3. đa dân tộc, có một nền văn hoá lâu đời, phong phú, thống nhất mà đa dạng.
Với số dân gần 80 triệu ngƣời của 54 dân tộc an hem cùng đoàn kết chung
sống trên một vùng lãnh thổ, trải qua nhiều đời, mỗi dân tộc đã đóng góp,
dựng xây tạo nên những thành quả trên nhiều lĩnh vực: kinh tế- văn hoá- xã
hội, bên cạnh đó cũng hình thành nên những vùng văn hoá với nét đặc trƣng
riêng. Đất nƣớc Việt Nam, con ngƣời Việt Nam với các thành phần dân tộc,
qua hang ngàn năm xây đắp đã tạo dựng nên một kho tàng văn hoá hết sức
phong phú, độc đáo và quý giá. Xuyên suốt chặng đƣờng lịch sử hình thành
và phát triển đất nƣớc, các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt
Nam nói chung và 54 dân tộc anh em nói riêng là một di sản vô cùng quý
báu, một tài nguyên vô cùng quý giá trong quá trình xây dựng và phát triển
đất nƣớc. Trải qua những năm tháng chiến tranh chống xâm lƣợc bảo vệ tổ
quốc, do một phần nhận thức của ngƣời dân còn thấp đặc biệt là sự quản lý,
phối hợp lỏng lẻo của các ngành các cấp nên nhiều vốn quý trong kho tang
văn hoá truyền thống các dân tộc đã bị mất mát và mai mộ. Nghị quyết 4 của
Ban chấp hành trung ƣơng Đảng khoá 8 về việc bảo tồn và phát huy giá trị
văn hoá truyền thống là định hƣớng quan trọng trong việc khôi phục lại
nguồn vốn quý của dân tộc. Nhiều công trình văn hoá nghệ thuật trên các
lĩnh vực văn hoá phi vật thể và vật thể đƣợc kiểm kê, trùng tu, tôn tạo
chống xuống cấp, sƣu tầm bảo quản nghiên cứu giới thiệu, giao lƣu để bảo
tồn trong cuộc sống và cho khách tham quan. Trong đó du lịch đóng vai trò
to lớn và đặc biệt quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá
truyền thống dân tộc. Bởi vậy nghiên cứu về du lịch sẽ góp phần quan trọng
trong việc nâng cao nhận thức và phƣơng hƣớng phát triển ngành du lịch
Việt Nam. Tuy nhiên do điều kiện có hạn về không gian, thời gian và tƣ liệu
nên đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu “Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc”. Đề tài sẽ cố gắng đi sâu phân tích vai trò
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
4. của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của một
số tài nguyên du lịch chọn mẫu, so sánh nhận thức thực tế, hoạt động của các
chƣơng trình du lịch trong những năm 2004 – 2008 để phát huy vai trò mà
du lịch đã tiếp cận, những tiềm năng mà du lịch còn chƣa đƣợc khai thác để
đáp ứng nhu cầu của khách nội địa và quốc tê.
2. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài “ Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc” hƣớng tới giải quyết mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá, trong
đó những nhân tố truyền thống dân tộc cần đƣợc phát huy nhƣ một nền tảng
vững chắc giúp cho ngành du lịch đi đúng hƣớng và tiến tới phát triển du
lịch một cách bền vững. Đồng thời thong qua phân tích, so sánh em hy vọng
sẽ góp phần củng cố thong tin bổ ích về vai trò của du lịch với việc bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cho những ngƣời tham gia hoạt động du
lịch để họ có thể phát huy tác dụng của nó nhƣ một cách tối đa và có hiệu
quả nhất.
2.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Sinh viên tập trung vào nghiên cứu ngành du lịch Việt Nam để làm rõ
vai trò của nó đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Đồng thời những nhận thức về bản sắc văn hoá dân tộc và những vấn đề có
lien quan cũng đƣợc nghiên cứu và làm rõ để làm sáng tỏ vấn đề.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp thu thập tài liệu
- Phƣơng pháp khảo sát thực địa
- Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống.
- Phƣơng pháp trực quan, phƣơng tiện thông tin đại chúng
4. Bố cục khoá luận
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
5. Gồm ba phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung gồm:
Chƣơng 1: Những nhận thức về du lịch và bản sắc văn hoá truyền thống
dân tộc.
Chƣơng 2: thực trạng vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc.
Chƣơng 3: Một số giải pháp kiến nghị để phát huy vai trò của du lịch
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc.
Phần kết luận.
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: Những nhận thức cơ bản về du lịch và văn hoá truyền thống
của dân tộc.
1.Những khái niệm cơ bản về du lịch:
Du lịch đối với nƣớc ta là một ngành kinh tế mới mẻ. Từ sau khi đất
nƣớc hoàn toàn giải phóng, ngành du lịch mới thực sự đƣợc đảng và Nhà
nƣớc quan tâm. Đặc biệt từ đại hội lần VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam,
cùng với sự chuyển dịch cơ cấu các thành phần, khu vực kinh tế, ngành du
lịch lần đầu tiên đƣợc nghị quyết của Đảng khẳng định là một ngành kinh tế
mũi nhọn. Muốn cho kinh tế du lịch phát triển đúng hƣớng mang lại nguồn
lợi cho nền kinh tế quốc dân chúng ta cần hiểu rõ khái niệm, lịch sử, xu thế,
những nhân tố tạo điều kiện cho ngành này phát triển để vận dụng vào điều
kiện cụ thể của nƣớc ta.
1.1.Khái niệm du lịch:
Mặc dù du lịch đã trở thành hiện tƣợng kinh tế, xã hội phổ biến trên thế
giới và là thói quen trong nếp sống sinh hoạt của xã hội. Nhƣng cho đến nay
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
6. nhận thức về nội dùng du lịch vẫn chƣa đƣợc thống nhất. Trƣớc thực tế phát
triển của ngành du lịch về mặt kinh tế cũng nhƣ trong lĩnh vực đào tạo,
nghiên cứu thảo luận, để đi đến thống nhất một số khái niệm trong đó có
khái niệm về du lịch là một đòi hỏi cần thiết.
Theo ông Nguyễn Khắc Viện thì du lịch là sự mở rộng không gian
văn hoá của con ngƣời.
Trong từ điển tiếng Việt du lịch lại đƣợc giải thích là đi chơi cho biết
xứ ngƣời.
Với Ghisman: du lịch là sự khắc phục về mặt không gian của con
ngƣời hƣớng tới một điểm nhất định nhƣng không phải là nơi thƣờng xuyên
của họ.
Guer Freuler: du lịch với ý nghĩa hiện đại của từ này là một hiện
tƣợng của thời đại chúng ta dựa trên sự tăng trƣởng về nhu cầu khôi phục
sức khỏe và sự thay đổi về môi trƣờng xung quanh, dựa vào sự phát sinh,
phát triển tình cảm đối với vẻ đẹp của thiên nhiên chia sẻ quan niệm này với
Guer Freuler, PTS Trần Nam đƣa ra quan điểm của mình: du lịch là quá
trình hoạt động của con ngƣời rời khỏi quê hƣơng đến một nơi khác với mục
đích chủ yếu là đƣợc thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc,
độc đáo khác lạ với quê hƣơng, không nhằm mục đích sinh lời đƣợc tính
bằng đồng tiền.
Aza nhận thấy du lịch là một trong những hình thức di chuyển tạm
thời tự một vùng này sang một vùng khác, từ một nƣớc này sang nƣớc khác
nếu không gắn với sự thay đổi nơi cƣ trú hay nơi làm việc.
Quan điểm của Kaspar: du lịch là toàn bộ những quan hệ về hiện
tƣợng xảy ra trong quá trìn di chuyển và lƣu trú của con ngƣời tại nơi không
phải là nơi ở thƣờng xuyên hoặc nơi làm việc của họ.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
7. Quan điểm cuả Hunziker và Kraff cũng bắt nguồn từ ý tƣởng này: du
lịch là tổng hợp các mối quan hệ và hiện tƣợng bắt nguồn từ cuộc hành trình
và lƣu trú tạm thời của các cá nhân tại những nơi không phải là nơi ở và nơi
làm việc thƣờng xuyên của họ.
Du lịch không chỉ là một hiện tƣợng xã hội đơn thuần mà nó phải gắn
chặt với hoạt động kinh tế. Tuy nhiên mỗi học giả lại có những nhận định
khác nhau về vấn đề này.
Theo Kuns một yếu tố không thể thiếu đƣợc trong định nghĩa về du
lịch cần đƣợc bổ sung là đến bằng các phƣơng tiện giao thong và sử dụng
các xí nghiệp du lịch.
Picira Edmod đã đƣa ra định nghĩa: du lịch là việc tổng hoà, việc tổ
chức và chức năng của nó không chỉ về phƣơng diện khách vãng lai mà
chính về phƣơng diện giá trị do ngƣời chỉ ra và của những khách vãng lai
đến với một túi tiền đầy tiêu dùng trực tiếp và gián tiếp cho các chi phí của
họ nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết và giải trí.
Mariot coi tất cả các hoạt động, tổ chức, kỹ thuật và kinh tế phục vụ
các cuộc hành trình và lƣu trú của con ngƣời ngoài nơi cƣ trú, với nhiều mục
đích ngoài mục đích kiếm việc làm và thăm viếng ngƣời thân là du lịch.
Ngoài những khái niệm thiên về tiếp cận kinh tế, tiếp cân xã hội cũng
có một số khái niệm sau: đối với Nguyễn Cao Thƣờng và Tô Đăng Hải cho
rằng: “Du lịch là một ngành kinh tế xã hội, dịch vụ có mhiệm vụ phục vụ
nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ ngơi hoặc không kết hợp với các hoạt động
chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và nhu cầu khác”.
Michand – chuyên gia nghiên cứu về du lịch thuộc lĩnh vực địa lý đƣa
ra quan điểm của mình: du lịch là tập hợp những hoạt động sản xuất và tiêu
thụ phục vụ cho việc đi lại và ngủ lại ít nhất một đêm ngoài nơi ở thƣờng
ngày với lý do giải trí, kinh doanh, sản xuất, hội họp, thể thao hoặc tôn giáo.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
8. Ngoài tiếp cận môi trƣờng, hoạt động du lịch phải có tiếp cận cộng
đồng mới đảm bảo sự phát triển lâu dài.
