SlideShare a Scribd company logo
1 of 113
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ QUẾ
TỘI MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ QUẾ
TỘI MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
TrÇn ThÞ QuÕ
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI
VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM
9
1.1. Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về tội
phạm buôn bán người, buôn bán trẻ em
10
1.1.1. Khái niệm buôn bán người theo quy định của luật pháp quốc tế 10
1.1.2. Khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em theo quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam
16
1.2. Lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam quy định
về phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
20
1.2.1. Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 1999
20
1.2.2. Hệ thống pháp luật phi hình sự có liên quan đến phòng, chống
tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
24
1.3. Kinh nghiệm và sự hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
31
Chương 2: TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999
VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ HAI TỘI PHẠM NÀY TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2009 - 2013
37
2.1. Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trong Bộ luật hình
sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
37
5
2.1.1. Tội mua bán người (Điều 119 Bộ luật hình sự) 37
2.1.2. Tội mua bán trẻ em (Điều 120 Bộ luật hình sự) 41
2.2. Tình hình tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ
em trên địa bàn tỉnh Hà Giang
47
2.2.1. Đặc điểm chung về tình hình tội phạm mua bán người, mua
bán trẻ em trên phạm vi cả nước
47
2.2.2. Tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa
bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013
51
2.3. Tình hình xét xử tội phạm mua bán người và tội phạm mua
bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
58
2.4. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những tồn
tại, hạn chế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang
72
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG,
CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ MUA BÁN
TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
77
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
tội mua bán người và tội mua bán trẻ em
77
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối
với tội mua bán người và tội mua bán trẻ em
82
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh
Hà Giang
84
3.3.1. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân tham
gia phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
85
3.3.2. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, gắn xây
dựng nông thôn mới với công tác xóa đói giảm nghèo, dạy
nghề và tạo việc làm cho nam nữ thanh niên
87
6
3.3.3. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong
điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
88
3.3.4. Tăng cường sự phối hợp với các ngành chức năng trong công
tác phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em
90
3.3.5. Tăng cường công tác xác minh và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng
cho nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
93
3.3.6. Tăng cường phối hợp, hợp tác quốc tế trong công tác phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
95
KẾT LUẬN 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Số vụ và số bị can đã khởi tố điều tra về tội mua bán
người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang
từ năm 2009 - 2013
53
2.2 Số vụ và số bị can, bị cáo bị khởi tố điều tra, truy tố, xét
xử về tội mua bán người, mua bán trẻ em trên phạm vi cả
nước từ 2009 - 2013
56
2.3 Số vụ và số bị cáo đã xét xử về tội mua bán người và tội
mua bán trẻ em theo Điều 119, 120 Bộ luật hình sự, trên
địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
59
2.4 Tổng hợp mức hình phạt của các bị cáo đã xét xử về tội
mua bán người và tội mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh
Hà Giang từ 2009 - 2013
64
2.5 Thống kê số nạn nhân theo mục đích mua bán của tội
phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em, trên
địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
65
2.6 Thống kê thành phần độ tuổi các nạn nhân của tội phạm
mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà
Giang từ 2009 - 2013
68
2.7 Thống kê thành phần độ tuổi của tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm
2009 - 2013
69
8
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
2.1 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ tổng số vụ án mua bán người, mua
bán trẻ em trên tổng số vụ án về trị an xã hội của tỉnh Hà
Giang từ năm 2009 - 2013
53
2.2 Biểu đồ thể hiện tổng số vụ án thụ lý về tội mua bán
người và tội mua bán trẻ em của tỉnh Hà Giang so với cả
nước từ năm 2009 - 2013
57
2.3 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số vụ án xét xử về tội mua bán người
và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật
hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
62
2.4 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số bị cáo xét xử về tội mua bán người
và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật
hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
63
2.5 Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo mục đích mua bán của tội
phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa
bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013
66
2.6 Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo thành phần độ tuổi bị mua
bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang
từ năm 2009 - 2013
69
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hướng đến một thế giới văn minh, công bằng
và bình đẳng nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của con người đặc biệt là phụ
nữ và trẻ em thì thế giới đã xuất hiện một hình thức xâm phạm nghiêm trọng
đến danh dự, nhân phẩm con người với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức
tạp và có tổ chức đó là tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Đây là
một thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Những năm gần đây, tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em ở
Việt Nam diễn biến phức tạp, có xu hướng quốc tế hóa. Trong nước đã xuất
hiện nhiều đường dây mua bán người, mua bán trẻ em xuyên quốc gia, liên
quan đến đối tượng thuộc nhiều địa phương, có sự cấu kết chặt chẽ giữa tội
phạm trong nước và nước ngoài với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, lừa gạt
dưới mọi hình thức để đạt được mục đích. Đối tượng của hoạt động mua bán
người là nam giới, phụ nữ và trẻ em, thuộc mọi lứa tuổi trong đó nhiều nhất là
phụ nữ và trẻ em. Phần lớn phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ các vùng nông thôn,
miền núi ra đô thị, bị ép buộc làm gái mại dâm phục vụ cho các cửa hàng,
dịch vụ trá hình. Nhiều nạn nhân bị buôn bán ra nước ngoài, đến các quốc gia
khác nhau với nhiều hình thức bóc lột nhằm trục lợi như mại dâm và làm vợ
bất hợp pháp, nam giới bị buôn bán để bóc lột sức lao động... Thực trạng phụ
nữ và trẻ em bị bán ra nước ngoài qua các hình thức dịch vụ môi giới hôn
nhân, cho nhận con nuôi đã trở thành vấn đề nóng bỏng, nhức nhối, ảnh
hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt của nhân dân, phong tục tập quán, đạo đức
xã hội. Tệ nạn mua bán người đe dọa đến sự an ninh, an toàn của con người
trên nhiều phương diện, gây những tác hại nặng nề về thể chất và tinh thần
cho nạn nhân, tước đoạt tự do và quyền con người, đe dọa đến an ninh toàn
cầu và làm gia tăng tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Mua bán người, mua
10
bán trẻ em có những tác hại nặng nề đối với bản thân các nạn nhân, những
người thường bị lạm dụng về thể chất và tinh thần, bị cưỡng hiếp, đe dọa đến
tính mạng, sự an toàn của bản thân và gia đình họ. Mua bán người, mua bán
trẻ em còn làm tăng nạn sản xuất và buôn bán giấy tờ giả, ảnh hưởng không
nhỏ đến an ninh, trật tự của quốc gia.
Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng nhiều đề án,
chương trình hành động và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đấu
tranh, phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Trong chương
trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004
đến năm 2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 130/2004/QĐ-TTg ngày
14/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ) thì một trong những nội dung quan
trọng là phải xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan về phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Đặc biệt là Bộ luật hình sự
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã điều chỉnh Điều 119 từ tội danh
mua bán phụ nữ sang tội danh mua bán người để đáp ứng được yêu cầu đấu
tranh chống tội phạm mua bán người và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em chưa thực sự hiệu quả, tỷ lệ khám phá, xử lý tội phạm
còn thấp. Các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có nhiều cố gắng trong việc phát
hiện, điều tra, truy tố, xét xử, bóc gỡ được nhiều đường dây buôn bán người
mang tính tổ chức cao và hoạt động xuyên quốc gia, tuy nhiên, thực tế số tội
phạm ẩn đối với loại hành vi này còn rất lớn.
Hà Giang là tỉnh nằm ở cực Bắc của Tổ quốc, là một trong những tỉnh
miền núi thuộc diện nghèo nhất nước, có đường biên giới dài, tiếp giáp với
nhiều địa phương của Trung Quốc. Đảng bộ và chính quyền tỉnh Hà Giang đã
tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật để đấu tranh, phòng chống với các
loại tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Đồng
thời, các cơ quan an ninh đã phối hợp với các ban ngành liên quan nỗ lực
11
phòng chống và giúp đỡ các nạn nhân bị mua bán tái hòa nhập với cộng đồng.
Với những đặc thù riêng của địa phương, loại hình tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang có nhiều điểm khác biệt so với các
địa phương trong cả nước. Do vậy, tác giả cho rằng cần có một nghiên cứu
đầy đủ về thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống và thực tiễn xét xử để bổ
sung cho lý luận về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nhằm áp dụng
có hiệu quả vào thực tế tại tỉnh Hà Giang. Hơn nữa, là một kiểm sát viên trực
tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án
hình sự, trong đó có các vụ án về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em,
nên tác giả muốn có nghiên cứu tổng quan để phục vụ công tác của mình. Đây
cũng là lý do để tác giả lựa chọn đề tài "Tội mua bán người, mua bán trẻ em
trên địa bàn tỉnh Hà Giang - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề tài
luận văn thạc sĩ luật học, nhằm tìm hiểu đầy đủ những cơ sở lý luận và thực tiễn
về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, áp dụng một cách có hiệu quả vào
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nơi địa phương đang cư trú. Mặt
khác, qua việc nghiên cứu này để đánh giá kết quả tìm hiểu và nghiên cứu
khoa học của bản thân trong quá trình được các thầy cô bồi dưỡng và đào tạo.
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về
tội mua bán người, mua bán trẻ em đã thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu lý luận, hình sự và cán bộ thực tiễn. Tuy nhiên, chưa có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ pháp lý
hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em đặc biệt là gắn với một địa bàn
cụ thể như tỉnh Hà Giang.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội mua bán người và tội
mua bán trẻ em, cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về tội phạm này có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn phục vụ trực
12
tiếp cho địa bàn tỉnh Hà Giang. Về các vấn đề liên quan đến mua bán người,
mua bán trẻ em đến nay đã có một số chương trình hành động, báo cáo của
các tổ chức như: Chương trình hành động về phòng chống nạn buôn bán phụ
nữ, trẻ em ở Việt Nam (1999 - 2002) của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam trên tinh thần các Nghị
định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán người và di cư trái
phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia của Bộ Tư pháp.
Trong các giải pháp phòng, chống tội phạm mua bán người và mua
bán trẻ em thì hoàn thiện hệ thống pháp luật là một vấn đề luôn được đặt lên
hàng đầu. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình tội
phạm và thực trạng xét xử để nâng cao hiệu quả giải quyết án là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Cho đến nay,
Việt Nam đã xây dựng được một khung pháp lý tương đối đầy đủ nhằm bảo
vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm đối với nam giới, phụ nữ, trẻ
em là đối tượng của hành vi mua bán như Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật
tố tụng hình sự, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật hôn nhân và
gia đình, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh phòng chống mại
dâm... Các văn bản pháp luật này tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trong thời gian qua. Tuy
nhiên, trước xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, diễn biến tình hình tội phạm
mua bán người và mua bán trẻ em ngày càng trở lên phức tạp. Hệ thống văn
bản pháp luật hiện hành của Việt Nam trong đó có các quy định của pháp luật
hình sự đã bộc lộ một số bất cập, thiếu sót làm ảnh hưởng đến hiệu quả của
công tác phòng, chống loại tội phạm này. Trên phương diện hoàn thiện pháp
luật và tình hình thực tiễn phòng chống tội phạm đã có một số công trình đề
cập đến mua bán người, mua bán trẻ em của các tác giả Vũ Ngọc Bình, Phòng
chống buôn bán và mại dâm trẻ em; Đỗ Thị Thơm, Hoàn thiện pháp luật về
13
quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay; Nguyễn Quang Dũng, Tình hình tội phạm
mua bán phụ nữ qua biên giới nước ta và hoạt động phòng ngừa của Bộ đội
Biên phòng; Phạm Văn Hùng, Quán triệt chương trình hành động phòng,
chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 - 2010; Đặng Xuân
Khang, Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam - thực trạng
và giải pháp... đã có những đóng góp trong việc hoàn thiện pháp luật và đưa
vấn đề phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em vào khoa học hình sự
nhằm tìm ra giải pháp hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm trên.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các quy định của pháp luật hình sự
hiện hành về tội mua bán người và mua bán trẻ em; đối chiếu với các quy định
của pháp luật quốc tế liên quan đến hành vi mua bán người và mua bán trẻ em.
Luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp lý cơ bản của tội mua bán
người và tội mua bán trẻ em như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, đồng thời
đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử tội mua bán người và tội mua bán trẻ em
từ năm 2009 đến năm 2013 trên địa bàn tỉnh Hà Giang, có so sánh, đối chiếu
với số liệu trên toàn quốc. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em và
thực tiễn tội phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013, tác
giả đề tài sẽ phân tích và chỉ ra thực trạng giải quyết, những tồn tại, khó khăn
của các cơ quan pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Đồng thời, đưa
ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn
trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em nói
chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng.
14
Với đối tượng và mục đích nghiên cứu như trên, học viên đề ra phạm
vi nghiên cứu của đề tài là:
Tìm hiểu một số quy định của pháp luật quốc tế về tội mua bán người,
mua bán trẻ em.
Nghiên cứu và hệ thống hóa những quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành đối với các hành vi mua bán người và mua bán trẻ em.
Phân tình hình tội phạm và thực tiễn xét xử các vụ án mua bán người
và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong thời gian 05 năm, từ năm
2009 đến năm 2013, nêu ra những khó khăn, vướng mắc, những tồn tại và hạn
chế trong công tác giải quyết. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị trong
việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán
người và tội phạm mua bán trẻ em.
4. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trường, đường
lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung
cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em
nói riêng. Phương pháp luận cũng dựa trên cơ sở những thành tựu của các
chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử Nhà nước và pháp luật; Lý luận
chung về Nhà nước và Pháp luật; Xã hội học pháp luật; Tâm lý học; Tội phạm
học; Luật tố tụng hình sự… và những luận điểm, luận chứng khoa học trong
các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên báo,
tạp chí của một số nhà khoa học Luật hình sự Việt Nam và nước ngoài.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là kết hợp giữa lý luận và thực
tiễn, dùng lý luận để phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam đối với tội mua bán người và mua bán trẻ em. Sử dụng cơ sở lý
15
luận để làm rõ những vấn đề thực tiễn trong xét xử tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng, minh
chứng bằng những số liệu, dẫn chứng cụ thể. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử
dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn
đề tương ứng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp
và thống kê xã hội học; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh, đối chiếu;
phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu, điều tra án điển
hình... để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học - thực tiễn cần nghiên
cứu trong luận văn này.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội
mua bán người và tội mua bán trẻ em trong khoa học Luật hình sự Việt Nam.
Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về các tội này trong Luật hình sự Việt
Nam, phân tích khái quát các quy định của pháp luật quốc tế; làm sáng tỏ các
quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội
mua bán người và tội mua bán trẻ em; phân tích thông qua nghiên cứu thực
tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 và trên toàn quốc
để so sánh, qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện
hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra
nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em ở khía cạnh
lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn, đặc biệt một số giải pháp gắn liền
với việc phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn còn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo, nghiên cứu và học
tập. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa
học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật
16
hình sự Việt Nam liên quan đến tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, qua
đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội này
hiện nay và sắp tới ở địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng và cả nước nói chung.
Đề tài giúp nhận thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh
Hà Giang.
Đề tài phân tích thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về mua bán người,
mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang, đánh giá đúng thực trạng giải
quyết loại tội phạm này, tìm ra được những khó khăn, vướng mắc, nguyên
nhân của tồn tại và hạn chế trong công tác đấu tranh, phòng ngừa. Từ đó xây
dựng được hệ thống giải pháp hữu hiệu và có tính khả thi cao, phù hợp với
điều kiện, tình hình thực tế tại địa phương.
Với cá nhân người nghiên cứu, đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ
thẩm án hình sự, trong đó có tội mua bán người và tội mua bán trẻ em.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội mua bán người và tội mua bán
trẻ em.
Chương 2: Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và thực
tiễn xét xử hai tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2009 - 2013.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu
quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và tội mua bán
trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
17
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM
Buôn bán người hình thành, phát triển và tồn tại kéo dài trong suốt
lịch sử của nhân loại, từ khi hình thành hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu
nô lệ cho đến nay. Buôn bán người đã bị cả xã hội lên án và để chống lại tình
trạng này, trong những năm đầu thế kỷ XX, một số Công ước quốc tế về
chống buôn bán người đã được ký kết như Công ước bãi bỏ buôn bán nô lệ
da trắng năm 1904, Công ước ngăn chặn tệ buôn bán phụ nữ năm 1910, Công
ước về chống buôn bán nô lệ năm 1926... Sau khi được thành lập, Liên hợp
quốc đã có nhiều văn bản pháp lý đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến phòng
chống tội phạm buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em và bảo
vệ các nạn nhân của tội phạm này để thay thế các văn bản quốc tế trước đó
như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về loại
trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế,
văn hóa và xã hội năm 1966, Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em năm 1989,
Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000... và một
số Nghị định thư bổ sung cho các công ước nêu trên như: Nghị định thư
không bắt buộc năm 2000 bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em về buôn
bán trẻ em, mua dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em; Nghị định
thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là
phụ nữ, trẻ em năm 2000 bổ sung cho Công ước về chống tội phạm có tổ
chức, xuyên quốc gia... Cuộc đấu tranh chống tội phạm buôn bán người ngày
càng được nhiều nước trên thế giới hưởng ứng, tham gia và đã thu được
những kết quả nhất định.
18
1.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ TỘI PHẠM BUÔN BÁN NGƯỜI, BUÔN BÁN TRẺ EM
Khái niệm buôn bán người, buôn bán trẻ em là một trong những vấn
đề nóng bỏng và gây tranh luận trong các cuộc hội thảo trong nước và các hội
nghị quốc tế. Việt Nam cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới đã
và đang có những hoạt động nỗ lực nhằm ngăn chặn và đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm này. Tuy nhiên, vẫn có những khác biệt của pháp luật
quy định về tội mua bán người, mua bán trẻ em (theo pháp luật của Việt Nam)
và tội buôn bán người (theo quy định của pháp luật quốc tế). Để có thể đưa ra
được khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em phù hợp với quy định của
pháp luật quốc tế (vì hiện nay Việt Nam đã ra nhập và ký kết nhiều văn kiện
quốc tế quy định về buôn bán người) và phù hợp với các quy định của pháp
luật Việt Nam cũng như tình hình, hoàn cảnh thực tế của đất nước thì cần phải
nghiên cứu toàn diện và sâu rộng các quy định của pháp luật quốc tế và pháp
luật trong nước, trên cơ sở đó đưa ra khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em.
1.1.1. Khái niệm buôn bán người theo quy định của pháp luật
quốc tế
Mua bán người, mua bán trẻ em là một loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng mà loài người tiến bộ trên khắp thế giới đều lên án rất mạnh mẽ. Tội
phạm mua bán người làm rối loạn tình hình an ninh, trật tự, xâm phạm nhân
quyền. Bên cạnh đó những hậu quả của mua bán người để lại những nỗi mất
mát lớn cho các nạn nhân đặc biệt về mặt tinh thần. Tuy với những đặc điểm
chung của cùng một loại hình tội phạm nhưng quan niệm về tội mua bán
người ở các quốc gia so với quan niệm của các quy định quốc tế có sự khác
biệt đáng kể, tùy mức độ rộng hẹp của cách hiểu
Pháp luật quốc tế không quy định khái niệm mua bán người, mua bán
trẻ em mà quy định chung về khái niệm buôn bán người. Nạn buôn người là
hình thức hiện đại của nạn nô lệ, đang phá hủy gia đình và cộng đồng trên
19
khắp thế giới. Buôn bán người chính là hình thức mua bán, chiếm hữu nô lệ,
coi con người là một loại hàng hóa và tước đoạt của họ những quyền cơ bản
về tự do một cách trái pháp luật và vô đạo đức. Do có những đặc điểm riêng
về truyền thống lịch sử, văn hóa xã hội, điều kiện kinh tế mà pháp luật của
mỗi quốc gia quy định về khái niệm buôn bán người khác nhau.
Pháp luật của một số quốc gia quy định khái niệm "buôn bán người"
theo những chuẩn mực pháp lý quốc tế, thì cũng có một số quốc gia khác,
khái niệm này chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp hoặc có những điểm không tương
đồng với quy định của pháp luật quốc tế.
Khái niệm "buôn bán người" được quy định trong nhiều văn bản pháp
luật quốc tế. Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn bán
người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em (Nghị định thư Palermo). Văn kiện này được
Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2000 và có hiệu
lực ngày 25 tháng 12 năm 2003. Theo quy định của Nghị định thư này, khái
niệm buôn bán người (trong đó có phụ nữ, trẻ em) được quy định như sau:
a) Việc tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và
nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách đe dọa dùng bạo lực
hay cách thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền
lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc cho hoặc nhận tiền
hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối
với người khác vì mục đích bóc lột.
Hành vi bóc lột ở đây ít nhất là bao gồm bóc lột vì mục đích
mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao
động hay dịch vụ cưỡng bức nô lệ hay những hình thức tương tự
như nô lệ, khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể.
b) Việc một nạn nhân của nạn buôn bán người chấp nhận sự
bóc lột có chủ ý được nêu tại điểm (a) trên đây sẽ không được tính đến
nếu bất kỳ một cách thức nào nêu trong điểm (a) đã được sử dụng.
20
c) Việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc
nhận trẻ em với mục đích bóc lột sẽ bị coi là buôn bán người thậm
chí khi không có những hình thức được nêu ở điểm (a) trên đây.
d) "Trẻ em" có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi [36].
Khái niệm buôn bán người theo quy định của Nghị định thư Palermo
tập trung vào các yếu tố như:
Thứ nhất, về hành vi, buôn bán người bao gồm: hành vi tuyển mộ, vận
chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận người.
Thứ hai, về phương thức thực hiện hành vi là đe dọa hoặc sử dụng vũ
lực hoặc các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa đảo, lạm dụng quyền lực hoặc vị
thế dễ bị thương tổn, đưa hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý
của một người có quyền kiểm soát đối với người khác.
Thứ ba, về mục đích là nhằm bóc lột người bị mua bán (bóc lột vì mục
đích mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động
hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, làm khổ sai
hay lấy các bộ phận cơ thể).
Theo quy định của Nghị định thư Palermo, sự đồng ý của trẻ em là vô
hiệu và bất kỳ sự tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận
trẻ em nhằm mục đích bóc lột đều cấu thành tội buôn bán người, cho dù
không có việc sử dụng vũ lực, cưỡng ép, man trá, lừa gạt... trẻ em đó.
Đây là khái niệm có tính chính thống về buôn bán người theo tinh thần
Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ
sung Công ước về chống buôn bán người. Khái niệm này được sử dụng phổ
biến trong hoạt động chống buôn bán người trên thế giới và được nội luật hóa
trong pháp luật của nhiều quốc gia. Khái niệm này cũng đã bao hàm mọi hình
thức buôn người và không chỉ giới hạn trong buôn người nhằm mục đích bóc
lột tình dục mà còn đối với các mục đích khác. Khái niệm này đã tập trung
vào các tình trạng cưỡng bức lao động, làm khổ sai, những hành vi như bắt
21
làm nô lệ và tương tự. Khái niệm không chỉ tập trung vào đối tượng là phụ nữ
mà bao hàm mọi giới nam nữ, đều có thể là nạn nhân. Khái niệm không chỉ
nói đến nạn nhân bị buôn bán qua biên giới được quốc tế công nhận mà xét
đến cả những người bị buôn bán ngay trong lãnh thổ của một quốc gia, từ khu
vực này đến khu vực khác. Trừ trường hợp người bị buôn bán dưới 18 tuổi,
Nghị định thư đòi hỏi phải có yếu tố cản trở nguyện vọng tự do và được thông
tin đầy đủ của nạn nhân.
Ngoài Nghị định thư Palermo, một số văn kiện pháp luật quốc tế cũng
đưa ra khái niệm liên quan đến buôn bán người, trong đó có nhiều điểm tương
đồng với khái niệm của Nghị định thư chống buôn bán người, nhưng do được
tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, nên không một khái niệm nào đầy đủ,
toàn diện như khái niệm được nêu trong Nghị định thư Palermo.
Theo quy định của Nghị định thư không bắt buộc về buôn bán trẻ em,
mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, bổ sung cho Công ước
quyền trẻ em thì mua bán trẻ em là bất kỳ hành động giao dịch nào mà qua đó
trẻ em bị chuyển giao từ bất kỳ một người hay một nhóm người này sang một
người hay một nhóm người khác để lấy tiền hay bất cứ đồ vật gì khác. Khái
niệm này có điểm rộng hơn khái niệm của Nghị định thư Palermo (không quy
định mục đích bóc lột nạn nhân là yếu tố bắt buộc cấu thành tội phạm), nhưng
lại có điểm hẹp hơn khái niệm của Nghị định thư Palermo ở chỗ chỉ giới hạn
hành vi chuyển giao trẻ em vì lợi nhuận, tức là chỉ điều chỉnh hành vi mua
hoặc bán. Trong khi đó, Nghị định thư Palermo đề cập đến nhiều loại hành vi
buôn bán người như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp, nhận
người... vì mục đích bóc lột.
Theo Liên minh toàn cầu chống buôn bán phụ nữ GAATW (Global
Alliance Against Trafficking of Women) phối hợp với các tổ chức Chính phủ,
các tổ chức phi Chính phủ đã đưa ra khái niệm khái quát về buôn bán người
là: Mọi hoạt động cố ý tham gia vào việc tuyển mộ, chuyên chở trong nước
22
hoặc qua biên giới, mua, bán, chuyển, chứa chấp hoặc nhận một người bằng
thủ đoạn lừa gạt và cưỡng bức, kể cả việc dùng hoặc đe dọa dùng bạo lực, lạm
dụng quyền hành hoặc lợi dụng tình hình nợ chồng chất của người đó để đưa
hoặc buộc họ làm việc trong tình trạng nô lệ không tự nguyện (việc nhà, tình
dục hoặc sinh sản) không hoặc có được trả công, lao động cưỡng bức hoặc có
giao kèo, hoặc lao động trong các điều kiện nô lệ trong một cộng đồng mà
không phải nơi mà người đó sống khi bị lừa gạt, cưỡng bức hay nợ chồng chất
ban đầu.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm buôn bán người
như sau: Buôn bán người là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, che
giấu hoặc tiếp cận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực hoặc các hình
thức khác như ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa
vị, tình trạng dễ bị tổn thương hoặc việc đưa hoặc nhận tiền hoặc lợi nhuận để
đạt được sự đồng ý của một người mà người đó đang có quyền kiểm soát một
người khác, nhằm mục đích bóc lột. Việc bóc lột bao gồm, bóc lột làm nghề
mại dâm hoặc những hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc phục vụ
bắt buộc, tình trạng nô lệ hoặc những việc làm tương tự như tình trạng nô lệ,
khổ sai hay cắt đi những bộ phận cơ thể con người.
Tuy đã có những cách hiểu rất rõ ràng về tội buôn bán người nhưng
trên thực tế trong nhiều trường hợp loại tội danh này dễ nhầm lẫn với tội đưa
người trái phép qua biên giới, bởi những điểm tương đồng của hai loại tội danh.
Nếu không phân biệt rõ hai tội danh này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá
trình xét xử và bỏ sót tội danh nguy hiểm. Nghị định thư về phòng, chống đưa
người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung cho
Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
định nghĩa: "Đưa người di cư trái phép nghĩa là việc giao dịch, để đạt được
trực tiếp hoặc gián tiếp lợi ích về tài chính hoặc lợi ích vật chất khác từ việc
một người nhập cảnh trái phép vào một quốc gia thành viên mà người này
23
không phải là công dân của quốc gia đó hoặc thường trú tại quốc gia đó". Về
mặt hình thức, tội buôn bán người và tội đưa người trái phép qua biên giới có
những điểm tương đối trùng khớp với nhau bởi đều tồn tại yếu tố của sự di
chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác bằng cách bất hợp pháp và đều vì
mục đích lợi nhuận cho kẻ gây ra hành vi đó. Chính điều này đã dẫn đến
nhiều quy định nhầm lẫn và bỏ sót nhiều tội danh của các đối tượng buôn bán
người. Do vậy, cần phân biệt rõ giữa buôn bán người và đưa người trái phép
qua biên giới bởi bản chất hai hành vi này hoàn toàn khác nhau. Về mục đích
di chuyển, buôn bán người và đưa người trái phép qua biên giới đều vì mục
đích lợi nhuận. Tuy nhiên, đưa người trái phép qua biên giới nhận lợi nhuận
từ chính người được đưa qua biên giới và kết thúc hành vi khi đưa được người
qua biên giới đến đúng địa điểm đã thỏa thuận, trong khi hành vi buôn bán
người không dừng lại ở đó. Sau khi đưa người qua biên giới, lợi nhuận thu
được của những kẻ thực hiện việc buôn bán người là từ hành vi bóc lột, nô
dịch nạn nhân (phục vụ mại dâm, lao động bất hợp pháp…). Các nạn nhân bị
mua và bán phải chịu đựng các hình thức khống chế, kiểm soát và cưỡng bức
có hậu quả vô cùng nghiêm trọng làm tổn hại đến sức khỏe và tính mạng con
người. Về tính chất và mức độ của hành vi, đưa người trái phép qua biên giới
có sự đồng thuận giữa hai bên vì mục đích riêng của mỗi bên trong khi buôn
bán người đa phần phải thông qua hành vi lừa gạt, dụ dỗ, thậm chí dùng vũ
lực mà không được sự đồng thuận của người bị mua bán. Hành vi buôn bán
người chưa thể kết thúc khi người đã được đưa qua biên giới và trong nhiều
trường hợp hành vi mua bán không nhất thiết phải thực hiện thông qua biên
giới giữa các quốc gia mà có thể ngay trong nội địa từ địa phương này sang
địa phương khác, khu vực này sang khu vực khác. Với tính chất đặc biệt
nghiêm trọng của tội phạm buôn bán người, pháp luật quốc tế đã quy định rất
cụ thể từng hành vi như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và
nhận người, có sự phân biệt rõ ràng giữa buôn bán người và đưa người trái
24
phép qua biên giới, từ đó nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống
tệ nạn buôn bán người (trong đó có buôn bán trẻ em).
1.1.2. Khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em theo quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam
Pháp luật hình sự Việt Nam không quy định về tội buôn bán người mà
quy định cụ thể về tội mua bán người và mua bán trẻ em. Mua bán người là
hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để trao đổi người (từ
đủ 16 tuổi trở lên) như một loại hàng hóa. Các hành vi đó là: bán người cho
người khác, không phụ thuộc vào mục đích của người mua; mua người để bán
lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua
sau này như thế nào; dùng người như là tài sản để trao đổi, thanh toán; mua
người để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật
khác; người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một
trong các hành vi nêu trên, đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán
người. Mua bán trẻ em là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác
để trao đổi trẻ em (người dưới 16 tuổi) như một loại hàng hóa. Các hành vi
mua bán trẻ em cụ thể là: bán trẻ em cho người khác, không phụ thuộc vào
mục đích của người mua; mua trẻ em để bán lại cho người khác, không phân
biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào; dùng trẻ
em làm phương tiện để trao đổi, thanh toán; mua trẻ em để bóc lột, cưỡng bức
lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác; người tổ chức, người xúi giục,
người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi nêu trên bị truy cứu
trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm.
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
mua bán người, mua bán trẻ em, có thể thấy rằng khái niệm mua bán người,
mua bán trẻ em ở Việt Nam đã có một số điểm tương đồng với quy định của
pháp luật quốc tế, đó là: đã quy định là tội phạm hình sự đối với hành vi mua
bán người có tính chất tổ chức, nhiều lần như quy định của Công ước quốc tế;
25
quy định các mục đích mua bán người, mua bán trẻ em để lấy bộ phận cơ thể
của nạn nhân, để đưa ra nước ngoài, để sử dụng vào mục đích mại dâm hoặc
mục đích vô nhân đạo là các tình tiết định khung hình phạt; hoặc tuy không
quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự nhưng các văn bản hướng dẫn áp dụng
đã hướng dẫn về các thủ đoạn phạm tội mua bán người là môi giới hôn nhân
với người nước ngoài trái phép, đưa người đi lao động nước ngoài trái
phép, môi giới nuôi con nuôi trái pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt
Nam vẫn còn có nhiều điểm khác biệt, chưa tương thích với khái niệm buôn
bán người của pháp luật quốc tế. Sự khác biệt này được thể hiện như sau:
Thứ nhất, về hành vi: khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em của
Việt Nam chỉ bao gồm hai loại hành vi là mua và bán, tức là việc chuyển giao
người, trẻ em từ người này (hoặc nhóm người này) sang người khác (hoặc
nhóm người khác) để đổi lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Như vậy,
theo cách hiểu hiện nay về mua bán người, mua bán trẻ em thì không bao gồm
các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp và nhận người là những hành vi
khác bên cạnh hành vi mua bán xảy ra trong toàn bộ quá trình buôn bán người
được bao hàm trong khái niệm của Nghị định thư Palermo.
Tuy các hành vi này không bị coi là mua bán nhưng hành vi tuyển mộ,
vận chuyển, chứa chấp và nhận người, tùy từng trường hợp cụ thể sẽ bị trừng
trị theo các quy định của các điều luật tương ứng hoặc bị coi là hành vi đồng
phạm hoặc phạm tội chưa đạt với tội mua bán người, mua bán trẻ em.
Thứ hai, về phương thức thực hiện: pháp luật hình sự Việt Nam không
quy định cấu thành của tội phạm là phương thức mà tội phạm sử dụng để thực
hiện hành vi phạm tội. Trong khi đó, Nghị định thư Palermo quy định các
