SlideShare a Scribd company logo
1 of 24
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ Sở Lý Luận Khoá Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật Hôn
Nhân Và Gia Đình 2014
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH CỦA CÁC VỤ ÁN LY HÔN
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về ly hôn và căn cứ ly hôn
1.1.1. Khái niệm về ly hôn và căn cứ ly hôn.
1.1.1.1. Khái niệm về ly hôn
Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt cuộc đời con
người vì nó được xác lập trên cơ sở tình yêu thương, gắn bó giữa vợ chồng. Tuy nhiên,
trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu
sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn được đặt ra để giải
phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thoát khỏi mâu thuẫn gia đình. Ly hôn là mặt
trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là
hình thức, tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ.
Vấn đề ly hôn được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là khác
nhau. Một số nước cấm vợ chồng ly hôn (theo Đạo thiên chúa), bởi vì theo họ quan hệ vợ
chồng bị ràng buộc thiêng liêng theo ý Chúa. Một số nước thì hạn chế ly hôn bằng cách
đưa ra những điều kiện hết sức nghiêm ngặt. Cấm ly hôn hay hạn chế ly hôn đều trái với
quyền tự do dân chủ của cá nhân.
Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng
của vợ chồng, không cấm hoặc đặt ra những những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly
hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ
chồng khi thực hiện quyền ly hôn của mình. Nhà nước bằng pháp luật không thể cưỡng ép
nam, nữ phải yêu nhau và kết hôn với nhau, thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng phải
chung sống với nhau, phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó giữa
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
họ đã hết và mục đích của hôn nhân đã không thể đạt được. Việc giải quyết ly hôn là tất
yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ chồng,
con cái và các thành viên trong gia đình. Theo Lê-nin: “thực ra tự do ly hôn tuyệt không
có nghĩa là làm “tan rã” những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối
liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong
một xã hội văn minh”. Nhưng bên cạnh đó, ly hôn cũng có mặt hạn chế đó là sự ly tán gia
đình, vợ chồng, con cái. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn, Toà án phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân
và bản chất của quan hệ vợ chồng và thực trạng hôn nhân với nhiều yếu tố khác để đảm
bảo quyền lợi cho các thành viên trong gia đình, lợi ích của nhà nước và của xã hội.
Như vậy, ly hôn chính là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án.
1.1.1.2. Khái niệm về căn cứ ly hôn
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, hôn nhân (trong đó có ly hôn) là hiện
tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi
chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nước, bằng pháp luật (hay
tục lệ) quy định chế độ hôn nhân phù hợp với ý chí của Nhà nước. Tức là Nhà nước bằng
pháp luật quy định những điều kiện nào xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời xác lập trong
những điều kiện căn cứ nhất định mới được phép xóa bỏ (chấm dứt) quan hệ hôn nhân. Đó
chính là căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật của Nhà nước. Như vậy, căn cứ ly
hôn là những tình tiết (điều kiện) được quy định trong pháp luật và chỉ khi có những tình
tiết (điều kiện) đó, Tòa án mới được xử cho ly hôn.
Ly hôn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Do có quan điểm khác nhau về quy
định và giải quyết ly hôn, cho nên căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa có nội dung khác về bản chất so với căn cứ ly hôn do Nhà nước
phong kiến, tư bản đặt ra. Pháp luật của nhà nước phong kiến, tư sản quy định có thể cấm
ly hôn (không quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công nhận quyền vợ chồng được sống tách
biệt nhau (biệt cư) bằng chế định ly thân; bằng hạn chế quyền ly hôn theo thời gian xác lập
quan hệ hôn nhân; theo độ tuổi của vợ chồng; và thường quy định xét xử ly hôn dựa trên
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
cơ sở lỗi của vợ, chồng hay của cả hai vợ chồng (các điều kiện có tính chất hình thức, phản
ánh nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chứ không phải bản chất ly hôn đã tan vỡ). Ngược
lại, pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của
vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn.
Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ
chồng khi thực hiện quyền ly hôn của mình.Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan
hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ, chồng, con cái và các
thành viên trong gia đình.
1.1.2. Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn
Hệ thống pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay đã
quy định căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện, phù hợp, là cơ sở pháp lí để tòa án giải quyết
các án kiện ly hôn.
Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin. Quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin thể hiện quyền tự do kết hôn của nam nữ nhằm xác lập quan
hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn của vợ chồng nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng và
quyền tự do ly hôn theo đúng bản chất của một sự kiện – đó là hôn nhân "đã chết", sự tồn
tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đương nhiên, không phải ý chí của nhà lập pháp, cũng
phải sự tùy tiện của các cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được cuộc
sống hôn nhân này "đã chết" hay chưa... Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện
bản chất của mối quan hệ, theo đó những trường hợp nào về mặt pháp lý hôn nhân được
coi là sự tan vỡ nghĩa là về thực chất, hôn nhân tự nó đã phá vỡ và việc tòa án cho phép
phá bỏ hôn nhân chỉ là việc ghi biên bản công nhận sự tan vỡ bên trong của nó và chỉ khi
nào hôn nhân xét về bản chất không còn là hôn nhân nữa, tòa án mới được xử cho ly hôn.
Sắc lệnh số 159/SL quy định căn cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (Điều 26), Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
(Điều 40), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 89) và hiện nay là Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam trước đây không quy định
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
những căn cứ ly hôn riêng biệt mà quy định căn cứ ly hôn chung nhất, dựa vào bản chất
của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Nhưng với Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có sự
lồng ghép quy định về căn cứ ly hôn vào quy định về thuận tình ly hôn cũng như ly hôn
theo yêu cầu của một bên.
Như vậy, căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 của Nhà nước ta
được quy định dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, có cơ sở khoa học và thực
tiễn kiểm nghiệm trong mấy chục năm qua, từ khi Nhà nước ta ban hành Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1959. Khi giải quyết ly hôn, cần hiểu điều đó nói lên một thực trạng hôn
nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại được nữa, vì “sự tồn tại của nó chỉ là
bề ngoài và giả dối” và ly hôn là một giải pháp tích cực để giải phóng cho vợ chồng cũng
như các thành viên khác trong gia đình khỏi cảnh “bất bình thường” đó, đảm bảo lợi ích
của vợ chồng, của gia đình và xã hội.
1.2. Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định các căn cứ để Tòa án thụ lý
giải quyết yêu cầu ly hôn bao gồm hai căn cứ tại Điều 55 và Điều 56:
1.2.1. Căn cứ ly hôn khi thuận tình ly hôn
Thuận tình ly hôn là trường hợp cả vợ hoặc chồng cùng yêu cầu chấm dứt hôn nhân
được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng.
Theo Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp vợ chồng
cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc
chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền
lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận
được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì
Tòa án giải quyết việc ly hôn”.
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì trong trường hợp hai vợ chồng có
yêu cầu thuận tình ly hôn, sự tự nguyện của hai vợ chồng khi yêu cầu chấm dứt hôn nhân
là một căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân. Bảo đảm“thật sự tự nguyện ly hôn” là
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
cả hai vợ chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của mình, không bị cưỡng ép, không bị lừa
dối trong việc thuận tình ly hôn. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn của hai vợ
chồng đều phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình họ, phù hợp với yêu cầu của pháp
luật và chuẩn mực, đạo đức xã hội.
Cũng trong Điều 55, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trong việc thuận tình ly
hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly hôn của vợ chồng, đòi hỏi hai vợ chồng
còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng không thoả
thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của
vợ và con thì Toà án quyết định giải quyết việc ly hôn.
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án vẫn phải tiến hành
hoà giải, mục đích là để vợ chồng rút đơn yêu cầu ly hôn và đoàn tụ với nhau. Việc cho ly
hôn trong trường hợp thuận tình này đối với Tòa án là không phải dễ, bởi vì khó có thể
định lượng khi chỉ dựa trên yếu tố thỏa thuận tự nguyện thật sự của hai vợ chồng nếu không
xem xét đến các yếu tố tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đến đâu, mức độ ảnh hưởng đến
cuộc sống hôn nhân đến cấp độ nào và gắn với việc thỏa thuận của họ đến đâu về việc
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn. Thực tế, nguyên nhân phát sinh tranh
chấp trong cuộc sống vợ chồng dẫn đến ly hôn hay thuận tình ly hôn cũng là do tình cảm
của vợ chồng bị rạn nứt, một trong hai bên đã không làm tròn nghĩa vụ của mình với gia
đình hay vì tự ái cá nhân hoặc hiểu lầm trong quan hệ của vợ hoặc chồng mình nên đã
quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết cho họ được ly hôn. Nhưng khi có sự giải thích, phân
tích đúng, sai trong quan hệ của họ của người làm công tác hòa giải để khuyên họ nên bỏ
qua những lầm lỗi, tha thứcho nhau để quay lại chung sống với nhau thì họ đã hiểu ra và
quay lại đoàn tụ chung sống với nhau và Tòa án cũng không phải giải quyết về các vấn đề
kéo theo như con và tài sản. Nếu hoà giải thành tức là vợ chồng rút đơn thuận tình ly hôn
thì Toà án lập biên bản hoà giải thành, sau 15 ngày kể từ ngày Toà án lập biên bản hoà giải
thành mà các bên đương sự không thay đổi ý kiến thì Toà án ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án (Điều 10, Điều 186, Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004). Còn khi hoà giải
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
không thành, các bên thực sự tự nguyện ly hôn nhưng không thoả thuận được về việc chia
tài sản hoặc việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì Toà án lập biên bản
về việc hoà giải đoàn tụ không thành và về những vấn đề hai bên không thoả thuận được
hoặc có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con, đồng thời
mở phiên Toà xét xử theo thủ tục chung (điểm d, khoản 2, Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2004).
1.2.2. Căn cứ ly hôn khi ly hôn theo yêu cầu của một bên
Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng, hoặc
cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên
như sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải
quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm
nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn
thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì
Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”
Theo đó, khi ly hôn theo yêu cầu của một bên thì Tòa án cần dựa vào một trong ba căn
cứ sau đây:
Thứ nhất, đối với trường hợp khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa
án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành
vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn
nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn
nhân không đạt được.
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Trước tiên, khi có yêu cầu ly hôn của vợ, chồng, Toà án phải tiến hành điều tra và
hoà giải, nếu hoà giải không thành thì Toà án cần xác định tình trạng của quan hệ hôn nhân,
xem có căn cứ ly hôn không để giải quyết. Việc giải quyết ly hôn cần phải chính xác. Nếu
xét xử đúng, kết quả đó sẽ phù hợp với nguyện vọng của các bên, bảo vệ quyền và lợi ích
của các thành viên trong gia đình. Ngược lại, nếu việc giải quyết không chính xác sẽ dẫn
tới tan vỡ hạnh phúc gia đình, phá huỷ một cuộc hôn nhân còn có thể cứu vãn được và gây
ra hậu quả không đáng có. Mặt khác, giải quyết ly hôn cũng đòi hỏi sự linh hoạt trong việc
vận dụng căn cứ ly hôn đối với mỗi trường hợp cụ thể.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung điểm mới khi cho ly hôn khi có
hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng. Như
vậy, luật hiện hành quy định rất rõ “bạo lực gia đình” là căn cứ để giải quyết cho ly hôn.
Bởi qua tổng kết thực tiễn giải quyết các án kiện ly hôn của Toà án cho thấy số vụ ly hôn
có hành vi ngược đãi, đánh đập chiếm tỉ lệ cao nhất trong các nguyên nhân dẫn đến ly hôn
ở nước ta trong đó thì đa phần phụ nữ là nạn nhân của tình trạng này. Tình trạng bạo lực
trong gia đình ngày càng gia tăng và thể hiện tính chất nghiêm trọng của nó. Tình trạng
bạo lực trong gia đình xảy ra do nhiều lý do khác nhau. Có trường hợp do cuộc sống vật
chất quá khó khăn. Có trường hợp do ghen tuông, nghi ngờ một bên ngoại tình nên đã đánh
đập nhau. Tệ cờ bạc, nghiện ngập cũng là lý do dẫn đến tình trạng vợ chồng đánh đập,
ngược đãi nhau. Đa phần bạo lực trong gia đình dẫn đến tình trạng vợ chồng ly hôn, có
trường hợp dẫn đến án mạng. Bên cạnh đó, đối với những vi phạm khác, những mâu thuẫn,
xung đột, bất đồng trong đời sống vợ chồng... là lý do để ly hôn thì luật cũng quy định rõ
ràng phải có cơ sở nhận định chung rằng tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì mới giải quyết cho ly hôn.
Như vậy, rõ ràng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đưa yếu tố lỗi để xem xét
cho ly hôn, qua đó thể hiện sự tiếp thu quy định của một số nước trên thế giới khi có sự kết
hợp giữa thực trạng của hôn nhân và yếu tố lỗi để giải quyết việc ly hôn. Cụ thể là theo Bộ
Luật Dân sự Cộng hòa Pháp (Luật số 65-570 năm 1965), Điều 243 quy định: “Vợ hoặc
chồng có thể xin ly hôn khi nêu ra toàn bộ những sự việc bắt nguồn từ bên vợ hoặc chồng
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
làm cho cuộc sống chung không thể tiếp tục”. Theo quy định này, một bên vợ hoặc chồng
làm đơn đến Toà án xin ly hôn trong đó có nêu lỗi của bên kia và nếu bên kia thừa nhận
lỗi trước Toà thì Toà sẽ tuyên ly hôn và theo Điều 230 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp quy
định:“Nếu hai vợ chồng cùng xin ly hôn thì không phải nói rõ lý do”, trong trường hợp
này, căn cứ cho ly hôn được xác định nếu việc ly hôn do một bên xin với lý do bên kia làm
cho cuộc sống chung không thể tiếp tục và bên kia chấp nhận thì thẩm phán tuyên bố cho
ly hôn mà không cần xem xét với yếu tố lỗi. Như vậy, trong trường hợp này ly hôn được
giải quyết theo sự thoả thuận của đương sự. Điều đó cũng phù hợp với bản chất của hôn
nhân khi pháp luật của Pháp coi hôn nhân là một hợp đồng như những hợp đồng dân sự
khác. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự Pháp cũng có xét đến tình trạng hôn nhân trên thực tế của
vợ chồng, Toà án sẽ xử cho ly hôn, nếu tính tình của một người đã thay đổi đến mức không
thể sống chung được nữa và theo những dự đoán có lý nhất, không thể được khôi phục
trong tương lai. Bên cạnh việc xác định về tình trạng đời sống chung tan vỡ, còn phải xét
đến thời gian sống riêng biệt của hai vợ chồng, pháp luật quy định khoảng thời gian đó là
6 năm (Điều 237 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp). Ở Canađa, luật pháp về ly hôn có sự kết
hợp giữa căn cứ ly hôn trong việc xác định yếu tố lỗi và thực trạng hôn nhân. Hôn nhân
được coi là tan vỡ khi hai vợ chồng sống riêng rẽ đã hơn một năm và lí do là hôn nhân bị
rạn nứt, khi hai vợ chồng có quan hệ ngoại tình với người khác hoặc khi vợ hoặc chồng có
đối xử ngược đãi cả về tinh thần lẫn thể chất làm bên kia không thể chịu đựng được. Trường
hợp đó Toà án sẽ cho ly hôn. Còn theo Luật Hôn nhân và gia đình ở Singapore, ly hôn chủ