Coltman đã định nghĩa: du lịch là quan hệ tƣơng hỗ do sự tƣơng tác
của bốn nhóm du khách, cơ quan cung ứng du lịch, chính quyền và dân cƣ
tại nơi đến du lịch tạo nên.
Còn Robert W.Mcintosh, Charles R.Goelder, J.R Brent Ritchie phát
biểu về du lịch nhƣ là tổng các hiện tƣợng và mối quan hệ nảy sinh từ tác
động qua lại giữa du khách, nhà cung ứng, chính quyền và cộng đồng chủ
nhà trong quá trình thu hút và đón tiếp du khách.
Với mục đích quốc tế hoá, tại hội nghị Liên Hợp Quốc vệ du lịch họp
tại Roma, các chuyên gia đã đƣa ra định nghĩa về du lịch “Du lịch là tổng
hợp các mối quan hệ, hiện tƣợng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các
cuộc hành trình và lƣu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thƣờng
xuyên của họ hay ngoài nƣớc họ với mục đích hoà bình. Nơi họ lƣu trú
không phải nơi làm việc của họ”.
Khác với quan điểm trên các học giả biên soạn bách khoa toàn thƣ
Việt Nam đã tách hai nội dùng cơ bản của du lịch thành hai phần:
+ Nghĩa thứ nhất: du lịch là một dạng nghỉ dƣỡng sức tham quan tích cực
của con ngƣời ngoài nơi cƣ trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa nghệ thuật…
+ Nghĩa thứ hai: du lịch đƣợc coi là ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả
cao về nhiều mặt, nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và
văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng tình yêu đất nƣớc, đối với ngƣời
nƣớc ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình, về mặt kinh tế du lịch là lĩnh
vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn, có thể coi là hình thức xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
9. Luật Dulịch Việt Nam chỉ rõ: “Du Lịch là họat động có liên quan
đến chuyến đi của con ngƣời ngoài nơi cƣ trú thƣờng xuyên của mình nhằm
đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dƣỡng trong một
khoảng thời gian nhất định”. Theo định nghĩa này ta thấy, du lịch trƣớc tiên
phải là hoạt động của con ngƣời và phải là hoạt động ngoài nơi cƣ trú
thƣờng xuyên của họ. Tuy vậy ở đây còn nêu lên một vấn đề rất chung
chung là “nơi cƣ trú” bởi từ này có thể hiểu với một không gian rất rộng nhƣ
một đất nƣớc, bởi một nƣớc cũng có thể hiểu là nơi cƣ trú của công dân
nƣớc đó hoặc không gian nhỏ hơn là một vùng lãnh thổ, một tỉnh, thành phố
hay một huyện, một xã, hay một làng. Việc giới hạn không gian linh hoạt
nhƣ trên đã giúp chúng ta có cái nhìn nhận linh hoạt hơn không bị quá bó
hẹp về không gian du lịch mà nó đƣợc lien hệ với các yếu tố khác. Du lịch
phải nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dƣỡng của con ngƣời
đi du lịch, trong đó một nhu cầu rất quan trọng là tham quan, điều này cho
chúng ta thấy hoạt động của con ngƣời ngoài nơi cƣ trú nhƣng không nhằm
thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dƣỡng thì sẽ không đƣợc công
nhận là du lịch. Theo tinh thần đó thì những hoạt động nhƣ học tập ngoài nơi
cƣ trú, lao động ngoài nơi cƣ trú sẽ không phải là du lịch. Du lịch đƣợc diễn
ra trong một khoảng thời gian nhất định nghĩa là du lịch nhằm thoả mãn nhu
cầu của con ngƣời đi du lịch trong những thời gian nhất định, điều này giúp
ta phân biệt nhu cầu, hoạt động của con ngƣời đi du lịch với các nhu cầu
khác của họ và cho ta thấy giới hạn thời gian của khách du lịch, từ đó mà có
những sản phẩm du lịch phù hợp với giới hạn thời gian của họ.
Ngày nay, Tổ chức Du lịch Thế Giới (UNWTO) đã thống nhất khái
niệm du lịch phản ánh các mối quan hệ có tính bản chất bên trong là cơ sở
cho việc nghiên cứu các xu hƣớng và quy luật phát triển của nó. Do đó: “ Du
lịch là tổng thể những hiện tƣợng về mối quan hệ phát sinh do sự tác động
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
10. qua lại giữa khách du lịch, ngƣời kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và
cộng đồng dân cƣ địa phƣơng trong quá trình thu hút và lƣu giữ khách du
lịch. Trong thực tế cuộc sống, do sự phát triển của xã hội và nhận thức, các
từ ngữ thƣờng có nhiều nghĩa, nhiều khi trái ngƣợc nhau. Nhƣ vậy việc giải
thích bằng cách gộp các nội dùng khác nhau vào một định nghĩa sẽ gây khó
hiểu, không rõ ràng. Vậy có thể tách du lịch thành hai phần để định nghĩa:
- Thứ nhất, du lịch có thể hiểu là sự di chuyển và lƣu trú qua đêm tạm
thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cƣ trú
nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao tại chỗ về nhận thức về
thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo sự tiêu thụ một số giá
trị kinh tế, văn hoá, và dịch vụ do các cơ sở cung ứng.
- Thứ hai: Du lịch có thể đƣợc hiểu là một lĩnh vực kinh doanh các dịch
vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lƣu
trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể
ngoài nơi cƣ trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức
tại chỗ về thế giới xung quanh.
Việc nhận định rõ ràng hai nội dùng cơ bản của khái niệm có ý nghĩa góp
phần thúc đẩy sự phát triển của du lịch. Từ những khái niệm trên giúp ta
hiểu rõ về ngành du lịch từ đó có những nhìn nhận đúng đắn về ngành
này cũng nhƣ vai trò của nó đối với đất nƣớc, đặc biệt là vai trò bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
1.2. Một số khái niệm liên quan:
- Cũng theo Luật Du Lịch thì “tham quan là hoạt động của khách du lịch
trong ngày tới thăm nơi có tài nguyên du lịch với mục đích tìm hiểu, thƣởng
thức những giá trị tài nguyên du lịch”. Qua đây cho ta thấy, tham quan là
hình thức quan sát trực tiếp những di tích, danh lam, phong tục, cuộc sống
sinh hoạt của cộng đồng dân cƣ nơi họ đến du lịch, từ đó cảm nhận, hình
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
11. thành những kiến thức hoặc bổ sung thêm kiến thức cho bản thân mình.
Tham quan không chỉ thoả mãn nhu cầu tìm hiểu thông qua tiếp xúc trực
tiếp các giác quan mà nó còn thông qua việc tiếp xúc ấy để thƣởng ngoạn
các giá trị của nơi đến tham quan. Tham quan không những giúp cho ta cảm
nhận trực tiếp các đối tƣợng tham quan và giúp ta kiểm nghiệm, bổ sung trí
tƣởng tƣợng phong phú của con ngƣời về các đối tƣợng mà ta có đƣợc thông
qua các hình thức khác nhƣ văn học, hội hoạ, truyền thong… Việc hình
thành kiến thức, bổ sung kiến thức thông qua tham quan mang tính khác biệt
với các hình thức khác, bởi kiến thức đƣợc hình thành bổ sung một cách nhẹ
nhàng, thoải mái, không bắt buộc. Từ những quan sá kinh tế, trực tiếp, kiến
thức dần dần đọng lại trong khách du lịch một cách tự nguyện, bản năng, bởi
vậy những kiến thức đọng lại thuộc về nhu cầu và tƣơng đối bền vững với
ngƣời tiếp nhận nó.
- Luật Du Lịch còn chỉ rõ : “ Khách du lịch là ngƣời đi du lịch hoặc kết
hợp đi du lịch, trừ trƣờng hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu
nhập ở nơi đến ”. Về phƣơng diện kinh tế, du khách là những ngƣời sử dụng
dịch vụ của các doanh nghiệp du lịch nhƣ lữ hành, lƣu trú, ăn uống… (theo
nhập môn KH du lịch - Trần Đức Thanh). Khái niệm này cho ta thấy khách
du lịch là rất đa dạng không phân biệt tuổi tác, học thức, nghề nghiệp, địa vị
xã hội hay tôn giáo. Nhƣ vậy, sẽ có rất nhiều đối tƣợng nếu có nhận thức tốt
tham gia vào việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
- Tài nguyên du lịch: “ là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch
sử- văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con ngƣời và các giá trị nhân
văn khác có thể đƣợc sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ
bản để hình thành các khu du lịch , điểm du lịch , tuyến du lịch, đô thị du
lịch” ( Luật Du Lịch). Ngay từ khái niệm về tài nguyên du lịch này đã cho ta
thấy một phần vai trò du lịch trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
12. dân tộc. Vì khi ngành du lịch sử dụng, khai thác nguồn tài nguyên du lịch thì
sẽ đi đôi với việc giữ gìn và tiếp tục kế thừa phát triển nguồn tài nguyên đó
để hƣớng tới phát triển du lịch bền vững. Cảnh quan thiên nhiên chứa trong
bản thân nó vẻ đẹp hùng vĩ của tạo hoá nhƣng bên cạnh đó cũng ghi dấu ấn
lịch sử dân tộc qua các thời kỳ, chính vì vậy nó cuốn hút khơi dậy trong mỗi
con ngƣời chúng ta tình yêu quê hƣơng đất nƣớc giống nhƣ một đại văn hào
đã nói: “dòng suối chảy vào sông, sông chảy vào đại trƣờng giang Von-ga.
Còn sông Von-ga chảy ra biển. Lòng yêu nhà quê hƣơng xứ sở trở thành
lòng yêu nƣớc. Các di tích lịch sử không chỉ chứa đựng những thông tin lịch
sử mà còn chƣa đựng cả những tƣ tƣởng, truyền thống cách mạng của các
thế hệ cha ông chúng ta. Đƣơng thời thăm đền Hùng, Hồ chủ tịch đã dạy: “
Các vua Hùng đã có công dựng nƣớc, Bác cháu ta phải quyết tâm giữ nƣớc”.