hành vi nói trên phải được thực hiện theo các phương thức như đe dọa dùng
vũ lực hay các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền
lực hoặc vị thế dễ bị thương tổn hay bằng việc cho hoặc nhận tiền hay lợi
nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối với những người
26
khác. Trong trường hợp đối tượng bị xâm hại là trẻ em thì không cần tính đến
việc bọn tội phạm có sử dụng hay không sử dụng các phương thức này. Điều
đó có nghĩa là, trong trường hợp trẻ em hoàn toàn đồng tình với hành vi mua
bán người của bọn tội phạm thì vẫn bị coi là mua bán trẻ em nếu có hành vi
tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao... trẻ em nhằm mục đích bóc lột.
Thứ ba, về mục đích (yếu tố để bóc lột): một trong những dấu hiệu
quan trọng để phân biệt tội buôn bán người với các tội phạm khác chính là
yếu tố "bóc lột" nạn nhân. Theo Nghị định thư Palermo thì mục đích "để bóc
lột" là một trong những yếu tố bắt buộc cấu thành tội buôn bán người. Đây
cũng chính là một trong những dấu hiệu chính để phân biệt tội "buôn bán
người" với tội "đưa người trái phép qua biên giới" và phân biệt với các loại tội
phạm khác. Chẳng hạn cùng là một hành vi đưa người sang bên kia biên giới
để thu lợi nhuận nhưng sẽ cấu thành tội buôn bán người khi có dấu hiệu
chứng minh là nhằm mục đích bóc lột nạn nhân và sẽ chỉ là tội đưa người trái
phép qua biên giới nếu không chứng minh được mục đích này.
Trong khi đó pháp luật hình sự Việt Nam không quy định mục đích
"để bóc lột" là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm này, mà chỉ cần có sự
chuyển giao người, trẻ em để đổi lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là
đã cấu thành tội mua bán người, mua bán trẻ em. Điều này có thể dẫn đến sự
khác biệt nhất định khi xác định tội danh mua bán người, mua bán trẻ em theo
pháp luật Việt Nam và buôn bán người, buôn bán trẻ em theo pháp luật quốc
tế trong một số trường hợp cụ thể. Hoặc trong nhiều trường hợp, người bán
không cần biết người mua sử dụng nạn nhân vào mục đích gì, mà chỉ cần lấy
một khoản tiền nhất định. Nếu người bán nạn nhân với mục đích để bóc lột
(như làm mại dâm, lấy bộ phận cơ thể...) thì họ sẽ bị áp dụng các tình tiết định
khung tăng nặng (vì mục đích mại dâm, để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân...)
đối với hành vi phạm tội của họ. Như vậy theo quy định của pháp luật hình sự
27
Việt Nam, chỉ cần có hành vi mua hoặc bán người, trẻ em để lấy tiền, tài sản
hoặc lợi ích vật chất khác là cấu thành tội phạm mà không cần có yếu tố "bằng
thủ đoạn và mục đích bóc lột" như quy định của Nghị định thư Palermo. Động
cơ, mục đích của người phạm tội không có ý nghĩa quyết định đối với việc
định tội danh mà chỉ bị coi là tình tiết định khung tăng nặng.
Thứ tư, về độ tuổi của trẻ em: khái niệm "trẻ em" của pháp luật Việt
Nam cũng chưa tương thích với Nghị định thư Palermo và một số văn kiện
pháp lý quốc tế khác. Pháp luật Việt Nam quy định trẻ em là người dưới 16
tuổi, trong khi đó quy định của Nghị định thư Palermo thì trẻ em là người
dưới 18 tuổi. Như vậy, trường hợp người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi bị mua bán thì pháp luật Việt Nam chưa có chế tài phù hợp để xử
lý, còn đối với nạn nhân là người nước ngoài thì dễ dẫn tới sự xung đột giữa
pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế, điều này sẽ làm giảm đi hiệu quả
của quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống buôn bán người giữa
Việt Nam với một số quốc gia.
Thứ năm, về chủ thể của tội phạm: theo quy định của pháp luật quốc
tế, thì tất cả những người tham gia một trong những công đoạn có liên quan
trong quá trình buôn bán người, buôn bán trẻ em đều được coi là tội phạm
buôn bán người, trẻ em như tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp..., trong khi đó,
theo pháp luật hình sự Việt Nam thì những người này không phải là chủ thể
của tội phạm mua bán người, trẻ em mà có thể là chủ thể của một số tội phạm
có liên quan khác.
Như vậy, cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế,
hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán
người, mua bán trẻ em cho phù hợp với điều kiện đất nước và tương thích với
các quy định của pháp luật quốc tế là việc làm cần thiết và lâu dài, góp phần
vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
28
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN
TRẺ EM
1.2.1. Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành
Bộ luật hình sự năm 1999
Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, mỗi lần một triều đại mới lên
nắm chính quyền là một lần các quy định pháp luật được ban hành nhằm đảm
bảo sự tồn tại cho triều đại đó, đồng thời còn giải quyết các vấn đề về xã hội.
Trong tất cả các văn bản pháp luật được ban hành trong xã hội phong kiến thì
Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều Hình luật) được đánh giá là tiến bộ và hoàn
thiện hơn cả. Quốc triều Hình luật tập hợp các ưu điểm của các văn bản pháp
lý trước đó, xác định các vấn đề mà Nhà nước mà xã hội cùng quan tâm, từ đó
đúc kết và đưa ra những quy định mới, tiến bộ phù hợp với xã hội phong kiến.
Quốc triều hình luật cũng đã quy định về hành vi mua bán người với các chế
tài hình phạt nghiêm khắc từ Giảo (thắt cổ) đến Chém bêu đầu (chỉ thấp hơn
tội Lăng trì), đối với các hành vi như bán người ít tuổi từ hàng cơ thân trở
xuống hoặc có thêm hành vi cướp của hoặc đồ vật... Tuy những quy định về
tội mua bán người còn nhiều thiếu sót và chưa cụ thể, nhưng nếu so với thời
điểm Bộ luật Hồng Đức được ban hành thì vẫn có thể xem quy định về tội
mua bán người là một trong những tiến bộ rất lớn trong pháp luật phong kiến
Việt Nam.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải
phóng và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ tình hình đó nên
diễn biến tội phạm xảy ra phức tạp, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện như là
một kết quả tất yếu, một trong số đó là tội bắt cắp trẻ em bán cho đồng bào
miền núi. Theo báo cáo tổng kết công tác và các chuyên đề xét xử năm 1964
của Tòa án nhân dân tối cao đã xác định đây là một loại tội phạm nghiêm
trọng nên xử phạt thật nặng, khung hình phạt áp dụng cho kẻ có hành vi bắt
29
cắp là từ 3 năm đến 15 năm, người mua trẻ con mà biết rõ đứa bé đó bị đánh
cắp thì bị phạt tù tới 5 năm, đồng thời cũng xác định thêm các tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự hơn đối với loại tội phạm bắt cắp trẻ con này.
Năm 1975, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước cùng tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do nước nhà vừa mới thống nhất nên tình hình
tội phạm diễn biến rất phức tạp, nhiều loại tội phạm mới phát sinh nhưng
chưa được pháp luật điều chỉnh. Trước yêu cầu bảo vệ Tổ quốc và đấu tranh
phòng, chống tội phạm, ngày 27 tháng 6 năm 1985, Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 9 khóa VII đã thông qua Bộ luật
hình sự đầu tiên của Việt Nam. Bộ luật hình sự năm 1985 được xem là một
bảo đảm cho đấu tranh chống tội phạm được tiến hành trên cơ sở tuân thủ các
nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư pháp hình sự nhằm bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, trật tự xã hội và các quyền lợi hợp pháp của công dân. Tuy nhiên,
Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định về tội mua bán người mà quy định
cụ thể về tội mua bán phụ nữ và mua bán trẻ em, lần đầu tiên tội mua bán phụ
nữ và mua bán trẻ em được đưa vào trong luật, và được xếp vào nhóm những
tội phạm nghiêm trọng cần phải đấu tranh và phòng chống. Mức phạt tối đa
của hai tội này là 20 năm tù giam, khá nghiêm khắc để trừng phạt và răn đe
những kẻ đã, đang và sẽ có ý định thực hiện tội phạm này.
Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội mua bán
phụ nữ:
1. Người nào mua bán phụ nữ thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị
phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm:
a) Có tổ chức;
b) Để đưa ra nước ngoài;
c) Mua bán nhiều người;
d) Tái phạm nguy hiểm [40].
30
Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội bắt
trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em:
1. Người nào bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em thì bị
phạt tù từ một năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị
phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm:
a) Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp;
b) Để đưa ra nước ngoài;
c) Bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo nhiều trẻ em hoặc gây
hậu quả nghiêm trọng khác;
d) Tái phạm nguy hiểm [40].
Tội mua bán phụ nữ và tội mua bán trẻ em được quy định tại Điều 115
và Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng cả hai điều luật đều không đưa ra
định nghĩa cụ thể về các hành vi này. Theo Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 19
tháng 11 năm 1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1985
thì mua bán trẻ em được hiểu là: "Việc mua hoặc bán trẻ em vì mục đích tư
lợi, dù là mua của kẻ đã bắt trộm hay mua của chính người có con đem bán.
Hành vi mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ bị bắt trộm cũng bị xử lý về tội mua
bán trẻ em" [53]. Ngoài ra, trước yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
mua bán phụ nữ, trẻ em, tại Điều 4 Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập
cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về, ban hành
kèm theo Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29
tháng 01 năm 2007 đã gián tiếp đưa ra định nghĩa về mua bán phụ nữ, trẻ em
gọi là nạn nhân. Theo đó nạn nhân được hiểu là:
Phụ nữ, trẻ em bị một người hay một nhóm người sử dụng
vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hay những hình thức ép buộc khác,
bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị, tình trạng dễ bị
31
tổn thương để mua bán (giao, nhận tiền hoặc giao, nhận một lợi
ích vật chất khác) đưa ra nước ngoài nhằm mục đích bóc lột
(cưỡng bức bán dâm hoặc các hình thức bóc lột tình dục khác, lao
động hoặc dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hoặc làm việc như tình trạng nô
lệ hoặc lấy đi các bộ phận trên cơ thể) [19].
Bộ luật hình sự năm 1985 trải qua hai lần sửa đổi, bổ sung vào các
năm 1989 và năm 1997, đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm, trong đó có tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em. Tuy nhiên, vẫn có một số
bất hợp lý như việc sắp xếp hai điều luật này trong Bộ luật hình sự năm 1985.
Cả hai tội đều có hành vi khách quan và có cùng khách thể là danh dự và nhân
phẩm con người bị xâm hại, nhưng lại được quy định ở hai chương riêng biệt.
Tội mua bán phụ nữ được quy định tại Điều 115 thuộc Chương II - Các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; còn tội
bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em lại được quy định tại Điều 149 nằm
trong Chương V - Các tội xâm phạm tới chế độ hôn nhân gia đình và các tội
xâm phạm tới người chưa thành niên. Ngoài ra mức phạt tối thiểu của tội mua
bán trẻ em còn quá nhẹ, chỉ có 1 năm trong khi loại tội phạm này gây ra
những ảnh hưởng mạnh mẽ tới tâm sinh lý của trẻ, tới sự phát triển bình
thường về mặt thể chất của trẻ em. Một bất cập nữa là trong quá trình phát
triển của xã hội, tội phạm không chỉ dừng lại ở hành vi mua bán phụ nữ, mua
bán trẻ em mà còn có cả hành vi mua bán nam giới, với nhiều mục đích khác
nhau, cho nên các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự còn thiếu nhiều ở cả
hai điều luật. Điều này thể hiện các nhà làm luật lúc bấy giờ, chưa đánh giá
đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này, cũng như chưa
lường trước được những thủ đoạn xảo quyệt mà bọn tội phạm mua bán
người có thể thực hiện. Phải đến năm 1999 cũng với sự ra đời của Bộ luật
hình sự thứ hai của Việt Nam (đã được sửa đổi bổ sung năm 2009) thì những
thiếu sót, bất cập của Bộ luật hình sự năm 1985 mới được điều chỉnh lại.
32
1.2.2. Hệ thống pháp luật phi hình sự có liên quan đến phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em
Nhận thức được mức độ nguy hiểm của tội mua bán người, mua bán
trẻ em và tầm quan trọng của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mua
bán người, mua bán trẻ em, trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã hình thành
và dần hoàn thiện những quy định liên quan đến tội danh này. Trước hết là
những quy định nhằm phòng ngừa một cách có hiệu quả loại tội phạm này,
sau đó là hệ thống các chế tài để xử lý hành vi mua bán người, mua bán trẻ
em. Trải qua quá trình xây dựng và hoàn thiện, đến nay Việt Nam đã cơ bản
có một hệ thống pháp luật đầy đủ liên quan đến công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em.
Về phòng ngừa tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, trong thực
tế hành vi mua bán người, mua bán trẻ em có rất nhiều hình thức khác nhau
nhằm lừa gạt, dụ dỗ và cưỡng ép các nạn nhân. Để phòng ngừa các hành vi
đó, pháp luật Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống các quy định ngăn
chặn những nguy cơ có thể dẫn đến mua bán người, mua bán trẻ em như:
Thứ nhất, quy định khi kết hôn có yếu tố nước ngoài, pháp luật Việt
Nam đã tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật quốc tế. Đồng thời,
trong xu thế hội nhập toàn cầu, Việt nam cũng tạo điều kiện và cho phép công
dân Việt Nam được kết hôn với người nước ngoài trên cơ sở tôn trọng pháp
luật và thuần phong mỹ tục của Việt Nam, kịp thời ngăn chặn và trừng trị
những cá nhân, tổ chức lợi dụng việc kết hôn với người nước ngoài để thực
hiện hành vi mua bán người nhằm kiếm lời bất chính. Với mục tiêu xây dựng
gia đình bền vững, ổn định, giải quyết tốt các mối quan hệ trong hôn nhân có
yếu tố nước ngoài, ngay từ năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
đã ban hành Nghị định số 12/HĐBT ngày 01 tháng 02 năm 1989 quy định về thủ
tục kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và sau khi Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000, Chính phủ đã có Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
33
ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Theo đó, người nước ngoài muốn kết hôn với người Việt Nam phải có đầy đủ
các điều kiện như: "Mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều
kiện kết hôn; người nước ngoài còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và
Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và
các trường hợp cấm kết hôn, nếu việc kết hôn được tiến hành trước cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam" [43, Điều 10]. Điều 21 cũng quy định:
"Hoạt động hỗ trợ kết hôn phải tuân thủ nguyên tắc nhân đạo, phi lợi nhuận.
Nghiêm cấm hoạt động kinh doanh dịch vụ môi giới kết hôn hoặc lợi dụng
việc hỗ trợ kết hôn nhằm mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ
hoặc vì các mục đích trục lợi khác" [43]. Để hoàn thiện các văn bản pháp luật,
góp phần tích cực vào việc quản lý Nhà nước, định hướng cho quan hệ hôn
nhân và gia đình đi theo chiều hướng lành mạnh phù hợp với thuần phong mỹ
tục tốt đẹp của dân tộc, ngày 21 tháng 7 năm 2006, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
68/2002/NĐ-CP, trong đó quy định cụ thể và chi tiết về trình tự, thủ tục kết
hôn có yếu tố nước ngoài. Việc đăng ký kết hôn sẽ bị từ chối, nếu qua kết quả
phỏng vấn, thẩm tra, xác minh cho thấy việc kết hôn thông qua môi giới bất
hợp pháp; kết hôn giả tạo không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; kết hôn không phù hợp với thuần
phong mỹ tục của dân tộc; lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ, xâm
phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác.
Thứ hai, về quy định nuôi con nuôi, đặc biệt là nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài, pháp luật Việt Nam đã quy định rất rõ ràng trong Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2001) và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, nuôi con nuôi là việc xác lập quan
hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con
34
nuôi, nhằm mục đích đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Nhà nước
và xã hội khuyến khích việc nhận trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ tàn tật làm con
nuôi và nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm
phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác. Các quy định pháp
luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã xuất hiện từ giữa những năm 80
của thế kỷ XX, bắt đầu với những quy định có tính nguyên tắc tại Chương IX
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Các quy định về việc cho và nhận
con nuôi đảm bảo việc cho và nhận trẻ em làm con nuôi được thực hiện trên
tinh thần nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, tôn trọng các quyền cơ bản của
trẻ em, phòng chống việc lợi dụng nuôi con nuôi để buôn bán, bóc lột trẻ em.
Đối với vấn đề nuôi con nuôi quốc tế, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10
tháng 7 năm 2002, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006
(sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP) và Thông tư
08/2006/TT-BTP ngày 08 tháng 12 năm 2006 của Bộ Tư pháp là những cơ sở
pháp lý quan trọng nhất để giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi
người nước ngoài.
Thứ ba, về các quy định trong việc đưa người Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài. Việt Nam là một trong những nước có dân số trẻ so với nhiều
nước trên thế giới, với nguồn lao động dồi dào, người lao động Việt Nam có
truyền thống cần cù, chịu khó, thông minh và sáng tạo. Tuy nhiên, do đặc thù
của một nước nông nghiệp, lao động Việt Nam hiện nay vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu về kỹ thuật so với lao động của các quốc gia khác, hình thức lao
động chủ yếu là thủ công bằng chân tay nên hiệu quả lao động và thu nhập rất
thấp. Đưa người lao động ra nước ngoài nhằm tạo thêm thu nhập, rèn luyện
tác phong lao động, tiếp thu kỹ thuật tiên tiến là một chủ trương lớn của Đảng
và Nhà nước. Nước ta đã hợp tác đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài từ
năm 1980. Trong thời kỳ từ 1980 - 1990, hợp tác lao động của nước ta chủ
35
yếu thông qua các hiệp định Chính phủ với các nước thuộc Liên Xô (cũ), các
nước Đông Âu và một số nước ở Trung Đông. Trong giai đoạn này, hợp tác
lao động được thực hiện theo kế hoạch của Nhà nước, do các cơ quan nhà
nước tổ chức thực hiện. Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế thị trường, Nhà nước chủ yếu làm chức
năng quản lý, mở thị trường, các doanh nghiệp ký kết hợp đồng và trực tiếp
đưa, quản lý người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, việc đưa
lao động ra nước ngoài cũng là một cơ hội cho các đối tượng tội phạm mua
bán người lợi dụng để đưa người sang quốc gia khác bóc lột sức lao động
dưới hình thức xuất khẩu lao động. Thực hiện Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 22