yếu dựa vào yếu tố lỗi trong đó việc xác định hôn nhân tan vỡ, không thể phục hồi căn cứ
vào việc một bên ngoại tình thông dâm mà bên kia không thể tha thứ, khoan dung để chung
sống với nhau được, một bên bị tệ bạc quá đáng, có sự ruồng bỏ không chung sống liên tục
trong 2 năm và không có ý định quay trở lại hoặc đã ly thân trong 3 năm (nếu bên kia đồng
ý), 4 năm (nếu bên kia không chấp nhận). Theo Bộ luật Dân sự Nhật Bản, chồng hoặc vợ
có thể ly hôn nhưng qua thoả thuận hoặc theo trình tự xét xử. Đối với trường hợp ly hôn
theo trình tự xét xử, chồng hoặc vợ chỉ có quyền kiện đòi ly hôn trong những trường hợp
sau: Nếu một trong hai người bị người kia ngược đãi, hành hạ thậm tệ; một trong hai người
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
có hành vi không chung thuỷ; nếu một trong hai người trong 3 năm liền không rõ còn sống
hay đã chết; một trong hai người bị bệnh tâm thần mà không có khả năng chữa trị; tồn tại
lý do dẫn đến các bên không thể tiếp tục hôn nhân.
Mục đích của hôn nhân nói chung xuất phát từ bản chất của hôn nhân. Toà án không
thể dựa vào mục đích của hai người kết hôn mà xem xét có đạt được hay không để giải
quyết ly hôn. Phần lớn mục đích của nam và nữ trước khi kết hôn là hướng tới xây dựng
gia đình hạnh phúc, bền vững nhưng cũng có nhiều cuộc hôn nhân được xác lập bắt đầu từ
những mục đích khác nhau. Dù cho họ từng kết hôn với mục đích nào đi chăng nữa thì mục
đích của hôn nhân bền vững, hạnh phúc vẫn là tiêu chuẩn cao nhất mà bất kỳ ai kết hôn
cũng hướng tới. Tuy nhiên, mục đích của vợ hay chồng đôi khi cũng ảnh hưởng tới cuộc
sống gia đình nếu như nó không đạt được sau khi kết hôn. Mục đích của hai người không
phải bao giờ cũng giống nhau. Hôn nhân có thể đem đến cho người này nhưng lại không
làm thoả mãn mục đích của người kia hoặc cả hai người. Vì vậy, điều cần thiết là phải hiểu
được mục đích của hôn nhân. Nhà làm luật ở đây muốn nói đến mục đích cốt lõi của hôn
nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Hôn nhân với mục đích rất phong phú và
có thể thay đổi nhưng mục đích của hôn nhân lại mang tính cố định duy nhất. Bất cứ một
cuộc hôn nhân nào, nếu không đạt được mục đích đó thì việc duy trì nó là không cần thiết
và vợ chồng có thể được ly hôn.
Thứ hai, đối với trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích
yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Tuyên bố một người mất tích là một sự kiện pháp lý nhằm xác định một người cụ
thể “hoàn toàn không rõ tung tích, cũng không rõ còn sống hay đã chết” (theo từ điển tiếng
Việt). Theo quy định tại Điều 78 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Khi một người biệt tích 2 năm
liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn
sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể
tuyên bố người đó mất tích….” Khoản 2 Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
cũng quy định về căn cứ cho ly hôn có đề cập tới trường hợp yêu cầu ly hôn khi một trong
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
hai người mất tích như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên
bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.”.
Trường hợp đồng thời yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích và yêu cầu Tòa án giải
quyết ly hôn, cần lưu ý Tòa án chỉ giải quyết cho ly hôn có bằng chứng chứng minh được
chồng hoặc vợ đã biệt tích từ hai năm trở lên kể từ ngày có tin tức cuối cùng về chồng (vợ),
mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật
tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết.
Việc tuyên bố cá nhân mất tích có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó góp phần bảo vệ lợi ích
của cá nhân cũng như các chủ thể có liên quan. Việc xác định đúng điều kiện và hậu quả
pháp lí của các tuyên bố này là cơ sở đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể, đồng thời góp
phần thực hiện có hiệu quả nhưng quy định của pháp luật trong tuyên bố các cá nhân mất
tích
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã ảnh hưởng sâu sắc
tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Cần phải giải phóng chồng thoát
khỏi “hoàn cảnh đặc biệt” này, khi họ có yêu cầu được ly hôn với người chồng (vợ) đã bị
tòa án tuyên bố mất tích.
Thứ ba, đối với trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của
Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo
lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia
Theo đó, theo quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình thì có thể xin ly hôn thay
cho người thân và luật cũng quy định cụ thể về lý do xin ly hôn, trong đó bạo lực gia đình
là một lý do, căn cứ để người chồng hoặc người vợ có quyền yêu cầu tòa án cho ly hôn. Cụ
thể tại Khoản 2, Điều 51 trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định như sau: 2.
Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ,
chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Như vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có quyền yêu cầu tòa án giải quyết
ly hôn như trước đây thì kể từ nay, căn cứ để cha, mẹ, người thân thích khác cũng có quyền
yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của
bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng,
sức khỏe, tinh thần của họ.
1.3. Các quy định pháp luật áp dụng
1.3.1 Pháp luật nội dung áp dụng giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình các vụ
án ly hôn
Hôn nhân và gia đình là các hiện tượng xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội loài người. HN&GĐ biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa vợ chồng,
giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên trong gia đình. Trong xã hội có giai cấp quan
hệ HN&GĐ bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị và pháp luật chính là công cụ thể
hiện ý chí đó của giai cấp thống trị. Vì thế luật HN&GĐ ra đời.
Luật HN&GĐ là một ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực
HN&GĐ, cụ thể là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và
con cái, giữa những người thân thích ruột thịt khác được hình thành trên cơ sở hôn nhân,
huyết thống và nuôi dưỡng.
Cùng với sự phát triển của lịch sử đất nước thì pháp luật về HN&GĐ cũng có những
thay đổi phù hợp với điều kiện xã hội qua từng thời kỳ. Luật HN&GĐ đầu tiên ở nước ta
ra đời năm 1959 được QH thông qua ngày 29/12/1959 và có hiệu lực ngày 13/01/1960, đến
năm 1986 thì được sửa đổi và bổ sung và đến ngày 29/12/1986 Luật HN&GĐ 1986 được
QH thông qua có hiệu lực ngày 03/01/1987 và để phù hợp vời tình hình kinh tế _ xã hội
trong giai đoạn mới, Luật HN&GĐ 2000 được kỳ họp thứ 7, QH khóa 10 thông qua ngày
6/9/2000 và có hiệu lực ngày 01/01/2001 thay thế luật HN&GĐ năm 1986. Luật hôn nhân
và gia đình số 52/2014/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015.
Cùng với sự ra đời của luật HN&GĐ 2014, thì các văn bản hướng dẩn thi hành cũng được
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
ban hành đó là các nghị định, nghị quyết, pháp lệnh… nhằm góp phần hoàn thiện quy định
của pháp luật khi điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ.
Ly hôn là một mặt của quan hệ HN&GĐ và được pháp luật HN&GĐ điều chỉnh. Nếu
như kết hôn là sự kiện bình thường, là thời điểm đầu tiên của hôn nhân thì ly hôn là việc
chấm dứt quan hệ vợ chồng do một bên vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng thuận tình
được Tòa án giải quyết cho ly hôn bằng một quyết định thuận tình ly hôn hay bằng một
bản án cho ly hôn có hiệu lực pháp luật. Nó là mặt trái, mặt bất bình thường của hôn nhân,
đây là việc mà cả nam và nữ khi kết hôn cũng như gia đình, xã hội không mong muốn xãy
ra, nhưng nó lại là mặt không thể thiếu trong quan hệ HN&GĐ. Sở dỉ không thể thiếu là
bởi ly hôn không phải luôn luôn chỉ là mặt tiêu cực khi chấm dứt quan hệ vợ chồng, gia
đình ly tán, tài sản phân chia, con cái không được ở cùng bố mẹ để rồi thiếu sự chăm sóc…
bên cạnh mặt trái đó thì ly hôn là sự giải thoát an toàn cho những cặp vợ chồng khi quan
hệ vợ chồng đã đến mức tan vỡ, nó giải phóng cho vợ và chồng ra khỏi những cơn xung
đột gia đình. Tuy nhiên Nhà nước bảo hộ hôn nhân, bảo đảm quyền tự do ly hôn của vợ
chồng không có nghĩa là giải quyết ly hôn tùy tiện, theo ý chí, nguyện vọng của vợ chồng
muốn sao làm vậy, mà phải bằng pháp luật, Nhà nước kiểm soát việc giải quyết ly hôn. Ly
hôn phải dựa vào những căn cứ mà pháp luật quy định cho phép ly hôn. Hệ thống pháp luật
HNGĐ của nước ta từ năm 1945 đến nay quy định căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện hơn,
Luật HN&GĐ 1959 quy định căn cứ ly hôn tại Điều 26, Luật HN&GĐ 1986 quy định tại
Điều 40, Luật HN&GĐ 2000 quy định tại Điều 89, Luật HN&GĐ 2014 quy định tại Điều
55 và Điều 56. Dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, các điều luật không quy
định căn cứ riêng biệt mà quy định thống nhất dù hai bên thuận tình ly hôn hoặc một bên
vợ hoặc chồng yêu cầu “đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt
được” thì Tòa án cho ly hôn.
Ly hôn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Do có sự khác nhau trong quan điểm,
về việc quy định và giải quyết ly hôn, cho nên căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật
của Nhà nước XHCN có nội dung khác về bản chất so với căn cứ ly hôn do nhà nước phong
kiến, nhà nước tư sản đặt ra. Luật HN&GĐ các nước XHCN quy định giải quyết việc ly
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
hôn theo đúng thực chất của vấn đề, hoàn toàn không dựa vào lỗi của vợ, chồng, trên cơ
sở nhìn nhận khách quan, đánh giá đúng thực chất của quan hệ hôn nhân đã hoàn toàn tan
vỡ.
Nhìn chung Nhà nước ta quy định về căn cứ ly hôn là rất khoa học, bảo vệ lợi ích
chính đáng của các đương sự. Ý chí của vợ chồng không phải là điều kiện quyết định để
phá bỏ hôn nhân mà việc giải quyết ly hôn phải căn cứ vào điều kiện trong luật HN&GĐ.
Trong ly hôn, ngoài căn cứ ly hôn hay điều kiện ly hôn thì một vấn đề được các nhà
làm luật quan tâm nữa đó là hậu quả pháp lý khi ly hôn.
Ly hôn chính là nguyên nhân dân đến hậu quả làm tan vỡ gia đình từ đó làm ảnh
hưởng đến một phần đời sống xã hội. Vì vậy dưới bất kỳ xã hội nào, Nhà nước cũng quan
tâm đến việc giải quyết ly hôn và hậu quả của nó. Đối với những xã hội khác nhau thì mục
đích điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề HN&GĐ nói chung cũng như việc ly hôn và
giải quyết hậu quả của nó nói riêng là hoàn toàn khác nhau.
Trong thực tế, nhìn chung các vụ kiện về HN&GĐ là không đơn giản, nhất là việc
giải quyết ly hôn đã phức tạp thì việc giải quyết hậu quả của nó càng phức tạp hơn. Bởi vì
nó không chỉ đụng chạm đến quyền lợi của các bên đương sự về mặt vật chất mà còn đụng
chạm đến tình cảm vợ chồng, giữa cha, mẹ và con cái. Vì vậy Nhà nước ta đã có những
quy định chặt chẽ vấn đề này. Đó là quan hệ nhân thân giữa vợ chồng, quan hệ tài sản và
quan hệ cha, mẹ và con. Khi bản án, hay quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp
luật thì quan hệ vợ chồng chấm dứt, người vợ, chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người
khác, sau khi ly hôn các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt hoàn
toàn, dù vợ, chồng có thỏa thuận hay không thỏa thuận thì Tòa án cũng sẽ quyết định. Về
vấn đề tài sản, đây là một vấn đề khá phức tạp nên luật quy định khá rõ ràng. Như vậy,
những quy định của pháp luật nội dung đã tạo khung pháp lý cho các đương sự trong vụ án
ly hôn biết được quyền và nghĩa vụ của mình, đảm bảo sự công bằng về lợi ích của các bên
đương sự đồng thời giải phóng cho vợ, chồng (đặc biệt là người vợ) khi quan hệ hôn nhân
thực sự không còn, góp phần ổn định đời sống mới cho mỗi đương sự.
1.3.2. Các tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Tranh chấp về hôn nhân và gia đình là những tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi
ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
Thông thường, các bên tranh chấp có quan hệ thân thích trong gia đình nên trong
việc giải quyết, pháp luật thường đề cao sự thỏa thuận của các bên. Trong trường hợp các
bên đã khởi kiện ra tòa án nghĩa là mâu thuẫn giữa các bên đã tới mức không thể hòa giải
được, họ cần có một cơ quan tài phán để giải quyết. Việc xác định những tranh chấp về
hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án là cơ sở pháp lý để tòa án thụ
lý vụ việc, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cụ thể, theo quy định tại Điều
28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tòa án có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về
hôn nhân và gia đình sau:
1.3.2.1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, chia tài sản sau khi ly
hôn
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực của
tòa án. Khác với yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn được giải quyết theo thủ tục việc dân
sự, việc giải quyết theo thủ tục vụ án dân sự được áp dụng trong các trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất, một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn
Căn cứ ly hôn được áp dụng trong trường hợp này là việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia
đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt
được; hoặc một bên vợ hoặc chồng bị tòa án tuyên bố mất tích. Hành vi bạo lực gia đình
hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng có thể dưới nhiều hình thức,
mức độ khác nhau nhưng khi đánh giá tình trạng vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được phải dựa trên cơ sở: mẫu
thuẫn giữa vợ và chồng đã sâu sắc đến mức không thể hòa giải; vợ chồng không còn yêu
thương nhau; vợ chồng không thể tiếp tục chung sống;…
Quyết định tuyên bố mất tính của tòa án cũng được coi là căn cứ ly hôn nếu người
vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích yêu cầu được ly hôn. Khi vợ hoặc chồng bị
tuyên bố mất tích có nghĩa là họ đã biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
các biện pháp thông báo, tìm kiếm mà vẫn không có tin xác thực về việc người đó còn sống
hay đã chết.
Trường hợp thứ hai, cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu ly hôn khi một bên vợ,
chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành
vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Trong đời sống xã hội, nhiều trường hợp khi một bên vợ hoặc chồng bị mắc bệnh
tâm thần hoặc mắc các bệnh khác dẫn đến không nhận thức và điều khiển hành vi mà người
chồng hoặc vợ còn lại có hành vi ngược đãi, hành hạ họ, phá tán tài sản của họ nhưng họ
không thể yêu cầu ly hôn do không có khả năng thể hiện ý chí tự nguyện thì quyền lợi của
họ sẽ rất khó để đảm bảo. Do đó, khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
đã quy định quyền yêu cầu ly hôn của cha, mẹ, người thân thích khác để bảo vệ quyền lợi
cho họ trong trường hợp này. Cha, mẹ có quyền yêu cầu có thể là cha đẻ, mẹ đẻ; cha nuôi,
mẹ nuôi; cha chồng, mẹ chồng; cha vợ, mẹ vợ. Người thân thích khác là những người
không phải cha, mẹ (đã kể trên) mà có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng dòng
máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời.
Trường hợp thứ ba, một bên vợ hoặc chồng hoặc thuận tình ly hôn nhưng các bên không
thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con
hoặc có thỏa thuận được nhưng không đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con.
Căn cứ ly hôn trong trường hợp này là sự “thực sự tự nguyện ly hôn”. Sự thực sự tự
nguyện ly hôn này được thể hiện thông qua việc vợ chồng cùng ký vào đơn công nhận
thuận tình ly hôn xuất phát từ mong muốn, tình cảm của họ mà không phải là ly hôn giả
tạo hoặc bị bất cứ ai cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn. Nếu họ đã thực sự tự nguyện ly hôn,
thỏa thuận được về vấn đề con chung, tài sản chung và thỏa thuận này đảm bảo quyền và
lợi ích chính đáng của vợ, con thì tòa án sẽ ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Hiện
nay chưa có hướng dẫn cụ thể thỏa thuận như thế nào được coi là đảm bảo quyền lợi chính
đáng của vợ, con nên có thể áp dụng tương tự pháp luật trong trường hợp chia tài sản khi
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
ly hôn, tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên,
con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động, không
có tài sản để tự nuôi mình. Ngược lại, nếu họ không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận
nhưng không đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của vợ, con thì tòa án ra quyết định
đình chỉ giải quyết việc dân sự công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài
sản khi ly hôn. Đồng thời, việc các bên không thỏa thuận hoặc thỏa thuận nhưng không
đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ, con được coi như tình tiết mới có tính chất “có tranh
chấp” nên tòa án phải thụ lý vụ án để giải quyết nhưng không phải thông báo về việc thụ
lý vụ án và không phải phân công lại thẩm phán giải quyết vụ việc. Như vậy, trong trường
hợp này, tòa án được chủ động chuyển từ thủ tục giải quyết việc dân sự sang thủ tục giải
quyết vụ án dân sự mà không cần đơn yêu cầu của đương sự, tạo sự thuận tiện cho người
dân, đơn giản và rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng.
Thông thường, khi ly hôn, vợ chồng thường yêu cầu tòa án chia tài sản chung của
họ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, có nhiều cặp vợ chồng có những tài sản họ không muốn
hoặc không thể yêu cầu tòa án giải quyết chia đồng thời với việc ly hôn. Ví dụ: vợ hoặc
chồng dùng tài sản chung của vợ chồng góp vốn vào công ty hợp danh, khi chưa có sự chấp
thuận của các thành viên còn lại, người này không được quyền chuyển một phần hoặc toàn
bộ phần vốn góp của mình… Sau khi quyết định, bản án cho ly hôn của tòa án có hiệu lực
pháp luật, các bên mới yêu cầu chia tài sản chung những phần tài sản chưa chia đó. Do
không quy định về thời hiệu yêu cầu chia tài sản chung nên khi các bên có yêu cầu, tòa án
vẫn phải thụ lý để giải quyết. Nhưng do Bộ luật Tố tụng dân sự 2011 chỉ quy định về thẩm
quyền của tòa án trong việc giải quyết chia tài sản khi ly hôn, tòa án phải thụ lý vào nhóm
quan hệ tranh chấp quyền sở hữu trong khi bản chất thì loại tranh chấp này phát sinh trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Việc Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 bổ sung tranh chấp về
chia tài sản chung sau khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án là rất phù hợp với
thực tiễn.
Về nguyên tắc, những tài sản chưa được phân chia vẫn được xác định là tài sản
thuộc sở hữu chung hợp nhất và các bên vẫn là đồng chủ sở hữu cho dù họ không phải là
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
vợ chồng. Do đó, trong việc giải quyết tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn, tòa án vẫn
phải áp dụng các quy định về chia tài sản khi ly hôn.
1.3.2.2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Khi quan hệ hôn nhân đang tồn tại, vợ, chồng muốn được chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân vì rất nhiều lý do: muốn đầu tư kinh doanh riêng; thực hiện nghĩa vụ dân
sự riêng; bảo vệ đời sống chung của gia đình khi một bên vợ hoặc chồng lâm vào các tệ
nạn xã hội, có hành vi phá tán tài sản gia đình; ngoại tình, đem tài sản chung của gia đình
cho người khác; vợ và chồng có mâu thuẫn trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản
chung; hoặc chỉ đơn giản, vợ chồng muốn độc lập về tài sản… Trong những trường hợp
đó, không cần phải nêu ra bất cứ lý do gì, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần
hoặc toàn bộ tài sản chung (trừ trường hợp quy định tại Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014), nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết trong những trường
hợp sau:
- Một bên vợ hoặc chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng
bên còn lại không muốn.
- Cả hai bên vợ chồng đều yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng
không thỏa thuận được về phần tài sản đem chia, cách chia, tỷ lệ phân chia…
Khi có yêu cầu của vợ, chồng hoặc của cả hai vợ chồng, tòa án sẽ thụ lý và áp dụng
nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng như khi ly hôn để giải quyết. Ngoài vợ, chồng,
không một chủ thể nào khác có quyền yêu cầu tòa án chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân. Việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực kể từ ngày bản án,
quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật. Sau đó, nếu hai vợ chồng muốn chấm dứt hiệu
lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, phải yêu cầu tòa án công nhận thỏa
thuận chấm dứt hiệu lực.
1.3.2.3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Sau khi quyết định hoặc bản án cho ly hôn của tòa án có hiệu lực pháp luật, theo
thỏa thuận của hai bên hoặc phán quyết của tòa án, con chung sẽ được giao cho một bên
trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Người còn lại phải cấp dưỡng cho con và được thăm nom
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
con, không được quyền nuôi con vì nhiều lý do, phổ biến nhất là không đủ điều kiện nuôi
con bằng người còn lại. Tuy nhiên, không phải người này không thể trực tiếp nuôi dưỡng
con cho đến khi con trưởng thành. Sau khi ly hôn, pháp luật cho phép họ có cơ hội giành
lại quyền nuôi con bằng quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo
đó, nếu cha, mẹ thỏa thuận được về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi
ích của con thì thỏa thuận này phải được lập thành văn bản, được tòa án công nhận. Nếu
có tranh chấp về vấn đề này, tòa án sẽ quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con khi
xét thấy người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc,
giáo dục con sau khi tham khảo ý kiến của con từ 07 tuổi trở lên.
Người có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn bao gồm:
cha, mẹ; người thân thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước
về trẻ em; hội liên hiệp phụ nữ. Người yêu cầu thay đổi người nuôi con phải cung cấp
chứng cứ để chứng minh người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện để chăm sóc tốt
cho con, có thể là:
- Không có chỗ ở ổn định.
- Không có thu nhập ổn định (tiền lương, tiền công lao động hoặc thu nhập đều đặn
khác) và tài sản hợp pháp khác (sổ tiết kiệm, chứng khoán, vốn góp đầu tư, đất đai…).
- Không dành thời gian cho con (công việc quá bận rộn, thường xuyên phải đi xa,
thường xuyên để con cho người khác chăm sóc…).
- Khả năng chăm sóc và hiểu con (cách xử lý khi con ốm, con đánh nhau; hiểu về
các sở thích, thói quen của con, mắng chửi, nặng lời với con, dùng bạo lực về thể xác với
con…).
- Có lối sống đồi trụy; phá tán tài sản của con; xúi giục, ép buộc con làm những việc
trái pháp luật và đạo đức xã hội.
1.3.2.4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc xác
định cha, mẹ, con là cơ quan đăng ký hộ tịch và tòa án. Trong đó, tòa án có thẩm quyền
giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp; hoặc người được yêu
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết; và trường hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ,
con mà người có yêu cầu chết, người thân thích của người này yêu cầu tòa án xác định cha,
mẹ, con cho người yêu cầu đã chết. Cụ thể, tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc
xác định con cho cha mẹ được tòa án giải quyết theo thủ tục vụ án dân sự bao gồm:
- Nếu người yêu cầu và người được yêu cầu xác định là cha, mẹ cho con hoặc con
cho cha, mẹ có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì tranh chấp về xác định cha, mẹ, con là
khi một bên không đồng ý với yêu cầu. Do đó, người yêu cầu trong trường hợp này phải là
người từ đủ 18 tuổi trở lên, không thuộc trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc
có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi.
- Nếu người được yêu cầu là người chưa thành niên, đã thành niên nhưng mất năng
lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi thì tranh chấp
về xác định cha, mẹ, con là khi người đại diện hợp pháp cho người được yêu cầu không
đồng ý với yêu cầu.
- Nếu người yêu cầu là người đại diện hợp pháp cho người chưa thành niên, đã thành
niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức và điều khiển
hành vi thì tranh chấp về xác định cha, mẹ, con là khi người được yêu cầu không đồng ý
với yêu cầu. Người đại diện hợp pháp trong trường hợp này có thể là: cha, mẹ, con, người
giám hộ; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; hội
liên hiệp phụ nữ.
1.3.2.5. Tranh chấp về cấp dưỡng
Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân,
huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người
đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc là
người gặp khó khăn, túng thiếu. Những người có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau
là những người có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau (trừ trường hợp cấp dưỡng giữa vợ
và chồng khi ly hôn), bao gồm: cha, mẹ và con; anh, chị và em; ông bà nội, ông bà ngoại
và cháu; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; vợ và chồng. Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
chính là nghĩa vụ phái sinh từ nghĩa vụ nuôi dưỡng khi những người có nghĩa vụ nuôi
dưỡng không sống chung với nhau.
Khi có yêu cầu của những người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
(người được cấp dưỡng; cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó; người thân thích; cơ
quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; hội liên hiệp phụ
nữ), tòa án phải thụ lý và giải quyết một trong các tranh chấp sau:
- Người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện nghĩa vụ đó trong khi có khả năng
thực hiện nghĩa vụ đó.
- Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ đó. Trốn tránh thực hiện nghĩa
vụ nuôi dưỡng có thể hiểu là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không sử dụng tài sản của bản
thân hoặc không lao động tạo thu nhập để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của người được
nuôi dưỡng.
- Người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó yêu cầu thay đổi mức
cấp dưỡng nhưng người có nghĩa vụ cấp dưỡng không đồng ý; hoặc người có nghĩa vụ cấp
dưỡng yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nhưng người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ
của người đó không đồng ý. Yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng chỉ được áp dụng khi phương
thức cấp dưỡng là định kỳ.
- Người được cấp dưỡng yêu cầu cấp dưỡng bổ sung nhưng người có nghĩa vụ cấp
dưỡng không đồng ý. Về nguyên tắc, nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng đã thực hiện xong
việc cấp dưỡng theo phương thức một lần thì nghĩa vụ cấp dưỡng đã chấm dứt. Sau đó,
người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng do bị tai nạn hoặc bị mắc
bệnh hiểm nghèo mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn có khả năng thực tế để tiếp tục cấp
dưỡng thì người được cấp dưỡng có thể yêu cầu được cấp dưỡng bổ sung. Trường hợp này
trước đây được hướng dẫn tại Điều 9 Nghị định 70/2001/NĐ-CP, tuy nhiên, hiện nay, chưa
có quy định tương ứng để giải quyết vấn đề này.
1.3.2.6. Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo
Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Khi người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, con sinh
ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân hoặc sinh ra
trong vòng 300 ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt được coi là con chung của vợ chồng.
Nếu người phụ nữ độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, người phụ nữ đó là mẹ
của con được sinh ra. Nguyên tắc này được áp dụng trong cả trường hợp con sinh ra không
có huyết thống với cha hoặc với mẹ hoặc với cha và mẹ (do phải xin tinh trùng, noãn hoặc
phôi). Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và
con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với đứa trẻ được sinh ra. Theo đó, khi
đứa trẻ được sinh ra, nếu người cha, người mẹ không muốn thừa nhận con thì cũng không
được yêu cầu xác định lại. Do vậy, tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có
thể là:
- Cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân yêu cầu cơ sở y tế bồi thường
thiệt hại cho họ do có nhầm lẫn trong quá trình áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, không sử
dụng noãn của người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc noãn của người phụ nữ độc thân
hoặc tinh trùng của người chồng theo thỏa thuận giữa các bên nhưng cơ sở y tế không đồng
ý.
- Cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân yêu cầu cơ sở y tế bồi thường
thiệt hại vì có sai sót trong quá trình áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, ví dụ: không thực
hiện đúng quy trình nuôi cấy phôi dẫn đến hỏng phôi…, nhưng cơ sở y tế không đồng ý.
- Cặp vợ chồng vô sinh yêu cầu cơ sở y tế bồi thường thiệt hại do cố tình sử dụng
số phôi còn dư sau khi họ có con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà không được sự đồng ý
của họ nhưng cơ sở y tế không đồng ý.
Tranh chấp về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Tranh chấp về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo bao gồm:
- Bên nhờ mang thai hộ yêu cầu bên mang thai hộ giao đứa trẻ nhưng bên mang thai
hộ không thực hiện.
- Bên mang thai hộ giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ nhưng bên nhờ mang thai
hộ từ chối nhận con.
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
- Bên mang thai hộ yêu cầu bên nhờ mang thai hộ hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh
sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con nhưng bên nhờ mang
thai hộ không thực hiện.
- Bên nhờ mang thai hộ yêu cầu bên mang thai hộ bồi thường thiệt hại khi cố tình
không tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sang lọc để phát hiện, điều trị các
bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế.
- Bên mang thai hộ yêu cầu bên nhờ mang thai hộ bồi thường khi chậm nhận con
gây thiệt hại cho bên họ nhưng bên nhờ mang thai hộ không thực hiện.
- Bên mang thai hộ yêu cầu được nhận nuôi đứa trẻ khi chưa giao đứa trẻ mà cả hai
vợ chồng bên nhờ mang thai hộ chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhưng người thân
thích khác của bên nhờ mang thai hộ không đồng ý.
Hiện nay, theo thống kê, tỷ lệ vô sinh ở Việt Nam khá cao, khoảng 7,7% số cặp vợ
chồng hiếm muộn trong cả nước. Từ đó, nhu cầu sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ngày càng nhiều dẫn đến những tranh chấp phát sinh
rất lớn. Mặc dù Luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản hướng dẫn đã kịp thời có những
quy định về vấn đề này, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cũng đã ghi nhận thẩm quyền của tòa
án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan. Tuy nhiên, quyền yêu cầu tòa án giải
quyết các tranh chấp đó lại chưa được quy định cụ thể. Điều này dẫn đến việc chưa đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và gây khó khăn cho tòa án trong việc thụ lý
và giải quyết.
Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng hoặc
khi hủy việc kết hôn trái pháp luật
Nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng là việc nam, nữ không đăng ký kết hôn
nhưng về chung sống với nhau, có hành vi ăn ở, sinh hoạt, thực hiện các quyền và nghĩa
vụ với nhau như vợ chồng. Việc nam, nữ chung sống như vợ chồng không làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ giữa họ được pháp luật thừa nhận, trừ những trường hợp xác lập
quan hệ vợ chồng trước ngày 03/01/1987.
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình. Hủy việc kết hôn trái pháp luật là việc tòa án theo yêu cầu của
cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, xem xét
và quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật làm cho quan hệ hôn nhân trái pháp luật này
không còn tồn tại nữa. Về nguyên tắc, việc kết hôn trái pháp luật sẽ bị tòa án hủy. Tuy
nhiên, xuất phát từ thực tế quan hệ giữa các bên sau khi kết hôn, khi giải quyết việc kết
hôn trái pháp luật, tùy từng trường hợp cụ thể, tòa án có thể hủy việc kết hôn trái pháp luật
hoặc công nhận quan hệ hôn nhân cho họ. Tòa án chỉ hủy việc kết hôn trái pháp luật nếu:
tại thời điểm tòa án giải quyết việc kết hôn trái pháp luật, một bên hoặc cả hai bên vẫn chưa
đủ điều kiện kết hôn; hoặc các bên đã đủ điều kiện kết hôn nhưng ít nhất một bên không
yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân.
Khi nam, nữ chấm dứt việc chung sống với nhau như vợ chồng hoặc kết hôn trái
pháp luật và bị tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật đó, tranh chấp giữa họ về quyền nuôi
dưỡng con chung và chia tài sản chung thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. Cụ thể:
- Nếu hai bên không thống nhất được về người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con
thì tòa án sẽ quyết định dựa trên các căn cứ giống như trường hợp vợ chồng có kết hôn hợp
pháp.
- Nếu hai bên không thỏa thuận được về việc chia tài sản chung thì tòa án sẽ áp dụng
các nguyên tắc chia tài sản chung theo phần để giải quyết. Việc giải quyết quan hệ tài sản
phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc
khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM

More Related Content

Similar to Cơ Sở Lý Luận Khoá Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật Hôn Nhân Và Gia Đình 2014.

Luật hôn nhân gia đình năm 2000.
Luật hôn nhân gia đình năm 2000.Luật hôn nhân gia đình năm 2000.
Luật hôn nhân gia đình năm 2000.akirahitachi
 
Luu y khi giai quyet vu viec dan su theo luat hon nhan va gia dinh 2014
Luu y khi giai quyet vu viec dan su theo luat hon nhan va gia dinh 2014Luu y khi giai quyet vu viec dan su theo luat hon nhan va gia dinh 2014
Luu y khi giai quyet vu viec dan su theo luat hon nhan va gia dinh 2014Hung Nguyen
 
tS. BÙI QUANG XUÂN KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.
tS. BÙI QUANG XUÂN   KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH. tS. BÙI QUANG XUÂN   KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.
tS. BÙI QUANG XUÂN KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH. Bùi Quang Xuân
 
Hngd luat hon nhan va gia dinh nam 2000
Hngd   luat hon nhan va gia dinh nam 2000Hngd   luat hon nhan va gia dinh nam 2000
Hngd luat hon nhan va gia dinh nam 2000Học Huỳnh Bá
 
Đề cương Luật HNGD 2014_0.doc
Đề cương Luật HNGD 2014_0.docĐề cương Luật HNGD 2014_0.doc
Đề cương Luật HNGD 2014_0.docDDngnh
 
Luật hôn nhân và gia đình
Luật hôn nhân và gia đìnhLuật hôn nhân và gia đình
Luật hôn nhân và gia đìnhHọc Huỳnh Bá
 
TS. BÙI QUANG XUÂN. HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH GX HOABINH.pptx
TS. BÙI QUANG XUÂN. HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH  GX HOABINH.pptxTS. BÙI QUANG XUÂN. HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH  GX HOABINH.pptx
TS. BÙI QUANG XUÂN. HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH GX HOABINH.pptxBùi Quang Xuân
 
27. Pham Quang Tien - K27 Che do TS vo chong.docx
27. Pham Quang Tien - K27  Che do TS vo chong.docx27. Pham Quang Tien - K27  Che do TS vo chong.docx
27. Pham Quang Tien - K27 Che do TS vo chong.docxNamVuong19
 
5. hôn nhân và những vấn đề phát sinh
5. hôn nhân và những vấn đề phát sinh5. hôn nhân và những vấn đề phát sinh
5. hôn nhân và những vấn đề phát sinhLenam711.tk@gmail.com
 

Similar to Cơ Sở Lý Luận Khoá Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật Hôn Nhân Và Gia Đình 2014. (20)

Luật hôn nhân gia đình năm 2000.
Luật hôn nhân gia đình năm 2000.Luật hôn nhân gia đình năm 2000.
Luật hôn nhân gia đình năm 2000.
 
Bài mẫu tiểu luận về Luật hôn nhân và gia đình, HAY
Bài mẫu tiểu luận về Luật hôn nhân và gia đình, HAYBài mẫu tiểu luận về Luật hôn nhân và gia đình, HAY
Bài mẫu tiểu luận về Luật hôn nhân và gia đình, HAY
 
Luu y khi giai quyet vu viec dan su theo luat hon nhan va gia dinh 2014
Luu y khi giai quyet vu viec dan su theo luat hon nhan va gia dinh 2014Luu y khi giai quyet vu viec dan su theo luat hon nhan va gia dinh 2014
Luu y khi giai quyet vu viec dan su theo luat hon nhan va gia dinh 2014
 
Có được ủy quyền tham gia tố tụng trong vụ án hôn nhân gia đình không?
Có được ủy quyền tham gia tố tụng trong vụ án hôn nhân gia đình không?Có được ủy quyền tham gia tố tụng trong vụ án hôn nhân gia đình không?
Có được ủy quyền tham gia tố tụng trong vụ án hôn nhân gia đình không?
 
tS. BÙI QUANG XUÂN KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.
tS. BÙI QUANG XUÂN   KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH. tS. BÙI QUANG XUÂN   KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.
tS. BÙI QUANG XUÂN KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH.
 