Trong khung cảnh hùng vĩ của đền Hùng, lời dạy đó đi vào lòng chúng ta
một cách êm ái mà sâu sắc biết nhƣờng nào. Những di tích cách mạng với
thời gian năm tháng sẽ không chỉ đơn thuần là di tích cách mạng, mà nó sẽ
trở thành di tích lịch sử - cách mạng với ý nghĩa vô cùng lớn lao chứa đựng
trong bản thân nó và ý nghĩa thời gian nó đã trải qua. Không những chỉ chứa
đựng những thông tin lịch sử văn hoá mà các di tích còn ẩn chứa trong mình,
những giá trị nhân văn, những giá trị ứng xử của con ngƣời Việt Nam.
Thông qua các biểu tƣợng hoặc các truyền thuyết gắn liền với di tích đó, mà
ta thấy đƣợc nét truyền thống văn hiến của dân tộc mình. Khuê Văn Các
không phải nghiễm nhiên đƣợc xây dựng ở trung tâm Văn Miếu bởi nó ẩn
chứa trong mình những ý chí vƣơn lên toả sáng - những ánh sang tuyệt đẹp
của con ngƣời Việt Nam nhƣ ánh sáng của chùm sao Khuê.
- Khu du lịch: là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ƣu thế về tài nguyên
du lịch tự nhiên, đƣợc quy hoạch, đầu tƣ, phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu
đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
13. trƣờng (Luật Du Lịch). Vậy khu du lịch phải là nơi có tài nguyên du lịch hấp
dẫn và đồng thời phải có ƣu thế nổi bật về tài nguyên du lịch tự nhiên.
Không những thế, nó phải đƣợc quy hoạch, đầu tƣ phát triển, nhằm thoả mãn
nhu cầu đa dạng của khách du lịch nhƣng phải mang lại hiệu quả kinh tế, xã
hội và môi trƣờng. Qua đây chúng ta thấy nếu một khu nào đó có đầy đủ
điều kiện, đƣợc quy hoạch, đầu tƣ phát triển nhƣng không mang lại hiệu quả
xã hội và môi trƣờng thì nó vẫn chƣa đƣợc coi là khu du lịch.
- Điểm du lịch: là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham
quan của khách du lịch, (Luật Du Lịch). Khái niệm này giúp ta phân biệt
điểm du lịch với các điểm khác nhƣ: điểm vui chơi, giải trí, điểm thi đấu thể
thao… Đồng thời nó cũng giúp ta nhận biết đâu là tài nguyên du lịch đâu là
điểm du lịch, tài nguyên du lịch là khái niệm chung trong đó bao gồm cả
điểm du lịch, nhƣng điểm du lịch là những tài nguyên du lịch đã đƣợc đƣa
vào khai thác và phát huy ý nghĩa của nó.
- Tuyến du lịch: là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung
cấp các dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt,
đƣờng thuỷ, đƣờng hàng không. (Luật Du Lịch). Khái niệm này cho ta thấy
hai yếu tố cấu thành nên tuyến du lịch là các điểm, khu du lịch và tuyến giao
thông. Nếu có điểm du lịch nhƣng hạ tầng giao thông chƣa phát triển thì
cũng không xây dựng đƣợc tuyến du lịch. Tất nhiên ta phải hiểu tuyến giao
thông ở đây một cách đa dạng và uyển chuyển: gồm giao thông đƣờng xe cơ
giới, giao thông đƣờng thuỷ, và nhiều khi có cả đƣờng giao thông cho xe thô
sơ và đi bộ trong một khoảng cách chấp nhận đƣợc.
- Chƣơng trình du lịch: “là lịch trình, các dịch vụ và giá bán, chƣơng trình
đƣợc định trƣớc cho chuyến đi của khách du lịch, từ nơi xuất phát đến điểm
kết thúc chuyến đi ” (Luật Du Lịch). Vậy chƣơng trình du lịch chứa đựng ba
yếu tố cơ bản đó là lịch trình tham quan đƣợc định trƣớc và có xác định thời
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
14. gian thực hiện; hai là các dịch vụ kèm theo bao gồm lƣu trú, vận chuyển,
hƣớng dẫn, ăn uống và các dịch vụ khác tuỳ thuộc vào từng loại hình du
lịch; ba là chƣơng trình đó phải có giá bán rõ ràng. Qua đây ta thấy chƣơng
trình nhằm đáp ứng hai khía cạnh của khách du lịch là sở thích nhu cầu của
khách và khả năng tài chính của khách. Nếu không đáp ứng đƣợc hai khía
cạnh đó chƣơng trình du lịch sẽ trở thành không hấp dẫn và khó mà bán
đƣợc.
- Lữ hành: “ là việc xây dựng, bán, và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn
bộ chƣơng trình du lịch cho khách du lịch”. Nhƣ vậy, lữ hành là việc tổ chức
các chƣơng trình du lịch đã đƣợc bán cho khách du lịch. Lữ hành thực chất
là hoạt động của các công ty du lịch chuyển sản phẩm đến ngƣời tiêu dùng là
khách du lịch.
- Hƣớng dẫn du lịch: là hoạt động của các tổ chức kinh doanh du lịch thông
qua hƣớng dẫn viên và những ngƣời có liên quan đến đón tiếp, phục vụ,
hƣớng dẫn khách du lịch thực hiện các dịch vụ theo các chƣơng trình đƣợc
thoả thuận và giúp đỡ khách giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trìn
thực hiện chuyến du lịch. Khái niệm trên đã chỉ rõ những hoạt động chủ yếu
của hƣớng dẫn du lịch mà vai trò quan trọng nhất là của hƣớng dẫn viên,
những ngƣời thay mặt cho tổ chức kinh doanh du lịch thực hiện các hợp
đồng giữa đơn vị mình với khách du lịch. Các hoạt động du lịch bao gồm
nhiều mặt công tác và đòi hỏi về nghiệp độ tuy mức độ không giống nhau.
1.3. Sơ lƣợc về sự phát triển của du lịch
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu đƣợc trong đời sống kinh tế
xã hội và đã trở lên phổ biến ở nhiều quốc gia và là một thói quen trong nếp
sống sinh hoạt trong xã hội ngày nay. Có nƣớc coi du lịch là nguồn thu chủ
yếu, điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế, có nƣớc coi du lịch nhƣ một
ngành kinh doanh mũi nhọn có sức hút đối với những ngành khác. Ngành
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
15. du lịch ở Việt Nam ra đời năm 1960 với việc thành lập Công Ty Du Lịch
Việt Nam theo nghị định số 26 CP ngày 9/7/1960 đã đánh dấu nhận thức
của Đảng và Nhà Nƣớc về triển vọng nền kinh tế này.
Trong suốt gần 50 năm hình thành và phát triển ngành du lịch luôn
đƣợc Đảng và nhà nƣớc quan tâm. Ở mỗi thời kỳ đều xác định vị trí của du
lịch trong chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc phù hợp với yêu
cầu của xã hội. Đặc biệt thời kỳ đổi mới và hội nhập, du lịch Việt Nam đã
có những phát triển vƣợt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về phát
triển du lịch với các nƣớc trong khu vực. Trở thành ngành kinh tế quan trọng
trong chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc. Sự quan tâm đặc biệt
của Đảng và Nhà Nƣớc với du lịch là một tiền để rất quan trọng cho những
đổi mới của ngành. Sự quan tâm này đƣợc thể hiện trong hiến pháp của nƣớc
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, trong nghị quyết đại hội
Đảng toàn quốc, trong chỉ thị 46 CT/TW ngày 14/10/1994 của Ban Bí
ThƣTrung Ƣơng, thông báo số 179 TB/TW ngày 11/11/1998 và dự thảo
văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ X (dự thảo kế hoạch phát triển
kinh tế 5 năm 2006-2010) và hàng loạt các văn bản khác. Nhƣ vậy có thể tin
tƣởng rằng trong tƣơng lai du lịch Việt Nam chắc chắn sẽ có một vị trí xứng
đáng trong xã hội và nền kinh tế nƣớc nhà.
Lƣợng khách quốc tế vào nƣớc ta từ năm 1990-2007:
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
17. Nguồn: Tổng Cục thống kê
Qua hai bản biểu đồ trên có thể thấy hoạt động du lịch của nƣớc ta giai đoạn 1990-
2007 đã đạt đƣợc những thành tựu nhất định, cả lƣợng khách nội địa và quốc tế đã liên
tục tăng qua các năm. Điều đó khẳng định vị thế và tƣơng lai của du lịch nƣớc ta.
1.4. Các loại hình du lịch ở Việt Nam
Hoạt động du lịch có thể chia thành các nhóm khác nhau tuỳ thuộc vào tiêu
chí đƣa ra. Về phần mình các tiêu chí đƣợc đƣa ra phụ thuộc vào mục đích
việc phân loại và quan điểm chủ quan của tác giả. Do đó, cho đến nay chƣa
có bảng phân loại nào đƣợc coi là hoàn hảo. Phân loại theo mục đích chuyến
đi thì ở Việt Nam đang hình thành, tồn tại và phát triển các loại hình du lịch
sau:
- Du lịch văn hoá lịch sử: là chƣơng trình tổ chức cho khách du lịch
tham quan các điểm, khu du lịch mang ý nghĩa lịch sử, văn hoá và
thắng cảnh. Du lịch văn hoá, lịch sử giúp cho khách tìm hiểu đƣợc
những nét văn hoá , lịch sử truyền thống bản sắc của dân tộc, đất nƣớc
hoặc một vùng. Đây là loại hình du lịch cổ điển và truyền thống nhất
trong các loại hình du lịch và loại hình này hiện nay cung đang phát
triển nhất tại Việt Nam. Tham gia loại hình này khách chủ yếu tham
quan những di tích lịch sử văn hoá, những viện bảo tang những làng
nghề, lễ hội, những thắng cảnh thiên nhiên … Đây là loại hình du lịch
khá phổ thông và thu hút quảng đại khách du lịch và nó chiếm tỷ
trọng lớn trong ngành du lịch. Đồng thời loại hình du lịch này đã thể
hiện rõ nét và đƣợc đánh giá cao với vai trò bảo tồn và phát huy nền
văn hoá truyền thống dân tộc
- Du lịch sinh thái: Là du lịch phát huy, khai thác những giá trị sinh thái
môi trƣờng. DU lịch sinh thái giúp ta tìm hiểu đƣợc các hệ sinh thái tự
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
18. nhiên hoặc do con ngƣời tái tạo, giúp khách du lịch hiểu đƣợc giá trị
của sinh thái và môi trƣờng, ảnh hƣởng của sinh thái đối với cuộc
sống và một số ngành sản xuất; mối liên hệ tự nhiên giữa phát triển,
bảo vệ môi trƣờng và giữ cân bằng sinh thái môi trƣờng. Tham gia
loại hình du lịch này khách thƣờng đƣợc tham quan các khu bảo tồn
thiên nhiên lƣu trú trong những nhà nghỉ khách sạn đơn giản trong các
khu bảo tồn hoặc các khu phụ cận, nhƣng lại đƣợc đắm mình trong
khung cảnh thiên nhiên và không khí trong lành, qua đó đem lại cho
ngƣời ta một ý thức bảo vệ môi trƣờng, giữ gìn môi trƣờng, cải tạo và
trả lại cho môi trƣờng vẻ đẹp vốn có của nó.