tháng 9 năm 1998 của Bộ Chính trị về xuất khẩu lao động và chuyên gia và
chỉ đạo của Chính phủ, từ năm 1999 đến nay, cùng với công tác tìm kiếm thị
trường lao động, công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được đẩy
mạnh. Hệ thống văn bản pháp lý đã được pháp điển hóa (thành luật) và tính
đến thời điểm hiện nay, việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
chịu sự điều chỉnh của các văn bản chủ yếu sau: Luật người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng của Quốc hội khóa XI, kỳ họp
thứ 10 số 72/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006; Quyết định số
18/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 18 tháng 7 năm 2007 của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội ban hành chương trình bồi dưỡng kiến thức cần thiết
cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài; Quyết định số
19/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 18 tháng 7 năm 2007 của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội ban hành "Quy định về tổ chức bộ máy hoạt động đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài và bộ máy chuyên trách để bồi
dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước
ngoài"; Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người lao
36
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Nghị định số
144/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 2007 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về
người lao động đi làm việc ở nước ngoài đã tương đối hoàn chỉnh, tạo được
cơ chế pháp lý rõ ràng để phòng chống việc mua bán người.
Thứ tư, về các quy định trong quản lý các hoạt động kinh doanh, dịch
vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm. Đây là một vấn đề có tính cấp thiết
bởi việc kinh doanh các dịch vụ có thể dẫn đến mua bán phụ nữ và trẻ em
trong nội địa. Mại dâm và mua bán người là hai yếu tố cung và cầu nhằm bóc
lột tình dục, đặc biệt với phụ nữ và trẻ em chưa thành niên nhằm trục lợi. Bên
cạnh đó, việc kinh doanh dịch vụ còn làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác
làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Đã có nhiều văn bản pháp luật quy
định về công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn mại dâm, mua bán phụ nữ,
mua bán trẻ em gắn với hoạt động quản lý các cơ sở kinh doanh dịch vụ như:
Nghị định của Chính phủ số 39/2000/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2000 về cơ
sở lưu trú du lịch; Nghị định số 08/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2001
của Chính Phủ quy định về điều kiện an ninh, trật tự đối với một số ngành,
nghề kinh doanh có điều kiện; Thông tư số 02/2001/TT-BCA ngày 04 tháng 5
năm 2001 của Bộ Công an hướng dẫn thi hành Nghị định số 08/2001/NĐ-CP;
Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BLĐTBXH-BYT ngày 09 tháng 12 năm
2004 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Bộ Y tế về hướng dẫn, quy
định danh mục chỗ làm việc, công việc không được sử dụng lao động dưới 18
tuổi trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm;
Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội 10/2003/PL-UBTVQH ngày 17 tháng
3 năm 2003 phòng, chống mại dâm; Nghị định của Chính phủ số 178/2004/NĐ-CP
ngày 15 tháng 10 năm 2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh
phòng, chống mại dâm; Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2006
37
của Chính phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh
dịch vụ văn hóa công cộng; Quyết định số 52/2006/QĐ-TTg ngày 08 tháng 3 năm
2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phối hợp liên
ngành phòng, chống tệ nạn mại dâm giai đoạn 2006 - 2010. Với hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về quản lý các hoạt động dịch vụ dễ
bị lợi dụng để hoạt động mại dâm đã từng bước được hoàn thiện, tạo hành
lang pháp lý thuận lợi trong công tác phòng chống tệ nạn mại dâm, ngăn ngừa
tình trạng mua bán phụ nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm.
Thứ năm, về đấu tranh chống mua bán người, mua bán trẻ em và các
hành vi vi phạm khác có liên quan, bên cạnh các chế tài về hình sự quy định
trong Bộ luật hình sự ở các tội danh mua bán người (Điều 119), mua bán trẻ
em (Điều 120) và các điều luật liên quan như tội chứa mại dâm (Điều 254), tội
môi giới mại dâm (Điều 255), tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256),
tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức
(Điều 266), tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 267), tội
chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội (Điều 268), tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở
lại nước ngoài trái phép (Điều 275), tội nhận hối lộ (Điều 279), tội giả mạo trong
công tác (Điều 284), tội đưa hối lộ (Điều 289), tội rửa tiền (Điều 251)..., có
rất nhiều chế tài nghiêm khắc về hành chính cũng như dân sự để xử lý tội
phạm này.
Về chế tài hành chính, quy định việc xử phạt hành chính đối với các
hành vi có liên quan đến mua bán người, mua bán trẻ em như mại dâm, lao
động, cưỡng bức, xuất cảnh, nhập cảnh trái phép, tổ chức, cưỡng ép người
khác trốn đi nước ngoài... mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
trong Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; Nghị
định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ quy
38
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm; Nghị
định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã
hội... Các chế tài hành chính đối với hành vi mua bán người, mua bán trẻ em
còn được thể hiện ở việc xử lý nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm trong
những trường hợp xâm hại đến phụ nữ có thai hoặc trẻ em.
Về chế tài dân sự, hệ thống pháp luật của nước ta không có quy định
riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi mua bán
người, mua bán trẻ em, song nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại được quy định tại Chương V của Bộ luật dân sự và tại Điều 42 Bộ
luật hình sự. Bất cứ người nào có hành vi mua bán người, mua bán trẻ em
hoặc có các hành vi vi phạm khác có liên quan mà gây thiệt hại cho nạn
nhân, thì ngoài việc bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần
cho người bị hại. Chính sách bồi thường thiệt hại cho những nạn nhân nói
chung, trong đó bao gồm cả những nạn nhân bị mua bán được quy định tại
Điều 604 Bộ luật dân sự và theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự
thì việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bị mua bán sẽ được
thực hiện đồng thời khi xét xử hình sự đối với kẻ phạm tội mua bán người,
mua bán trẻ em.
Về các quy định trong tiếp nhận, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho
nạn nhân bị mua bán như: Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg ngày 29 ngày 01
năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ
tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về
và Thông tư liên tịch số 116/2007/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 27 tháng 9
năm 2007 của Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng
dẫn nội dung chi, mức chi cho công tác xác minh, tiếp nhận và hỗ trợ phụ
nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về tái hòa nhập cộng đồng theo
39
Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg ngày 29 ngày 01 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ, đã quy định cụ thể về trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan
trong việc tiếp nhận cũng như các chính sách hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập
cộng đồng.
Về các quy định trong việc nêu cao vai trò của gia đình, cộng đồng, tổ
chức chính trị - xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em. Pháp luật hiện nay đã có các quy định liên quan đến trách
nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc nuôi dạy, giáo dục con cái, giữ gìn
an ninh trật tự, cảm hóa và giáo dục các đối tượng có quá khứ phạm tội mua
bán người, mua bán trẻ em; quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ các đối tượng có nguy
cơ, góp phần phòng ngừa các nguy cơ bị buôn bán, xử lý và tái hòa nhập cộng
đồng cho nạn nhân.
1.3. KINH NGHIỆM VÀ SỰ HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG ĐẤU TRANH
PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM
Buôn bán người, buôn bán trẻ em là tội phạm vi phạm nhân quyền,
chống lại xã hội, xảy ra không chỉ trong phạm vi quốc gia, khu vực mà còn
trên toàn cầu. Mức độ và tính chất của tội phạm này ngày càng trở lên nguy
hiểm và phức tạp hơn. Việt Nam cũng không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng
của loại tội phạm này.
Tuy nhiên, với những đặc thù riêng của Việt Nam trong bối cảnh áp
lực phát triển kinh tế - xã hội, sự mất cân đối trong phát triển, vấn đề di cư,
việc làm và hội nhập quốc tế, đường biên giới dài, hiểm trở... làm cho nạn
buôn bán người trở lên khó kiểm soát. Những hoạt động buôn người được biết
đến chủ yếu là với phụ nữ trẻ và trẻ em gái được đưa sang Campuchia,
Malaisia làm nghề mại dâm, hoặc sang Trung Quốc để làm vợ rồi bị ngược
đãi trong hôn nhân, bị bắt buộc hành nghề mại dâm hoặc bị bóc lột lao động.
Những lĩnh vực có nhiều khả năng liên quan và cần được quan tâm hơn nữa
nhằm phòng, chống nạn buôn bán người là hoạt động hôn nhân sắp đặt giữa
40
phụ nữ Việt Nam và nam giới Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan; lĩnh vực xuất
khẩu lao động đi Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Nhật Bản, Malaisia, ít nhiều
ở Trung Đông và hoạt động đưa người từ Việt Nam sang một số nước Đông
Âu và Tây Âu. Với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ có chung đường biên
giới, tệ nạn mua bán người, mua bán trẻ em cũng là một loại tội phạm nổi cộm
nhiều năm qua.
Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với tội phạm mua bán người,
mua bán trẻ em, Việt Nam đã ký kết và gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về phòng ngừa, trấn
áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung
cho Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia,
và tham gia ký kết nhiều hiệp ước quốc tế với các nước láng giềng như Trung
Quốc, Thái Lan, Campuchia, Lào... và nhất là tham gia chống tội phạm xuyên
quốc gia trong khối ASEAN.
Các quốc gia trong khối ASEAN, trong đó có Việt Nam là thành viên
đã ra Tuyên bố về chống tội phạm xuyên quốc gia vào năm 1997 và Tuyên bố
về chống tội phạm buôn người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2004. Bản
tuyên bố đã ghi nhận những nỗ lực vượt bậc trong công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm buôn bán người trong đó có phụ nữ và trẻ em bằng việc một
lần nữa đề ra được những hành động cụ thể để trấn áp loại tội phạm này, đó
là: thiết lập một mạng lưới tập trung cấp khu vực để ngăn ngừa và đấu tranh
chống tội phạm buôn người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; thực hiện các biện
pháp để ngăn ngừa gian lận trong việc sử dụng hộ chiếu, các giấy tờ, tài liệu
đi lại chính thức, tài liệu nhận dạng và các tài liệu khác; tiến hành trao đổi
quan điểm và thông tin thường xuyên về các xu hướng, luồng, mô hình di trú
liên quan; củng cố kiểm soát biên giới và các cơ chế giám sát; ban hành và
thực hiện các quy định pháp luật cần thiết và khả thi; tăng cường hợp tác giữa
các cơ quan di trú và các cơ quan bảo vệ pháp luật; phân biệt rõ giữa các nạn
41
nhân và thủ phạm buôn người; đảm bảo rằng các nạn nhân được đối xử nhân
đạo và được cung cấp hỗ trợ y tế cần thiết và các hỗ trợ khác bao gồm cả việc
bố trí hồi hương; thực hiện các hoạt động tôn trọng và bảo đảm về các quyền
con người và nhân phẩm của nạn nhân của nạn buôn người; áp dụng các biện
pháp cưỡng chế đối với những đối tượng tham gia buôn người và cung cấp
các trợ giúp rộng rãi nhất có thể để trừng phạt các hành vi này; thực hiện các
giải pháp củng cố hợp tác khu vực và quốc tế nhằm ngăn chặn và đấu tranh
chống buôn người [1].
Không chỉ cam kết và thông qua các tuyên bố chung, trong đấu tranh
phòng chống buôn bán người, buôn bán trẻ em, ASEAN đã có rất nhiều sáng
kiến hay và hiệu quả nhằm thúc đẩy hợp tác, đảm bảo an ninh quốc gia và khu
vực: lãnh đạo Cơ quan cảnh sát của các nước thành viên thường xuyên có
những phiên họp định kỳ (gọi tắt là ASEANPOL) nhằm trao đổi thông tin
thường xuyên về tình hình tội phạm; ASEAN đã tiến hành các nghiên cứu cấp
quốc gia về tội phạm buôn người dưới góc độ tư pháp hình sự, trên cơ sở đó
từng quốc gia đã cụ thể hóa thành các chính sách quốc gia về chống buôn bán
người; một số quốc gia còn có kế hoạch hành động quốc gia về chống buôn
bán người, thành lập cơ quan chuyên trách về phòng chống buôn bán người;
với các nước láng giềng, ASEAN có các thỏa thuận ghi nhớ (MOUS) để
chính thức hợp tác với các nước xung quanh trong lĩnh vực chống buôn bán
người; Hiệp định của các nước ASEAN về tương trợ tư pháp các vấn đề hình
sự năm 2004 cho phép trao đổi chứng cứ của các nghi phạm nhằm nhanh
chóng truy tố tội phạm mua bán người; việc dẫn độ tội phạm cũng được nhiều
nước ASEAN ký thỏa thuận và cam kết thực thi. Đặc biệt, sáng kiến phối hợp
cấp Bộ trưởng của các nước trong tiểu vùng sông Mêkông chống buôn người
(gọi tắt là COMMIT) đã thể hiện một bước tiến trong hợp tác giữa các quốc
gia tiểu vùng sông Mêkông và nâng cao hiệu quả đối phó với nạn buôn bán
người, buôn bán trẻ em.
42
Ngoài ra, sự hợp tác của Cơ quan an ninh với các quốc gia khác trên
thế giới để phòng chống tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người, mua
bán trẻ em ngày càng được hoàn thiện và có sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ.
Hiện nay dòng chảy của nạn mua bán người, mua bán trẻ em ở Việt Nam theo
ba hướng là biên giới Tây nam qua Campuchia, khu vực miền Trung qua Lào
và con đường chủ yếu nhất là qua Trung Quốc (60% tổng số vụ mua bán
người là qua Trung Quốc), do địa hình nước ta có đường biên giới dài tiếp
giáp với Trung Quốc. Tuy vậy, trong Bộ luật hình sự Trung Hoa năm 1997 lại
không có một điều luật riêng biệt nào dành cho tội phạm buôn bán người,
hành vi mua bán người chỉ được đề cập như là tình tiết tăng nặng của một số
tội danh. Đây là một điểm bất cập lớn của pháp luật Trung Hoa trong việc
phòng ngừa và trấn áp loại tội phạm mua bán người này và cũng là một khó
khăn cho việc hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc trong việc đấu tranh
phòng chống tội phạm mua bán người qua biên giới Việt - Trung.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Như vậy, trên phương diện luật pháp quốc tế, sự ra đời của Nghị định
thư Palermo về đấu tranh chống tội phạm buôn bán người đặc biệt là phụ nữ
và trẻ em được Liên hợp quốc thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2000 và có
hiệu lực từ ngày 25 tháng 12 năm 2003 là một bước phát triển về mặt lý luận,
cung cấp khái niệm mang tính chuẩn mực làm cơ sở cho các quốc gia đưa ra
quy định pháp luật riêng phù hợp với điều kiện của nước mình. Theo đó,
khách thể của tội phạm buôn bán người, buôn bán trẻ em là Con người (cả
nam và nữ) bị coi là hàng hóa để mua bán, trao đổi kiếm lời. Tội phạm buôn
bán người, buôn bán trẻ em xâm phạm quyền bất khả xâm phạm thân thể,
nhân phẩm, danh dự, quyền tự do của con người. Mặt khách quan của tội
phạm thể hiện ở hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để trao đổi, buôn
bán người, buôn bán trẻ em như một thứ hàng hóa. Hậu quả của hành vi buôn
bán người, buôn bán trẻ em là con người bị đem ra mua bán, trao đổi như
43
hàng hóa, danh dự nhân phẩm bị chà đạp, bị cưỡng bức lao động, bị bóc lột
tình dục.
Đối với pháp luật Việt Nam, mua bán người, mua bán trẻ em chỉ bao
gồm hai loại hành vi mua và bán, tức là việc dùng tiền hoặc lợi ích vật chất
khác để đổi lấy người, không bao gồm các hành vi tuyển mộ, vận chuyển,
chuyển giao, chứa chấp và nhận người (là những hành vi khác bên cạnh hành
vi mua bán xảy ra trong toàn bộ quá trình mua bán người, mua bán trẻ em).
Pháp luật Việt Nam coi hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa
chấp (che giấu) và nhận người là các hành vi giúp sức và tạo điều kiện cho
việc mua bán người, mua bán trẻ em và trên thực tế, những người thực hiện
các hành vi nêu trên sẽ bị trừng trị theo các quy định pháp luật tương ứng.
Về phương thức, thủ đoạn mua bán người, mua bán trẻ em, pháp luật
Việt Nam không quy định phương thức bọn tội phạm sử dụng để thực hiện
hành vi phạm tội, hay nói cách khác là động cơ, mục đích, thủ đoạn không
phải là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em.
Điều này có nghĩa là chỉ cần có hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác
để đổi lấy người hoặc lấy trẻ em là sẽ cấu thành tội mua bán người, mua bán
trẻ em, kể cả trong trường hợp nạn nhân hoàn toàn đồng ý với việc mua bán
(mặc dù điều này trong thực tiễn hầu như không xảy ra, nạn nhân chỉ có thể
đồng ý ban đầu do nhận thức sai về việc mình bị mua bán chứ nếu biết hoàn
cảnh thật thì họ không bao giờ đồng ý).
Về mục đích mua bán người, mua bán trẻ em theo pháp luật hình sự
Việt Nam, khi xác định đối tượng có hành vi mua bán người, mua bán trẻ em
thì chỉ cần xác định là hành vi chuyển giao người hoặc trẻ em từ một
người/nhóm người này sang một người/nhóm người khác để đổi lấy tiền hoặc
lợi ích vật chất.
Về đối tượng bị buôn bán, đối tượng bị buôn bán/ mua bán theo quy
định của Nghị định thư về chống buôn bán người, buôn bán trẻ em và pháp
44
luật Việt Nam bao gồm cả nam giới, phụ nữ và trẻ em. Theo quy định của
pháp luật quốc tế, trẻ em là người dưới 18 tuổi và theo quy định của pháp luật
Việt Nam trẻ em là người dưới 16 tuổi.
Với những quy định rõ ràng của pháp luật Việt Nam, trải qua quá trình
hình thành và phát triển lâu dài đã xây dựng nên hệ thống pháp luật về phòng
chống mua bán người và mua bán trẻ em. Với những quy định đã được sửa
đổi, bổ sung trên cơ sở cập nhật các quy định của quốc tế, Việt Nam hoàn
toàn có đủ những căn cứ cần thiết để đấu tranh quyết liệt với tội phạm mua
bán người, mua bán trẻ em.
Như vậy, từ những nhận thức về công tác phòng, chống mua bán
người, mua bán trẻ em ở pháp luật quốc tế và các quốc gia trong ASEAN,
chúng ta đã có những kinh nghiệm, bài học nhất định giúp xây dựng pháp luật
Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đảm bảo yêu cầu của công tác đấu tranh
phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em trong tình hình mới.
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT
Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOTĐề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCMLuận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
Luận văn: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo luật tại TPHCM
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tộiLuận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Luận văn: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng NinhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
 
