SlideShare a Scribd company logo
1 of 66
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
1
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI : LY HÔN TRONG LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000
NGÀNH : LUẬT DÂN SỰ
NHẬN VIẾT THUÊ LUẬN VĂN
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864
WEBSITE:LUANVANLUAT.COM
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
2
Mục lục
Lời nói đầu………………………………………………………….. 1
Chương 1. khái quát chung về ly hôn………………….. 4
1.1 Khái niệm về ly hôn………………………………………………... 4
1.2 Sơ lược lịch sử chế định ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua
các giai đoạn phát triển………………………………………………... 5
1.2.1 Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam………………………….. 5
1.2.2 Thời kì Pháp thuộc……………………………………………….. 10
1.2.3 Giai đoạn từ 1945 đến nay……………………………………….. 11
1.2.3.1 Từ năm 1945 – 1954………………………………………………. 11
1.2.3.2 Từ năm 1955 – 1975………………………………………………. 13
1.2.3.3 Từ năm 1976 đến nay……………………………………………… 16
Chương 2. ly hôn theo luật hôn nhân
Và gia đình việt nam năm 2000 19
2.1 Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ……… 20
2.1.1 Khái niệm căn cứ ly hôn………………………………………….. 20
2.1.2 Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000……………………………………………………………………… 21
2.2 Các trường hợp ly hôn do luật
định………………………………..
30
2.2.1 Thuận tình ly hôn ………………………………………………... 30
2.2.1 Ly hôn theo yêu cầu của một bên………………………………… 33
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
3
2.3 Hậu quả pháp lý của ly hôn………………………………………... 36
2.3.1 Quan hệ nhân thân giữa hai vợ chồng…………………………... 36
2.3.2 Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn…………………………….. 38
2.3.2.1 Đối với tài sản riêng của mỗi bên………………………………. 38
2.3.2.2 Đối với tài sản chung của vợ chồng……………………………. 40
2.3.3 Giải quyết cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn…………………. 44
2.3.4 Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con sau khi cha mẹ ly hôn...... 45
Chương 3. Thực tiễn áp dụng luật hôn nhân &
GIA ĐìNH năm 2000 về ly hôn và một số kiến nghị
Hoàn thiện pháp luật về ly hôn
49
3.1. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng Luật hôn nhân & Gia
đình 2000 về ly hôn ……………………………………………………. 49
3.2. Vấn đề áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân & Gia đình
2000 trong quá trình xét xử và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về ly
hôn ………………………………………………………………………
53
Tài liệu tham khảo
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
4
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội,
quan hệ giữa con người với con người trong đó có quan hệ hôn nhân và gia
đình cũng bị tác động mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê của Toà án các cấp,
trong cả nước hàng năm số lượng các vụ án kiện về hôn nhân và gia đình mà
Toà án phải thụ lý giải quyết khoảng trên 50.000 vụ việc, chủ yếu là ly hôn và
tranh chấp tài sản.
Về mặt xã hội, ly hôn là hiện tượng bất bình thường. Nếu kết hôn là mặt
phải của xã hội thì ly hôn là mặt trái của xã hội, là cái chết của một tổ ấm gia
đình. Hậu quả của việc ly hôn là làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, gây ảnh
hưởng xấu đến con cái. Ly hôn là một biện pháp chấm dứt tình trạng mâu
thuẫn gay gắt giữa vợ và chồng, vợ chồng chia tay bằng một phán quyết của
Toà án, và nó không chỉ gây hậu quả đối với các thành viên trong gia đình mà
còn gây ra nhiều hậu quả khác cho xã hội. Do vậy, ly hôn không chỉ là vấn đề
riêng của mỗi gia đình mà là vấn đề của cả xã hội quan tâm.
Ngày nay ly hôn đã được nhìn nhận đúng với bản chất tích cực và tiến bộ
của nó. Dưới góc độ pháp lý, ly hôn được ghi nhận là một chế định độc lập
của Luật Hôn nhân và gia đình, nó là cơ sở cho Toà án và các bên đương sự
giải quyết vấn đề ly hôn một cách thấu tình đạt lý, góp phần giải quyết con
người ra khỏi sự ràng buộc không cần thiết khi tình cảm vợ chồng không còn.
Ta thấy rằng, một gia đình tốt thì xã hội mới tốt và ngược lại, xã hội tốt là
điều kiện thúc đẩy gia đình tiến bộ. Mặc dù vậy, khi gia đình lâm vào tình
trạng trầm trọng, không thể tồn tại một cách ổn định, hạnh phúc, quan hệ hôn
nhân trên thực tế đã tan vỡ, sự ly hôn là cần thiết. Nhà nước đặt ra chế độ hôn
nhân tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ, nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hoà
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
5
thuận, bền vững ngay cả khi gia đình đó tan vỡ thì sự bình đẳng về quyền và
lợi ích giữa vợ và chồng vẫn được đảm bảo. Đó là sự tiến bộ thể hiện quyền
tự do ly hôn của hai vợ chồng.
Từ khi luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời, nhà nước đã tuyên
truyền và phổ biến rộng rãi để mọi người dân hiểu biết trong việc bảo vệ
quyền lợi của mọi thành viên và xây dựng hạnh phúc gia đình XHCN. Các
cấp, các ngành mà đặc biệt là ngành Toà án đã góp phần không nhỏ vào việc
tổ chức và hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử các vụ án ly
hôn cho thấy, còn tồn tại một số vướng mắc như vấn đề xác định căn cứ ly
hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn. Nhiều vụ đã phải qua nhiều cấp xét xử do có
sự kháng cáo của đương sự và kháng nghị của người có thẩm quyền. Nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trên là do trình độ, năng lực của một số cán bộ xét xử
chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của công việc. Bên cạnh đó, cần phải nói
tới sự chưa hoàn thiện của pháp luật đã dẫn đến tình trạng các nhà áp dụng
pháp luật có cách hiểu không thống nhất nên đã vận dụng pháp luật một cách
tuỳ tiện.
2. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Trong Khóa luận này em lựa chọn nghiên cứu đề tài : “Ly hôn trong Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 ”. Mục đích của việc nghiên cứu
đề tài này là dựa trên cơ sở các quy định của luật thực định để giải quyết việc
ly hôn của vợ chồng cho hợp lý, chính xác, đảm bảo quyền, lợi ích của các
bên. Trên cơ sở đó, tìm hiểu những quy định còn bất cập, chưa cụ thể, để từ
đó có những nhận xét, kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề ly hôn theo luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam.
Với mục đích trên, Khóa luận thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về ly hôn. Với nhiệm vụ này,
em sẽ trình bày khái niệm ly hôn, tìm hiểu một cách có hệ thống và đầy đủ về
chế định ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển.
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
6
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về ly hôn. Với nội
dung này, Khóa luận đi sâu phân tích nội dung những quy định về ly hôn theo
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, so sánh với pháp luật của
một số nước trên thế giới để thấy rõ những điểm thành công và hạn chế của
pháp luật Việt nam trong vấn đề ly hôn.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về ly hôn thông qua hoạt động xét
xử của Toà án. Qua đó, đánh giá về những thành công và hạn chế của việc áp
dụng pháp luật về ly hôn để từ đó sẽ nêu lên một số những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về ly hôn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận sẽ sử dụng những phương pháp sau đây: Phương pháp
luận; phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp
thống kê; phương pháp so sánh,….
4. Cơ cấu của Khóa luận
Về bố cục của Khoá luận, ngoài phần Mục lục, Lời nói đầu và Danh mục
tài liệu tham khảo thì Khóa luận này được chia làm 3 Chương:
Chương 1. Khái quát chung về ly hôn
Chương 2. Ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
Chương 3. Thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về ly
hôn và một số kiến nghị hoàn thiện chế định về ly hôn
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
7
Chương 1
Khái quát chung về ly hôn
1.1 Khái niệm về ly hôn
Quan hệ hôn nhân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa với đặc điểm tồn tại lâu
dài, bền vững cho đến suốt cuộc đời con người vì nó được xác lập trên cơ sở
tình yêu thương, gắn bó giữa vợ chồng. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng,
vì những lý do nào đó dẫn tới giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc đến mức
họ không thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn được đặt ra để giải
phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thoát khỏi mâu thuẫn gia đình. Ly
hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ
hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ.
Vấn đề ly hôn được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là
khác nhau. Một số nước cấm vợ chồng ly hôn (theo Đạo thiên chúa), bởi vì
theo họ quan hệ vợ chồng bị ràng buộc thiêng liêng theo ý chúa. Một số nước
thì hạn chế ly hôn bằng cách đưa ra những điều kiện hết sức nghiêm ngặt.
Cấm ly hôn hay hạn chế ly hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá nhân.
Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn
chính đáng của vợ chồng, không cấm hoặc đặt ra những những điều kiện
nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ
chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly
hôn của mình. Nhà nước bằng pháp luật không thể cưỡng ép nam, nữ phải yêu
nhau và kết hôn với nhau, thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng phải chung
sống với nhau, phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó
giữa họ đã hết và mục đích của hôn nhân đã không thể đạt được. Việc giải
quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Điều đó là
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
8
hoàn toàn có lợi cho vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia đình.1
Theo Lê-nin “ thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “ tan rã ”
những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó
trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong
một xã hội văn minh ”2
. Nhưng bên cạnh đó, ly hôn cũng có mặt hạn chế đó là
sự ly tán gia đình, vợ chồng, con cái. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn, Toà án
phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân và bản chất của quan hệ vợ chồng và thực trạng
hôn nhân với nhiều yếu tố khác để đảm bảo quyền lợi cho các thành viên
trong gia đình, lợi ích của nhà nước và của xã hội.
Như vậy, ly hôn là sự chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận
hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng.
(Điều 8, khoản 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
1.2 Sơ lược lịch sử chế định ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các
giai đoạn phát triển
1.2.1 Ly hôn trong cổ luật Việt Nam
Trong cổ luật Việt Nam, các căn cứ ly hôn thường được biết dưới tên
“duyên cớ ly hôn” hay “các trường hợp ly hôn”. Các duyên cớ ly hôn trong cổ
luật thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Nho giáo, nghĩa là chúng được quy định dựa
trên sự bất bình đẳng giữa vợ chồng và nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi gia
đình, gia tộc hơn là quyền lợi cá nhân. Chính vì vậy, mà duyên cớ ly hôn
trong cổ luật được chia làm 3 loại: rẫy vợ, ly hôn bắt buộc và ly hôn thuận
tình.
Trường hợp rẫy vợ
Rẫy vợ là việc người chồng được đơn phương bỏ vợ ngoài tầm kiểm soát
của các thiết chế xã hội. Điều 301 Bộ luật Hồng Đức quy định: nếu người vợ
1. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, Tr.239
2. V.I.Lênin -Toàn tập, Tập 25, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, 1980, Tr 335.
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
9
phạm phải một trong các điều “thất xuất” thì chồng phải bỏ vợ, nếu không bỏ
vợ sẽ bị tội biếm. Tuy Bộ luật Hồng Đức không thống kê rõ các trường hợp
nào được coi là “thất xuất”, nhưng trong Hồng Đức thiện chính thư (Đoạn 64)
và Bộ luật Gia Long (Điều 108) đã nêu rõ, đó là bảy trường hợp sau: không
có con, dâm đãng, không thờ bố mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp, ghen tuông và
bị ác tật.
Trong quan niệm của xã hội Trung Quốc cũng như xã hội Việt Nam truyền
thống, việc hôn nhân không đơn thuần là việc hai cá nhân tạo lập một gia đình
mà hơn thế, nó là việc của hai bên gia tộc. Đối với cộng đồng gia tộc, mục
đích của hôn nhân là để duy trì dòng dõi và thờ phụng tổ tiên. Trong hoàn
cảnh ấy, việc không có con được coi là bất hiếu với cha mẹ, gây thiệt hại cho
lợi ích gia tộc và vì cớ ấy, người chồng được phép đơn phương rẫy bỏ vợ
mình. Cũng trong lợi ích của cộng đồng gia tộc mà việc người vợ ghen tuông
hay dâm đãng nếu người chồng không bỏ thì bại hoại gia đạo, người vợ trộm
cắp mà không bỏ thì vạ lây đến chồng, nếu người vợ bị ác tật thì khi có việc tế
tự thì sẽ không làm được cỗ, ảnh hưởng tới lợi ích gia đình, người chồng cũng
phải bỏ. Ta thấy, duyên cớ để người chồng bỏ vợ chủ yếu quy vào lỗi của
người vợ mà những lỗi này bắt nguồn từ địa vị thấp kém của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến. Năm trong số bảy duyên cớ rẫy vợ nói trên tuy có
phần lỗi của người vợ (dù không hẳn nghiêm trọng), nhưng vì lợi ích gia đình,
người chồng được quyền đơn phương ly hôn không cần biết đến ý kiến người
vợ cũng như không cần xét đâu là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm lỗi của
người vợ. Hai duyên cớ còn lại, không có con và bị ác tật, dù người phụ nữ
không có lỗi nhưng vẫn được các nhà làm luật chấp nhận như các duyên cớ ly
hôn, cũng là vì mục đích để bảo vệ quyền lợi của gia đình. Sự hy sinh quyền
lợi cá nhân vợ chồng để bảo vệ quyền lợi gia đình còn được các nhà lập pháp
hướng Nho giáo đẩy xa đến mức mô phỏng hoàn toàn quy định của pháp luật
Trung Quốc, theo đó, nếu người chồng không bỏ vợ trong trường hợp “thất
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
10
xuất” thì người chồng bị xử tội biếm (Điều 310 Bộ luật Hồng Đức, Đoạn 166
Hồng Đức Thiện chính thư). Có thể nói, pháp luật can thiệp khá sâu vào cuộc
sống gia đình của mỗi nhà. Việc ly hôn không là sự tự nguyện giữa hai người
mà hoàn toàn phụ thuộc vào địa vị kinh tế, vào sự phân tầng giai cấp xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh các trường hợp “thất xuất”, cổ luật Việt Nam còn quy
định 3 trường hợp người chồng không được bỏ vợ (tam bất khứ) dù cho người
vợ có phạm phải một trong các điều “thất xuất”, đó là: vợ đã để tang nhà
chồng được 3 năm; khi vợ chồng lấy nhau nghèo hèn, sau trở nên giàu có; khi
vợ chồng lấy nhau, vợ còn bà con họ hàng, khi bỏ vợ, vợ không còn nơi
nương tựa. Nếu vợ nằm trong trường hợp “thất xuất” nhưng nại được ra
trường hợp “tam bất khứ ” mà chồng vẫn bỏ vợ, thì chồng chồng bị phạt nhẹ
hai trật và hai vợ chồng phải đoàn tụ lại. Tuy nhiên, “tam bất khứ ” không có
hiệu lực nếu người vợ phạm phải tội “thông gian”.
Trường hợp ly hôn bắt buộc
Ngoài các trường hợp thất xuất, cổ luật Việt Nam còn quy định khi việc
kết hôn vi phạm các điều kiện của kết hôn thì vợ chồng buộc phải ly dị. Luật
không quy định bằng cách thống kê đâu là các điều kiện thiết yếu của hôn
nhân (luật chỉ quy định các nghi lễ kết hôn) cũng như quyền và nghĩa vụ cụ
thể của vợ chồng, mà luật chỉ can thiệp khi có sự vi phạm các điều kiện hoặc
các nghĩa vụ này và ly hôn bắt buộc được coi như là hình phạt cho sự vi phạm
ấy. Chẳng hạn, về sự vi phạm nghĩa vụ chung sống giữa hai vợ chồng, Điều
308 Bộ luật Hồng Đức quy định: “phàm người chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng
không đi lại thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì cho hạn một năm. Vì việc quan
phải đi xa thì không theo luật này”. Đây là quy định nhằm ràng buộc trách
nhiệm của người chồng. Trong gia đình dưới chế độ phong kiến, vợ chồng
phải có nghĩa vụ đối với nhau, đó là nghĩa vụ đồng cư. Tức là vợ chồng phải
cùng nhau chung sống, cùng ăn ở với nhau và nghĩa vụ phù trợ ràng buộc
trách nhiệm đối với nhau giữa hai vợ chồng. Ngoài ra, người vợ phải thực
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
11
hiện hai nghĩa vụ đối với chồng là trung thành và tòng phụ. Vì vậy, khi bước
chân về nhà chồng, họ phải theo chồng nhưng họ cũng không hoàn toàn lệ
thuộc vào chồng mà họ vẫn phải lo làm lo ăn để nuôi sống gia đình. Hành vi
bỏ lửng vợ mà không có lý do chính đáng là vi phạm nghĩa vụ đồng cư và
nghĩa vụ phù trợ của vợ chồng. Việc bỏ lửng vợ, không có trách nhiệm gia
đình là không làm tròn bổn phận của người chồng trong gia đình. Hơn nữa,
điều này làm cho người chồng không còn là trụ cột trong gia đình để người vợ
có thể nhờ cậy. Trong cuộc sống gia đình, vợ chồng phải có sự quan tâm,
chăm sóc nhau cả về thể chất và tinh thần. Việc người chồng bỏ lửng vợ là coi
như không còn tình nghĩa vợ chồng nữa. Do đó, để bảo vệ quyền lợi của
người phụ nữ, luật Hồng Đức cho phép người vợ được trình quan và thực hiện
quyền ly hôn của mình. Ngoài ra, theo Điều 333 luật Hồng Đức thì “Nếu con
rể lấy chuyện phi lý mà mắng nhiếc cha mẹ vợ. Đem việc thưa quan sẽ cho ly
dị”. Theo quan niệm của Nho giáo thì bất hiếu với cha mẹ là điều không thể
dung thứ được. Vì vậy, việc con rể lấy chuyện thị phi mắng nhiếc cha mẹ vợ
cũng là điều bất hiếu, xúc phạm đến danh dự gia giáo của gia đình, phá hoại
tình nghĩa vợ chồng. Tuy nhiên, trong trường hợp này người vợ phải thưa
quan và nếu quan cho phép mới được ly dị, chứ người vợ không được tự ý bỏ
chồng.
Điều 108 lệ thứ hai Luật Gia Long cũng quy định: “nếu người chồng mất
tích hoặc bỏ trốn 3 năm không về thì người vợ được trình quan xin phép cải
giá và nhà vợ không phải hoàn lại đồ sính lễ”.
Ly hôn bắt buộc cũng được áp dụng như kết hôn giữa những người có
quan hệ thân thích, cùng họ với nhau, đang có tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy
chồng, các quan lại lấy đàn bà, con gái hát xướng làm vợ cả, vợ lẽ. Ví dụ :
theo quy định của Điều 309, Luật Hồng Đức quy định: “ai lấy nàng hầu làm
vợ thì xử tội phạt, vì quá say đắm nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì xử tội biếm ” ;
Điều 317 quy định: “người nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
12
cưới vợ hoặc lấy chồng thì bị xử tội đồ, người khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì
xử biếm ba tư và đôi vợ chồng mới cưới phải chia lìa ” hoặc như Điều 323 có
quy định: “các quan và thuộc lại lấy đàn bà, con gái hát xướng làm vợ cả, vợ
lẽ, đều xử phạt 70 trượng, biếm ba tư; con cháu các quan viên mà lấy những
phụ nữ nói trên, thì xử phạt 60 trượng và đều phải ly dị ”.
Theo quy định của Điều 108, luật Gia Long quy định: khi vợ chồng phạm
phải điều “nghĩa tuyệt” thì buộc phải ly hôn. “Nghĩa tuyệt” có thể do lỗi của
vợ (vợ mưu sát chồng), lỗi của chồng (chồng bán vợ) hoặc là lỗi của hai vợ
chồng. Riêng trường hợp nếu vợ phạm phải “nghĩa tuyệt” mà chồng không
bỏ, thì chồng cũng bị phạt 80 trượng. Nghĩa là, ở các trường hợp “ nghĩa
tuyệt” dù người phụ nữ cũng được quyền ly hôn trong một số tình huống, địa
