SlideShare a Scribd company logo
1 of 90
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HOÀNG VŨ
TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA,
TỈNH LONG AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HOÀNG VŨ
TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA,
TỈNH LONG AN
Chuyên Ngành: Luật Kinh Tế
Mã Số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kì công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoàng Vũ
LỜI CẢM ƠN
Qua hai năm được học tập và rèn luyện tại Học viện Khoa học xã hội, tôi đã
nhận được sự dạy dỗ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô giáo. Các thầy cô đã truyền
đạt cho tôi những kiến thức chuyên môn giúp tôi vững vàng, tự tin trong công việc.
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Trong quá trình thực hiện đềtài luận văn này, tôi đã nhận được sự chỉ bảo,
giúp đỡ tận tình của PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, các thầy cô trong khoa Luật- Học
viện Khoa học xã hội. Nhân dịp này cho tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Phạm Hữu Nghị về những ý kiến đóng góp quý báu của thầy.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo, cán bộ Trung tâm phát triển quỹ đất
huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình
tôi thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng lĩnh vực nghiên cứu có tính chất phức tạp
cao, kết quả nghiên cứu không tránh được những thiếu sót, tôi mong được sự góp ý
của các Thầy, Cô và các bạn để Luận văn này được hoàn thiện hơn, được sử dụng
trong thực tế để đóng góp cho công tác xây dựng chính sách đền bù, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất tại địa phương.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoàng Vũ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI ĐỊNH CƢ VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT.........................................7
1.1. Lý luận chung về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất...................................7
1.2. Lý luận pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất............................16
1.3. Các yếu tố tác động đến tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ......................22
1.4. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất..............................................................................................................24
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TẠI
HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN ................................................................33
2.1. Thực trạng pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.......................33
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại
huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ..............................................................................44
2.3. Đánh giá về công tác tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện
Đức Hòa, tỉnh Long An.........................................................................................55
Chƣơng 3: YÊU CẦU, ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ
NƢỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG
AN.............................................................................................................................62
3.1. Yêu cầu, định hướng bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An62
3.2. Giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An..................68
KẾT LUẬN..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................81
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCN Cụm công nghiệp
GPMB Giải phóng mặt bằng
KCN Khu công nghiệp
SDĐ Sử dụng đất
TĐC Tái định cư
THĐ Thu hồi đất
UBND Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thì việc thu hồi đất
để chuyển một phần quỹ đất ở, đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích khác là
việc làm không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, sự việc này tác động rất lớn đến người bị
thu hồi đất. Mặc dù Nhà nước chỉ thu hồi đất nhưng các thiệt hại không chỉ là thửa
đất mà còn là nhà ở, vật kiến trúc, cây trồng mà quan trọng hơn cả là các mối quan
hệ kinh tế- xã hội có thể bị phá vỡ. Đây là những ảnh hưởng không nhỏ làm thay
đổi cả tập quán sống, thói quen sinh hoạt, làm việc, học tập của người có đất bị thu
hồi và tác động trực tiếp đến các mối quan hệ xã hội, cá nhân, gia đình, cộng đồng.
Nhận thức sâu sắc các hậu quả do việc thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất,
Nhà nước thông qua pháp luật đất đai đã có những quy định về việc giải quyết công
ăn, việc làm cho người bị mất đất sản xuất; giải quyết vấn đề tái định cư cho người
bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở. Thực tế áp dụng các quy định này cho thấy đây
là vấn đề nhạy cảm, khó khăn, phức tạp và thường phát sinh tranh chấp, khiếu kiện
gay gắt, kéo dài.
Xuất phát từ tầm ảnh hưởng của vấn đề tái định cư đối với người bị thu hồi
đất, trong những năm qua chính sách pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
luôn được Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế, chính sách về tái định cư
cũng như quá trình thực hiện pháp luật về tái định cư cho người dân khi Nhà nước
thu hồi đất ở cũng còn nhiều bất cập, vướng mắc. Trong nhiều dự án THĐ, người
dân bị rơi vào cảnh bị chủ đầu tư "đem con bỏ chợ", nghĩa là khi đất ở, nhà ở đã bị
thu hồi nhưng vẫn chưa được TĐC,công tác tái định cư cũng chưa được chuẩn bị
chu đáo, thiếu các điều kiện đảm bảo cho người dân có điều kiện sinh hoạt bình
thường tại nơi ở mới, nhiều dự án người dân được cơ quan có thẩm quyền hoặc chủ
đầu tư bố trí nơi ở tạm thiếu những điều kiện sống tối thiểu như điện, nước sạch,
trường học, bệnh viện… Tình trạng trên có thểbị kéo dài nhiều năm, thậm chí kéo
dài hàng chục năm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích, đời sống của người dân và
2
gây nên những bất bình, bức xúc, thậm chí mất lòng tin của người dân đối với chính
quyền. Nhiều dự án người dân không đồng thuận, chống đối ngay từ giai đoạn đầu
làm cho cơ quan có thẩm quyền và chủ đầu tư không thể GPMB để thực hiện dự án,
tác động xấu đến môi trường đầu tư của nước ta.
Huyện Đức Hòa nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh Long An, trong
những năm gần đây đã có nhiều thay đổi, nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng, khu công nghiệp, khu đô thị, thương mai, dịch vụ, đường giao thông đã và
đang được triển khai thực hiện nên việc thu hồi đất để thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế- xã hội là tất yếu khách quan. Chính bởi lẽ đó, công tác bồi thường
GPMB nói chung, cũng như công tác TĐC nói riêng luôn là điểm nóng và là một
trong những công tác luôn được sự chỉ đạo trọng tâm của các cấp chính quyền. Việc
nghiên cứu các qui định pháp luật về tái định cư khi nhà nước THĐ là vô cùng thiết
thực nhằm góp phần tìm ra giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót trên và
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nói riêng và các địa phương khác trong
cả nước nói chung. Với ý nghĩa đó, tôi lựa chọn đề tài “Tái định cƣ khi Nhà nƣớc
thu hồi đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đến đề tài
Trong thời gian qua, đã có khá nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu
liên quan trực tiếp đến bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Tiêu biểu
có các công trình nghiên cứu như: Nông Đức Mạnh (2003), đổi mới chính sách đất
đai bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất, bài phát
biểu tại phiên bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ 7 khóa XI, Báo Tiền Phong; Nguyễn Vĩnh Diện (2006), Pháp luật về
bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Dung (2009), Chính sách đền bù khi Nhà nước
thu hồi đất của một số nước trong khu vực và Việt Nam, Thông tin pháp luật Dân
sự, ngày 11/9/2009; Lê Hoàng Dương (2009), Các vấn đề pháp lý về tái định cư khi
3
Nhà nước thu hồi đất thực hiện các dự án đầu tư, khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại
học Luật Hà Nội. Trần Quang Huy (2010), Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất, Tạp chí Luật học (12), tr.14-20; Trần Quang Huy (2010), Pháp luật về đất đai
Việt Nam hiện hành nhìn từ góc độ bảo đảm quyền của người sử dụng đất, Tạp chí
Luật học (8), tr.37-45; Nguyễn Thị Nga (2010), Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi
đất, bồi thường giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình
áp dụng, Tạp chí Luật học (11), tr27-36; Minh Nghĩa (2011), Nhà tái định cư: nơi
thừa, nơi thiếu, Báo điện tử Đô thị, ngày 11/11/2011; Vũ Như (2012), Đẩy nhanh
tiến độ đầu tư xây dựng nhà TĐC, Báo điện tử Tienphong.vn; Nguyễn Linh (2011),
Thúc đẩy thực hiện hiệu quả Nghị định 69/2009/NĐ-CP về đất đai, Báo điện tử
Chính phủ ngày 09/02/2011; Trần Đình Dũng (2012), Mua căn hộ ế làm nhà tái
định cư ở Thành Phố Hồ Chí Minh, Báo điện tử thông tin bất động sản, nhà đất; Hải
Minh (2012), Nhà tái định cư ở Hà Nội xuống cấp trầm trọng trong 5-7 năm tới,
Báo điện tử Việt Báo, ngày 16/2/2012; Sài Gòn giải phóng (2011), Thành Phố Hồ
Chí Minh- Chương trình nhà ở tái định cư: Mua bán suất tái định cư, bao giờ mới
chấm dứt, Báo điện tử Baomoi.com; Sài Gòn giải phóng (2012), Chương trình nhà
ở TĐC Thành Phố Hồ Chí Minh- nhiều tín hiệu vui; Phạm Thu Thủy (2014), Pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, Luận án tiến
sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu, các bài viết đã phản ánh đa dạng và
sâu sắc ở nhiều khía cạnh khác nhau về bồi thường khi Nhà nước THĐ nói chung
và TĐC khi Nhà nước THĐ nói riêng. Thành quả của những công trình nghiên cứu
đó đã cung cấp những luận cứ khoa học, thực tiễn cho việc xây dựng, triển khai
công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tiếp thu các
quan điểm, các nhận định về bồi thường, TĐC khi Nhà nước THĐ của các nhà khoa
học đi trước, Luận văn tập trung nghiên cứu sâu hơn về thực trạng pháp luật qua
thực tiễn triển khai thi hành trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An để làm sâu
sắc hơn vấn đề nghiên cứu.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về TĐC khi
Nhà nước THĐ, đối chiếu giữa thực tế của hoạt động TĐC và các quy phạm pháp
luật hiện hành chỉ ra được những vướng mắc, bất cập, hạn chế, yếu kém trong công
tác thực hiện tái định cư. Qua đó, đề xuất những giải pháp tháo gỡ vướng mắc, bất
cập, khắc phục hạn chế, yếu kém nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về TĐC và pháp luật về TĐC khi nhà nước
thu hồi đất.
- Nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật về tái định cư từ thực tiễn thi hành
trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh
Long An.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thực
hiện pháp luật về TĐC khi Nhà nước THĐ trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long
An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn thạc sĩ luật học đề tài tập
trung nghiên cứu các hệ thống pháp luật thực định, các nguyên tắc pháp lý cũng như
các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành trong lĩnh vực tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất.
Luận văn tiếp cận và phân tích, bình luận các quy định về tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất được ban hành từ năm 2003 đến nay. Qua việc nghiên cứu
những quy định của pháp luật, tác giả mong muốn làm rõ, cụ thể hóa các vấn đề liên
quan đến tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để rút ra những kết quả đạt được
5
trong công tác thực thi pháp luật về tái định cư và những khó khăn, hạn chế về tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đồng
thời, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa trong công tác tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và xu thế hội nhập quốc tế của Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thu thập số liệu; Phương pháp
thống kê; phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích, đánh giá; phương pháp hệ
thống; phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp so sánh… để đảm bảo cho những
lập luận đưa ra có tính chặt chẽ và lôgic.
Số liệu được thu thập từ các phòng, ban, ngành trên địa bàn huyện, các
nguồn tài liệu từ sách báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan
đến quá trình đô thị hóa, sự biến động đất đai và vấn đề đời sống người dân. Trên
cơ sở các số liệu thu thập được, tiến hành thống kê, phân loại theo các nhóm, nhập
dữ liệu và xử lý số liệu để từ đó mô tả, phân tích và dự báo, đánh giá cho các kết
quả nghiên cứu, đáp ứng cho mục tiêu nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Bằng kết quả nghiên cứu, kết hợp những kinh nghiệm rút ra được qua thực tế
công tác, những kiến thức được trang bị trong qua trình học chương trình Cao học
Luật Kinh tế, tác giả tập trung phân tích, nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân sâu
xa của những hạn chế, yếu kém trong công tác bồi thường, tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất. Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Do đó, hy vọng đề tài là một tài liệu có giá
trị tham khảo, ứng dụng trên thực tế đối với hoạt động bồi thường, tái định cư khi
thực hiện thu hồi đất, nhất là những nơi có nhiều dự án đầu tư đang được triển khai.
6
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về tái định cư và pháp luật về tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất;
- Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An;
- Chương 3:Yêu cầu, định hướng, giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Đức
Hòa, tỉnh Long An.
7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI ĐỊNH CƢ VÀ PHÁP
LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Lý luận chung về tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.1.1. Tái định cư: Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa
1.1.1.1. Khái niệm tái định cư
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là điều kiện tồn tại
và phát triển của mỗi con người và các sinh vật trên đất. Đất đai là nguồn của cải, là
nguồn lực, một kho vốn, một tài sản cố định hoặc đầu tư cố định. Đất đai có thể
hiểu như là sự bảo hiểm cho cuộc sống, bảo hiểm về tài chính như là sự chuyển
nhượng của cải qua các thế hệ và nguồn lực cho các mục đích tiêu dùng.
Khái niệm thu hồi đất: Thu hồi đất là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến
trong các văn bản pháp luật đất đai. Nếu như giao đất, cho thuê đất là cơ sở để làm
phát sinh quan hệ pháp luật đất đai, phát sinh quyền sử dụng đất của người được
Nhà nước trao quyền sử dụng; thì thu hồi đất là một biện pháp làm chấm dứt quan
hệ pháp luật đất đai bằng một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Thông qua những hoạt động này, Nhà nước thể hiện rất rõ quyền định đoạt
đất đai, với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai. Theo Từ điển tiếng Việt
thông dụng: “Thu hồi: Lấy lại cái đã đưa ra, đã cấp phát ra hoặc bị người khác lấy”
[18, tr 759]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi đất được hiểu là:
“Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm
quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho
chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi
đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng” [32, tr186]. Định nghĩa này cho thấy, các
nhà khoa học mới chỉ đề cập các trường hợp thu hồi đất mà chưa làm rõ nội hàm
của khái niệm THĐ là gì. Mặt khác, sự liệt kê nêu trên cũng chưa bao quát hết các
trường hợp THĐ của Nhà nước. Nhà nước không chỉ THĐ của người có hành vi vi
phạm về sử dụng đất hay THĐ để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
8
ích quốc gia, lợi ích công cộng, mà còn thu hồi đất do các lợi ích kinh tế xã hội khác
hoặc những trường hợp chấm dứt theo quy định của pháp luật. Khi Luật Đất đai
năm 2003 ra đời, khái niệm THĐ đã được giải thích tại Khoản 5 Điều 4: “Thu hồi
đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu
lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thịtrấn quản lý theo quy
định của Luật này”.
Dù đã có sự điều chỉnh và mở rộng nội hàm của vấn đề thu hồi đất, song
cách giải thích này là chưa thật sự chính xác, bởi nó dẫn đến cách hiểu, người sử
dụng đất bị thu hồi chỉ là tổ chức hay Ủy ban nhân dân xã, phường thị trấn, trong
khi theo quy định pháp luật, người sử dụng đất bị thu hồi còn có thể là hộ gia đình,
cá nhân sử dụng đất, không những thế đây còn là chủ thể phổ biến bị thu hồi đất.
Trong quá trình xây dựng Luật Đất đai năm 2013, đã có khá nhiều các quan điểm, ý
kiến bàn luận về khái niệm pháp lí này. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các ý kiến,
các quan điểm của các nhà khoa học, Luật Đất đai năm 2013 đã được Quốc hội
thông qua ngày 29/11/2013, có hiệu lực ngày 01/07/2014, tại Khoản 11 Điều 4 Luật
đất đai năm 2013 đã quy định: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định
thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc
thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”.
Khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất:
Trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay ở Việt Nam,
TĐC cho người dân bị mất đất ở là một vấn đề rất bức thiết, được dư luận quan tâm.
Bởi vậy, thuật ngữ “TĐC” được nhắc đến nhiều trên các phương tiện thông tin đại
chúng cũng như trong cuộc sống của người dân. Nó cũng là một thuật ngữ pháp lý
được đề cập nhiều trong các văn bản pháp luật, đặc biệt là văn bản pháp luật về đất
đai. Từ điển Luật học- cuốn sách giải thích trên khía cạnh pháp lý về các thuật ngữ
pháp lý thông dụng không đưa ra định nghĩa về tái định cư. Còn trong Đại từ điển
Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên cũng không giải thích thuật ngữ về “TĐC”.
Tuy nhiên tác giả lại chỉ rõ: “tái: hai lần hoặc lần thứ hai; lại một lần nữa” [18,
tr.1485]; “định cư: ở lại một nơi nhất định để sinh sống và làm ăn, phân biệt với du
9
cư” [18, tr.641]. Như vậy, có thể hiểu TĐC là việc một lần nữa chuyển đến một nơi
nhất định để sinh sống và làm ăn ổn định. Tái định cư là một thuật ngữ được sử
dụng khá phổ biến trong các văn bản quy phạm pháp luật. Xong các quy định mới
chỉ dừng lại ở việc nêu ra các hình thức TĐC mà chưa chỉ rõ nội hàm của tái định
cư. Cụ thể, trước đây, Điều 4 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của
Chính phủ về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy
định: “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Nghị định này
mà phải di chuyển chỗ ở thì được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau: 1.
Bồi thường bằng nhà ở; 2. Bồi thường bằng đất ở; 3. Bồi thường bằng tiền để tự lo
chỗ ở mới”. Đến Luật đất đai năm 2013, tại điểm c Khoản 2 Điều 83 quy định tái
định cư là một trong các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, theo đó “Hỗ trợ tái
định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam
định cư ởnước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở”. Khi nghiên cứu về vấn đề này, có
một số tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về TĐC. Theo tác giả Nguyễn
Quang Tuyến, “TĐC là việc người sử dụng đất được bố trí nơi ở mới bằng một
trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở mới hoặc bồi thường bằng giao đất ở
hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới khi họ bị Nhà nước thu hồi đất ở và
phải di chuyển chỗ ở” [38, tr42-46]. Theo tác giả Trịnh Thị Hằng Nga “TĐC là biện
pháp nhằm ổn định, khôi phục đời sống cho các hộ bị ảnh hưởng bởi dự án, khi mà
đất định cư cũ bị thu hồi hết hoặc thu hồi không hết, mảnh còn lại không đủ điều
kiện để ở lại nơi ở cũ, phải di chuyển đến nơi ở mới” [16, tr.66]. Theo quan điểm
của Ngân hàng thế giới được ghi nhận trong Khung chính sách TĐC thuộc khuôn
khổ Dự án Quản lý thuỷ lợi phục vụ phát triển nông thôn vùng Đồng bằng sông Mê
Kông (MDWRM-RDP), “TĐC là thuật ngữ chung liên quan tới việc thu hồi và bồi
thường cho tổn thất về tài sản khi có di dời, tổn thất đất, nhà ở, tài sản hoặc phương
tiện sinh kế khác” [17, tr.5]. Tuy nhiên, định nghĩa trên đã đưa ra cách hiểu khá
rộng về TĐC, bao gồm cả công tác bồi thường do tổn thất nhà ở, tài sản hoặc
phương tiện sinh kế khác. Theo quan điểm của pháp luật Việt Nam, những công tác
nêu trên thuộc về phạm vi bồi thường về đất và tài sản gắn liền trên đất. Như vậy,
10
quan điểm của Ngân hàng thế giới và của pháp luật Việt Nam về nội hàm khái niệm
“TĐC” có điểm không tương đồng với nhau.
Tóm lại, xem xét khái niệm TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, có thể thấy rõ
TĐC là hậu quả pháp lý của việc thu hồi đất của Nhà nước. Nói cách khác, vấn đề
TĐC chỉ đặt ra khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất
của người sử dụng đất. TĐC chính là một trong các công việc của hậu thu hồi đất.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp cứ có hành vi thu hồi đất là phát sinh
vấn đề TĐC. Để công tác TĐC được tiến hành phải đáp ứng được một số điều kiện
nhất định theo quy định của pháp luật, trong đó điều kiện về thu hồi đất là tiên
quyết, quan trọng nhất.
Từ những cơ sở trên, có thể đưa ra khái niệm về TĐC như sau: TĐC là một
trong các trách nhiệm của Nhà nước bố trí nơi ở mới cho người bị Nhà nước thu hồi
đất và phải di chuyển chỗ ở bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở
mới hoặc bồi thường bằng giao đất ở hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới.
TĐC là hậu quả pháp lý của hành vi thu hồi đất của Nhà nước.
1.1.1.2. Đặc điểm của tái định cư
TĐC là một phương thức bồi thường thiệt hại về tài sản khi Nhà nước THĐ.
Như chúng ta đã biết quyền sử dụng đất nói chung và quyền sử dụng đất ở nói riêng
là tài sản của cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước bảo hộ. Cá nhân công dân, hộ gia
đình có quyền làm ăn, sinh sống trên đất ở hợp pháp của mình. Theo qui định của
pháp luật dân sự khi một chủ thể nào đó gây thiệt hại về tài sản cho chủ thể khác thì
phải bồi thường. Bất luận đó là chủ thể nào. Khi Nhà nước thu hồi đất ở làm cho
người dân không thể tiếp tục làm ăn, sinh sống tại nơi ở cũ trên mảnh đất mà họ có
quyền sử dụng đất hợp pháp, phải di dời đến nơi ở mới gây cho họ nhiều thiệt hại:
Không còn mặt bằng để làm nơi ở. Cùng với mất nơi ở, nhiều trường hợp nhiều tài
sản bị hủy hoại như nhà cửa, vật kiến trúc, cây lâu năm… Do quyền sử dụng đất ở
là tài sản (và là tài sản có giá trịrất lớn) nên khi Nhà nước thu hồi đất ở phải thực
hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người có đất ở bị thu hồi, phải có trách
nhiệm tạo lập nơi ở mới cho người có đất ở bị thu hồi. Trong trường hợp này việc
11
tạo lập nơi ở mới cho người có đất ở bị thu hồi (tái định cư) thực chất là một hình
thức bồi thường thiệt hại về tài sản. Trong mối quan hệ này, bên bị thiệt hại là hộ
gia đình, cá nhân có đất ở bị Nhà nước thu hồi, bên có nghĩa vụ phải bồi thường
thiệt hại là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất (hoặc chủ
đầu tư trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất để giao cho chủ đầu tư thực hiện các
dự án). Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc lập và
thực hiện các dự án mới về nhà ở, đất ở, với điều kiện bằng hoặc tốt hơn nơi cũ cho
người bị THĐ ở phải di chuyển chỗ ở, đồng thời giúp người bị THĐ nhanh chóng
ổn định đời sống và sản xuất.
TĐC không hoàn toàn giống như các hình thức bồi thường thiệt hại về tài sản
khác. Như phân tích ở trên là một phương thức bồi thường thiệt hại về tài sản. Tuy
nhiên, QSDĐ được coi là một tài sản “đặc biệt”, không giống như những tài sản
khác. Theo qui định của pháp luật hiện hành, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nên
người sử dụng đất chỉ có QSDĐ mà không có quyền sở hữu đối với đất đai. Do vậy,
tái định cư không hoàn toàn giống như các hình thức bồi thường thiệt hại về tài sản
khác. Từ góc độ lý luận, trách nhiệm bồi thường của một chủ thể chỉ phát sinh khi
chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại. Việc Nhà nước tiến hành THĐ đã gây
ra những thiệt hại đáng kể cho người dân. Bên cạnh những thiệt hại về vật chất mà
chúng ta có thể nhận thấy được như nhà cửa, cây trồng, vật kiến trúc, công trình xây
dựng…còn có những thiệt hại “vô hình” khác mà người có đất bị thu hồi phải gánh
chịu như vấn đề tâm linh tổ tiên, cuộc sống bị xáo trộn, tập quán sống của người
dân bị thay đổi, xa trường học, chỗ làm việc, mất đi mặt bằng cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh tạo thu nhập, nguồn sống chính của nhiều hộ gia đình, cá
nhân….Tuy nhiên, việc Nhà nước thực hiện THĐ để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, phát triển kinh tế theo qui định của pháp luật