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOTTội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi theo luật
Luận văn: Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi theo luậtLuận văn: Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi theo luật
Luận văn: Giao cấu với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi theo luật
 
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOTĐịnh tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Tình hình tội giết người tại TPHCM (2011 - 2015), 9đ
Luận văn: Tình hình tội giết người tại TPHCM (2011 - 2015), 9đLuận văn: Tình hình tội giết người tại TPHCM (2011 - 2015), 9đ
Luận văn: Tình hình tội giết người tại TPHCM (2011 - 2015), 9đ
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật hình sự Việt Nam
 

Similar to Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT

Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dânBảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dânDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 

Similar to Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT (20)

Luận văn: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, HOT
Luận văn: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, HOTLuận văn: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, HOT
Luận văn: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, HOT
 
Luận văn: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, HOT
Luận văn: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, HOTLuận văn: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, HOT
Luận văn: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, HOT
 
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dânBảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
 
Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Hiếp Dâm Trẻ Em.
Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Hiếp Dâm Trẻ Em.Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Hiếp Dâm Trẻ Em.
Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Hiếp Dâm Trẻ Em.
 
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
 
Đề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sự
Đề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sựĐề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sự
Đề tài: Các tội phạm về mại dâm theo quy định của luật hình sự
 
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOTLuận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOTLuận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội mua bán trái phép chất ma túy tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tội mua bán trái phép chất ma túy tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tội mua bán trái phép chất ma túy tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tội mua bán trái phép chất ma túy tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAYLuận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự, HAY
 
Bài mẫu luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
Bài mẫu luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂMBài mẫu luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
Bài mẫu luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
 
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
 
Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Các Tội Giết Người.
Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Các Tội Giết Người.Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Các Tội Giết Người.
Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Các Tội Giết Người.
 
Luận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu GiangLuận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu Giang
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂM
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂMLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂM
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản, 9 ĐIỂM
 
Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Mua Bán Trái Phép Chất M...
Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Mua Bán Trái Phép Chất M...Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Mua Bán Trái Phép Chất M...
Luận Văn Nguyên Nhân Và Điều Kiện Của Tình Hình Tội Mua Bán Trái Phép Chất M...
 
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sựLuận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
 