vị pháp lý của họ cũng không được bình đẳng với chồng. Có thể nói, với các
trường hợp ly hôn bắt buộc, cổ luật Việt Nam chưa phân biệt sự khác nhau
giữa chế định ly hôn với huỷ hôn trái pháp luật.
Trường hợp thuận tình ly hôn
Pháp luật thành văn đầu tiên về việc thuận tình ly hôn có từ thời Hồng
Đức, theo đọan 167 Hồng Đức Thiện chính thư, “hai vợ chồng bất hoà thuận
nguyện xin ly dị, thì tờ ly hôn phải tay viết tay ký,…..Tờ hợp đồng ly hôn ấy
phải làm thành hai bản, vợ chồng mỗi người cầm một bản, rồi mỗi người phân
chia một nơi. Dưới chữ niên hiệu và ngày, chồng ký họ tên, vợ điểm chỉ;
trong họ hoặc muốn mượn người viết thay cũng được…. ”. Thuận tình ly hôn
có thể do vợ chồng tính tình không hợp hoặc do nhiều nguyên nhân khác mà
không phải bó buộc theo điều khoản hoặc hình thức của pháp luật, luật không
có những dự liệu bắt buộc mà ly hôn được quyết định theo ý chí của hai vợ
chồng và vì vậy đã góp phần thực hiện quyền bình đẳng của người vợ trong
gia đình với người chồng.
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
13
Điều 108, luật Gia Long, thuận tình ly hôn được quy định như sau: “ nếu
chồng vợ trẹo ý không vui nhau, cả hai đều muốn ly dị, tình thì không hợp, ân
đã lìa thì không thể nào hoà lại được, cho phép họ ly dị, không bị tội ”.
Như vậy, việc nghiên cứu duyên cớ ly hôn trong cổ luật Việt Nam cho
phép rút ra một số nhận xét sau:1
Một là, khác với luật đương đại chỉ chấp nhận một căn cứ ly hôn duy nhất
dựa trên thực chất sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, trong cổ luật Việt Nam thì
căn cứ ly hôn được quy định không đơn nhất mà đa dạng hoặc người chồng
có thể tự ý ly hôn theo ý chí đơn phương của mình khi vợ phạm phải một
trong các điều “thất xuất”, hoặc hai vợ chồng có thể thuận tình ly hôn, cũng
có khi vợ hay chồng bị bắt buộc ly hôn khi bên kia vi phạm một trong các
điều kiện thiết yếu của hôn nhân hay vi phạm các nghĩa vụ của vợ chồng.
Điều quan trọng là, một khi những điều kiện của các căn cứ ly hôn nói trên
hội đủ, các đương sự được phép đặt dấu chấm hết cho cuộc hôn nhân của
mình.
Hai là, trong xã hội phong kiến Việt Nam thời kỳ ảnh hưởng đậm nét bởi
tư tưởng Nho giáo, nếu như việc kết lập hôn nhân chính là vì lợi ích gia đình,
thì khi huỷ bỏ hôn nhân, cũng là do quyền lợi của gia đình chi phối hơn là do
mối quan hệ giữa bản thân người vợ và người chồng. Nói cách khác, ý chí cá
nhân của vợ chồng bị gạt ra ngoài lề không chỉ khi họ kết lập hôn nhân của
chính họ, mà còn khi cuộc hôn nhân của họ bị huỷ bỏ, để thay vào đó là lợi
ích gia dình, gia tộc. Ly hôn vì lí do “thất xuất” hay “nghĩa tuyệt” là sự
phản ánh triệt để quan điểm này.
Ba là, cũng dưới ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đề cao đức trị mà
những quy định về duyên cớ ly hôn đã được thiết lập trên cơ sở đạo đức và
1.Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 8 ( 208 )
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
14
nhân cách cá nhân để rồi bằng cách ấy chúng đã xoá nhoà ranh giới giữa đạo
đức và pháp luật.1
Bốn là, duyên cớ ly hôn trong cổ luật thể hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và
chồng, trong đó số phận người phụ nữ phụ thuộc vào ý chí của người chồng
và gia đình chồng. Các trường hợp ly hôn do thất xuất đã thể hiện rõ nguyên
tắc này. Ngay cả trong trường hợp thuận tình ly hôn, cũng không có bất cứ sự
đảm bảo nào cho người phụ nữ.
1.2.2 Thời kỳ Pháp thuộc ( đến trước năm 1945)
Với mục đích phục vụ cho chính sách cai trị, thực dân Pháp đã chia đất
nước ta thành 3 miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ với tổ chức bộ máy nhà
nước và hệ thống pháp luật riêng.
Tại Nam Kỳ đã áp dụng quy định của của Bộ Dân Luật giản yếu 1883 quy
định quyền xin ly hôn chỉ do người chồng quyết định, người vợ không có
quyền xin ly hôn nhưng được áp dụng chế độ “tam bất khứ” để hạn chế quyền
xin ly hôn của người chồng. Chồng không có quyền xin bỏ vợ nếu như người
vợ đã để tang nhà chồng 3 năm, khi lấy nhau nghèo mà về sau giầu có, người
vợ không còn nơi nương tựa để trở về nhà.
Trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Trung Kỳ thì việc giải quyết ly hôn được
xác định trên cơ sở lỗi của vợ chồng tiếp tục được kế thừa. Tại Điều 118, 119
Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 để giải quyết duyên cớ ly hôn cho riêng vợ
(chồng). Theo Điều 118 Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định người chồng có thể xin
ly hôn vợ vì: vợ phạm gian, vợ bỏ nhà chồng mà đi, tuy đã bách phải về mà
không về, vợ thứ đánh, chửi, tệ bạc với vợ chính. Điều 119 Bộ Dân luật Bắc
Kỳ quy định người vợ có thể xin ly hôn vì những duyên cớ sau: chồng không
làm đúng nghĩa vụ đã cam đoan sau khi kết hôn, chồng bỏ nhà đi quá hai năm
không có cớ gì chính đáng và không lo liệu việc nuôi sống vợ con,…… Vấn
1.Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo, tập I, Gia đình, Sài Gòn, 1962, tr 561
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
15
đề ly hôn thời kỳ này, chủ yếu được xây dựng trên nền tảng Nho giáo phong
kiến trước đây và dựa theo Dân luật của Pháp năm 1804 với quan điểm thuần
tuý coi hôn nhân là một hợp đồng do Dân luật điều chỉnh.
1.2.3 Giai đoạn từ 1945 đến nay
1.2.3.1 Từ năm 1945 - 1954
Cách mạng tháng Tám 1945 đã đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ lên đại
vị làm chủ đất nước, xây dựng cuộc sống hoà bình, xã hội không còn chế độ
người bóc lột người. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đấu tranh xoá
bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến cổ hủ, lạc hậu để xây dựng chế độ
hôn nhân và gia đình văn minh, tiến bộ. Do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ
chúng ta mới giành được chính quyền, khó khăn chồng chất, chế độ phong
kiến còn đè nặng trong tư tưởng của nhân dân nên nhà nước ta chưa thể ban
hành một đạo luật về hôn nhân và gia đình mà chỉ thực hiện phong trào vận
động đời sống mới để nhân dân ta tự nguyện xoá bỏ hủ tục lạc hậu.
Bên cạnh cuộc vận động, ngày 10/10/1945 Chủ tịch nước đã ban hành Sắc
lệnh số 90/ST, cho phép áp dụng những quy định trong bộ luật của chế độ cũ
có chọn lọc trên nguyên tắc là không được trái với lợi ích của nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, trong đó, có vấn đề hôn nhân và gia đình và hậu quả
của ly hôn. Cũng ngay trong bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng…….và mưu cầu hạnh phúc” và trong
bản Hiến Pháp đầu tiên của nước ta năm 1946, quyền bình đẳng giữa nam và
nữ đã được ghi nhận tại Điều 19 Hiến pháp: “đàn bà ngang quyền với đàn ông
về mọi phương diện”1
. Điều này làm cơ sở pháp lí quan trọng cho việc đấu
tranh xoá bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, đặt nền móng cho xây
dựng chế độ hôn nhân và gia đình dân chủ, tiến bộ.
1. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
16
Ngày 22/5/1950, Chủ tịch nước Việt Nam DCCH đã ban hành Sắc lệnh số
97/SL về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ trong lĩnh vự hôn nhân và gia đình. Đến ngày 17/11/1950, Chủ tịch
nước Việt Nam DCCH ban hành Sắc lệnh số 159/SL quy định về vấn đề ly
hôn.
Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 có 15 điều, trong đó có 8 điều quy định
về hôn nhân và gia đình. Tại Điều 4 của Sắc lệnh này quy định cho phép
người đàn bà sau khi ly dị chồng, có thể lấy chồng khác ngay sau khi Toà
tuyên án ly dị, nếu dẫn chứng rằng mình không có thai hoặc đang có thai.
Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 với 9 điều, trong đó đã xoá bỏ sự bất
bình đẳng về nguyên nhân ly hôn giữa vợ và chồng trong pháp luật cũ. Điều 2
của Sắc lệnh số159 quy định: Toà án có thể cho phép vợ chồng ly hôn trong
các trường hợp sau:1
- Ngoại tình;
- Một bên can án phạt giam;
- Một bên bỏ nhà đi quá 2 năm không có duyên cớ chính đáng;
- Một bên mắc bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa khỏi;
- Vợ chồng tính tình không hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi không thể
chung sống được.
Ngoài ra, Sắc lệnh số 159 còn quy định việc bảo vệ phụ nữ có thai và thai
nhi trong khi ly hôn: “nếu vợ có thai thì vợ hay chồng có thể xin Toà tạm
hoãn để sau kỳ sinh nở mới xử việc ly hôn” ( Điều 5 ).
Cả hai Sắc lệnh số 97/SL và 159/SL đã đề ra một số nguyên tắc chung,
tiến bộ góp phần không nhỏ vào việc xoá bỏ chế độ hôn nhân phong kiến, giải
phong phụ nữ, thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trong thời kỳ đầu
của cách mạng dân tộc dân chủ. Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong gia
1. Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà
quy định về vấn đề ly hôn
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
17
đình và ngoài xã hội bước đầu được thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu
điểm mang tính dân chủ và tiến bộ của một nền pháp chế mới, Sắc lệnh số
159/SL quy định căn cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng.
1.2.3.2 Từ năm 1955 đến 1975
Đây là thời kỳ đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền: miền Bắc
dưới sự lãnh đạo của chính quyền nhà nước Việt Nam DCCH, miền Nam
dưới sự cai trị của đế quốc Mỹ và chính quyền phong kiến Sài Gòn. Trước
tình hình đó, Đảng và nhà nước ta đã đề ra nhiệm vụ cho mỗi miền.
ở miền Bắc, chế độ hôn nhân và gia đình được xây dựng trên nguyên tắc
tự do, tiến bộ, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và con
cái. Trên cơ sở Hiến pháp 1959 ghi nhận sự bình đẳng dân chủ giữa phụ nữ và
nam giới về các mặt, nhà nước bảo hộ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em, bảo vệ
hôn nhân và gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình được Quốc hội khoá I thông
qua ngày 29/12/1959 và có hiệu lực ngày 13/01/1960. Lần đầu tiên căn cứ ly
hôn được xác định hoàn toàn khác. Việc giải quyết ly hôn không dựa trên yếu
tố lỗi của các bên như trước đây mà trên cơ sở thực trạng của quan hệ hôn
nhân. Căn cứ ly hôn phản ánh hôn nhân không thể tồn tại được nữa, nếu xét
thấy “tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của
hôn nhân không đạt được” thì Toà án sẽ cho ly hôn. (Điều 26, Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1959 quy định: “ Khi một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, cơ
quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hoà giải, hoà giải không được, Toà án nhân
dân sẽ xét xử. Nếu tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án nhân dân sẽ cho ly hôn”).
Để áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 một cách đúng đắn, đồng
thời, phát huy hết tác dụng, nâng cao hiệu quả trong việc thi hành luật nhất là
trong giải quyết ly hôn và giải quyết hậu quả ly hôn. Toà án nhân dân tối cao
đã ban hành các thông tư, chỉ thị để hướng dẫn Toà án các địa phương giải
quyết việc ly hôn:
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
18
- Thông tư số 690 ngày 29/4/1960 của TANDTC hướng dẫn việc xử lý ly
hôn và các vấn đề có liên quan;
- Thông tư số 01 ngày 6/01/1964 của TANDTC hướng dẫn việc giải quyết
cấp dưỡng nuôi con;
- Chỉ thị số 69 ngày 24/12/1969 của TANDTC hướng dẫn việc giải quyết
về nhà ở, đảm bảo chỗ ở cho đương sự sau ly hôn.
Do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, nên Luật Hôn nhân và gia đình năm
1959 không tránh khỏi những hạn chế nhất định, vì do có nhiều quy định
mang tính chất đối kháng về quan điểm với các quy định tương ứng trong
pháp luật phong kiến, thực dân nhưng do điều kiện, hoàn cảnh lịch sử lúc ban
hành lại thêm các quy định thực sự có tác đụng đặt cơ sở hoàn chỉnh cho các
quan hệ hôn nhân gia đình mới XHCN đặc biệt là quan hệ nhân thân và tài
sản phát sinh trong đời sống gia đình.
ở miền Nam, sau năm 1954, đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp, thực
hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược
kiểu mới. Dưới chính sách cai trị của đế quốc Mỹ và chế độ nguỵ quyền Sài
Gòn, hệ thống các văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình được ban hành với
những nội dung lạc hậu, gồm có:
- Luật Gia đình ngày 02/01/1959 (Luật số 1-59) dưới chế độ Ngô Đình
Diệm;
- Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú và tài sản cộng đồng;
- Bộ Dân luật ngày 20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Các văn bản trên đều đã quy định bãi bỏ chế độ đa thê, song vẫn thựchiện
nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng, bảo vệ quyền gia trưởng. Chế độ đa
thê bị phá bỏ nhưng người vợ vẫn phụ thuộc chồng. Trong Bộ luật Gia đình
ngày 02/01/1959 thể hiện một tư tưởng hết sức cực đoan, việc này được thể
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
19
hiện ở Điều 55: “cấm chỉ sự vợ chồng ruồng bỏ nhau về sự ly hôn, trừ
trường hợp đặc biệt Tổng thống có thể quyết định”1
.
Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 và Bộ luật Sài Gòn ngày 20/01/1972 có
quy định căn cứ ly hôn. Tuy nhiên, việc giải quyết ly hôn dựa trên nguyên cớ
ly hôn được xác định dựa trên lỗi của vợ chồng. Điều 63 Sắc luật số 15/64
quy định 5 duyên cớ ly hôn mà nội dung chủ yếu là dựa trên lý do xin ly hôn
của Sắc luật ngày 17/01/1950 nhưng đã sửa lại cho cụ thể hơn: duyên cớ ly
hôn “do một bên bỏ nhà đi quá 2 năm không có duyên cớ chính đáng” được
sửa lại là “có án văn xác định sự biệt tích của người phối ngẫu đã thất tung”,
hoặc lý do “vợ chồng tính tình không hợp, đối xử với nhau không thể chung
sống được”, thể hiện bằng các hành vi cụ thể “vì sự ngược đãi, bạo hành hay
nhục mạ thường xuyên làm cho vợ chồng không thể chung sống với nhau
được nữa”. Bên cạnh đó, một bên có quyền xin ly hôn khi có án văn quy định
xử người phạm tội vì có hành vi phế bỏ gia đình (Điều 63). Chế độ ly thân và
ly hôn theo Bộ Dân luật năm 1972, duyên cớ ly hôn gồm :
- Vì sự mất tích của người phối ngẫu;
- Vì người phối ngẫu bị kết án trọng hình;
- Vì sự ngược đãi, bạo hành hay nhục mạ khiến cho vợ chồng không thể ăn
ở với nhau được nữa2
.
Trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn chỉ diễn ra trong khoảng thời gian
hôn thú được lập trên 2 năm và không quá 20 năm. Hậu quả pháp lý của ly
hôn là chấm dứt hoàn toàn quan hệ vợ chồng. Người vợ được lấy lại tên riêng
của mình và chỉ có thể tái giá sau 300 ngày, kể từ khi hôn nhân chấm dứt.
1.2.3.3 Từ năm 1976 đến nay
Sự ra đời của Hiến pháp 1980 đã có quy định mới về nguyên tắc xây dựng
chế độ hôn nhân và gia đình đã đòi hỏi Luật hôn nhân và gia đình phải có
1. Bộ luật gia đình của chế độ Sài Gòn cũ năm 1959
2. Bộ luật dân sự Sài Gòn năm 1972
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
20
những quy định để cụ thể hóa những nguyên tắc này. Sau 30 năm thực hiện ở
miền Bắc và hơn 10 năm thực hiện ở miền Nam, Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1959 có một số quy định không phù hợp. Điều này đòi hỏi phải có Luật
Hôn nhân và gia đình mới phù hợp. Xuất phát từ tình hình trên, tại kỳ họp thứ
12 Quốc hội khoá VII ngày 29/11/1986 đã thông qua Luật Hôn nhân và gia
đình năm 1986 gồm 10 Chương, 57 điều. Luật Hôn nhân và gia đình năm
1986 ra đời có sự kế thừa có chọn lọc của Luật Hôn nhân và gia đình năm
1959 đã được xây dựng trên 5 nguyên tắc sau: Hôn nhân tiến bộ, tự nguyện;
hôn nhân một vợ, một chồng; vợ chồng bình đẳng; bảo vệ quyền lợi của cha
mẹ và con cái; bảo vệ bà mẹ và trẻ em.
Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, căn cứ ly hôn được quy định
tại Điều 40:
“Khi vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hôn thì Toà án
nhân dân tiến hành điều tra và hoà giải.
Trong trường hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành
và xét nếu đúng là hai bên thực sự tự nguyện ly hôn, thì Toà án nhân dân công
nhận cho thuận tình ly hôn.
Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không
thành thì Toà án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án
nhân dân cho ly hôn”.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã từng bước nâng cao nhận thức và
ý thức của người dân trong việc thi hành các quy định của nhà nước. Từng
bước xoá bỏ chế độ hôn nhân phong kiến, tư sản thay vào đó là một chế độ
hôn nhân gia đình tự do, tiến bộ. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình và
trong xã hội được đề cao.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời khi nhà nước ta bắt đầu thời
kỳ đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để đáp ứng với
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
21
sự đổi mới trên thì hệ thống pháp luật Việt Nam cũng phải có sự đổi mới cho
phù hợp với sự phát triển chung của xã hội, Luật Hôn nhân và gia đình năm
1986 trở nên không phù hợp với hoàn cảnh xã hội hiện tại. Do vậy, đòi hỏi
Luật Hôn nhân và gia đình phải có sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh
mới. Tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá X ngày 09/6/2000 đã thông qua Luật
Hôn nhân và gia đình gồm 13 Chương, 110 điều và được xây dựng trên các
nguyên tắc :
- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng;
- Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa
người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam và người
nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ;
- Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia
đình;
- Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội, con
có nghĩa vụ tôn trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, cháu có nghĩa vụ kính
trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, các thành viên trong gia đình có nghĩa
vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;
- Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con,
giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong và ngoài giá thú;
- Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp
đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định căn cứ ly hôn theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Căn cứ ly hôn không được quy định riêng
biệt mà được quy định chung nhất, dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân đã
tan vỡ. Toà án nhân dân phải tiến hành điều tra và hoà giải nhằm bảo vệ lợi
ích của gia đình và chỉ khi nào xét thấy quan hệ quan hệ vợ chồng đã thực sự
đến mức “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
22
của hôn nhân không đạt được” thì Toà án mới giải quyết cho ly hôn (Điều
89).
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã kế thừa, phát triển và mở rộng
hơn, cụ thể hơn, chi tiết hơn so với luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 nhằm
mục đích giải quyết tốt nhất vấn đề ly hôn trong xã hội Việt Nam.
chương 2
ly hôn theo Luật
hôn nhân và gia đình việt nam năm 2000
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 7,
ngày 09/6/2000 thông qua, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2001 trên cơ sở tiếp