không phải là hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, những thiệt hại phát sinh khi Nhà
nước thu hồi đất ở không phải là hệ quả của hành vi vi phạm pháp luật. Nếu như bồi
thường thiệt hại về tài sản trong những trường hợp khác là hệ quả pháp lý của hành
vi vi phạm pháp luật của một chủ thể khi có hành vi xâm hại gây thiệt hại đối với tài
12
sản của chủ sở hữu tài sản hoặc chủ thể có quyền quản lý đối với tài sản; thì hành vi
thu hồi đất của cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất theo qui định của pháp luật là
hành vi có gây thiệt hại về tài sản đối với người có đất bị thu hồi nhưng không phải
là hành vi trái pháp luật mà là hành vi hợp pháp. Bởi hành vi thu hồi đất là hành vi
thuộc quyền năng của Nhà nước đại diện chủ sở hữu đối với đất đai; thu hồi đất là
một trong những nội dung của quản lý nhà nước về đất đai được thực hiện bởi các
cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, là hành vi được thực hiện trên cơ sở và
phù hợp với quy định của pháp luật.
Quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình thực hiện tái định cư giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất và người dân có đất bị thu hồi không phải
là quan hệ pháp luật dân sự đơn thuần và cũng không phải là quan hệ pháp luật hành
chính đơn thuần mà là quan hệ pháp luật vừa có tính chất hành chính, vừa có tính
chất dân sự. Những thiệt hại phát sinh từ hành vi thu hồi đất ở của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền theo qui định của pháp luật không phải là thiệt hại phát sinh từ
hành vi trái pháp luật nên trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những thiệt
hại do hành vi thu hồi đất gây ra khác với trách nhiệm của các chủ thể có hành vi vi
phạm pháp luật gây thiệt hại và phải bồi thường. Như vậy, trong trường hợp này
việc đền bù thiệt hại không hoàn toàn là đền bù ngang giá mà Nhà nước có thể giới
hạn mức bồi thường, hình thức bồi thường thiệt hại. Mặt khác, việc giải quyết tái
định cư - bồi thường những tổn thất phát sinh khi Nhà nước thu hồi đất ở phụ thuộc
vào chính sách của Nhà nước, đảm bảo lợi ích của các cá nhân, hộ gia đình có đất ở
bị thu hồi, đồng thời phải đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội.
Như vậy, việc giải quyết tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở không phải
hoàn toàn thực hiện trên cơ sở sự thỏa thuận mà còn được thực hiện trên cơ sở
quyền lực Nhà nước. Điều đó dẫn đến trình tự thủ tục giải quyết tái định cư với tư
cách là hình thức bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất ở khác với trình tự,
thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại trong các quan hệ pháp luật dân sự khác.
Thực tế cho thấy, thủ tục thực hiện tái định cư hiện nay chủ yếu là thủ tục có tính
chất hành chính.
13
TĐC có mối quan hệ chặt chẽ với các hình thức bồi thường khác khi Nhà
nước THĐ ở. Bồi thường khi Nhà nước THĐ đóng vai trò trung tâm và có tính chất
quyết định đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị THĐ, Nhà nước có nghĩa vụ
bồi thường ngang giá và sát với giá thị trường cho người sử dụng đất về những thiệt
hại hữu hình và thiệt hại vô hình phát sinh trực tiếp từ hoạt động THĐ. TĐC là việc
Nhà nước bồi thường về đất ở, nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt, đời sống của
người dân và các chi phí di chuyển, ổn định cuộc sống cho người bị THĐ khi phải
di chuyển đến nơi ở mới. Do đó, TĐC là hình thức bồi thường có vai trò quan trọng
nhất khi Nhà nước thu hồi đất ở, cùng với các hình thức bồi thường thiệt hại khác
giúp cho người dân nhanh chóng ổn định cuộc sống, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân khi bị thu hồi đất ở, đồng thời giúp Nhà nước thực hiện có hiệu
quả quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cũng như kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội
của địa phương, của đất nước nói chung.
1.1.1.3. Ý nghĩa của việc tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
- Đối với người dân thuộc đối tượng TĐC: Đối với mỗi người, không chỉ là
người dân Việt Nam mà tất cả con người trên thế giới, nhà ở đóng vai trò vô cùng
quan trọng. Để có được nhà ở, nhiều người đã phải phấn đấu lao động trong suốt cả
cuộc đời. Bởi vậy, việc Nhà nước thu hồi đất ở của người dân, làm cho họ không có
chỗ ở nào khác đồng nghĩa với việc gây ra cho họ những thiệt thòi nhất định. Và dù
ở địa bàn nào thành thị hay nông thôn thì việc phải di chuyển chỗ ở để đưa đến cho
người dân bị thu hồi đất những hệ lụy nhất định trong cuộc sống và công việc. Do
những ảnh hưởng như trên mà Nhà nước trong thời gian qua đã rất chú trọng đến
việc ban hành chính sách TĐC phù hợp để tạo điều kiện tốt nhất cho người dân bị
thu hồi phải di chuyển chỗ ở. Về cơ bản, chính sách TĐC hiện nay ở nước ta đã
quan tâm đến quyền lợi của người được TĐC. Cụ thể là đã xem xét đến phong tục,
tập quán sinh hoạt và nghề nghiệp của những người được TĐC để bố trí TĐC thích
hợp thực hiện theo nguyên tắc nơi ở TĐC phải bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ…Với
đường lối, chính sách như trên, Đảng đã vạch ra đường lối, phương hướng cơ bản
để Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho công tác TĐC được
14
tiến hành trên thực tế. Qua đó, quyền lợi của người được bố trí TĐC được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ.
- Đối với nhà đầu tư: Trong quan hệ thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu
tư, nhà đầu tư tuy không phải là chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi thu hồi đất, cũng
không phải là người có đất bị thu hồi, nhưng họ chính là chủ thể có quyền và lợi ích
liên quan. Trong môi trường kinh doanh, nơi mà thời gian đóng vai trò rất quan
trọng thì việc giải quyết vấn đề bồi thường, hỗ trợ, TĐC giữa Nhà nước và người bị
thu hồi đất có tác động không nhỏ đối với họ. Nếu như công tác bồi thường, hỗ trợ,
TĐC được tiến hành thuận lợi, nhà đầu tư sẽ sớm có mặt bằng để tiến hành dự án
đầu tư. Khi đó, công việc kinh doanh của họ bước đầu được thực hiện thuận lợi, góp
phần giúp họ ổn định sản xuất. Ngược lại, nếu những khâu này không được giải
quyết nhanh chóng, nhiều trường hợp còn có khiếu kiện kéo dài…dẫn đến việc nhà
đầu tư không được bàn giao mặt bằng đúng thời hạn, hoặc bị cản trở trong quá trình
thực hiện dự án làm hoạt động kinh doanh của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bởi
vậy, chính sách về bồi thường thiệt hại nói chung và TĐC nói riêng có ý nghĩa
không nhỏ đối với các nhà đầu tư. Một chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC tốt sẽ
đẩy nhanh tiến độ giải quyết các công việc này. Qua đó, góp phần thúc đẩy hoạt
động kinh doanh của họ được tiến hành theo đúng kế hoạch đề ra.
- Đối với Nhà nước: Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu thống nhất quản lý. Thẩm quyền tiến hành thu hồi đất
thuộc về Nhà nước. Thẩm quyền này một mặt là quyền hạn của Nhà nước trong
việc quản lý quỹ đất để tiến hành các hoạt động của mình, mặt khác cũng là trách
nhiệm nặng nề của Nhà nước khi mà việc thực hiện công tác thu hồi đất trên thực tế
rất khó khăn. Đối với những trường hợp thu hồi đất mà phải thực hiện TĐC thì công
việc càng khó khăn hơn vì chỉ khi việc bố trí TĐC được thu xếp ổn định thì mới có
thể thu hồi đất. Bởi vậy, chính sách TĐC hợp lý sẽ giúp cho công tác thu hồi đất
được thực hiện nhanh chóng hơn, nhờ đó giúp Nhà nước giảm được áp lực trong
công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC. Mặt khác, một chính sách TĐC tốt cũng giúp cho
Nhà nước nhận được sự đồng thuận của người dân trong công tác bồi thường, TĐC.
15
Từ đó góp phần cải thiện mối quan hệ vốn căng thẳng giữa Nhà nước và người dân
trong lĩnh vực đất đai nói chung và bồi thường, hỗ trợ, TĐC nói riêng; tạo điều kiện
để các chính sách được ban hành sau đó được người dân tiếp nhận dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó, chính sách TĐC tốt còn góp phần làm cho môi trường đầu tư
hấp dẫn hơn, thu hút được nguồn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài nhiều
hơn. Qua đó, phát triển kinh tế nước nhà. Chính sách TĐC có ý nghĩa quan trọng
đối với cả Nhà nước, người được TĐC và nhà đầu tư. Nếu chính sách TĐC đề ra
hợp lý, đảm bảo được lợi ích của các chủ thể liên quan thì sẽ góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
1.1.2. Bản chất, lý do của tái định cư
Bản chất của việc tái định cư là nhà nước bố trí đất cho người sử dụng đất
khi nhà nước tiến hành thu hồi đất ở của người sử dụng đất. Tái định cư là biện
pháp nhằm giảm nhẹ các tác động xấu về kinh tế, văn hóa, xã hội đối với một bộ
phận dân cư phải di chuyển nơi ở vì sự phát triển chung của đất nước.
Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế-
xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng là một công việc phức tạp và khó khăn. Tính
phức tạp, khó khăn thể hiện Nhà nước phải xử lý hài hòa mối quan hệ xung đột về
lợi ích kinh tế của cộng đồng xã hội, của chủ đầu tư và của người bị thu hồi đất
trong việc thu hồi đất. Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng ở địa phương nào mà giải
quyết tốt việc xử lý hài hòa mối quan hệ này thì việc thu hồi đất được thực hiện
nhanh chóng, thuận lợi không phát sinh những tranh chấp, khiếu kiện kéo dài và
nhận được sự hưởng ứng, đồng thuận của người dân; hay nói cách khác, việc xử lý
hài hòa mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, cộng đồng, chủ đầu tư và
người bị thu hồi đất chính là thực hiện việc xác lập “Ý Đảng, lòng dân” trong công
tác thu hồi đất. Ngược lại địa phương nào không giải quyết hoặc xử lý tốt mối quan
hệ này thì công tác thu hồi đất, bồi thường, tái định cư thực hiện rất chậm chạp, khó
khăn và phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ gây
mất ổn định. Xét về bản chất, người bị Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh; lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng không do lỗi của họ gây ra.
16
Tuy nhiên hoạt động này lại gây ra những hậu quả làm đảo lộn cuộc sống và sản
xuất của họ. Người bị Nhà nước thu hồi đất trong trường hợp này bị mất chổ ở hoặc
bị mất đất sản xuất rơi vào hoàn cảnh hết sức khó khăn. Do đó việc giải quyết vấn
đề tái định cư cho người bị thu hồi đất ở là việc làm rất cần thiết. Tái định cư không
chỉ giúp người bị thu hồi đất sớm ổn định đời sống, sinh hoạt và sản xuất mà còn
tạo ra sự đồng thuận của cộng đồng xã hội đối với việc thu hồi đất của Nhà nước,
thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta.
1.2. Lý luận pháp luật về tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm pháp luật về tái định cư
“Một nhà nước văn minh có nhiệm vụ tạo ra an toàn mọi mặt cho dân chúng,
trong đó có cả an toàn về pháp lý. Pháp luật phải đảm bảo cho quyền tự do của dân
chúng không bị xâm phạm bởi sự tự do của công quyền” [11, tr.3]. Nhận thức được
vai trò, nhiệm vụ của mình, trong những năm qua, Nhà nước đã có nhiều cố gắng
trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất.
Từ những phân tích lí luận về khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất, có thể đưa ra khái niệm pháp luật về tái định cư khi Nhà nước THĐ như sau:
“Pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là tổng hợp các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, nhằm đảm bảo cho người có đất bị thu
hồi có nhà ở và ổn định cuộc sống trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu
tư và người có đất bị thu hồi".
Pháp luật về TĐC đã tạo ra cơ sở pháp lý thống nhất cho việc thực hiện TĐC
trên thực tế. Thông qua việc quy định và tổ chức thực hiện công tác TĐC, Nhà nước
đã thể hiện rõ sự quan tâm đến những đối tượng phải chịu thiệt thòi do hành vi thu
hồi đất mang lại. Đặc biệt đối với nhóm người phải di chuyển chỗ ở, khi mà “di
chuyển để sinh sống ở một nơi mới, với tập quán mới, cơ sở vật chất mới và điều
kiện sống mới là những vấn đề luôn được người bị nhà nước thu hồi đất phải di
chuyển chỗ ở quan tâm” [10, tr.32] thì việc bố trí TĐC có thể đáp ứng được cơ bản
17
nguyện vọng của người dân là một điều hết sức có ý nghĩa. Khi đó, họ mới có thể
yên tâm với cuộc sống mới, mới có thể lạc nghiệp sau khi được an cư. Pháp luật về
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất có một vài đặc điểm cơ bản như: Chế định
TĐC có mối quan hệ ràng buộc với các chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất “Bồi thường, hỗ trợ, TĐC là ba bộ phận cấu thành chính sách của Nhà nước
nhằm đảm bảo quyền lợi cho các hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất”
[37, tr.6]. Bồi thường, hỗ trợ, TĐC có mối liên hệ mật thiết với nhau. Bởi vậy, quy
định của pháp luật về các vấn đề này tất yếu cũng có những liên hệ chặt chẽ, đặc
biệt đối với TĐC- công tác chỉ tiến hành khi nhà nước thu hồi đất. Nói như vậy để
khẳng định chế định TĐC có mối quan hệ ràng buộc với các chế định bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất.
Pháp luật khi quy định về TĐC nhất thiết phải đề cập vấn đề THĐ. Pháp luật
TĐC là một bộ phận của pháp luật đất đai điều chỉnh các quan hệ liên quan đến thu
hồi đất và việc giải quyết nơi ở cho người bị thu hồi đất (chỉ có người bị thu hồi đất
mới liên quan đến giải quyết đất ở TĐC). Nhưng không có nghĩa pháp luật về TĐC
điều chỉnh tất cả các quan hệ kể trên. Đối với nhóm quan hệ liên quan đến THĐ về
nguyên tắc thuộc phạm vi điều chỉnh của phạm luật về THĐ nói chung. Tuy nhiên,
như đã nói ở trên vấn đề TĐC là hậu quả pháp lý trực tiếp của THĐ, TĐC chỉ phát
sinh khi nhà nước có quyết định THĐ. Bởi vậy, khi quy định về TĐC, nhất thiết
phải đề cập đến vấn đề THĐ.
Pháp luật về TĐC là một bộ phận các chính sách về an sinh xã hội đối với
người bị thu hồi đất không còn nơi ở cần sự trợ giúp từ Nhà nước. TĐC được xác
định là một trong các trách nhiệm của Nhà nước bố trí nơi ở mới cho người dân bị
thu hồi đất và phải di chuyển chỗ ở. Như vậy, TĐC không chỉ là một cơ chế định
pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định, mà ở một khía cạnh khác,
pháp luật về TĐC là một bộ phận các chính sách về an sinh xã hội đối với người bị
thu hồi đất không còn nơi ở cần sự trợ giúp từ Nhà nước và Nhà nước trong trách
nhiệm xã hội của mình phải đáp ứng các nhu cầu chính đáng của họ. Sở dĩ chúng ta
xác định vị trí trên cho pháp luật về TĐC là bởi “chế định này không những bù đắp
18
cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất quyền lợi kinh tế họ mất đi khi thu hồi đất
mà còn giúp đỡ họ trong việc tạo lập cuộc sống mới” [38, tr.6].
Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức tạp và nhạy cảm, có ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Pháp luật về
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các
mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và chủ đầu tư.
Điều này đặt ra yêu cầu cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật về tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất để góp phần làm giảm các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện đông
người, đảm bảo quyền, lợi ích cho người có đất bị thu hồi.
1.2.2. Các nguyên tắc của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất
Khi Nhà nước ra quyết định THĐ sẽ làm phát sinh quan hệ bồi thường, hỗ
trợ, TĐC giữa Nhà nước với người sử dụng đất. Bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi nhà
nước THĐ là vấn đề rất nhạy cảm, dễ phát sinh khiếu kiện vì đụng chạm trực tiếp
đến quyền và lợi ích của người dân. Vì vậy, nhà nước đã đề ra những nguyên tắc
nhất định, bắt buộc các chủ thể liên quan phải tuân thủ:
Người sử dụng đất chỉ được hưởng chính sách TĐC khi có đủ điều kiện luật
định. Người sử dụng đất bị Nhà nước THĐ có đủ điều kiện để được bồi thường theo
quy định của pháp luật thì được bồi thường. Mà TĐC cũng là một hình thức bồi
thường - Bồi thường bằng đất hoặc nhà ở TĐC khi Nhà nước thu hồi đất ở của hộ
gia đình, cá nhân. Bởi vậy, người sử dụng đất chỉ được hưởng chính sách TĐC khi
có đủ điều kiện luật định. Cụ thể, khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ
ở khác, không còn nhà ở nào khác thì Nhà nước phải có trách nhiệm ổn định chỗ ở
cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, đất ở bị thu hồi cũng phải là hợp pháp hoặc
đủ điều kiện để Nhà nước thu hồi đất công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp thì họ
mới là đối tượng để Nhà nước có trách nhiệm lo tái định cư. Tương tự, nhà ở trên
đất cũng phải hợp pháp thì trách nhiệm bồi thường cũng mới được đặt ra. Những
trường hợp khác, tùy theo nguồn gốc, diễn biến, hiện trạng của người có đất và nhà
bị thu hồi thì Nhà nước có những ứng xử khác nhau cho phù hợp.
19
Chính sách TĐC được thực hiện khi Nhà nước THĐ ở hoặc đất ở có nhà ở.
Theo nguyên tắc chung, Nhà nước THĐ nào thì được bồi thường bằng việc giao đất
mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường
bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi tại thời điểm quyết địnhTHĐ. Như
vậy, chỉ khi thu hồi đất ở hoặc đất ở có nhà ở thì Nhà nước mới thực hiện chính
sách TĐC. Theo đó, chính sách TĐC bao gồm: bồi thường bằng đất ở mới - đất tái
định cư; bằng nhà ở TĐC gắn liền với quyền sử dụng đất ở hoặc bồi thường bằng
tiền là một trong những hình thức bồi thường thực hiện theo nguyên tắc nêu trên.
Khi thực hiện Nhà nước cũng tạo điều kiện cho phép các hộ gia đình, cá nhân được
quyền lựa chọn cho phù hợp với mong muốn và sự hợp lý của người có đất ở bị thu
hồi.
Nhà nước tiến hành THĐ ở nói chung và thực hiện chính sách TĐC nói riêng
phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định
của pháp luật. Trước hết, nguyên tắc này đòi hỏi phải đảm bảo dân chủ. Theo đó,
dân phải được biết, được tham gia bàn luận và bày tỏ quan điểm, ý chí và nguyện
vọng của mình về tất cả các khâu, các quy trình của quá trình THĐ, bồi thường, hỗ
trợ, TĐC; đặc biệt là người dân phải được tham gia vào việc đóng góp ý kiến về dự
thảo phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC; được quyền khiếu nại, tố cáo về các quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan có thẩm quyền trong quá trình
thực hiện THĐ và bồi thường, GPMB nếu xét thấy các quyết định đó là trái pháp
luật. Bên cạnh đó, quá trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ, TĐC đòi hỏi phải được
thực hiện khách quan, công bằng và đúng pháp luật. Đây cũng là một nội dung quan
trọng đòi hỏi các cơ quan thực thi pháp luật phải nghiêm minh. Theo đó, các chủ thể
sử dụng đất có vị trí, khả năng sinh lợi như nhau, có nguồn gốc sử dụng đất hợp
pháp thì phải được nhận chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC giống nhau mà
không có bất kỳ một ngoại lệ nào. Thực hiện tốt vấn đề công bằng và khách quan,
đúng pháp luật sẽ tạo được niềm tin của người dân đối với Nhà nước, theo đó người
dân sẽ tự giác tuân theo; mặt khác, là một trong những yếu tố để hạn chế tình trạng
khiếu nại, tố cáo tràn lan, tình trạng kích động và tụ tập để chống đối các cơ quan
20
thực thi công tác bồi thường và GPMB. Công khai, kịp thời trong khi thực hiện
THĐ ở nói chung và chính sách TĐC nói riêng cũng là một yếu tố quan trọng để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có đất bị thu hồi. Theo đó, tất cả các
hoạt động có liên quan đến thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, TĐC phải được công khai
cho người dân biết để dân có cơ hội được tìm hiểu quyền và nghĩa vụ của mình
trước Nhà nước; thông qua đó để họ được chủ động hơn trong việc ổn định cuộc
sống. Mặt khác, minh bạch, công khai cũng là cơ sở để người có đất bị thu hồi kiểm
tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của cán bộ thực thi nhiệm vụ. Đồng thời, triển
khai kịp thời chính sách TĐC sẽ đảm bảo cho người dân nhanh chóng ổn định đời
sống, sản xuất ở nơi ở mới và chủ động hơn trong việc sắp xếp đời sống của mình.
Đặc biệt, kịp thời được áp dụng nghiêm túc trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố
cáo của người dân sẽ có ý nghĩa quan trọng và thiết thực nhằm bảo vệ tốt hơn quyền
và lợi ích của người có đất bị thu hồi. Như vậy, trên cơ sở kế thừa những nguyên tắc
khi thực hiện bồi thường nói chung và TĐC nói riêng trong Luật đất đai năm 2003,
Luật đất đai năm 2013 đã bổ sung nhấn mạnh tính khách quan, dân chủ, công khai
trong nguyên tắc thực hiện. Theo đó, phát huy vai trò vị trí của người dân trong
công tác bồi thường nói chung và thực hiện chính sách TĐC nói riêng. Việc người
dân được tham gia, giám sát, đóng góp ý kiến sẽ nâng cao chất lượng thực thi, là
một cơ chế giám sát đắc lực đối với cán bộ công quyền và cũng sẽ góp phần giảm
khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai.
1.2.3. Nội dung của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Pháp luật về TĐC khi Nhà nước THĐ bao gồm tổng thể các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về TĐC khi Nhà nước THĐ. Lĩnh vực pháp luật
này được hình thành và phát triển qua các giai đoạn khác nhau của đất nước, tương
ứng với mỗi giai đoạn thì mục đích để hướng tới sự điều chỉnh cũng có sự khác
nhau; sự khác nhau này phụ thuộc vào nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội và điều
kiện phát triển kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ. Theo quy định của pháp luật
hiện hành về TĐC khi Nhà nước THĐ bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật cơ
bản sau:
21
Thứ nhất, nhóm quy phạm quy định về nguyên tắc TĐC: nguyên tắc TĐC
khi Nhà nước THĐ được hiểu là những quy định chung mang tính nền tảng, làm
định hướng và tạo cơ sở cho việc thực hiện và áp dụng các quy định chi tiết về TĐC
khi Nhà nước THĐ. Thực hiện tốt các nguyên tắc bồi thường và TĐC sẽ giúp cho
công tác này được thực hiện một cách công bằng, khách quan và minh bạch.
Thứ hai, nhóm quy phạm quy định về điều kiện được hưởng chính sách
TĐC: Đây là nhóm quy phạm khá nhạy cảm và thu hút sự quan tâm đặc biệt của các
cơ quan chức năng thực hiện bồi thường, hỗ trợ, TĐC, đặc biệt là đối với người bị
THĐ. Theo đó, không phải mọi đối tượng khi Nhà nước thu hồi đất ở Nhà nước đều
phải thực hiện trách nhiệm lo nhà ở hoặc đất ở TĐC. Chỉ có những đối tượng được
pháp luật quy định với những điều kiện cụ thể mới được hưởng chính sách này. Nếu
không đủ điều kiện để được hưởng TĐC thì người có đất bị thu hồi sẽ chủ động tự
lo liệu chỗ ở.
Thứ ba, nhóm quy phạm quy định về các hình thức TĐC: Nhóm quy phạm
này đặt ra để các cơ quan, chính quyền địa phương nơi có đất bị thu hồi trên cơ sở
căn cứ vào tình hình quỹ đất thực tế của địa phương, số lượng các hộ gia đình, cá
nhân phải di chuyển chỗ ở do hậu quả của việc THĐ để cơ quan có thẩm quyền xây
dựng các phương thức TĐC bằng nhà ở, đất ở hoặc bồi thường để tự lo chỗ ở cho
phù hợp. Mặt khác, các hình thức TĐC cũng là cơ sở để người có đất bị thu hồi thực
quyền lựa chọn hình thức nào cho phù hợp nhất với khả năng và nhu cầu của mỗi
chủ thể.
Thứ tư, nhóm quy phạm quy định về trình tự, thủ tục TĐC đối với người bị
THĐ. Luật Đất đai quy định những vấn đề tổng quát, mang tính nguyên tắc về trình
tự, thủ tục TĐC khi Nhà nước THĐ. Trên cơ sở đó, các văn bản hướng dẫn thi hành
có những quy định cụ thể về từng bước lập, bổ sung, thẩm định, thực hiện phương
án TĐC, cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc TĐC
khi Nhà nước THĐ.
Thứ năm, nhóm quy phạm quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan
đến TĐC khi Nhà nước THĐ. Người bị THĐ nếu không đồng ý với quyết định về
22
TĐC thì được quyền khiếu nại, tố cáo đến các cơ quan có thẩm quyền. Quy định
này đảm bảo cho việc THĐ đúng mục đích, TĐC đúng đối tượng, đúng giá trị. Giải
quyết một cách nghiêm minh, đúng pháp luật khiếu nại, tố cáo là phương thức phát
huy vai trò của pháp luật và góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Nhà
nước. Đối với công dân, khiếu nại, tố cáo là phương thức bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ.
1.3. Các yếu tố tác động đến tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
TĐC là quan hệ được đặt ra giữa Nhà nước và người có đất bị thu hồi phải di
chuyển chỗ ở. Đây là vấn đề không chỉ ảnh hưởng tới các bên chủ thể liên quan mà
được cả xã hội quan tâm. Chính bởi vấn đề này có tác dụng lớn tới quyền lợi của
nhiều chủ thể, đặc biệt là quyền lợi thiết thân của người có đất bị thu hồi; đồng thời
nó cũng là vấn đề thời sự thu hút được sự quan tâm của dư luận hiện nay nên pháp
luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất bị chi phối bởi các yếu tố.
1.3.1. Yếu tố chính trị:
Quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp
luật đất đai nói chung và chính sách, pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất nói riêng. Xét về phương diện lý luận, pháp luật là sự thể chế hoá,
quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng. Hay nói cách khác, quan điểm, đường