Đề tài: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự, HOT
Đề tài: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự, HOTĐề tài: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự, HOT
Đề tài: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tỉnh Quảng Bình
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tỉnh Quảng BìnhLuận văn: Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tỉnh Quảng Bình
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tỉnh Quảng Bình
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Tội mua bán người và trẻ em tại tỉnh Hà Giang, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ QUẾ TỘI MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ QUẾ TỘI MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n TrÇn ThÞ QuÕ
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM 9 1.1. Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về tội phạm buôn bán người, buôn bán trẻ em 10 1.1.1. Khái niệm buôn bán người theo quy định của luật pháp quốc tế 10 1.1.2. Khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam 16 1.2. Lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 20 1.2.1. Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 20 1.2.2. Hệ thống pháp luật phi hình sự có liên quan đến phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 24 1.3. Kinh nghiệm và sự hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 31 Chương 2: TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ HAI TỘI PHẠM NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2009 - 2013 37 2.1. Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) 37
  • 5. 5 2.1.1. Tội mua bán người (Điều 119 Bộ luật hình sự) 37 2.1.2. Tội mua bán trẻ em (Điều 120 Bộ luật hình sự) 41 2.2. Tình hình tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang 47 2.2.1. Đặc điểm chung về tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên phạm vi cả nước 47 2.2.2. Tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013 51 2.3. Tình hình xét xử tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 58 2.4. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang 72 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG 77 3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em 77 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán người và tội mua bán trẻ em 82 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang 84 3.3.1. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân tham gia phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 85 3.3.2. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, gắn xây dựng nông thôn mới với công tác xóa đói giảm nghèo, dạy nghề và tạo việc làm cho nam nữ thanh niên 87
  • 6. 6 3.3.3. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 88 3.3.4. Tăng cường sự phối hợp với các ngành chức năng trong công tác phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em 90 3.3.5. Tăng cường công tác xác minh và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 93 3.3.6. Tăng cường phối hợp, hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 95 KẾT LUẬN 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Số vụ và số bị can đã khởi tố điều tra về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 53 2.2 Số vụ và số bị can, bị cáo bị khởi tố điều tra, truy tố, xét xử về tội mua bán người, mua bán trẻ em trên phạm vi cả nước từ 2009 - 2013 56 2.3 Số vụ và số bị cáo đã xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo Điều 119, 120 Bộ luật hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 59 2.4 Tổng hợp mức hình phạt của các bị cáo đã xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ 2009 - 2013 64 2.5 Thống kê số nạn nhân theo mục đích mua bán của tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 65 2.6 Thống kê thành phần độ tuổi các nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ 2009 - 2013 68 2.7 Thống kê thành phần độ tuổi của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 69
  • 8. 8 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang 2.1 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ tổng số vụ án mua bán người, mua bán trẻ em trên tổng số vụ án về trị an xã hội của tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 53 2.2 Biểu đồ thể hiện tổng số vụ án thụ lý về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em của tỉnh Hà Giang so với cả nước từ năm 2009 - 2013 57 2.3 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số vụ án xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 62 2.4 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số bị cáo xét xử về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 63 2.5 Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo mục đích mua bán của tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 66 2.6 Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo thành phần độ tuổi bị mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 69
  • 9. 9 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hướng đến một thế giới văn minh, công bằng và bình đẳng nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của con người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em thì thế giới đã xuất hiện một hình thức xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm con người với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp và có tổ chức đó là tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Đây là một thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam. Những năm gần đây, tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em ở Việt Nam diễn biến phức tạp, có xu hướng quốc tế hóa. Trong nước đã xuất hiện nhiều đường dây mua bán người, mua bán trẻ em xuyên quốc gia, liên quan đến đối tượng thuộc nhiều địa phương, có sự cấu kết chặt chẽ giữa tội phạm trong nước và nước ngoài với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, lừa gạt dưới mọi hình thức để đạt được mục đích. Đối tượng của hoạt động mua bán người là nam giới, phụ nữ và trẻ em, thuộc mọi lứa tuổi trong đó nhiều nhất là phụ nữ và trẻ em. Phần lớn phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ các vùng nông thôn, miền núi ra đô thị, bị ép buộc làm gái mại dâm phục vụ cho các cửa hàng, dịch vụ trá hình. Nhiều nạn nhân bị buôn bán ra nước ngoài, đến các quốc gia khác nhau với nhiều hình thức bóc lột nhằm trục lợi như mại dâm và làm vợ bất hợp pháp, nam giới bị buôn bán để bóc lột sức lao động... Thực trạng phụ nữ và trẻ em bị bán ra nước ngoài qua các hình thức dịch vụ môi giới hôn nhân, cho nhận con nuôi đã trở thành vấn đề nóng bỏng, nhức nhối, ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt của nhân dân, phong tục tập quán, đạo đức xã hội. Tệ nạn mua bán người đe dọa đến sự an ninh, an toàn của con người trên nhiều phương diện, gây những tác hại nặng nề về thể chất và tinh thần cho nạn nhân, tước đoạt tự do và quyền con người, đe dọa đến an ninh toàn cầu và làm gia tăng tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Mua bán người, mua
  • 10. 10 bán trẻ em có những tác hại nặng nề đối với bản thân các nạn nhân, những người thường bị lạm dụng về thể chất và tinh thần, bị cưỡng hiếp, đe dọa đến tính mạng, sự an toàn của bản thân và gia đình họ. Mua bán người, mua bán trẻ em còn làm tăng nạn sản xuất và buôn bán giấy tờ giả, ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh, trật tự của quốc gia. Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng nhiều đề án, chương trình hành động và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Trong chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến năm 2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 130/2004/QĐ-TTg ngày 14/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ) thì một trong những nội dung quan trọng là phải xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Đặc biệt là Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã điều chỉnh Điều 119 từ tội danh mua bán phụ nữ sang tội danh mua bán người để đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống tội phạm mua bán người và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em chưa thực sự hiệu quả, tỷ lệ khám phá, xử lý tội phạm còn thấp. Các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có nhiều cố gắng trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử, bóc gỡ được nhiều đường dây buôn bán người mang tính tổ chức cao và hoạt động xuyên quốc gia, tuy nhiên, thực tế số tội phạm ẩn đối với loại hành vi này còn rất lớn. Hà Giang là tỉnh nằm ở cực Bắc của Tổ quốc, là một trong những tỉnh miền núi thuộc diện nghèo nhất nước, có đường biên giới dài, tiếp giáp với nhiều địa phương của Trung Quốc. Đảng bộ và chính quyền tỉnh Hà Giang đã tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật để đấu tranh, phòng chống với các loại tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Đồng thời, các cơ quan an ninh đã phối hợp với các ban ngành liên quan nỗ lực
  • 11. 11 phòng chống và giúp đỡ các nạn nhân bị mua bán tái hòa nhập với cộng đồng. Với những đặc thù riêng của địa phương, loại hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang có nhiều điểm khác biệt so với các địa phương trong cả nước. Do vậy, tác giả cho rằng cần có một nghiên cứu đầy đủ về thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống và thực tiễn xét xử để bổ sung cho lý luận về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nhằm áp dụng có hiệu quả vào thực tế tại tỉnh Hà Giang. Hơn nữa, là một kiểm sát viên trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, trong đó có các vụ án về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, nên tác giả muốn có nghiên cứu tổng quan để phục vụ công tác của mình. Đây cũng là lý do để tác giả lựa chọn đề tài "Tội mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học, nhằm tìm hiểu đầy đủ những cơ sở lý luận và thực tiễn về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, áp dụng một cách có hiệu quả vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nơi địa phương đang cư trú. Mặt khác, qua việc nghiên cứu này để đánh giá kết quả tìm hiểu và nghiên cứu khoa học của bản thân trong quá trình được các thầy cô bồi dưỡng và đào tạo. 2. Tình hình nghiên cứu Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về tội mua bán người, mua bán trẻ em đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, hình sự và cán bộ thực tiễn. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ pháp lý hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em đặc biệt là gắn với một địa bàn cụ thể như tỉnh Hà Giang. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội phạm này có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn phục vụ trực
  • 12. 12 tiếp cho địa bàn tỉnh Hà Giang. Về các vấn đề liên quan đến mua bán người, mua bán trẻ em đến nay đã có một số chương trình hành động, báo cáo của các tổ chức như: Chương trình hành động về phòng chống nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam (1999 - 2002) của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam trên tinh thần các Nghị định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán người và di cư trái phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Bộ Tư pháp. Trong các giải pháp phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em thì hoàn thiện hệ thống pháp luật là một vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình tội phạm và thực trạng xét xử để nâng cao hiệu quả giải quyết án là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng được một khung pháp lý tương đối đầy đủ nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm đối với nam giới, phụ nữ, trẻ em là đối tượng của hành vi mua bán như Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật hôn nhân và gia đình, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh phòng chống mại dâm... Các văn bản pháp luật này tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trong thời gian qua. Tuy nhiên, trước xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, diễn biến tình hình tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em ngày càng trở lên phức tạp. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam trong đó có các quy định của pháp luật hình sự đã bộc lộ một số bất cập, thiếu sót làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác phòng, chống loại tội phạm này. Trên phương diện hoàn thiện pháp luật và tình hình thực tiễn phòng chống tội phạm đã có một số công trình đề cập đến mua bán người, mua bán trẻ em của các tác giả Vũ Ngọc Bình, Phòng chống buôn bán và mại dâm trẻ em; Đỗ Thị Thơm, Hoàn thiện pháp luật về
  • 13. 13 quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay; Nguyễn Quang Dũng, Tình hình tội phạm mua bán phụ nữ qua biên giới nước ta và hoạt động phòng ngừa của Bộ đội Biên phòng; Phạm Văn Hùng, Quán triệt chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 - 2010; Đặng Xuân Khang, Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam - thực trạng và giải pháp... đã có những đóng góp trong việc hoàn thiện pháp luật và đưa vấn đề phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em vào khoa học hình sự nhằm tìm ra giải pháp hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm trên. 3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội mua bán người và mua bán trẻ em; đối chiếu với các quy định của pháp luật quốc tế liên quan đến hành vi mua bán người và mua bán trẻ em. Luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp lý cơ bản của tội mua bán người và tội mua bán trẻ em như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, đồng thời đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử tội mua bán người và tội mua bán trẻ em từ năm 2009 đến năm 2013 trên địa bàn tỉnh Hà Giang, có so sánh, đối chiếu với số liệu trên toàn quốc. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em và thực tiễn tội phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013, tác giả đề tài sẽ phân tích và chỉ ra thực trạng giải quyết, những tồn tại, khó khăn của các cơ quan pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Đồng thời, đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng.
  • 14. 14 Với đối tượng và mục đích nghiên cứu như trên, học viên đề ra phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Tìm hiểu một số quy định của pháp luật quốc tế về tội mua bán người, mua bán trẻ em. Nghiên cứu và hệ thống hóa những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành đối với các hành vi mua bán người và mua bán trẻ em. Phân tình hình tội phạm và thực tiễn xét xử các vụ án mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong thời gian 05 năm, từ năm 2009 đến năm 2013, nêu ra những khó khăn, vướng mắc, những tồn tại và hạn chế trong công tác giải quyết. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị trong việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em. 4. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trường, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em nói riêng. Phương pháp luận cũng dựa trên cơ sở những thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử Nhà nước và pháp luật; Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật; Xã hội học pháp luật; Tâm lý học; Tội phạm học; Luật tố tụng hình sự… và những luận điểm, luận chứng khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên báo, tạp chí của một số nhà khoa học Luật hình sự Việt Nam và nước ngoài. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của luận văn là kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, dùng lý luận để phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam đối với tội mua bán người và mua bán trẻ em. Sử dụng cơ sở lý
  • 15. 15 luận để làm rõ những vấn đề thực tiễn trong xét xử tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng, minh chứng bằng những số liệu, dẫn chứng cụ thể. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu, điều tra án điển hình... để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học - thực tiễn cần nghiên cứu trong luận văn này. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 5.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trong khoa học Luật hình sự Việt Nam. Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về các tội này trong Luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát các quy định của pháp luật quốc tế; làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em; phân tích thông qua nghiên cứu thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 và trên toàn quốc để so sánh, qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn, đặc biệt một số giải pháp gắn liền với việc phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn còn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo, nghiên cứu và học tập. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật
  • 16. 16 hình sự Việt Nam liên quan đến tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội này hiện nay và sắp tới ở địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng và cả nước nói chung. Đề tài giúp nhận thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Đề tài phân tích thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang, đánh giá đúng thực trạng giải quyết loại tội phạm này, tìm ra được những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân của tồn tại và hạn chế trong công tác đấu tranh, phòng ngừa. Từ đó xây dựng được hệ thống giải pháp hữu hiệu và có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế tại địa phương. Với cá nhân người nghiên cứu, đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, trong đó có tội mua bán người và tội mua bán trẻ em. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em. Chương 2: Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và thực tiễn xét xử hai tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2009 - 2013. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
  • 17. 17 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM Buôn bán người hình thành, phát triển và tồn tại kéo dài trong suốt lịch sử của nhân loại, từ khi hình thành hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ cho đến nay. Buôn bán người đã bị cả xã hội lên án và để chống lại tình trạng này, trong những năm đầu thế kỷ XX, một số Công ước quốc tế về chống buôn bán người đã được ký kết như Công ước bãi bỏ buôn bán nô lệ da trắng năm 1904, Công ước ngăn chặn tệ buôn bán phụ nữ năm 1910, Công ước về chống buôn bán nô lệ năm 1926... Sau khi được thành lập, Liên hợp quốc đã có nhiều văn bản pháp lý đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến phòng chống tội phạm buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em và bảo vệ các nạn nhân của tội phạm này để thay thế các văn bản quốc tế trước đó như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966, Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000... và một số Nghị định thư bổ sung cho các công ước nêu trên như: Nghị định thư không bắt buộc năm 2000 bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em về buôn bán trẻ em, mua dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em; Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em năm 2000 bổ sung cho Công ước về chống tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia... Cuộc đấu tranh chống tội phạm buôn bán người ngày càng được nhiều nước trên thế giới hưởng ứng, tham gia và đã thu được những kết quả nhất định.
  • 18. 18 1.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỘI PHẠM BUÔN BÁN NGƯỜI, BUÔN BÁN TRẺ EM Khái niệm buôn bán người, buôn bán trẻ em là một trong những vấn đề nóng bỏng và gây tranh luận trong các cuộc hội thảo trong nước và các hội nghị quốc tế. Việt Nam cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới đã và đang có những hoạt động nỗ lực nhằm ngăn chặn và đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Tuy nhiên, vẫn có những khác biệt của pháp luật quy định về tội mua bán người, mua bán trẻ em (theo pháp luật của Việt Nam) và tội buôn bán người (theo quy định của pháp luật quốc tế). Để có thể đưa ra được khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế (vì hiện nay Việt Nam đã ra nhập và ký kết nhiều văn kiện quốc tế quy định về buôn bán người) và phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như tình hình, hoàn cảnh thực tế của đất nước thì cần phải nghiên cứu toàn diện và sâu rộng các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước, trên cơ sở đó đưa ra khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em. 1.1.1. Khái niệm buôn bán người theo quy định của pháp luật quốc tế Mua bán người, mua bán trẻ em là một loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà loài người tiến bộ trên khắp thế giới đều lên án rất mạnh mẽ. Tội phạm mua bán người làm rối loạn tình hình an ninh, trật tự, xâm phạm nhân quyền. Bên cạnh đó những hậu quả của mua bán người để lại những nỗi mất mát lớn cho các nạn nhân đặc biệt về mặt tinh thần. Tuy với những đặc điểm chung của cùng một loại hình tội phạm nhưng quan niệm về tội mua bán người ở các quốc gia so với quan niệm của các quy định quốc tế có sự khác biệt đáng kể, tùy mức độ rộng hẹp của cách hiểu Pháp luật quốc tế không quy định khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em mà quy định chung về khái niệm buôn bán người. Nạn buôn người là hình thức hiện đại của nạn nô lệ, đang phá hủy gia đình và cộng đồng trên
  • 19. 19 khắp thế giới. Buôn bán người chính là hình thức mua bán, chiếm hữu nô lệ, coi con người là một loại hàng hóa và tước đoạt của họ những quyền cơ bản về tự do một cách trái pháp luật và vô đạo đức. Do có những đặc điểm riêng về truyền thống lịch sử, văn hóa xã hội, điều kiện kinh tế mà pháp luật của mỗi quốc gia quy định về khái niệm buôn bán người khác nhau. Pháp luật của một số quốc gia quy định khái niệm "buôn bán người" theo những chuẩn mực pháp lý quốc tế, thì cũng có một số quốc gia khác, khái niệm này chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp hoặc có những điểm không tương đồng với quy định của pháp luật quốc tế. Khái niệm "buôn bán người" được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế. Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em (Nghị định thư Palermo). Văn kiện này được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2000 và có hiệu lực ngày 25 tháng 12 năm 2003. Theo quy định của Nghị định thư này, khái niệm buôn bán người (trong đó có phụ nữ, trẻ em) được quy định như sau: a) Việc tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách đe dọa dùng bạo lực hay cách thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc cho hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối với người khác vì mục đích bóc lột. Hành vi bóc lột ở đây ít nhất là bao gồm bóc lột vì mục đích mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức nô lệ hay những hình thức tương tự như nô lệ, khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể. b) Việc một nạn nhân của nạn buôn bán người chấp nhận sự bóc lột có chủ ý được nêu tại điểm (a) trên đây sẽ không được tính đến nếu bất kỳ một cách thức nào nêu trong điểm (a) đã được sử dụng.