- Du lịch mạo hiểm: Là loại hình du lịch mà hoạt động của du khách
mang ít nhiều tính mạo hiểm, khám phá. Từ mạo hiểm cho ta thấy là
trong quá trình du lịch khách dễ gặp phải những rủi ro, nguy hiểm khó
lƣờng trƣớc đƣợc và đôi khi nguy hiểm đến cả tính mạng. Loại hình
du lịch này chỉ phù hợp với những ngƣời có sức khỏe tốt và có cá tình
mạnh, thích phiêu lƣu mạo hiểm. Các dạng phổ biến của loại hình này
là leo núi, chinh phục các ngọn núi cao, vƣợt sông, thác ghềnh ở
những nơi nguy hiểm tạo cho họ cảm giác mạnh và mang ý nghĩa
chinh phục, lặn biển để khám phá vẻ đẹp dƣới đáy biển, khám phá các
hang động để tìm ra những điều bí ẩn. Du lịch mạo hiểm giúp cho con
ngƣời rèn luyện ý chí, khả năng xử lý tình huống khi gặp những khó
khăn bất ngờ.
- Du lịch nghỉ dƣỡng: một trong những chức năng xã hội quan trọng
của du lịch là phục hồi sức khoẻ cộng đồng. Theo một số học giả trên
thế giới với chế độ du lịch hợp lý cộng đồng có thể giảm đƣợc trung
bình 30% ngày điều trị bệnh trong năm. Thông thƣờng loại hình du
lịch này diễn ra ở những nơi có điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
19. việc nghỉ dƣỡng nhƣ khí hậu, môi trƣờng, bãi biển và có cơ sở vật
chất đủ đáp ứng cho nhu cầu nghỉ ngơi tĩnh dƣỡng. Tham quan khu
vực lân cận với chƣơng trình nhẹ nhàng, mang tính thƣ giãn và nghỉ
dƣỡng là một phần của loại hình này. Thời gian chủ yếu của khách là
nghỉ ngơi kết hợp các vận động nhằm giúp ích cho sức khoẻ hoặc thƣ
giãn đầu óc, hƣởng thụ các dịch vụ tại nơi nghỉ dƣỡng. Ở Việt Nam,
các khu nghỉ dƣỡng này mới chủ yếu hình thành dọc bờ biển miền
Trung nhƣ: Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang, Vũng Tàu…
- Du lịch tàu biển: là loại hình du lịch trên các con tàu biển với thiết bị
sang trọng, hiện đại vừa làm chức năng vận chuyển khách giữa các
điểm tham quan trên đất liền hoặc các đảo suốt hành trình trên biển,
đồng thời là nơi lƣu trú và giải trí của khách. Khi đến các điểm tham
quan, tàu neo đậu để khách lên bờ tham quan nhƣng tối lại quay về
nghỉ ngơi trên tàu. Ngày nay, những con tàu đã đƣợc đóng và trang bị
ngang bằng bởi các khách sạn năm sao với đầy đủ các dịch vụ nhƣ
phòng nghỉ, bể bơi, sân tennis, câu lạc bộ khiêu vũ… Loại hình du
lịch này hiện đang thu hút đƣợc nhiều ngƣời lớn tuổi, bởi trong suốt
thời gian di chuyển từ nƣớc này sang nƣớc khác họ không phải nó
mình trên các phƣơng tiện vận chuyển mà vẫn sinh hoạt thoải mái nhƣ
ở nhà.
- Du lịch MICE: đây là loại hình du lịch tƣơng đối mới mẻ ở Việt Nam,
nhằm cung cấp dịch vụ cho hội nghị, hội thảo, triển lãm và du lịch
phần thƣởng. Ngoài việc cung cấp dịch vụ cho các mục đích nêu trên
thì các dịch vụ phụ trợ hoặc xen kẽ giữa các khoảng thời gian của hội
nghị, hội thảo là rất quan trọng, nhƣ chƣơng trình tham quan cho các
thành viên đi theo hoặc chƣa tham gia hội nghị. Tổ chức các hoạt
động phụ trợ để hội nghị, hội thảo trở thành sự kiện khó quên đối với
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
20. các thành viên nhƣ các hoạt động nhóm, các bữa tiệc sang trọng mang
nét đặc sắc. Đây là loại hình du lịch hình thành để đáp ứng nhu cầu
hoạt động của các công ty đa quốc gia, các công ty siêu quốc gia, các
tổ chức quốc tế.
- Ngoài ra còn kết hợp du lịch trong chuyến đi vì mục đích tôn giáo,
học tập, nghiên cứu hoặc mục đích thể thao, thăm ngƣời thân,…
Qua các hoại hình du lịch nói trên có thể thấy du lịch văn hoá có ảnh hƣởng
tác động nhiều đến bản sắc văn hoá dân tộc của ngƣời Việt. Đây là loại hình
du lịch khá phổ biến và ngày càng phát triển. Dễ nhận thấy vai trò của nó
đối với việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc cũng đƣợc thể hiện
một cách rõ nét nhất.
2. Nhận thức cơ bản về văn hoá
2.1.Khái niệm văn hoá
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn và không thống nhất theo cách nghĩ
của mỗi ngƣời. Dƣới góc độ khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau mỗi
học giả đều tự đƣa ra cho mình những quan niệm khác nhau về văn hoá.
Văn hoá là sản phẩm do con ngƣời sáng tạo, có từ thuở bình minh của
xã hội loài ngƣời. Ở phƣơng Đông, từ văn hoá đã có trong đời sống ngôn
ngữ từ rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn hoá. Xem dáng vẻ con
ngƣời, lấy đó mà giáo hoá thiên hạ (quan hồ nhân văn dĩ hoá thành hiện đại).
Ngƣời sử dụng từ văn hoá sớm nhất có lẽ là Lƣu Hƣớng (năm 776 trƣớc
Công Nguyên). Tuy vậy việc xây dựng và sử dụng khái niệm văn hoá không
đơn giản và thay đổi theo thời gian, thuật ngữ văn hoá với nghĩa “canh tác
tinh thần” đƣợc sử dụng vào thế kỷ XVII – XVIII bên cạnh nghĩa gốc là
quản lý, canh tác nông nghiệp.
Vào thế kỷ XIX thuật ngữ “văn hoá” đƣợc những nhà nhân loại học
phát triển sử dụng nhƣ một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
21. hoá thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp đến cao nhất và văn hoá của
họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi họ cho rằng văn hoá hƣớng về trí lực và sự
vƣơn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B.Taylo là đại diện của họ.
Theo ông văn hoá là toàn bộ thực tế gồm: hiểu biết, tín ngƣỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con
ngƣời có đƣợc với tƣ cách là một thành viên của xã hội.
Thế kỷ XX, khái niệm văn hoá thay đổi F.Boa ý nghĩa văn hoá đƣợc
quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao
siêu nhƣ “trí lực” vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng
không phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tƣơng đối luận” của văn hoá.
Văn hoá không xét ở mức độ tăng giảm mà ở góc độ khác biệt. Trong ý
nghĩa rộng nhất: “Văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng
biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm ngƣời trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và
văn chƣơng, những lối sống, những quyền cơ bản của con ngƣời, những hệ
thống các giá trị, những tập tục và những tín ngƣỡng: văn hoá đem lại cho
con ngƣời khả năng suy xét về bản thân, chính văn hoá làm cho chúng ta trở
thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và sống
có đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà con ngƣời tự thể hiện, tự ý thức đƣợc bản
thân, tự biết mình là một phƣơng án chƣa hoàn thành đặt ra để xem xét
những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ
và sáng tạo nên những công trình vƣợt trội nên bản thân.
Nhƣ vậy, văn hoá không phải là một lĩnh vực riêng biệt, văn hoá là tổng
thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời tạo ra: văn
hoá là chìa khoá của sự phát triển.
2.2.Di sản văn hoá vật thể và phi vật thể
Theo quan niệm của UNESCO có hai loại di dản văn hoá:
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
22. - Một là, những di tích văn hoá hữu thể nhƣ: đình, đền, miếu, lăng mộ,
nhà sàn, bảo tàng… hay những di tích kiến trúc nghệ thuật.
- Hai là, những di sản văn hoá vô hình (phi vật thể) bao gồm các biểu
hiện tƣợng trƣng và “không sờ thấy đƣợc” của văn hoá đƣợc lƣu
truyền và biến đổi qua thời gian, với một số quá trình tái tạo “trung
tu” của cộng đồng. Những di sản văn hoá tạm gọi là vô hình này theo
UNESCO gồm cả: âm nhạc, múa, truyền thống, văn chƣơng truyền
miệng ngôn ngữ, huyền thoại, nghi thức, phong tục tập quán, việc nấu
ăn, các món ăn, lễ hội, bí quyết và quy trình công nghệ của các nghề
truyền thống.
Các hữu thể và các vô hình gắn bó hữu cơ với nhau, lồng vào nhau
nhƣ thân xác và tâm trí con ngƣời.