tục kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Luật gồm 13 Chương, 110 điều, được xây dựng trên cơ sở 6 nguyên tắc:
- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng;
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
23
- Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa
người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam và người
nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ;
- Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia
đình;
- Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội, con
có nghĩa vụ tôn trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, cháu có nghĩa vụ kính
trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, các thành viên trong gia đình có nghĩa
vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;
- Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con,
giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong và ngoài giá thú;
- Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp
đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.
Một trong những nguyên tắc quan trọng khi kết hôn là phải có sự tự
nguyện của hai bên nam nữ. Tự nguyện hoàn toàn trong việc kết hôn là hai
bên nam nữ thực sự mong muốn trở thành vợ chồng xuất phát từ tình yêu
thương chân chính giữa họ nhằm mục đích là cùng nhau xây dựng gia đình
hạnh phúc. Sự tự nguyện của các bên trong việc kết hôn là yếu tố quan trọng
đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài và bền vững.
Hôn nhân tự nguyện cũng đồng thời phải đảm bảo tự do ly hôn. Nếu như
không thể bắt buộc người ta kết hôn thì cũng không thể buộc họ tiếp tục cuộc
sống vợ chồng khi cuộc sống đó hoàn toàn không có sự tự nguyện và hạnh
phúc gia đình không thể hàn gắn được.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân, đảm bảo quyền tự do ly hôn của vợ chồng
không có nghĩa là giải quyết ly hôn tuỳ tiện, theo ý chí, nguyện vọng của vợ
chồng mà bằng pháp luật, nhà nước kiểm soát việc giải quyết ly hôn vì trong
quan hệ hôn nhân, không chỉ có lợi ích riêng của hai vợ chồng mà còn có lợi
ích của các thành viên khác trong gia đình, lợi ích của nhà nước và xã hội. Vì
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
24
vậy. thông qua pháp luật, nhà nước chỉ giải quyết ly hôn khi có đủ những căn
cứ theo quy định của pháp luật.
2.1 Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
2.1.1 Khái niệm căn cứ ly hôn
Trong xã hội có giai cấp, hôn nhân là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp
sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác
nhau, giai cấp thống trị đều thông qua nhà nước, bằng pháp luật quy định chế
độ hôn nhân phải phù hợp với ý chí của nhà nước. Tức là nhà nước bằng pháp
luật quy định trong những điều kiện nào thì cho phép xác lập quan hệ vợ
chồng, đồng thời xác định trong những điều kiện, căn cứ nhất định mới cho
phép xoá bỏ (chấm dứt) quan hệ hôn nhân. Đó chính là căn cứ ly hôn được
quy định trong pháp luật của nhà nước.
Như vậy, căn cứ ly hôn là những tình tiết hay điều kiện được quy định
trong pháp luật và chỉ có những tình tiết (điều kiện) đó thì Toà án mới cho ly
hôn1
.
Nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản quy định giải quyết ly hôn là dựa
vào lỗi của vợ, chồng. Nhà nước tư sản coi hôn nhân như là hợp đồng nên
chấm dứt hôn nhân cũng như chấm dứt hợp đồng và dựa vào lỗi của các bên.
Việc giải quyết vấn đề ly hôn ở những nước này là dựa vào hình thức của
quan hệ hôn nhân, do vậy, việc xét xử của Toà án là việc làm hết sức rập
khuôn, máy móc.
Quan điểm của nhà nước xã hội chủ nghĩa là giải quyết ly hôn dựa vào
thực chất của quan hệ vợ chồng, trên cơ sở đánh giá một cách khách quan.
Giải quyết “ly hôn” chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là
cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Tuy nhiên,
1. Luật sư - Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ - Thạc Sĩ Ngô Thị Hường : Một số vấn đề lí luận và
thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002,
Tr. 160 – 162
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
25
không phải sự tuỳ tiện của nhà lập pháp, cũng không phải sự tuỳ tiện của
những cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được là cuộc hôn
nhân đã chết hoặc chưa chết, bởi vì, như mọi người đều biết, việc xác nhận sự
kiện chết tuỳ thuộc vào thực chất của vấn đề, chứ không phải vào nguyện
vọng của những bên hữu quan2
.
Như vậy, việc Toà án giải quyết cho vợ chồng ly hôn là công nhận thực tế
đã và đang tồn tại trong mối quan hệ vợ chồng là không thể cải thiện được.
Giải quyết cho vợ chồng ly hôn trong những trường hợp này là điều hay cho
cả vợ chồng và cho xã hội.
2.1.2 Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Điều 89, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định:
“1. Toà án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà
án quyết định cho ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất
tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn”.
Khi có yêu cầu ly hôn của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng, Toà án phải
tiến hành điều tra và hoà giải, nếu hoà giải không thành thì Toà án cần xác
định tình trạng của quan hệ hôn nhân, xem có căn cứ ly hôn không để giải
quyết. Việc giải quyết ly hôn cần phải chính xác. Nếu xét xử đúng, kết quả đó
sẽ phù hợp với nguyện vọng của các bên, bảo vệ quyền và lợi ích của các
thành viên trong gia đình. Ngược lại, nếu việc giải quyết không chính xác sẽ
dẫn tới tan vỡ hạnh phúc gia đình, phá huỷ một cuộc hôn nhân còn có thể cứu
vãn được và gây ra hậu quả không đáng có. Mặt khác, giải quyết ly hôn cũng
đòi hỏi sự linh hoạt trong việc vận dụng căn cứ ly hôn đối với mỗi trường hợp
cụ thể.
2. C.Mác và Ph. Ănggheh : Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, T1,Tr. 234
- 235
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
26
Trước hết cần hiểu quan hệ vợ chồng ở vào “tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài” là giữa vợ chồng có nhiều lục đục, mâu thuẫn
sâu sắc đến mức vợ chồng không thể chịu đựng nhau được nữa, các thành
viên trong gia đình không thể chung sống bình thường, quan hệ vợ chồng
không thể tồn tại được, sự tan vỡ của hôn nhân và ly tán của gia đình là không
thể tránh khỏi. Vì vậy, không thể hiểu giản đơn “tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài” là biểu hiện tình yêu giữa vợ và chồng mà
rộng hơn đó là tình trạng về cuộc sống gia đình nói chung và các mối quan hệ
xung quanh. Môi trường và không khí căng thẳng của gia đình đã bó buộc con
người phải chịu đựng trong một hoàn cảnh hoàn toàn đặc biệt. Hoàn cảnh
cũng không những không bình thường mà còn rơi vào tình trạng không thể
giải quyết được như người chồng đánh đập vợ, một bên có quan hệ ngoại tình,
người vợ bỏ về nhà mẹ đẻ… Tình trạng này đã ảnh hưởng xấu đến cá nhân vợ
chồng, đến việc giáo dục con cái và đời sống bình thường của các thành viên
trong gia đình.
Nếu như quan hệ vợ chồng mới chỉ dừng lại ở “tình trạng trầm trọng” có
thể mang tính bồng bột chưa thực sự chín chắn để hiểu rõ vấn đề thì còn cơ
hội để xây dựng lại một cuộc sống gia đình. Thế nhưng trong thời điểm “tình
trạng trầm trọng” cũng không phải ai cũng tìm cách thoát ra được để trở lại
cuộc sống bìn thường. Tình trạng trầm trọng thường kéo dài theo một hậu quả
là đời sống chung không thể kéo dài và tồn tại. Một gia đình bền vững không
phải là một gia đình luôn hoàn hảo, không có mâu thuẫn mà là một gia đình
dám nhìn nhận và xử lý mâu thuẫn đó. Khi mâu thuẫn dẫn đến đời sống chung
không thể kéo dài thì mâu thuẫn đã không thể giải quyết được. “Đời sống
chung” ở đây không có nghĩa đơn thuần là sự chung sống. Cuộc sống của vợ
chồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: lối sống, cách sinh hoạt, tính cách, sở thích
mỗi bên, quan điểm nhìn nhận về cuộc sống, về con người. Để hoà nhịp với
cuộc sống gia đình, vợ chồng phải biết cùng nhau giải quyết tốt mọi vấn đề,
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
27
đặc biệt khi có mâu thuẫn. Có như vậy mới giữ vững được sự ổn định của gia
đình.
Cuộc sống gia đình không có sự hoà hợp thì giữa vợ chồng sẽ thường
xuyên xảy ra xung đột gay gắt, quyền và nghĩa vụ đối với nhau, đối với việc
xây dựng gia đình và chăm sóc con cái sẽ không được tốt. Tất cả điều đó sẽ
tạo ra một áp lực tâm lý cho đời sống tinh thần của vợ chồng, chi phối hành vi
xử sự giữa vợ và chồng. Quan hệ vợ chồng từ tình cảm yêu thương đã chuyển
sang đối nghịch, họ không thể chịu đựng được với nhau. Đời sống chung chỉ
làm con người bế tắc và đau khổ. Ly hôn dù sao cũng là giải pháp tốt nhất cho
cả hai vợ chồng khỏi bị tù túng.
Để có một đánh giá chính xác về tình trạng quan hệ vợ chồng, Nghị quyết
số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 đã nêu rõ: được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng
khi:
- Vợ, chồng không yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, như :
Người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng
muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ
chức nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như : Thường
xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và
uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn
thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau, như : Có quan hệ ngoại tình, đã
được người chồng hoặc người vợ hay bà con thân thích của họ, hoặc cơ quan,
tổ chức nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có hành vi ngoại tình. (Mục
8, điểm a.1, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000).
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
28
Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài
được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm
trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 của Nghị quyết số 02/2000/NQ -
HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao .
Trên thực tế cho thấy, nếu đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn
tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục có quan hệ sống ly thân, bỏ
mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau thì
có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài
được. (Mục 8, điểm a.2, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày
23/12/2000).
Ngoài ra, mục đích của hôn nhân không đạt được theo Mục 8, điểm a.3,
Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 là không có tình nghĩa
vợ chồng, không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn
trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ chồng; không tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau
phát triển mọi mặt.
Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong “tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài” thì thường dẫn tới hậu quả làm cho “mục đích của
hôn nhân không đạt được”. Mục đích của hôn nhân là tình yêu giữa nam và
nữ muốn chung sống với nhau suốt đời, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh
phúc, bền vững trên cơ sở giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Con người tiến tới hôn
nhân với mục đích mong muốn có được một cuộc sống hạnh phúc. Do vậy,
khi mục đích hôn nhân “không đạt được” thì quan hệ hôn nhân thường có tác
động ngược lại. Khi đó chấm dứt hôn nhân được giải quyết bằng việc ly hôn.
Mục đích của hôn nhân nói chung xuất phát từ bản chất của hôn nhân. Toà
án không thể dựa vào mục đích của hai người kết hôn mà xem xét có đạt được
hay không để giải quyết ly hôn. Phần lớn mục đích của nam và nữ trước khi
kết hôn là hướng tới xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững nhưng cũng có
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
29
nhiều cuộc hôn nhân được xác lập bắt đầu từ những mục đích khác nhau. Dù
cho họ từng kết hôn với mục đích nào đi chăng nữa thì mục đích của hôn
nhân bền vững, hạnh phúc vẫn là tiêu chuẩn cao nhất mà bất kỳ ai kết hôn
cũng hướng tới. Tuy nhiên, mục đích của vợ hay chồng đôi khi cũng ảnh
hưởng tới cuộc sống gia đình nếu như nó không đạt được sau khi kết hôn.
Mục đích của hai người không phải bao giờ cũng giống nhau. Hôn nhân có
thể đem đến cho người này nhưng lại không làm thoả mãn mục đích của
người kia hoặc cả hai người. Vì vậy, điều cần thiết là phải hiểu được mục đích
của hôn nhân. Nhà làm luật ở đây muốn nói đến mục đích cốt lõi của hôn
nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Hôn nhân với mục đích rất
phong phú và có thể thay đổi nhưng mục đích của hôn nhân lại mang tính cố
định duy nhất. Bất cứ một cuộc hôn nhân nào, nếu không đạt được mục đích
đó thì việc duy trì nó là không cần thiết và vợ chồng có thể được ly hôn.
Ví dụ: Trường hợp ly hôn giữa anh Nguyễn Văn Nam và chị Bùi Thanh Tú
tại TAND quận Đống Đa. Anh Nam và chị Tú kết hôn với nhau năm 1991,
năm đầu họ chung sống với nhau rất hạnh phúc và có với nhau một cháu gái.
Chị ở nhà nội trợ còn anh làm lái xe, thường xuyên vắng nhà. Do vậy, anh ít
khi về thăm nhà và không quan tâm đến hai mẹ con chị. Trong 8 năm kéo dài
như vậy đã khiến cho chị Tú nghi ngờ. Chị đã điều tra và phát hiện anh đã có
quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Do vậy, lần nào anh về thăm nhà là
vợ chồng anh chị lại cãi cọ, đánh đập nhau. Sự việc này kéo dài tự năm 1998
đến năm 2001, anh Nam có đơn xin ly hôn, TAND quận Đống Đa và TAND
TP Hà Nội đã bác đơn. Đến năm 2003, anh Nam lại có đơn xin ly hôn với ly
do là từ năm 1998 đến nay, quan hệ vợ chồng anh không hàn gắn được, tình
nghĩa vợ chồng không còn và việc này đã kéo dài qua lâu nên thiết tha xin ly
hôn. Chị Tú cũng thừa nhận quan hệ vợ chồng đã chấm dứt vào năm 1998.
Từ năm 1999 đến nay, mỗi lần anh Nam về nhà lại liên tục hành hạ, đánh đập
chị. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nhưng không nhất trí ly hôn vì
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
30
không muốn làm ảnh hưởng đến con cái. Như vậy, ta có thể thấy quan hệ hôn
giữa anh Nam và chị Tú đã mâu thuẫn trầm trọng, cả hai người đều thừa nhận
vợ chồng không còn tình cảm với nhau nữa. Qua nhiều lần hoà giải và hai lần
xử bác đơn xin ly hôn, vợ chồng anh chị cũng không hàn gắn lại được. Hơn
nữa anh chị lại thường xuyên cãi chửi nhau. Cuộc hôn nhân chỉ còn là hình
thức làm cho hai người rằn vặt, đau khổ. Mục đích của hôn nhân là xây dựng
gia đình hạnh phúc, bền vững nhưng điều đó không đạt được đối với anh chị
mà cả hai người đều không được sống một cách yên ổn. Bản án số 02/LHST
ngày 14/8/2003 của TAND huyện Gia Lâm đã quyết định: xử cho ly hôn giữa
anh Nam và chị Tú, chấm dứt một cuộc hôn nhân tan vỡ đã kéo dài mà không
đạt được mục đích1
.
Trong quá trình giải quyết ly hôn cần phải có sự phân biệt giữa căn cứ ly
hôn với nguyên nhân, lý do và động cơ xin ly hôn của đương sự. Nguyên
nhân ly hôn là những hiện tượng, sự kiện tác động đến hôn nhân và làm cho
hôn nhân tan vỡ, ly hôn là kết quả tất yếu của mối quan hệ nhân quả với
nguyên nhân nào đó phát sinh trong cuộc sống vợ chồng chẳng hạn như tính
tình vợ chồng không hợp, ngoại tình…. còn lý do ly hôn chỉ là cái cớ mà
đương sự dựa vào đó để Toà án giải quyết ly hôn. Trong nhiều trường hợp, lý
do ly hôn cũng đồng thời là nguyên nhân ly hôn. Còn số ít, để tránh việc phải
nêu ra nguyên nhân, động cơ thầm kín, họ thường tìm những lý do nào đó hợp
lý để che lấp đi nguyên nhân thực sự dẫn đến ly hôn.
Khác với nguyên nhân và lý do ly hôn, động cơ ly hôn thường mang tính
tiềm ẩn. Đó là trường hợp tâm lý bên trong của đương sự, thúc đẩy đương sự
xin ly hôn. Vợ chồng khi ly hôn thường có xu hướng che đậy động cơ ly hôn,
cho dù động cơ có chính đáng hay không. Có thể lấy ví dụ sau: Một đôi vợ
chồng cưới nhau đã 10 năm mà không có con, chị vợ biết mình không có khả
1. TAND huyện Gia Lâm, Bản án sơ thẩm số 02/LHST ngày 14/8/2003
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
31
năng sinh đẻ, chị quyết định xin ly hôn chồng để giải toả tâm lý cho mình và
tạo điều kiện cho anh chồng có cơ hội kết hôn với người khác. Qua điều tra,
Toà án nhận thấy hai bên vợ chồng vẫn thực sự yêu thương nhau, có thể khắc
phục được tình trạng nên đã kiên trì thuyết phục anh chị đoàn tụ.
Việc giải quyết ly hôn hay không là dựa vào căn cứ ly hôn theo quy định
tại Điều 89, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Toà án muốn giải quyết cho
đương sự ly hôn hay không ly hôn thì phải căn cứ vào thực trạng hôn nhân
của họ. Việc tìm hiểu nguyên nhân, lý do, động cơ ly hôn là rất cần thiết
nhằm mục đích giải quyết linh hoạt các vụ án, xác định căn cứ ly hôn thật
chính xác, hạn chế đến mức thấp nhất việc ly hôn, bảo vệ và củng cố hạnh
phúc gia đình.
ở một số nước trên thế giới, cơ sở của việc giải quyết vấn đề ly hôn lại có
sự kết hợp giữa thực trạng của hôn nhân và yếu tố lỗi để giải quyết việc ly
hôn.
Theo Bộ luật dân sự Pháp, Điều 243 quy định: “Vợ hoặc chồng có thể xin
ly hôn khi nêu ra toàn bộ những sự việc bắt nguồn từ bên vợ hoặc chồng làm
cho cuộc sống chung không thể tiếp tục”. Theo quy định này, một bên vợ
hoặc chồng làm đơn đến Toà án xin ly hôn trong đó có nêu lỗi của bên kia và
nếu bên kia thừa nhận lỗi trước Toà thì Toà sẽ tuyên ly hôn và theo Điều 230
BLDS Pháp quy định: “Nếu hai vợ chồng cùng xin ly hôn thì không phải nói
rõ lý do”, trong trường hợp này, căn cứ cho ly hôn được xác định nếu việc ly
hôn do một bên xin với lý do bên kia làm cho cuộc sống chung không thể tiếp
tục và bên kia chấp nhận thì thẩm phán tuyên bố cho ly hôn mà không cần
xem xét với yếu tố lỗi. Như vậy, trong trường hợp này ly hôn được giải quyết
theo sự thoả thuận của đương sự. Điều đó cũng phù hợp với bản chất của hôn
nhân khi pháp luật của Pháp coi hôn nhân là một hợp đồng như những hợp
đồng dân sự khác. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự Pháp cũng có xét đến tình trạng
hôn nhân trên thực tế của vợ chồng, Toà án sẽ xử cho ly hôn, nếu tính tình của
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
32
một người đã thay đổi đến mức không thể sống chung được nữa và theo
những dự đoán có lý nhất, không thể được khôi phục trong tương lai. Bên
cạnh việc xác định về tình trạng đời sống chung tan vỡ, còn phải xét đến thời
gian sống riêng biệt của hai vợ chồng, pháp luật quy định khoảng thời gian đó
là 6 năm (Điều 237 BLDS Pháp )1
. ở Canađa, luật pháp về ly hôn có sự kết
hợp giữa căn cứ ly hôn trong việc xác định yếu tố lỗi và thực trạng hôn nhân.
Hôn nhân được coi là tan vỡ khi hai vợ chồng sống riêng rẽ đã hơn một năm
và lí do là hôn nhân bị rạn nứt, khi hai vợ chồng có quan hệ ngoại tình với
người khác hoặc khi vợ hoặc chồng có đối xử ngược đãi cả về tinh thần lẫn
thể chất làm bên kia không thể chịu đựng được. Trường hợp đó Toà án sẽ cho
ly hôn2
. Còn theo luật Hôn nhân và gia đình ở Singapore, ly hôn chủ yếu dựa