lối, chủ trương của Đảng là sự định hướng về mặt chính trị cho hoạt động lập pháp,
lập quy ở nước ta. Hoạt động xây dựng pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về
bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng không thể “thoát ly” các
quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp
luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước. Ở nước
ta, trong điều kiện một Đảng cầm quyền, một trong những phương thức lãnh đạo
của Đảng là ban hành các quan điểm, đường lối, chủ trương về phát triển đất nước.
Trên cơ sở đó, Nhà nước thể chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng bằng các
quy định của pháp luật để quản lý xã hội. Vì vậy, pháp luật về bồi thường, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất thể chế hoá quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng
về vấn đề này. Như vậy, quan điểm, đường lối của Đảng có tác động trực tiếp đến
23
quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi
thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng.
1.3.2. Yếu tố kinh tế:
Cơ chế quản lý kinh tế cũng có những tác động nhất định đến pháp luật bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Trước đây, trong cơ chế quản
lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, kế hoạch hoá cao độ, đất đai không được
thừa nhận là tài sản và không được phép trao đổi trên thị trường… pháp luật nghiêm
cấm việc mua bán, chuyển nhượng đất đai. Do đó, đất đai có giá trị thấp. Vấn đề thu
hồi đất dường như ít gặp phải những khó khăn, phức tạp. Pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong thời kỳ này chưa phát triển.
Tuy nhiên, kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, Nhà nước chủ trương xây dựng và phát triển nhiều thành phần kinh tế; các
thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật; quyền tự do kinh doanh của công dân
được pháp luật công nhận và bảo hộ… Trong điều kiện kinh tế thị trường cơ chế
quản lý đất đai có sự thay đổi: Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất là loại hàng
hoá đặc biệt (là một loại quyền về tài sản) và được trao đổi trên thị trường; thừa
nhận khung giá đất… đất đai ngày càng trở nên có giá. Việc thu hồi đất gặp nhiều
khó khăn do người bị thu hồi đất không đồng thuận với phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện vượt
cấp, phức tạp, kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị. Để duy trì sự ổn
định tình hình kinh tế - xã hội và phát triển đất nước. Nhà nước ban hành các quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm giải quyết vấn đề này. Đây là vấn đề
mang tính thời sự và phức tạp, vì vậy, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất thường xuyên được rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu
cầu của quản lý đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường.
1.3.3. Yếu tố xã hội:
Pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo ổn định xã
hội. Hoạt động bồi thường, hỗ trợ, TĐC nói chung cũng như hoạt động TĐC nói
riêng là hoạt động khó khăn và gây ra nhiều bức xúc trong dư luận nhiều năm trở lại
24
đây, đặc biệt đối với người dân phải di chuyển chỗ ở những người phải chịu nhiều
thiệt thòi. Nếu như quyền lợi của họ không được quan tâm đúng mức, không được
giải quyết thỏa đáng thì việc họ phản đối, gây cản trở cho quá trình Nhà nước thu
hồi đất là một điều hoàn toàn dễ hiểu, thậm chí họ có thể bị các phần tử xấu lợi
dụng gây mất trật tự an toàn xã hội. Đây là một hệ quả tất yếu bởi lẽ “xã hội sẽ bất
an và rối loạn nếu dân chúng luôn cảm thấy phấp phỏng, lo lắng khi pháp luật và
người thi hành pháp luật vô tình hay hữu ý đem đến cho họ sự rủi ro bất cứ lúc nào”
[11, tr.3]. Bởi vậy, yêu cầu đặt ra đối với công tác TĐC là phải đảm bảo lợi ích tối
đa của người được TĐC, giảm thiểu đến mức thấp nhất mâu thuẫn phát sinh giữa
Nhà nước, nhà đầu tư với người dân trong quá trình thực hiện TĐC. Có như vậy
mới đạt được sự đồng thuận từ phía người dân, qua đó đảm bảo được sự ổn định xã
hội. Ngược lại, hậu quả để lại cho nhà nước và xã hội là không thể lường trước
được.
1.4. Lƣợc sử hình thành và phát triển của pháp luật về tái định cƣ khi
Nhà nƣớc thu hồi đất
1.4.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật Đất đai năm 1993
Trước khi có Hiến pháp năm 1980, Việt Nam cũng giống như các nước khác
trên thế giới đều thừa nhận sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về đất đai,
trong đó có sở hữu Nhà nước đối với đất đai, thuật ngữ bồi thường (hay đền bù) khi
Nhà nước thu hồi đất được đặt ra từ khá sớm. Theo đó, Nghị định số151/TTg ngày
14/01/1959 của Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) “Quy định thể lệ tạm thời
về trưng dụng ruộng đất” tại Chương 2 đã quy định với tiêu đề: “Bồi thường cho
người có ruộng bị trưng dụng”. Do ruộng đất bị trưng dụng thuộc sở hữu tư nhân và
sau khi đã trưng dụng thì thuộc sở hữu Nhà nước, vì vậy Nhà nước có cơ chế bồi
thường theo nguyên tắc: những người có ruộng đất bị trưng dụng được bồi thường
và trong trường hợp cần thiết được giúp giải quyết công ăn việc làm. Có thể thấy,
Nhà nước đã thể hiện rất rõ nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người
có đất bị trưng dụng hoặc thu hồi trong những quy định của pháp luật đất đai ngay
từ thời kỳ đầu của quản lý nhà nước về đất đai.
25
Tuy nhiên, dường như các quy định mới chỉ dừng lại đối với việc bồi thường
ruộng đất. Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1959, một nguyên tắc hết sức cơ bản đã
được ghi nhận là: "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải, thu
nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác" (Điều 18) và
"chỉ khi nào thật cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua hoặc trưng
dụng, trưng thu có bồi thường thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông
thôn trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định" (Điều 20). Sau khi Hiến
pháp năm 1980 ra đời, với sự ghi nhận đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
thống nhất quản lý (điều 19), ở Việt Nam chỉ còn thừa nhận một hình thức sở hữu
duy nhất đối với đất đai, đó là sở hữu toàn dân và Nhà nước sẽ thay mặt cho nhân
dân thực hiện quyền sở hữu đó. Bên cạnh đó, điều 28 Hiến pháp 1980 đã ghi nhận:
Khi thật cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước có thể trưng mua, trưng dụng hoặc
trưng thu có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tập thể”. Đồng thời, trong thời kỳ
này, trước yêu cầu quản lý đất đai một cách toàn diện bằng pháp luật, ngày
29/12/1987 đạo luật đất đai đầu tiên tạo nên những nét chấm phá trong việc ghi
nhận về các khía cạnh quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai đã ra đời. Tại điều 14
của Luật Đất đai năm 1987 đã quy định các trường hợp Nhà nước thu hồi đất, trong
đó có trường hợp “cần sử dụng đất cho nhu cầu của Nhà nước hoặc của xã hội”. Tại
khoản 5, điều 49, Luật đất đai 1987 cũng đã xác định trách nhiệm đền bù của Nhà
nước: “Khi đất đang sử dụng bị thu hồi vì nhu cầu của Nhà nước hoặc xã hội thì
được đền bù thiệt hại thực tế và được giao đất khác”. Ở thời kỳ này, người bị thu
hồi đất không được hưởng khoản tiền đền bù về đất, bởi vì họ được giao đất để sử
dụng chứ không mất tiền, đất ở thời kỳ này chỉ được coi như một thứ phúc lợi xã
hội.
Luật Đất đai 1987 chưa quy định về giá đất, ai có nhu cầu sử dụng đất thì
được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, ai không còn nhu cầu sử dụng thì
Nhà nước thu hồi lại đất, pháp luật không cho phép người sử dụng đất thực hiện các
giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất, mà chỉ được định đoạt các tài sản thuộc sở
hữu của mình trên đất mà thôi. Vì vậy, khoản tiền đền bù thiệt hại về đất phải được
26
chuyển giao cho Nhà nước. Tuy nhiên, các quy định về đền bù thiệt hại đối với đất
hay tài sản được ghi nhận trong pháp luật đất đai rất sơ sài, thiếu các cơ sở pháp lý
cần thiết mang tính nguyên tắc để thực hiện trên thực tế. Như vậy, có thể nói, giai
đoạn này chính sách đất đai còn thể hiện sự bao cấp, quan hệ đất đai được xác lập
bằng phương pháp mệnh lệnh hành chính xin cho, đất đai được coi là không có giá,
chỉ cấp phát để sử dụng chứ không mất tiền. Đất đai không được nhìn nhận dưới
quan hệ giá trị theo quy luật thị trường, chính vì vậy vấn đề bồi thường nói chung
và quy định về tái định cư nói riêng đối với người sử dụng đất chưa được chú trọng
cũng là điều dễ hiểu. Đến Hiến pháp năm 1992, nguyên tắc Nhà nước bảo hộ quyền
lợi hợp pháp về tài sản của công dân đã được khẳng định với nội dung: “Tài sản hợp
pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết
vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng
dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường” (Điều
23). Như vậy, mặc dù không đề cập trực tiếp đến việc bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất song Hiến pháp năm 1992 vẫn ghi nhận và bảo hộ quyền lợi hợp pháp của
công dân đối với tài sản của mình khi bị Nhà nước trưng mua, trưng dụng vì lợi ích
chung thông qua việc bồi thường.
Tóm lại, trong giai đoạn này, những nguyên tắc về bồi thường khi Nhà nước
THĐ đã bước đầu được đề cập, song pháp luật hoàn toàn thiếu vắng những quy
định về tái định cư.
1.4.2. Giai đoạn từ khi có Luật Đất đai năm 1993 đến trước khi ban hành
Luật Đất đai năm 2003
Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, ngày 14/7/1993, Quốc hội khoá
IX đã thông qua Luật Đất đai mới thay thế Luật Đất đai năm 1987 và có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 15/10/1993. Luật Đất đai năm 1993 đã đề cập trực tiếp vấn đề bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất, điều 27 Luật Đất đai 1993 quy định: “Trong
trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì
người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại”, việc bù đắp thiệt hại khi bị thu hồi đất
27
được coi như một quyền năng của người sử dụng đất và được khẳng định tại khoản
6, điều 73 Luật Đất đai 1993: “…được bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi”.
Nhà nước thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp đối với người sử dụng
đất khi có quy định rõ: Trước khi thu hồi phải thông báo cho người đang sử dụng
đất biết về lý do thu hồi, thời gian, kế hoạch di chuyển, phương án đền bù thiệt hại
(điều 28). Tuy nhiên, pháp luật vẫn còn thiếu các quy định về giải quyết vấn đề tái
định cư. Cụ thể hóa các quy định về vấn đề bồi thường trong Luật Đất đai 1993,
ngày 17/8/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/CP “Quy định về việc đền bù
thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng”. Cùng ngày 17/8/1994 Chính phủ ban hành Nghị
định số 87/CP quy định khung giá các loại đất, giá đất này làm căn cứ cho việc tính
tiền đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất; sau đó là Nghị định số17/1998/NĐ-
CP của Chính phủ ngày 21/3/1998 về việc sửa đổi, bổ sung khoản 2, điều 4 của
Nghị định số 87/CP ngày 17/8/1994. Theo tinh thần của Nghị định số 90/CP, hộ gia
đình, cá nhân đang sử dụng đất hợp pháp mà bị Nhà nước thu hồi đất thì được Nhà
nước đền bù thiệt hại về đất và đền bù thiệt hại về tài sản hiện có trên đất. Quy định
này thể hiện rất rõ ràng quan điểm của Nhà nước khi coi quyền sử dụng đất đã giao
cho người sử dụng đất, cũng như tài sản hiện có trên đất là những tài sản hợp pháp
được pháp luật bảo vệ nếu có thiệt hại xảy ra.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai Nghị định này cho thấy khá nhiều bất cập, mà
bất cập lớn nhất là quy định về giá bồi thường quá thấp, nên người bị thu hồi đất
không đồng thuận với phương án bồi thường, phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo
dài. Để khắc phục những hạn chế này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 “Về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất
để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”,
Nghị định này thay thế cho Nghị định số 90/CP. Văn bản này đã thể hiện những
khía cạnh cơ bản sau: Quy định rõ đối tượng phải đền bù thiệt hại là tổ chức, cá
nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng,
an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; quy định rõ các điều kiện để được đền
28
bù thiệt hại; giá đất để tính đền bù thiệt hại được xác định trên cơ sở giá đất của địa
phương ban hành theo quy định của Chính phủ nhân với hệ số K, để đảm bảo giá
đất tính đền bù phù hợp với khả năng sinh lời và giá chuyển nhượng quyền sử dụng
đất của địa phương; người bị thu hồi đất ngoài việc được đền bù còn được hưởng
các chính sách hỗ trợ. Với sự ra đời của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Đất đai năm 2001 ngày 29/6/2001, thuật ngữ “đền bù” khi Nhà nước thu hồi đất đã
được thay thế bằng thuật ngữ “bồi thường” cho phù hợp hơn. Nhìn chung với sự ra
đời của các văn bản pháp luật trên, đã từng bước tạo lập được khung pháp lý quan
trọng, đồng bộ cho việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Theo Báo cáo tổng
kết mười năm (1993-2003) của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì công tác thu hồi
đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng đã đáp ứng hầu hết nhu cầu đầu tư kết cấu hạ
tầng, xây dựng các công trình. Trong đó, theo báo cáo của 37 tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, từ năm 1993 đến năm 2003 đã thực hiện đền bù giải phóng mặt
bằng cho hàng vạn hộ dân tại 11.730 công trình với tổng diện tích 66.350 ha.
Trong quá trình giải phóng mặt bằng, đã giải quyết hàng chục ngàn trường
hợp khiếu nại về bồi thường. Những kết quả khả quan đạt được đã góp phần tạo đà
cho công tác quản lý đất đai dần đi vào nề nếp, tạo điều kiện sử dụng đất đai hợp lý
và hiệu quả hơn, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng, mặc dù đã qua
nhiều lần điều chỉnh với nhiều văn bản pháp luật trong vòng 10 năm nhưng công tác
bồi thường, giải phóng mặt bằng vẫn còn nhiều ách tắc, bất cập. Đặc biệt là quy
định về giá đất làm căn cứ tính bồi thường trong Nghị định 87/CP quá thấp. Trong
khi đó, khoảng thời gian này, Việt Nam chúng ta đã chứng kiến hai lần sốt đất (giai
đoạn 1992-1993 và giai đoạn 2001-2002) làm cho giữa giá đất của Nhà nước quy
định với giá đất trên thị trường vênh nhau một khoảng cách khá lớn. Giá đất trên thị
trường ngày càng tăng so với giá Nhà nước, việc mua bán trao tay diễn ra khá sôi
động, giúp cho người dân kiếm lời dễ dàng, đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc
người dân không chấp thuận các quy định về bồi thường giải phóng mặt bằng, dẫn
29
đến khiếu kiện kéo dài. Mặt khác, trong thời gian này, sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa diễn ra sôi động. Theo đó nhu cầu sử dụng đất cho các khu công
nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, nhu cầu đất cho chỉnh trang phát triển đô
thị,…là rất lớn. Song pháp luật không quy định về vấn đề thu hồi đất cho mục tiêu
phát triển kinh tế, khi có nhu cầu cho mục đích này Nhà nước để cho các chủ đầu tư
tự thỏa thuận với người dân. Điều đó dẫn đến hậu quả là mức bồi thường ở các dự
án khác nhau sẽ khác nhau, cho dù đất có những điều kiện tương đồng như cùng
mục đích sử dụng, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội như nhau, khả năng sinh lời
như nhau. Đây cũng là một trong những nguyên nhân không nhỏ dẫn đến khiếu kiện
về bồi thường, giải phóng mặt bằng. Bên cạnh đó, vấn đề tái định cư đã bước đầu
được đề cập nhưng cũng chưa được quan tâm thỏa đáng trong giai đoạn này, trong
khi đây là vấn đề lớn của công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Có thể thấy,
những quy định về bồi thường, giải phóng mặt bằng ngày càng được định hình rõ
nét và được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Tuy nhiên, trong thực tiễn cuộc sống,
các quan hệ đất đai luôn vận động không ngừng, đặc biệt là trong lĩnh vực thu hồi
đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng khi đất nước chuyển sang thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Chính vì vậy, cần phải có sự nghiên cứu, phân tích, đánh giá vấn
đề này một cách nghiêm túc hơn từ khâu xây dựng pháp luật, đến cơ chế thực thi
pháp luật trong lĩnh vực này, Luật Đất đai năm 2003 đã ra đời trong bối cảnh đó.
1.4.3. Giai đoạn từ khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay
Đặt trong mối quan hệ so sánh với sự phát triển nhanh chóng của tình hình
kinh tế-xã hội của đất nước và xu hướng hội nhập quốc tế, quy định của Luật Đất
đai năm 1993 về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất không còn phù hợp: giá đất
bồi thường còn có một khoảng cách khá xa so với giá chuyển nhượng quyền SDĐ
trên thị trường; các vấn đề về tái định cư cho người bị thu hồi đất phải di chuyển
chỗ ở, giải quyết việc làm, đào tạo chuyển đổi nghề cho nông dân bị thu hồi đất
nông nghiệp… chưa quy định rõ ràng cơ chế thực hiện v.v. Điều này đặt ra yêu cầu
phải sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng. Phúc đáp đòi hỏi của thực tiễn, ngày
30
26/11/2003, Quốc hội Khoá XI, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật Đất đai mới (gọi là
Luật Đất đai năm 2003) thay thế cho Luật Đất đai năm 1993. Luật Đất đai năm
2003 dành hẳn mục 4, chương 2 để quy định về thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất với nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, kèm theo là
khá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, có thể kể tên một số văn bản tiêu biểu sau:
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật
Đất đai; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (sau đây gọi tắt là Nghị định
197) đây là văn bản đề cập trực tiếp và toàn diện những khía cạnh pháp lý về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất, trong đó nhấn mạnh quan điểm giải quyết hài hòa
lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người sử dụng đất và lợi ích của nhà đầu tư, đề cao
nguyên tắc công khai minh bạch trong thu hồi đất; Nghị định số 188/2004/NĐ-CP
ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các
loại đất; Nghị định số17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị
định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần
(gọi tắt là Nghị định 17). Đặc biệt sau khi có sự ra đời của Nghị định 197, một văn
bản quy định khá trọn vẹn các vấn đề về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất; qua một thời gian thực hiện, Nhà nước đã tiếp tục ban hành hai
văn bản quy định khá chi tiết một số vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực bồi
thường, để đáp ứng kịp thời nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, đó là Nghị
định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất,
trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải
quyết khiếu nại về đất đai (sau đây gọi tắt là Nghị định 84); Nghị định số
69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử
dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗt trợ và tái định cư (sau đây gọi tắt là
Nghị định 69). Có thể thấy, các quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư nói chung cũng như những quy định về tái định cư nói riêng khi Nhà nước thu
31
hồi đất đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc sống.
Với sự có mặt của Luật Đất đai năm 2003, sau gần 10 năm thi hành cho thấy, Luật
Đất đai năm 2003 đã đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của
đất nước. Theo đó, các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư từng bước được
điều chỉnh, bổ sung phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế thị trường, đảm bảo tốt hơn
quyền lợi hợp pháp của người bị thu hồi đất. Tuy nhiên, việc thu hồi đất để thực
hiện các dự án vẫn là một trong những vấn đề nổi cộm ở nhiều địa phương, làm
chậm tiến độ triển khai nhiều dự án đầu tư, gây bức xúc cho cả người sử dụng đất,
nhà đầu tư và chính quyền nơi có đất thu hồi. Mà một trong những nguyên nhân dẫn
đến vướng mắc, khiếu kiện và còn nhiều hạn chế đó là về chính sách tái định cư,
chất lượng khu tái định cư… Để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, việc
ban hành Luật Đất đai sửa đổi là hết sức cần thiết, vì vậy ngày 29/11/2013 Luật Đất
đai năm 2013 đã được thông qua, và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014. Đây là
sự kiện quan trọng đánh dấu những đổi mới về chính sách đất đai nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế-xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Luật Đất đai năm 2013 đã có nhiều quy định bổ sung, sửa đổi, đồng thời
cũng đã luật hóa và quy định cụ thể trong luật nhiều nội dung liên quan đến vấn đề
tái định cư. Như vậy, trải qua một quá trình hình thành và phát triển khá lâu dài, gắn
liền với việc Nhà nước ban hành các đạo luật: Luật Đất đai 1987; Luật Đất đai
1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai vào năm 1998 và năm
2001; Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013, từ việc chưa được quy
định cụ thể, đến việc ghi nhận và được sửa đổi, bổ sung, các quy định về tái định cư
đã ngày càng hoàn thiện nhằm đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của thực tiễn cuộc
sống, chú trọng việc bù đắp lợi ích vật chất và tinh thần của người có đất bị thu hồi,
đảm bảo giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, người có đất bị
thu hồi và người được giao đất.
32
Kết luận chƣơng 1
Trong chương 1, nội dung được làm rõ là các vấn đề lí luận về TĐC khi Nhà
nước thu hồi đất, bao gồm: lí luận về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và lí luận
về pháp luật tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Triển khai nội dung lí luận chung về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất qua
việc phân tích khái niệm về thu hồi đất và khái niệm về tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất. Tiếp đó khái quát ý nghĩa của việc tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
đối với người dân thuộc đối tượng TĐC, nhà đầu tư và Nhà nước.
Triển khai nội dung lí luận về pháp luật tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
qua việc phân tích khái niệm pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, các
nguyên tắc của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, nội dung của pháp
luật tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Các yếu tố tác động đến tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất và lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất qua các giai đoạn.
Chính sách pháp luật về TĐC tốt sẽ góp phần làm cho môi trường đầu tư hấp
dẫn hơn, thu hút được nguồn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài nhiều hơn,
tạo được sự đồng thuận của xã hội, ổn định cuộc sống của người dân, qua đó phát
triển kinh tế nước nhà. Chính sách TĐC có ý nghĩa rất quan trọng đối với cả Nhà
nước, người được TĐC và nhà đầu tư. Nếu chính sách TĐC đề ra hợp lý, đảm bảo
được lợi ích của các chủ thể liên quan thì sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế
và ổn định xã hội.
33
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ
NƢỚC THU HỒI ĐẤT TẠI HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
2.1. Thực trạng pháp luật về tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
2.1.1. Thực trạng các quy định về điều kiện được hưởng chính sách tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Điều kiện bồi thường: Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc có đủ điều kiện để
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất. Đối tượng bị THĐ được bồi thường (đủ điều kiện trên): Hộ gia
đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền,thuê đất hàng năm;
người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền
với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam; Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín
ngưỡng đang sử dụng đất mà không phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê; trường
hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất
một lần cho cả thời gian thuê; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khu
công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Tổ
chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất
một lần cho cả thời gian thuê; nhận thừa kế quyền sử dụng đất, nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp, tiền nhận chuyển nhượng đã
trả không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước,như đã phân tích ở trên, chính sách
TĐC là chính sách bồi thường đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất ở. Điều kiện
để được hưởng chính sách TĐC chính là điều kiện để được hưởng chính sách bồi
thường khi Nhà nước THĐ ở. Nội dung này được quy định tại Điều 79 Luật đất đai
năm 2013 với từng nhóm đối tượng như sau:
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam mà có đủ điều
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật

More Related Content

What's hot

THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI VÌ LỢI ÍCH QUỐC GIA, CÔNG CỘNG THEO...
THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI VÌ LỢI ÍCH QUỐC GIA, CÔNG CỘNG THEO...THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI VÌ LỢI ÍCH QUỐC GIA, CÔNG CỘNG THEO...
THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI VÌ LỢI ÍCH QUỐC GIA, CÔNG CỘNG THEO...nataliej4
 

What's hot (20)

Luận văn: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, HOT
Luận văn: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, HOTLuận văn: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, HOT
Luận văn: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, HOT
 
Luận văn: Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Luận văn: Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội Luận văn: Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
Luận văn: Thu hồi đất nông nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội
 
Luận văn: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại tỉnh Kiên Giang, HAY
Luận văn: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại tỉnh Kiên Giang, HAYLuận văn: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại tỉnh Kiên Giang, HAY
Luận văn: Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại tỉnh Kiên Giang, HAY
 
Bài mẫu luận văn: Pháp luật về bồi thường tái định cư, HAY
Bài mẫu luận văn: Pháp luật về bồi thường tái định cư, HAYBài mẫu luận văn: Pháp luật về bồi thường tái định cư, HAY
Bài mẫu luận văn: Pháp luật về bồi thường tái định cư, HAY
 
Luận văn:Pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất
Luận văn:Pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đấtLuận văn:Pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất
Luận văn:Pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất
 
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đaiBồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai
 
THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI VÌ LỢI ÍCH QUỐC GIA, CÔNG CỘNG THEO...
THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI VÌ LỢI ÍCH QUỐC GIA, CÔNG CỘNG THEO...THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI VÌ LỢI ÍCH QUỐC GIA, CÔNG CỘNG THEO...
THU HỒI ĐẤT ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI VÌ LỢI ÍCH QUỐC GIA, CÔNG CỘNG THEO...
 