Hngd luat hon nhan va gia dinh nam 2000
Hngd   luat hon nhan va gia dinh nam 2000Hngd   luat hon nhan va gia dinh nam 2000
Hngd luat hon nhan va gia dinh nam 2000
 
Đề cương Luật HNGD 2014_0.doc
Đề cương Luật HNGD 2014_0.docĐề cương Luật HNGD 2014_0.doc
Đề cương Luật HNGD 2014_0.doc
 
Tiểu Luận Lớp Bồi Dưỡng Nghiệp Vụ Công Chức Hộ Tịch.docx
Tiểu Luận Lớp Bồi Dưỡng Nghiệp Vụ Công Chức Hộ Tịch.docxTiểu Luận Lớp Bồi Dưỡng Nghiệp Vụ Công Chức Hộ Tịch.docx
Tiểu Luận Lớp Bồi Dưỡng Nghiệp Vụ Công Chức Hộ Tịch.docx
 
Luật hôn nhân và gia đình
Luật hôn nhân và gia đìnhLuật hôn nhân và gia đình
Luật hôn nhân và gia đình
 
Cơ sở lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Cơ sở lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônCơ sở lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Cơ sở lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Cơ sở lý luận về hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình.docx
Cơ sở lý luận về hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình.docxCơ sở lý luận về hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình.docx
Cơ sở lý luận về hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình.docx
 
TIỂU LUẬN THỎA THUẬN XÁC LẬP CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG.docx
TIỂU LUẬN THỎA THUẬN XÁC LẬP CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG.docxTIỂU LUẬN THỎA THUẬN XÁC LẬP CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG.docx
TIỂU LUẬN THỎA THUẬN XÁC LẬP CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG.docx
 
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOTCăn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
Căn Cứ Ly Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, HOT
 
TS. BÙI QUANG XUÂN. HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH GX HOABINH.pptx
TS. BÙI QUANG XUÂN. HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH  GX HOABINH.pptxTS. BÙI QUANG XUÂN. HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH  GX HOABINH.pptx
TS. BÙI QUANG XUÂN. HÔN NHÂN & GIA ĐÌNH GX HOABINH.pptx
 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2014 
 
27. Pham Quang Tien - K27 Che do TS vo chong.docx
27. Pham Quang Tien - K27  Che do TS vo chong.docx27. Pham Quang Tien - K27  Che do TS vo chong.docx
27. Pham Quang Tien - K27 Che do TS vo chong.docx
 
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN.doc
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN.docCHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN.doc
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN.doc
 
Tiểu luận về hôn nhân trong luật hôn nhân và gia đình.doc
Tiểu luận về hôn nhân trong luật hôn nhân và gia đình.docTiểu luận về hôn nhân trong luật hôn nhân và gia đình.doc
Tiểu luận về hôn nhân trong luật hôn nhân và gia đình.doc
 
5. hôn nhân và những vấn đề phát sinh
5. hôn nhân và những vấn đề phát sinh5. hôn nhân và những vấn đề phát sinh
5. hôn nhân và những vấn đề phát sinh
 
Cơ Sở Lý Luận Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Theo Thỏa Thuận Theo Luật Hôn Nh...
Cơ Sở Lý Luận Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Theo Thỏa Thuận Theo Luật Hôn Nh...Cơ Sở Lý Luận Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Theo Thỏa Thuận Theo Luật Hôn Nh...
Cơ Sở Lý Luận Chế Độ Tài Sản Của Vợ Chồng Theo Thỏa Thuận Theo Luật Hôn Nh...
 

More from Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài 0934.573.149 / Luanvantot.com

More from Dịch Vụ Viết Thuê Đề Tài 0934.573.149 / Luanvantot.com (20)

Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Tổ Chức Kế Toán Tại Bệnh Viện Tâm Thần Trung Ương I.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Tổ Chức Kế Toán Tại Bệnh Viện Tâm Thần Trung Ương I.Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Tổ Chức Kế Toán Tại Bệnh Viện Tâm Thần Trung Ương I.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Tổ Chức Kế Toán Tại Bệnh Viện Tâm Thần Trung Ương I.
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Tại Tổng Công Ty Xây D...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Tại Tổng Công Ty Xây D...Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Tại Tổng Công Ty Xây D...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Phân Tích Báo Cáo Tài Chính Tại Tổng Công Ty Xây D...
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Đào Tạo Nhân Lực Quản Lý Khoa Học Và Công Nghệ Thu...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Đào Tạo Nhân Lực Quản Lý Khoa Học Và Công Nghệ Thu...Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Đào Tạo Nhân Lực Quản Lý Khoa Học Và Công Nghệ Thu...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Đào Tạo Nhân Lực Quản Lý Khoa Học Và Công Nghệ Thu...
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Hoàn Thiện Cơ Cấu Tổ Chức Bộ Máy Quản Lý Tại Công ...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Hoàn Thiện Cơ Cấu Tổ Chức Bộ Máy Quản Lý Tại Công ...Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Hoàn Thiện Cơ Cấu Tổ Chức Bộ Máy Quản Lý Tại Công ...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Hoàn Thiện Cơ Cấu Tổ Chức Bộ Máy Quản Lý Tại Công ...
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Tạo Động Lực Lao Động Tại Trung Tâm Dịch Vụ Việc Làm
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Tạo Động Lực Lao Động Tại Trung Tâm Dịch Vụ Việc LàmCơ Sở Lý Luận Luận Văn Tạo Động Lực Lao Động Tại Trung Tâm Dịch Vụ Việc Làm
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Tạo Động Lực Lao Động Tại Trung Tâm Dịch Vụ Việc Làm
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Tổng Công Ty 319 ...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Tổng Công Ty 319 ...Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Tổng Công Ty 319 ...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Tổng Công Ty 319 ...
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Công Ty Bia.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Công Ty Bia.Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Công Ty Bia.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Của Công Ty Bia.
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Sử Dụng Lao Động Tại Công Ty Cổ Phần Luxdecor Việt...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Sử Dụng Lao Động Tại Công Ty Cổ Phần Luxdecor Việt...Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Sử Dụng Lao Động Tại Công Ty Cổ Phần Luxdecor Việt...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Sử Dụng Lao Động Tại Công Ty Cổ Phần Luxdecor Việt...
 
Cơ Sở Lý Luận Tuyển Dụng Nhân Lực Tại Công Ty Cổ Phần Hawee Cơ Điện.
Cơ Sở Lý Luận Tuyển Dụng Nhân Lực Tại Công Ty Cổ Phần Hawee Cơ Điện.Cơ Sở Lý Luận Tuyển Dụng Nhân Lực Tại Công Ty Cổ Phần Hawee Cơ Điện.
Cơ Sở Lý Luận Tuyển Dụng Nhân Lực Tại Công Ty Cổ Phần Hawee Cơ Điện.
 
Cơ Sở Lý Luận Tham Gia Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Hiện Nay Của Người Lao Động
Cơ Sở Lý Luận Tham Gia Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Hiện Nay Của Người Lao ĐộngCơ Sở Lý Luận Tham Gia Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Hiện Nay Của Người Lao Động
Cơ Sở Lý Luận Tham Gia Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Hiện Nay Của Người Lao Động
 
Cơ Sở Lý Luận Tuyển Dụng Nhân Lực Trong Doanh Nghiệp.
Cơ Sở Lý Luận Tuyển Dụng Nhân Lực Trong Doanh Nghiệp.Cơ Sở Lý Luận Tuyển Dụng Nhân Lực Trong Doanh Nghiệp.
Cơ Sở Lý Luận Tuyển Dụng Nhân Lực Trong Doanh Nghiệp.
 
Cơ Sở Lý Luận Tổ Chức Và Quản Lý Công Tác Văn Thư Tại Văn Phòng Hđnd Và Ubnd
Cơ Sở Lý Luận Tổ Chức Và Quản Lý Công Tác Văn Thư Tại Văn Phòng Hđnd Và UbndCơ Sở Lý Luận Tổ Chức Và Quản Lý Công Tác Văn Thư Tại Văn Phòng Hđnd Và Ubnd
Cơ Sở Lý Luận Tổ Chức Và Quản Lý Công Tác Văn Thư Tại Văn Phòng Hđnd Và Ubnd
 
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Dưới 23 Tuổi Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Dưới 23 Tuổi Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản Trên...Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Dưới 23 Tuổi Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản Trên...
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Dưới 23 Tuổi Phạm Tội Cướp Giật Tài Sản Trên...
 
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tội Vi Phạm Qui Định Về Tham Gi...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tội Vi Phạm Qui Định Về Tham Gi...Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tội Vi Phạm Qui Định Về Tham Gi...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tội Vi Phạm Qui Định Về Tham Gi...
 
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cố Ý Gây Thương Tích Hoặc Gây Tổn H...
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cố Ý Gây Thương Tích Hoặc Gây Tổn H...Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cố Ý Gây Thương Tích Hoặc Gây Tổn H...
Cơ Sở Lý Luận Nhân Thân Người Phạm Tội Cố Ý Gây Thương Tích Hoặc Gây Tổn H...
 
Cơ SỞ Lý Luận Nghiên Cứu Sự Hài Lòng Đối Với Công Việc Của Cán Bộ Công Chứ...
Cơ SỞ Lý Luận Nghiên Cứu Sự Hài Lòng Đối Với Công Việc Của Cán Bộ Công Chứ...Cơ SỞ Lý Luận Nghiên Cứu Sự Hài Lòng Đối Với Công Việc Của Cán Bộ Công Chứ...
Cơ SỞ Lý Luận Nghiên Cứu Sự Hài Lòng Đối Với Công Việc Của Cán Bộ Công Chứ...
 
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Lừa Đảo Chiếm Đoạ...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Lừa Đảo Chiếm Đoạ...Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Lừa Đảo Chiếm Đoạ...
Cơ Sở Lý Luận Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Lừa Đảo Chiếm Đoạ...
 
Cơ Sở Lý Luận Soạn Thảo Và Ban Hành Văn Bản Hành Chính Tại Trung Tâm Lưu Trữ
Cơ Sở Lý Luận Soạn Thảo Và Ban Hành Văn Bản Hành Chính Tại Trung Tâm Lưu TrữCơ Sở Lý Luận Soạn Thảo Và Ban Hành Văn Bản Hành Chính Tại Trung Tâm Lưu Trữ
Cơ Sở Lý Luận Soạn Thảo Và Ban Hành Văn Bản Hành Chính Tại Trung Tâm Lưu Trữ
 
Cơ Sở Lý Luận Tổ Chức Kế Toán Tại Trường Cao Đẳng Viglacera.
Cơ Sở Lý Luận Tổ Chức Kế Toán Tại Trường Cao Đẳng Viglacera.Cơ Sở Lý Luận Tổ Chức Kế Toán Tại Trường Cao Đẳng Viglacera.
Cơ Sở Lý Luận Tổ Chức Kế Toán Tại Trường Cao Đẳng Viglacera.
 
Cơ Sở Lý Luận Sử Dụng Đồ Dùng Trực Quan Trong Dạy Học Hình Học Lớp 4.
Cơ Sở Lý Luận Sử Dụng Đồ Dùng Trực Quan Trong Dạy Học Hình Học Lớp 4.Cơ Sở Lý Luận Sử Dụng Đồ Dùng Trực Quan Trong Dạy Học Hình Học Lớp 4.
Cơ Sở Lý Luận Sử Dụng Đồ Dùng Trực Quan Trong Dạy Học Hình Học Lớp 4.
 

Recently uploaded

SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 

Cơ Sở Lý Luận Khoá Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật Hôn Nhân Và Gia Đình 2014.