vào yếu tố lỗi trong đó việc xác định hôn nhân tan vỡ, không thể phục hồi căn
cứ vào việc một bên ngoại tình thông dâm mà bên kia không thể tha thứ,
khoan dung để chung sống với nhau được, một bên bị tệ bạc quá đáng, có sự
ruồng bỏ không chung sống liên tục trong 2 năm và không có ý định quay trở
lại hoặc đã ly thân trong 3 năm (nếu bên kia đồng ý), 4 năm (nếu bên kia
không chấp nhận)3
. Theo Luật dân sự Nhật Bản, chồng hoặc vợ có thể ly hôn
nhưng qua thoả thuận hoặc ly hôn theo trình tự xét xử. Đối với trường hợp ly
hôn theo trình tự xét xử, chồng hoặc vợ chỉ có quyền kiện đòi ly hôn trong
những trường hợp sau: Nếu một trong hai người bị người kia ngược đãi, hành
hạ thậm tệ; một trong hai người có hành vi không chung thuỷ; nếu một trong
hai người trong 3 năm liền không rõ còn sống hay đã chết; một trong hai
người bị bệnh tâm thần mà không có khả năng chữa trị; tồn tại lý do dẫn đến
các bên không thể tiếp tục hôn nhân 4
.
1. Bộ luật dân sự nước Cộng hoà Pháp năm 1998, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội
2. Luật ly hôn của Canada năm 1985
3. Luật Hôn nhân và gia đình Singapore
4. Luật dân sự Nhật Bản
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
33
Qua tổng kết thực tiễn giải quyết các án kiện ly hôn của Toà án cho thấy
số vụ ly hôn có hành vi ngược đãi, đánh đập chiếm tỉ lệ cao nhất trong các
nguyên nhân dẫn đến ly hôn ở nước ta trong đó thì đa phần phụ nữ là nạn
nhân của tình trạng này. Tình trạng bạo lực trong gia đình ngày càng gia tăng
và thể hiện tính chất nghiêm trọng của nó. Tình trạng bạo lực trong gia đình
xảy ra do nhiều lý do khác nhau. Có trường hợp do cuộc sống vật chất quá
khó khăn. Có trường hợp do ghen tuông, nghi ngờ một bên ngoại tình nên đã
đánh đập nhau. Tệ cờ bạc, nghiện ngập cũng là lý do dẫn đến tình trạng vợ
chồng đánh đập, ngược đãi nhau. Đa phần bạo lực trong gia đình dẫn đến tình
trạng vợ chồng ly hôn, có trường hợp dẫn đến án mạng. Ví dụ: vụ Hà Văn H ở
huyện S, Thành phố H do bị vợ cằn nhằn về việc đánh bạc nên đã thường
xuyên đánh đập vợ. Do không chịu đựng được, chị đã đem theo con bỏ về nhà
mẹ đẻ. H đã đến nhà mẹ vợ đâm chết vợ và làm mẹ vợ bị trọng thương….
Hiện tượng vợ chồng ngoại tình cũng dẫn đến cuộc sống vợ chồng lâm vào
“tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài”. Cùng với nạn bạo
lực trong gia đình, việc vợ chồng ngoại tình cũng trở thành nguyên nhân
chính dẫn đến ly hôn. Theo thống kê, hàng năm có khoảng 10% số vụ ly hôn
do vợ chồng ngoại tình. Hành vi ngoại tình của vợ chồng có thể là nguyên
nhân dẫn đến hạnh phúc gia đình bị tan vỡ và mâu thuẫn gia đình cũng là lý
do dẫn đến vợ chồng ly hôn.
Thông thường những mâu thuẫn có thể phát sinh giữa vợ và chồng nhưng
cũng có thể mâu thuẫn phát sinh giữa vợ, chồng với cha mẹ, anh, chị em của
một trong hai bên. Những mâu thuẫn này có thể rất nhỏ, chỉ là do bất đồng
quan điểm trong sinh hoạt hàng ngày, trong việc đối xử với các thành viên
trong gia đình, trong việc nuôi dậy con cái. Nhưng do vợ chồng chưa thực sự
thông cảm, không thiện chí lại cố chấp nên những mâu thuẫn ngày càng tăng
dẫn đến một trong hai bên hoặc cả hai bên không thể chịu đựng được nhau và
họ đã yêu cầu Toà án cho họ được ly hôn.
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
34
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 89 của luật Hôn nhân và gia đình năm
2000: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất
tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn” (khoản 2, Điều 78, Bộ luật
dân sự năm 2005 ). Như vậy, quyết định tuyên bố mất tích của Toà án được
coi là căn cứ ly hôn nếu người vợ hoặc chồng của người bị mất tích yêu cầu
được ly hôn. Quy định này hoàn toàn phù hợp với mục đích của hôn nhân.
Nếu một trong hai vợ chồng bị tuyên bố mất tích có nghĩa là họ đã biệt tích 2
năm không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết. Chính
sự vắng mặt đó của một trong hai vợ chồng đã làm cho quan hệ hôn nhân của
họ tồn tại chỉ là hình thức. Giải quyết ly hôn trong trường hợp này nhằm bảo
vệ quyền cho người vợ hoặc người chồng ở nhà về các lợi ích nhân thân và
lợi ích tài sản, đồng thời cũng nhằm củng cố mối quan hệ gia đình. Trong
trường hợp người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố vợ
hoặc chồng họ mất tích và yêu cầu ly hôn, nếu có đủ điều kiện thì Toà án
tuyên bố người đó mất tích và giải quyết ly hôn cho họ. Nếu chưa đủ điều
kiện tuyên bố mất tích thì Toà án bác yêu cầu tuyên bố mất tích và cũng bác
yêu cầu ly hôn của người kia. Trường hợp việc tuyên bố vợ hoặc chồng mất
tích đã xảy ra trước đó, sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ hoặc
chồng mất tích có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ của
người đó mới có yêu cầu ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn ( mục 8 điểm
b, Nghị quyết số 02/2000/ NQ - HĐTP ).
2.2 Các trường hợp ly hôn theo luật định
2.2.1 Thuận tình ly hôn
Thuận tình ly hôn là trường hợp cả vợ hoặc chồng cùng yêu cầu chấm dứt
hôn nhân được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng1
.
1. Luật sư - Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ - Thạc Sĩ Ngô Thị Hường : Một số vấn đề lí luận và
thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002,
Tr. 160 – 162
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
35
Theo Điều 90 luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Trong
trường hợp vợ chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải không thành, nếu xét thấy
hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận về việc chia tài sản, việc
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Toà án công nhận thuận
tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi
chính đáng của vợ và các con; nếu không thoả thuận được hoặc tuy có thoả
thuận nhưng không đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Toà án
quyết định”.
Việc chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn phải được tiến hành ở Toà án nhân
dân, pháp luật quy định việc thuận tình ly hôn là công nhận và đảm bảo quyền
tự do ly hôn chính đáng của hai bên vợ chồng.
Giải quyết ly hôn trong trường hợp hai vợ chồng có yêu cầu thuận tình ly
hôn, cần lưu ý rằng sự tự nguyện của hai vợ chồng không phải là căn cứ quyết
định việc chấm dứt hôn nhân mà sự tự nguyện của hai vợ chồng yêu cầu chấm
dứt hôn nhân chỉ là cơ sở để Toà án xét xử. Cho nên, dù hai vợ chồng đã
thuận tình ly hôn, việc xét xử vẫn phải theo đúng bản chất của sự việc, tức là
phải dựa trên căn cứ ly hôn theo luật định. Có như vậy mới đảm bảo được lợi
ích của vợ chồng, con cái và lợi ích của xã hội.
Đối với những trường hợp vợ chồng xin thuận tình ly hôn nhưng thực tế
quan hệ vợ chồng chưa phải đã đến mức "tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được" thì Toà án
không ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, vì trái với nguyên tắc của
luật Hôn nhân và gia đình. Bảo đảm "thật sự tự nguyện ly hôn" là cả hai vợ
chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của mình, không bị cưỡng ép, không bị lừa
dối trong việc thuận tình ly hôn. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn
của hai vợ chồng đều phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình họ, phù
hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực, đạo đức xã hội.
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
36
Cũng trong Điều 90, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, trong việc thuận
tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly hôn của vợ chồng,
đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính
đáng của vợ và con, nếu vợ chồng không thoả thuận được hoặc tuy có thoả
thuận nhưng không bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con thì
Toà án quyết định.
Mục 9 của Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về thuận tình ly hôn đã chỉ rõ:
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án vẫn phải
tiến hành hoà giải, mục đích là để vợ chồng rút đơn yêu cầu ly hôn và đoàn tụ
với nhau. Nếu hoà giải thành tức là vợ chồng rút đơn thuận tình ly hôn thì Toà
án lập biên bản hoà giải thành, sau 15 ngày kể từ ngày Toà án lập biên bản
hoà giải thành mà các bên đương sự không thay đổi ý kiến thì Toà án ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án (khoản 2, Điều 44 và khoản 2, Điều 46 Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự). Trong trường hợp Toà án hoà giải
không thành thì Toà án lập biên bản về việc tự nguyện ly hôn và hoà giải
đoàn tụ không thành. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản nếu vợ
hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng không có sự thay đổi ý kiến cũng như Viện
kiểm sát không có phản đối sự thoả thuận đó, thì Toà án ra quyết định công
nhận thuận tình ly hôn mà không phải mở phiên Toà khi có đủ các điều kiện
sau:
- Hai bên thật sự tự nguyện ly hôn;
- Hai bên đã thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản, việc trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
37
- Sự thoả thuận của hai bên về tài sản và con trong trường hợp cụ thể này
là bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con (Mục 9 điểm a, Nghị quyết số
02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000).
Trong trường hợp hoà giải không thành, các bên thực sự tự nguyện ly hôn
nhưng không thoả thuận được về việc chia tài sản hoặc việc trông nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì Toà án lập biên bản về việc hoà giải đoàn tụ
không thành và về những vấn đề hai bên không thoả thuận được hoặc có thoả
thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con, đồng thời
mở phiên Toà xét xử theo thủ tục chung (Mục 9 điểm b, Nghị quyết số
02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000).
Trong những năm gần đây, đã xuất hiện một số trường hợp xin thuận tình
ly hôn giả tạo, lừa dối cơ quan pháp luật, nhằm mưu cầu lợi ích riêng. Họ tự
nghĩ ra những mâu thuẫn và lý do ly hôn nhìn bề ngoài có vẻ chính đáng
nhưng thực tế họ lại không mong muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng và giữa
họ không hề có mâu thuẫn. Nếu không điều tra kỹ, dễ dẫn đến trường hợp Toà
án có thể kết luận là đã có đủ căn cứ để công nhận thuận tình ly hôn. Như vậy,
chúng ta đã mắc lừa họ và họ sẽ đạt được mục đích riêng như thuận tình ly
hôn giả để chuyển hộ khẩu; phụ cấp người ăn theo; lấy vợ lẽ nhằm tẩu tán tài
sản, trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với người khác. Vì vậy,
trong những trường hợp này, Toà án cần xử bác đơn xin ly hôn của đương sự,
đồng thời nghiêm khắc phê phán, giáo dục đương sự với những hành vi sai
trái đó.
2.2.2 Ly hôn theo yêu cầu của một bên
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
38
Ly hôn theo yêu cầu của một bên (của một bên vợ hoặc một bên chồng) là
trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng yêu cầu được chấm dứt quan hệ
hôn nhân1
.
Điều 91, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Khi một bên vợ
hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành thì Toà án xem
xét, giải quyết ly hôn”.
Về nguyên tắc, Toà án chỉ xét xử ly hôn nếu xét thấy quan hệ vợ chồng đã
ở vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của
hôn nhân không đạt được”. Như vậy, giải quyết ly hôn trong cả hai trường
hợp vợ chồng thuận tình ly hôn hoặc do một bên vợ hoặc một bên chồng yêu
cầu ly hôn đều giống nhau về bản chất. Bản án và quyết định ly hôn của Toà
án đều là việc Toà án xác nhận một cuộc hôn nhân đã “chết”, không thể tồn
tại được nữa. Trong trường hợp một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn thì chỉ có
một bên vợ, chồng tự nguyện và nhận thức được quan hệ hôn nhân đã tan vỡ,
còn bên kia - người chồng, vợ không muốn ly hôn vì không nhận thức được
mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng hoặc có thể nhận thức được nhưng lại xin
đoàn tụ vì động cơ nào đó.
Về trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ, chồng, Nghị quyết số
02/2000/NQ/HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao hướng dẫn tại mục 10 như sau :
Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn thì Toà án phải tiến hành hoà
giải. Nếu hoà giải đoàn tụ không thành mà người yêu cầu xin ly hôn rút đơn
yêu cầu xin ly hôn thì Toà án áp dụng điểm 2 Điều 46 - Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự, ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án.
1. Luật sư - Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ - Thạc Sĩ Ngô Thị Hường : Một số vấn đề lí luận và
thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002,
Tr. 160 – 162
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
39
Nếu người xin ly hôn không rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án lập biên
bản hoà giải đoàn tụ không thành. Sau 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản, nếu
vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng không có sự thay đổi ý kiến cũng như
Viện kiểm sát không phản đối thì Toà án quyết định công nhận hoà giải đoàn
tụ thành. Quyết định công nhận hoà giải đoàn tụ thành có hiệu lực pháp luật
ngay và các đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có
quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. (Mục 10, điểm a, Nghị quyết số
02/2000/NQ/HĐTP ngày 23/12/2000).
Trong trường hợp hoà giải đoàn tụ không thành thì Toà án lập biên bản
hoà giải đoàn tụ không thành, đồng thời tiến hành mở phiên Toà xét xử vụ án
ly hôn theo thủ tục chung (Mục 10, điểm b, Nghị quyết số 02/2000/NQ/HĐTP
ngày 23/12/2000).
Đối với trường hợp người vợ, chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích
có yêu cầu ly hôn, theo mục 8, điểm b Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP
ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn
như sau :
Theo quy định tại khoản 2, Điều 89: Trong trường hợp vợ hoặc chồng của
người bị Toà án tuyên bố mắt tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn.
Thực tiễn cho thấy có thể xảy ra hai trường hợp như sau:
- Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố người
chồng hoặc người vợ của mình mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly
hôn. Trong trường hợp này, nếu Toà án tuyên bố người đó mất tích thì giải
quyết cho ly hôn, nếu Toà án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất
tích thì bác các yêu cầu của người vợ hoặc người chồng.
- Người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu cầu
của người có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố
người vợ hoặc người chồng mất tích có hiệu lực pháp luật thì người chồng
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
40
hoặc người vợ của người đó có yêu cầu xin ly hôn với người đó. Trong trường
hợp này, Toà án giải quyết cho ly hôn.
- Khi Toà án giải quyết cho ly hôn với người bị tuyên bố mất tích thì cần
chú ý giải quyết việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo quy
định tại Điều 79 Bộ luật dân sự 2005.
trong các trường hợp ly hôn do một bên yêu cầu mà Toà án các địa phương
đã thụ lý và giải quyết thì tỉ lệ đơn của vợ và chồng là ngang nhau. Nhìn
chung, qua việc giải quyết các yêu cầu ly hôn cho thấy quan hệ vợ chồng đã
có những mâu thuẫn trầm trọng và các bên không thể chung sống với nhau
được nữa, một bên không yêu cầu ly hôn chỉ vì không nhận thức và đánh giá
đúng thực chất của quan hệ vợ chồng hoặc có thể đã đánh giá và nhận thức
đúng thực chất quan hệ vợ chồng nhưng không muốn ly hôn vì một động cơ
nào đó. Trong các trường hợp này, Toà án xét xử chỉ căn cứ vào thực chất của
quan hệ vợ chồng. Do đó, dù bên không làm đơn yêu cầu ly hôn và không
đồng ý ly hôn, Toà án vẫn có thể quyết định cho vợ chồng ly hôn khi quan hệ
hôn nhân đã thực sự tan vỡ.
Ngoài ra trong trường hợp hai vợ chồng xin thuận tình ly hôn, sau khi điều
tra, hoà giải, Toà án xét thấy một bên vợ, chồng không tự nguyện ly hôn do bị
cưỡng ép, bị lừa dối ly hôn, hoặc do sĩ diện, tự ái dẫn đến xin thuận tình ly
hôn thì Toà án cần xử bác đơn xin thuận tình ly hôn mà không giải quyết theo
thủ tục một bên vợ, chồng có yêu cầu ly hôn.
2.3 Hậu quả pháp lý của ly hôn
Ly hôn ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng đến lợi ích
của vợ chồng, của các con và lợi ích của xã hội. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn
Toà án phải thận trọng để có quyết định đúng đắn. Đồng thời, các cơ quan nhà
nước cần có những biện pháp hạn chế tới mức thấp nhất ảnh hưởng tiêu cực
của ly hôn tới gia đình và xã hội.
Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000
Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù
41
2.3.1 Quan hệ nhân thân giữa hai vợ chồng
Theo nguyên tắc chung, khi bản án, quyết định ly hôn của Toà án có hiệu
lực pháp luật, quan hệ vợ chồng được chấm dứt. Người vợ, chồng đã ly hôn
có quyền kết hôn với người khác. Sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ nhân
thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt hoàn toàn, dù vợ chồng có thoả thuận hay
không thoả thuận được thì Toà án cũng sẽ quyết định. Nghĩa là những quyền
và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát sinh từ khi kết hôn, gắn bó tương
ứng giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (như nghĩa vụ thương yêu, quý
trọng, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau tiến bộ, nghĩa vụ chung thuỷ giữa vợ chồng,
quyền đại diện cho nhau…..) sẽ đương nhiên chấm dứt. Một số quyền nhân
thân khác mà vợ, chồng với tư cách là công dân thì không ảnh hưởng, không
thay đổi dù vợ chồng ly hôn.
Trong xã hội ta hiện nay, thực tế có một số trường hợp vợ chồng đã ly hôn,
phán quyết ly hôn của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, sau đó vợ chồng lại
“tái hợp” chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn theo thủ tục luật
định. Khi có tranh chấp, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên sẽ
gặp những khó khăn nhất định.
Ví dụ: chị T và anh P được Toà án nhân dân quận B, thành phố H quyết
định cho ly hôn tháng 6/1998. Hai người sống riêng được một thời gian thì lại
trở về chung sống với nhau từ tháng 12/1998 nhưng không đăng ký kết hôn.
Tháng 3/2001, anh P bị tai nạn giao thông chết. Trong thời gian chung sống từ
tháng 12/1998 đến tháng 3/2001, họ có thêm một số tài sản có giá trị 120 triệu
đồng. Khi anh P chết, cha mẹ anh P cho rằng chị T không phải là vợ của anh
P, do đó, không được nhận thừa kế tài sản của anh P. Phần tài sản trị giá 120
triệu đồng đó là tài sản do anh kinh doanh mà có nên là tài sản riêng của anh
P. Chị T khởi kiện yêu cầu công nhân quan hệ giữa chị và anh P là vợ chồng
nên chị được thừa kế tài sản của anh P và yêu cầu Toà án xác định khối tài
sản trị giá 120 triệu đồng là tài sản chung của vợ chồng chị. Toà án nhân dân
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000

More Related Content

Similar to Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000

Báo cáo tốt nghiệp Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn – Thực tiễn thi...
Báo cáo tốt nghiệp Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn – Thực tiễn thi...Báo cáo tốt nghiệp Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn – Thực tiễn thi...
Báo cáo tốt nghiệp Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn – Thực tiễn thi...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình vấn đề lý luận và thực tiễn
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình   vấn đề lý luận và thực tiễnChế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình   vấn đề lý luận và thực tiễn
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình vấn đề lý luận và thực tiễnhttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Đề tài đăng ký kết hôn và luật hôn nhân gia đình
 Đề tài đăng ký kết hôn và luật hôn nhân gia đình  Đề tài đăng ký kết hôn và luật hôn nhân gia đình
Đề tài đăng ký kết hôn và luật hôn nhân gia đình hieu anh
 

Similar to Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000 (20)

Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docxBáo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
 
Báo cáo tốt nghiệp Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn – Thực tiễn thi...
Báo cáo tốt nghiệp Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn – Thực tiễn thi...Báo cáo tốt nghiệp Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn – Thực tiễn thi...
Báo cáo tốt nghiệp Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn – Thực tiễn thi...
 
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAYLuận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
Luận văn: Kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, HAY
 
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TỈNH SƠN LA 
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TỈNH SƠN LA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TỈNH SƠN LA 
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TỈNH SƠN LA 
 
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hônĐề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
Đề tài: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn
 
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
Luận văn: Hậu quả pháp lý về quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn theo lu...
 
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, 9 ĐIỂMBÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình, HOT
Luận văn: Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình, HOTLuận văn: Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình, HOT
Luận văn: Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và Gia đình, HOT
 
Luận án: Chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HAY
Luận án: Chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HAYLuận án: Chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HAY
Luận án: Chế định kết hôn trong Luật hôn nhân và gia đình, HAY
 
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình vấn đề lý luận và thực tiễn
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình   vấn đề lý luận và thực tiễnChế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình   vấn đề lý luận và thực tiễn
Chế định kết hôn trong luật hôn nhân và gia đình vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận án: Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ, HAY
Luận án: Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ, HAYLuận án: Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ, HAY
Luận án: Chế định kết hôn trong Luật HN&GĐ, HAY
 
Luận văn: Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình, HAY
Luận văn: Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình, HAYLuận văn: Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình, HAY
Luận văn: Hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình, HAY
 
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônGiải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Đề tài đăng ký kết hôn và luật hôn nhân gia đình
 Đề tài đăng ký kết hôn và luật hôn nhân gia đình  Đề tài đăng ký kết hôn và luật hôn nhân gia đình
Đề tài đăng ký kết hôn và luật hôn nhân gia đình
 
Hòa Giải Vụ Án Hôn Nhân Và Gia Đình, HAY
Hòa Giải Vụ Án Hôn Nhân Và Gia Đình, HAYHòa Giải Vụ Án Hôn Nhân Và Gia Đình, HAY
Hòa Giải Vụ Án Hôn Nhân Và Gia Đình, HAY
 
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN.doc
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN.docCHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN.doc
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG TRONG THỜI KÌ HÔN NHÂN.doc
 
Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn Tại Hà Nội
Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn Tại Hà NộiChia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn Tại Hà Nội
Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Khi Ly Hôn Tại Hà Nội
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, HOT
 
Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAY
Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAYHậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAY
Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng, HAY
 
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà NộiLuận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxDungxPeach
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 

Recently uploaded (20)

TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 

Ly Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000

  • 1. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 1 KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI : LY HÔN TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 NGÀNH : LUẬT DÂN SỰ NHẬN VIẾT THUÊ LUẬN VĂN ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ : 0917.193.864 WEBSITE:LUANVANLUAT.COM
  • 2. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 2 Mục lục Lời nói đầu………………………………………………………….. 1 Chương 1. khái quát chung về ly hôn………………….. 4 1.1 Khái niệm về ly hôn………………………………………………... 4 1.2 Sơ lược lịch sử chế định ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển………………………………………………... 5 1.2.1 Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam………………………….. 5 1.2.2 Thời kì Pháp thuộc……………………………………………….. 10 1.2.3 Giai đoạn từ 1945 đến nay……………………………………….. 11 1.2.3.1 Từ năm 1945 – 1954………………………………………………. 11 1.2.3.2 Từ năm 1955 – 1975………………………………………………. 13 1.2.3.3 Từ năm 1976 đến nay……………………………………………… 16 Chương 2. ly hôn theo luật hôn nhân Và gia đình việt nam năm 2000 19 2.1 Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ……… 20 2.1.1 Khái niệm căn cứ ly hôn………………………………………….. 20 2.1.2 Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000……………………………………………………………………… 21 2.2 Các trường hợp ly hôn do luật định……………………………….. 30 2.2.1 Thuận tình ly hôn ………………………………………………... 30 2.2.1 Ly hôn theo yêu cầu của một bên………………………………… 33
  • 3. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 3 2.3 Hậu quả pháp lý của ly hôn………………………………………... 36 2.3.1 Quan hệ nhân thân giữa hai vợ chồng…………………………... 36 2.3.2 Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn…………………………….. 38 2.3.2.1 Đối với tài sản riêng của mỗi bên………………………………. 38 2.3.2.2 Đối với tài sản chung của vợ chồng……………………………. 40 2.3.3 Giải quyết cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn…………………. 44 2.3.4 Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con sau khi cha mẹ ly hôn...... 45 Chương 3. Thực tiễn áp dụng luật hôn nhân & GIA ĐìNH năm 2000 về ly hôn và một số kiến nghị Hoàn thiện pháp luật về ly hôn 49 3.1. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng Luật hôn nhân & Gia đình 2000 về ly hôn ……………………………………………………. 49 3.2. Vấn đề áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật hôn nhân & Gia đình 2000 trong quá trình xét xử và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về ly hôn ……………………………………………………………………… 53 Tài liệu tham khảo
  • 4. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 4 Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội, quan hệ giữa con người với con người trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình cũng bị tác động mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê của Toà án các cấp, trong cả nước hàng năm số lượng các vụ án kiện về hôn nhân và gia đình mà Toà án phải thụ lý giải quyết khoảng trên 50.000 vụ việc, chủ yếu là ly hôn và tranh chấp tài sản. Về mặt xã hội, ly hôn là hiện tượng bất bình thường. Nếu kết hôn là mặt phải của xã hội thì ly hôn là mặt trái của xã hội, là cái chết của một tổ ấm gia đình. Hậu quả của việc ly hôn là làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng xấu đến con cái. Ly hôn là một biện pháp chấm dứt tình trạng mâu thuẫn gay gắt giữa vợ và chồng, vợ chồng chia tay bằng một phán quyết của Toà án, và nó không chỉ gây hậu quả đối với các thành viên trong gia đình mà còn gây ra nhiều hậu quả khác cho xã hội. Do vậy, ly hôn không chỉ là vấn đề riêng của mỗi gia đình mà là vấn đề của cả xã hội quan tâm. Ngày nay ly hôn đã được nhìn nhận đúng với bản chất tích cực và tiến bộ của nó. Dưới góc độ pháp lý, ly hôn được ghi nhận là một chế định độc lập của Luật Hôn nhân và gia đình, nó là cơ sở cho Toà án và các bên đương sự giải quyết vấn đề ly hôn một cách thấu tình đạt lý, góp phần giải quyết con người ra khỏi sự ràng buộc không cần thiết khi tình cảm vợ chồng không còn. Ta thấy rằng, một gia đình tốt thì xã hội mới tốt và ngược lại, xã hội tốt là điều kiện thúc đẩy gia đình tiến bộ. Mặc dù vậy, khi gia đình lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể tồn tại một cách ổn định, hạnh phúc, quan hệ hôn nhân trên thực tế đã tan vỡ, sự ly hôn là cần thiết. Nhà nước đặt ra chế độ hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ, nhằm xây dựng gia đình dân chủ, hoà
  • 5. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 5 thuận, bền vững ngay cả khi gia đình đó tan vỡ thì sự bình đẳng về quyền và lợi ích giữa vợ và chồng vẫn được đảm bảo. Đó là sự tiến bộ thể hiện quyền tự do ly hôn của hai vợ chồng. Từ khi luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời, nhà nước đã tuyên truyền và phổ biến rộng rãi để mọi người dân hiểu biết trong việc bảo vệ quyền lợi của mọi thành viên và xây dựng hạnh phúc gia đình XHCN. Các cấp, các ngành mà đặc biệt là ngành Toà án đã góp phần không nhỏ vào việc tổ chức và hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử các vụ án ly hôn cho thấy, còn tồn tại một số vướng mắc như vấn đề xác định căn cứ ly hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn. Nhiều vụ đã phải qua nhiều cấp xét xử do có sự kháng cáo của đương sự và kháng nghị của người có thẩm quyền. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do trình độ, năng lực của một số cán bộ xét xử chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của công việc. Bên cạnh đó, cần phải nói tới sự chưa hoàn thiện của pháp luật đã dẫn đến tình trạng các nhà áp dụng pháp luật có cách hiểu không thống nhất nên đã vận dụng pháp luật một cách tuỳ tiện. 2. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Trong Khóa luận này em lựa chọn nghiên cứu đề tài : “Ly hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 ”. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là dựa trên cơ sở các quy định của luật thực định để giải quyết việc ly hôn của vợ chồng cho hợp lý, chính xác, đảm bảo quyền, lợi ích của các bên. Trên cơ sở đó, tìm hiểu những quy định còn bất cập, chưa cụ thể, để từ đó có những nhận xét, kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề ly hôn theo luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Với mục đích trên, Khóa luận thực hiện những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về ly hôn. Với nhiệm vụ này, em sẽ trình bày khái niệm ly hôn, tìm hiểu một cách có hệ thống và đầy đủ về chế định ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển.
  • 6. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 6 - Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về ly hôn. Với nội dung này, Khóa luận đi sâu phân tích nội dung những quy định về ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới để thấy rõ những điểm thành công và hạn chế của pháp luật Việt nam trong vấn đề ly hôn. - Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về ly hôn thông qua hoạt động xét xử của Toà án. Qua đó, đánh giá về những thành công và hạn chế của việc áp dụng pháp luật về ly hôn để từ đó sẽ nêu lên một số những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ly hôn. 3. Phương pháp nghiên cứu Trong khóa luận sẽ sử dụng những phương pháp sau đây: Phương pháp luận; phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh,…. 4. Cơ cấu của Khóa luận Về bố cục của Khoá luận, ngoài phần Mục lục, Lời nói đầu và Danh mục tài liệu tham khảo thì Khóa luận này được chia làm 3 Chương: Chương 1. Khái quát chung về ly hôn Chương 2. Ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 Chương 3. Thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về ly hôn và một số kiến nghị hoàn thiện chế định về ly hôn
  • 7. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 7 Chương 1 Khái quát chung về ly hôn 1.1 Khái niệm về ly hôn Quan hệ hôn nhân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt cuộc đời con người vì nó được xác lập trên cơ sở tình yêu thương, gắn bó giữa vợ chồng. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn được đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thoát khỏi mâu thuẫn gia đình. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ. Vấn đề ly hôn được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là khác nhau. Một số nước cấm vợ chồng ly hôn (theo Đạo thiên chúa), bởi vì theo họ quan hệ vợ chồng bị ràng buộc thiêng liêng theo ý chúa. Một số nước thì hạn chế ly hôn bằng cách đưa ra những điều kiện hết sức nghiêm ngặt. Cấm ly hôn hay hạn chế ly hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá nhân. Pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không cấm hoặc đặt ra những những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của mình. Nhà nước bằng pháp luật không thể cưỡng ép nam, nữ phải yêu nhau và kết hôn với nhau, thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng phải chung sống với nhau, phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ đã hết và mục đích của hôn nhân đã không thể đạt được. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Điều đó là
  • 8. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 8 hoàn toàn có lợi cho vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia đình.1 Theo Lê-nin “ thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “ tan rã ” những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh ”2 . Nhưng bên cạnh đó, ly hôn cũng có mặt hạn chế đó là sự ly tán gia đình, vợ chồng, con cái. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn, Toà án phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân và bản chất của quan hệ vợ chồng và thực trạng hôn nhân với nhiều yếu tố khác để đảm bảo quyền lợi cho các thành viên trong gia đình, lợi ích của nhà nước và của xã hội. Như vậy, ly hôn là sự chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng. (Điều 8, khoản 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). 1.2 Sơ lược lịch sử chế định ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển 1.2.1 Ly hôn trong cổ luật Việt Nam Trong cổ luật Việt Nam, các căn cứ ly hôn thường được biết dưới tên “duyên cớ ly hôn” hay “các trường hợp ly hôn”. Các duyên cớ ly hôn trong cổ luật thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Nho giáo, nghĩa là chúng được quy định dựa trên sự bất bình đẳng giữa vợ chồng và nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi gia đình, gia tộc hơn là quyền lợi cá nhân. Chính vì vậy, mà duyên cớ ly hôn trong cổ luật được chia làm 3 loại: rẫy vợ, ly hôn bắt buộc và ly hôn thuận tình. Trường hợp rẫy vợ Rẫy vợ là việc người chồng được đơn phương bỏ vợ ngoài tầm kiểm soát của các thiết chế xã hội. Điều 301 Bộ luật Hồng Đức quy định: nếu người vợ 1. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, Tr.239 2. V.I.Lênin -Toàn tập, Tập 25, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, 1980, Tr 335.
  • 9. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 9 phạm phải một trong các điều “thất xuất” thì chồng phải bỏ vợ, nếu không bỏ vợ sẽ bị tội biếm. Tuy Bộ luật Hồng Đức không thống kê rõ các trường hợp nào được coi là “thất xuất”, nhưng trong Hồng Đức thiện chính thư (Đoạn 64) và Bộ luật Gia Long (Điều 108) đã nêu rõ, đó là bảy trường hợp sau: không có con, dâm đãng, không thờ bố mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp, ghen tuông và bị ác tật. Trong quan niệm của xã hội Trung Quốc cũng như xã hội Việt Nam truyền thống, việc hôn nhân không đơn thuần là việc hai cá nhân tạo lập một gia đình mà hơn thế, nó là việc của hai bên gia tộc. Đối với cộng đồng gia tộc, mục đích của hôn nhân là để duy trì dòng dõi và thờ phụng tổ tiên. Trong hoàn cảnh ấy, việc không có con được coi là bất hiếu với cha mẹ, gây thiệt hại cho lợi ích gia tộc và vì cớ ấy, người chồng được phép đơn phương rẫy bỏ vợ mình. Cũng trong lợi ích của cộng đồng gia tộc mà việc người vợ ghen tuông hay dâm đãng nếu người chồng không bỏ thì bại hoại gia đạo, người vợ trộm cắp mà không bỏ thì vạ lây đến chồng, nếu người vợ bị ác tật thì khi có việc tế tự thì sẽ không làm được cỗ, ảnh hưởng tới lợi ích gia đình, người chồng cũng phải bỏ. Ta thấy, duyên cớ để người chồng bỏ vợ chủ yếu quy vào lỗi của người vợ mà những lỗi này bắt nguồn từ địa vị thấp kém của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Năm trong số bảy duyên cớ rẫy vợ nói trên tuy có phần lỗi của người vợ (dù không hẳn nghiêm trọng), nhưng vì lợi ích gia đình, người chồng được quyền đơn phương ly hôn không cần biết đến ý kiến người vợ cũng như không cần xét đâu là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm lỗi của người vợ. Hai duyên cớ còn lại, không có con và bị ác tật, dù người phụ nữ không có lỗi nhưng vẫn được các nhà làm luật chấp nhận như các duyên cớ ly hôn, cũng là vì mục đích để bảo vệ quyền lợi của gia đình. Sự hy sinh quyền lợi cá nhân vợ chồng để bảo vệ quyền lợi gia đình còn được các nhà lập pháp hướng Nho giáo đẩy xa đến mức mô phỏng hoàn toàn quy định của pháp luật Trung Quốc, theo đó, nếu người chồng không bỏ vợ trong trường hợp “thất
  • 10. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 10 xuất” thì người chồng bị xử tội biếm (Điều 310 Bộ luật Hồng Đức, Đoạn 166 Hồng Đức Thiện chính thư). Có thể nói, pháp luật can thiệp khá sâu vào cuộc sống gia đình của mỗi nhà. Việc ly hôn không là sự tự nguyện giữa hai người mà hoàn toàn phụ thuộc vào địa vị kinh tế, vào sự phân tầng giai cấp xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh các trường hợp “thất xuất”, cổ luật Việt Nam còn quy định 3 trường hợp người chồng không được bỏ vợ (tam bất khứ) dù cho người vợ có phạm phải một trong các điều “thất xuất”, đó là: vợ đã để tang nhà chồng được 3 năm; khi vợ chồng lấy nhau nghèo hèn, sau trở nên giàu có; khi vợ chồng lấy nhau, vợ còn bà con họ hàng, khi bỏ vợ, vợ không còn nơi nương tựa. Nếu vợ nằm trong trường hợp “thất xuất” nhưng nại được ra trường hợp “tam bất khứ ” mà chồng vẫn bỏ vợ, thì chồng chồng bị phạt nhẹ hai trật và hai vợ chồng phải đoàn tụ lại. Tuy nhiên, “tam bất khứ ” không có hiệu lực nếu người vợ phạm phải tội “thông gian”. Trường hợp ly hôn bắt buộc Ngoài các trường hợp thất xuất, cổ luật Việt Nam còn quy định khi việc kết hôn vi phạm các điều kiện của kết hôn thì vợ chồng buộc phải ly dị. Luật không quy định bằng cách thống kê đâu là các điều kiện thiết yếu của hôn nhân (luật chỉ quy định các nghi lễ kết hôn) cũng như quyền và nghĩa vụ cụ thể của vợ chồng, mà luật chỉ can thiệp khi có sự vi phạm các điều kiện hoặc các nghĩa vụ này và ly hôn bắt buộc được coi như là hình phạt cho sự vi phạm ấy. Chẳng hạn, về sự vi phạm nghĩa vụ chung sống giữa hai vợ chồng, Điều 308 Bộ luật Hồng Đức quy định: “phàm người chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì cho hạn một năm. Vì việc quan phải đi xa thì không theo luật này”. Đây là quy định nhằm ràng buộc trách nhiệm của người chồng. Trong gia đình dưới chế độ phong kiến, vợ chồng phải có nghĩa vụ đối với nhau, đó là nghĩa vụ đồng cư. Tức là vợ chồng phải cùng nhau chung sống, cùng ăn ở với nhau và nghĩa vụ phù trợ ràng buộc trách nhiệm đối với nhau giữa hai vợ chồng. Ngoài ra, người vợ phải thực
  • 11. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 11 hiện hai nghĩa vụ đối với chồng là trung thành và tòng phụ. Vì vậy, khi bước chân về nhà chồng, họ phải theo chồng nhưng họ cũng không hoàn toàn lệ thuộc vào chồng mà họ vẫn phải lo làm lo ăn để nuôi sống gia đình. Hành vi bỏ lửng vợ mà không có lý do chính đáng là vi phạm nghĩa vụ đồng cư và nghĩa vụ phù trợ của vợ chồng. Việc bỏ lửng vợ, không có trách nhiệm gia đình là không làm tròn bổn phận của người chồng trong gia đình. Hơn nữa, điều này làm cho người chồng không còn là trụ cột trong gia đình để người vợ có thể nhờ cậy. Trong cuộc sống gia đình, vợ chồng phải có sự quan tâm, chăm sóc nhau cả về thể chất và tinh thần. Việc người chồng bỏ lửng vợ là coi như không còn tình nghĩa vợ chồng nữa. Do đó, để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, luật Hồng Đức cho phép người vợ được trình quan và thực hiện quyền ly hôn của mình. Ngoài ra, theo Điều 333 luật Hồng Đức thì “Nếu con rể lấy chuyện phi lý mà mắng nhiếc cha mẹ vợ. Đem việc thưa quan sẽ cho ly dị”. Theo quan niệm của Nho giáo thì bất hiếu với cha mẹ là điều không thể dung thứ được. Vì vậy, việc con rể lấy chuyện thị phi mắng nhiếc cha mẹ vợ cũng là điều bất hiếu, xúc phạm đến danh dự gia giáo của gia đình, phá hoại tình nghĩa vợ chồng. Tuy nhiên, trong trường hợp này người vợ phải thưa quan và nếu quan cho phép mới được ly dị, chứ người vợ không được tự ý bỏ chồng. Điều 108 lệ thứ hai Luật Gia Long cũng quy định: “nếu người chồng mất tích hoặc bỏ trốn 3 năm không về thì người vợ được trình quan xin phép cải giá và nhà vợ không phải hoàn lại đồ sính lễ”. Ly hôn bắt buộc cũng được áp dụng như kết hôn giữa những người có quan hệ thân thích, cùng họ với nhau, đang có tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy chồng, các quan lại lấy đàn bà, con gái hát xướng làm vợ cả, vợ lẽ. Ví dụ : theo quy định của Điều 309, Luật Hồng Đức quy định: “ai lấy nàng hầu làm vợ thì xử tội phạt, vì quá say đắm nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì xử tội biếm ” ; Điều 317 quy định: “người nào đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại
  • 12. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 12 cưới vợ hoặc lấy chồng thì bị xử tội đồ, người khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì xử biếm ba tư và đôi vợ chồng mới cưới phải chia lìa ” hoặc như Điều 323 có quy định: “các quan và thuộc lại lấy đàn bà, con gái hát xướng làm vợ cả, vợ lẽ, đều xử phạt 70 trượng, biếm ba tư; con cháu các quan viên mà lấy những phụ nữ nói trên, thì xử phạt 60 trượng và đều phải ly dị ”. Theo quy định của Điều 108, luật Gia Long quy định: khi vợ chồng phạm phải điều “nghĩa tuyệt” thì buộc phải ly hôn. “Nghĩa tuyệt” có thể do lỗi của vợ (vợ mưu sát chồng), lỗi của chồng (chồng bán vợ) hoặc là lỗi của hai vợ chồng. Riêng trường hợp nếu vợ phạm phải “nghĩa tuyệt” mà chồng không bỏ, thì chồng cũng bị phạt 80 trượng. Nghĩa là, ở các trường hợp “ nghĩa tuyệt” dù người phụ nữ cũng được quyền ly hôn trong một số tình huống, địa vị pháp lý của họ cũng không được bình đẳng với chồng. Có thể nói, với các trường hợp ly hôn bắt buộc, cổ luật Việt Nam chưa phân biệt sự khác nhau giữa chế định ly hôn với huỷ hôn trái pháp luật. Trường hợp thuận tình ly hôn Pháp luật thành văn đầu tiên về việc thuận tình ly hôn có từ thời Hồng Đức, theo đọan 167 Hồng Đức Thiện chính thư, “hai vợ chồng bất hoà thuận nguyện xin ly dị, thì tờ ly hôn phải tay viết tay ký,…..Tờ hợp đồng ly hôn ấy phải làm thành hai bản, vợ chồng mỗi người cầm một bản, rồi mỗi người phân chia một nơi. Dưới chữ niên hiệu và ngày, chồng ký họ tên, vợ điểm chỉ; trong họ hoặc muốn mượn người viết thay cũng được…. ”. Thuận tình ly hôn có thể do vợ chồng tính tình không hợp hoặc do nhiều nguyên nhân khác mà không phải bó buộc theo điều khoản hoặc hình thức của pháp luật, luật không có những dự liệu bắt buộc mà ly hôn được quyết định theo ý chí của hai vợ chồng và vì vậy đã góp phần thực hiện quyền bình đẳng của người vợ trong gia đình với người chồng.
  • 13. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 13 Điều 108, luật Gia Long, thuận tình ly hôn được quy định như sau: “ nếu chồng vợ trẹo ý không vui nhau, cả hai đều muốn ly dị, tình thì không hợp, ân đã lìa thì không thể nào hoà lại được, cho phép họ ly dị, không bị tội ”. Như vậy, việc nghiên cứu duyên cớ ly hôn trong cổ luật Việt Nam cho phép rút ra một số nhận xét sau:1 Một là, khác với luật đương đại chỉ chấp nhận một căn cứ ly hôn duy nhất dựa trên thực chất sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, trong cổ luật Việt Nam thì căn cứ ly hôn được quy định không đơn nhất mà đa dạng hoặc người chồng có thể tự ý ly hôn theo ý chí đơn phương của mình khi vợ phạm phải một trong các điều “thất xuất”, hoặc hai vợ chồng có thể thuận tình ly hôn, cũng có khi vợ hay chồng bị bắt buộc ly hôn khi bên kia vi phạm một trong các điều kiện thiết yếu của hôn nhân hay vi phạm các nghĩa vụ của vợ chồng. Điều quan trọng là, một khi những điều kiện của các căn cứ ly hôn nói trên hội đủ, các đương sự được phép đặt dấu chấm hết cho cuộc hôn nhân của mình. Hai là, trong xã hội phong kiến Việt Nam thời kỳ ảnh hưởng đậm nét bởi tư tưởng Nho giáo, nếu như việc kết lập hôn nhân chính là vì lợi ích gia đình, thì khi huỷ bỏ hôn nhân, cũng là do quyền lợi của gia đình chi phối hơn là do mối quan hệ giữa bản thân người vợ và người chồng. Nói cách khác, ý chí cá nhân của vợ chồng bị gạt ra ngoài lề không chỉ khi họ kết lập hôn nhân của chính họ, mà còn khi cuộc hôn nhân của họ bị huỷ bỏ, để thay vào đó là lợi ích gia dình, gia tộc. Ly hôn vì lí do “thất xuất” hay “nghĩa tuyệt” là sự phản ánh triệt để quan điểm này. Ba là, cũng dưới ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đề cao đức trị mà những quy định về duyên cớ ly hôn đã được thiết lập trên cơ sở đạo đức và 1.Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 8 ( 208 )
  • 14. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 14 nhân cách cá nhân để rồi bằng cách ấy chúng đã xoá nhoà ranh giới giữa đạo đức và pháp luật.1 Bốn là, duyên cớ ly hôn trong cổ luật thể hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, trong đó số phận người phụ nữ phụ thuộc vào ý chí của người chồng và gia đình chồng. Các trường hợp ly hôn do thất xuất đã thể hiện rõ nguyên tắc này. Ngay cả trong trường hợp thuận tình ly hôn, cũng không có bất cứ sự đảm bảo nào cho người phụ nữ. 1.2.2 Thời kỳ Pháp thuộc ( đến trước năm 1945) Với mục đích phục vụ cho chính sách cai trị, thực dân Pháp đã chia đất nước ta thành 3 miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ với tổ chức bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật riêng. Tại Nam Kỳ đã áp dụng quy định của của Bộ Dân Luật giản yếu 1883 quy định quyền xin ly hôn chỉ do người chồng quyết định, người vợ không có quyền xin ly hôn nhưng được áp dụng chế độ “tam bất khứ” để hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng. Chồng không có quyền xin bỏ vợ nếu như người vợ đã để tang nhà chồng 3 năm, khi lấy nhau nghèo mà về sau giầu có, người vợ không còn nơi nương tựa để trở về nhà. Trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Trung Kỳ thì việc giải quyết ly hôn được xác định trên cơ sở lỗi của vợ chồng tiếp tục được kế thừa. Tại Điều 118, 119 Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931 để giải quyết duyên cớ ly hôn cho riêng vợ (chồng). Theo Điều 118 Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định người chồng có thể xin ly hôn vợ vì: vợ phạm gian, vợ bỏ nhà chồng mà đi, tuy đã bách phải về mà không về, vợ thứ đánh, chửi, tệ bạc với vợ chính. Điều 119 Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định người vợ có thể xin ly hôn vì những duyên cớ sau: chồng không làm đúng nghĩa vụ đã cam đoan sau khi kết hôn, chồng bỏ nhà đi quá hai năm không có cớ gì chính đáng và không lo liệu việc nuôi sống vợ con,…… Vấn 1.Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo, tập I, Gia đình, Sài Gòn, 1962, tr 561
  • 15. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 15 đề ly hôn thời kỳ này, chủ yếu được xây dựng trên nền tảng Nho giáo phong kiến trước đây và dựa theo Dân luật của Pháp năm 1804 với quan điểm thuần tuý coi hôn nhân là một hợp đồng do Dân luật điều chỉnh. 1.2.3 Giai đoạn từ 1945 đến nay 1.2.3.1 Từ năm 1945 - 1954 Cách mạng tháng Tám 1945 đã đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ lên đại vị làm chủ đất nước, xây dựng cuộc sống hoà bình, xã hội không còn chế độ người bóc lột người. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đấu tranh xoá bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến cổ hủ, lạc hậu để xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình văn minh, tiến bộ. Do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ chúng ta mới giành được chính quyền, khó khăn chồng chất, chế độ phong kiến còn đè nặng trong tư tưởng của nhân dân nên nhà nước ta chưa thể ban hành một đạo luật về hôn nhân và gia đình mà chỉ thực hiện phong trào vận động đời sống mới để nhân dân ta tự nguyện xoá bỏ hủ tục lạc hậu. Bên cạnh cuộc vận động, ngày 10/10/1945 Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 90/ST, cho phép áp dụng những quy định trong bộ luật của chế độ cũ có chọn lọc trên nguyên tắc là không được trái với lợi ích của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong đó, có vấn đề hôn nhân và gia đình và hậu quả của ly hôn. Cũng ngay trong bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng…….và mưu cầu hạnh phúc” và trong bản Hiến Pháp đầu tiên của nước ta năm 1946, quyền bình đẳng giữa nam và nữ đã được ghi nhận tại Điều 19 Hiến pháp: “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”1 . Điều này làm cơ sở pháp lí quan trọng cho việc đấu tranh xoá bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, đặt nền móng cho xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình dân chủ, tiến bộ. 1. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946
  • 16. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 16 Ngày 22/5/1950, Chủ tịch nước Việt Nam DCCH đã ban hành Sắc lệnh số 97/SL về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ trong lĩnh vự hôn nhân và gia đình. Đến ngày 17/11/1950, Chủ tịch nước Việt Nam DCCH ban hành Sắc lệnh số 159/SL quy định về vấn đề ly hôn. Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 có 15 điều, trong đó có 8 điều quy định về hôn nhân và gia đình. Tại Điều 4 của Sắc lệnh này quy định cho phép người đàn bà sau khi ly dị chồng, có thể lấy chồng khác ngay sau khi Toà tuyên án ly dị, nếu dẫn chứng rằng mình không có thai hoặc đang có thai. Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 với 9 điều, trong đó đã xoá bỏ sự bất bình đẳng về nguyên nhân ly hôn giữa vợ và chồng trong pháp luật cũ. Điều 2 của Sắc lệnh số159 quy định: Toà án có thể cho phép vợ chồng ly hôn trong các trường hợp sau:1 - Ngoại tình; - Một bên can án phạt giam; - Một bên bỏ nhà đi quá 2 năm không có duyên cớ chính đáng; - Một bên mắc bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa khỏi; - Vợ chồng tính tình không hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi không thể chung sống được. Ngoài ra, Sắc lệnh số 159 còn quy định việc bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi trong khi ly hôn: “nếu vợ có thai thì vợ hay chồng có thể xin Toà tạm hoãn để sau kỳ sinh nở mới xử việc ly hôn” ( Điều 5 ). Cả hai Sắc lệnh số 97/SL và 159/SL đã đề ra một số nguyên tắc chung, tiến bộ góp phần không nhỏ vào việc xoá bỏ chế độ hôn nhân phong kiến, giải phong phụ nữ, thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trong thời kỳ đầu của cách mạng dân tộc dân chủ. Quyền bình đẳng của người phụ nữ trong gia 1. Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà quy định về vấn đề ly hôn
  • 17. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 17 đình và ngoài xã hội bước đầu được thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm mang tính dân chủ và tiến bộ của một nền pháp chế mới, Sắc lệnh số 159/SL quy định căn cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng. 1.2.3.2 Từ năm 1955 đến 1975 Đây là thời kỳ đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền: miền Bắc dưới sự lãnh đạo của chính quyền nhà nước Việt Nam DCCH, miền Nam dưới sự cai trị của đế quốc Mỹ và chính quyền phong kiến Sài Gòn. Trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta đã đề ra nhiệm vụ cho mỗi miền. ở miền Bắc, chế độ hôn nhân và gia đình được xây dựng trên nguyên tắc tự do, tiến bộ, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và con cái. Trên cơ sở Hiến pháp 1959 ghi nhận sự bình đẳng dân chủ giữa phụ nữ và nam giới về các mặt, nhà nước bảo hộ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em, bảo vệ hôn nhân và gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình được Quốc hội khoá I thông qua ngày 29/12/1959 và có hiệu lực ngày 13/01/1960. Lần đầu tiên căn cứ ly hôn được xác định hoàn toàn khác. Việc giải quyết ly hôn không dựa trên yếu tố lỗi của các bên như trước đây mà trên cơ sở thực trạng của quan hệ hôn nhân. Căn cứ ly hôn phản ánh hôn nhân không thể tồn tại được nữa, nếu xét thấy “tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” thì Toà án sẽ cho ly hôn. (Điều 26, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “ Khi một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hoà giải, hoà giải không được, Toà án nhân dân sẽ xét xử. Nếu tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án nhân dân sẽ cho ly hôn”). Để áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 một cách đúng đắn, đồng thời, phát huy hết tác dụng, nâng cao hiệu quả trong việc thi hành luật nhất là trong giải quyết ly hôn và giải quyết hậu quả ly hôn. Toà án nhân dân tối cao đã ban hành các thông tư, chỉ thị để hướng dẫn Toà án các địa phương giải quyết việc ly hôn:
  • 18. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 18 - Thông tư số 690 ngày 29/4/1960 của TANDTC hướng dẫn việc xử lý ly hôn và các vấn đề có liên quan; - Thông tư số 01 ngày 6/01/1964 của TANDTC hướng dẫn việc giải quyết cấp dưỡng nuôi con; - Chỉ thị số 69 ngày 24/12/1969 của TANDTC hướng dẫn việc giải quyết về nhà ở, đảm bảo chỗ ở cho đương sự sau ly hôn. Do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, nên Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 không tránh khỏi những hạn chế nhất định, vì do có nhiều quy định mang tính chất đối kháng về quan điểm với các quy định tương ứng trong pháp luật phong kiến, thực dân nhưng do điều kiện, hoàn cảnh lịch sử lúc ban hành lại thêm các quy định thực sự có tác đụng đặt cơ sở hoàn chỉnh cho các quan hệ hôn nhân gia đình mới XHCN đặc biệt là quan hệ nhân thân và tài sản phát sinh trong đời sống gia đình. ở miền Nam, sau năm 1954, đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp, thực hiện âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới. Dưới chính sách cai trị của đế quốc Mỹ và chế độ nguỵ quyền Sài Gòn, hệ thống các văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình được ban hành với những nội dung lạc hậu, gồm có: - Luật Gia đình ngày 02/01/1959 (Luật số 1-59) dưới chế độ Ngô Đình Diệm; - Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú và tài sản cộng đồng; - Bộ Dân luật ngày 20/12/1972 dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Các văn bản trên đều đã quy định bãi bỏ chế độ đa thê, song vẫn thựchiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng, bảo vệ quyền gia trưởng. Chế độ đa thê bị phá bỏ nhưng người vợ vẫn phụ thuộc chồng. Trong Bộ luật Gia đình ngày 02/01/1959 thể hiện một tư tưởng hết sức cực đoan, việc này được thể
  • 19. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 19 hiện ở Điều 55: “cấm chỉ sự vợ chồng ruồng bỏ nhau về sự ly hôn, trừ trường hợp đặc biệt Tổng thống có thể quyết định”1 . Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 và Bộ luật Sài Gòn ngày 20/01/1972 có quy định căn cứ ly hôn. Tuy nhiên, việc giải quyết ly hôn dựa trên nguyên cớ ly hôn được xác định dựa trên lỗi của vợ chồng. Điều 63 Sắc luật số 15/64 quy định 5 duyên cớ ly hôn mà nội dung chủ yếu là dựa trên lý do xin ly hôn của Sắc luật ngày 17/01/1950 nhưng đã sửa lại cho cụ thể hơn: duyên cớ ly hôn “do một bên bỏ nhà đi quá 2 năm không có duyên cớ chính đáng” được sửa lại là “có án văn xác định sự biệt tích của người phối ngẫu đã thất tung”, hoặc lý do “vợ chồng tính tình không hợp, đối xử với nhau không thể chung sống được”, thể hiện bằng các hành vi cụ thể “vì sự ngược đãi, bạo hành hay nhục mạ thường xuyên làm cho vợ chồng không thể chung sống với nhau được nữa”. Bên cạnh đó, một bên có quyền xin ly hôn khi có án văn quy định xử người phạm tội vì có hành vi phế bỏ gia đình (Điều 63). Chế độ ly thân và ly hôn theo Bộ Dân luật năm 1972, duyên cớ ly hôn gồm : - Vì sự mất tích của người phối ngẫu; - Vì người phối ngẫu bị kết án trọng hình; - Vì sự ngược đãi, bạo hành hay nhục mạ khiến cho vợ chồng không thể ăn ở với nhau được nữa2 . Trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn chỉ diễn ra trong khoảng thời gian hôn thú được lập trên 2 năm và không quá 20 năm. Hậu quả pháp lý của ly hôn là chấm dứt hoàn toàn quan hệ vợ chồng. Người vợ được lấy lại tên riêng của mình và chỉ có thể tái giá sau 300 ngày, kể từ khi hôn nhân chấm dứt. 1.2.3.3 Từ năm 1976 đến nay Sự ra đời của Hiến pháp 1980 đã có quy định mới về nguyên tắc xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình đã đòi hỏi Luật hôn nhân và gia đình phải có 1. Bộ luật gia đình của chế độ Sài Gòn cũ năm 1959 2. Bộ luật dân sự Sài Gòn năm 1972
  • 20. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 20 những quy định để cụ thể hóa những nguyên tắc này. Sau 30 năm thực hiện ở miền Bắc và hơn 10 năm thực hiện ở miền Nam, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có một số quy định không phù hợp. Điều này đòi hỏi phải có Luật Hôn nhân và gia đình mới phù hợp. Xuất phát từ tình hình trên, tại kỳ họp thứ 12 Quốc hội khoá VII ngày 29/11/1986 đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 gồm 10 Chương, 57 điều. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời có sự kế thừa có chọn lọc của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đã được xây dựng trên 5 nguyên tắc sau: Hôn nhân tiến bộ, tự nguyện; hôn nhân một vợ, một chồng; vợ chồng bình đẳng; bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con cái; bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, căn cứ ly hôn được quy định tại Điều 40: “Khi vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hôn thì Toà án nhân dân tiến hành điều tra và hoà giải. Trong trường hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành và xét nếu đúng là hai bên thực sự tự nguyện ly hôn, thì Toà án nhân dân công nhận cho thuận tình ly hôn. Trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành thì Toà án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án nhân dân cho ly hôn”. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã từng bước nâng cao nhận thức và ý thức của người dân trong việc thi hành các quy định của nhà nước. Từng bước xoá bỏ chế độ hôn nhân phong kiến, tư sản thay vào đó là một chế độ hôn nhân gia đình tự do, tiến bộ. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình và trong xã hội được đề cao. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời khi nhà nước ta bắt đầu thời kỳ đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để đáp ứng với
  • 21. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 21 sự đổi mới trên thì hệ thống pháp luật Việt Nam cũng phải có sự đổi mới cho phù hợp với sự phát triển chung của xã hội, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trở nên không phù hợp với hoàn cảnh xã hội hiện tại. Do vậy, đòi hỏi Luật Hôn nhân và gia đình phải có sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá X ngày 09/6/2000 đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình gồm 13 Chương, 110 điều và được xây dựng trên các nguyên tắc : - Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng; - Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ; - Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; - Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội, con có nghĩa vụ tôn trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; - Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong và ngoài giá thú; - Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Căn cứ ly hôn không được quy định riêng biệt mà được quy định chung nhất, dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Toà án nhân dân phải tiến hành điều tra và hoà giải nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình và chỉ khi nào xét thấy quan hệ quan hệ vợ chồng đã thực sự đến mức “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
  • 22. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 22 của hôn nhân không đạt được” thì Toà án mới giải quyết cho ly hôn (Điều 89). Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã kế thừa, phát triển và mở rộng hơn, cụ thể hơn, chi tiết hơn so với luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 nhằm mục đích giải quyết tốt nhất vấn đề ly hôn trong xã hội Việt Nam. chương 2 ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình việt nam năm 2000 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 7, ngày 09/6/2000 thông qua, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2001 trên cơ sở tiếp tục kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Luật gồm 13 Chương, 110 điều, được xây dựng trên cơ sở 6 nguyên tắc: - Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng;
  • 23. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 23 - Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ; - Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; - Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội, con có nghĩa vụ tôn trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; - Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong và ngoài giá thú; - Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ. Một trong những nguyên tắc quan trọng khi kết hôn là phải có sự tự nguyện của hai bên nam nữ. Tự nguyện hoàn toàn trong việc kết hôn là hai bên nam nữ thực sự mong muốn trở thành vợ chồng xuất phát từ tình yêu thương chân chính giữa họ nhằm mục đích là cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc. Sự tự nguyện của các bên trong việc kết hôn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài và bền vững. Hôn nhân tự nguyện cũng đồng thời phải đảm bảo tự do ly hôn. Nếu như không thể bắt buộc người ta kết hôn thì cũng không thể buộc họ tiếp tục cuộc sống vợ chồng khi cuộc sống đó hoàn toàn không có sự tự nguyện và hạnh phúc gia đình không thể hàn gắn được. Nhà nước bảo hộ hôn nhân, đảm bảo quyền tự do ly hôn của vợ chồng không có nghĩa là giải quyết ly hôn tuỳ tiện, theo ý chí, nguyện vọng của vợ chồng mà bằng pháp luật, nhà nước kiểm soát việc giải quyết ly hôn vì trong quan hệ hôn nhân, không chỉ có lợi ích riêng của hai vợ chồng mà còn có lợi ích của các thành viên khác trong gia đình, lợi ích của nhà nước và xã hội. Vì
  • 24. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 24 vậy. thông qua pháp luật, nhà nước chỉ giải quyết ly hôn khi có đủ những căn cứ theo quy định của pháp luật. 2.1 Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 2.1.1 Khái niệm căn cứ ly hôn Trong xã hội có giai cấp, hôn nhân là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua nhà nước, bằng pháp luật quy định chế độ hôn nhân phải phù hợp với ý chí của nhà nước. Tức là nhà nước bằng pháp luật quy định trong những điều kiện nào thì cho phép xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời xác định trong những điều kiện, căn cứ nhất định mới cho phép xoá bỏ (chấm dứt) quan hệ hôn nhân. Đó chính là căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật của nhà nước. Như vậy, căn cứ ly hôn là những tình tiết hay điều kiện được quy định trong pháp luật và chỉ có những tình tiết (điều kiện) đó thì Toà án mới cho ly hôn1 . Nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản quy định giải quyết ly hôn là dựa vào lỗi của vợ, chồng. Nhà nước tư sản coi hôn nhân như là hợp đồng nên chấm dứt hôn nhân cũng như chấm dứt hợp đồng và dựa vào lỗi của các bên. Việc giải quyết vấn đề ly hôn ở những nước này là dựa vào hình thức của quan hệ hôn nhân, do vậy, việc xét xử của Toà án là việc làm hết sức rập khuôn, máy móc. Quan điểm của nhà nước xã hội chủ nghĩa là giải quyết ly hôn dựa vào thực chất của quan hệ vợ chồng, trên cơ sở đánh giá một cách khách quan. Giải quyết “ly hôn” chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Tuy nhiên, 1. Luật sư - Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ - Thạc Sĩ Ngô Thị Hường : Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, Tr. 160 – 162
  • 25. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 25 không phải sự tuỳ tiện của nhà lập pháp, cũng không phải sự tuỳ tiện của những cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được là cuộc hôn nhân đã chết hoặc chưa chết, bởi vì, như mọi người đều biết, việc xác nhận sự kiện chết tuỳ thuộc vào thực chất của vấn đề, chứ không phải vào nguyện vọng của những bên hữu quan2 . Như vậy, việc Toà án giải quyết cho vợ chồng ly hôn là công nhận thực tế đã và đang tồn tại trong mối quan hệ vợ chồng là không thể cải thiện được. Giải quyết cho vợ chồng ly hôn trong những trường hợp này là điều hay cho cả vợ chồng và cho xã hội. 2.1.2 Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 89, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định: “1. Toà án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án quyết định cho ly hôn. 2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn”. Khi có yêu cầu ly hôn của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng, Toà án phải tiến hành điều tra và hoà giải, nếu hoà giải không thành thì Toà án cần xác định tình trạng của quan hệ hôn nhân, xem có căn cứ ly hôn không để giải quyết. Việc giải quyết ly hôn cần phải chính xác. Nếu xét xử đúng, kết quả đó sẽ phù hợp với nguyện vọng của các bên, bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia đình. Ngược lại, nếu việc giải quyết không chính xác sẽ dẫn tới tan vỡ hạnh phúc gia đình, phá huỷ một cuộc hôn nhân còn có thể cứu vãn được và gây ra hậu quả không đáng có. Mặt khác, giải quyết ly hôn cũng đòi hỏi sự linh hoạt trong việc vận dụng căn cứ ly hôn đối với mỗi trường hợp cụ thể. 2. C.Mác và Ph. Ănggheh : Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, T1,Tr. 234 - 235
  • 26. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 26 Trước hết cần hiểu quan hệ vợ chồng ở vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài” là giữa vợ chồng có nhiều lục đục, mâu thuẫn sâu sắc đến mức vợ chồng không thể chịu đựng nhau được nữa, các thành viên trong gia đình không thể chung sống bình thường, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại được, sự tan vỡ của hôn nhân và ly tán của gia đình là không thể tránh khỏi. Vì vậy, không thể hiểu giản đơn “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài” là biểu hiện tình yêu giữa vợ và chồng mà rộng hơn đó là tình trạng về cuộc sống gia đình nói chung và các mối quan hệ xung quanh. Môi trường và không khí căng thẳng của gia đình đã bó buộc con người phải chịu đựng trong một hoàn cảnh hoàn toàn đặc biệt. Hoàn cảnh cũng không những không bình thường mà còn rơi vào tình trạng không thể giải quyết được như người chồng đánh đập vợ, một bên có quan hệ ngoại tình, người vợ bỏ về nhà mẹ đẻ… Tình trạng này đã ảnh hưởng xấu đến cá nhân vợ chồng, đến việc giáo dục con cái và đời sống bình thường của các thành viên trong gia đình. Nếu như quan hệ vợ chồng mới chỉ dừng lại ở “tình trạng trầm trọng” có thể mang tính bồng bột chưa thực sự chín chắn để hiểu rõ vấn đề thì còn cơ hội để xây dựng lại một cuộc sống gia đình. Thế nhưng trong thời điểm “tình trạng trầm trọng” cũng không phải ai cũng tìm cách thoát ra được để trở lại cuộc sống bìn thường. Tình trạng trầm trọng thường kéo dài theo một hậu quả là đời sống chung không thể kéo dài và tồn tại. Một gia đình bền vững không phải là một gia đình luôn hoàn hảo, không có mâu thuẫn mà là một gia đình dám nhìn nhận và xử lý mâu thuẫn đó. Khi mâu thuẫn dẫn đến đời sống chung không thể kéo dài thì mâu thuẫn đã không thể giải quyết được. “Đời sống chung” ở đây không có nghĩa đơn thuần là sự chung sống. Cuộc sống của vợ chồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: lối sống, cách sinh hoạt, tính cách, sở thích mỗi bên, quan điểm nhìn nhận về cuộc sống, về con người. Để hoà nhịp với cuộc sống gia đình, vợ chồng phải biết cùng nhau giải quyết tốt mọi vấn đề,
  • 27. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 27 đặc biệt khi có mâu thuẫn. Có như vậy mới giữ vững được sự ổn định của gia đình. Cuộc sống gia đình không có sự hoà hợp thì giữa vợ chồng sẽ thường xuyên xảy ra xung đột gay gắt, quyền và nghĩa vụ đối với nhau, đối với việc xây dựng gia đình và chăm sóc con cái sẽ không được tốt. Tất cả điều đó sẽ tạo ra một áp lực tâm lý cho đời sống tinh thần của vợ chồng, chi phối hành vi xử sự giữa vợ và chồng. Quan hệ vợ chồng từ tình cảm yêu thương đã chuyển sang đối nghịch, họ không thể chịu đựng được với nhau. Đời sống chung chỉ làm con người bế tắc và đau khổ. Ly hôn dù sao cũng là giải pháp tốt nhất cho cả hai vợ chồng khỏi bị tù túng. Để có một đánh giá chính xác về tình trạng quan hệ vợ chồng, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã nêu rõ: được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi: - Vợ, chồng không yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, như : Người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở, hoà giải nhiều lần. - Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như : Thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần. - Vợ chồng không chung thuỷ với nhau, như : Có quan hệ ngoại tình, đã được người chồng hoặc người vợ hay bà con thân thích của họ, hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có hành vi ngoại tình. (Mục 8, điểm a.1, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000).
  • 28. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 28 Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 của Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao . Trên thực tế cho thấy, nếu đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục có quan hệ sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được. (Mục 8, điểm a.2, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000). Ngoài ra, mục đích của hôn nhân không đạt được theo Mục 8, điểm a.3, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 là không có tình nghĩa vợ chồng, không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt. Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài” thì thường dẫn tới hậu quả làm cho “mục đích của hôn nhân không đạt được”. Mục đích của hôn nhân là tình yêu giữa nam và nữ muốn chung sống với nhau suốt đời, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững trên cơ sở giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Con người tiến tới hôn nhân với mục đích mong muốn có được một cuộc sống hạnh phúc. Do vậy, khi mục đích hôn nhân “không đạt được” thì quan hệ hôn nhân thường có tác động ngược lại. Khi đó chấm dứt hôn nhân được giải quyết bằng việc ly hôn. Mục đích của hôn nhân nói chung xuất phát từ bản chất của hôn nhân. Toà án không thể dựa vào mục đích của hai người kết hôn mà xem xét có đạt được hay không để giải quyết ly hôn. Phần lớn mục đích của nam và nữ trước khi kết hôn là hướng tới xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững nhưng cũng có
  • 29. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 29 nhiều cuộc hôn nhân được xác lập bắt đầu từ những mục đích khác nhau. Dù cho họ từng kết hôn với mục đích nào đi chăng nữa thì mục đích của hôn nhân bền vững, hạnh phúc vẫn là tiêu chuẩn cao nhất mà bất kỳ ai kết hôn cũng hướng tới. Tuy nhiên, mục đích của vợ hay chồng đôi khi cũng ảnh hưởng tới cuộc sống gia đình nếu như nó không đạt được sau khi kết hôn. Mục đích của hai người không phải bao giờ cũng giống nhau. Hôn nhân có thể đem đến cho người này nhưng lại không làm thoả mãn mục đích của người kia hoặc cả hai người. Vì vậy, điều cần thiết là phải hiểu được mục đích của hôn nhân. Nhà làm luật ở đây muốn nói đến mục đích cốt lõi của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Hôn nhân với mục đích rất phong phú và có thể thay đổi nhưng mục đích của hôn nhân lại mang tính cố định duy nhất. Bất cứ một cuộc hôn nhân nào, nếu không đạt được mục đích đó thì việc duy trì nó là không cần thiết và vợ chồng có thể được ly hôn. Ví dụ: Trường hợp ly hôn giữa anh Nguyễn Văn Nam và chị Bùi Thanh Tú tại TAND quận Đống Đa. Anh Nam và chị Tú kết hôn với nhau năm 1991, năm đầu họ chung sống với nhau rất hạnh phúc và có với nhau một cháu gái. Chị ở nhà nội trợ còn anh làm lái xe, thường xuyên vắng nhà. Do vậy, anh ít khi về thăm nhà và không quan tâm đến hai mẹ con chị. Trong 8 năm kéo dài như vậy đã khiến cho chị Tú nghi ngờ. Chị đã điều tra và phát hiện anh đã có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Do vậy, lần nào anh về thăm nhà là vợ chồng anh chị lại cãi cọ, đánh đập nhau. Sự việc này kéo dài tự năm 1998 đến năm 2001, anh Nam có đơn xin ly hôn, TAND quận Đống Đa và TAND TP Hà Nội đã bác đơn. Đến năm 2003, anh Nam lại có đơn xin ly hôn với ly do là từ năm 1998 đến nay, quan hệ vợ chồng anh không hàn gắn được, tình nghĩa vợ chồng không còn và việc này đã kéo dài qua lâu nên thiết tha xin ly hôn. Chị Tú cũng thừa nhận quan hệ vợ chồng đã chấm dứt vào năm 1998. Từ năm 1999 đến nay, mỗi lần anh Nam về nhà lại liên tục hành hạ, đánh đập chị. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nhưng không nhất trí ly hôn vì
  • 30. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 30 không muốn làm ảnh hưởng đến con cái. Như vậy, ta có thể thấy quan hệ hôn giữa anh Nam và chị Tú đã mâu thuẫn trầm trọng, cả hai người đều thừa nhận vợ chồng không còn tình cảm với nhau nữa. Qua nhiều lần hoà giải và hai lần xử bác đơn xin ly hôn, vợ chồng anh chị cũng không hàn gắn lại được. Hơn nữa anh chị lại thường xuyên cãi chửi nhau. Cuộc hôn nhân chỉ còn là hình thức làm cho hai người rằn vặt, đau khổ. Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững nhưng điều đó không đạt được đối với anh chị mà cả hai người đều không được sống một cách yên ổn. Bản án số 02/LHST ngày 14/8/2003 của TAND huyện Gia Lâm đã quyết định: xử cho ly hôn giữa anh Nam và chị Tú, chấm dứt một cuộc hôn nhân tan vỡ đã kéo dài mà không đạt được mục đích1 . Trong quá trình giải quyết ly hôn cần phải có sự phân biệt giữa căn cứ ly hôn với nguyên nhân, lý do và động cơ xin ly hôn của đương sự. Nguyên nhân ly hôn là những hiện tượng, sự kiện tác động đến hôn nhân và làm cho hôn nhân tan vỡ, ly hôn là kết quả tất yếu của mối quan hệ nhân quả với nguyên nhân nào đó phát sinh trong cuộc sống vợ chồng chẳng hạn như tính tình vợ chồng không hợp, ngoại tình…. còn lý do ly hôn chỉ là cái cớ mà đương sự dựa vào đó để Toà án giải quyết ly hôn. Trong nhiều trường hợp, lý do ly hôn cũng đồng thời là nguyên nhân ly hôn. Còn số ít, để tránh việc phải nêu ra nguyên nhân, động cơ thầm kín, họ thường tìm những lý do nào đó hợp lý để che lấp đi nguyên nhân thực sự dẫn đến ly hôn. Khác với nguyên nhân và lý do ly hôn, động cơ ly hôn thường mang tính tiềm ẩn. Đó là trường hợp tâm lý bên trong của đương sự, thúc đẩy đương sự xin ly hôn. Vợ chồng khi ly hôn thường có xu hướng che đậy động cơ ly hôn, cho dù động cơ có chính đáng hay không. Có thể lấy ví dụ sau: Một đôi vợ chồng cưới nhau đã 10 năm mà không có con, chị vợ biết mình không có khả 1. TAND huyện Gia Lâm, Bản án sơ thẩm số 02/LHST ngày 14/8/2003
  • 31. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 31 năng sinh đẻ, chị quyết định xin ly hôn chồng để giải toả tâm lý cho mình và tạo điều kiện cho anh chồng có cơ hội kết hôn với người khác. Qua điều tra, Toà án nhận thấy hai bên vợ chồng vẫn thực sự yêu thương nhau, có thể khắc phục được tình trạng nên đã kiên trì thuyết phục anh chị đoàn tụ. Việc giải quyết ly hôn hay không là dựa vào căn cứ ly hôn theo quy định tại Điều 89, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Toà án muốn giải quyết cho đương sự ly hôn hay không ly hôn thì phải căn cứ vào thực trạng hôn nhân của họ. Việc tìm hiểu nguyên nhân, lý do, động cơ ly hôn là rất cần thiết nhằm mục đích giải quyết linh hoạt các vụ án, xác định căn cứ ly hôn thật chính xác, hạn chế đến mức thấp nhất việc ly hôn, bảo vệ và củng cố hạnh phúc gia đình. ở một số nước trên thế giới, cơ sở của việc giải quyết vấn đề ly hôn lại có sự kết hợp giữa thực trạng của hôn nhân và yếu tố lỗi để giải quyết việc ly hôn. Theo Bộ luật dân sự Pháp, Điều 243 quy định: “Vợ hoặc chồng có thể xin ly hôn khi nêu ra toàn bộ những sự việc bắt nguồn từ bên vợ hoặc chồng làm cho cuộc sống chung không thể tiếp tục”. Theo quy định này, một bên vợ hoặc chồng làm đơn đến Toà án xin ly hôn trong đó có nêu lỗi của bên kia và nếu bên kia thừa nhận lỗi trước Toà thì Toà sẽ tuyên ly hôn và theo Điều 230 BLDS Pháp quy định: “Nếu hai vợ chồng cùng xin ly hôn thì không phải nói rõ lý do”, trong trường hợp này, căn cứ cho ly hôn được xác định nếu việc ly hôn do một bên xin với lý do bên kia làm cho cuộc sống chung không thể tiếp tục và bên kia chấp nhận thì thẩm phán tuyên bố cho ly hôn mà không cần xem xét với yếu tố lỗi. Như vậy, trong trường hợp này ly hôn được giải quyết theo sự thoả thuận của đương sự. Điều đó cũng phù hợp với bản chất của hôn nhân khi pháp luật của Pháp coi hôn nhân là một hợp đồng như những hợp đồng dân sự khác. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự Pháp cũng có xét đến tình trạng hôn nhân trên thực tế của vợ chồng, Toà án sẽ xử cho ly hôn, nếu tính tình của
  • 32. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 32 một người đã thay đổi đến mức không thể sống chung được nữa và theo những dự đoán có lý nhất, không thể được khôi phục trong tương lai. Bên cạnh việc xác định về tình trạng đời sống chung tan vỡ, còn phải xét đến thời gian sống riêng biệt của hai vợ chồng, pháp luật quy định khoảng thời gian đó là 6 năm (Điều 237 BLDS Pháp )1 . ở Canađa, luật pháp về ly hôn có sự kết hợp giữa căn cứ ly hôn trong việc xác định yếu tố lỗi và thực trạng hôn nhân. Hôn nhân được coi là tan vỡ khi hai vợ chồng sống riêng rẽ đã hơn một năm và lí do là hôn nhân bị rạn nứt, khi hai vợ chồng có quan hệ ngoại tình với người khác hoặc khi vợ hoặc chồng có đối xử ngược đãi cả về tinh thần lẫn thể chất làm bên kia không thể chịu đựng được. Trường hợp đó Toà án sẽ cho ly hôn2 . Còn theo luật Hôn nhân và gia đình ở Singapore, ly hôn chủ yếu dựa vào yếu tố lỗi trong đó việc xác định hôn nhân tan vỡ, không thể phục hồi căn cứ vào việc một bên ngoại tình thông dâm mà bên kia không thể tha thứ, khoan dung để chung sống với nhau được, một bên bị tệ bạc quá đáng, có sự ruồng bỏ không chung sống liên tục trong 2 năm và không có ý định quay trở lại hoặc đã ly thân trong 3 năm (nếu bên kia đồng ý), 4 năm (nếu bên kia không chấp nhận)3 . Theo Luật dân sự Nhật Bản, chồng hoặc vợ có thể ly hôn nhưng qua thoả thuận hoặc ly hôn theo trình tự xét xử. Đối với trường hợp ly hôn theo trình tự xét xử, chồng hoặc vợ chỉ có quyền kiện đòi ly hôn trong những trường hợp sau: Nếu một trong hai người bị người kia ngược đãi, hành hạ thậm tệ; một trong hai người có hành vi không chung thuỷ; nếu một trong hai người trong 3 năm liền không rõ còn sống hay đã chết; một trong hai người bị bệnh tâm thần mà không có khả năng chữa trị; tồn tại lý do dẫn đến các bên không thể tiếp tục hôn nhân 4 . 1. Bộ luật dân sự nước Cộng hoà Pháp năm 1998, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2. Luật ly hôn của Canada năm 1985 3. Luật Hôn nhân và gia đình Singapore 4. Luật dân sự Nhật Bản
  • 33. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 33 Qua tổng kết thực tiễn giải quyết các án kiện ly hôn của Toà án cho thấy số vụ ly hôn có hành vi ngược đãi, đánh đập chiếm tỉ lệ cao nhất trong các nguyên nhân dẫn đến ly hôn ở nước ta trong đó thì đa phần phụ nữ là nạn nhân của tình trạng này. Tình trạng bạo lực trong gia đình ngày càng gia tăng và thể hiện tính chất nghiêm trọng của nó. Tình trạng bạo lực trong gia đình xảy ra do nhiều lý do khác nhau. Có trường hợp do cuộc sống vật chất quá khó khăn. Có trường hợp do ghen tuông, nghi ngờ một bên ngoại tình nên đã đánh đập nhau. Tệ cờ bạc, nghiện ngập cũng là lý do dẫn đến tình trạng vợ chồng đánh đập, ngược đãi nhau. Đa phần bạo lực trong gia đình dẫn đến tình trạng vợ chồng ly hôn, có trường hợp dẫn đến án mạng. Ví dụ: vụ Hà Văn H ở huyện S, Thành phố H do bị vợ cằn nhằn về việc đánh bạc nên đã thường xuyên đánh đập vợ. Do không chịu đựng được, chị đã đem theo con bỏ về nhà mẹ đẻ. H đã đến nhà mẹ vợ đâm chết vợ và làm mẹ vợ bị trọng thương…. Hiện tượng vợ chồng ngoại tình cũng dẫn đến cuộc sống vợ chồng lâm vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài”. Cùng với nạn bạo lực trong gia đình, việc vợ chồng ngoại tình cũng trở thành nguyên nhân chính dẫn đến ly hôn. Theo thống kê, hàng năm có khoảng 10% số vụ ly hôn do vợ chồng ngoại tình. Hành vi ngoại tình của vợ chồng có thể là nguyên nhân dẫn đến hạnh phúc gia đình bị tan vỡ và mâu thuẫn gia đình cũng là lý do dẫn đến vợ chồng ly hôn. Thông thường những mâu thuẫn có thể phát sinh giữa vợ và chồng nhưng cũng có thể mâu thuẫn phát sinh giữa vợ, chồng với cha mẹ, anh, chị em của một trong hai bên. Những mâu thuẫn này có thể rất nhỏ, chỉ là do bất đồng quan điểm trong sinh hoạt hàng ngày, trong việc đối xử với các thành viên trong gia đình, trong việc nuôi dậy con cái. Nhưng do vợ chồng chưa thực sự thông cảm, không thiện chí lại cố chấp nên những mâu thuẫn ngày càng tăng dẫn đến một trong hai bên hoặc cả hai bên không thể chịu đựng được nhau và họ đã yêu cầu Toà án cho họ được ly hôn.
  • 34. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 34 Theo quy định tại Khoản 2, Điều 89 của luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn” (khoản 2, Điều 78, Bộ luật dân sự năm 2005 ). Như vậy, quyết định tuyên bố mất tích của Toà án được coi là căn cứ ly hôn nếu người vợ hoặc chồng của người bị mất tích yêu cầu được ly hôn. Quy định này hoàn toàn phù hợp với mục đích của hôn nhân. Nếu một trong hai vợ chồng bị tuyên bố mất tích có nghĩa là họ đã biệt tích 2 năm không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết. Chính sự vắng mặt đó của một trong hai vợ chồng đã làm cho quan hệ hôn nhân của họ tồn tại chỉ là hình thức. Giải quyết ly hôn trong trường hợp này nhằm bảo vệ quyền cho người vợ hoặc người chồng ở nhà về các lợi ích nhân thân và lợi ích tài sản, đồng thời cũng nhằm củng cố mối quan hệ gia đình. Trong trường hợp người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố vợ hoặc chồng họ mất tích và yêu cầu ly hôn, nếu có đủ điều kiện thì Toà án tuyên bố người đó mất tích và giải quyết ly hôn cho họ. Nếu chưa đủ điều kiện tuyên bố mất tích thì Toà án bác yêu cầu tuyên bố mất tích và cũng bác yêu cầu ly hôn của người kia. Trường hợp việc tuyên bố vợ hoặc chồng mất tích đã xảy ra trước đó, sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ hoặc chồng mất tích có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ của người đó mới có yêu cầu ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn ( mục 8 điểm b, Nghị quyết số 02/2000/ NQ - HĐTP ). 2.2 Các trường hợp ly hôn theo luật định 2.2.1 Thuận tình ly hôn Thuận tình ly hôn là trường hợp cả vợ hoặc chồng cùng yêu cầu chấm dứt hôn nhân được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng1 . 1. Luật sư - Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ - Thạc Sĩ Ngô Thị Hường : Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, Tr. 160 – 162
  • 35. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 35 Theo Điều 90 luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Trong trường hợp vợ chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Toà án công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và các con; nếu không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định”. Việc chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn phải được tiến hành ở Toà án nhân dân, pháp luật quy định việc thuận tình ly hôn là công nhận và đảm bảo quyền tự do ly hôn chính đáng của hai bên vợ chồng. Giải quyết ly hôn trong trường hợp hai vợ chồng có yêu cầu thuận tình ly hôn, cần lưu ý rằng sự tự nguyện của hai vợ chồng không phải là căn cứ quyết định việc chấm dứt hôn nhân mà sự tự nguyện của hai vợ chồng yêu cầu chấm dứt hôn nhân chỉ là cơ sở để Toà án xét xử. Cho nên, dù hai vợ chồng đã thuận tình ly hôn, việc xét xử vẫn phải theo đúng bản chất của sự việc, tức là phải dựa trên căn cứ ly hôn theo luật định. Có như vậy mới đảm bảo được lợi ích của vợ chồng, con cái và lợi ích của xã hội. Đối với những trường hợp vợ chồng xin thuận tình ly hôn nhưng thực tế quan hệ vợ chồng chưa phải đã đến mức "tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được" thì Toà án không ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn, vì trái với nguyên tắc của luật Hôn nhân và gia đình. Bảo đảm "thật sự tự nguyện ly hôn" là cả hai vợ chồng đều được tự do bày tỏ ý chí của mình, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận tình ly hôn. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn của hai vợ chồng đều phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình họ, phù hợp với yêu cầu của pháp luật và chuẩn mực, đạo đức xã hội.
  • 36. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 36 Cũng trong Điều 90, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, trong việc thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly hôn của vợ chồng, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định. Mục 9 của Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về thuận tình ly hôn đã chỉ rõ: Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà án vẫn phải tiến hành hoà giải, mục đích là để vợ chồng rút đơn yêu cầu ly hôn và đoàn tụ với nhau. Nếu hoà giải thành tức là vợ chồng rút đơn thuận tình ly hôn thì Toà án lập biên bản hoà giải thành, sau 15 ngày kể từ ngày Toà án lập biên bản hoà giải thành mà các bên đương sự không thay đổi ý kiến thì Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án (khoản 2, Điều 44 và khoản 2, Điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự). Trong trường hợp Toà án hoà giải không thành thì Toà án lập biên bản về việc tự nguyện ly hôn và hoà giải đoàn tụ không thành. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng không có sự thay đổi ý kiến cũng như Viện kiểm sát không có phản đối sự thoả thuận đó, thì Toà án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn mà không phải mở phiên Toà khi có đủ các điều kiện sau: - Hai bên thật sự tự nguyện ly hôn; - Hai bên đã thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
  • 37. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 37 - Sự thoả thuận của hai bên về tài sản và con trong trường hợp cụ thể này là bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con (Mục 9 điểm a, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000). Trong trường hợp hoà giải không thành, các bên thực sự tự nguyện ly hôn nhưng không thoả thuận được về việc chia tài sản hoặc việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì Toà án lập biên bản về việc hoà giải đoàn tụ không thành và về những vấn đề hai bên không thoả thuận được hoặc có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con, đồng thời mở phiên Toà xét xử theo thủ tục chung (Mục 9 điểm b, Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000). Trong những năm gần đây, đã xuất hiện một số trường hợp xin thuận tình ly hôn giả tạo, lừa dối cơ quan pháp luật, nhằm mưu cầu lợi ích riêng. Họ tự nghĩ ra những mâu thuẫn và lý do ly hôn nhìn bề ngoài có vẻ chính đáng nhưng thực tế họ lại không mong muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng và giữa họ không hề có mâu thuẫn. Nếu không điều tra kỹ, dễ dẫn đến trường hợp Toà án có thể kết luận là đã có đủ căn cứ để công nhận thuận tình ly hôn. Như vậy, chúng ta đã mắc lừa họ và họ sẽ đạt được mục đích riêng như thuận tình ly hôn giả để chuyển hộ khẩu; phụ cấp người ăn theo; lấy vợ lẽ nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng đối với người khác. Vì vậy, trong những trường hợp này, Toà án cần xử bác đơn xin ly hôn của đương sự, đồng thời nghiêm khắc phê phán, giáo dục đương sự với những hành vi sai trái đó. 2.2.2 Ly hôn theo yêu cầu của một bên
  • 38. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 38 Ly hôn theo yêu cầu của một bên (của một bên vợ hoặc một bên chồng) là trường hợp chỉ có một trong hai vợ chồng yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân1 . Điều 91, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành thì Toà án xem xét, giải quyết ly hôn”. Về nguyên tắc, Toà án chỉ xét xử ly hôn nếu xét thấy quan hệ vợ chồng đã ở vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Như vậy, giải quyết ly hôn trong cả hai trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn hoặc do một bên vợ hoặc một bên chồng yêu cầu ly hôn đều giống nhau về bản chất. Bản án và quyết định ly hôn của Toà án đều là việc Toà án xác nhận một cuộc hôn nhân đã “chết”, không thể tồn tại được nữa. Trong trường hợp một bên vợ, chồng yêu cầu ly hôn thì chỉ có một bên vợ, chồng tự nguyện và nhận thức được quan hệ hôn nhân đã tan vỡ, còn bên kia - người chồng, vợ không muốn ly hôn vì không nhận thức được mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng hoặc có thể nhận thức được nhưng lại xin đoàn tụ vì động cơ nào đó. Về trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ, chồng, Nghị quyết số 02/2000/NQ/HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn tại mục 10 như sau : Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn thì Toà án phải tiến hành hoà giải. Nếu hoà giải đoàn tụ không thành mà người yêu cầu xin ly hôn rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án áp dụng điểm 2 Điều 46 - Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. 1. Luật sư - Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ - Thạc Sĩ Ngô Thị Hường : Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, Tr. 160 – 162
  • 39. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 39 Nếu người xin ly hôn không rút đơn yêu cầu xin ly hôn thì Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ không thành. Sau 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản, nếu vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng không có sự thay đổi ý kiến cũng như Viện kiểm sát không phản đối thì Toà án quyết định công nhận hoà giải đoàn tụ thành. Quyết định công nhận hoà giải đoàn tụ thành có hiệu lực pháp luật ngay và các đương sự không có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. (Mục 10, điểm a, Nghị quyết số 02/2000/NQ/HĐTP ngày 23/12/2000). Trong trường hợp hoà giải đoàn tụ không thành thì Toà án lập biên bản hoà giải đoàn tụ không thành, đồng thời tiến hành mở phiên Toà xét xử vụ án ly hôn theo thủ tục chung (Mục 10, điểm b, Nghị quyết số 02/2000/NQ/HĐTP ngày 23/12/2000). Đối với trường hợp người vợ, chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích có yêu cầu ly hôn, theo mục 8, điểm b Nghị quyết số 02/2000/NQ- HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau : Theo quy định tại khoản 2, Điều 89: Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mắt tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn. Thực tiễn cho thấy có thể xảy ra hai trường hợp như sau: - Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố người chồng hoặc người vợ của mình mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn. Trong trường hợp này, nếu Toà án tuyên bố người đó mất tích thì giải quyết cho ly hôn, nếu Toà án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác các yêu cầu của người vợ hoặc người chồng. - Người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất tích có hiệu lực pháp luật thì người chồng
  • 40. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 40 hoặc người vợ của người đó có yêu cầu xin ly hôn với người đó. Trong trường hợp này, Toà án giải quyết cho ly hôn. - Khi Toà án giải quyết cho ly hôn với người bị tuyên bố mất tích thì cần chú ý giải quyết việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo quy định tại Điều 79 Bộ luật dân sự 2005. trong các trường hợp ly hôn do một bên yêu cầu mà Toà án các địa phương đã thụ lý và giải quyết thì tỉ lệ đơn của vợ và chồng là ngang nhau. Nhìn chung, qua việc giải quyết các yêu cầu ly hôn cho thấy quan hệ vợ chồng đã có những mâu thuẫn trầm trọng và các bên không thể chung sống với nhau được nữa, một bên không yêu cầu ly hôn chỉ vì không nhận thức và đánh giá đúng thực chất của quan hệ vợ chồng hoặc có thể đã đánh giá và nhận thức đúng thực chất quan hệ vợ chồng nhưng không muốn ly hôn vì một động cơ nào đó. Trong các trường hợp này, Toà án xét xử chỉ căn cứ vào thực chất của quan hệ vợ chồng. Do đó, dù bên không làm đơn yêu cầu ly hôn và không đồng ý ly hôn, Toà án vẫn có thể quyết định cho vợ chồng ly hôn khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Ngoài ra trong trường hợp hai vợ chồng xin thuận tình ly hôn, sau khi điều tra, hoà giải, Toà án xét thấy một bên vợ, chồng không tự nguyện ly hôn do bị cưỡng ép, bị lừa dối ly hôn, hoặc do sĩ diện, tự ái dẫn đến xin thuận tình ly hôn thì Toà án cần xử bác đơn xin thuận tình ly hôn mà không giải quyết theo thủ tục một bên vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. 2.3 Hậu quả pháp lý của ly hôn Ly hôn ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng đến lợi ích của vợ chồng, của các con và lợi ích của xã hội. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn Toà án phải thận trọng để có quyết định đúng đắn. Đồng thời, các cơ quan nhà nước cần có những biện pháp hạn chế tới mức thấp nhất ảnh hưởng tiêu cực của ly hôn tới gia đình và xã hội.
  • 41. Ly h«n trong LuËt H«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000 Ph¹m Trung HiÕu Chuyªn ngµnh: LuËt d©n sù 41 2.3.1 Quan hệ nhân thân giữa hai vợ chồng Theo nguyên tắc chung, khi bản án, quyết định ly hôn của Toà án có hiệu lực pháp luật, quan hệ vợ chồng được chấm dứt. Người vợ, chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người khác. Sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt hoàn toàn, dù vợ chồng có thoả thuận hay không thoả thuận được thì Toà án cũng sẽ quyết định. Nghĩa là những quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát sinh từ khi kết hôn, gắn bó tương ứng giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (như nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau tiến bộ, nghĩa vụ chung thuỷ giữa vợ chồng, quyền đại diện cho nhau…..) sẽ đương nhiên chấm dứt. Một số quyền nhân thân khác mà vợ, chồng với tư cách là công dân thì không ảnh hưởng, không thay đổi dù vợ chồng ly hôn. Trong xã hội ta hiện nay, thực tế có một số trường hợp vợ chồng đã ly hôn, phán quyết ly hôn của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, sau đó vợ chồng lại “tái hợp” chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn theo thủ tục luật định. Khi có tranh chấp, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên sẽ gặp những khó khăn nhất định. Ví dụ: chị T và anh P được Toà án nhân dân quận B, thành phố H quyết định cho ly hôn tháng 6/1998. Hai người sống riêng được một thời gian thì lại trở về chung sống với nhau từ tháng 12/1998 nhưng không đăng ký kết hôn. Tháng 3/2001, anh P bị tai nạn giao thông chết. Trong thời gian chung sống từ tháng 12/1998 đến tháng 3/2001, họ có thêm một số tài sản có giá trị 120 triệu đồng. Khi anh P chết, cha mẹ anh P cho rằng chị T không phải là vợ của anh P, do đó, không được nhận thừa kế tài sản của anh P. Phần tài sản trị giá 120 triệu đồng đó là tài sản do anh kinh doanh mà có nên là tài sản riêng của anh P. Chị T khởi kiện yêu cầu công nhân quan hệ giữa chị và anh P là vợ chồng nên chị được thừa kế tài sản của anh P và yêu cầu Toà án xác định khối tài sản trị giá 120 triệu đồng là tài sản chung của vợ chồng chị. Toà án nhân dân