, thậm chí nhiều khi dẫn đến xung đột. Sự tự do trên biển có thể được mô tả bằng thuật ngữ rất văn hoa như sau: Tại đây bạn có thể mở rộng không giới hạn và không có rào cản, tại đây bạn có cả đại dương rộng mở, điều hiện nay là một phương thức liên lạc tuyệt vời của thiên nhiên. Không có các ngọn núi khó vượt qua, không có các sa mạc nóng như lửa đốt, con đường rộng mở… sau đó hãy tưởng tượng ra một con đường dẫn đến mọi nơi và bạn sẽ biết ý nghĩa của những điều tuyệt vời này, giao thông trên biển… An toàn trong thời bình trước mọi mối đe dọa, trừ các hiểm họa thiên nhiên từ biển, sự tự do này, các đường giao thông lớn nhất, đông nhất, rộng mở cho tất cả, được tất cả mọi người sử dụng, có ý nghĩa sống còn đối với xu hướng hiện đại của nền văn minh, là điều mà không ai có thể thách thức.39 Trọng tâm của vấn đề này là khi sự tự do của tuyến đường lưu thông thương mại trên biển bị cản trở, cộng đồng thương thuyền quốc tế chắc chắn sẽ ngay lập tức trở nên lo ngại. Tuy nhiên, có lẽ ở khu vực này tự do hàng hải sẽ không bị cản trở bởi Trung Quốc đã liên tục tìm cách nói rõ rằng sự di chuyển tự do của tàu bè thương mại ở Biển Đông không phải là vấn đề gây tranh cãi. Tướng Trần Bỉnh Đức đã cho rằng: Ở Biển Đông, tự do di chuyển chưa bao giờ là một vấn đề. Nó chỉ là cái cớ làm nhạy cảm thêm vấn đề.40 Trên thực tế, Trung Quốc hiện nay có nhiều lợi ích trong việc đảm bảo di chuyển an toàn cho hơn 74.000 tàu thuyền thương mại qua lại ở eo Malacca và qua Biển Đông mỗi năm. Do đó mối lo ngại quốc tế về sự quan tâm lớn hơn và có tính mâu thuẫn của Trung Quốc đối với các hoạt động thăm dò thương mại của Việt Nam và Philipin trở nên rõ ràng hơn vào khoảng thời gian đầu năm 2011.41 Vào ngày 2/3/2011, 2 thuyền tuần tra của Trung Quốc đã đối đầu với tàu thăm dò MV Veritas Voyager của Philipin (Tàu của Pháp, được đăng ký ở Singapore và được tập đoàn năng lượng Forum Enegy PLC vận hành) ở khu vực Bãi Cỏ Rong (Reed Bank) và yêu cầu tàu này rời đi. Ngày 26/5 và 8/6/2011, tàu của Trung Quốc đã cắt và phá hủy các dây cáp địa chấn mà tàu thăm dò của PetroVietnam đang kéo đi trong khu vực Việt Nam coi là vùng đặc quyền kinh tế của mình.42 Mỹ cũng không đồng tình việc ép các công ty dầu khí phương 38. “Walker’s World: US draws line in sea” United Press International, 26/7/2010. 39. Dixon, W. MacNeile, The Fleets Behind the Fleet (London: Hodder & Stoughton, ?1917) tr. 94-5. 40. “China warns US to stay out of South China sea dispute” Jane’s Defence Weekly, 20/7/2011. 41. Carlyle A. Thayer, China’s New Wave of Aggressive Assertiveness in the South China Sea - Bài nghiên cứu trong hội nghị về an ninh hàng hải ở Biển Đông, CSIS, Washington DC 20-21/6/2011. 42. “Tensions rise in South China Sea” Jane’s Defence Weekly, 22/6/2011; Luận điểm này được nhắc lại trong cuộc đối thoại năm 2011. Một trong ba vụ việc trên do đại tướng Phùng Quang Thanh báo cáo, vụ việc xảy ra “trong vùng
  • 32. Thử nhiệt tầm quan trọng toàn cầu của tranh chấp Biển Đông 31 Tây như BP và ExxonMobil không được tham gia vào các dự án khai thác với Việt Nam.43 Các tranh chấp trong khu vực như vậy cũng có một số tác động nhất định đối với người ngoài cuộc, nhất là các công ty nước ngoài có liên quan. Ví dụ, tàu thăm dò Viking-2, có liên quan trong việc cắt dây cáp lần 2 trong tháng 6/2011 theo báo cáo được đăng ký ở Na-uy.44 Thêm một minh chứng nữa, một công ty của Canada là Talisman Energy và công ty của Pháp CGG Veritas cùng với Forum Energy có trụ sở ở Anh đều là đối tác trong các dự án khai thác của PetroVietnam. Hơn nữa, Ấn Độ cũng ngày càng liên quan nhiều hơn đến việc khai thác dầu trong các khu vực nhạy cảm ở Biển Đông.45 Rõ ràng chính việc quốc tế hóa thăm dò khai thác dầu khí đã biến vấn đề ở Biển Đông thành vấn đề toàn cầu. Bất chấp điều này, vấn đề bất đồng thực sự nằm ở khía cạnh thứ hai của tự do hàng hải, đó là việc di chuyển và hoạt động của các tàu chiến. Bảo vệ điều này rõ ràng là vấn đề ưu tiên chiến lược đối với Mỹ. Đô đốc hải quân Mike Mullen nói “Chúng ta phải tiếp tục có khả năng phản ứng nhanh trong các cuộc khủng hoảng nhân đạo và quyết liệt trong những lúc xảy ra xung đột.”46 Hình thức hiện diện tích cực phụ thuộc vào điều kiện của từng khu vực cụ thể. “Các lực lượng hoạt động theo sứ mệnh, phân bổ trên toàn cầu” được hình thành nhằm đối phó với hàng loạt các nhiệm vụ có yêu cầu thấp hơn, góp phần “duy trì sự ổn định, ngăn chặn khủng hoảng, và chống lại chủ nghĩa khủng bố.” Mặt khác, “các lực lượng chiến đấu tinh nhuệ tập trung theo khu vực” được yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ “khó khăn” hơn như bảo vệ lợi ích sống còn của Mỹ, bảo vệ đồng minh; “… và để cản trở, ngăn chặn và nếu cần thiết thì đánh bại các kẻ thù tiềm ẩn.”47 Tuy nhiên, điểm chung của hai loại sứ mệnh này là sự cần thiết phải hoạt động ở các vùng duyên hải. Tầm quan trọng của khái niệm này trong tư duy chiến lược hải quân của Mỹ lý giải tại sao trước đây Mỹ tham gia nhiều diễn tập tự do hàng hải với “thái độ cương quyết” trong quá khứ như các cuộc tuần tra ở Vịnh Sirte vào giữa những năm 1980 và vụ va chạm có liên quan tới USS Caron với tàu chiến của Liên Xô ở Biển Đen năm 1988.48 Những cuộc tranh chấp giữa Mỹ và Liên Xô ở Biển Đen, với Lybia ở khu vực “đường tử thần” vào những năm 1980, hay với Indonesia về cách hiểu của nước này liên quan đến đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam.” Nhận xét tại cuộc đối thoại Shangri-La của IISS ngày 5 /6/2011 Vụ việc được báo cáo xảy ra cách bờ biển Việt Nam 120 hải lí. 43. Alluded to in Robert Gates’ statement at the Shangri-la Dialogue of 2008. See Clive Schofield and Ian Storey “The South China Sea Dispute: Increasing Stakes and Rising Tensions”, Jamestown Foundation, tháng 11 năm 2009, tr. 39. Luận điểm này được nhắc lại trong cuộc đối thoại năm 2011. Mức độ áp lực của Trung Quốc lên các công ty dầu khí nước ngoài, được báo cáo càng ngày càng rõ trong thời gian gần đây. Wikileaks cho hay. “Beijing pressure intense in South China Sea row”, South China Morning Post, 23/9/2011. 44. “Vietnam accuses China of harassing another boat”, Reuters, 9/6/2011. 45. “India, Vietnam Explore Waters Claimed by China”, Defense News, 10/10/2011. 46. “What I believe: Eight Tenets That Guide my vision for the 21st Century”, Proceedings of the USNI, 1/2006, tr. 14. 47. NOC2010, op cit, tr. 32. 48. Vấn đề này sau đó đã được giải quyết thông qua Hiệp định Xô- Mỹ được ký ngày 23/9/1989 tại Jackson Hole, Wyoming trong đó Liên Xô đồng ý về quyền của Tàu chiến nước ngoài được qua lại “vô hại” những vùng nước có chủ quyền và đổi lại Mỹ đã đồng ý không tham gia thêm nữa vào các hoạt động tự do hàng hải như vậy nữa. Vấn đề gây tranh cãi ở đây là quyền của nước ngoài trong vùng Biển có chủ quyền không phải vùng đặc quyền kinh tế.
  • 33. GS. Geoffrey Till 32 quyền của các quốc gia quần đảo đều là các cuộc tranh chấp về tự do hàng hải, song cũng đồng thời là sự xung đột giữa cách nhìn của khu vực và quốc tế về vai trò của các cường quốc biển. Sự khẳng định về những quyền mà Mỹ cho là của mình được người Mỹ đồng tình bởi thực tế biển cả đều “kết nối” với nhau và chấp nhận hạn chế tự do hàng hải ở một khu vực sẽ tạo tiền lệ khiến nguyên tắc này bị suy yếu đáng kể ở các khu vực khác. Luận điểm tương tự cũng có thể áp dụng cho “không phận quốc tế.”49 Theo đó, tự do hàng hải đã và đang trở thành vấn đề đau đầu giữa Trung Quốc và Mỹ. Theo cách Trung Quốc hiểu về các điều khoản trong UNCLOS, nước này cho rằng tự do hàng hải trong vùng đặc quyền kinh tế của nước khác thì bị hạn chế và có điều kiện hơn so với cách hiểu của Mỹ, đặc biệt là khi các tàu chiến tìm cách sử dụng quyền đó. Các sự kiện gần đây cũng cho thấy rằng Trung Quốc cũng có những điểm yếu như các nước khác, nhất là đối với các hoạt động trái phép của Vệ binh Cách mạng Iran ở vùng Vịnh, sự cướp bóc của các hải tặc Xômali hay như sự mất ổn định và trật tự ở các vùng biển ngoài khơi khác. Là một cường quốc hàng hải đang lớn mạnh với các lợi ích quốc gia ngày càng mở rộng và cộng đồng người Hoa kiều ngày càng phát triển, Trung Quốc đang có mối quan tâm ngày càng lớn đối với tự do hàng hải, đại dương của thế giới như một “nguồn tài nguyên vô hạn” trong việc “bảo vệ hệ thống” toàn cầu. Theo đó, trong cuộc họp ARF vào tháng 7 năm 2011, các quan chức Trung Quốc đề xuất được chủ trì cuộc hội thảo về tự do hàng hải. Tuy nhiên, Bắc Kinh lại tỏ ra lo ngại về tự do hàng hải của các tàu chiến, đặc biệt là trong vùng Đặc quyền Kinh tế.50 Do đó, Thiếu tướng PLA Luo Yuan đã phát biểu: “Cái gọi là sự hiện diện tích cực thực của Mỹ chất có nghĩa là Mỹ được quyền gửi các tàu chiến của nước này đến mọi ngóc ngách của thế giới… Theo cách này, Mỹ thậm chí có thể tuyên bố rằng Hoàng Hải và Biển Đông đều nằm trong ranh giới an ninh của nước này.”51 Trung Quốc chỉ ra rằng tàu sân bay USS George Washington đã chạy trên Hoàng Hải, và máy bay của tàu này có thể vươn tới Bắc Kinh. Nếu tính thêm yếu tố văn hóa chiến lược đặc trưng của Trung Quốc, một quốc gia trong lịch sử dễ bị tổn thương trước các nguy cơ từ biển, không chỉ riêng ở khu vực này và xét đến các hệ quả nghiêm trọng cho Trung Quốc nếu các hoạt động như thế này không bị ngăn chặn, thì sự nhạy cảm của người Trung Quốc đối với các hoạt động và sự xuất hiện trái phép trong “các khu vực biển của Trung Quốc” là điều hoàn toàn có thể hiểu được. 49. “Chinese jets cannot chase spy planes away says US admiral”, The Independent, 27/7/2011. 50. Michael Parkinson, “Collision Course: China and US make waves in South China Sea” Jane’s Intelligence Review 5/2009. ‘China navy criticizes dispatch of US destroyers: state media’ AFP electronic report accessed in http:// www.spacewar.com/reports 16/3/ 2009. For a balanced review of this complex issue see Klein, Natalie, Maritime Security and the Law of the Sea (Oxford: OUP, 2011) tr. 217-224. Klein argues that intelligence gathering in the EEZ is legal, but wonders whether this is desirable (tr. 221). This was also the 2005 view of the regional experts who reviewed the issue in 2005. See Sam Bateman’s introduction to “Prospective Guidelines for Navigation and Overflight in the Exclusive Economic Zone”, 144 Maritime Studies, tr.17, 23. 51. Luyo Yuan, “PLA General: US engaging in gunboat diplomacy”, People’s daily, 12/8/2010. Trích nguồn tại Mani- com, op cit.