  • 1. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM Cơ Sở Lý Luận Khoá Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật Hôn Nhân Và Gia Đình 2014 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CỦA CÁC VỤ ÁN LY HÔN 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về ly hôn và căn cứ ly hôn 1.1.1. Khái niệm về ly hôn và căn cứ ly hôn. 1.1.1.1. Khái niệm về ly hôn Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt cuộc đời con người vì nó được xác lập trên cơ sở tình yêu thương, gắn bó giữa vợ chồng. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn được đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thoát khỏi mâu thuẫn gia đình. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ. Vấn đề ly hôn được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là khác nhau. Một số nước cấm vợ chồng ly hôn (theo Đạo thiên chúa), bởi vì theo họ quan hệ vợ chồng bị ràng buộc thiêng liêng theo ý Chúa. Một số nước thì hạn chế ly hôn bằng cách đưa ra những điều kiện hết sức nghiêm ngặt. Cấm ly hôn hay hạn chế ly hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá nhân. Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không cấm hoặc đặt ra những những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của mình. Nhà nước bằng pháp luật không thể cưỡng ép nam, nữ phải yêu nhau và kết hôn với nhau, thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng phải chung sống với nhau, phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó giữa
  • 2. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM họ đã hết và mục đích của hôn nhân đã không thể đạt được. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia đình. Theo Lê-nin: “thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “tan rã” những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh”. Nhưng bên cạnh đó, ly hôn cũng có mặt hạn chế đó là sự ly tán gia đình, vợ chồng, con cái. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn, Toà án phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân và bản chất của quan hệ vợ chồng và thực trạng hôn nhân với nhiều yếu tố khác để đảm bảo quyền lợi cho các thành viên trong gia đình, lợi ích của nhà nước và của xã hội. Như vậy, ly hôn chính là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. 1.1.1.2. Khái niệm về căn cứ ly hôn Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, hôn nhân (trong đó có ly hôn) là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nước, bằng pháp luật (hay tục lệ) quy định chế độ hôn nhân phù hợp với ý chí của Nhà nước. Tức là Nhà nước bằng pháp luật quy định những điều kiện nào xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời xác lập trong những điều kiện căn cứ nhất định mới được phép xóa bỏ (chấm dứt) quan hệ hôn nhân. Đó chính là căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật của Nhà nước. Như vậy, căn cứ ly hôn là những tình tiết (điều kiện) được quy định trong pháp luật và chỉ khi có những tình tiết (điều kiện) đó, Tòa án mới được xử cho ly hôn. Ly hôn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Do có quan điểm khác nhau về quy định và giải quyết ly hôn, cho nên căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa có nội dung khác về bản chất so với căn cứ ly hôn do Nhà nước phong kiến, tư bản đặt ra. Pháp luật của nhà nước phong kiến, tư sản quy định có thể cấm ly hôn (không quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công nhận quyền vợ chồng được sống tách biệt nhau (biệt cư) bằng chế định ly thân; bằng hạn chế quyền ly hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ tuổi của vợ chồng; và thường quy định xét xử ly hôn dựa trên
  • 3. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM cơ sở lỗi của vợ, chồng hay của cả hai vợ chồng (các điều kiện có tính chất hình thức, phản ánh nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chứ không phải bản chất ly hôn đã tan vỡ). Ngược lại, pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của mình.Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ, chồng, con cái và các thành viên trong gia đình. 1.1.2. Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn Hệ thống pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay đã quy định căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện, phù hợp, là cơ sở pháp lí để tòa án giải quyết các án kiện ly hôn. Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thể hiện quyền tự do kết hôn của nam nữ nhằm xác lập quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn của vợ chồng nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn theo đúng bản chất của một sự kiện – đó là hôn nhân "đã chết", sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đương nhiên, không phải ý chí của nhà lập pháp, cũng phải sự tùy tiện của các cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được cuộc sống hôn nhân này "đã chết" hay chưa... Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện bản chất của mối quan hệ, theo đó những trường hợp nào về mặt pháp lý hôn nhân được coi là sự tan vỡ nghĩa là về thực chất, hôn nhân tự nó đã phá vỡ và việc tòa án cho phép phá bỏ hôn nhân chỉ là việc ghi biên bản công nhận sự tan vỡ bên trong của nó và chỉ khi nào hôn nhân xét về bản chất không còn là hôn nhân nữa, tòa án mới được xử cho ly hôn. Sắc lệnh số 159/SL quy định căn cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (Điều 26), Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 (Điều 40), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 89) và hiện nay là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam trước đây không quy định
  • 4. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM những căn cứ ly hôn riêng biệt mà quy định căn cứ ly hôn chung nhất, dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Nhưng với Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có sự lồng ghép quy định về căn cứ ly hôn vào quy định về thuận tình ly hôn cũng như ly hôn theo yêu cầu của một bên. Như vậy, căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 của Nhà nước ta được quy định dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, có cơ sở khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm trong mấy chục năm qua, từ khi Nhà nước ta ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Khi giải quyết ly hôn, cần hiểu điều đó nói lên một thực trạng hôn nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại được nữa, vì “sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối” và ly hôn là một giải pháp tích cực để giải phóng cho vợ chồng cũng như các thành viên khác trong gia đình khỏi cảnh “bất bình thường” đó, đảm bảo lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội. 1.2. Căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định các căn cứ để Tòa án thụ lý giải quyết yêu cầu ly hôn bao gồm hai căn cứ tại Điều 55 và Điều 56: 1.2.1. Căn cứ ly hôn khi thuận tình ly hôn Thuận tình ly hôn là trường hợp cả vợ hoặc chồng cùng yêu cầu chấm dứt hôn nhân được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng. Theo Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì trong trường hợp hai vợ chồng có yêu cầu thuận tình ly hôn, sự tự nguyện của hai vợ chồng khi yêu cầu chấm dứt hôn nhân là một căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân. Bảo đảm“thật sự tự nguyện ly hôn” là
  • 5. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM cả hai vợ chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của mình, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình ly hôn. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn của hai vợ chồng đều phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình họ, phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực, đạo đức xã hội. Cũng trong Điều 55, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trong việc thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly hôn của vợ chồng, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định giải quyết việc ly hôn. Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án vẫn phải tiến hành hoà giải, mục đích là để vợ chồng rút đơn yêu cầu ly hôn và đoàn tụ với nhau. Việc cho ly hôn trong trường hợp thuận tình này đối với Tòa án là không phải dễ, bởi vì khó có thể định lượng khi chỉ dựa trên yếu tố thỏa thuận tự nguyện thật sự của hai vợ chồng nếu không xem xét đến các yếu tố tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đến đâu, mức độ ảnh hưởng đến cuộc sống hôn nhân đến cấp độ nào và gắn với việc thỏa thuận của họ đến đâu về việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn. Thực tế, nguyên nhân phát sinh tranh chấp trong cuộc sống vợ chồng dẫn đến ly hôn hay thuận tình ly hôn cũng là do tình cảm của vợ chồng bị rạn nứt, một trong hai bên đã không làm tròn nghĩa vụ của mình với gia đình hay vì tự ái cá nhân hoặc hiểu lầm trong quan hệ của vợ hoặc chồng mình nên đã quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết cho họ được ly hôn. Nhưng khi có sự giải thích, phân tích đúng, sai trong quan hệ của họ của người làm công tác hòa giải để khuyên họ nên bỏ qua những lầm lỗi, tha thứcho nhau để quay lại chung sống với nhau thì họ đã hiểu ra và quay lại đoàn tụ chung sống với nhau và Tòa án cũng không phải giải quyết về các vấn đề kéo theo như con và tài sản. Nếu hoà giải thành tức là vợ chồng rút đơn thuận tình ly hôn thì Toà án lập biên bản hoà giải thành, sau 15 ngày kể từ ngày Toà án lập biên bản hoà giải thành mà các bên đương sự không thay đổi ý kiến thì Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án (Điều 10, Điều 186, Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004). Còn khi hoà giải
  • 6. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM không thành, các bên thực sự tự nguyện ly hôn nhưng không thoả thuận được về việc chia tài sản hoặc việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì Toà án lập biên bản về việc hoà giải đoàn tụ không thành và về những vấn đề hai bên không thoả thuận được hoặc có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con, đồng thời mở phiên Toà xét xử theo thủ tục chung (điểm d, khoản 2, Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004). 1.2.2. Căn cứ ly hôn khi ly hôn theo yêu cầu của một bên Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân. Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau: “1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. 2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. 3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.” Theo đó, khi ly hôn theo yêu cầu của một bên thì Tòa án cần dựa vào một trong ba căn cứ sau đây: Thứ nhất, đối với trường hợp khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
  • 7. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM Trước tiên, khi có yêu cầu ly hôn của vợ, chồng, Toà án phải tiến hành điều tra và hoà giải, nếu hoà giải không thành thì Toà án cần xác định tình trạng của quan hệ hôn nhân, xem có căn cứ ly hôn không để giải quyết. Việc giải quyết ly hôn cần phải chính xác. Nếu xét xử đúng, kết quả đó sẽ phù hợp với nguyện vọng của các bên, bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia đình. Ngược lại, nếu việc giải quyết không chính xác sẽ dẫn tới tan vỡ hạnh phúc gia đình, phá huỷ một cuộc hôn nhân còn có thể cứu vãn được và gây ra hậu quả không đáng có. Mặt khác, giải quyết ly hôn cũng đòi hỏi sự linh hoạt trong việc vận dụng căn cứ ly hôn đối với mỗi trường hợp cụ thể. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung điểm mới khi cho ly hôn khi có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng. Như vậy, luật hiện hành quy định rất rõ “bạo lực gia đình” là căn cứ để giải quyết cho ly hôn. Bởi qua tổng kết thực tiễn giải quyết các án kiện ly hôn của Toà án cho thấy số vụ ly hôn có hành vi ngược đãi, đánh đập chiếm tỉ lệ cao nhất trong các nguyên nhân dẫn đến ly hôn ở nước ta trong đó thì đa phần phụ nữ là nạn nhân của tình trạng này. Tình trạng bạo lực trong gia đình ngày càng gia tăng và thể hiện tính chất nghiêm trọng của nó. Tình trạng bạo lực trong gia đình xảy ra do nhiều lý do khác nhau. Có trường hợp do cuộc sống vật chất quá khó khăn. Có trường hợp do ghen tuông, nghi ngờ một bên ngoại tình nên đã đánh đập nhau. Tệ cờ bạc, nghiện ngập cũng là lý do dẫn đến tình trạng vợ chồng đánh đập, ngược đãi nhau. Đa phần bạo lực trong gia đình dẫn đến tình trạng vợ chồng ly hôn, có trường hợp dẫn đến án mạng. Bên cạnh đó, đối với những vi phạm khác, những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng trong đời sống vợ chồng... là lý do để ly hôn thì luật cũng quy định rõ ràng phải có cơ sở nhận định chung rằng tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì mới giải quyết cho ly hôn. Như vậy, rõ ràng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đưa yếu tố lỗi để xem xét cho ly hôn, qua đó thể hiện sự tiếp thu quy định của một số nước trên thế giới khi có sự kết hợp giữa thực trạng của hôn nhân và yếu tố lỗi để giải quyết việc ly hôn. Cụ thể là theo Bộ Luật Dân sự Cộng hòa Pháp (Luật số 65-570 năm 1965), Điều 243 quy định: “Vợ hoặc chồng có thể xin ly hôn khi nêu ra toàn bộ những sự việc bắt nguồn từ bên vợ hoặc chồng
  • 8. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM làm cho cuộc sống chung không thể tiếp tục”. Theo quy định này, một bên vợ hoặc chồng làm đơn đến Toà án xin ly hôn trong đó có nêu lỗi của bên kia và nếu bên kia thừa nhận lỗi trước Toà thì Toà sẽ tuyên ly hôn và theo Điều 230 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp quy định:“Nếu hai vợ chồng cùng xin ly hôn thì không phải nói rõ lý do”, trong trường hợp này, căn cứ cho ly hôn được xác định nếu việc ly hôn do một bên xin với lý do bên kia làm cho cuộc sống chung không thể tiếp tục và bên kia chấp nhận thì thẩm phán tuyên bố cho ly hôn mà không cần xem xét với yếu tố lỗi. Như vậy, trong trường hợp này ly hôn được giải quyết theo sự thoả thuận của đương sự. Điều đó cũng phù hợp với bản chất của hôn nhân khi pháp luật của Pháp coi hôn nhân là một hợp đồng như những hợp đồng dân sự khác. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự Pháp cũng có xét đến tình trạng hôn nhân trên thực tế của vợ chồng, Toà án sẽ xử cho ly hôn, nếu tính tình của một người đã thay đổi đến mức không thể sống chung được nữa và theo những dự đoán có lý nhất, không thể được khôi phục trong tương lai. Bên cạnh việc xác định về tình trạng đời sống chung tan vỡ, còn phải xét đến thời gian sống riêng biệt của hai vợ chồng, pháp luật quy định khoảng thời gian đó là 6 năm (Điều 237 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp). Ở Canađa, luật pháp về ly hôn có sự kết hợp giữa căn cứ ly hôn trong việc xác định yếu tố lỗi và thực trạng hôn nhân. Hôn nhân được coi là tan vỡ khi hai vợ chồng sống riêng rẽ đã hơn một năm và lí do là hôn nhân bị rạn nứt, khi hai vợ chồng có quan hệ ngoại tình với người khác hoặc khi vợ hoặc chồng có đối xử ngược đãi cả về tinh thần lẫn thể chất làm bên kia không thể chịu đựng được. Trường hợp đó Toà án sẽ cho ly hôn. Còn theo Luật Hôn nhân và gia đình ở Singapore, ly hôn chủ yếu dựa vào yếu tố lỗi trong đó việc xác định hôn nhân tan vỡ, không thể phục hồi căn cứ vào việc một bên ngoại tình thông dâm mà bên kia không thể tha thứ, khoan dung để chung sống với nhau được, một bên bị tệ bạc quá đáng, có sự ruồng bỏ không chung sống liên tục trong 2 năm và không có ý định quay trở lại hoặc đã ly thân trong 3 năm (nếu bên kia đồng ý), 4 năm (nếu bên kia không chấp nhận). Theo Bộ luật Dân sự Nhật Bản, chồng hoặc vợ có thể ly hôn nhưng qua thoả thuận hoặc theo trình tự xét xử. Đối với trường hợp ly hôn theo trình tự xét xử, chồng hoặc vợ chỉ có quyền kiện đòi ly hôn trong những trường hợp sau: Nếu một trong hai người bị người kia ngược đãi, hành hạ thậm tệ; một trong hai người