  • 20. 20 c) Việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận trẻ em với mục đích bóc lột sẽ bị coi là buôn bán người thậm chí khi không có những hình thức được nêu ở điểm (a) trên đây. d) "Trẻ em" có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi [36]. Khái niệm buôn bán người theo quy định của Nghị định thư Palermo tập trung vào các yếu tố như: Thứ nhất, về hành vi, buôn bán người bao gồm: hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận người. Thứ hai, về phương thức thực hiện hành vi là đe dọa hoặc sử dụng vũ lực hoặc các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa đảo, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị thương tổn, đưa hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người có quyền kiểm soát đối với người khác. Thứ ba, về mục đích là nhằm bóc lột người bị mua bán (bóc lột vì mục đích mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, làm khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể). Theo quy định của Nghị định thư Palermo, sự đồng ý của trẻ em là vô hiệu và bất kỳ sự tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận trẻ em nhằm mục đích bóc lột đều cấu thành tội buôn bán người, cho dù không có việc sử dụng vũ lực, cưỡng ép, man trá, lừa gạt... trẻ em đó. Đây là khái niệm có tính chính thống về buôn bán người theo tinh thần Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung Công ước về chống buôn bán người. Khái niệm này được sử dụng phổ biến trong hoạt động chống buôn bán người trên thế giới và được nội luật hóa trong pháp luật của nhiều quốc gia. Khái niệm này cũng đã bao hàm mọi hình thức buôn người và không chỉ giới hạn trong buôn người nhằm mục đích bóc lột tình dục mà còn đối với các mục đích khác. Khái niệm này đã tập trung vào các tình trạng cưỡng bức lao động, làm khổ sai, những hành vi như bắt
  • 21. 21 làm nô lệ và tương tự. Khái niệm không chỉ tập trung vào đối tượng là phụ nữ mà bao hàm mọi giới nam nữ, đều có thể là nạn nhân. Khái niệm không chỉ nói đến nạn nhân bị buôn bán qua biên giới được quốc tế công nhận mà xét đến cả những người bị buôn bán ngay trong lãnh thổ của một quốc gia, từ khu vực này đến khu vực khác. Trừ trường hợp người bị buôn bán dưới 18 tuổi, Nghị định thư đòi hỏi phải có yếu tố cản trở nguyện vọng tự do và được thông tin đầy đủ của nạn nhân. Ngoài Nghị định thư Palermo, một số văn kiện pháp luật quốc tế cũng đưa ra khái niệm liên quan đến buôn bán người, trong đó có nhiều điểm tương đồng với khái niệm của Nghị định thư chống buôn bán người, nhưng do được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau, nên không một khái niệm nào đầy đủ, toàn diện như khái niệm được nêu trong Nghị định thư Palermo. Theo quy định của Nghị định thư không bắt buộc về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, bổ sung cho Công ước quyền trẻ em thì mua bán trẻ em là bất kỳ hành động giao dịch nào mà qua đó trẻ em bị chuyển giao từ bất kỳ một người hay một nhóm người này sang một người hay một nhóm người khác để lấy tiền hay bất cứ đồ vật gì khác. Khái niệm này có điểm rộng hơn khái niệm của Nghị định thư Palermo (không quy định mục đích bóc lột nạn nhân là yếu tố bắt buộc cấu thành tội phạm), nhưng lại có điểm hẹp hơn khái niệm của Nghị định thư Palermo ở chỗ chỉ giới hạn hành vi chuyển giao trẻ em vì lợi nhuận, tức là chỉ điều chỉnh hành vi mua hoặc bán. Trong khi đó, Nghị định thư Palermo đề cập đến nhiều loại hành vi buôn bán người như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp, nhận người... vì mục đích bóc lột. Theo Liên minh toàn cầu chống buôn bán phụ nữ GAATW (Global Alliance Against Trafficking of Women) phối hợp với các tổ chức Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ đã đưa ra khái niệm khái quát về buôn bán người là: Mọi hoạt động cố ý tham gia vào việc tuyển mộ, chuyên chở trong nước
  • 22. 22 hoặc qua biên giới, mua, bán, chuyển, chứa chấp hoặc nhận một người bằng thủ đoạn lừa gạt và cưỡng bức, kể cả việc dùng hoặc đe dọa dùng bạo lực, lạm dụng quyền hành hoặc lợi dụng tình hình nợ chồng chất của người đó để đưa hoặc buộc họ làm việc trong tình trạng nô lệ không tự nguyện (việc nhà, tình dục hoặc sinh sản) không hoặc có được trả công, lao động cưỡng bức hoặc có giao kèo, hoặc lao động trong các điều kiện nô lệ trong một cộng đồng mà không phải nơi mà người đó sống khi bị lừa gạt, cưỡng bức hay nợ chồng chất ban đầu. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm buôn bán người như sau: Buôn bán người là việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, che giấu hoặc tiếp cận người bằng cách đe dọa hoặc dùng vũ lực hoặc các hình thức khác như ép buộc, bắt cóc, gian lận, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị, tình trạng dễ bị tổn thương hoặc việc đưa hoặc nhận tiền hoặc lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người mà người đó đang có quyền kiểm soát một người khác, nhằm mục đích bóc lột. Việc bóc lột bao gồm, bóc lột làm nghề mại dâm hoặc những hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc phục vụ bắt buộc, tình trạng nô lệ hoặc những việc làm tương tự như tình trạng nô lệ, khổ sai hay cắt đi những bộ phận cơ thể con người. Tuy đã có những cách hiểu rất rõ ràng về tội buôn bán người nhưng trên thực tế trong nhiều trường hợp loại tội danh này dễ nhầm lẫn với tội đưa người trái phép qua biên giới, bởi những điểm tương đồng của hai loại tội danh. Nếu không phân biệt rõ hai tội danh này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình xét xử và bỏ sót tội danh nguy hiểm. Nghị định thư về phòng, chống đưa người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không, bổ sung cho Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia định nghĩa: "Đưa người di cư trái phép nghĩa là việc giao dịch, để đạt được trực tiếp hoặc gián tiếp lợi ích về tài chính hoặc lợi ích vật chất khác từ việc một người nhập cảnh trái phép vào một quốc gia thành viên mà người này
  • 23. 23 không phải là công dân của quốc gia đó hoặc thường trú tại quốc gia đó". Về mặt hình thức, tội buôn bán người và tội đưa người trái phép qua biên giới có những điểm tương đối trùng khớp với nhau bởi đều tồn tại yếu tố của sự di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác bằng cách bất hợp pháp và đều vì mục đích lợi nhuận cho kẻ gây ra hành vi đó. Chính điều này đã dẫn đến nhiều quy định nhầm lẫn và bỏ sót nhiều tội danh của các đối tượng buôn bán người. Do vậy, cần phân biệt rõ giữa buôn bán người và đưa người trái phép qua biên giới bởi bản chất hai hành vi này hoàn toàn khác nhau. Về mục đích di chuyển, buôn bán người và đưa người trái phép qua biên giới đều vì mục đích lợi nhuận. Tuy nhiên, đưa người trái phép qua biên giới nhận lợi nhuận từ chính người được đưa qua biên giới và kết thúc hành vi khi đưa được người qua biên giới đến đúng địa điểm đã thỏa thuận, trong khi hành vi buôn bán người không dừng lại ở đó. Sau khi đưa người qua biên giới, lợi nhuận thu được của những kẻ thực hiện việc buôn bán người là từ hành vi bóc lột, nô dịch nạn nhân (phục vụ mại dâm, lao động bất hợp pháp…). Các nạn nhân bị mua và bán phải chịu đựng các hình thức khống chế, kiểm soát và cưỡng bức có hậu quả vô cùng nghiêm trọng làm tổn hại đến sức khỏe và tính mạng con người. Về tính chất và mức độ của hành vi, đưa người trái phép qua biên giới có sự đồng thuận giữa hai bên vì mục đích riêng của mỗi bên trong khi buôn bán người đa phần phải thông qua hành vi lừa gạt, dụ dỗ, thậm chí dùng vũ lực mà không được sự đồng thuận của người bị mua bán. Hành vi buôn bán người chưa thể kết thúc khi người đã được đưa qua biên giới và trong nhiều trường hợp hành vi mua bán không nhất thiết phải thực hiện thông qua biên giới giữa các quốc gia mà có thể ngay trong nội địa từ địa phương này sang địa phương khác, khu vực này sang khu vực khác. Với tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm buôn bán người, pháp luật quốc tế đã quy định rất cụ thể từng hành vi như tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người, có sự phân biệt rõ ràng giữa buôn bán người và đưa người trái
  • 24. 24 phép qua biên giới, từ đó nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tệ nạn buôn bán người (trong đó có buôn bán trẻ em). 1.1.2. Khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam Pháp luật hình sự Việt Nam không quy định về tội buôn bán người mà quy định cụ thể về tội mua bán người và mua bán trẻ em. Mua bán người là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc các lợi ích vật chất khác để trao đổi người (từ đủ 16 tuổi trở lên) như một loại hàng hóa. Các hành vi đó là: bán người cho người khác, không phụ thuộc vào mục đích của người mua; mua người để bán lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào; dùng người như là tài sản để trao đổi, thanh toán; mua người để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì các mục đích trái pháp luật khác; người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi nêu trên, đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người. Mua bán trẻ em là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác để trao đổi trẻ em (người dưới 16 tuổi) như một loại hàng hóa. Các hành vi mua bán trẻ em cụ thể là: bán trẻ em cho người khác, không phụ thuộc vào mục đích của người mua; mua trẻ em để bán lại cho người khác, không phân biệt bán lại cho ai và mục đích của người mua sau này như thế nào; dùng trẻ em làm phương tiện để trao đổi, thanh toán; mua trẻ em để bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc vì mục đích trái pháp luật khác; người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong các hành vi nêu trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người, mua bán trẻ em, có thể thấy rằng khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em ở Việt Nam đã có một số điểm tương đồng với quy định của pháp luật quốc tế, đó là: đã quy định là tội phạm hình sự đối với hành vi mua bán người có tính chất tổ chức, nhiều lần như quy định của Công ước quốc tế;
  • 25. 25 quy định các mục đích mua bán người, mua bán trẻ em để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân, để đưa ra nước ngoài, để sử dụng vào mục đích mại dâm hoặc mục đích vô nhân đạo là các tình tiết định khung hình phạt; hoặc tuy không quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự nhưng các văn bản hướng dẫn áp dụng đã hướng dẫn về các thủ đoạn phạm tội mua bán người là môi giới hôn nhân với người nước ngoài trái phép, đưa người đi lao động nước ngoài trái phép, môi giới nuôi con nuôi trái pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam vẫn còn có nhiều điểm khác biệt, chưa tương thích với khái niệm buôn bán người của pháp luật quốc tế. Sự khác biệt này được thể hiện như sau: Thứ nhất, về hành vi: khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em của Việt Nam chỉ bao gồm hai loại hành vi là mua và bán, tức là việc chuyển giao người, trẻ em từ người này (hoặc nhóm người này) sang người khác (hoặc nhóm người khác) để đổi lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác. Như vậy, theo cách hiểu hiện nay về mua bán người, mua bán trẻ em thì không bao gồm các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp và nhận người là những hành vi khác bên cạnh hành vi mua bán xảy ra trong toàn bộ quá trình buôn bán người được bao hàm trong khái niệm của Nghị định thư Palermo. Tuy các hành vi này không bị coi là mua bán nhưng hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp và nhận người, tùy từng trường hợp cụ thể sẽ bị trừng trị theo các quy định của các điều luật tương ứng hoặc bị coi là hành vi đồng phạm hoặc phạm tội chưa đạt với tội mua bán người, mua bán trẻ em. Thứ hai, về phương thức thực hiện: pháp luật hình sự Việt Nam không quy định cấu thành của tội phạm là phương thức mà tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Trong khi đó, Nghị định thư Palermo quy định các hành vi nói trên phải được thực hiện theo các phương thức như đe dọa dùng vũ lực hay các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị thương tổn hay bằng việc cho hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối với những người
  • 26. 26 khác. Trong trường hợp đối tượng bị xâm hại là trẻ em thì không cần tính đến việc bọn tội phạm có sử dụng hay không sử dụng các phương thức này. Điều đó có nghĩa là, trong trường hợp trẻ em hoàn toàn đồng tình với hành vi mua bán người của bọn tội phạm thì vẫn bị coi là mua bán trẻ em nếu có hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao... trẻ em nhằm mục đích bóc lột. Thứ ba, về mục đích (yếu tố để bóc lột): một trong những dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội buôn bán người với các tội phạm khác chính là yếu tố "bóc lột" nạn nhân. Theo Nghị định thư Palermo thì mục đích "để bóc lột" là một trong những yếu tố bắt buộc cấu thành tội buôn bán người. Đây cũng chính là một trong những dấu hiệu chính để phân biệt tội "buôn bán người" với tội "đưa người trái phép qua biên giới" và phân biệt với các loại tội phạm khác. Chẳng hạn cùng là một hành vi đưa người sang bên kia biên giới để thu lợi nhuận nhưng sẽ cấu thành tội buôn bán người khi có dấu hiệu chứng minh là nhằm mục đích bóc lột nạn nhân và sẽ chỉ là tội đưa người trái phép qua biên giới nếu không chứng minh được mục đích này. Trong khi đó pháp luật hình sự Việt Nam không quy định mục đích "để bóc lột" là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm này, mà chỉ cần có sự chuyển giao người, trẻ em để đổi lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là đã cấu thành tội mua bán người, mua bán trẻ em. Điều này có thể dẫn đến sự khác biệt nhất định khi xác định tội danh mua bán người, mua bán trẻ em theo pháp luật Việt Nam và buôn bán người, buôn bán trẻ em theo pháp luật quốc tế trong một số trường hợp cụ thể. Hoặc trong nhiều trường hợp, người bán không cần biết người mua sử dụng nạn nhân vào mục đích gì, mà chỉ cần lấy một khoản tiền nhất định. Nếu người bán nạn nhân với mục đích để bóc lột (như làm mại dâm, lấy bộ phận cơ thể...) thì họ sẽ bị áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng (vì mục đích mại dâm, để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân...) đối với hành vi phạm tội của họ. Như vậy theo quy định của pháp luật hình sự
  • 27. 27 Việt Nam, chỉ cần có hành vi mua hoặc bán người, trẻ em để lấy tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác là cấu thành tội phạm mà không cần có yếu tố "bằng thủ đoạn và mục đích bóc lột" như quy định của Nghị định thư Palermo. Động cơ, mục đích của người phạm tội không có ý nghĩa quyết định đối với việc định tội danh mà chỉ bị coi là tình tiết định khung tăng nặng. Thứ tư, về độ tuổi của trẻ em: khái niệm "trẻ em" của pháp luật Việt Nam cũng chưa tương thích với Nghị định thư Palermo và một số văn kiện pháp lý quốc tế khác. Pháp luật Việt Nam quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi, trong khi đó quy định của Nghị định thư Palermo thì trẻ em là người dưới 18 tuổi. Như vậy, trường hợp người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị mua bán thì pháp luật Việt Nam chưa có chế tài phù hợp để xử lý, còn đối với nạn nhân là người nước ngoài thì dễ dẫn tới sự xung đột giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế, điều này sẽ làm giảm đi hiệu quả của quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống buôn bán người giữa Việt Nam với một số quốc gia. Thứ năm, về chủ thể của tội phạm: theo quy định của pháp luật quốc tế, thì tất cả những người tham gia một trong những công đoạn có liên quan trong quá trình buôn bán người, buôn bán trẻ em đều được coi là tội phạm buôn bán người, trẻ em như tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp..., trong khi đó, theo pháp luật hình sự Việt Nam thì những người này không phải là chủ thể của tội phạm mua bán người, trẻ em mà có thể là chủ thể của một số tội phạm có liên quan khác. Như vậy, cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em cho phù hợp với điều kiện đất nước và tương thích với các quy định của pháp luật quốc tế là việc làm cần thiết và lâu dài, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
  • 28. 28 1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM 1.2.1. Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, mỗi lần một triều đại mới lên nắm chính quyền là một lần các quy định pháp luật được ban hành nhằm đảm bảo sự tồn tại cho triều đại đó, đồng thời còn giải quyết các vấn đề về xã hội. Trong tất cả các văn bản pháp luật được ban hành trong xã hội phong kiến thì Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều Hình luật) được đánh giá là tiến bộ và hoàn thiện hơn cả. Quốc triều Hình luật tập hợp các ưu điểm của các văn bản pháp lý trước đó, xác định các vấn đề mà Nhà nước mà xã hội cùng quan tâm, từ đó đúc kết và đưa ra những quy định mới, tiến bộ phù hợp với xã hội phong kiến. Quốc triều hình luật cũng đã quy định về hành vi mua bán người với các chế tài hình phạt nghiêm khắc từ Giảo (thắt cổ) đến Chém bêu đầu (chỉ thấp hơn tội Lăng trì), đối với các hành vi như bán người ít tuổi từ hàng cơ thân trở xuống hoặc có thêm hành vi cướp của hoặc đồ vật... Tuy những quy định về tội mua bán người còn nhiều thiếu sót và chưa cụ thể, nhưng nếu so với thời điểm Bộ luật Hồng Đức được ban hành thì vẫn có thể xem quy định về tội mua bán người là một trong những tiến bộ rất lớn trong pháp luật phong kiến Việt Nam. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ tình hình đó nên diễn biến tội phạm xảy ra phức tạp, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện như là một kết quả tất yếu, một trong số đó là tội bắt cắp trẻ em bán cho đồng bào miền núi. Theo báo cáo tổng kết công tác và các chuyên đề xét xử năm 1964 của Tòa án nhân dân tối cao đã xác định đây là một loại tội phạm nghiêm trọng nên xử phạt thật nặng, khung hình phạt áp dụng cho kẻ có hành vi bắt
  • 29. 29 cắp là từ 3 năm đến 15 năm, người mua trẻ con mà biết rõ đứa bé đó bị đánh cắp thì bị phạt tù tới 5 năm, đồng thời cũng xác định thêm các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hơn đối với loại tội phạm bắt cắp trẻ con này. Năm 1975, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do nước nhà vừa mới thống nhất nên tình hình tội phạm diễn biến rất phức tạp, nhiều loại tội phạm mới phát sinh nhưng chưa được pháp luật điều chỉnh. Trước yêu cầu bảo vệ Tổ quốc và đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngày 27 tháng 6 năm 1985, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 9 khóa VII đã thông qua Bộ luật hình sự đầu tiên của Việt Nam. Bộ luật hình sự năm 1985 được xem là một bảo đảm cho đấu tranh chống tội phạm được tiến hành trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư pháp hình sự nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội và các quyền lợi hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định về tội mua bán người mà quy định cụ thể về tội mua bán phụ nữ và mua bán trẻ em, lần đầu tiên tội mua bán phụ nữ và mua bán trẻ em được đưa vào trong luật, và được xếp vào nhóm những tội phạm nghiêm trọng cần phải đấu tranh và phòng chống. Mức phạt tối đa của hai tội này là 20 năm tù giam, khá nghiêm khắc để trừng phạt và răn đe những kẻ đã, đang và sẽ có ý định thực hiện tội phạm này. Điều 115 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội mua bán phụ nữ: 1. Người nào mua bán phụ nữ thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm: a) Có tổ chức; b) Để đưa ra nước ngoài; c) Mua bán nhiều người; d) Tái phạm nguy hiểm [40].
  • 30. 30 Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em: 1. Người nào bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm: a) Có tổ chức hoặc có tính chất chuyên nghiệp; b) Để đưa ra nước ngoài; c) Bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo nhiều trẻ em hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác; d) Tái phạm nguy hiểm [40]. Tội mua bán phụ nữ và tội mua bán trẻ em được quy định tại Điều 115 và Điều 149 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng cả hai điều luật đều không đưa ra định nghĩa cụ thể về các hành vi này. Theo Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 19 tháng 11 năm 1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1985 thì mua bán trẻ em được hiểu là: "Việc mua hoặc bán trẻ em vì mục đích tư lợi, dù là mua của kẻ đã bắt trộm hay mua của chính người có con đem bán. Hành vi mua trẻ em khi biết rõ là đứa trẻ bị bắt trộm cũng bị xử lý về tội mua bán trẻ em" [53]. Ngoài ra, trước yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em, tại Điều 4 Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về, ban hành kèm theo Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29 tháng 01 năm 2007 đã gián tiếp đưa ra định nghĩa về mua bán phụ nữ, trẻ em gọi là nạn nhân. Theo đó nạn nhân được hiểu là: Phụ nữ, trẻ em bị một người hay một nhóm người sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hay những hình thức ép buộc khác, bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị, tình trạng dễ bị
  • 31. 31 tổn thương để mua bán (giao, nhận tiền hoặc giao, nhận một lợi ích vật chất khác) đưa ra nước ngoài nhằm mục đích bóc lột (cưỡng bức bán dâm hoặc các hình thức bóc lột tình dục khác, lao động hoặc dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hoặc làm việc như tình trạng nô lệ hoặc lấy đi các bộ phận trên cơ thể) [19]. Bộ luật hình sự năm 1985 trải qua hai lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989 và năm 1997, đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em. Tuy nhiên, vẫn có một số bất hợp lý như việc sắp xếp hai điều luật này trong Bộ luật hình sự năm 1985. Cả hai tội đều có hành vi khách quan và có cùng khách thể là danh dự và nhân phẩm con người bị xâm hại, nhưng lại được quy định ở hai chương riêng biệt. Tội mua bán phụ nữ được quy định tại Điều 115 thuộc Chương II - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; còn tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em lại được quy định tại Điều 149 nằm trong Chương V - Các tội xâm phạm tới chế độ hôn nhân gia đình và các tội xâm phạm tới người chưa thành niên. Ngoài ra mức phạt tối thiểu của tội mua bán trẻ em còn quá nhẹ, chỉ có 1 năm trong khi loại tội phạm này gây ra những ảnh hưởng mạnh mẽ tới tâm sinh lý của trẻ, tới sự phát triển bình thường về mặt thể chất của trẻ em. Một bất cập nữa là trong quá trình phát triển của xã hội, tội phạm không chỉ dừng lại ở hành vi mua bán phụ nữ, mua bán trẻ em mà còn có cả hành vi mua bán nam giới, với nhiều mục đích khác nhau, cho nên các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự còn thiếu nhiều ở cả hai điều luật. Điều này thể hiện các nhà làm luật lúc bấy giờ, chưa đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này, cũng như chưa lường trước được những thủ đoạn xảo quyệt mà bọn tội phạm mua bán người có thể thực hiện. Phải đến năm 1999 cũng với sự ra đời của Bộ luật hình sự thứ hai của Việt Nam (đã được sửa đổi bổ sung năm 2009) thì những thiếu sót, bất cập của Bộ luật hình sự năm 1985 mới được điều chỉnh lại.
  • 32. 32 1.2.2. Hệ thống pháp luật phi hình sự có liên quan đến phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em Nhận thức được mức độ nguy hiểm của tội mua bán người, mua bán trẻ em và tầm quan trọng của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã hình thành và dần hoàn thiện những quy định liên quan đến tội danh này. Trước hết là những quy định nhằm phòng ngừa một cách có hiệu quả loại tội phạm này, sau đó là hệ thống các chế tài để xử lý hành vi mua bán người, mua bán trẻ em. Trải qua quá trình xây dựng và hoàn thiện, đến nay Việt Nam đã cơ bản có một hệ thống pháp luật đầy đủ liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Về phòng ngừa tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, trong thực tế hành vi mua bán người, mua bán trẻ em có rất nhiều hình thức khác nhau nhằm lừa gạt, dụ dỗ và cưỡng ép các nạn nhân. Để phòng ngừa các hành vi đó, pháp luật Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống các quy định ngăn chặn những nguy cơ có thể dẫn đến mua bán người, mua bán trẻ em như: Thứ nhất, quy định khi kết hôn có yếu tố nước ngoài, pháp luật Việt Nam đã tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật quốc tế. Đồng thời, trong xu thế hội nhập toàn cầu, Việt nam cũng tạo điều kiện và cho phép công dân Việt Nam được kết hôn với người nước ngoài trên cơ sở tôn trọng pháp luật và thuần phong mỹ tục của Việt Nam, kịp thời ngăn chặn và trừng trị những cá nhân, tổ chức lợi dụng việc kết hôn với người nước ngoài để thực hiện hành vi mua bán người nhằm kiếm lời bất chính. Với mục tiêu xây dựng gia đình bền vững, ổn định, giải quyết tốt các mối quan hệ trong hôn nhân có yếu tố nước ngoài, ngay từ năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 12/HĐBT ngày 01 tháng 02 năm 1989 quy định về thủ tục kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và sau khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Chính phủ đã có Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
  • 33. 33 ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Theo đó, người nước ngoài muốn kết hôn với người Việt Nam phải có đầy đủ các điều kiện như: "Mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; người nước ngoài còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn, nếu việc kết hôn được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam" [43, Điều 10]. Điều 21 cũng quy định: "Hoạt động hỗ trợ kết hôn phải tuân thủ nguyên tắc nhân đạo, phi lợi nhuận. Nghiêm cấm hoạt động kinh doanh dịch vụ môi giới kết hôn hoặc lợi dụng việc hỗ trợ kết hôn nhằm mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì các mục đích trục lợi khác" [43]. Để hoàn thiện các văn bản pháp luật, góp phần tích cực vào việc quản lý Nhà nước, định hướng cho quan hệ hôn nhân và gia đình đi theo chiều hướng lành mạnh phù hợp với thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc, ngày 21 tháng 7 năm 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2006/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP, trong đó quy định cụ thể và chi tiết về trình tự, thủ tục kết hôn có yếu tố nước ngoài. Việc đăng ký kết hôn sẽ bị từ chối, nếu qua kết quả phỏng vấn, thẩm tra, xác minh cho thấy việc kết hôn thông qua môi giới bất hợp pháp; kết hôn giả tạo không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; kết hôn không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc; lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác. Thứ hai, về quy định nuôi con nuôi, đặc biệt là nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, pháp luật Việt Nam đã quy định rất rõ ràng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2001) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con
  • 34. 34 nuôi, nhằm mục đích đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ tàn tật làm con nuôi và nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác. Các quy định pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã xuất hiện từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, bắt đầu với những quy định có tính nguyên tắc tại Chương IX của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Các quy định về việc cho và nhận con nuôi đảm bảo việc cho và nhận trẻ em làm con nuôi được thực hiện trên tinh thần nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em, phòng chống việc lợi dụng nuôi con nuôi để buôn bán, bóc lột trẻ em. Đối với vấn đề nuôi con nuôi quốc tế, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006 (sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP) và Thông tư 08/2006/TT-BTP ngày 08 tháng 12 năm 2006 của Bộ Tư pháp là những cơ sở pháp lý quan trọng nhất để giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài. Thứ ba, về các quy định trong việc đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Việt Nam là một trong những nước có dân số trẻ so với nhiều nước trên thế giới, với nguồn lao động dồi dào, người lao động Việt Nam có truyền thống cần cù, chịu khó, thông minh và sáng tạo. Tuy nhiên, do đặc thù của một nước nông nghiệp, lao động Việt Nam hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật so với lao động của các quốc gia khác, hình thức lao động chủ yếu là thủ công bằng chân tay nên hiệu quả lao động và thu nhập rất thấp. Đưa người lao động ra nước ngoài nhằm tạo thêm thu nhập, rèn luyện tác phong lao động, tiếp thu kỹ thuật tiên tiến là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Nước ta đã hợp tác đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài từ năm 1980. Trong thời kỳ từ 1980 - 1990, hợp tác lao động của nước ta chủ
  • 35. 35 yếu thông qua các hiệp định Chính phủ với các nước thuộc Liên Xô (cũ), các nước Đông Âu và một số nước ở Trung Đông. Trong giai đoạn này, hợp tác lao động được thực hiện theo kế hoạch của Nhà nước, do các cơ quan nhà nước tổ chức thực hiện. Từ năm 1991 đến nay, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế thị trường, Nhà nước chủ yếu làm chức năng quản lý, mở thị trường, các doanh nghiệp ký kết hợp đồng và trực tiếp đưa, quản lý người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, việc đưa lao động ra nước ngoài cũng là một cơ hội cho các đối tượng tội phạm mua bán người lợi dụng để đưa người sang quốc gia khác bóc lột sức lao động dưới hình thức xuất khẩu lao động. Thực hiện Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 22 tháng 9 năm 1998 của Bộ Chính trị về xuất khẩu lao động và chuyên gia và chỉ đạo của Chính phủ, từ năm 1999 đến nay, cùng với công tác tìm kiếm thị trường lao động, công tác xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được đẩy mạnh. Hệ thống văn bản pháp lý đã được pháp điển hóa (thành luật) và tính đến thời điểm hiện nay, việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài chịu sự điều chỉnh của các văn bản chủ yếu sau: Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 số 72/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006; Quyết định số 18/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 18 tháng 7 năm 2007 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành chương trình bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài; Quyết định số 19/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 18 tháng 7 năm 2007 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành "Quy định về tổ chức bộ máy hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và bộ máy chuyên trách để bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài"; Nghị định số 126/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người lao
  • 36. 36 động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Nghị định số 144/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 2007 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về người lao động đi làm việc ở nước ngoài đã tương đối hoàn chỉnh, tạo được cơ chế pháp lý rõ ràng để phòng chống việc mua bán người. Thứ tư, về các quy định trong quản lý các hoạt động kinh doanh, dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm. Đây là một vấn đề có tính cấp thiết bởi việc kinh doanh các dịch vụ có thể dẫn đến mua bán phụ nữ và trẻ em trong nội địa. Mại dâm và mua bán người là hai yếu tố cung và cầu nhằm bóc lột tình dục, đặc biệt với phụ nữ và trẻ em chưa thành niên nhằm trục lợi. Bên cạnh đó, việc kinh doanh dịch vụ còn làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn mại dâm, mua bán phụ nữ, mua bán trẻ em gắn với hoạt động quản lý các cơ sở kinh doanh dịch vụ như: Nghị định của Chính phủ số 39/2000/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2000 về cơ sở lưu trú du lịch; Nghị định số 08/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2001 của Chính Phủ quy định về điều kiện an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; Thông tư số 02/2001/TT-BCA ngày 04 tháng 5 năm 2001 của Bộ Công an hướng dẫn thi hành Nghị định số 08/2001/NĐ-CP; Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BLĐTBXH-BYT ngày 09 tháng 12 năm 2004 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Bộ Y tế về hướng dẫn, quy định danh mục chỗ làm việc, công việc không được sử dụng lao động dưới 18 tuổi trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm; Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội 10/2003/PL-UBTVQH ngày 17 tháng 3 năm 2003 phòng, chống mại dâm; Nghị định của Chính phủ số 178/2004/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2004 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm; Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18 tháng 01 năm 2006
  • 37. 37 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng; Quyết định số 52/2006/QĐ-TTg ngày 08 tháng 3 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phối hợp liên ngành phòng, chống tệ nạn mại dâm giai đoạn 2006 - 2010. Với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước về quản lý các hoạt động dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm đã từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý thuận lợi trong công tác phòng chống tệ nạn mại dâm, ngăn ngừa tình trạng mua bán phụ nữ, trẻ em vì mục đích mại dâm. Thứ năm, về đấu tranh chống mua bán người, mua bán trẻ em và các hành vi vi phạm khác có liên quan, bên cạnh các chế tài về hình sự quy định trong Bộ luật hình sự ở các tội danh mua bán người (Điều 119), mua bán trẻ em (Điều 120) và các điều luật liên quan như tội chứa mại dâm (Điều 254), tội môi giới mại dâm (Điều 255), tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256), tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 266), tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 267), tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội (Điều 268), tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 275), tội nhận hối lộ (Điều 279), tội giả mạo trong công tác (Điều 284), tội đưa hối lộ (Điều 289), tội rửa tiền (Điều 251)..., có rất nhiều chế tài nghiêm khắc về hành chính cũng như dân sự để xử lý tội phạm này. Về chế tài hành chính, quy định việc xử phạt hành chính đối với các hành vi có liên quan đến mua bán người, mua bán trẻ em như mại dâm, lao động, cưỡng bức, xuất cảnh, nhập cảnh trái phép, tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài... mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trong Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; Nghị định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ quy
  • 38. 38 định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm; Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội... Các chế tài hành chính đối với hành vi mua bán người, mua bán trẻ em còn được thể hiện ở việc xử lý nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm trong những trường hợp xâm hại đến phụ nữ có thai hoặc trẻ em. Về chế tài dân sự, hệ thống pháp luật của nước ta không có quy định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến hành vi mua bán người, mua bán trẻ em, song nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại Chương V của Bộ luật dân sự và tại Điều 42 Bộ luật hình sự. Bất cứ người nào có hành vi mua bán người, mua bán trẻ em hoặc có các hành vi vi phạm khác có liên quan mà gây thiệt hại cho nạn nhân, thì ngoài việc bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần cho người bị hại. Chính sách bồi thường thiệt hại cho những nạn nhân nói chung, trong đó bao gồm cả những nạn nhân bị mua bán được quy định tại Điều 604 Bộ luật dân sự và theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng hình sự thì việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bị mua bán sẽ được thực hiện đồng thời khi xét xử hình sự đối với kẻ phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em. Về các quy định trong tiếp nhận, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân bị mua bán như: Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg ngày 29 ngày 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về và Thông tư liên tịch số 116/2007/TTLT-BTC-BLĐTBXH ngày 27 tháng 9 năm 2007 của Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn nội dung chi, mức chi cho công tác xác minh, tiếp nhận và hỗ trợ phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về tái hòa nhập cộng đồng theo
  • 39. 39 Quyết định số 17/2007/QĐ-TTg ngày 29 ngày 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ, đã quy định cụ thể về trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan trong việc tiếp nhận cũng như các chính sách hỗ trợ nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng. Về các quy định trong việc nêu cao vai trò của gia đình, cộng đồng, tổ chức chính trị - xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Pháp luật hiện nay đã có các quy định liên quan đến trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc nuôi dạy, giáo dục con cái, giữ gìn an ninh trật tự, cảm hóa và giáo dục các đối tượng có quá khứ phạm tội mua bán người, mua bán trẻ em; quan tâm, giúp đỡ, hỗ trợ các đối tượng có nguy cơ, góp phần phòng ngừa các nguy cơ bị buôn bán, xử lý và tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân. 1.3. KINH NGHIỆM VÀ SỰ HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM Buôn bán người, buôn bán trẻ em là tội phạm vi phạm nhân quyền, chống lại xã hội, xảy ra không chỉ trong phạm vi quốc gia, khu vực mà còn trên toàn cầu. Mức độ và tính chất của tội phạm này ngày càng trở lên nguy hiểm và phức tạp hơn. Việt Nam cũng không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của loại tội phạm này. Tuy nhiên, với những đặc thù riêng của Việt Nam trong bối cảnh áp lực phát triển kinh tế - xã hội, sự mất cân đối trong phát triển, vấn đề di cư, việc làm và hội nhập quốc tế, đường biên giới dài, hiểm trở... làm cho nạn buôn bán người trở lên khó kiểm soát. Những hoạt động buôn người được biết đến chủ yếu là với phụ nữ trẻ và trẻ em gái được đưa sang Campuchia, Malaisia làm nghề mại dâm, hoặc sang Trung Quốc để làm vợ rồi bị ngược đãi trong hôn nhân, bị bắt buộc hành nghề mại dâm hoặc bị bóc lột lao động. Những lĩnh vực có nhiều khả năng liên quan và cần được quan tâm hơn nữa nhằm phòng, chống nạn buôn bán người là hoạt động hôn nhân sắp đặt giữa
  • 40. 40 phụ nữ Việt Nam và nam giới Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan; lĩnh vực xuất khẩu lao động đi Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Nhật Bản, Malaisia, ít nhiều ở Trung Đông và hoạt động đưa người từ Việt Nam sang một số nước Đông Âu và Tây Âu. Với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ có chung đường biên giới, tệ nạn mua bán người, mua bán trẻ em cũng là một loại tội phạm nổi cộm nhiều năm qua. Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em, Việt Nam đã ký kết và gia nhập Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, và tham gia ký kết nhiều hiệp ước quốc tế với các nước láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia, Lào... và nhất là tham gia chống tội phạm xuyên quốc gia trong khối ASEAN. Các quốc gia trong khối ASEAN, trong đó có Việt Nam là thành viên đã ra Tuyên bố về chống tội phạm xuyên quốc gia vào năm 1997 và Tuyên bố về chống tội phạm buôn người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2004. Bản tuyên bố đã ghi nhận những nỗ lực vượt bậc trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm buôn bán người trong đó có phụ nữ và trẻ em bằng việc một lần nữa đề ra được những hành động cụ thể để trấn áp loại tội phạm này, đó là: thiết lập một mạng lưới tập trung cấp khu vực để ngăn ngừa và đấu tranh chống tội phạm buôn người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; thực hiện các biện pháp để ngăn ngừa gian lận trong việc sử dụng hộ chiếu, các giấy tờ, tài liệu đi lại chính thức, tài liệu nhận dạng và các tài liệu khác; tiến hành trao đổi quan điểm và thông tin thường xuyên về các xu hướng, luồng, mô hình di trú liên quan; củng cố kiểm soát biên giới và các cơ chế giám sát; ban hành và thực hiện các quy định pháp luật cần thiết và khả thi; tăng cường hợp tác giữa các cơ quan di trú và các cơ quan bảo vệ pháp luật; phân biệt rõ giữa các nạn
  • 41. 41 nhân và thủ phạm buôn người; đảm bảo rằng các nạn nhân được đối xử nhân đạo và được cung cấp hỗ trợ y tế cần thiết và các hỗ trợ khác bao gồm cả việc bố trí hồi hương; thực hiện các hoạt động tôn trọng và bảo đảm về các quyền con người và nhân phẩm của nạn nhân của nạn buôn người; áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với những đối tượng tham gia buôn người và cung cấp các trợ giúp rộng rãi nhất có thể để trừng phạt các hành vi này; thực hiện các giải pháp củng cố hợp tác khu vực và quốc tế nhằm ngăn chặn và đấu tranh chống buôn người [1]. Không chỉ cam kết và thông qua các tuyên bố chung, trong đấu tranh phòng chống buôn bán người, buôn bán trẻ em, ASEAN đã có rất nhiều sáng kiến hay và hiệu quả nhằm thúc đẩy hợp tác, đảm bảo an ninh quốc gia và khu vực: lãnh đạo Cơ quan cảnh sát của các nước thành viên thường xuyên có những phiên họp định kỳ (gọi tắt là ASEANPOL) nhằm trao đổi thông tin thường xuyên về tình hình tội phạm; ASEAN đã tiến hành các nghiên cứu cấp quốc gia về tội phạm buôn người dưới góc độ tư pháp hình sự, trên cơ sở đó từng quốc gia đã cụ thể hóa thành các chính sách quốc gia về chống buôn bán người; một số quốc gia còn có kế hoạch hành động quốc gia về chống buôn bán người, thành lập cơ quan chuyên trách về phòng chống buôn bán người; với các nước láng giềng, ASEAN có các thỏa thuận ghi nhớ (MOUS) để chính thức hợp tác với các nước xung quanh trong lĩnh vực chống buôn bán người; Hiệp định của các nước ASEAN về tương trợ tư pháp các vấn đề hình sự năm 2004 cho phép trao đổi chứng cứ của các nghi phạm nhằm nhanh chóng truy tố tội phạm mua bán người; việc dẫn độ tội phạm cũng được nhiều nước ASEAN ký thỏa thuận và cam kết thực thi. Đặc biệt, sáng kiến phối hợp cấp Bộ trưởng của các nước trong tiểu vùng sông Mêkông chống buôn người (gọi tắt là COMMIT) đã thể hiện một bước tiến trong hợp tác giữa các quốc gia tiểu vùng sông Mêkông và nâng cao hiệu quả đối phó với nạn buôn bán người, buôn bán trẻ em.
  • 42. 42 Ngoài ra, sự hợp tác của Cơ quan an ninh với các quốc gia khác trên thế giới để phòng chống tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em ngày càng được hoàn thiện và có sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ. Hiện nay dòng chảy của nạn mua bán người, mua bán trẻ em ở Việt Nam theo ba hướng là biên giới Tây nam qua Campuchia, khu vực miền Trung qua Lào và con đường chủ yếu nhất là qua Trung Quốc (60% tổng số vụ mua bán người là qua Trung Quốc), do địa hình nước ta có đường biên giới dài tiếp giáp với Trung Quốc. Tuy vậy, trong Bộ luật hình sự Trung Hoa năm 1997 lại không có một điều luật riêng biệt nào dành cho tội phạm buôn bán người, hành vi mua bán người chỉ được đề cập như là tình tiết tăng nặng của một số tội danh. Đây là một điểm bất cập lớn của pháp luật Trung Hoa trong việc phòng ngừa và trấn áp loại tội phạm mua bán người này và cũng là một khó khăn cho việc hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người qua biên giới Việt - Trung. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Như vậy, trên phương diện luật pháp quốc tế, sự ra đời của Nghị định thư Palermo về đấu tranh chống tội phạm buôn bán người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em được Liên hợp quốc thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2000 và có hiệu lực từ ngày 25 tháng 12 năm 2003 là một bước phát triển về mặt lý luận, cung cấp khái niệm mang tính chuẩn mực làm cơ sở cho các quốc gia đưa ra quy định pháp luật riêng phù hợp với điều kiện của nước mình. Theo đó, khách thể của tội phạm buôn bán người, buôn bán trẻ em là Con người (cả nam và nữ) bị coi là hàng hóa để mua bán, trao đổi kiếm lời. Tội phạm buôn bán người, buôn bán trẻ em xâm phạm quyền bất khả xâm phạm thân thể, nhân phẩm, danh dự, quyền tự do của con người. Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để trao đổi, buôn bán người, buôn bán trẻ em như một thứ hàng hóa. Hậu quả của hành vi buôn bán người, buôn bán trẻ em là con người bị đem ra mua bán, trao đổi như
  • 43. 43 hàng hóa, danh dự nhân phẩm bị chà đạp, bị cưỡng bức lao động, bị bóc lột tình dục. Đối với pháp luật Việt Nam, mua bán người, mua bán trẻ em chỉ bao gồm hai loại hành vi mua và bán, tức là việc dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để đổi lấy người, không bao gồm các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người (là những hành vi khác bên cạnh hành vi mua bán xảy ra trong toàn bộ quá trình mua bán người, mua bán trẻ em). Pháp luật Việt Nam coi hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp (che giấu) và nhận người là các hành vi giúp sức và tạo điều kiện cho việc mua bán người, mua bán trẻ em và trên thực tế, những người thực hiện các hành vi nêu trên sẽ bị trừng trị theo các quy định pháp luật tương ứng. Về phương thức, thủ đoạn mua bán người, mua bán trẻ em, pháp luật Việt Nam không quy định phương thức bọn tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, hay nói cách khác là động cơ, mục đích, thủ đoạn không phải là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Điều này có nghĩa là chỉ cần có hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để đổi lấy người hoặc lấy trẻ em là sẽ cấu thành tội mua bán người, mua bán trẻ em, kể cả trong trường hợp nạn nhân hoàn toàn đồng ý với việc mua bán (mặc dù điều này trong thực tiễn hầu như không xảy ra, nạn nhân chỉ có thể đồng ý ban đầu do nhận thức sai về việc mình bị mua bán chứ nếu biết hoàn cảnh thật thì họ không bao giờ đồng ý). Về mục đích mua bán người, mua bán trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam, khi xác định đối tượng có hành vi mua bán người, mua bán trẻ em thì chỉ cần xác định là hành vi chuyển giao người hoặc trẻ em từ một người/nhóm người này sang một người/nhóm người khác để đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất. Về đối tượng bị buôn bán, đối tượng bị buôn bán/ mua bán theo quy định của Nghị định thư về chống buôn bán người, buôn bán trẻ em và pháp
  • 44. 44 luật Việt Nam bao gồm cả nam giới, phụ nữ và trẻ em. Theo quy định của pháp luật quốc tế, trẻ em là người dưới 18 tuổi và theo quy định của pháp luật Việt Nam trẻ em là người dưới 16 tuổi. Với những quy định rõ ràng của pháp luật Việt Nam, trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài đã xây dựng nên hệ thống pháp luật về phòng chống mua bán người và mua bán trẻ em. Với những quy định đã được sửa đổi, bổ sung trên cơ sở cập nhật các quy định của quốc tế, Việt Nam hoàn toàn có đủ những căn cứ cần thiết để đấu tranh quyết liệt với tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em. Như vậy, từ những nhận thức về công tác phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em ở pháp luật quốc tế và các quốc gia trong ASEAN, chúng ta đã có những kinh nghiệm, bài học nhất định giúp xây dựng pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đảm bảo yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em trong tình hình mới.