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ởLuận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ và tái định cưLuận văn: Giải quyết khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
 
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, HOT
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, HOTĐề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, HOT
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, HOT
 
Thu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội theo pháp luật đất đai, 9đ
Thu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội theo pháp luật đất đai, 9đThu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội theo pháp luật đất đai, 9đ
Thu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội theo pháp luật đất đai, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuất
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuấtLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuất
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường qua tại cơ sở sản xuất
 
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
 Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
 
Đề tài: Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở Hà Nội
Đề tài: Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở Hà NộiĐề tài: Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở Hà Nội
Đề tài: Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở Hà Nội
 
Đề tài công tác bồi thường giải phóng mặt bằng,
Đề tài công tác bồi thường giải phóng mặt bằng,Đề tài công tác bồi thường giải phóng mặt bằng,
Đề tài công tác bồi thường giải phóng mặt bằng,
 
Luận văn: Pháp luật về giao đất tại Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Pháp luật về giao đất tại Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Pháp luật về giao đất tại Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Pháp luật về giao đất tại Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đấtLuận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định, HOT
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND tỉnh Đăk Lăk, HAY
Đề tài: Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND tỉnh Đăk Lăk, HAYĐề tài: Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND tỉnh Đăk Lăk, HAY
Đề tài: Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND tỉnh Đăk Lăk, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về định giá đất khi nhà nước thu hồi đất, 9đ
Luận văn: Pháp luật về định giá đất khi nhà nước thu hồi đất, 9đLuận văn: Pháp luật về định giá đất khi nhà nước thu hồi đất, 9đ
Luận văn: Pháp luật về định giá đất khi nhà nước thu hồi đất, 9đ
 

Similar to Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật

Bồi-thường-hỗ-trợ-tái-định-cư-khi-Nhà-nước-thu-hồi-đất-từ-thực-tiễn-huyện-Phú...
Bồi-thường-hỗ-trợ-tái-định-cư-khi-Nhà-nước-thu-hồi-đất-từ-thực-tiễn-huyện-Phú...Bồi-thường-hỗ-trợ-tái-định-cư-khi-Nhà-nước-thu-hồi-đất-từ-thực-tiễn-huyện-Phú...
Bồi-thường-hỗ-trợ-tái-định-cư-khi-Nhà-nước-thu-hồi-đất-từ-thực-tiễn-huyện-Phú...ThanhNguyenTrung21
 
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn...
 Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn... Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn...
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn...hieu anh
 
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn...
 Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn... Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn...
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn...hieu anh
 
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thành...
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thành...Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thành...
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thành...hieu anh
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thu hồi đất tại Long An, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thu hồi đất tại Long An, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thu hồi đất tại Long An, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thu hồi đất tại Long An, HAY - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc...
Luận văn: Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc...Luận văn: Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc...
Luận văn: Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc Từ Liêm, ...
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc Từ Liêm, ...Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc Từ Liêm, ...
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc Từ Liêm, ...hieu anh
 

Similar to Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật (20)

Bồi-thường-hỗ-trợ-tái-định-cư-khi-Nhà-nước-thu-hồi-đất-từ-thực-tiễn-huyện-Phú...
Bồi-thường-hỗ-trợ-tái-định-cư-khi-Nhà-nước-thu-hồi-đất-từ-thực-tiễn-huyện-Phú...Bồi-thường-hỗ-trợ-tái-định-cư-khi-Nhà-nước-thu-hồi-đất-từ-thực-tiễn-huyện-Phú...
Bồi-thường-hỗ-trợ-tái-định-cư-khi-Nhà-nước-thu-hồi-đất-từ-thực-tiễn-huyện-Phú...
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành Luật kinh tế, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành Luật kinh tế, HAYBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành Luật kinh tế, HAY
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ ngành Luật kinh tế, HAY
 
Bài Tiểu Luận Môn Pháp Luật Về Đất Đai, Môi Trường, 9 Điểm.doc
Bài Tiểu Luận Môn Pháp Luật Về Đất Đai, Môi Trường, 9 Điểm.docBài Tiểu Luận Môn Pháp Luật Về Đất Đai, Môi Trường, 9 Điểm.doc
Bài Tiểu Luận Môn Pháp Luật Về Đất Đai, Môi Trường, 9 Điểm.doc
 
Luan van boi thuong ho tro va tai dinh cu tai huyen cu chi, hot
Luan van boi thuong ho tro va tai dinh cu tai huyen cu chi, hotLuan van boi thuong ho tro va tai dinh cu tai huyen cu chi, hot
Luan van boi thuong ho tro va tai dinh cu tai huyen cu chi, hot
 
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn...
 Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn... Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn...
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn...
 
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn...
 Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn... Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn...
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thàn...
 
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thành...
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thành...Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thành...
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại thành...
 
Pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất huyện Quế Sơn, HAY
Pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất huyện Quế Sơn, HAYPháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất huyện Quế Sơn, HAY
Pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất huyện Quế Sơn, HAY
 
Luận án: Giải quyết khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Luận án: Giải quyết khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đấtLuận án: Giải quyết khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Luận án: Giải quyết khiếu nại về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
 
Xử lý vi phạm hành chính trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Xử lý vi phạm hành chính trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cưXử lý vi phạm hành chính trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
Xử lý vi phạm hành chính trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
 
Luận văn: Xử lý vi phạm hành chính về bồi thường khi thu hồi đất
Luận văn: Xử lý vi phạm hành chính về bồi thường khi thu hồi đấtLuận văn: Xử lý vi phạm hành chính về bồi thường khi thu hồi đất
Luận văn: Xử lý vi phạm hành chính về bồi thường khi thu hồi đất
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thu hồi đất tại Long An, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thu hồi đất tại Long An, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thu hồi đất tại Long An, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Giải quyết khiếu nại về thu hồi đất tại Long An, HAY - Gửi miễn phí...
 
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo quy định của pháp luật, 9đ
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo quy định của pháp luật, 9đQuy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo quy định của pháp luật, 9đ
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo quy định của pháp luật, 9đ
 
Luận văn: Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luậtLuận văn: Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Luận văn: Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
 
Luận văn: Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc...
Luận văn: Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc...Luận văn: Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc...
Luận văn: Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc...
 
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc Từ Liêm, ...
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc Từ Liêm, ...Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc Từ Liêm, ...
Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn quận Bắc Từ Liêm, ...
 
Luận văn: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Định
Luận văn: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Định
Luận văn: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Định
 
Hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân
Hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhânHợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân
Hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân
 
Luận văn: Bồi thường, tái định cư khi thu hồi đất tại huyện Hoài Đức
Luận văn: Bồi thường, tái định cư khi thu hồi đất tại huyện Hoài ĐứcLuận văn: Bồi thường, tái định cư khi thu hồi đất tại huyện Hoài Đức
Luận văn: Bồi thường, tái định cư khi thu hồi đất tại huyện Hoài Đức
 
Thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất trên địa bà...
Thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất trên địa bà...Thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất trên địa bà...
Thực hiện pháp luật về bồi thường giải phóng mặt bằng thu hồi đất trên địa bà...
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 

Recently uploaded (20)

sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 

Luận văn: Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp luật

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HOÀNG VŨ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HOÀNG VŨ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN Chuyên Ngành: Luật Kinh Tế Mã Số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ HÀ NỘI - 2017
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Nguyễn Hoàng Vũ
  • 4. LỜI CẢM ƠN Qua hai năm được học tập và rèn luyện tại Học viện Khoa học xã hội, tôi đã nhận được sự dạy dỗ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô giáo. Các thầy cô đã truyền đạt cho tôi những kiến thức chuyên môn giúp tôi vững vàng, tự tin trong công việc. Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Trong quá trình thực hiện đềtài luận văn này, tôi đã nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, các thầy cô trong khoa Luật- Học viện Khoa học xã hội. Nhân dịp này cho tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Phạm Hữu Nghị về những ý kiến đóng góp quý báu của thầy. Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo, cán bộ Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình tôi thực hiện luận văn. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng lĩnh vực nghiên cứu có tính chất phức tạp cao, kết quả nghiên cứu không tránh được những thiếu sót, tôi mong được sự góp ý của các Thầy, Cô và các bạn để Luận văn này được hoàn thiện hơn, được sử dụng trong thực tế để đóng góp cho công tác xây dựng chính sách đền bù, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại địa phương. Tác giả luận văn Nguyễn Hoàng Vũ
  • 5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI ĐỊNH CƢ VÀ PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT.........................................7 1.1. Lý luận chung về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất...................................7 1.2. Lý luận pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất............................16 1.3. Các yếu tố tác động đến tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ......................22 1.4. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất..............................................................................................................24 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TẠI HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN ................................................................33 2.1. Thực trạng pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.......................33 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An ..............................................................................44 2.3. Đánh giá về công tác tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.........................................................................................55 Chƣơng 3: YÊU CẦU, ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN.............................................................................................................................62 3.1. Yêu cầu, định hướng bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An62 3.2. Giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An..................68 KẾT LUẬN..............................................................................................................79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................81
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CCN Cụm công nghiệp GPMB Giải phóng mặt bằng KCN Khu công nghiệp SDĐ Sử dụng đất TĐC Tái định cư THĐ Thu hồi đất UBND Ủy ban nhân dân
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thì việc thu hồi đất để chuyển một phần quỹ đất ở, đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích khác là việc làm không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, sự việc này tác động rất lớn đến người bị thu hồi đất. Mặc dù Nhà nước chỉ thu hồi đất nhưng các thiệt hại không chỉ là thửa đất mà còn là nhà ở, vật kiến trúc, cây trồng mà quan trọng hơn cả là các mối quan hệ kinh tế- xã hội có thể bị phá vỡ. Đây là những ảnh hưởng không nhỏ làm thay đổi cả tập quán sống, thói quen sinh hoạt, làm việc, học tập của người có đất bị thu hồi và tác động trực tiếp đến các mối quan hệ xã hội, cá nhân, gia đình, cộng đồng. Nhận thức sâu sắc các hậu quả do việc thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất, Nhà nước thông qua pháp luật đất đai đã có những quy định về việc giải quyết công ăn, việc làm cho người bị mất đất sản xuất; giải quyết vấn đề tái định cư cho người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở. Thực tế áp dụng các quy định này cho thấy đây là vấn đề nhạy cảm, khó khăn, phức tạp và thường phát sinh tranh chấp, khiếu kiện gay gắt, kéo dài. Xuất phát từ tầm ảnh hưởng của vấn đề tái định cư đối với người bị thu hồi đất, trong những năm qua chính sách pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư luôn được Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế, chính sách về tái định cư cũng như quá trình thực hiện pháp luật về tái định cư cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất ở cũng còn nhiều bất cập, vướng mắc. Trong nhiều dự án THĐ, người dân bị rơi vào cảnh bị chủ đầu tư "đem con bỏ chợ", nghĩa là khi đất ở, nhà ở đã bị thu hồi nhưng vẫn chưa được TĐC,công tác tái định cư cũng chưa được chuẩn bị chu đáo, thiếu các điều kiện đảm bảo cho người dân có điều kiện sinh hoạt bình thường tại nơi ở mới, nhiều dự án người dân được cơ quan có thẩm quyền hoặc chủ đầu tư bố trí nơi ở tạm thiếu những điều kiện sống tối thiểu như điện, nước sạch, trường học, bệnh viện… Tình trạng trên có thểbị kéo dài nhiều năm, thậm chí kéo dài hàng chục năm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích, đời sống của người dân và
  • 8. 2 gây nên những bất bình, bức xúc, thậm chí mất lòng tin của người dân đối với chính quyền. Nhiều dự án người dân không đồng thuận, chống đối ngay từ giai đoạn đầu làm cho cơ quan có thẩm quyền và chủ đầu tư không thể GPMB để thực hiện dự án, tác động xấu đến môi trường đầu tư của nước ta. Huyện Đức Hòa nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh Long An, trong những năm gần đây đã có nhiều thay đổi, nhiều dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, khu công nghiệp, khu đô thị, thương mai, dịch vụ, đường giao thông đã và đang được triển khai thực hiện nên việc thu hồi đất để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội là tất yếu khách quan. Chính bởi lẽ đó, công tác bồi thường GPMB nói chung, cũng như công tác TĐC nói riêng luôn là điểm nóng và là một trong những công tác luôn được sự chỉ đạo trọng tâm của các cấp chính quyền. Việc nghiên cứu các qui định pháp luật về tái định cư khi nhà nước THĐ là vô cùng thiết thực nhằm góp phần tìm ra giải pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót trên và nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nói riêng và các địa phương khác trong cả nước nói chung. Với ý nghĩa đó, tôi lựa chọn đề tài “Tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đến đề tài Trong thời gian qua, đã có khá nhiều các bài viết, các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Tiêu biểu có các công trình nghiên cứu như: Nông Đức Mạnh (2003), đổi mới chính sách đất đai bảo đảm hài hòa lợi ích Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất, bài phát biểu tại phiên bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 7 khóa XI, Báo Tiền Phong; Nguyễn Vĩnh Diện (2006), Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Dung (2009), Chính sách đền bù khi Nhà nước thu hồi đất của một số nước trong khu vực và Việt Nam, Thông tin pháp luật Dân sự, ngày 11/9/2009; Lê Hoàng Dương (2009), Các vấn đề pháp lý về tái định cư khi
  • 9. 3 Nhà nước thu hồi đất thực hiện các dự án đầu tư, khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trần Quang Huy (2010), Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp chí Luật học (12), tr.14-20; Trần Quang Huy (2010), Pháp luật về đất đai Việt Nam hiện hành nhìn từ góc độ bảo đảm quyền của người sử dụng đất, Tạp chí Luật học (8), tr.37-45; Nguyễn Thị Nga (2010), Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng, Tạp chí Luật học (11), tr27-36; Minh Nghĩa (2011), Nhà tái định cư: nơi thừa, nơi thiếu, Báo điện tử Đô thị, ngày 11/11/2011; Vũ Như (2012), Đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng nhà TĐC, Báo điện tử Tienphong.vn; Nguyễn Linh (2011), Thúc đẩy thực hiện hiệu quả Nghị định 69/2009/NĐ-CP về đất đai, Báo điện tử Chính phủ ngày 09/02/2011; Trần Đình Dũng (2012), Mua căn hộ ế làm nhà tái định cư ở Thành Phố Hồ Chí Minh, Báo điện tử thông tin bất động sản, nhà đất; Hải Minh (2012), Nhà tái định cư ở Hà Nội xuống cấp trầm trọng trong 5-7 năm tới, Báo điện tử Việt Báo, ngày 16/2/2012; Sài Gòn giải phóng (2011), Thành Phố Hồ Chí Minh- Chương trình nhà ở tái định cư: Mua bán suất tái định cư, bao giờ mới chấm dứt, Báo điện tử Baomoi.com; Sài Gòn giải phóng (2012), Chương trình nhà ở TĐC Thành Phố Hồ Chí Minh- nhiều tín hiệu vui; Phạm Thu Thủy (2014), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Nhìn chung các công trình nghiên cứu, các bài viết đã phản ánh đa dạng và sâu sắc ở nhiều khía cạnh khác nhau về bồi thường khi Nhà nước THĐ nói chung và TĐC khi Nhà nước THĐ nói riêng. Thành quả của những công trình nghiên cứu đó đã cung cấp những luận cứ khoa học, thực tiễn cho việc xây dựng, triển khai công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tiếp thu các quan điểm, các nhận định về bồi thường, TĐC khi Nhà nước THĐ của các nhà khoa học đi trước, Luận văn tập trung nghiên cứu sâu hơn về thực trạng pháp luật qua thực tiễn triển khai thi hành trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An để làm sâu sắc hơn vấn đề nghiên cứu.
  • 10. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về TĐC khi Nhà nước THĐ, đối chiếu giữa thực tế của hoạt động TĐC và các quy phạm pháp luật hiện hành chỉ ra được những vướng mắc, bất cập, hạn chế, yếu kém trong công tác thực hiện tái định cư. Qua đó, đề xuất những giải pháp tháo gỡ vướng mắc, bất cập, khắc phục hạn chế, yếu kém nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về TĐC và pháp luật về TĐC khi nhà nước thu hồi đất. - Nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật về tái định cư từ thực tiễn thi hành trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. - Đề xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu pháp luật về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thực hiện pháp luật về TĐC khi Nhà nước THĐ trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn thạc sĩ luật học đề tài tập trung nghiên cứu các hệ thống pháp luật thực định, các nguyên tắc pháp lý cũng như các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành trong lĩnh vực tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Luận văn tiếp cận và phân tích, bình luận các quy định về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được ban hành từ năm 2003 đến nay. Qua việc nghiên cứu những quy định của pháp luật, tác giả mong muốn làm rõ, cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để rút ra những kết quả đạt được
  • 11. 5 trong công tác thực thi pháp luật về tái định cư và những khó khăn, hạn chế về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Đồng thời, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hơn nữa trong công tác tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xu thế hội nhập quốc tế của Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thu thập số liệu; Phương pháp thống kê; phương pháp tổng hợp; phương pháp phân tích, đánh giá; phương pháp hệ thống; phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp so sánh… để đảm bảo cho những lập luận đưa ra có tính chặt chẽ và lôgic. Số liệu được thu thập từ các phòng, ban, ngành trên địa bàn huyện, các nguồn tài liệu từ sách báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến quá trình đô thị hóa, sự biến động đất đai và vấn đề đời sống người dân. Trên cơ sở các số liệu thu thập được, tiến hành thống kê, phân loại theo các nhóm, nhập dữ liệu và xử lý số liệu để từ đó mô tả, phân tích và dự báo, đánh giá cho các kết quả nghiên cứu, đáp ứng cho mục tiêu nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Bằng kết quả nghiên cứu, kết hợp những kinh nghiệm rút ra được qua thực tế công tác, những kiến thức được trang bị trong qua trình học chương trình Cao học Luật Kinh tế, tác giả tập trung phân tích, nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân sâu xa của những hạn chế, yếu kém trong công tác bồi thường, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Do đó, hy vọng đề tài là một tài liệu có giá trị tham khảo, ứng dụng trên thực tế đối với hoạt động bồi thường, tái định cư khi thực hiện thu hồi đất, nhất là những nơi có nhiều dự án đầu tư đang được triển khai.
  • 12. 6 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 chương: - Chương 1: Những vấn đề lý luận về tái định cư và pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; - Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; - Chương 3:Yêu cầu, định hướng, giải pháp bảo đảm và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
  • 13. 7 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI ĐỊNH CƢ VÀ PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT 1.1. Lý luận chung về tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất 1.1.1. Tái định cư: Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa 1.1.1.1. Khái niệm tái định cư Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi con người và các sinh vật trên đất. Đất đai là nguồn của cải, là nguồn lực, một kho vốn, một tài sản cố định hoặc đầu tư cố định. Đất đai có thể hiểu như là sự bảo hiểm cho cuộc sống, bảo hiểm về tài chính như là sự chuyển nhượng của cải qua các thế hệ và nguồn lực cho các mục đích tiêu dùng. Khái niệm thu hồi đất: Thu hồi đất là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật đất đai. Nếu như giao đất, cho thuê đất là cơ sở để làm phát sinh quan hệ pháp luật đất đai, phát sinh quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng; thì thu hồi đất là một biện pháp làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai bằng một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thông qua những hoạt động này, Nhà nước thể hiện rất rõ quyền định đoạt đất đai, với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai. Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Thu hồi: Lấy lại cái đã đưa ra, đã cấp phát ra hoặc bị người khác lấy” [18, tr 759]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi đất được hiểu là: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng” [32, tr186]. Định nghĩa này cho thấy, các nhà khoa học mới chỉ đề cập các trường hợp thu hồi đất mà chưa làm rõ nội hàm của khái niệm THĐ là gì. Mặt khác, sự liệt kê nêu trên cũng chưa bao quát hết các trường hợp THĐ của Nhà nước. Nhà nước không chỉ THĐ của người có hành vi vi phạm về sử dụng đất hay THĐ để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
  • 14. 8 ích quốc gia, lợi ích công cộng, mà còn thu hồi đất do các lợi ích kinh tế xã hội khác hoặc những trường hợp chấm dứt theo quy định của pháp luật. Khi Luật Đất đai năm 2003 ra đời, khái niệm THĐ đã được giải thích tại Khoản 5 Điều 4: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thịtrấn quản lý theo quy định của Luật này”. Dù đã có sự điều chỉnh và mở rộng nội hàm của vấn đề thu hồi đất, song cách giải thích này là chưa thật sự chính xác, bởi nó dẫn đến cách hiểu, người sử dụng đất bị thu hồi chỉ là tổ chức hay Ủy ban nhân dân xã, phường thị trấn, trong khi theo quy định pháp luật, người sử dụng đất bị thu hồi còn có thể là hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất, không những thế đây còn là chủ thể phổ biến bị thu hồi đất. Trong quá trình xây dựng Luật Đất đai năm 2013, đã có khá nhiều các quan điểm, ý kiến bàn luận về khái niệm pháp lí này. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các ý kiến, các quan điểm của các nhà khoa học, Luật Đất đai năm 2013 đã được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013, có hiệu lực ngày 01/07/2014, tại Khoản 11 Điều 4 Luật đất đai năm 2013 đã quy định: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”. Khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất: Trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay ở Việt Nam, TĐC cho người dân bị mất đất ở là một vấn đề rất bức thiết, được dư luận quan tâm. Bởi vậy, thuật ngữ “TĐC” được nhắc đến nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trong cuộc sống của người dân. Nó cũng là một thuật ngữ pháp lý được đề cập nhiều trong các văn bản pháp luật, đặc biệt là văn bản pháp luật về đất đai. Từ điển Luật học- cuốn sách giải thích trên khía cạnh pháp lý về các thuật ngữ pháp lý thông dụng không đưa ra định nghĩa về tái định cư. Còn trong Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên cũng không giải thích thuật ngữ về “TĐC”. Tuy nhiên tác giả lại chỉ rõ: “tái: hai lần hoặc lần thứ hai; lại một lần nữa” [18, tr.1485]; “định cư: ở lại một nơi nhất định để sinh sống và làm ăn, phân biệt với du
  • 15. 9 cư” [18, tr.641]. Như vậy, có thể hiểu TĐC là việc một lần nữa chuyển đến một nơi nhất định để sinh sống và làm ăn ổn định. Tái định cư là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản quy phạm pháp luật. Xong các quy định mới chỉ dừng lại ở việc nêu ra các hình thức TĐC mà chưa chỉ rõ nội hàm của tái định cư. Cụ thể, trước đây, Điều 4 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định: “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Nghị định này mà phải di chuyển chỗ ở thì được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau: 1. Bồi thường bằng nhà ở; 2. Bồi thường bằng đất ở; 3. Bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới”. Đến Luật đất đai năm 2013, tại điểm c Khoản 2 Điều 83 quy định tái định cư là một trong các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, theo đó “Hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ởnước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở”. Khi nghiên cứu về vấn đề này, có một số tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về TĐC. Theo tác giả Nguyễn Quang Tuyến, “TĐC là việc người sử dụng đất được bố trí nơi ở mới bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở mới hoặc bồi thường bằng giao đất ở hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới khi họ bị Nhà nước thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở” [38, tr42-46]. Theo tác giả Trịnh Thị Hằng Nga “TĐC là biện pháp nhằm ổn định, khôi phục đời sống cho các hộ bị ảnh hưởng bởi dự án, khi mà đất định cư cũ bị thu hồi hết hoặc thu hồi không hết, mảnh còn lại không đủ điều kiện để ở lại nơi ở cũ, phải di chuyển đến nơi ở mới” [16, tr.66]. Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới được ghi nhận trong Khung chính sách TĐC thuộc khuôn khổ Dự án Quản lý thuỷ lợi phục vụ phát triển nông thôn vùng Đồng bằng sông Mê Kông (MDWRM-RDP), “TĐC là thuật ngữ chung liên quan tới việc thu hồi và bồi thường cho tổn thất về tài sản khi có di dời, tổn thất đất, nhà ở, tài sản hoặc phương tiện sinh kế khác” [17, tr.5]. Tuy nhiên, định nghĩa trên đã đưa ra cách hiểu khá rộng về TĐC, bao gồm cả công tác bồi thường do tổn thất nhà ở, tài sản hoặc phương tiện sinh kế khác. Theo quan điểm của pháp luật Việt Nam, những công tác nêu trên thuộc về phạm vi bồi thường về đất và tài sản gắn liền trên đất. Như vậy,
  • 16. 10 quan điểm của Ngân hàng thế giới và của pháp luật Việt Nam về nội hàm khái niệm “TĐC” có điểm không tương đồng với nhau. Tóm lại, xem xét khái niệm TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, có thể thấy rõ TĐC là hậu quả pháp lý của việc thu hồi đất của Nhà nước. Nói cách khác, vấn đề TĐC chỉ đặt ra khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất của người sử dụng đất. TĐC chính là một trong các công việc của hậu thu hồi đất. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp cứ có hành vi thu hồi đất là phát sinh vấn đề TĐC. Để công tác TĐC được tiến hành phải đáp ứng được một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật, trong đó điều kiện về thu hồi đất là tiên quyết, quan trọng nhất. Từ những cơ sở trên, có thể đưa ra khái niệm về TĐC như sau: TĐC là một trong các trách nhiệm của Nhà nước bố trí nơi ở mới cho người bị Nhà nước thu hồi đất và phải di chuyển chỗ ở bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở mới hoặc bồi thường bằng giao đất ở hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới. TĐC là hậu quả pháp lý của hành vi thu hồi đất của Nhà nước. 1.1.1.2. Đặc điểm của tái định cư TĐC là một phương thức bồi thường thiệt hại về tài sản khi Nhà nước THĐ. Như chúng ta đã biết quyền sử dụng đất nói chung và quyền sử dụng đất ở nói riêng là tài sản của cá nhân, hộ gia đình được Nhà nước bảo hộ. Cá nhân công dân, hộ gia đình có quyền làm ăn, sinh sống trên đất ở hợp pháp của mình. Theo qui định của pháp luật dân sự khi một chủ thể nào đó gây thiệt hại về tài sản cho chủ thể khác thì phải bồi thường. Bất luận đó là chủ thể nào. Khi Nhà nước thu hồi đất ở làm cho người dân không thể tiếp tục làm ăn, sinh sống tại nơi ở cũ trên mảnh đất mà họ có quyền sử dụng đất hợp pháp, phải di dời đến nơi ở mới gây cho họ nhiều thiệt hại: Không còn mặt bằng để làm nơi ở. Cùng với mất nơi ở, nhiều trường hợp nhiều tài sản bị hủy hoại như nhà cửa, vật kiến trúc, cây lâu năm… Do quyền sử dụng đất ở là tài sản (và là tài sản có giá trịrất lớn) nên khi Nhà nước thu hồi đất ở phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người có đất ở bị thu hồi, phải có trách nhiệm tạo lập nơi ở mới cho người có đất ở bị thu hồi. Trong trường hợp này việc
  • 17. 11 tạo lập nơi ở mới cho người có đất ở bị thu hồi (tái định cư) thực chất là một hình thức bồi thường thiệt hại về tài sản. Trong mối quan hệ này, bên bị thiệt hại là hộ gia đình, cá nhân có đất ở bị Nhà nước thu hồi, bên có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất (hoặc chủ đầu tư trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất để giao cho chủ đầu tư thực hiện các dự án). Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc lập và thực hiện các dự án mới về nhà ở, đất ở, với điều kiện bằng hoặc tốt hơn nơi cũ cho người bị THĐ ở phải di chuyển chỗ ở, đồng thời giúp người bị THĐ nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất. TĐC không hoàn toàn giống như các hình thức bồi thường thiệt hại về tài sản khác. Như phân tích ở trên là một phương thức bồi thường thiệt hại về tài sản. Tuy nhiên, QSDĐ được coi là một tài sản “đặc biệt”, không giống như những tài sản khác. Theo qui định của pháp luật hiện hành, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nên người sử dụng đất chỉ có QSDĐ mà không có quyền sở hữu đối với đất đai. Do vậy, tái định cư không hoàn toàn giống như các hình thức bồi thường thiệt hại về tài sản khác. Từ góc độ lý luận, trách nhiệm bồi thường của một chủ thể chỉ phát sinh khi chủ thể có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại. Việc Nhà nước tiến hành THĐ đã gây ra những thiệt hại đáng kể cho người dân. Bên cạnh những thiệt hại về vật chất mà chúng ta có thể nhận thấy được như nhà cửa, cây trồng, vật kiến trúc, công trình xây dựng…còn có những thiệt hại “vô hình” khác mà người có đất bị thu hồi phải gánh chịu như vấn đề tâm linh tổ tiên, cuộc sống bị xáo trộn, tập quán sống của người dân bị thay đổi, xa trường học, chỗ làm việc, mất đi mặt bằng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh tạo thu nhập, nguồn sống chính của nhiều hộ gia đình, cá nhân….Tuy nhiên, việc Nhà nước thực hiện THĐ để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, phát triển kinh tế theo qui định của pháp luật không phải là hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, những thiệt hại phát sinh khi Nhà nước thu hồi đất ở không phải là hệ quả của hành vi vi phạm pháp luật. Nếu như bồi thường thiệt hại về tài sản trong những trường hợp khác là hệ quả pháp lý của hành vi vi phạm pháp luật của một chủ thể khi có hành vi xâm hại gây thiệt hại đối với tài