  • 9. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM có hành vi không chung thuỷ; nếu một trong hai người trong 3 năm liền không rõ còn sống hay đã chết; một trong hai người bị bệnh tâm thần mà không có khả năng chữa trị; tồn tại lý do dẫn đến các bên không thể tiếp tục hôn nhân. Mục đích của hôn nhân nói chung xuất phát từ bản chất của hôn nhân. Toà án không thể dựa vào mục đích của hai người kết hôn mà xem xét có đạt được hay không để giải quyết ly hôn. Phần lớn mục đích của nam và nữ trước khi kết hôn là hướng tới xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững nhưng cũng có nhiều cuộc hôn nhân được xác lập bắt đầu từ những mục đích khác nhau. Dù cho họ từng kết hôn với mục đích nào đi chăng nữa thì mục đích của hôn nhân bền vững, hạnh phúc vẫn là tiêu chuẩn cao nhất mà bất kỳ ai kết hôn cũng hướng tới. Tuy nhiên, mục đích của vợ hay chồng đôi khi cũng ảnh hưởng tới cuộc sống gia đình nếu như nó không đạt được sau khi kết hôn. Mục đích của hai người không phải bao giờ cũng giống nhau. Hôn nhân có thể đem đến cho người này nhưng lại không làm thoả mãn mục đích của người kia hoặc cả hai người. Vì vậy, điều cần thiết là phải hiểu được mục đích của hôn nhân. Nhà làm luật ở đây muốn nói đến mục đích cốt lõi của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Hôn nhân với mục đích rất phong phú và có thể thay đổi nhưng mục đích của hôn nhân lại mang tính cố định duy nhất. Bất cứ một cuộc hôn nhân nào, nếu không đạt được mục đích đó thì việc duy trì nó là không cần thiết và vợ chồng có thể được ly hôn. Thứ hai, đối với trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tuyên bố một người mất tích là một sự kiện pháp lý nhằm xác định một người cụ thể “hoàn toàn không rõ tung tích, cũng không rõ còn sống hay đã chết” (theo từ điển tiếng Việt). Theo quy định tại Điều 78 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Khi một người biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích….” Khoản 2 Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định về căn cứ cho ly hôn có đề cập tới trường hợp yêu cầu ly hôn khi một trong
  • 10. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM hai người mất tích như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.”. Trường hợp đồng thời yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích và yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, cần lưu ý Tòa án chỉ giải quyết cho ly hôn có bằng chứng chứng minh được chồng hoặc vợ đã biệt tích từ hai năm trở lên kể từ ngày có tin tức cuối cùng về chồng (vợ), mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết. Việc tuyên bố cá nhân mất tích có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó góp phần bảo vệ lợi ích của cá nhân cũng như các chủ thể có liên quan. Việc xác định đúng điều kiện và hậu quả pháp lí của các tuyên bố này là cơ sở đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể, đồng thời góp phần thực hiện có hiệu quả nhưng quy định của pháp luật trong tuyên bố các cá nhân mất tích Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, việc chồng hoặc vợ bị mất tích đã ảnh hưởng sâu sắc tới quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình. Cần phải giải phóng chồng thoát khỏi “hoàn cảnh đặc biệt” này, khi họ có yêu cầu được ly hôn với người chồng (vợ) đã bị tòa án tuyên bố mất tích. Thứ ba, đối với trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia Theo đó, theo quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình thì có thể xin ly hôn thay cho người thân và luật cũng quy định cụ thể về lý do xin ly hôn, trong đó bạo lực gia đình là một lý do, căn cứ để người chồng hoặc người vợ có quyền yêu cầu tòa án cho ly hôn. Cụ thể tại Khoản 2, Điều 51 trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định như sau: 2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
  • 11. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM Như vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì kể từ nay, căn cứ để cha, mẹ, người thân thích khác cũng có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. 1.3. Các quy định pháp luật áp dụng 1.3.1 Pháp luật nội dung áp dụng giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình các vụ án ly hôn Hôn nhân và gia đình là các hiện tượng xã hội, phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. HN&GĐ biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên trong gia đình. Trong xã hội có giai cấp quan hệ HN&GĐ bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị và pháp luật chính là công cụ thể hiện ý chí đó của giai cấp thống trị. Vì thế luật HN&GĐ ra đời. Luật HN&GĐ là một ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực HN&GĐ, cụ thể là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa những người thân thích ruột thịt khác được hình thành trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Cùng với sự phát triển của lịch sử đất nước thì pháp luật về HN&GĐ cũng có những thay đổi phù hợp với điều kiện xã hội qua từng thời kỳ. Luật HN&GĐ đầu tiên ở nước ta ra đời năm 1959 được QH thông qua ngày 29/12/1959 và có hiệu lực ngày 13/01/1960, đến năm 1986 thì được sửa đổi và bổ sung và đến ngày 29/12/1986 Luật HN&GĐ 1986 được QH thông qua có hiệu lực ngày 03/01/1987 và để phù hợp vời tình hình kinh tế _ xã hội trong giai đoạn mới, Luật HN&GĐ 2000 được kỳ họp thứ 7, QH khóa 10 thông qua ngày 6/9/2000 và có hiệu lực ngày 01/01/2001 thay thế luật HN&GĐ năm 1986. Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Cùng với sự ra đời của luật HN&GĐ 2014, thì các văn bản hướng dẩn thi hành cũng được
  • 12. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM ban hành đó là các nghị định, nghị quyết, pháp lệnh… nhằm góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật khi điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ. Ly hôn là một mặt của quan hệ HN&GĐ và được pháp luật HN&GĐ điều chỉnh. Nếu như kết hôn là sự kiện bình thường, là thời điểm đầu tiên của hôn nhân thì ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng do một bên vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng thuận tình được Tòa án giải quyết cho ly hôn bằng một quyết định thuận tình ly hôn hay bằng một bản án cho ly hôn có hiệu lực pháp luật. Nó là mặt trái, mặt bất bình thường của hôn nhân, đây là việc mà cả nam và nữ khi kết hôn cũng như gia đình, xã hội không mong muốn xãy ra, nhưng nó lại là mặt không thể thiếu trong quan hệ HN&GĐ. Sở dỉ không thể thiếu là bởi ly hôn không phải luôn luôn chỉ là mặt tiêu cực khi chấm dứt quan hệ vợ chồng, gia đình ly tán, tài sản phân chia, con cái không được ở cùng bố mẹ để rồi thiếu sự chăm sóc… bên cạnh mặt trái đó thì ly hôn là sự giải thoát an toàn cho những cặp vợ chồng khi quan hệ vợ chồng đã đến mức tan vỡ, nó giải phóng cho vợ và chồng ra khỏi những cơn xung đột gia đình. Tuy nhiên Nhà nước bảo hộ hôn nhân, bảo đảm quyền tự do ly hôn của vợ chồng không có nghĩa là giải quyết ly hôn tùy tiện, theo ý chí, nguyện vọng của vợ chồng muốn sao làm vậy, mà phải bằng pháp luật, Nhà nước kiểm soát việc giải quyết ly hôn. Ly hôn phải dựa vào những căn cứ mà pháp luật quy định cho phép ly hôn. Hệ thống pháp luật HNGĐ của nước ta từ năm 1945 đến nay quy định căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện hơn, Luật HN&GĐ 1959 quy định căn cứ ly hôn tại Điều 26, Luật HN&GĐ 1986 quy định tại Điều 40, Luật HN&GĐ 2000 quy định tại Điều 89, Luật HN&GĐ 2014 quy định tại Điều 55 và Điều 56. Dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, các điều luật không quy định căn cứ riêng biệt mà quy định thống nhất dù hai bên thuận tình ly hôn hoặc một bên vợ hoặc chồng yêu cầu “đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được” thì Tòa án cho ly hôn. Ly hôn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Do có sự khác nhau trong quan điểm, về việc quy định và giải quyết ly hôn, cho nên căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật của Nhà nước XHCN có nội dung khác về bản chất so với căn cứ ly hôn do nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản đặt ra. Luật HN&GĐ các nước XHCN quy định giải quyết việc ly
  • 13. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM hôn theo đúng thực chất của vấn đề, hoàn toàn không dựa vào lỗi của vợ, chồng, trên cơ sở nhìn nhận khách quan, đánh giá đúng thực chất của quan hệ hôn nhân đã hoàn toàn tan vỡ. Nhìn chung Nhà nước ta quy định về căn cứ ly hôn là rất khoa học, bảo vệ lợi ích chính đáng của các đương sự. Ý chí của vợ chồng không phải là điều kiện quyết định để phá bỏ hôn nhân mà việc giải quyết ly hôn phải căn cứ vào điều kiện trong luật HN&GĐ. Trong ly hôn, ngoài căn cứ ly hôn hay điều kiện ly hôn thì một vấn đề được các nhà làm luật quan tâm nữa đó là hậu quả pháp lý khi ly hôn. Ly hôn chính là nguyên nhân dân đến hậu quả làm tan vỡ gia đình từ đó làm ảnh hưởng đến một phần đời sống xã hội. Vì vậy dưới bất kỳ xã hội nào, Nhà nước cũng quan tâm đến việc giải quyết ly hôn và hậu quả của nó. Đối với những xã hội khác nhau thì mục đích điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề HN&GĐ nói chung cũng như việc ly hôn và giải quyết hậu quả của nó nói riêng là hoàn toàn khác nhau. Trong thực tế, nhìn chung các vụ kiện về HN&GĐ là không đơn giản, nhất là việc giải quyết ly hôn đã phức tạp thì việc giải quyết hậu quả của nó càng phức tạp hơn. Bởi vì nó không chỉ đụng chạm đến quyền lợi của các bên đương sự về mặt vật chất mà còn đụng chạm đến tình cảm vợ chồng, giữa cha, mẹ và con cái. Vì vậy Nhà nước ta đã có những quy định chặt chẽ vấn đề này. Đó là quan hệ nhân thân giữa vợ chồng, quan hệ tài sản và quan hệ cha, mẹ và con. Khi bản án, hay quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì quan hệ vợ chồng chấm dứt, người vợ, chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người khác, sau khi ly hôn các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt hoàn toàn, dù vợ, chồng có thỏa thuận hay không thỏa thuận thì Tòa án cũng sẽ quyết định. Về vấn đề tài sản, đây là một vấn đề khá phức tạp nên luật quy định khá rõ ràng. Như vậy, những quy định của pháp luật nội dung đã tạo khung pháp lý cho các đương sự trong vụ án ly hôn biết được quyền và nghĩa vụ của mình, đảm bảo sự công bằng về lợi ích của các bên đương sự đồng thời giải phóng cho vợ, chồng (đặc biệt là người vợ) khi quan hệ hôn nhân thực sự không còn, góp phần ổn định đời sống mới cho mỗi đương sự. 1.3.2. Các tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án
  • 14. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM Tranh chấp về hôn nhân và gia đình là những tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Thông thường, các bên tranh chấp có quan hệ thân thích trong gia đình nên trong việc giải quyết, pháp luật thường đề cao sự thỏa thuận của các bên. Trong trường hợp các bên đã khởi kiện ra tòa án nghĩa là mâu thuẫn giữa các bên đã tới mức không thể hòa giải được, họ cần có một cơ quan tài phán để giải quyết. Việc xác định những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án là cơ sở pháp lý để tòa án thụ lý vụ việc, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cụ thể, theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tòa án có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về hôn nhân và gia đình sau: 1.3.2.1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, chia tài sản sau khi ly hôn Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án. Khác với yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn được giải quyết theo thủ tục việc dân sự, việc giải quyết theo thủ tục vụ án dân sự được áp dụng trong các trường hợp sau: Trường hợp thứ nhất, một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn Căn cứ ly hôn được áp dụng trong trường hợp này là việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; hoặc một bên vợ hoặc chồng bị tòa án tuyên bố mất tích. Hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng có thể dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau nhưng khi đánh giá tình trạng vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được phải dựa trên cơ sở: mẫu thuẫn giữa vợ và chồng đã sâu sắc đến mức không thể hòa giải; vợ chồng không còn yêu thương nhau; vợ chồng không thể tiếp tục chung sống;… Quyết định tuyên bố mất tính của tòa án cũng được coi là căn cứ ly hôn nếu người vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích yêu cầu được ly hôn. Khi vợ hoặc chồng bị tuyên bố mất tích có nghĩa là họ đã biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ
  • 15. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM các biện pháp thông báo, tìm kiếm mà vẫn không có tin xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết. Trường hợp thứ hai, cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu ly hôn khi một bên vợ, chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Trong đời sống xã hội, nhiều trường hợp khi một bên vợ hoặc chồng bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác dẫn đến không nhận thức và điều khiển hành vi mà người chồng hoặc vợ còn lại có hành vi ngược đãi, hành hạ họ, phá tán tài sản của họ nhưng họ không thể yêu cầu ly hôn do không có khả năng thể hiện ý chí tự nguyện thì quyền lợi của họ sẽ rất khó để đảm bảo. Do đó, khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định quyền yêu cầu ly hôn của cha, mẹ, người thân thích khác để bảo vệ quyền lợi cho họ trong trường hợp này. Cha, mẹ có quyền yêu cầu có thể là cha đẻ, mẹ đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi; cha chồng, mẹ chồng; cha vợ, mẹ vợ. Người thân thích khác là những người không phải cha, mẹ (đã kể trên) mà có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời. Trường hợp thứ ba, một bên vợ hoặc chồng hoặc thuận tình ly hôn nhưng các bên không thỏa thuận được về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con hoặc có thỏa thuận được nhưng không đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con. Căn cứ ly hôn trong trường hợp này là sự “thực sự tự nguyện ly hôn”. Sự thực sự tự nguyện ly hôn này được thể hiện thông qua việc vợ chồng cùng ký vào đơn công nhận thuận tình ly hôn xuất phát từ mong muốn, tình cảm của họ mà không phải là ly hôn giả tạo hoặc bị bất cứ ai cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn. Nếu họ đã thực sự tự nguyện ly hôn, thỏa thuận được về vấn đề con chung, tài sản chung và thỏa thuận này đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của vợ, con thì tòa án sẽ ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể thỏa thuận như thế nào được coi là đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ, con nên có thể áp dụng tương tự pháp luật trong trường hợp chia tài sản khi