2.3. Khái niệm truyền thống và hiện đại
Có nhiều cách hiểu khác nhau trong phân loại xã hội, nhƣng ngày nay
ngƣời ta thƣờng lấy tiêu chí hoạt động của con ngƣời để chia lịch sử thành:
- Xã hội thu lƣợm (hái lƣợm và đi săn)
- Xã hội nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi)
- Xã hội công nghiệp (cơ giới)
- Xã hội hậu công nghiệp (thời đại tin học)
Ở Việt Nam xã hội cổ truyền là xã hội nông nghiệp, văn minh cổ truyền
là văn minh thôn dã (xóm làng), văn hoá Việt Nam truyền thống thƣờng
đƣợc xem là nền văn hoá xuất hiện từ lúc hình thành quốc gia dân tộc, qua
nhiều bƣớc phát triển nội sinh và ảnh hƣởng ngoại sinh cho đến khi văn hoá
phát triển (chủ yếu là văn hoá Pháp) tác động đến một số lĩnh vực. Nhƣ vậy
khoảng thời gian kéo dài từ xa xôi cho đến những năm đầu thế kỷ XX tạm
đƣợc coi là giới hạn của văn hoá truyền thống. Từ thời điểm đó đến nay,
đƣợc coi là văn hoá hiện đại. Đôi khi ngƣời ta cũng có sự lẫn lộn giữa khái
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
23. niệm cổ truyền và truyền thống. Có thể coi khái niệm cổ truyền bao gồm cả
cái không tích cực. Khái niệm truyền thống là tập quán đã đƣợc sàng lọc.
Truyền thống đƣợc dùng ở đây là tính cho đến thời điểm trƣớc công cuộc
giao thoa truyền thống văn hoá Đông – Tây, Việt – Pháp.
Định nghĩa văn hoá truyền thống: trong bài viết văn hoá cổ truyền, văn
hoá truyền thống và truyền thống văn hoá của một tác giả tên đăng trên tạp
chí văn hoá dân gian có nêu: “văn hoá truyền thống là khái niệm dùng để chỉ
một cấu trúc văn hoá, chỉ văn hoá của các xã hội nông nghiệp truyền thống”.
Tuy đây là định nghĩa ngắn gọn nhƣng còn gây cho ngƣời đọc sự khó hiểu,
diễn đạt còn chƣa thoát ý.
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm có đƣa ra định nghĩa: “Văn hoá là hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo và tích luỹ qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi
trƣờng tự nhiên và xã hội”. Từ điển Tiếng Việt của viện ngôn ngữ học do
Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: “Truyền thống là thói quen hình thành đã
lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, đƣợc truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ
khác”.
2.3.Mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá
Để có thể đánh giá đƣợc đầy đủ và chính xác vai trò của ngành du lịch
trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, ta cần phải
nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa du lịch và văn hoá thể hiện nhƣ
sau:
Về mặt lý luận, văn hoá là toàn bộ những hoạt động, những giao lƣu,
những sản phẩm vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo trong sự ứng xử
toàn diện với thiên nhiên, với xã hội, với -chính bản thân mình, để tồn tại và
phát triển; là quá trình con ngƣời không ngừng hoàn thiện và phong phú hoá
các quan hệ nhân tính của xã hội, của cộng đồng và các cá nhân khẳng định
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
24. hệ giá trị văn hoá. Về du lịch, hầu nhƣ trƣớc đây có bao nhiêu tác giả nghiên
cứu tìm hiểu du lịch thì có bấy nhiêu định nghĩa. Nhƣ đã đƣợc nêu trong
phần khái niệm du lịch. Vậy mối quan hệ biện chứng giữa du lịch và văn hoá
thể hiện ở chỗ nào? Nếu ta nghiên cứu sự hình thành và phát triển của ngành
du lịch, điều đó có thể khẳng định là từ cổ đại mầm mống của du lịch bắt
nguồn từ nhu cầu hoạt động văn hoá (hành hƣơng, hành trình lễ hội). Ngƣợc
lại văn hoá cũng tác động đến việc hình thành các dịch vụ sơ khai của ngành
du lịch hiện đại (sự xuất hiện của các cơ sở lƣu trú phục vụ cho khách hành
hƣơng). Văn hoá là sự giao lƣu; thực vậy, nhờ có sự giao lƣu, trao đổi mà
các hoạt động văn hoá, tín ngƣỡng đƣợc lan truyền từ vùng này sang vùng
khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Con ngƣời với đặc trƣng cơ bản là
biết lao động, tƣ duy và sáng tạo, hƣớng tới hoàn thiện và cái đẹp ở thời cổ
đại chính khát vọng vƣơn tới tự do, khát vọng đƣợc nâng đỡ cứu giúp khỏi
các thảm hoạ thiên nhiên và bất công xã hội, con ngƣời đã sáng tạo ra thần
thánh và tôn giáo nhƣ một giá đỡ tinh thần. Từ đó Kitô tôn giáo, Phật giáo
và hồi giáo xuất hiện và đƣợc truyền bá từ vùng này sang vùng khác. Mỗi
dân tộc đều có truyền thống bản sắc văn hoá riêng. Những tinh hoa văn hoá
của từng dân tộc có đƣợc là do quá trình lao động sáng tạo của cộng đồng,
đƣợc cộng đồng thừa nhận và lƣu truyền từ đời này qua đời khác. Truyền
thống, bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc không phải là cái bất biến, nó không
ngừng đƣợc hoàn thiện phát triển qua các thởi đại nhờ sự hoàn thiện và
những yếu tố du nhập từ các nền văn hoá của mình. Thông qua giao tiếp, tìm
hiểu các dân tộc trao đổi cho nhau những kiến thức về văn hoá, những cái
hay, cái đẹp trong cuộc sống qua đó mỗi dân tộc có sự chắt lọc, bổ sung,
nâng cao nền văn hoá của mình. Đây là đặc trƣng trong tính kế thừa theo
trục không gian của các nền văn hoá. Nếu không có giao lƣu, nền văn hoá
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
25. vủa mỗi cộng đồng, dân tộc khi bị cô lập sẽ ở trạng thái ngƣng trệ. Sự kế
thừa theo trục không gian đã thúc đẩy văn hoá nhân loại phát triển.
Khi nghiên cứu du lịch ta không chỉ xem xét trên góc cạnh của ngƣời
hƣớng dẫn mà trên thực tế những ngƣời cung cấp dịch vụ là yếu tố thứ hai
trong du lịch tạo nên một hiện tƣợng Kinh Tế - Văn Hoá. Họ là những ngƣời
cung cấp thông tin, tổ chức các chuyến du lịch, ngƣời cung cấp phƣơng tiện
giao thông, cung cấp cơ sở lƣu trú, ăn uống để thoả mãn nhƣ cấu cơ bản của
con ngƣời. Ngoài ra những ngƣời làm công tác nghệ thuật, tổ chức vui chơi
giải trí, cung cấp thiết bị kỹ thuật … Với tƣ cách là “nhà sản xuất hàng hoá
dịch vụ, hoạt động của ngƣời làm du lịch không thể tách rời các yếu tố văn
hoá” .
Trong doanh nghiệp hoạt động du lịch, yếu tố văn hoá là toàn bộ giá trị
vật chất và tinh thần mà doanh nghiệp tạo ra. Sử dụng trong quá trình phục
vụ khách, vì vậy có thể nói rằng văn hoá chính là toàn bộ quá trình xây dựng
bố trí cơ sở vật chất: thiết bị vận chuyển, khách sạn, nhà hàng, các dịch vụ
phụ trợ khác …
Một điểm cần lƣu ý là sản phẩm của nghành du lịch mang tính chất đặc
thù. Nghĩa là nó không thể đóng gói, tồn kho, bày bán nhƣ các sản phẩm
thông thƣờng. Yếu tố dịch vụ mang tỷ trọng lớn trong sản phẩm. Nhƣ vậy
một sản phẩm du lịch không chỉ có mặt vật chất mà nó chứa đựng yếu tố văn
hoá, tinh thần. Kết tinh vào sản phẩm có sức lao động của con ngƣời thông
qua giao tiếp, phục vụ, chăm sóc khách hàng. Nhân viên phục vụ với tính
chất là sản phẩm của một nền văn hoá vì họ mang trong mình khả năng
chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp, và các yếu tố truyền
thống trong nhân cách. Họ đại diện cho doanh nghiệp và cả một nền văn hoá
để cảm hoá khách hàng.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
26. Tóm lại giữa du lịch và văn hoá có mối quan hệ biện chứng. Hoạt động
của ngành du lịch nhƣ một ngành kinh tế dịch vụ góp phần cho sự tăng
trƣởng và sự phát triển của nền kinh tế xã hội, tạo điều kiện nâng cao mức
sống vật chất và tinh thần cho cộng đồng, thúc đẩy phát triển văn hoá và
ngƣợc lại, sự phát triển của một xã hội văn minh trong đó trình độ văn hoá,
chính trị, tƣ tƣởng của các thành viên trong cộng đồng lại tác động lại đến
phát triển kinh tế trong đó có du lịch.
Chương 2: Thực trạng du lịch Việt Nam với vai trò bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá truyền thống của ngƣời Việt.
2.1. Vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội .
2.1.1. Vai trò của nghành du lịch đối với nền kinh tế quốc dân:
Nhà Nƣớc Việt Nam xác định: du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp
quan trọng, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và
xã hội hoá cao; phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí,
nghỉ dƣỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân
trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc. Qua đó, ta thấy:
- Đối với nền kinh tế quốc dân thì du lịch có vai trò là một ngành kinh tế
tổng hợp quan trọng có tính liên ngành liên vùng. Du lịch là ngành dịch vụ.
Nên nó sử dụng một tỷ trọng nhân công tƣơng đối lớn, từ đó đã tạo ra một
khối lƣợng lớn việc làm cho ngƣời lao động. Du lịch là ngành kinh tế tổng
hợp nên khi nó phát triển sẽ kích thích và tạo điều kiện cho các ngành khác
phát triển và ngƣợc lại, các ngành khác phát triển cũng kích thích và tạo điều
kiện cho ngành du lịch phát triển. Trong nền kinh tế quốc dân nƣớc ta, du
lịch vẫn còn là ngành non trẻ, tuy vậy ngành này đang ngày càng phát triển
với một tốc độ mạnh và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập quốc
dân. Một số nƣớc trong khu vực có điều kiện tƣơng tự nƣớc ta nhƣng do
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
27. nhận thấy vai trò của du lịch đối với nền kinh tế nên họ đã có chính sách
thúc đẩy ngành phát triển và trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất
nƣớc. Nhƣ Thái Lan, trong suốt hàng chục năm qua, tỷ trọng ngành du lịch
luôn đứng đầu trong nền kinh tế quốc dân, không những thế, nó còn đóng
vai trò quan trọng trong việc giúp kinh tế nƣớc này phục hồi nhanh chóng
sau cuộc khủng hoảng tài chính của khu vực. Nƣớc ta trong năm năm gần
đây du lịch đã đóng góp một phần không nhỏ vào phát triển kinh tế đất
nƣớc.
Doanh thu từ du lịch trong những năm 1990- 2006:
3. Thu nhập du lịch
nhậ
60,000
50,000 51,000
40,000
30,000
26,000
23,000
20,000
17,400
14,000
10,000 8,000 9,500
0 1,350 2,830
1990 1992 1994 1996 1998 2000 2002 2004 2006
Nguồn: Tổng Cục Du Lịch
Nhờ những phát triển trong ngành du lịch mà đã tạo ra đƣợc đội ngũ
phục vụ có chuyên môn, một cơ sở vật chất về lƣu trú đủ khả năng phục vụ
và đã phục vụ thành công các sự kiện lớn của Nhà Nƣớc, nhƣ phục vụ
SeaGame 22, phục vụ hội nghị Thƣợng Đỉnh Á - Âu và đã để lại ấn tƣợng
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
28. tốt với các nguyên thủ cũng nhƣ các đoàn đại biểu của các nƣớc. Du lịch
phát triển còn nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng các hàng hoá vật chất và
các hàng hoá phi vật chất. Do đó nhu cầu về dịch vụ rất đƣợc khách quan
tâm. Một đặc điểm quan trọng và khác biệt giữa việc tiêu dùng du lịch và
tiêu dùng các hàng hoá khác là việc tiêu dùng sản phẩm du lịch xảy ra cùng
một lúc, cùng nơi với việc sản xuất ra chúng. Do đó để thực hiện đƣợc quá
trình tiêu thụ sản phẩm, ngƣời mua hàng đƣợc đƣa đến nơi sản xuất và tiêu
dùng tại chỗ. Vì vậy sản phẩm du lịch mang tính độc quyền. Vậy, ảnh hƣởng
kinh tế của du lịch đƣợc thể hiện thông qua tác động qua lại của quá trình
tiêu dùng và cung ứng sản phẩm du lịch. Quá trình này tác động lên lĩnh vực
phân phối, lƣu thông và do vậy ảnh hƣởng đến những lĩnh vực khác nhau
của quá trình tái sản xuất xã hội.
Trên bình diện chung, hoạt động du lịch có tác động biến đổi cán cân
thu chi của khu vực và của đất nƣớc. Du khách mang ngoại tệ vào đất nƣớc
mà họ đi du lịch, làm tăng ngoại tệ cho đất nƣớc họ đến, ngƣợc lại phần thu
ngoại tệ sẽ tăng lên đối với quốc gia có nhiều ngƣời đi du lịch nƣớc ngoài.
Trong phạm vi một quốc gia hoạt động du lịch làm xáo động hoạt động luân
chuyển tiền tệ, hàng hoá. Cán cân thu chi đƣợc thực hiện giữa các vùng có
trình độ kinh tế - văn hoá khác nhau tuy không làm biến đổi cán cân kinh tế
của đất nƣớc, song có tác dụng điều hoà nguồn vốn từ vùng kinh tế phát
triển sang vùng kém phát triển hơn, kích thích sự tăng trƣởng kinh tế các
vùng sâu vùng xa.
Khi khu vực nào đó trở thành điểm du lịch, du khách từ mọi nơi đi về
sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một số
lƣợng lớn vật tƣ, hàng hoá các loại đã kích thích mạnh mẽ các ngành liên
quan nhƣ nông nghiệp, công nghiệp chế biến…
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
29. So với ngoại thƣơng ngành du lịch cũng có nhiều ƣu thế nổi trội. Du
lịch quốc tế xuất khẩu tại chỗ đƣợc nhiều mặt hàng không phải qua nhiều
khâu nên tiết kiệm đƣợc lao động, chênh lệch giá giữa ngƣời bán và ngƣời
mua không cao.
Qua đây ta thấy du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh
tế của đất nƣớc. Việt Nam với chủ trƣơng mở cửa làm bạn với tất cả các
nƣớc. Nhằm thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp nƣớc ngoài vào hợp tác
cùng phát triển, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động với thu nhập
cao, thúc đẩy nền kinh tế tăng trƣởng với nhịp độ cao, cải thiện đời sống
sinh hoạt, giá cả trong nƣớc ổn định.
2.1.2. Vai trò của du lịch đối với văn hoá – xã hội
Ngày nay, du lịch không chỉ trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn,
ngành công nghiệp không khói của rất nhiều quốc gia trên toàn thế giới mà
nó còn trở thành một nhu cầu không thể thiếu đƣợc của con ngƣời. Kinh tế
càng phát triển, đời sống của ngƣời dân càng tăng bởi một đặc tính cố hữu
của con ngƣời là ham hiểu biết và giao lƣu. Càng tham quan nhiều, càng
giao lƣu nhiều thì con ngƣời càng cảm nhận kiến thức của mình còn nhiều
khập khiễng giao lƣu còn quá bó hẹp. Chƣa nói đến phạm vi rộng, chỉ cần
biết đƣợc các miền của đất nƣớc, cuộc sống của con ngƣời Việt Nam ở mỗi
vùng, mỗi dân tộc là ƣớc mơ của biết bao triệu ngƣời dân chúng ta. Với bề
dày lịch sử, hàng ngàn năm văn hiến, với biết bao danh lam thắng cảnh, di
tích trải dài trên suốt chiều dài của đất nƣớc, tất cả đã trở thành nguồn tài
nguyên vô tận để ngành du lịch khai thác phục vụ cho kinh tế, nâng cao đời
sống tinh thần cho ngƣời dân và làm bạn bè quốc tế hiểu hơn về đất nƣớc
cũng nhƣ con ngƣời Việt Nam. Thông qua du lịch các tầng lớp dân cƣ trong
xã hội có điều kiện để tiếp xúc với nhau và hiểu nhau hơn, từ đó hình thành
nên những nhận thức chung và quan tâm chung. Không có du lịch làm sao
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
30. các cộng đồng miền xuôi có điều kiện để tiếp xúc và hiểu đƣợc hoàn cảnh,
thực tế cuộc sống , kinh tế của các cộng đồng dân tộc miền ngƣợc, vùng
kinh tế kém phát triển, từ đó xây dựng cho họ nhận thức, tinh thần tƣơng
thân giúp đỡ nhân đạo tốt hơn. Du lịch cũng giúp cộng đồng dân tộc miền
ngƣợc có điều kiện tiếp xúc, tiếp thu những kiến thức tiên tiến về văn hoá,
kinh tế, nếp sống văn minh của các cộng đồng khác từ những vùng kinh tế
văn hoá phát triển. Không những chỉ có tác dụng giao lƣu xã hội mà du lịch
còn tạo điều kiện cho các nhà đầu tƣ, khảo sát thực tế tiềm năng phát
triển,cơ hội đầu tƣ ở những vùng kinh tế còn khó khăn, từ đó họ có những kế
hoạch chiến lƣợc đầu tƣ vào những khu đó giúp phảt triển kinh tế xã hội và
góp phần xoá đói giảm nghèo của các khu vực khó khăn này. Dân gian có
câu “ trăm nghe không bằng một thấy” thì du lịch cũng là một trong những
cơ hội để các nhà đầu tƣ thấy trực tiếp, quan sát trực tiếp, tìm hiểu trực tiếp
tiềm ăng, cơ hội đầu tƣ cho các dự án phát triển du lịch, phát huy giá trị du
lịch.
Bên cạnh đó du lịch còn là ngành kinh tế tổng hợp có nội dung văn hoá
sâu sắc có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao nên du lịch còn có vai
trò giúp cho ngƣời đi du lịch muốn đƣợc trải nghiệm và thẩm nhận những
giá trị văn hoá của cộng đồng khác. Cũng nhƣ du lịch đáp ứng đƣợc nhu cầu
mong muốn đƣợc hoàn thiện mình, ai ai cũng muốn nâng cao trình độ hiểu
biết của mình dể trở thành những bậc vĩ nhân nhƣ trong huyền thoại …
Chính những mong muốn đƣợc mở mang trình độ hiểu biết, sự tò mò tìm
hiểu và khám phá chân trời mới trong tiềm thức mỗi con ngƣời đều trỗi dậy
những ý tƣởng về nền văn minh cổ đại và họ muốn khám phá ra những điều
bí mật ấy. Chính những nhu cầu này mà ngày nay xu hƣớng du lịch văn hoá
ngày càng phát triển, du khách muốn đi tìm hiểu, nghiên cứu, khám phá
những nét văn hoá truyền thống của các dân tộc ngày càng nhiều. Nhƣ vậy
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
31. du lịch đóng vai trò thiết yếu và không thể thiếu đƣợc đối với nền văn hoá xã
hội Việt nam
2.2 Thực trạng du lịch Việt nam với vai trò bảo tồn và phát huy giá trị văn
hoá truyền thống của ngƣời Việt
Là một ngành kinh tế mũi nhọn song mục đích của phát triển du lịch
không chỉ vì lợi nhuận kinh tế. Điều quan trọng và căn bản hơn là du lịch
trực tiếp góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của Việt nam đối với thế giới
cũng nhƣ các nƣớc trong khu vực. Có thể nói khách nƣớc ngoài đến với
Việt nam bởi nhiều lý do trong đó có sự thân thiện của con ngƣời Việt nam.
Đây là một thế mạnh mag tính truyền thống cần đƣợc gìn giữ phát huy. Mặt
khác qua du lịch, khách muôn phƣơng có dịp hiểu hơn về con ngƣời, đất
nƣớc, kinh tế, văn hoá Việt nam. Du lịch Việt nam giống nhƣ một sứ giả hoà
bình và hữu nghị thắt chặt tình thân ái với bạn bè năm châ.Vì thế Việt nam
ngày càng trở thành điểm đến hẫp dẫn của khách du lịch quốc tế. Bảng thống
kê dƣới đây cho ta thấy số lƣợng khách du lịch trong 9 tháng của năm 2007.
kh¸ch quèc tÕ ®Õn viÖt nam
9 th¸ng n¨m 2007
Th¸ng Th¸ng
Th¸ng 9 Céng dån 9 th¸ng
9/2007 9/2007
9 th¸ng so víi
n¨m so víi ®Çu n¨m 2007
®Çu cïng
kú n¨m
2007 n¨m 2007 th¸ng 8 so víi cïng
tríc
(Lît n¨m 2007
(Lît kh¸ch) (%) kú n¨m tríc (%)
kh¸ch) (%)
Tæng
100.6 132.0 118
sè 358,000 3,171,763
I. Chia theo ph¬ng tiÖn
®Õn:
1. §êng kh«ng 2,475,540 101.3 131.5 126
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
35. 12. Anh 56,355 64,673 69,682 63,348 71,016
82,
13. §øc 32,058 39,096 46,327 44,609 56,561
69,
14. Canada 30,845 35,963 43,552 40,063 53,813
63,
15. Nga 6,017 8,092 7,964 8,604 12,249
24,
Nguån: Tæng côc Thèng kª
Đến tháng 4/ 2008 chúng ta đã đón 1,96 triệu lƣợt khách nƣớc ngoài tăng
116,1% so với cùng kỳ của năm 2007.Dự kiến con số này còn cao hơn nữa
trong những tháng tiếp theo của năm 2008. Điều đó chứng tỏ du lịch Việt
Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
Cùng với sức hấp dẫn của ngôi sao đang lên, du khách nƣớc ngoài lựa
chọn Việt nam vì đây còn là điểm đến thân thiện có bề dày lịch sử mấy
nghìn năm cùng với truyền thống văn hoá, đa dạng và phong phú. Nhƣ vậy
du lịch giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc đã đƣợc khẳng định một
cách sâu sắc hơn bao giờ hết
Khôi phục, lƣu truyền và giữ gìn các giá trị văn hoá truyền thống của
dân tộc. Đặc tính của khách du lịch là sau mỗi chuyến du lịch, khi trở về nơi
cƣ trú họ thƣờng kể lại cho bạn bè, ngƣời thân nghe những gì họ đã thu
lƣợm đƣợc trong chuyến du lịch. Một phần không nhỏ trong câu chuyện là
về bản sắc văn hoá, truyền thống và tính cách của con ngƣời nơi mà họ đã
tham quan du lịch. Cứ tính theo một cách suy diễn thông thƣờng nếu du lịch
đảm nhận tốt vai trò của mình trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá
truyền thống thì ảnh hƣởng đó sẽ đƣợc nhân lên 5,6 lần và có thể là nhiều
hơn thế trong cộng đồng, trong xã hội. Nhờ có du lịch mà giá trị văn hoá,
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
36. truyền thống không bị mai một hoặc mất dần đi mà ngƣợc lại các truyền
thống đó luôn đƣợc ghi nhớ trong lòng du khách từ các thế hệ này đến thế hệ
khác. Cũng có khi những giá trị văn hoá truyền thống đã bị lãng quên theo
thời gian nhƣng du lịch lại góp phần khôi phục lại những truyền thống đó
bằng cách dựng lại những hình ảnh, những biểu tƣợng hoặc sự kiện có liên
quan để phục vụ cho sự khám phá, thích tìm hiểu của du khách.
Du lịch tạo ra nguồn kinh phí để tu bổ các giá trị văn hoá vật thể. Du
lịch đƣợc xác định là một ngành công nghiệp không khói, một ngành kinh tế
mũi nhọn của đất nƣớc. Trong tƣơng lai đây là ngành có nhiều tiềm năng và
triển vọng. Nguồn thu từ du lịch tƣơng đối lớn nó góp phần cân đối ngân
sách và đóng góp hang tỷ đồng cho đất nƣớc. Một phần ngân sách thu đƣợc
từ du lịch đƣợc trích ra để tạo nguồn kinh phí tu bổ các giá trị văn hoá vật
thể nhƣ: công trình kiến trúc, đình chùa miếu, lăng tẩm,… Sự tôn tạo này
nhằm khôi phục lại những gì đã xuống cấp của các di sản văn hoá. Điều này
thể hiện tƣơng đối rõ vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá
trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
Phát triển du lịch đồng nghĩa với việc khẳng định, tôn vinh giá trị văn hoá
truyền thống. Mỗi điểm du lịch đều ẩn chứa trong mình những giá trị văn
hoá sâu sắc, những truyền thống độc đáo của dân tộc . Ngay cả phong cách
lối sống của cƣ dân tại điểm cũng thể hiện điều đó. Khi du khách đi du lịch
sẽ đƣợc thẩm thấu các giá trị văn hoá đó qua nhiều cách khác nhau nhƣ tự
khám phá cảm nhận, hay qua sự truyền đạt giàu cảm xúc rung động lòng
ngƣời từ hƣớng dẫn viên du lịch. Hoặc cũng có thể từ những thông tin đã
đƣợc cung cấp tại điểm du lịch. Vậy có thể thấy du lịch có vai trò quan trọng
trong việc truyền đạt và lƣu giữ giá trị văn hoá truyền thống trong lòng du
khách từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nó tạo nên một sức sống trƣờng tồn
của văn hoá truyền thống .
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
37. Du lịch bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống nhƣ một tài
nguyên quý giá. Vì văn hoá truyền thống còn đƣợc coi là nguồn tài nguyên
để phát triển du lịch. Muốn phát triển du lịch một cách bền vững thì nhất
định phải dựa trên cơ sở bảo tồn và phát huy chính nguồn tài nguyên quý
giá này. Du lịch coi văn hoá truyền thống của dân tộc nhƣ một điểm mạnh,
một sự độc đáo và làm nên sự khác biệt của du lịch nƣớc ta với các nƣớc
khác. Cho nên ngành du lịch đã nghiên cứu về giá trị văn hoá của nứơc ta.
Sự nghiên cứu này tạo nên sự hiểu biết về văn hoá dân tộc hay có những tác
phẩm về văn hoá du lịch hay du lịch văn hoá từ đó mà ra đời. Các tác phẩm
này giống nhƣ một kho tang quý giá giúp cho các thế hệ đời sau hiểu hơn về
văn hoá của 54 dân tộc anh em.
Du khách đi du lịch đồng nghĩa với việc kích thích tiêu thụ các sản phẩm,
dịch vụ trong đó có các sản phẩm văn hoá gồm cả sản phẩm văn hoá vật thể
và phi vật thể. Ví dụ : khi du khách đến thăm làng nghề họ sẽ muốn mua
những sản phẩm do các nghệ nhân tạo ra, hay đơn giản hơn họ đi du lịch chỉ
để thƣởng thức một món ăn truyền thống nổi tiếng. Đây cũng là hình thức kế
thừa và phát huy giá trị văn hoá dân tộc .
Du lịch còn giống nhƣ một sợi dây liên kết vô hình gắn chặt các quốc gia
khu vực với nhau. Khi du khách đi du lịch tạo ra sự giao lƣu giữa các vùng
miền với nhau. Đây cũng là cơ hội cho những nhà nghiên cứu, những ngƣời
làm du lịch hay bất cứ ai ai đổi các kinh nghiệm bảo tồn và phát triển văn
hoá. Từ đó có những phƣơng pháp tối ƣu nhất để bảo tồn và phát triển giá
trị văn hoá truyền thống của dân tộc ta.
Để có nhận thức tổng quát về vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị văn hoá truyền thống chúng ta sẽ đi sâu xem xét vai trò của
du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể
qua ví dụ điển hình sau:
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
38. 2.1. Vai trò của du lịch trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, Việt Nam đƣợc biết đến là một vùng
đất còn lƣu giữ nhiều di tích lịch sử, văn hoá và cách mạng có giá trị. Giá trị
đặc biệt quan trọng bởi giúp tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử dân tộc, tập quán
các làng xã, để các thế hệ hôm nay và mai sau có thêm hiểu biết về cội
nguồn dân tộc, truyền thống quê hƣơng.
Trong đó làng quê Kinh Bắc- một vùng truyền thống, nơi quần tụ bao đời,
cái nôi văn hoá của cả nƣớc, nơi có truyền thống khoa bảng, lƣu giữ những
huyền thoại đẹp với bao di tích và lễ hội dân gian - một điểm du lịch hấp
dẫn, đựơc coi là một ví dụ điển hình của việc phát triển du lịch gắn liền với
bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống. Chính vì thế trong phần
này sinh viên đã chọn Bắc Ninh để phân tích, tìm hiểu vai trò của du lịch
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống trên địa bàn tỉnh
và mang những nét chung của ca đất nƣớc.
Theo ông Nguyễn Duy Nhất, PGĐ ban quản lý di tích Bắc Ninh thì toàn
tỉnh hiện có 1259 di tích thuộc các loại hình: di tích lịch sử - văn hoá, di tích
kiến trúc nghệ thuật, và di tích cách mạng. Trong đó nhiều nhất vẫn là đình,
đền và chùa. Có thể kể đến những chùa nhƣ Chùa Dâu, Phật tích…là những
di sản văn hoá tiêu biểu của quê hƣơng Kinh Bắc và dân tộc. Đây là các
chứng tích vật chất xác thực, phản ánh sinh động về lịch sử lâu đời và truyền
thống văn hiến – cách mạng của nhân dân Bắc Ninh nói riêng cũng nhƣ cả
nƣớc nói chung.
- Chùa Dâu: Chùa Dâu đƣợc bộ văn hoá thông tin đƣa vào danh mục 38 di
tích quốc gia đặc biệt. Cùng với việc xác định giá trị lịch sử văn hoá của di
tích, lập bản đồ đất đai va khoanh vùng bảo vệ di tích, ngăn chặn xâm hại di
tích, trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn di tích cũng đƣợc quy định một cách rõ
ràng.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
39. Chắc hẳn câu ca dao cổ:
Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp Chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu
Đã đi sâu vào tâm trí mỗi du khách nhƣ một lời nhắc nhở, một lời mời gọi về
thăm lại chùa Dâu. Miền Dâu, liên lâu hoặc luy lâu - huyện Thuận Thành
ngày nay nằm gần trung tâm châu thổ Bắc Bộ. Khi đến thăm chùa Dâu du
khách sẽ đƣợc hiểu thêm về Luy Lâu đó là một trong 3 trung tâm Phật giáo
lớn trong đế chế Trung Hoa là luy lâu, Lạc Dƣơng và Bành Thành. Hơn nƣa
miền Dâu sớm trở thành một trung tâm thƣơng mại sầm uất mang tầm cỡ
quốc tế. Nơi đây là chốn đô hội, thủ phủ của quận Giao Chỉ và Châu Giao,
trung tâm giao lƣu kinh tế, văn hoá, tín ngƣỡng, tôn giáo của nƣớc ta những
thế kỷ sau công nguyên với các nƣớc trong vùng. Trung tâm Phật giáo Dâu
đƣợc hình thành trong bối cảnh đó.
Đồng thời khách du lịch cũng đƣợc cung cấp những thông tin về chùa Dâu
nhƣ chùa xƣa có tên chữ là “Cổ Châu Tự”, “Thiền Địch Tự”, và ngày nay là
“Diên ứng tự”. Tên Phổ biến vẫn đƣợc gọi là chùa Pháp Vân theo tên Vị
Phật đƣợc thờ ở chùa, còn Chùa Dâu là theo tên địa phƣơng. Đây là ngôi
chùa có lịch sử hình thành và phát triển cổ nhất trong số các chùa còn lại ở
nƣớc ta hiện nay. Đƣợc xây dựng vào thế kỷ VI sau công nguyên gắn liền
với lịch sử du nhập đạo phật vào vùng Dâu. Chùa đƣợc coi là trung tâm phật
giáo của vùng Dâu.
Tại chùa Dâu có một cây tháp lớn có chân hình vuông. Dân gian truyền
rằng tháp này do Mạc Đĩnh Chi xây dựng lại, cao chín tầng. Mặc dù mặt
tháp không có trang trí hoa văn nhƣng giá trị kiến trúc mỹ thuật đƣợc thể
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
40. hiện ở hình khối, màu gạch và mạch vữa, có mối quan hệ với kiến trúc. Chùa
tháp của Ấn Độ trong buổi đầu dựng chùa tháp Hoà Phong là một biểu
tƣợng thể hiện sự giao thoa văn hoá và tín ngƣỡng bản địa giữa ngƣời Việt
Nam và Ấn Độ.
Du khách còn đƣợc thƣởng thức những tác phẩm có giá trị nghệ thuật
thẩm mỹ cao nhƣ: nan can bậc cửa trƣớc của tháp chạm thành khối lƣợng
tròn, mỗi bên có một con sóc nằm phủ phục theo dáng bò từ trên xuống. Đây
là sản phẩm của thời Trần. Hay tấm bia ghi lại việc xây dựng tháp, con cừu
đá dài 1,33m cao 0,88m. Tƣợng cừu đƣợc tạo bằng đá sa thạch biến chất
nằm gọn trong khối chữ nhật, rừng cong, tai dài, có râu chải thẳng xuống,
miệng ngậm, mũi bẹt, mũi ti hí. Hình tƣợng nghệ thuật này rất hiếm trong
nghệ thuật điêu khắc Việt Nam. Từ nghệ thuật điêu khắc cho đến chất liệu
của tƣợng đã thể hiện sự giao thoa văn hoá giữa Việt Nam, Ấn Độ và Trung
Hoa mang dấu ấn của lịch sử phát triển vùng Dâu và thành cổ luy lâu.
Ngoài ra còn nhiều tác phẩm đẹp của các nghệ sỹ trong thời Trần còn
lƣu lại đến ngày nay. Cánh gà ngoài cửa giữa cột cái và cột hiên có mảng
ván thời nhà Trần chạm dây hoa, còn lại đều là của thời Lê thuộc nửa cuối
thế kỷ XVII với hình rồng ổ mẹ con đùa giỡn nhau, đây là hình tƣợng nghệ
thuật mang đầy chất dân gian. Bên trong thƣợng điện là những tƣợng phật đa
dạng, phong phú và đặc sắc chỉ có ở chùa Dâu, thể hiện sự giao thoa, hội
nhập văn hoá giữa tôn giáo ngoại lai là phật giáo với tín ngƣỡng thờ các vị
thần thiên nhiên là thần Mây, Mƣa, Sấm, Chớp. Tuy nhiên truyền thuyết
mang đầy màu sắc huyền thoại những vị thần này trong tín ngƣỡng của cƣ
dân trồng lúa nƣớc vùng nhiệt đới Bắc Bộ Việt Nam đã chuyển thành Phật
Tử Pháp. Đó cũng là khát vọng bao đời của ngƣời nông dân mong sao cho
mƣa thuận gió hoà để nền nông nghiệp vốn phụ thuộc rất lớn vào thiên nhiên
có thế sinh sôi nảy nở.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
41. Chùa Dâu là ngôi chùa có lịch sử cổ nhất nƣớc ta hiện nay, một viên
ngọc quý vô giá minh chứng phật giáo du nhập lớn từ những đầu thế kỷ
công nguyên vào nƣớc ta. Chùa Dâu còn là nơi giao thoa, hội nhập giữa văn
hoá tín ngƣỡng Việt Nam với văn hoá tín ngƣỡng, kiến trúc phật giáo từ Ấn
Độ. Nơi đây còn lƣu giữ nhiều giá trị kiến trúc nghệ thuật cổ kính vô giá,
nhiều cổ vật có giá trị là những tƣ liệu quý hấp dẫn du khách tham quan
nghiên cứu.
Đến với chùa Dâu dù chỉ một lần du khách sẽ cảm nhận đƣợc bề dày
văn hoá của vùng Dâu đƣợc ghi dấu ấn rõ nét trong từng thớ gỗ, từng chi tiết
kiến trúc ở đây. Vì vậy chùa Dâu đƣợc coi là một tài nguyên du lịch vô giá.
Cũng chính nhờ du lịch mà kiến trúc độc đáo này đƣợc thẩm thấu và truyền
đạt ở mức độ cao nhất. hàng năm, chùa Dâu đón hàng ngàn lƣợt du khách
đến thăm. để khi trở về họ ghi đậm dấu ấn của chùa Dâu trong lòng cứ nhƣ
vậy những giá trị này đƣợc khẳng định và không bị mai một theo thời gian.
mặt khác chùa còn đƣợc trùng tu nhiều lần nhằm bảo vệ, phát huy giá trị lịch
sử văn hoá theo hƣớng phát triển du lịch văn hoá nhằm phục vụ khách thăm
quan du lịch. Trong đó việc phát triển du lịch tạo ra một nguồn kinh phí
đáng kể trong việc trùng tu tôn tạo di tích lịch sử văn hoá này. Nguồn thu đó
có thể từ tấm long hảo tâm của du khách thập phƣơng qua việc góp công
đức, nguồn thu đó cũng có thể thu đƣợc từ các dịch vụ tại điểm du lịch. Mặt
khác để phục vụ cho việc phát triển du lịch, ban quản lý di tích đã có nhiều
phƣơng pháp quản lý nhằm bảo tồn khôi phục và phát triển di sản văn hoá
vật thể quý giá này. Điều này có ý nghĩa trong việc chống xuống cấp làm
mai một di sản. Vậy với việc bảo tồn, khôi phục và phát triển di tích chùa
Dâu du lịch đóng vai trò quan trọng.
Chùa bút tháp: chùa có tên là “Linh khúc thiên tự cách chùa Dâu 3 km.
Tên chùa mới có từ nửa sau thế kỷ XIX do vua Tự Đức khi thấy cây tháp
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn
42. của chùa giống nhƣ bút đang đề thơ nên trời. Chùa có kiến trúc hoà nhập với
môi trƣờng tự nhiên bao quanh. Đây cũng là nơi có những trung tâm Phật
giáo suốt từ đầu công nguyên đến đầu thời tự chủ.
Chùa Búp Tháp là một ngôi chùa độc đáo, có bộ cục gọn gàng, chặt chẽ
và rất sinh động. Việc xây dựng dựa vào các vật liệu bền chắc và đã kế thừa
những nét truyền thống dân tộc từ thời đại Lý, Trần trƣớc đó. Các đơn
nguyên kiến trúc đƣợc bố trí cân xứng, chặt chẽ ở khu trung tâm nhƣng lại tự
nhiên ở khu vực xung quanh. Cụm kiến trúc trung tâm ở chùa Bút Tháp bao
gồm 9 đơn nguyên chạy song hàng, bố trí đăng đối trên một đƣờng “linh
đạo” lối bố trí đăng đối theo trục chính và phƣơng pháp về xử lý các khối
kiến trúc của công trình đã tạo nên vẻ thâm nghiêm, u tịch và thanh thoát
cho cảnh chùa
Mở đầu là tam quan ba gian, hai mái, tƣờng hồi, bít dốc. Gác chuông
hai tầng tám mái, nền vuông, một gian hai dĩ, tám hoa. Toàn khối kiến trúc
nhƣ một bông sen khổng lồ, độc đáo và hấp dẫn. Trong chùa còn có nhiều
kiểu kiến trúc lạ và đẹp mắt tạo sự thanh thoát, bay bổng. Các tháp chính ở
vòng ngoài tuân thủ triệt để nguyên tắc đăng đối: phía sau chùa là tháp Tôn
Đức nằm trên đƣờng trục, bằng đá ghép, bình diện vuông, năm tầng là điểm
cuối đƣa nhịp điệu kiến trúc hoà vào sự bay bổng lên không khung, hai bên
có hai tháp đá khác cùng hàng ngang nhƣng nhỏ hơn. Hai bên sƣờn chùa, từ
giữa hồi nhà Trung kéo ra, bên trái có tháp đá Bảo Nghiêm, bình diện bát
giác đây là điểm cao nhất để tôn xƣng hòa thƣợng mở đầu cho hệ thống tổ
chùa ở đây.
Trong kiến trúc cũng nhƣ trang trí ở chùa Bút Tháp, ta không thể không
nói đến các yếu tố của hai nền văn hoá Việt – Hàn. Tuy nhiên các yếu tố này
đã đƣợc việt hoá một cách tài tình. Khiến chúng hoà nhập nhuần nhuyễn với
văn hoá Việt, tạo một phong cách độc đáo của chùa Bút tháp.
Chia sẻ miễn phí bởi www.tuoitrebentre.vn