  • 18. 12 sản của chủ sở hữu tài sản hoặc chủ thể có quyền quản lý đối với tài sản; thì hành vi thu hồi đất của cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất theo qui định của pháp luật là hành vi có gây thiệt hại về tài sản đối với người có đất bị thu hồi nhưng không phải là hành vi trái pháp luật mà là hành vi hợp pháp. Bởi hành vi thu hồi đất là hành vi thuộc quyền năng của Nhà nước đại diện chủ sở hữu đối với đất đai; thu hồi đất là một trong những nội dung của quản lý nhà nước về đất đai được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền, là hành vi được thực hiện trên cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật. Quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình thực hiện tái định cư giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất và người dân có đất bị thu hồi không phải là quan hệ pháp luật dân sự đơn thuần và cũng không phải là quan hệ pháp luật hành chính đơn thuần mà là quan hệ pháp luật vừa có tính chất hành chính, vừa có tính chất dân sự. Những thiệt hại phát sinh từ hành vi thu hồi đất ở của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo qui định của pháp luật không phải là thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật nên trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những thiệt hại do hành vi thu hồi đất gây ra khác với trách nhiệm của các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại và phải bồi thường. Như vậy, trong trường hợp này việc đền bù thiệt hại không hoàn toàn là đền bù ngang giá mà Nhà nước có thể giới hạn mức bồi thường, hình thức bồi thường thiệt hại. Mặt khác, việc giải quyết tái định cư - bồi thường những tổn thất phát sinh khi Nhà nước thu hồi đất ở phụ thuộc vào chính sách của Nhà nước, đảm bảo lợi ích của các cá nhân, hộ gia đình có đất ở bị thu hồi, đồng thời phải đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội. Như vậy, việc giải quyết tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở không phải hoàn toàn thực hiện trên cơ sở sự thỏa thuận mà còn được thực hiện trên cơ sở quyền lực Nhà nước. Điều đó dẫn đến trình tự thủ tục giải quyết tái định cư với tư cách là hình thức bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất ở khác với trình tự, thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại trong các quan hệ pháp luật dân sự khác. Thực tế cho thấy, thủ tục thực hiện tái định cư hiện nay chủ yếu là thủ tục có tính chất hành chính.
  • 19. 13 TĐC có mối quan hệ chặt chẽ với các hình thức bồi thường khác khi Nhà nước THĐ ở. Bồi thường khi Nhà nước THĐ đóng vai trò trung tâm và có tính chất quyết định đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị THĐ, Nhà nước có nghĩa vụ bồi thường ngang giá và sát với giá thị trường cho người sử dụng đất về những thiệt hại hữu hình và thiệt hại vô hình phát sinh trực tiếp từ hoạt động THĐ. TĐC là việc Nhà nước bồi thường về đất ở, nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt, đời sống của người dân và các chi phí di chuyển, ổn định cuộc sống cho người bị THĐ khi phải di chuyển đến nơi ở mới. Do đó, TĐC là hình thức bồi thường có vai trò quan trọng nhất khi Nhà nước thu hồi đất ở, cùng với các hình thức bồi thường thiệt hại khác giúp cho người dân nhanh chóng ổn định cuộc sống, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân khi bị thu hồi đất ở, đồng thời giúp Nhà nước thực hiện có hiệu quả quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cũng như kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, của đất nước nói chung. 1.1.1.3. Ý nghĩa của việc tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất - Đối với người dân thuộc đối tượng TĐC: Đối với mỗi người, không chỉ là người dân Việt Nam mà tất cả con người trên thế giới, nhà ở đóng vai trò vô cùng quan trọng. Để có được nhà ở, nhiều người đã phải phấn đấu lao động trong suốt cả cuộc đời. Bởi vậy, việc Nhà nước thu hồi đất ở của người dân, làm cho họ không có chỗ ở nào khác đồng nghĩa với việc gây ra cho họ những thiệt thòi nhất định. Và dù ở địa bàn nào thành thị hay nông thôn thì việc phải di chuyển chỗ ở để đưa đến cho người dân bị thu hồi đất những hệ lụy nhất định trong cuộc sống và công việc. Do những ảnh hưởng như trên mà Nhà nước trong thời gian qua đã rất chú trọng đến việc ban hành chính sách TĐC phù hợp để tạo điều kiện tốt nhất cho người dân bị thu hồi phải di chuyển chỗ ở. Về cơ bản, chính sách TĐC hiện nay ở nước ta đã quan tâm đến quyền lợi của người được TĐC. Cụ thể là đã xem xét đến phong tục, tập quán sinh hoạt và nghề nghiệp của những người được TĐC để bố trí TĐC thích hợp thực hiện theo nguyên tắc nơi ở TĐC phải bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ…Với đường lối, chính sách như trên, Đảng đã vạch ra đường lối, phương hướng cơ bản để Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho công tác TĐC được
  • 20. 14 tiến hành trên thực tế. Qua đó, quyền lợi của người được bố trí TĐC được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. - Đối với nhà đầu tư: Trong quan hệ thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư, nhà đầu tư tuy không phải là chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi thu hồi đất, cũng không phải là người có đất bị thu hồi, nhưng họ chính là chủ thể có quyền và lợi ích liên quan. Trong môi trường kinh doanh, nơi mà thời gian đóng vai trò rất quan trọng thì việc giải quyết vấn đề bồi thường, hỗ trợ, TĐC giữa Nhà nước và người bị thu hồi đất có tác động không nhỏ đối với họ. Nếu như công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC được tiến hành thuận lợi, nhà đầu tư sẽ sớm có mặt bằng để tiến hành dự án đầu tư. Khi đó, công việc kinh doanh của họ bước đầu được thực hiện thuận lợi, góp phần giúp họ ổn định sản xuất. Ngược lại, nếu những khâu này không được giải quyết nhanh chóng, nhiều trường hợp còn có khiếu kiện kéo dài…dẫn đến việc nhà đầu tư không được bàn giao mặt bằng đúng thời hạn, hoặc bị cản trở trong quá trình thực hiện dự án làm hoạt động kinh doanh của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bởi vậy, chính sách về bồi thường thiệt hại nói chung và TĐC nói riêng có ý nghĩa không nhỏ đối với các nhà đầu tư. Một chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC tốt sẽ đẩy nhanh tiến độ giải quyết các công việc này. Qua đó, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của họ được tiến hành theo đúng kế hoạch đề ra. - Đối với Nhà nước: Ở Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu thống nhất quản lý. Thẩm quyền tiến hành thu hồi đất thuộc về Nhà nước. Thẩm quyền này một mặt là quyền hạn của Nhà nước trong việc quản lý quỹ đất để tiến hành các hoạt động của mình, mặt khác cũng là trách nhiệm nặng nề của Nhà nước khi mà việc thực hiện công tác thu hồi đất trên thực tế rất khó khăn. Đối với những trường hợp thu hồi đất mà phải thực hiện TĐC thì công việc càng khó khăn hơn vì chỉ khi việc bố trí TĐC được thu xếp ổn định thì mới có thể thu hồi đất. Bởi vậy, chính sách TĐC hợp lý sẽ giúp cho công tác thu hồi đất được thực hiện nhanh chóng hơn, nhờ đó giúp Nhà nước giảm được áp lực trong công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC. Mặt khác, một chính sách TĐC tốt cũng giúp cho Nhà nước nhận được sự đồng thuận của người dân trong công tác bồi thường, TĐC.
  • 21. 15 Từ đó góp phần cải thiện mối quan hệ vốn căng thẳng giữa Nhà nước và người dân trong lĩnh vực đất đai nói chung và bồi thường, hỗ trợ, TĐC nói riêng; tạo điều kiện để các chính sách được ban hành sau đó được người dân tiếp nhận dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, chính sách TĐC tốt còn góp phần làm cho môi trường đầu tư hấp dẫn hơn, thu hút được nguồn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài nhiều hơn. Qua đó, phát triển kinh tế nước nhà. Chính sách TĐC có ý nghĩa quan trọng đối với cả Nhà nước, người được TĐC và nhà đầu tư. Nếu chính sách TĐC đề ra hợp lý, đảm bảo được lợi ích của các chủ thể liên quan thì sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội. 1.1.2. Bản chất, lý do của tái định cư Bản chất của việc tái định cư là nhà nước bố trí đất cho người sử dụng đất khi nhà nước tiến hành thu hồi đất ở của người sử dụng đất. Tái định cư là biện pháp nhằm giảm nhẹ các tác động xấu về kinh tế, văn hóa, xã hội đối với một bộ phận dân cư phải di chuyển nơi ở vì sự phát triển chung của đất nước. Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng là một công việc phức tạp và khó khăn. Tính phức tạp, khó khăn thể hiện Nhà nước phải xử lý hài hòa mối quan hệ xung đột về lợi ích kinh tế của cộng đồng xã hội, của chủ đầu tư và của người bị thu hồi đất trong việc thu hồi đất. Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng ở địa phương nào mà giải quyết tốt việc xử lý hài hòa mối quan hệ này thì việc thu hồi đất được thực hiện nhanh chóng, thuận lợi không phát sinh những tranh chấp, khiếu kiện kéo dài và nhận được sự hưởng ứng, đồng thuận của người dân; hay nói cách khác, việc xử lý hài hòa mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, cộng đồng, chủ đầu tư và người bị thu hồi đất chính là thực hiện việc xác lập “Ý Đảng, lòng dân” trong công tác thu hồi đất. Ngược lại địa phương nào không giải quyết hoặc xử lý tốt mối quan hệ này thì công tác thu hồi đất, bồi thường, tái định cư thực hiện rất chậm chạp, khó khăn và phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định. Xét về bản chất, người bị Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng không do lỗi của họ gây ra.
  • 22. 16 Tuy nhiên hoạt động này lại gây ra những hậu quả làm đảo lộn cuộc sống và sản xuất của họ. Người bị Nhà nước thu hồi đất trong trường hợp này bị mất chổ ở hoặc bị mất đất sản xuất rơi vào hoàn cảnh hết sức khó khăn. Do đó việc giải quyết vấn đề tái định cư cho người bị thu hồi đất ở là việc làm rất cần thiết. Tái định cư không chỉ giúp người bị thu hồi đất sớm ổn định đời sống, sinh hoạt và sản xuất mà còn tạo ra sự đồng thuận của cộng đồng xã hội đối với việc thu hồi đất của Nhà nước, thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta. 1.2. Lý luận pháp luật về tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất 1.2.1. Khái niệm pháp luật về tái định cư “Một nhà nước văn minh có nhiệm vụ tạo ra an toàn mọi mặt cho dân chúng, trong đó có cả an toàn về pháp lý. Pháp luật phải đảm bảo cho quyền tự do của dân chúng không bị xâm phạm bởi sự tự do của công quyền” [11, tr.3]. Nhận thức được vai trò, nhiệm vụ của mình, trong những năm qua, Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất. Từ những phân tích lí luận về khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, có thể đưa ra khái niệm pháp luật về tái định cư khi Nhà nước THĐ như sau: “Pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, nhằm đảm bảo cho người có đất bị thu hồi có nhà ở và ổn định cuộc sống trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi". Pháp luật về TĐC đã tạo ra cơ sở pháp lý thống nhất cho việc thực hiện TĐC trên thực tế. Thông qua việc quy định và tổ chức thực hiện công tác TĐC, Nhà nước đã thể hiện rõ sự quan tâm đến những đối tượng phải chịu thiệt thòi do hành vi thu hồi đất mang lại. Đặc biệt đối với nhóm người phải di chuyển chỗ ở, khi mà “di chuyển để sinh sống ở một nơi mới, với tập quán mới, cơ sở vật chất mới và điều kiện sống mới là những vấn đề luôn được người bị nhà nước thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở quan tâm” [10, tr.32] thì việc bố trí TĐC có thể đáp ứng được cơ bản
  • 23. 17 nguyện vọng của người dân là một điều hết sức có ý nghĩa. Khi đó, họ mới có thể yên tâm với cuộc sống mới, mới có thể lạc nghiệp sau khi được an cư. Pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất có một vài đặc điểm cơ bản như: Chế định TĐC có mối quan hệ ràng buộc với các chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất “Bồi thường, hỗ trợ, TĐC là ba bộ phận cấu thành chính sách của Nhà nước nhằm đảm bảo quyền lợi cho các hộ gia đình, cá nhân khi nhà nước thu hồi đất” [37, tr.6]. Bồi thường, hỗ trợ, TĐC có mối liên hệ mật thiết với nhau. Bởi vậy, quy định của pháp luật về các vấn đề này tất yếu cũng có những liên hệ chặt chẽ, đặc biệt đối với TĐC- công tác chỉ tiến hành khi nhà nước thu hồi đất. Nói như vậy để khẳng định chế định TĐC có mối quan hệ ràng buộc với các chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Pháp luật khi quy định về TĐC nhất thiết phải đề cập vấn đề THĐ. Pháp luật TĐC là một bộ phận của pháp luật đất đai điều chỉnh các quan hệ liên quan đến thu hồi đất và việc giải quyết nơi ở cho người bị thu hồi đất (chỉ có người bị thu hồi đất mới liên quan đến giải quyết đất ở TĐC). Nhưng không có nghĩa pháp luật về TĐC điều chỉnh tất cả các quan hệ kể trên. Đối với nhóm quan hệ liên quan đến THĐ về nguyên tắc thuộc phạm vi điều chỉnh của phạm luật về THĐ nói chung. Tuy nhiên, như đã nói ở trên vấn đề TĐC là hậu quả pháp lý trực tiếp của THĐ, TĐC chỉ phát sinh khi nhà nước có quyết định THĐ. Bởi vậy, khi quy định về TĐC, nhất thiết phải đề cập đến vấn đề THĐ. Pháp luật về TĐC là một bộ phận các chính sách về an sinh xã hội đối với người bị thu hồi đất không còn nơi ở cần sự trợ giúp từ Nhà nước. TĐC được xác định là một trong các trách nhiệm của Nhà nước bố trí nơi ở mới cho người dân bị thu hồi đất và phải di chuyển chỗ ở. Như vậy, TĐC không chỉ là một cơ chế định pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội nhất định, mà ở một khía cạnh khác, pháp luật về TĐC là một bộ phận các chính sách về an sinh xã hội đối với người bị thu hồi đất không còn nơi ở cần sự trợ giúp từ Nhà nước và Nhà nước trong trách nhiệm xã hội của mình phải đáp ứng các nhu cầu chính đáng của họ. Sở dĩ chúng ta xác định vị trí trên cho pháp luật về TĐC là bởi “chế định này không những bù đắp
  • 24. 18 cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất quyền lợi kinh tế họ mất đi khi thu hồi đất mà còn giúp đỡ họ trong việc tạo lập cuộc sống mới” [38, tr.6]. Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức tạp và nhạy cảm, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước, người bị thu hồi đất và chủ đầu tư. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để góp phần làm giảm các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện đông người, đảm bảo quyền, lợi ích cho người có đất bị thu hồi. 1.2.2. Các nguyên tắc của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất Khi Nhà nước ra quyết định THĐ sẽ làm phát sinh quan hệ bồi thường, hỗ trợ, TĐC giữa Nhà nước với người sử dụng đất. Bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi nhà nước THĐ là vấn đề rất nhạy cảm, dễ phát sinh khiếu kiện vì đụng chạm trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân. Vì vậy, nhà nước đã đề ra những nguyên tắc nhất định, bắt buộc các chủ thể liên quan phải tuân thủ: Người sử dụng đất chỉ được hưởng chính sách TĐC khi có đủ điều kiện luật định. Người sử dụng đất bị Nhà nước THĐ có đủ điều kiện để được bồi thường theo quy định của pháp luật thì được bồi thường. Mà TĐC cũng là một hình thức bồi thường - Bồi thường bằng đất hoặc nhà ở TĐC khi Nhà nước thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân. Bởi vậy, người sử dụng đất chỉ được hưởng chính sách TĐC khi có đủ điều kiện luật định. Cụ thể, khi Nhà nước thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở khác, không còn nhà ở nào khác thì Nhà nước phải có trách nhiệm ổn định chỗ ở cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, đất ở bị thu hồi cũng phải là hợp pháp hoặc đủ điều kiện để Nhà nước thu hồi đất công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp thì họ mới là đối tượng để Nhà nước có trách nhiệm lo tái định cư. Tương tự, nhà ở trên đất cũng phải hợp pháp thì trách nhiệm bồi thường cũng mới được đặt ra. Những trường hợp khác, tùy theo nguồn gốc, diễn biến, hiện trạng của người có đất và nhà bị thu hồi thì Nhà nước có những ứng xử khác nhau cho phù hợp.
  • 25. 19 Chính sách TĐC được thực hiện khi Nhà nước THĐ ở hoặc đất ở có nhà ở. Theo nguyên tắc chung, Nhà nước THĐ nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi tại thời điểm quyết địnhTHĐ. Như vậy, chỉ khi thu hồi đất ở hoặc đất ở có nhà ở thì Nhà nước mới thực hiện chính sách TĐC. Theo đó, chính sách TĐC bao gồm: bồi thường bằng đất ở mới - đất tái định cư; bằng nhà ở TĐC gắn liền với quyền sử dụng đất ở hoặc bồi thường bằng tiền là một trong những hình thức bồi thường thực hiện theo nguyên tắc nêu trên. Khi thực hiện Nhà nước cũng tạo điều kiện cho phép các hộ gia đình, cá nhân được quyền lựa chọn cho phù hợp với mong muốn và sự hợp lý của người có đất ở bị thu hồi. Nhà nước tiến hành THĐ ở nói chung và thực hiện chính sách TĐC nói riêng phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật. Trước hết, nguyên tắc này đòi hỏi phải đảm bảo dân chủ. Theo đó, dân phải được biết, được tham gia bàn luận và bày tỏ quan điểm, ý chí và nguyện vọng của mình về tất cả các khâu, các quy trình của quá trình THĐ, bồi thường, hỗ trợ, TĐC; đặc biệt là người dân phải được tham gia vào việc đóng góp ý kiến về dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC; được quyền khiếu nại, tố cáo về các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan có thẩm quyền trong quá trình thực hiện THĐ và bồi thường, GPMB nếu xét thấy các quyết định đó là trái pháp luật. Bên cạnh đó, quá trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ, TĐC đòi hỏi phải được thực hiện khách quan, công bằng và đúng pháp luật. Đây cũng là một nội dung quan trọng đòi hỏi các cơ quan thực thi pháp luật phải nghiêm minh. Theo đó, các chủ thể sử dụng đất có vị trí, khả năng sinh lợi như nhau, có nguồn gốc sử dụng đất hợp pháp thì phải được nhận chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC giống nhau mà không có bất kỳ một ngoại lệ nào. Thực hiện tốt vấn đề công bằng và khách quan, đúng pháp luật sẽ tạo được niềm tin của người dân đối với Nhà nước, theo đó người dân sẽ tự giác tuân theo; mặt khác, là một trong những yếu tố để hạn chế tình trạng khiếu nại, tố cáo tràn lan, tình trạng kích động và tụ tập để chống đối các cơ quan
  • 26. 20 thực thi công tác bồi thường và GPMB. Công khai, kịp thời trong khi thực hiện THĐ ở nói chung và chính sách TĐC nói riêng cũng là một yếu tố quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có đất bị thu hồi. Theo đó, tất cả các hoạt động có liên quan đến thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, TĐC phải được công khai cho người dân biết để dân có cơ hội được tìm hiểu quyền và nghĩa vụ của mình trước Nhà nước; thông qua đó để họ được chủ động hơn trong việc ổn định cuộc sống. Mặt khác, minh bạch, công khai cũng là cơ sở để người có đất bị thu hồi kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của cán bộ thực thi nhiệm vụ. Đồng thời, triển khai kịp thời chính sách TĐC sẽ đảm bảo cho người dân nhanh chóng ổn định đời sống, sản xuất ở nơi ở mới và chủ động hơn trong việc sắp xếp đời sống của mình. Đặc biệt, kịp thời được áp dụng nghiêm túc trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân sẽ có ý nghĩa quan trọng và thiết thực nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của người có đất bị thu hồi. Như vậy, trên cơ sở kế thừa những nguyên tắc khi thực hiện bồi thường nói chung và TĐC nói riêng trong Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013 đã bổ sung nhấn mạnh tính khách quan, dân chủ, công khai trong nguyên tắc thực hiện. Theo đó, phát huy vai trò vị trí của người dân trong công tác bồi thường nói chung và thực hiện chính sách TĐC nói riêng. Việc người dân được tham gia, giám sát, đóng góp ý kiến sẽ nâng cao chất lượng thực thi, là một cơ chế giám sát đắc lực đối với cán bộ công quyền và cũng sẽ góp phần giảm khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai. 1.2.3. Nội dung của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất Pháp luật về TĐC khi Nhà nước THĐ bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về TĐC khi Nhà nước THĐ. Lĩnh vực pháp luật này được hình thành và phát triển qua các giai đoạn khác nhau của đất nước, tương ứng với mỗi giai đoạn thì mục đích để hướng tới sự điều chỉnh cũng có sự khác nhau; sự khác nhau này phụ thuộc vào nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội và điều kiện phát triển kinh tế của đất nước trong từng thời kỳ. Theo quy định của pháp luật hiện hành về TĐC khi Nhà nước THĐ bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật cơ bản sau:
  • 27. 21 Thứ nhất, nhóm quy phạm quy định về nguyên tắc TĐC: nguyên tắc TĐC khi Nhà nước THĐ được hiểu là những quy định chung mang tính nền tảng, làm định hướng và tạo cơ sở cho việc thực hiện và áp dụng các quy định chi tiết về TĐC khi Nhà nước THĐ. Thực hiện tốt các nguyên tắc bồi thường và TĐC sẽ giúp cho công tác này được thực hiện một cách công bằng, khách quan và minh bạch. Thứ hai, nhóm quy phạm quy định về điều kiện được hưởng chính sách TĐC: Đây là nhóm quy phạm khá nhạy cảm và thu hút sự quan tâm đặc biệt của các cơ quan chức năng thực hiện bồi thường, hỗ trợ, TĐC, đặc biệt là đối với người bị THĐ. Theo đó, không phải mọi đối tượng khi Nhà nước thu hồi đất ở Nhà nước đều phải thực hiện trách nhiệm lo nhà ở hoặc đất ở TĐC. Chỉ có những đối tượng được pháp luật quy định với những điều kiện cụ thể mới được hưởng chính sách này. Nếu không đủ điều kiện để được hưởng TĐC thì người có đất bị thu hồi sẽ chủ động tự lo liệu chỗ ở. Thứ ba, nhóm quy phạm quy định về các hình thức TĐC: Nhóm quy phạm này đặt ra để các cơ quan, chính quyền địa phương nơi có đất bị thu hồi trên cơ sở căn cứ vào tình hình quỹ đất thực tế của địa phương, số lượng các hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển chỗ ở do hậu quả của việc THĐ để cơ quan có thẩm quyền xây dựng các phương thức TĐC bằng nhà ở, đất ở hoặc bồi thường để tự lo chỗ ở cho phù hợp. Mặt khác, các hình thức TĐC cũng là cơ sở để người có đất bị thu hồi thực quyền lựa chọn hình thức nào cho phù hợp nhất với khả năng và nhu cầu của mỗi chủ thể. Thứ tư, nhóm quy phạm quy định về trình tự, thủ tục TĐC đối với người bị THĐ. Luật Đất đai quy định những vấn đề tổng quát, mang tính nguyên tắc về trình tự, thủ tục TĐC khi Nhà nước THĐ. Trên cơ sở đó, các văn bản hướng dẫn thi hành có những quy định cụ thể về từng bước lập, bổ sung, thẩm định, thực hiện phương án TĐC, cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc TĐC khi Nhà nước THĐ. Thứ năm, nhóm quy phạm quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến TĐC khi Nhà nước THĐ. Người bị THĐ nếu không đồng ý với quyết định về
  • 28. 22 TĐC thì được quyền khiếu nại, tố cáo đến các cơ quan có thẩm quyền. Quy định này đảm bảo cho việc THĐ đúng mục đích, TĐC đúng đối tượng, đúng giá trị. Giải quyết một cách nghiêm minh, đúng pháp luật khiếu nại, tố cáo là phương thức phát huy vai trò của pháp luật và góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước. Đối với công dân, khiếu nại, tố cáo là phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. 1.3. Các yếu tố tác động đến tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất TĐC là quan hệ được đặt ra giữa Nhà nước và người có đất bị thu hồi phải di chuyển chỗ ở. Đây là vấn đề không chỉ ảnh hưởng tới các bên chủ thể liên quan mà được cả xã hội quan tâm. Chính bởi vấn đề này có tác dụng lớn tới quyền lợi của nhiều chủ thể, đặc biệt là quyền lợi thiết thân của người có đất bị thu hồi; đồng thời nó cũng là vấn đề thời sự thu hút được sự quan tâm của dư luận hiện nay nên pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất bị chi phối bởi các yếu tố. 1.3.1. Yếu tố chính trị: Quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai nói chung và chính sách, pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng. Xét về phương diện lý luận, pháp luật là sự thể chế hoá, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng. Hay nói cách khác, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng là sự định hướng về mặt chính trị cho hoạt động lập pháp, lập quy ở nước ta. Hoạt động xây dựng pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng không thể “thoát ly” các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước. Ở nước ta, trong điều kiện một Đảng cầm quyền, một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng là ban hành các quan điểm, đường lối, chủ trương về phát triển đất nước. Trên cơ sở đó, Nhà nước thể chế hoá các quan điểm, đường lối của Đảng bằng các quy định của pháp luật để quản lý xã hội. Vì vậy, pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thể chế hoá quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về vấn đề này. Như vậy, quan điểm, đường lối của Đảng có tác động trực tiếp đến
  • 29. 23 quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng. 1.3.2. Yếu tố kinh tế: Cơ chế quản lý kinh tế cũng có những tác động nhất định đến pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Trước đây, trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, kế hoạch hoá cao độ, đất đai không được thừa nhận là tài sản và không được phép trao đổi trên thị trường… pháp luật nghiêm cấm việc mua bán, chuyển nhượng đất đai. Do đó, đất đai có giá trị thấp. Vấn đề thu hồi đất dường như ít gặp phải những khó khăn, phức tạp. Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong thời kỳ này chưa phát triển. Tuy nhiên, kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước chủ trương xây dựng và phát triển nhiều thành phần kinh tế; các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật; quyền tự do kinh doanh của công dân được pháp luật công nhận và bảo hộ… Trong điều kiện kinh tế thị trường cơ chế quản lý đất đai có sự thay đổi: Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất là loại hàng hoá đặc biệt (là một loại quyền về tài sản) và được trao đổi trên thị trường; thừa nhận khung giá đất… đất đai ngày càng trở nên có giá. Việc thu hồi đất gặp nhiều khó khăn do người bị thu hồi đất không đồng thuận với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện vượt cấp, phức tạp, kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị. Để duy trì sự ổn định tình hình kinh tế - xã hội và phát triển đất nước. Nhà nước ban hành các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm giải quyết vấn đề này. Đây là vấn đề mang tính thời sự và phức tạp, vì vậy, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thường xuyên được rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của quản lý đất đai trong điều kiện kinh tế thị trường. 1.3.3. Yếu tố xã hội: Pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo ổn định xã hội. Hoạt động bồi thường, hỗ trợ, TĐC nói chung cũng như hoạt động TĐC nói riêng là hoạt động khó khăn và gây ra nhiều bức xúc trong dư luận nhiều năm trở lại
  • 30. 24 đây, đặc biệt đối với người dân phải di chuyển chỗ ở những người phải chịu nhiều thiệt thòi. Nếu như quyền lợi của họ không được quan tâm đúng mức, không được giải quyết thỏa đáng thì việc họ phản đối, gây cản trở cho quá trình Nhà nước thu hồi đất là một điều hoàn toàn dễ hiểu, thậm chí họ có thể bị các phần tử xấu lợi dụng gây mất trật tự an toàn xã hội. Đây là một hệ quả tất yếu bởi lẽ “xã hội sẽ bất an và rối loạn nếu dân chúng luôn cảm thấy phấp phỏng, lo lắng khi pháp luật và người thi hành pháp luật vô tình hay hữu ý đem đến cho họ sự rủi ro bất cứ lúc nào” [11, tr.3]. Bởi vậy, yêu cầu đặt ra đối với công tác TĐC là phải đảm bảo lợi ích tối đa của người được TĐC, giảm thiểu đến mức thấp nhất mâu thuẫn phát sinh giữa Nhà nước, nhà đầu tư với người dân trong quá trình thực hiện TĐC. Có như vậy mới đạt được sự đồng thuận từ phía người dân, qua đó đảm bảo được sự ổn định xã hội. Ngược lại, hậu quả để lại cho nhà nước và xã hội là không thể lường trước được. 1.4. Lƣợc sử hình thành và phát triển của pháp luật về tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất 1.4.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật Đất đai năm 1993 Trước khi có Hiến pháp năm 1980, Việt Nam cũng giống như các nước khác trên thế giới đều thừa nhận sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về đất đai, trong đó có sở hữu Nhà nước đối với đất đai, thuật ngữ bồi thường (hay đền bù) khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra từ khá sớm. Theo đó, Nghị định số151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) “Quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất” tại Chương 2 đã quy định với tiêu đề: “Bồi thường cho người có ruộng bị trưng dụng”. Do ruộng đất bị trưng dụng thuộc sở hữu tư nhân và sau khi đã trưng dụng thì thuộc sở hữu Nhà nước, vì vậy Nhà nước có cơ chế bồi thường theo nguyên tắc: những người có ruộng đất bị trưng dụng được bồi thường và trong trường hợp cần thiết được giúp giải quyết công ăn việc làm. Có thể thấy, Nhà nước đã thể hiện rất rõ nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có đất bị trưng dụng hoặc thu hồi trong những quy định của pháp luật đất đai ngay từ thời kỳ đầu của quản lý nhà nước về đất đai.
  • 31. 25 Tuy nhiên, dường như các quy định mới chỉ dừng lại đối với việc bồi thường ruộng đất. Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1959, một nguyên tắc hết sức cơ bản đã được ghi nhận là: "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải, thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác" (Điều 18) và "chỉ khi nào thật cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định" (Điều 20). Sau khi Hiến pháp năm 1980 ra đời, với sự ghi nhận đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý (điều 19), ở Việt Nam chỉ còn thừa nhận một hình thức sở hữu duy nhất đối với đất đai, đó là sở hữu toàn dân và Nhà nước sẽ thay mặt cho nhân dân thực hiện quyền sở hữu đó. Bên cạnh đó, điều 28 Hiến pháp 1980 đã ghi nhận: Khi thật cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước có thể trưng mua, trưng dụng hoặc trưng thu có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tập thể”. Đồng thời, trong thời kỳ này, trước yêu cầu quản lý đất đai một cách toàn diện bằng pháp luật, ngày 29/12/1987 đạo luật đất đai đầu tiên tạo nên những nét chấm phá trong việc ghi nhận về các khía cạnh quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai đã ra đời. Tại điều 14 của Luật Đất đai năm 1987 đã quy định các trường hợp Nhà nước thu hồi đất, trong đó có trường hợp “cần sử dụng đất cho nhu cầu của Nhà nước hoặc của xã hội”. Tại khoản 5, điều 49, Luật đất đai 1987 cũng đã xác định trách nhiệm đền bù của Nhà nước: “Khi đất đang sử dụng bị thu hồi vì nhu cầu của Nhà nước hoặc xã hội thì được đền bù thiệt hại thực tế và được giao đất khác”. Ở thời kỳ này, người bị thu hồi đất không được hưởng khoản tiền đền bù về đất, bởi vì họ được giao đất để sử dụng chứ không mất tiền, đất ở thời kỳ này chỉ được coi như một thứ phúc lợi xã hội. Luật Đất đai 1987 chưa quy định về giá đất, ai có nhu cầu sử dụng đất thì được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, ai không còn nhu cầu sử dụng thì Nhà nước thu hồi lại đất, pháp luật không cho phép người sử dụng đất thực hiện các giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất, mà chỉ được định đoạt các tài sản thuộc sở hữu của mình trên đất mà thôi. Vì vậy, khoản tiền đền bù thiệt hại về đất phải được
  • 32. 26 chuyển giao cho Nhà nước. Tuy nhiên, các quy định về đền bù thiệt hại đối với đất hay tài sản được ghi nhận trong pháp luật đất đai rất sơ sài, thiếu các cơ sở pháp lý cần thiết mang tính nguyên tắc để thực hiện trên thực tế. Như vậy, có thể nói, giai đoạn này chính sách đất đai còn thể hiện sự bao cấp, quan hệ đất đai được xác lập bằng phương pháp mệnh lệnh hành chính xin cho, đất đai được coi là không có giá, chỉ cấp phát để sử dụng chứ không mất tiền. Đất đai không được nhìn nhận dưới quan hệ giá trị theo quy luật thị trường, chính vì vậy vấn đề bồi thường nói chung và quy định về tái định cư nói riêng đối với người sử dụng đất chưa được chú trọng cũng là điều dễ hiểu. Đến Hiến pháp năm 1992, nguyên tắc Nhà nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp về tài sản của công dân đã được khẳng định với nội dung: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường” (Điều 23). Như vậy, mặc dù không đề cập trực tiếp đến việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất song Hiến pháp năm 1992 vẫn ghi nhận và bảo hộ quyền lợi hợp pháp của công dân đối với tài sản của mình khi bị Nhà nước trưng mua, trưng dụng vì lợi ích chung thông qua việc bồi thường. Tóm lại, trong giai đoạn này, những nguyên tắc về bồi thường khi Nhà nước THĐ đã bước đầu được đề cập, song pháp luật hoàn toàn thiếu vắng những quy định về tái định cư. 1.4.2. Giai đoạn từ khi có Luật Đất đai năm 1993 đến trước khi ban hành Luật Đất đai năm 2003 Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, ngày 14/7/1993, Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật Đất đai mới thay thế Luật Đất đai năm 1987 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/1993. Luật Đất đai năm 1993 đã đề cập trực tiếp vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, điều 27 Luật Đất đai 1993 quy định: “Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại”, việc bù đắp thiệt hại khi bị thu hồi đất
  • 33. 27 được coi như một quyền năng của người sử dụng đất và được khẳng định tại khoản 6, điều 73 Luật Đất đai 1993: “…được bồi thường thiệt hại về đất khi bị thu hồi”. Nhà nước thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp đối với người sử dụng đất khi có quy định rõ: Trước khi thu hồi phải thông báo cho người đang sử dụng đất biết về lý do thu hồi, thời gian, kế hoạch di chuyển, phương án đền bù thiệt hại (điều 28). Tuy nhiên, pháp luật vẫn còn thiếu các quy định về giải quyết vấn đề tái định cư. Cụ thể hóa các quy định về vấn đề bồi thường trong Luật Đất đai 1993, ngày 17/8/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/CP “Quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”. Cùng ngày 17/8/1994 Chính phủ ban hành Nghị định số 87/CP quy định khung giá các loại đất, giá đất này làm căn cứ cho việc tính tiền đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất; sau đó là Nghị định số17/1998/NĐ- CP của Chính phủ ngày 21/3/1998 về việc sửa đổi, bổ sung khoản 2, điều 4 của Nghị định số 87/CP ngày 17/8/1994. Theo tinh thần của Nghị định số 90/CP, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất hợp pháp mà bị Nhà nước thu hồi đất thì được Nhà nước đền bù thiệt hại về đất và đền bù thiệt hại về tài sản hiện có trên đất. Quy định này thể hiện rất rõ ràng quan điểm của Nhà nước khi coi quyền sử dụng đất đã giao cho người sử dụng đất, cũng như tài sản hiện có trên đất là những tài sản hợp pháp được pháp luật bảo vệ nếu có thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai Nghị định này cho thấy khá nhiều bất cập, mà bất cập lớn nhất là quy định về giá bồi thường quá thấp, nên người bị thu hồi đất không đồng thuận với phương án bồi thường, phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo dài. Để khắc phục những hạn chế này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 “Về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”, Nghị định này thay thế cho Nghị định số 90/CP. Văn bản này đã thể hiện những khía cạnh cơ bản sau: Quy định rõ đối tượng phải đền bù thiệt hại là tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; quy định rõ các điều kiện để được đền
  • 34. 28 bù thiệt hại; giá đất để tính đền bù thiệt hại được xác định trên cơ sở giá đất của địa phương ban hành theo quy định của Chính phủ nhân với hệ số K, để đảm bảo giá đất tính đền bù phù hợp với khả năng sinh lời và giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất của địa phương; người bị thu hồi đất ngoài việc được đền bù còn được hưởng các chính sách hỗ trợ. Với sự ra đời của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001 ngày 29/6/2001, thuật ngữ “đền bù” khi Nhà nước thu hồi đất đã được thay thế bằng thuật ngữ “bồi thường” cho phù hợp hơn. Nhìn chung với sự ra đời của các văn bản pháp luật trên, đã từng bước tạo lập được khung pháp lý quan trọng, đồng bộ cho việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Theo Báo cáo tổng kết mười năm (1993-2003) của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì công tác thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng đã đáp ứng hầu hết nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng, xây dựng các công trình. Trong đó, theo báo cáo của 37 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, từ năm 1993 đến năm 2003 đã thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng cho hàng vạn hộ dân tại 11.730 công trình với tổng diện tích 66.350 ha. Trong quá trình giải phóng mặt bằng, đã giải quyết hàng chục ngàn trường hợp khiếu nại về bồi thường. Những kết quả khả quan đạt được đã góp phần tạo đà cho công tác quản lý đất đai dần đi vào nề nếp, tạo điều kiện sử dụng đất đai hợp lý và hiệu quả hơn, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng, mặc dù đã qua nhiều lần điều chỉnh với nhiều văn bản pháp luật trong vòng 10 năm nhưng công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng vẫn còn nhiều ách tắc, bất cập. Đặc biệt là quy định về giá đất làm căn cứ tính bồi thường trong Nghị định 87/CP quá thấp. Trong khi đó, khoảng thời gian này, Việt Nam chúng ta đã chứng kiến hai lần sốt đất (giai đoạn 1992-1993 và giai đoạn 2001-2002) làm cho giữa giá đất của Nhà nước quy định với giá đất trên thị trường vênh nhau một khoảng cách khá lớn. Giá đất trên thị trường ngày càng tăng so với giá Nhà nước, việc mua bán trao tay diễn ra khá sôi động, giúp cho người dân kiếm lời dễ dàng, đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc người dân không chấp thuận các quy định về bồi thường giải phóng mặt bằng, dẫn
  • 35. 29 đến khiếu kiện kéo dài. Mặt khác, trong thời gian này, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra sôi động. Theo đó nhu cầu sử dụng đất cho các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao, nhu cầu đất cho chỉnh trang phát triển đô thị,…là rất lớn. Song pháp luật không quy định về vấn đề thu hồi đất cho mục tiêu phát triển kinh tế, khi có nhu cầu cho mục đích này Nhà nước để cho các chủ đầu tư tự thỏa thuận với người dân. Điều đó dẫn đến hậu quả là mức bồi thường ở các dự án khác nhau sẽ khác nhau, cho dù đất có những điều kiện tương đồng như cùng mục đích sử dụng, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội như nhau, khả năng sinh lời như nhau. Đây cũng là một trong những nguyên nhân không nhỏ dẫn đến khiếu kiện về bồi thường, giải phóng mặt bằng. Bên cạnh đó, vấn đề tái định cư đã bước đầu được đề cập nhưng cũng chưa được quan tâm thỏa đáng trong giai đoạn này, trong khi đây là vấn đề lớn của công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Có thể thấy, những quy định về bồi thường, giải phóng mặt bằng ngày càng được định hình rõ nét và được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Tuy nhiên, trong thực tiễn cuộc sống, các quan hệ đất đai luôn vận động không ngừng, đặc biệt là trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng khi đất nước chuyển sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính vì vậy, cần phải có sự nghiên cứu, phân tích, đánh giá vấn đề này một cách nghiêm túc hơn từ khâu xây dựng pháp luật, đến cơ chế thực thi pháp luật trong lĩnh vực này, Luật Đất đai năm 2003 đã ra đời trong bối cảnh đó. 1.4.3. Giai đoạn từ khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay Đặt trong mối quan hệ so sánh với sự phát triển nhanh chóng của tình hình kinh tế-xã hội của đất nước và xu hướng hội nhập quốc tế, quy định của Luật Đất đai năm 1993 về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất không còn phù hợp: giá đất bồi thường còn có một khoảng cách khá xa so với giá chuyển nhượng quyền SDĐ trên thị trường; các vấn đề về tái định cư cho người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở, giải quyết việc làm, đào tạo chuyển đổi nghề cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp… chưa quy định rõ ràng cơ chế thực hiện v.v. Điều này đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng. Phúc đáp đòi hỏi của thực tiễn, ngày
  • 36. 30 26/11/2003, Quốc hội Khoá XI, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật Đất đai mới (gọi là Luật Đất đai năm 2003) thay thế cho Luật Đất đai năm 1993. Luật Đất đai năm 2003 dành hẳn mục 4, chương 2 để quy định về thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất với nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, kèm theo là khá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, có thể kể tên một số văn bản tiêu biểu sau: Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai; Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (sau đây gọi tắt là Nghị định 197) đây là văn bản đề cập trực tiếp và toàn diện những khía cạnh pháp lý về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, trong đó nhấn mạnh quan điểm giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người sử dụng đất và lợi ích của nhà đầu tư, đề cao nguyên tắc công khai minh bạch trong thu hồi đất; Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất; Nghị định số17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần (gọi tắt là Nghị định 17). Đặc biệt sau khi có sự ra đời của Nghị định 197, một văn bản quy định khá trọn vẹn các vấn đề về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; qua một thời gian thực hiện, Nhà nước đã tiếp tục ban hành hai văn bản quy định khá chi tiết một số vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực bồi thường, để đáp ứng kịp thời nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, đó là Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai (sau đây gọi tắt là Nghị định 84); Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗt trợ và tái định cư (sau đây gọi tắt là Nghị định 69). Có thể thấy, các quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư nói chung cũng như những quy định về tái định cư nói riêng khi Nhà nước thu
  • 37. 31 hồi đất đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Với sự có mặt của Luật Đất đai năm 2003, sau gần 10 năm thi hành cho thấy, Luật Đất đai năm 2003 đã đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Theo đó, các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư từng bước được điều chỉnh, bổ sung phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế thị trường, đảm bảo tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người bị thu hồi đất. Tuy nhiên, việc thu hồi đất để thực hiện các dự án vẫn là một trong những vấn đề nổi cộm ở nhiều địa phương, làm chậm tiến độ triển khai nhiều dự án đầu tư, gây bức xúc cho cả người sử dụng đất, nhà đầu tư và chính quyền nơi có đất thu hồi. Mà một trong những nguyên nhân dẫn đến vướng mắc, khiếu kiện và còn nhiều hạn chế đó là về chính sách tái định cư, chất lượng khu tái định cư… Để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, việc ban hành Luật Đất đai sửa đổi là hết sức cần thiết, vì vậy ngày 29/11/2013 Luật Đất đai năm 2013 đã được thông qua, và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu những đổi mới về chính sách đất đai nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luật Đất đai năm 2013 đã có nhiều quy định bổ sung, sửa đổi, đồng thời cũng đã luật hóa và quy định cụ thể trong luật nhiều nội dung liên quan đến vấn đề tái định cư. Như vậy, trải qua một quá trình hình thành và phát triển khá lâu dài, gắn liền với việc Nhà nước ban hành các đạo luật: Luật Đất đai 1987; Luật Đất đai 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai vào năm 1998 và năm 2001; Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013, từ việc chưa được quy định cụ thể, đến việc ghi nhận và được sửa đổi, bổ sung, các quy định về tái định cư đã ngày càng hoàn thiện nhằm đáp ứng kịp thời những đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống, chú trọng việc bù đắp lợi ích vật chất và tinh thần của người có đất bị thu hồi, đảm bảo giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, người có đất bị thu hồi và người được giao đất.
  • 38. 32 Kết luận chƣơng 1 Trong chương 1, nội dung được làm rõ là các vấn đề lí luận về TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm: lí luận về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và lí luận về pháp luật tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Triển khai nội dung lí luận chung về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất qua việc phân tích khái niệm về thu hồi đất và khái niệm về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tiếp đó khái quát ý nghĩa của việc tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đối với người dân thuộc đối tượng TĐC, nhà đầu tư và Nhà nước. Triển khai nội dung lí luận về pháp luật tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất qua việc phân tích khái niệm pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, các nguyên tắc của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, nội dung của pháp luật tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Các yếu tố tác động đến tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất qua các giai đoạn. Chính sách pháp luật về TĐC tốt sẽ góp phần làm cho môi trường đầu tư hấp dẫn hơn, thu hút được nguồn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài nhiều hơn, tạo được sự đồng thuận của xã hội, ổn định cuộc sống của người dân, qua đó phát triển kinh tế nước nhà. Chính sách TĐC có ý nghĩa rất quan trọng đối với cả Nhà nước, người được TĐC và nhà đầu tư. Nếu chính sách TĐC đề ra hợp lý, đảm bảo được lợi ích của các chủ thể liên quan thì sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
  • 39. 33 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TẠI HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN 2.1. Thực trạng pháp luật về tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất 2.1.1. Thực trạng các quy định về điều kiện được hưởng chính sách tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất Điều kiện bồi thường: Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Đối tượng bị THĐ được bồi thường (đủ điều kiện trên): Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền,thuê đất hàng năm; người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam; Cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng đang sử dụng đất mà không phải là đất do Nhà nước giao, cho thuê; trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Tổ chức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; nhận thừa kế quyền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp, tiền nhận chuyển nhượng đã trả không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước,như đã phân tích ở trên, chính sách TĐC là chính sách bồi thường đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất ở. Điều kiện để được hưởng chính sách TĐC chính là điều kiện để được hưởng chính sách bồi thường khi Nhà nước THĐ ở. Nội dung này được quy định tại Điều 79 Luật đất đai năm 2013 với từng nhóm đối tượng như sau: Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam mà có đủ điều