  • 16. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM ly hôn, tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình. Ngược lại, nếu họ không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của vợ, con thì tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn. Đồng thời, việc các bên không thỏa thuận hoặc thỏa thuận nhưng không đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ, con được coi như tình tiết mới có tính chất “có tranh chấp” nên tòa án phải thụ lý vụ án để giải quyết nhưng không phải thông báo về việc thụ lý vụ án và không phải phân công lại thẩm phán giải quyết vụ việc. Như vậy, trong trường hợp này, tòa án được chủ động chuyển từ thủ tục giải quyết việc dân sự sang thủ tục giải quyết vụ án dân sự mà không cần đơn yêu cầu của đương sự, tạo sự thuận tiện cho người dân, đơn giản và rút ngắn thời gian tiến hành tố tụng. Thông thường, khi ly hôn, vợ chồng thường yêu cầu tòa án chia tài sản chung của họ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, có nhiều cặp vợ chồng có những tài sản họ không muốn hoặc không thể yêu cầu tòa án giải quyết chia đồng thời với việc ly hôn. Ví dụ: vợ hoặc chồng dùng tài sản chung của vợ chồng góp vốn vào công ty hợp danh, khi chưa có sự chấp thuận của các thành viên còn lại, người này không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình… Sau khi quyết định, bản án cho ly hôn của tòa án có hiệu lực pháp luật, các bên mới yêu cầu chia tài sản chung những phần tài sản chưa chia đó. Do không quy định về thời hiệu yêu cầu chia tài sản chung nên khi các bên có yêu cầu, tòa án vẫn phải thụ lý để giải quyết. Nhưng do Bộ luật Tố tụng dân sự 2011 chỉ quy định về thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết chia tài sản khi ly hôn, tòa án phải thụ lý vào nhóm quan hệ tranh chấp quyền sở hữu trong khi bản chất thì loại tranh chấp này phát sinh trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Việc Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 bổ sung tranh chấp về chia tài sản chung sau khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án là rất phù hợp với thực tiễn. Về nguyên tắc, những tài sản chưa được phân chia vẫn được xác định là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất và các bên vẫn là đồng chủ sở hữu cho dù họ không phải là
  • 17. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM vợ chồng. Do đó, trong việc giải quyết tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn, tòa án vẫn phải áp dụng các quy định về chia tài sản khi ly hôn. 1.3.2.2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân Khi quan hệ hôn nhân đang tồn tại, vợ, chồng muốn được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân vì rất nhiều lý do: muốn đầu tư kinh doanh riêng; thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng; bảo vệ đời sống chung của gia đình khi một bên vợ hoặc chồng lâm vào các tệ nạn xã hội, có hành vi phá tán tài sản gia đình; ngoại tình, đem tài sản chung của gia đình cho người khác; vợ và chồng có mâu thuẫn trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung; hoặc chỉ đơn giản, vợ chồng muốn độc lập về tài sản… Trong những trường hợp đó, không cần phải nêu ra bất cứ lý do gì, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung (trừ trường hợp quy định tại Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014), nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết trong những trường hợp sau: - Một bên vợ hoặc chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng bên còn lại không muốn. - Cả hai bên vợ chồng đều yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng không thỏa thuận được về phần tài sản đem chia, cách chia, tỷ lệ phân chia… Khi có yêu cầu của vợ, chồng hoặc của cả hai vợ chồng, tòa án sẽ thụ lý và áp dụng nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng như khi ly hôn để giải quyết. Ngoài vợ, chồng, không một chủ thể nào khác có quyền yêu cầu tòa án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật. Sau đó, nếu hai vợ chồng muốn chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, phải yêu cầu tòa án công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực. 1.3.2.3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn Sau khi quyết định hoặc bản án cho ly hôn của tòa án có hiệu lực pháp luật, theo thỏa thuận của hai bên hoặc phán quyết của tòa án, con chung sẽ được giao cho một bên trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Người còn lại phải cấp dưỡng cho con và được thăm nom
  • 18. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM con, không được quyền nuôi con vì nhiều lý do, phổ biến nhất là không đủ điều kiện nuôi con bằng người còn lại. Tuy nhiên, không phải người này không thể trực tiếp nuôi dưỡng con cho đến khi con trưởng thành. Sau khi ly hôn, pháp luật cho phép họ có cơ hội giành lại quyền nuôi con bằng quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, nếu cha, mẹ thỏa thuận được về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con thì thỏa thuận này phải được lập thành văn bản, được tòa án công nhận. Nếu có tranh chấp về vấn đề này, tòa án sẽ quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con khi xét thấy người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục con sau khi tham khảo ý kiến của con từ 07 tuổi trở lên. Người có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn bao gồm: cha, mẹ; người thân thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; hội liên hiệp phụ nữ. Người yêu cầu thay đổi người nuôi con phải cung cấp chứng cứ để chứng minh người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện để chăm sóc tốt cho con, có thể là: - Không có chỗ ở ổn định. - Không có thu nhập ổn định (tiền lương, tiền công lao động hoặc thu nhập đều đặn khác) và tài sản hợp pháp khác (sổ tiết kiệm, chứng khoán, vốn góp đầu tư, đất đai…). - Không dành thời gian cho con (công việc quá bận rộn, thường xuyên phải đi xa, thường xuyên để con cho người khác chăm sóc…). - Khả năng chăm sóc và hiểu con (cách xử lý khi con ốm, con đánh nhau; hiểu về các sở thích, thói quen của con, mắng chửi, nặng lời với con, dùng bạo lực về thể xác với con…). - Có lối sống đồi trụy; phá tán tài sản của con; xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật và đạo đức xã hội. 1.3.2.4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ Theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con là cơ quan đăng ký hộ tịch và tòa án. Trong đó, tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp; hoặc người được yêu
  • 19. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết; và trường hợp có yêu cầu về việc xác định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết, người thân thích của người này yêu cầu tòa án xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết. Cụ thể, tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ được tòa án giải quyết theo thủ tục vụ án dân sự bao gồm: - Nếu người yêu cầu và người được yêu cầu xác định là cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì tranh chấp về xác định cha, mẹ, con là khi một bên không đồng ý với yêu cầu. Do đó, người yêu cầu trong trường hợp này phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, không thuộc trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi. - Nếu người được yêu cầu là người chưa thành niên, đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi thì tranh chấp về xác định cha, mẹ, con là khi người đại diện hợp pháp cho người được yêu cầu không đồng ý với yêu cầu. - Nếu người yêu cầu là người đại diện hợp pháp cho người chưa thành niên, đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức và điều khiển hành vi thì tranh chấp về xác định cha, mẹ, con là khi người được yêu cầu không đồng ý với yêu cầu. Người đại diện hợp pháp trong trường hợp này có thể là: cha, mẹ, con, người giám hộ; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; hội liên hiệp phụ nữ. 1.3.2.5. Tranh chấp về cấp dưỡng Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc là người gặp khó khăn, túng thiếu. Những người có quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau là những người có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau (trừ trường hợp cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn), bao gồm: cha, mẹ và con; anh, chị và em; ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; vợ và chồng. Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng
  • 20. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM chính là nghĩa vụ phái sinh từ nghĩa vụ nuôi dưỡng khi những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không sống chung với nhau. Khi có yêu cầu của những người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (người được cấp dưỡng; cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó; người thân thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; hội liên hiệp phụ nữ), tòa án phải thụ lý và giải quyết một trong các tranh chấp sau: - Người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện nghĩa vụ đó trong khi có khả năng thực hiện nghĩa vụ đó. - Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ đó. Trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng có thể hiểu là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không sử dụng tài sản của bản thân hoặc không lao động tạo thu nhập để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của người được nuôi dưỡng. - Người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nhưng người có nghĩa vụ cấp dưỡng không đồng ý; hoặc người có nghĩa vụ cấp dưỡng yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nhưng người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó không đồng ý. Yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng chỉ được áp dụng khi phương thức cấp dưỡng là định kỳ. - Người được cấp dưỡng yêu cầu cấp dưỡng bổ sung nhưng người có nghĩa vụ cấp dưỡng không đồng ý. Về nguyên tắc, nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng đã thực hiện xong việc cấp dưỡng theo phương thức một lần thì nghĩa vụ cấp dưỡng đã chấm dứt. Sau đó, người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng do bị tai nạn hoặc bị mắc bệnh hiểm nghèo mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn có khả năng thực tế để tiếp tục cấp dưỡng thì người được cấp dưỡng có thể yêu cầu được cấp dưỡng bổ sung. Trường hợp này trước đây được hướng dẫn tại Điều 9 Nghị định 70/2001/NĐ-CP, tuy nhiên, hiện nay, chưa có quy định tương ứng để giải quyết vấn đề này. 1.3.2.6. Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; mang thai hộ vì mục đích nhân đạo Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
  • 21. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM Khi người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân hoặc sinh ra trong vòng 300 ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt được coi là con chung của vợ chồng. Nếu người phụ nữ độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra. Nguyên tắc này được áp dụng trong cả trường hợp con sinh ra không có huyết thống với cha hoặc với mẹ hoặc với cha và mẹ (do phải xin tinh trùng, noãn hoặc phôi). Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với đứa trẻ được sinh ra. Theo đó, khi đứa trẻ được sinh ra, nếu người cha, người mẹ không muốn thừa nhận con thì cũng không được yêu cầu xác định lại. Do vậy, tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có thể là: - Cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân yêu cầu cơ sở y tế bồi thường thiệt hại cho họ do có nhầm lẫn trong quá trình áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, không sử dụng noãn của người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc noãn của người phụ nữ độc thân hoặc tinh trùng của người chồng theo thỏa thuận giữa các bên nhưng cơ sở y tế không đồng ý. - Cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân yêu cầu cơ sở y tế bồi thường thiệt hại vì có sai sót trong quá trình áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, ví dụ: không thực hiện đúng quy trình nuôi cấy phôi dẫn đến hỏng phôi…, nhưng cơ sở y tế không đồng ý. - Cặp vợ chồng vô sinh yêu cầu cơ sở y tế bồi thường thiệt hại do cố tình sử dụng số phôi còn dư sau khi họ có con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà không được sự đồng ý của họ nhưng cơ sở y tế không đồng ý. Tranh chấp về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo Tranh chấp về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo bao gồm: - Bên nhờ mang thai hộ yêu cầu bên mang thai hộ giao đứa trẻ nhưng bên mang thai hộ không thực hiện. - Bên mang thai hộ giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ nhưng bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con.
  • 22. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM - Bên mang thai hộ yêu cầu bên nhờ mang thai hộ hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con nhưng bên nhờ mang thai hộ không thực hiện. - Bên nhờ mang thai hộ yêu cầu bên mang thai hộ bồi thường thiệt hại khi cố tình không tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sang lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế. - Bên mang thai hộ yêu cầu bên nhờ mang thai hộ bồi thường khi chậm nhận con gây thiệt hại cho bên họ nhưng bên nhờ mang thai hộ không thực hiện. - Bên mang thai hộ yêu cầu được nhận nuôi đứa trẻ khi chưa giao đứa trẻ mà cả hai vợ chồng bên nhờ mang thai hộ chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhưng người thân thích khác của bên nhờ mang thai hộ không đồng ý. Hiện nay, theo thống kê, tỷ lệ vô sinh ở Việt Nam khá cao, khoảng 7,7% số cặp vợ chồng hiếm muộn trong cả nước. Từ đó, nhu cầu sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ngày càng nhiều dẫn đến những tranh chấp phát sinh rất lớn. Mặc dù Luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản hướng dẫn đã kịp thời có những quy định về vấn đề này, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cũng đã ghi nhận thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan. Tuy nhiên, quyền yêu cầu tòa án giải quyết các tranh chấp đó lại chưa được quy định cụ thể. Điều này dẫn đến việc chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và gây khó khăn cho tòa án trong việc thụ lý và giải quyết. Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng hoặc khi hủy việc kết hôn trái pháp luật Nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng là việc nam, nữ không đăng ký kết hôn nhưng về chung sống với nhau, có hành vi ăn ở, sinh hoạt, thực hiện các quyền và nghĩa vụ với nhau như vợ chồng. Việc nam, nữ chung sống như vợ chồng không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ được pháp luật thừa nhận, trừ những trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng trước ngày 03/01/1987.
  • 23. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Hủy việc kết hôn trái pháp luật là việc tòa án theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, xem xét và quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật làm cho quan hệ hôn nhân trái pháp luật này không còn tồn tại nữa. Về nguyên tắc, việc kết hôn trái pháp luật sẽ bị tòa án hủy. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tế quan hệ giữa các bên sau khi kết hôn, khi giải quyết việc kết hôn trái pháp luật, tùy từng trường hợp cụ thể, tòa án có thể hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc công nhận quan hệ hôn nhân cho họ. Tòa án chỉ hủy việc kết hôn trái pháp luật nếu: tại thời điểm tòa án giải quyết việc kết hôn trái pháp luật, một bên hoặc cả hai bên vẫn chưa đủ điều kiện kết hôn; hoặc các bên đã đủ điều kiện kết hôn nhưng ít nhất một bên không yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân. Khi nam, nữ chấm dứt việc chung sống với nhau như vợ chồng hoặc kết hôn trái pháp luật và bị tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật đó, tranh chấp giữa họ về quyền nuôi dưỡng con chung và chia tài sản chung thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. Cụ thể: - Nếu hai bên không thống nhất được về người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con thì tòa án sẽ quyết định dựa trên các căn cứ giống như trường hợp vợ chồng có kết hôn hợp pháp. - Nếu hai bên không thỏa thuận được về việc chia tài sản chung thì tòa án sẽ áp dụng các nguyên tắc chia tài sản chung theo phần để giải quyết. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
  • 24. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM