SlideShare a Scribd company logo
1 of 97
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự tìm tòi,
nghiên cứu; các số liệu trong luận văn có cơ sở rõ ràng và
trung thực.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hồng Khanh
2
MỞ ĐẦU
Tài nguyên nước hiện nay đã và đang được các quốc gia và toàn thể cộng đồng
trên thế giới quan tâm bảo vệ. Như chúng ta đã biết, Hội nghị thượng đỉnh của lãnh
đạo các quốc gia trên thế giới tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil), tháng 6/1992 về
Môi trường và Phát triển, đã đưa ra bốn nguyên tắc khuyến nghị các quốc gia trên
thế giới có những biện pháp khẩn cấp, nhằm tăng cường việc bảo vệ và phát triển
nguồn nước, trong đó đã đề cập đến các khía cạnh sinh thái, thể chế, xã hội và kinh
tế. Cụ thể như sau:
“Nguyên tắc sinh thái: Nước ngọt là nguồn tài nguyên có hạn và dễ bị tổn
thương, cần thiết cho sự sống, phát triển và môi trường.
Nguyên tắc thể chế: Phát triển và quản lý nước phải dựa trên cơ sở tiếp cận có
sự tham gia của các bên có liên quan, từ người sử dụng đến người lập kế hoạch quy
hoạch, người lập chính sách, ở mọi cấp độ.
Nguyên tắc xã hội: Phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc cung cấp, quản lý
và đảm bảo an toàn về nước.
Nguyên tắc kinh tế: Nước có giá trị kinh tế ở mọi nhu cầu sử dụng có tính cạnh
tranh và phải được xem như hàng hóa kinh tế”.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, nước đã được coi là tài nguyên và Chính
phủ đã đệ trình Quốc hội ban hành Luật Tài nguyên nước, chính thức được thông
qua vào tháng 5/1998.
Việc ban hành Luật Tài nguyên nước là một bước tiến quan trọng trong việc
đưa vấn đề bảo vệ tài nguyên nước trở thành một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn
hiện nay của Chính phủ Việt Nam, đồng thời cũng đưa Việt Nam là một trong số ít
các nước có Luật riêng về Tài nguyên nước.
Tại mục 3, khoản 1, Điều 23 của Luật Tài nguyên nước đã quy định về nghĩa
vụ của các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước như sau:
“1. Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước có những nghĩa vụ
sau đây:
e) Thực hiện nghĩa vụ tài chính; bồi thường thiệt hại do mình gây ra trong khai
3
thác, sử dụng tài nguyên nước theo quy định của pháp luật”.
Tại khoản 3, Điều 47 của Luật Tài nguyên nước, về khai thác và bảo vệ công
trình thuỷ lợi đã quy định:
“3. Tổ chức, cá nhân khai thác và hưởng lợi từ công trình thủy lợi phải thực
hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật”.
Như vậy, tiếp cận nước là một loại hàng hoá kinh tế và việc các tổ chức, cá
nhân phải có trách nhiệm tài chính đối với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước
đã được các quốc gia và Chính phủ Việt Nam quan tâm từ lâu.
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đến nay, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng để hình thành nên một
hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hết sức to lớn, góp phần quan trọng trong việc tưới
tiêu, cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm
muối, phòng chống lũ lụt, cấp nước công nghiệp, sinh hoạt, giao thông, du lịch và
nhiều ngành kinh tế xã hội khác. Hiệu quả của công tác thuỷ lợi mang lại cho sản
xuất đời sống xã hội là hết sức to lớn, có những hiệu quả tính được bằng tiền, nhưng
cũng có nhiều những hiệu quả hết sức to lớn khác khó có thể định lượng được, đó là
những tác động tích cực về dân trí, xã hội môi trường, nông nghiệp nông thôn...
Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý và khai thác khép kín các công trình, hệ thống
công trình thuỷ lợi, hiện nay, cả nước đã hình thành một hệ thống các tổ chức để
quản lý, khai thác các công trình như sau:
- Khoảng 100 doanh nghiệp quản lý các công trình đầu mối lớn, kênh trục
chính (cấp 1, cấp 2): các công trình đầu mối lớn, kênh trục chính, chưa bao gồm các
tổ chức khác thuộc nhà nước cũng được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi.
- Khoảng 12.000 tổ chức hợp tác dùng nước bao gồm các hợp tác xã nông lâm
nghiệp có làm dịch vụ thuỷ lợi, hợp tác xã dùng nước, tổ chức hợp tác, Ban quản lý,
khai thác công trình thuỷ lợi, tổ thuỷ nông, đường nước độc lập... quản lý các công
4
trình thuỷ lợi cơ sở nhỏ, hệ thống thuỷ lợi mặt ruộng.
- Một số loại hình có tính chất đặc thù khác: như Ban, Trạm Quản lý khai thác
công trình thuỷ lợi huyện, liên xã, Trung tâm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi,
Chi cục thuỷ lợi, công ty khác cũng được giao chức năng quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi.
Để đảm bảo cho các hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên vận hành an toàn,
hàng năm yêu cầu phải có đủ kinh phí để vận hành, duy tu, bảo dưỡng, chưa kể đến
kinh phí yêu cầu xây dựng mới, nâng cấp, khôi phục công trình hư hỏng do sử dụng
lâu ngày và do thiên tai gây ra và kinh phí khắc phục hạn hán, úng lụt. Với mục tiêu
này, chính sách thuỷ lợi phí đã được ban hành.
Nhằm bù đắp một phần kinh phí yêu cầu nói trên, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp
ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương thu thuỷ lợi phí từ người hưởng lợi
và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các đơn vị quản lý khai thác công trình
thủy lợi. Ngay từ năm 1962, Hội đồng Chính phủ, nay là Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 66/CP ngày 5/6/1962 quy định điều lệ thu thuỷ lợi phí, tuy nhiên Nghị
định này chỉ áp dụng đối với các hệ thống nông giang lớn. Tiếp đó, là các Nghị định
số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị định số
143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ.
Để khuyến khích sản xuất lương thực, trong các văn bản trên, thuỷ lợi phí đối
với tưới chỉ thu ở mức cần thiết, đảm bảo chi phí cho sửa chữa thường xuyên (chưa
tính đến chi phí nâng cấp, thu hồi vốn). Nhà nước phải hỗ trợ phần chi phí tiền điện
tiêu úng, sửa chữa công trình hư hỏng nặng do thiên tai gây ra bằng những quy định
chặt chẽ.
Xuất phát từ chính sách hỗ trợ nông dân được giao đất sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối, từ năm 2008, Chính phủ đã miễn giảm
thuỷ lợi phí cho người dân theo quy định của Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày
15/10/2007 của Chính phủ, sau đó được thay thế bằng Nghị định số 115/2008/NĐ-
CP ngày 14/11/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
5
điều của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.
Việc nghiên cứu và ban hành chính sách thuỷ lợi phí phù hợp từng giai đoạn
phát triển của đất nước là thực sự cần thiết như đã được đề cập ở trên. Ngoài việc
giúp có được một khoản kinh phí đáng kể cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng
công trình, nếu chính sách thuỷ lợi phí phù hợp, chúng ta sẽ nâng cao được ý thức
của người nông dân trong việc sử dụng nước có ý thức, tiết kiệm và nâng cao trách
nhiệm, vai trò của họ trong việc gìn giữ, bảo vệ công trình thuỷ lợi.
Về bản chất, thuỷ lợi phí thực chất là chính sách của nhà nước đối với nông
dân, vì khi nhà nước hỗ trợ cho công ty khai thác công trình thuỷ lợi phần thiếu hụt
do mất mùa không thu được thuỷ lợi phí, hoặc thu ở mức quy định thấp chính là nhà
nước hỗ trợ nông dân để sản xuất lương thực. Ở từng giai đoạn phát triển sẽ có
chính sách thuỷ lợi phí tương ứng, thu hay miễn, giảm là giải pháp cụ thể của Chính
phủ nhằm mục đích đáp ứng bài toán phát triển tổng thể kinh tế xã hội, phù hợp với
từng giai đoạn, và bài toán được đặt ra đối với chính sách thủy lợi phí sẽ là:
- Nếu quy định thu thuỷ lợi phí, Nhà nước sẽ giảm nguồn kinh phí đáp ứng cho
vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa công trình.
- Ngược lại, nếu giảm hoặc không thu, Nhà nước phải hỗ trợ hoặc chi phí
nhiều hơn cho công tác quản lý vận hành, khai thác công trình thuỷ lợi.
Là một cán bộ làm việc tại Tổng cục Thuỷ lợi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, cơ quan chuyên nghiên cứu, tham mưu đề xuất giúp Bộ và giúp Chính
phủ ban hành các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi, bao gồm cả cơ chế chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi và chính sách về thuỷ lợi phí, học viên lựa chọn và thực hiện đề tài
luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động
tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp” nhằm đóng góp một phần nhỏ bé của
mình vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp đổi
mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách thuỷ lợi phí.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ lâu, chính sách thuỷ lợi phí đã được Chính phủ, các Bộ ngành và chính
quyền các địa phương rất quan tâm, nhằm đảm bảo một khoản kinh phí nhất định để
đáp ứng cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa các công trình thuỷ lợi.
6
Có thể liệt kê ra một số các công trình, tài liệu nghiên cứu có liên quan đến chính
sách thuỷ lợi phí như sau:
- Quản lý thuỷ nông trong nền kinh tế thị trường, Đoàn Thế Lợi, sách do Nhà
xuất bản nông nghiệp – 2004.
- Thuỷ lợi phí và chính sách thuỷ lợi phí trong nền kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế - Đề tài cấp Bộ, Trung tâm nghiên cứu Kinh tế, Viện Khoa học
Thuỷ lợi thực hiện năm 2007-2008.
- Nghiên cứu xây dựng giá nước tại hệ thống thuỷ lợi hồ Núi Cốc – tỉnh Thái
Nguyên – Trung tâm nghiên cứu kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực hiện năm
2002.
- Nghiên cứu mô hình quản lý thuỷ lợi hiệu quả và bền vững phục vụ nông
nghiệp và nông thôn, Trung tâm nghiên cứu kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực
hiện năm 2006-2008.
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống các chỉ tiêu khoản mục chi phí hợp lý trong
sản xuất 1m3
nước để tính giá nước lấy từ công trình thủy lợi cho các mục đích sử
dụng khác nhau, Trường Đại học Thuỷ lợi thực hiện, năm 2006-2007.
- Nghiên cứu tính giá thành 1m3
nước tưới tiêu của hệ thống thuỷ lợi sáu trạm
bơm Bắc Nam Hà, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam 2007-2008.
- Nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ chính sách miễn, giảm thuỷ lợi phí,
Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, thực hiện năm
2008-2009.
Tuy vậy, những nghiên cứu này chủ yếu tiến hành vào trong giai đoạn nhà
nước đang thực hiện thu thuỷ lợi phí hoặc chính sách miễn thuỷ lợi phí đang được
thực hiện ở giai đoạn đầu chưa thực sự hoàn thiện, nên chưa thể hiện được nhiều và
toàn diện. Mặc dù vậy, các tài liệu này sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị để
học viên tiến hành nghiên cứu này.
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
1. Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn chính sách thuỷ lợi phí, luận văn sẽ
7
kiến nghị, luận chứng những giải pháp bảo đảm hiệu quả của chính sách thuỷ lợi
phí, nhằm góp phần nghiên cứu đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của công tác quản lý, khai thác công trình thủy lợi trong thời gian tới. Để đạt được
mục đích này, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, quá trình hình thành và thực thi chính sách thuỷ lợi
phí ở Việt Nam.
- Phân tích, xác định những mặt được, những mặt còn hạn chế và tác động chủ
yếu của chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong sản xuất nông nghiệp đối với hoạt
động quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi.
- Kiến nghị đề xuất một số giải pháp, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác
các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có.
2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu: Đánh giá tổng thể trên phạm vi cả nước, có tập trung
nghiên cứu điển hình tại 1 tỉnh.
Do thuỷ lợi phí là chính sách nhạy cảm, có tác động đến nhiều đối tượng dùng
nước, phạm vi của luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá các tác động của
thuỷ lợi phí trong tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở hoạt động của
các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi.
III. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu đã nêu trên, cách tiếp cận và
phương pháp nghiên cứu trong luận văn được sử dụng như sau:
- Cách tiếp cận: được vận dụng theo phương pháp từ dưới lên, từ đối tượng
hưởng lợi; tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, tổ chức hợp tác dùng nước;
cơ quan nghiên cứu; cơ quan quản lý nhà nước về quản lý, khai thác công trình thuỷ
lợi.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp khảo sát từ thực tế quản lý, khai thác ở một số hệ thống công
trình thuỷ lợi;
+ Áp dụng triệt để nguyên tắc tiếp cận từ dưới lên;
8
+ Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá;
+ Phương pháp chuyên gia.
IV. CÁC KẾT QUẢ DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC
- Cơ sở lý luận quá trình hình thành và thực thi chính sách thuỷ lợi phí;
- Những tác động chủ yếu của chính sách thuỷ lợi phí trong sản xuất nông
nghiệp tới hoạt động quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi;
- Đề xuất định hướng chính sách thuỷ lợi phí phù hợp đối với sản xuất nông
nghiệp.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và áp dụng
trong việc nghiên cứu, sửa đổi bổ sung chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí và các
chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Từ các vấn đề đã được trình bày ở trên sẽ hình thành nội dung nghiên cứu.
Những nội dung này được thể hiện trong bố cục của luận văn như sau:
9
Chương 1:
THỰC TRẠNG THUỶ LỢI Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan thực trạng về các hệ thống thuỷ lợi.
Ngành thuỷ lợi giữ một vị trí quan trọng đối với phát triển sản xuất nông
nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, nhân dân ta có
truyền thống và bề dày lịch sử làm thuỷ lợi, xây dựng hệ thống đê điều và mạng lưới
kênh rạch “dẫn thuỷ nhập điền” rộng khắp, nhằm khai thác mặt lợi và hạn chế mặt
hại của nước.
Từ khi giành độc lập, đặc biệt kể từ giai đoạn đất nước thống nhất đến nay,
Nhà nước và nhân dân ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác thuỷ lợi. Kết quả đầu tư
thuỷ lợi không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội
sâu sắc. Trong phát triển nông nghiệp, thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu, nhờ được đầu
tư thuỷ lợi rộng khắp trên mọi vùng đất nước, đã tạo điều kiện đưa khoa học kỹ
thuật trong nông nghiệp, nhất là về giống, về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ.
Trước đây, nhiều khu vực ở miền núi, Trung bộ, Tây nguyên, Đông Nam bộ hầu hết
dựa vào nước "trời" thì nay phần lớn diện tích gieo trồng lúa, và một phần diện tích
cây trồng cạn đã được tưới nước bằng công trình thuỷ lợi.
Trong quá trình phát triển nông nghiệp nói riêng và kinh tế xã hội nói chung,
công tác thuỷ lợi luôn có vị trí quan trọng và nhận được sự quan tâm đầu tư của Nhà
nước cùng với sự đóng góp công sức vô cùng to lớn của nhân dân. Sự nghiệp phát
triển thuỷ lợi đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng cho sự phát
triển của mọi ngành kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để nông nghiệp nước ta có những
bước nhảy vọt.
Nhiều thập kỷ qua, cùng với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội, Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng nhiều công trình, hệ thống công trình thuỷ
lợi lớn, nhỏ, hình thành nên một cơ sở vật chất hạ tầng hết sức to lớn, phục vụ đa
mục tiêu tưới tiêu cho nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, cắt lũ, giao thông, phát
10
điện, ngăn mặn giữ ngọt, du lịch..., bảo đảm cho sản xuất và đời sống dân sinh. Đặc
biệt, thuỷ lợi đã góp phần ổn định sản xuất, giữ vững và nâng cao năng suất sản
lượng cây trồng, đảm bảo an ninh lương thực, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, đưa
nước ta từ một nước thiếu lương thực, trở thành một nước không chỉ ổn định lương
thực mà còn có dư thừa, là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu trên
thế giới.
Theo kết quả điều tra đánh giá của Cục Thuỷ lợi, đến nay (31/12/2008), trên cả
nước đã hình thành rất nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi lớn nhỏ, trong đó có 904
hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn có diện tích phục vụ từ 200ha trở lên. Cụ thể số lượng
phân theo các loại diện tích tưới được thể hiện ở 1.1.
Bảng 1.1: Hệ thống công trình thuỷ lợi phân theo diện tích phục vụ
TT Khu vực
Tổng
số
Phân loại theo diện tích phục
vụ
> 2.000 (ha) 2002.000 (ha)
1 Miền núi Bắc bộ 78 10 68
2 Đồng bằng trung du Bắc bộ 44 28 16
3 Bắc Trung bộ 227 23 204
4 Duyên hải Nam Trung bộ 51 21 30
5 Tây Nguyên 87 8 79
6 Đông nam Bộ 82 8 74
7 Đồng bằng sông Cửu Long 335 12 323
Tổng cộng 904 110 794
Trong danh mục 110 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 2.000ha trở lên
trên toàn quốc, bao gồm:
- 19 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 2.000 ÷ 3.000 ha.
- 15 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 3.000 ÷ 4000 ha.
- 9 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 4.000 ÷ 5000 ha.
- 13 hệ thống có diện tích phục vụ từ 5.000 ÷ 10000 ha.
- 43 hệ thống có diện tích phục vụ từ 10.000 ÷100.000 ha.
11
- 11 hệ thống có diện tích phục vụ lớn hơn 100.000 ha.
Tổng số có trên 5000 hồ chứa các loại, với tổng dung tích trữ nước trên 35,34
tỷ m3
, gồm: 26 hồ chứa thuỷ điện có tổng dung tích trữ là 27,12 tỷ m3
, 2460 hồ chứa
thủy lợi có dung tích từ 200 ngàn m3
trở lên và hàng ngàn hồ nhỏ với tổng dung tích
trữ khoảng 8,22 tỷ m3
, phục vụ cho phát điện, cấp nước sinh hoạt, cấp nước cho các
ngành kinh tế trọng yếu và bảo đảm tưới cho 80 vạn ha đất canh tác; trên 10.000
trạm bơm điện lớn với các loại máy bơm khác nhau, có tổng công suất lắp máy phục
vụ tưới là 250 Mw, phục vụ tiêu là 300Mw.
Ngoài ra, còn có gần 5.000 cống tưới tiêu lớn các loại. Tổng số 126.000km
kênh mương các loại, trong đó có trên 1.000 km kênh trục lớn, cùng với hàng vạn
công trình trên kênh. Trên 26.000 km bờ bao ngăn lũ đầu vụ hè thu ở Đồng bằng
sông Cửu Long, khoảng 3700 km đê sông, trên 2000 km đê biển.
Các hệ thống công trình thuỷ lợi này đã cơ bản đáp ứng được những yêu cầu
thiết yếu trong sản xuất và đời sống dân sinh. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay,
việc biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang diễn ra theo chiều hướng cực đoan và
đã có những tác động trực tiếp và rõ nét đối với nước ta đòi hỏi Chính phủ và nhân
dân ta cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa trong công tác đầu tư và quản lý khai thác
mới có thể đáp ứng được các mục tiêu, yêu cầu ngày càng lớn hiện nay.
1.2. Tổ chức, quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.
Để quản lý, vận hành các hệ thống công trình thuỷ lợi đã có, hiện nay cả nước
hình thành một hệ thống tổ chức quản lý thuỷ nông, khép kín gồn hai cấp bao gồm:
- Các đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc Nhà nước.
- Các tổ chức quản lý thuỷ nông thuộc tập thể, người dân (gọi là tổ chức hợp
tác dùng nước).
Các tổ chức này độc lập hoặc phối hợp với nhau trong việc quản lý, khai thác
hệ thống công trình thuỷ lợi, đảm bảo phục vụ các hoạt động sản xuất và dân sinh
kinh tế.
1.2.1. Số lượng, loại hình các đơn vị quản lý thuỷ nông thuộc nhà nước
Theo quy định tại Điều 9, Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi:
12
“Công trình thuỷ lợi được xây dựng bằng ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ
ngân sách nhà nước do doanh nghiệp nhà nước quản lý, khai thác và bảo vệ”.
Theo số liệu báo cáo của các địa phương trên toàn quốc, hình thức tổ chức
quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước trên toàn quốc chủ yếu là các
doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, trong từng điều kiện cụ thể,
mỗi địa phương đã quy định những mô hình tổ chức khác nhau. Cụ thể ở các vùng
như sau:
1.2.1.1. Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc:
Miền núi phía Bắc bao gồm 15 tỉnh, với những mô hình tổ chức quản lý, khai
thác công trình thủy lợi như sau:
- Các tỉnh không thành lập tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc
nhà nước gồm: Hà Giang, Lào Cai. Ở các tỉnh này, công trình thuỷ lợi đã được giao
cho cấp huyện, xã quản lý, khai thác. Tỉnh Lào Cai trước kia có thành lập một số
Trạm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc huyện nhưng do không có
kinh phí hoạt động nay đã giải tán.
- Các tỉnh có thành lập doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi bao gồm:
Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La, Hoà Bình, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Điện
Biên, Lai Châu, Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ. Tuy vậy, mô hình ở tỉnh Bắc
Kạn chưa phù hợp.
- Các tỉnh có đơn vị sự nghiệp tham gia quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi
gồm: Tuyên Quang (Ban quản lý công trình thuỷ lợi Ngòi Là), Yên Bái (Trạm Quản
lý khai thác công trình thuỷ lợi Văn Yên, Lục Yên), Quảng Ninh (Trung tâm ở Hải
Hà, Đầm Hà).
1.2.1.2. Vùng Đồng bằng sông Hồng
Ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, tổ chức quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi thuộc Nhà nước tương đối giống nhau. 100% các tỉnh có thành lập Công ty
Khai thác công trình thuỷ lợi (Công ty quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi liên
tỉnh, toàn tỉnh hoặc quản lý công trình thuỷ lợi liên huyện hoặc trong phạm vi
huyện). Có 2 doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi quản lý, khai thác công
13
trình thuỷ lợi liên tỉnh, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý
(Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải), 5 hệ thống công trình thuỷ lợi liên tỉnh trực thuộc
các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi thuộc các tỉnh, thành phố (Bắc
Đuống, An Kim Hải, Sông Nhuệ, Thác Huống, Sông Cầu).
Tỉnh Hà Tây (nay đã sáp nhập vào Thủ đô Hà Nội) có 10 Công ty Khai thác
công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, theo lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, nay chỉ còn 4 công ty là Công ty Khai thác công trình thuỷ lợi Sông Nhuệ,
Sông Đáy, Sông Tích và Mê Linh. Như vậy, Thành phố Hà Nội (mới) hiện nay có 5
công ty khai thác công trình thuỷ lợi. Tỉnh Hải Dương còn có Xí nghiệp Khai thác
công trình thuỷ lợi Thành phố Hải Dương trực thuộc Công ty TNHH MTV quản lý
công trình đô thị Hải Dương.
Trong 11 tỉnh, thành phố thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng có 3 tỉnh, thành
phố thành lập công ty với quy mô toàn tỉnh (Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên –
trên cơ sở sáp nhập các công ty khai thác công trình thuỷ lợi huyện trước kia), các
tỉnh còn lại thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi quy mô liên huyện hoặc
quy mô huyện để quản lý các hệ thống công trình thuỷ lợi có tính chất tương tự.
1.2.1.3. Vùng Bắc Trung bộ
Đây là vùng có mô hình tổ chức khá tương đồng với vùng Đồng bằng sông
Hồng. Vùng Bắc Trung bộ có 6 tỉnh, thì 100% các tỉnh có thành lập doanh nghiệp
khai thác công trình thuỷ lợi. Có 3 tỉnh thành lập công ty khai thác công trình thuỷ
lợi có quy mô toàn tỉnh (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Các tỉnh còn lại
(Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) thành lập mô hình công ty khai thác công trình
thuỷ lợi có quy mô liên huyện hoặc quy mô huyện.
Hiện nay, một số huyện ở Nghệ An, Hà Tĩnh và các tỉnh trong vùng này còn có
nơi giao công trình vừa và nhỏ cho huyện hoặc xã trực tiếp quản lý.
1.2.1.4. Vùng Duyên hải Nam Trung bộ
Vùng này bao gồm gồm 6 tỉnh, mô hình quản lý, khai thác công trình thủy lợi
tương đối giống nhau. Ngoại trừ tỉnh Khánh Hoà thành lập hai Công ty khai thác
công trình thuỷ lợi theo quy mô liên huyện (Bắc Khánh Hoà và Nam Khánh Hoà),
14
các tỉnh trong vùng đều thành lập công ty có quy mô toàn tỉnh, hoạt động khá hiệu
quả. Một số huyện miền núi, công trình thuỷ lợi nhỏ được giao cho huyện hoặc Uỷ
ban nhân dân các xã tự tổ chức mô hình quản lý, khai thác.
1.2.1.5. Các tỉnh Tây Nguyên
Tây Nguyên có 5 tỉnh thì có 4 tỉnh có mô hình tổ chức quản lý, khai thác công
trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh. Riêng tỉnh Đắc Nông không có mô hình doanh
nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Chỉ có một Trạm Quản lý khai thác
công trình thuỷ lợi Đắc Mil (thuộc Huyện), quản lý hệ thống công trình thuỷ lợi Đăc
Mil tưới chủ yếu cho cây cà phê và một ít diện tích trồng lúa.
Tỉnh Lâm Đồng có công ty khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh,
nhưng công ty này đã giải tán và sáp nhập với Ban Quản lý khai thác công trình thuỷ
lợi Thành phố Đà Lạt thành Trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi Lâm
Đồng, hoạt động như một đơn vị sự nghiệp có thu.
Cũng giống như các nơi khác, các công trình thủy lợi nhỏ trong khu vực được
giao cho Uỷ ban nhân dân các huyện, xã trong vùng tổ chức các loại hình để quản
lý, khai thác.
1.2.1.6. Các tỉnh Đông Nam bộ
Mô hình quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi khu vực Đông Nam Bộ khá đa
dạng. Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu không thành lập công ty quản lý khai thác công trình
thuỷ lợi, Chi cục Quản lý thuỷ nông trực tiếp tham gia quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi. Tỉnh Bình Dương có Xí nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực
thuộc Công ty cấp thoát nước và môi trường Bình Dương. Các tỉnh còn lại đều
thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh như Thành phố
Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh, Ninh Thuận, Bình Thuận hoạt
động khá hiệu quả.
Khu vực này còn có Công ty TNHH Một thành viên Khai thác Thuỷ lợi Dầu
Tiếng – Phước Hoà, quản lý, khai thác Hồ Dầu Tiếng, sắp tới thêm hồ Phước Hoà
phục vụ tưới, cấp nước, xả ngọt đẩy mặn và phòng lũ cho các tỉnh, thành phố: Tây
Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An và Bình Phước trực thuộc
15
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
1.2.1.7. Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
Thực tế cho thấy, mô hình quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi vùng Đồng
bằng sông Cửu Long thể hiện sự đa dạng và có nhiều sự biến đổi nhất so với các
vùng khác trong toàn quốc. Toàn vùng có 13 tỉnh, thành phố thì hiện nay chỉ có 5
tỉnh thành lập công ty có quy mô toàn tỉnh gồm Tiền Giang, An Giang, Trà Vinh,
Bến Tre và Sóc Trăng, trong đó Sóc Trăng là mô hình công ty cổ phần, hoạt động
chủ yếu là các dịch vụ xây lắp, được Uỷ ban nhân dân tỉnh giao nhiệm vụ quản lý,
khai thác công trình thuỷ lợi trong toàn tỉnh (chủ yếu là cống, bọng, kênh mương).
Một số tỉnh trước kia cũng thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi như
Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Cần Thơ nhưng hiện nay đã được giải tán hoặc
chuyển đổi để thành lập trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc giao về các huyện thành lập các trạm
quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi chịu sự quản lý về chuyên môn của Chi cục
như Cần Thơ, Vĩnh Long.
Một số tỉnh thành các trạm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc các
huyện như Hậu Giang, Cà Mau, Kiên Giang. Tỉnh Long An, trước đây Chi cục Thủy
lợi trực tiếp quản lý, khai thác các công trình thuỷ lợi, kể cả hệ thống thuỷ lợi liên
tỉnh như cống Bắc Đông, Rạch Chanh. Đến năm 2010, tỉnh Long An đã thành lập
Trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn.
Ở tỉnh Đồng Tháp, ngoài Chi cục Thủy lợi làm chức năng quản lý nhà nước,
trực tiếp quản lý, vận hành công trình thuỷ lợi do tỉnh quản lý khai thác thì Công ty
Cổ phần Vinaconex 27 cũng tham gia quản lý một số trạm bơm, hoạt động dịch vụ,
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi do huyện quản lý, khai thác. Các công trình nhỏ, lẻ giao các tổ chức của
người dân trực tiếp quản lý, khai thác.
Tổng hợp số liệu về mô hình tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi
toàn quốc như bảng 1.2.
16
Bảng 1.2: Tổng hợp tổ chức khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước
Thứ
tự
Tên vùng
Số lượng công ty, đơn vị sự
nghiệp QLKCTTL
Tỉnh/liên
tỉnh
Huyện,
liên
huyện
Đơn vị
sự nghệp
1 Miền núi phía Bắc (25/15 tỉnh) 8 13 4
2 Đồng bằng sông Hồng (35/11 tỉnh) 5 30 0
3 Bắc Trung bộ (21/6 tỉnh) 3 18 0
4 Duyên hải miền Trung (7/6 tỉnh) 5 2 0
5 Tây Nguyên (5 tỉnh) 4 0 1
6 Đông Nam Bộ (8/8 tỉnh) 8 0 0
7 Đồng bằng sông Cửu Long (7/13 tỉnh) 5 0 2
Tổng: 38 63 7
Bảng tổng hợp này không bao gồm các Chi cục thuỷ lợi vừa thực hiện chức
năng quản lý nhà nước, vừa tham gia quản lý khai thác như Bà Rịa Vũng Tàu, Kiên
Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Cà Mau, Bà Rịa Vũng Tàu.
1.2.2. Về loại hình hoạt động của doanh nghiệp:
Phân theo phạm vi phục vụ của các doanh nghiệp, hiện nay có các loại hình
chủ yếu sau:
1.2.2.1. Công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ thống
công trình thuỷ lợi lớn, kỹ thuật phức tạp, kênh trục chính phục vụ tưới tiêu, cấp
17
nước có tính chất liên tỉnh (gọi tắt là công ty liên tỉnh). Các công ty này do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn trực tiếp quản lý (như Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải,
Dầu Tiếng) hoặc do địa phương có diện tích hưởng lợi lớn quản lý như Sông Nhuệ,
Bắc Đuống.
1.2.2.2. Công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ thống
thủy lợi, kênh trục chính, kênh nhánh các cấp lớn phục vụ tưới tiêu, cấp nước trong
phạm vi toàn tỉnh hoặc có tính chất liên huyện, như công ty của tỉnh Hoà Bình, Lai
Châu, Lạng Sơn, Hải Dương, Thái Nguyên, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tiền Giang, Trà Vinh.
1.2.2.3. Các công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ
thống công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu, cấp nước trong phạm vi huyện hoặc liên
huyện như các công ty của tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái
Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Khánh Hoà.
Phương thức hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay được thực hiện theo
quy định của Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3/2005 của Chính phủ về sản
xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và theo quy định khác của pháp luật
hướng dẫn phương thức này. Thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2005, đến nay, hầu
hết các đơn vị chuyển đổi từ loại hình công ty nhà nước hoạt động công ích trong
quản lý khai thác công trình thuỷ lợi sang loại hình Công ty TNHH một thành viên.
Bên cạnh đó, một số nơi có hình thức công ty cổ phần tham gia/được giao
nhiệm vụ quản lý khai thác công trình thuỷ lợi như: Công ty Cổ phần Khai thác
công trình thuỷ lợi Sơn La; Công ty CP Khai thác thuỷ lợi Kon Tum; Công ty Cổ
phần dịch vụ Thuỷ lợi Vĩnh Long (hiện đã không còn tham gia quản lý thuỷ nông);
Công ty Cổ phần Thuỷ lợi Sóc Trăng. Tuy nhiên việc thực hiện cổ phần ở các công
ty này chưa đúng bản chất của vấn đề cổ phần hoá nên hoạt động còn nhiều khó
khăn. Tỉnh Sơn La đang đề xuất chuyển đổi công ty này sang loại hình công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên, 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước.
Đến nay, hầu hết, các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi đã được
chuyển đổi thành Công ty TNHH một thành viên theo đúng lộ trình quy định của
18
Luật Doanh nghiệp năm 2005.
1.2.3. Loại hình các đơn vị quản lý thuỷ nông cơ sở
Bên cạnh các doanh nghiệp, tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi thuộc
nhà nước, còn có các tổ chức của tập thể, cá nhân cùng tham gia. Theo báo cáo tổng
hợp, cả nước có khoảng trên 12.000 tổ chức làm dịch vụ thuỷ nông gồm:
- Hợp tác xã nông nghiệp làm dịch vụ thuỷ lợi hoặc chuyên khâu
- Tổ hợp tác dùng nước:
- Hội dùng nước:
- Ban quản lý thủy nông xã (hoặc liên xã):
- Ban tự quản dùng nước thôn bản.
1.3. Một số tồn tại, thách thức của công tác thuỷ lợi hiện nay.
1.3.1. Một số tồn tại của công tác thuỷ lợi
Mặc dù đã phát huy và đạt được nhiều thành tựu trong việc phục vụ sản xuất
và đời sống dân sinh, tuy nhiên công tác thuỷ lợi còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém.
Những tồn tại yếu kém trong công tác thuỷ lợi phục vụ sản xuất và đời sống dân
sinh, biểu hiện qua các nội dung sau đây:
Thứ nhất là, các hệ thống công trình phát huy hiệu quả còn ở mức thấp, bình
quân chỉ đạt 70% năng lực thiết kế do nhiều nguyên nhân, như việc chuyển đổi cơ
cấu sản xuất, tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá, dẫn đến diện tích, mục tiêu phục
vụ không còn như thiết kế ban đầu, hiệu suất sử dụng công trình theo thiết kế thấp.
Thứ hai là, hầu hết diện tích được bảo đảm chủ động tưới, tiêu còn thấp hoặc
tưới tiêu không chắc chắn. Theo chỉ tiêu thiết kế, công trình tưới bảo đảm ở mức
p=75% (đến nay đã có nhiều hệ thống đạt 85%), tiêu ở mức 10%, song trên thực tế
nhiều vùng diện tích còn bị hạn, bị úng ngay cả khi thời tiết, khí hậu chưa nghiêm
trọng như tính toán thiết kế ban đầu. Diện tích không chủ động tiêu tập trung ở các
vùng tiêu bằng trọng lực hoặc nội đồng. Vấn đề tiêu thoát nước nội đồng ở nhiều hệ
thống rất phức tạp.
Thứ ba là, nhiều công trình bị xuống cấp nhanh do một thời gian dài không
được duy tu bảo dưỡng đầy đủ, kịp thời; nhiều công trình có hệ số an toàn theo quy
19
phạm trước đây còn thấp, có thể gây nguy hiểm khi gặp lũ. Nhiều hệ thống kênh dẫn
chất lượng kém và tình trạng quản lý nước trên kênh tưới không chặt chẽ, dẫn đến
phần đầu kênh thì thừa nước, cuối kênh thiếu nước;
Thứ bốn là, tại các hệ thống thuỷ lợi lớn, diện tích phải bơm tưới, bơm tiêu hỗ
trợ chiếm tỷ lệ khá cao, đặc biệt là những vùng cuối nguồn; tình trạng lãng phí nước
tưới còn phổ biến; mức tiêu hao nhiên liệu, năng lượng lớn; cho phí cho tưới cao;
Thứ năm là, vấn đề ô nhiễm nước trong hệ thống công trình thuỷ lợi do nước
thải, rác thải xả bừa bãi vào hệ thống kênh xảy ra phổ biến; tình trạng vi phạm, xâm
hại, lấn chiếm công trình và phạm vi bảo vệ công trình thuỷ lợi xảy ra ở hầu hết các
hệ thống thuỷ lợi chưa được ngăn chặn kịp thời, đặc biệt là ở hệ thống kênh chuyển
nước.
Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém trong công tác thuỷ lợi có nhiều,
nhưng tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:
Một là, công trình thuỷ lợi thường có giá trị lớn, nằm trên địa bàn rộng nên
công tác quản lý và hiệu quả của các công trình thuỷ lợi chịu tác động của nhiều yếu
tố khách quan, như điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội từng vùng, lũ lụt,
hạn hán và các thiên tai khác. Thời tiết, khí hậu diễn biến bất thường có xu hướng
ngày càng bất lợi, vấn đề biến đổi khí hậu và nước biển dâng ngày càng nghiêm
trọng, trong khi tần suất thiết kế các công trình thuỷ lợi ở nước ta còn ở mức thấp
(tưới 75%, tiêu 10%).
Hai là, quá trình thay đổi, chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất từ nông nghiệp sang
đất đô thị, công nghiệp và các mục đích khác trong các hệ thống thuỷ lợi diễn ra rất
nhanh và mạnh mẽ, dẫn đến việc điều hành hệ thống công trình thuỷ lợi rất khó
khăn, việc phát huy hiệu quả không đảm bảo như thiết kế, nhiều hệ thống thuỷ lợi
phải sửa chữa, nâng cấp mới đáp ứng yêu cầu thực tế.
Ba là, rất nhiều công trình thuỷ lợi được đầu tư xây dựng trong điều kiện nền
kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, suất đầu tư còn thấp, do vậy khi thiết kế thường
có diện tích thiên lớn. Nhiều hệ thống thuỷ lợi công trình được xây dựng thiếu kiên
cố, công nghệ xây dựng lạc hậu, chưa được đầu tư đồng bộ từ đầu mối đến mặt
20
ruộng, nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi thiếu trang thiết bị cho công tác quản lý,
vận hành. Việc đầu tư phát triển thuỷ lợi chưa phù hợp, nặng về xây dựng các công
trình mới, nhẹ về củng cố, khôi phục, nâng cấp sửa chữa các công trình đã có. Nhiều
công trình thuỷ lợi hiện nay đã bị xuống cấp, thiếu kinh phí để sửa chữa công trình
hoặc nâng cấp công trình cho phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ mới. Bên cạnh đó, đầu
tư cho công tác quản lý còn chưa được coi trọng, do vậy không phát huy hết hiệu
quả của hệ thống.
Bốn là, yêu cầu cấp nước ngày càng cao để đáp ứng với việc ứng dụng các tiến
bộ kỹ thuật trong nông nghiệp; trong khi đó quy hoạch thuỷ lợi tổng thể phục vụ cho
đa ngành, đa mục tiêu chưa đáp ứng yêu cầu; chưa tính toán đầy đủ yêu cầu cấp
nước phục vụ sinh hoạt nông thôn, nước cho sản xuất công nghiệp, các làng nghề,
nước cho nuôi trồng thuỷ sản. Do vậy, có nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi không
đáp ứng được yêu cầu sản xuất thực tế.
Năm là, việc thực thi Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình thuỷ lợi và
các cơ chế chính sách trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở nhiều địa
phương chưa tốt. Nhiều văn bản pháp quy được ban hành nhưng khó đi vào cuộc
sống, dẫn đến việc vi phạm diễn ra phổ biến, đặc biệt là vi phạm hành lang bảo vệ
công trình thuỷ lợi, hành vi xả thải vào công trình thuỷ lợi.
Sáu là, nguồn nhân lực phát triển chưa tương xứng với yêu cầu hiện tại. Năng
lực và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân khai thác công trình thuỷ
lợi chưa đáp ứng được với yêu cầu về công nghiệp hoá và hiện đại hoá quản lý khai
thác công trình thuỷ lợi. Phân bố nhân lực ngành giữa các vùng, miền chưa cân đối,
nhiều nơi rất thiếu cán bộ thuỷ lợi, đặc biệt là các tỉnh vùng trung du, miền núi.
Bảy là, tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở nhiều địa phương còn
chưa đồng bộ, khép kín, kể cả hệ thống tổ chức quản lý nhà nước và quản lý khai
thác. Chưa có tổ chức thanh tra chuyên ngành, chế tài xử phạt các hành vi xâm hại
công trình thuỷ lợi còn chưa đủ mạnh. Năng suất lao động chưa cao, thu nhập thấp,
đời sống của cán bộ, công nhân khó khăn và không thu hút được cán bộ kỹ thuật có
năng lực về làm việc cho đơn vị. Nhiều tổ chức quản lý, khai thác công trình thủy
21
lợi còn tính ỷ lại, thiếu năng động. Tổ chức quản lý thuỷ nông ở cơ sở còn chưa
được quan tâm đúng mức, chưa phát huy được vai trò của cộng đồng tham gia trong
công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.
1.3.2. Một số thách thức trong công tác thuỷ lợi sắp tới
Đất nước ngày càng ổn định và phát triển, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là
thời cơ thuận lợi để thuỷ lợi có điều kiện phát triển đi lên. Tuy vậy, bên cạnh những
thời cơ, thuận lợi trong công tác thủy lợi hiện nay cũng đang đứng trước những
thách thức rất lớn, đó là:
Thứ nhất là, nguồn nước ở nước ta phân bố không đều cả theo không gian và
thời gian, hệ thống sông lớn chủ yếu bắt nguồn từ nước ngoài, rất lệ thuộc vào khả
năng khai thác, sử dụng nước của quốc gia ở phía thượng lưu; trong khi đó, nước ta
nằm ở vùng hạ lưu, không chủ động được nguồn nước.
Thứ hai là, xu thế biến đổi khí hậu toàn cầu, nhiệt độ trái đất nóng lên, nước
biển dâng cao làm cho thiên tai trên phạm vi toàn cầu xảy ra nhiều hơn, phức tạp
hơn, cường độ tăng mạnh hơn, cực đoan hơn và khả năng tác động không thể lường
hết. Việt Nam được cảnh báo là 1 trong 5 quốc gia sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Do biến đổi khí hậu toàn cầu, hiện tượng Elnino, Lanina thường xuyên xuất hiện,
gây lũ lụt, hạn hán liên tiếp. Tình trạng xâm nhập mặn, khan hiếm nước ngọt đã xuất
hiện ngày càng nghiêm trọng.
Thứ ba là, tình trạng ô nhiễm nguồn nước trong các hệ thống công trình thuỷ
lợi ngày càng gia tăng, do nước thải từ các khu công nghiệp được phát triển nhanh,
những làng nghề, khu đô thị tập trung nhiều nơi đã xả trực tiếp nước vào các hệ
thống công trình thuỷ lợi không qua xử lý.
Thứ bốn là, nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản, cấp nước dân sinh, đô thị, du lịch, dịch vụ, môi trường và các yêu cầu
dùng nước khác đang tăng cao. Các đối tượng sử dụng nước ngày càng đa dạng, với
yêu cầu chất lượng dịch vụ cao hơn, trong khi nguồn nước đang ngày càng khan
hiếm, cạn kiệt và có nguy cơ bị ô nhiễm. Theo dự báo của Ngân hàng Phát triển
châu Á, đối với Việt Nam, cần phải yêu cầu bảo đảm an ninh lương thực cho dân số
22
trên 100 triệu người đến năm 2020 và 130 triệu người đến năm 2050, trong khi diện
tích lúa ngày càng giảm, đòi hỏi chất lượng, mức bảo đảm tưới tiêu phải được nâng
cao hơn nữa.
Thứ năm là, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế trong quá trình quản lý, vận hành,
điều tiết nguồn nước ở các công trình thuỷ lợi đầu nguồn, giữa việc phục vụ cho
tưới tiêu và phát điện hoặc giữa việc nuôi trồng thuỷ sản hay trồng lúa cũng là một
thách thức trong công tác thuỷ lợi trong thời gian tới.
Trong nhiều thập kỷ qua, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư, hình thành một
hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hết sức to lớn, cơ bản đáp ứng những yêu cầu bức
thiết của sản xuất và đời sống dân sinh. Để quản lý, vận hành các hệ thống thuỷ lợi
này, chúng ta cũng đã hình thành một hệ thống tổ chức để thực hiện nhiệm vụ quản
lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Các công trình thuỷ lợi đã phát huy được vai trò
của mình, tuy nhiên trong thực tế vẫn còn nhiều tồn tại. Công tác thuỷ lợi cũng đứng
trước nhiều khó khăn, thách thức trước mắt đòi hỏi các cơ quan chức năng phải có
các giải pháp cần thiết để biến những khó khăn, thách thức thành cơ hội để phát
triển ngành thuỷ lợi, đáp ứng với yêu cầu phát triển dân sinh, kinh tế xã hội của đất
nước.
Với mục tiêu quản lý, khai thác công trình hiệu quả, đảm bảo an toàn thì việc
ban hành những cơ chế, chính sách, đặc biệt là chính sách về tài chính, mà thuỷ lợi
phí là một trong những chính sách đó, nhằm đáp ứng được yêu cầu tổng thể, phù
hợp với sự phát triển của nền kinh tế, đáp ứng lòng mong mỏi của người dân nhưng
phải theo hướng khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm và bền vững nguồn tài
nguyên là yêu cầu đặc biệt cần thiết.
23
Chương 2:
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH THUỶ LỢI PHÍ
2.1. Cơ sở khoa học và sự cần thiết của chính sách thuỷ lợi phí.
2.1.1. Khái niệm thuỷ lợi phí:
Thuỷ lợi phí hay định giá nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp nói
chung là mô tả việc định giá của dịch vụ cung cấp nước cho các tổ chức, cá nhân
sản xuất nông nghiệp. Đối với việc áp dụng cho tưới tiêu (thuỷ lợi phí), giá nước
nhìn chung được nhìn nhận qua hai loại hàng hoá kinh tế: 1) dịch vụ cung cấp nước
(thời lượng, phân phối và chất lượng của dịch vụ); và 2) nước được phân phối,
thường được xác định bởi khối lượng, nhưng đôi khi cũng đề cập đến vấn đề chất
lượng.
Liên quan đến vấn đề này, chúng ta hãy tìm hiểu, làm rõ thêm vấn đề tại sao
các chính sách không đề cập thuỷ lợi phí là giá, thuế, chi phí, hay lệ phí chi trả cho
dịch vụ về nước đối với sản xuất nông nghiệp mà gọi là phí – thuỷ lợi phí.
Thứ nhất, khái niệm giá, trong đó, chỉ đề cập khái niệm giá thành và giá bán.
Giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí bằng tiền để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm. Như vậy, khái niệm giá thành sản phẩm và chi phí trực tiếp liên quan mật
thiết với nhau, thể hiện những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất một
24
đơn vị sản phẩm.
Giá bán được hiểu là số tiền người mua phải trả cho người bán để có/nhận
được sản phẩm hoặc dịch vụ mà người mua mong muốn có. Giá bán chính là thước
đo trao đổi của một hàng hoá cho một hàng hoá khác, được tính bằng tiền. Trong cơ
chế thị trường, giá bán được xác định dựa trên những nguyên tắc mà ở đó cho phép
giá có thể tự do dịch chuyển nhằm đáp ứng cầu của một loại hàng hoá nhất định.
Nếu cung vượt cầu thì giá giảm và ngược lại.
Thứ hai, thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp
luật do Nhà nước ban hành. Đây là một khoản thu chủ yếu của ngân sách mang tính
chất nghĩa vụ bắt buộc. Thuế không được hoàn trả trực tiếp, ngang giá cho người
nộp thuế. Một phần số thuế đã nộp cho ngân sách Nhà nước trả về cho người dân
một cách gián tiếp dưới những hình thức đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng về giáo
dục, y tế, phúc lợi công cộng, an ninh quốc phòng và xây dựng cơ sở hạ tầng như
đường xá, cầu cống, đê điều.
Thứ ba, khái niệm chi phí được hiểu là tổng nguồn lực (thường được qui ra
tiền) để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Sự tiết kiệm hay lãng
phí chi phí sản xuất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm và hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Chi phí bao gồm chi phí biến đổi, là những chi phí thay
đổi cùng với sự thay đổi của sản lượng; và chi phí cố định là những chi phí không
thay đổi khi sản lượng thay đổi.
Thứ tư, lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan
nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý Nhà nước được
qui định trong danh mục lệ phí ban hành kèm theo Pháp lệnh Phí và lệ phí. Lệ phí là
khoản thu vừa mang tính chất phục vụ cho đối tượng nộp lệ phí về việc thực hiện
một số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp cho ngân sách
Nhà nước.
Thứ năm, phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức,
cá nhân khác cung cấp dịch vụ được qui định trong Danh mục phí ban hành kèm
25
theo Pháp lệnh Phí và lệ phí. Phí là khoản thu mang tính chất bù đắp chi phí thường
xuyên hoặc bất thường như phí về xây dựng, bảo dưỡng, duy tu của Nhà nước đối
với những hoạt động phục vụ người nộp phí.
Như vậy, xét theo tiêu chí các khái niệm trên, thì định giá nước đối với nông
nghiệp, không thể theo giá thị trường, hoặc lấy tổng chi phí làm ra sản phẩm/dịch vụ
để quy định mức thu đối với những người sản xuất nông nghiệp, vì họ sẽ không thể
chịu đựng nổi. Tuy vậy, ở một số trường hợp vẫn có thể gọi là giá dịch vụ thuỷ lợi
đối với sản xuất nông nghiệp hoặc giá nước đối với sản xuất nông nghiệp. Tất nhiên,
không thể gọi là thuế nước vì tính chất của thuế khác hẳn với giá, chi phí và các loại
phí. Vì thuế là khoản có tính chất bắt buộc tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ nộp
cho nhà nước khi thực hiện một dịch vụ nào đó mà Nhà nước quy định phải nộp
thuế. Đương nhiên, không thể gọi chi phí này là lệ phí vì lệ phí là chi phí cho các
nội dung có tính chất hành chính.
Để thể hiện sự ưu đãi đối với sản xuất nông nghiệp và tính “khoan sức dân”,
thuỷ lợi phí chính thức được xem, định nghĩa như là một loại phí, điều đó cũng được
khẳng định trong Pháp lệnh Phí và lệ phí ngày 28/8/2001 của Uỷ ban thường vụ
Quốc Hội. Trải qua nhiều văn bản có khái niệm khác nhau, tại Pháp lệnh khai thác
và bảo vệ công trình thuỷ lợi (ngày 4/4/2001) thuỷ lợi phí đã định nghĩa như sau:
“Thuỷ lợi phí là phí dịch vụ về nước thu từ tổ chức, cá nhân sử dụng nước hoặc làm
dịch vụ từ công trình thủy lợi cho mục đích sản xuất nông nghiệp để góp phần chi phí
cho việc quản lý, duy tu, bảo dưỡng và bảo vệ công trình thuỷ lợi”. Định nghĩa đã thể
hiện rõ bản chất của thuỷ lợi phí đối với sản xuất nông nghiệp.
2.1.2. Cơ sở khoa học và sự hình thành chính sách thuỷ lợi phí ở Việt Nam.
2.1.2.1. Cơ sở khoa học
Nước là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và có hạn. Không có nước sẽ
không thể duy trì sự sống hay bất kỳ một hoạt động nào khác. Ngày nay, nguồn
nước đang ngày càng có xu hướng cạn kiệt, suy thoái và ô nhiễm trầm trọng, trong
khi nhu cầu sử dụng nước cho các ngành kinh tế, sinh hoạt ngày càng tăng cao.
Bên cạnh đó, nước được xem như một loại hàng hoá, hàng hoá đặc biệt và
26
không có hàng thay thế, đặc biệt nước khi đã qua công trình thuỷ lợi thì đặc tính
nước là hàng hoá càng thể hiện rõ nét. Do vậy, mọi người cần phải có trách nhiệm
trong việc giữ gìn và bảo vệ tài nguyên nước.
Trên cơ sở đánh giá những hiệu quả thực tế của công tác thuỷ lợi mang lại cho
sản xuất đời sống xã hội và dân sinh kinh tế, chúng ta có thể nhận định rằng, những
hiệu quả này là hết sức to lớn, có hiệu quả được định lượng, có thể tính được bằng
tiền. Tuy nhiên, còn nhiều hiệu quả hết sức to lớn mà khó định lượng được hoặc quy
đổi thành tiền, như việc giảm thiểu thiệt hại do lũ, lụt ở vùng hạ du, tác dụng về dân
trí, xã hội do việc khai hoang, phục hoá, mở rộng diện tích đất canh tác, tạo nên
những vùng đất sản xuất trù phú mới, hoặc tạo ra những vùng có môi trường thiên
nhiên trong lành, tuyệt vời làm nơi du lịch sinh thái, đặc biệt ở những vùng có hồ
chứa, hoặc thay đổi bộ mặt nông nghiệp nông thôn dự trên kết quả đầu tư thuỷ lợi.
Nguyên tắc người dùng hoặc hưởng lợi đều phải trả chi phí được áp dụng đối
với bất cứ loại dịch vụ nào, trong đó có người sử dụng, hưởng lợi từ nước, kể cả sử
dụng nước cho sản xuất nông nghiệp, đều phải có nghĩa vụ tài chính đối với việc sử
dụng nước từ công trình thuỷ lợi. Vì vậy, việc đặt ra và thực hiện chính sách thuỷ lợi
phí là có cơ sở khoa học rõ ràng.
2.1.2.2. Sự cần thiết phải có chính sách thuỷ lợi phí
Như trong chương 1 đã đề cập, với hệ thống thuỷ lợi hiện có, để đáp ứng cho
yêu cầu quản lý và khai thác khép kín các công trình, hệ thống công trình này, hiện
nay, đã hình thành hai cấp quản lý như sau:
Thứ nhất, các tổ chức, đơn vị thuộc nhà nước, bao gồm: hơn 100 công ty nhà
nước, công ty TNHH một thành viên 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước thực hiện
nhiệm vụ quản lý, khai thác các công trình đầu mối lớn, công trình có kỹ thuật phức
tạp, kênh trục chính (chưa bao gồm các doanh nghiệp, tổ chức khác thuộc nhà nước
cũng có chức năng quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi).
Thứ hai, cấp tập thể, cá nhân (gọi là tổ chức thuỷ nông cơ sở): bao gồm
khoảng 12.000 tổ chức hợp tác dùng nước (bao gồm các hợp tác xã nông nghiệp có
làm dịch vụ thuỷ lợi, hợp tác xã dùng nước, tổ hợp tác, tổ, đội, ban) làm chức năng
27
cầu nối giữa các đơn vị quản lý khai thác của nhà nước với các hộ nông dân và quản
lý, khai thác những công trình thuỷ lợi nhỏ, có quy mô phù hợp.
Muốn đảm bảo cho các hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên vận hành an toàn,
hàng năm, yêu cầu phải có một khoản kinh phí nhất định để vận hành, duy tu, bảo
dưỡng công trình thuỷ lợi (chưa kể đến kinh phí yêu cầu để đầu tư xây dựng mới,
nâng cấp, đại tu sửa chữa công trình thuỷ lợi bị hư hỏng do sử dụng lâu ngày và do
thiên tai gây ra).
Để bù đắp một phần kinh phí yêu cầu nói trên, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp
ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương thu thuỷ lợi phí từ người hưởng lợi.
Ngay từ năm 1962, Hội đồng chính phủ, nay là Chính phủ đã ban hành Nghị định số
66/CP ngày 5/6/1962 quy định điều lệ thu thuỷ lợi phí (Nghị định 66), tuy nhiên, số
thuỷ lợi phí thu được là không đáng kể.
Chính sách thuỷ lợi phí được thay đổi theo thời gian, tuỳ thuộc vào tình hình
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Chính phủ đã ban hành chính sách thuỷ lợi
phí cho phù hợp. Năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị
định số 112-HĐBT ngày 25/8/1094 về việc thu thuỷ lợi phí (Nghị định 112), thay
thế Nghị định 66. Đến năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 143/2003/NĐ-
CP ngày 28/11/2003 quy định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác
và bảo vệ công trình thuỷ lợi, trong đó có quy định về việc thu thuỷ lợi phí (Nghị
định 143).
Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày
15/10/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày
28/11/2003 quy định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ
công trình thuỷ lợi, trong đó quy định miễn thu thuỷ lợi phí (Nghị định 154). Đến
năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 115/2008/NĐ-CP ngày 14/11/2008 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 quy
định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ
lợi (Nghị định 115), thay thế Nghị định 154 nói trên.
Như vậy, tính đến nay, chúng ta đã có 05 văn bản cấp Chính phủ quy định về
28
chính sách thuỷ lợi phí, trong đó có 2 văn bản (Nghị định 66 và Nghị định 112 là có
hiệu lực thi hành lâu nhất, tương ứng là 22 và 19 năm.
Để giải được bài toán về chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí, nếu không có sự
tính toán, cấp bù đúng mức, đáp ứng chi phí trong quản lý, duy tu, sửa chữa thì các
công trình thuỷ lợi sẽ bị xuống cấp, đe doạ đến an toàn công trình, thậm chí đến
ninh lương thực, an toàn xã hội. Do vậy, sự lựa chọn về chính sách thuỷ lợi phí có
một ý nghĩa kinh tế - chính trị - xã hội hết sức to lớn.
2.1.3. Một số phương pháp xác định mức thuỷ lợi phí
Hiện nay, có 3 phương pháp chủ yếu thường được sử dụng để định giá nước:
(1) giá nước theo diện tích; (2) giá theo khối lượng sử dụng và (3) giá cân bằng thị
trường. Thực tế, phương pháp đầu tiên hay được sử dụng để thực hiện quy định mức
thuỷ lợi phí. Ngoài ra, ở một số nước, thì việc áp dụng thu phí theo diện tích kết hợp
với tính giá theo khối lượng nước thực tế sử dụng cũng hay được áp dụng, thường
được gọi là giá nước hai thành phần: phần cứng và phần mềm.
2.1.3.1. Giá nước theo diện tích
Giá nước nước theo diện tích phục vụ là phí cố định, dựa vào diện tích được
tưới hoặc có thể được tưới. Chúng thường được tính toán bằng cách chia tổng chi
phí vận hành bảo dưỡng cho việc cung cấp nước tưới cho tổng diện tích được tưới,
mà thường được xác định theo nguyên tắc giá trung bình. Việc xác định chi phí vận
hành và bảo dưỡng là rất quan trọng, bởi vì tổ chức quản lý, khai thác công trình
thuỷ lợi cung cấp nước có thể có động cơ tăng chi phí đối với người dân. Hơn nữa,
việc sử dụng diện tích được tưới rất đa dạng từ năm này qua năm khác, mùa này qua
mùa khác. Ví dụ, diện tích được tưới trong mùa mưa thường lớn hơn trong mùa khô.
Hơn nữa, diện tích vùng dự án thường lớn hơn diện tích được tưới thực tế. Bởi vậy,
các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi cần phải ước tính được diện tích
thực tế tưới cho mỗi mùa vụ.
Điểm không thuận lợi trong việc xác định giá theo phương pháp này là, khi đã
quyết định diện tích phải chịu giá, giá nước tưới sẽ không có tác động được việc tiêu
dùng nước của người nông dân, bởi vậy, chi phí cận biên của khối lượng nước tăng
29
thêm cho một hectare bằng không. Thế nên, nhu cầu nước theo phương pháp này
thường cao hơn khi giá nước được định bằng phương pháp cấp nước theo khối
lượng, và nó cũng dẫn đến tình trạng sử dụng thừa thãi nước của những người nông
dân ở khu vực đầu kênh.
Điểm thuận lợi của phương pháp này là áp dụng đơn giản, dễ hiểu để tính toán,
dễ dàng cho người nông dân hiểu và các chi phí thực hiện thấp hơn giá theo mét
khối bởi vì nước được cung cấp mà không được đo đếm một cách rõ ràng. Mặc dù
nó không giúp cho người nông dân động cơ giảm mức sử dụng nước trên 01 ha,
nhưng phương pháp này cũng được sử dụng rộng rãi ở rất nhiều hệ thống trên thế
giới bởi tính đơn giản trong cách thực hiện. Ở Haryana (Ấn độ), nước tưới được
định giá là 2,5USD/ha, trong khi đó ở Pakistan giá từ 2÷8USD/ha, mức phí này
được đặt ra chỉ đủ bù đắp một phần chi phí vận hành và bảo dưỡng.
Việc định giá nước theo hectare sử dụng thuần tuý chỉ được áp dụng ở những
nơi không khan hiếm về nước, mùa vụ không đa dạng và ở những nơi mà việc đo
đếm nước theo mét khối rất khó khăn hoặc đắt đỏ. Dẫu sao, hệ thống định giá nước
theo diện tích ngày càng trở nên ít phổ biến, và các hệ thống định giá nước theo diện
tích sử dụng trong thời gian gần đây đã đưa ra những nét riêng biệt mới. Sự cải tiến
của việc định giá nước tưới theo diện tích bao gồm diện tích vụ (hầu như được sử
dụng có điều chỉnh), diện tích theo mùa, và giá theo diện tích kết hợp công nghệ.
Hệ thống giá theo diện tích vụ thay đổi theo hectare được tưới dựa trên các vụ
khác nhau. Sự biến đổi của giá nước theo các vụ phụ thuộc vào mục tiêu của những
người làm chính sách. Nếu họ muốn khuyến khích hiệu quả sử dụng nước, các vụ
tiêu thụ nhiều nước như lúa, sẽ phải có giá cao hơn theo hectare. Nếu sự khác nhau
về giá đủ lớn, người nông dân sẽ chuyển đổi vụ. Mặt khác, nếu Chính phủ có chính
sách thu mua lương thực với giá thập hoặc muốn khuyến khích những vụ sản xuất
vụ phục vụ thương mại, giá nước đối với vụ này sẽ được đặt thấp hơn cho những vụ
khác. Tuy nhiên, cần quan tâm trong việc trợ cấp đầu vào như nước để tăng sản
phẩm các vụ bởi vì nó thường dẫn tới vấn đề không hiệu quả và sử dụng dự thừa
nguồn tài nguyên, đặc biệt như các vụ sản xuất lúa hay mía.
30
Trong phương pháp xác định mức giá theo diện tích được tưới, phí nước
thường phản ánh sự khác nhau trong chi phí dịch vụ tưới bởi các phương pháp tưới
khác nhau. Ví dụ, hầu hết các hệ thống tưới bằng trọng lực có mức phí biến đổi thấp
hơn so với các hệ thống tưới bằng bơm điện.
Tuy nhiên, lợi thế của hệ thống tưới bằng bơm điện là việc kiểm soát nước và
việc đo đếm nước nhìn chung dễ dàng hơn hệ thống tưới bằng trọng lực. Bởi vậy,
thuỷ lợi phí theo diện tích được tưới ở các hệ thống bơm thường cao hơn ở các hệ
thống hồ chứa bởi các chi phí tưới và thu nhập thực trên một đơn vị nước nhìn
chung cao hơn.
Ở một số nước thường sử dụng phương pháp thu theo diện tích mùa. Ví dụ, giá
cao sẽ được áp dụng ở mùa khô, khi nguồn nước khan hiếm, mức giá thấp sẽ được
áp dụng ở thời điểm gió mùa hay mùa ướt, khi nguồn nước tương đối dồi dào. Nếu
mức giá đặt cao vừa phải ở mùa khô, sẽ giúp giới hạn số lượng ha được tưới.
Một phương pháp khác là đặt giá theo diện tích liên quan đến công nghệ tưới.
Cho dù không nhận được nhiều sự quan tâm, về lý thuyết, phương pháp này khuyến
khích lựa chọn công nghệ tưới mới, tiết kiệm. Ý tưởng của phương pháp này tương
tự như phí dựa theo diện tích vụ, khi nông dân sử dụng công nghệ tiết kiệm nước sẽ
trả ít hơn cho 1 ha.
Ví dụ, tưới nhỏ giọt và tưới phun cho phép kiểm soát việc sử dụng nước tốt
hơn và hiệu quả hơn so với phương pháp tưới ngập. Bởi vậy, mức giá thấp hơn cho
một ha có thể được đặt ra đối với những người nông dân sử dụng phương pháp này
nhằm khuyến khích người dân chuyển đổi.
2.1.3.2. Giá nước theo khối lượng
Với việc đặt giá nước theo khối lượng, thì giá nước sẽ được dựa vào khối
lượng nước đã được cung cấp. Nguyên tắc giá tối ưu về kinh tế yêu cầu giá phải
được thiết lập cân bằng với chi phí cận biên của việc tăng thêm 01 sản phẩm nước
và nó khuyến khích người nông dân giới hạn việc sử dụng nước của họ. Bên cạnh
đó, nó cũng dễ dàng để người dân hiểu và cảm nhận được rằng họ trả cho khối
lượng nước cung cấp cho đồng ruộng của họ. Dẫu sao, phương pháp này cũng có
31
một số tồn tại. Thứ nhất, các chi phí thực hiện có thể cao bởi yêu cầu đo đếm theo
mét khối, và họ phải sẵn sàng trong việc đọc và thông báo các chỉ số sử dụng nước.
Thứ hai, giá theo chi phí cận biên không cho phép đảm bảo chi phí thu hồi vốn trong
trường hợp các chi phí trung bình giảm (ví dụ như hệ thống kênh mương lớn). Mặt
khác, trong trường hợp các trạm bơm tưới sử dụng nước ngầm, các chi phí dự án
cận biên có thể cao hơn chi phí dự án trung bình, đặc biệt khi các chi phí cận biên
bao gồm cả chi phí người dùng cận biên. Bởi vậy, trong một số dự án nước ngầm,
giá chi phí cận biên có thể tăng thu cũng như giá nước cao liên quan tới thu nhập
của người dân. Ví dụ, có hệ thống, thuỷ lợi phí chiếm tới trên 30% của thu nhập
người dân nhưng không đủ bù đắp chi phí vận hành và bảo dưỡng bởi vì chi phí tiền
điện rất lớn và phải được trợ cấp. Hơn nữa, đối với các hệ thống trọng lực, thuỷ lợi
phí thường nhỏ hơn nhiều so với % thu nhập thực của nông trại. Để chỉ ra những
vấn đề liên quan đến tác động của thuỷ lợi phí đối với thu nhập của nông trại,
phương pháp định giá nước hai thành phần theo khối lượng sẽ được sử dụng.
Giá theo block
Giá block bao gồm thay đổi giá nước khi sử dụng nước vượt quá một ngưỡng
nhất định, (ví dụ 6.000m3
cho 1ha vụ). Nếu sử dụng cao hơn, việc thu phí đối với
block tăng thêm sẽ được sử dụng. Giá cho block đầu tiên sẽ được đặt ra dựa trên cơ
sở bù đắp một phần chi phí vận hành và bảo dưỡng. Giá cho các block thứ hai và
cuối cùng được tăng lên theo tỷ lệ để bù đắp chi phí vận hành và bảo dưỡng và
tương ứng với chi phí cận biên của việc vận hành. Khối lượng của block đầu tiên
thường được cân nhắc như là khối lượng cơ bản về nhu cầu nước để hỗ trợ người
nông dân, vì vậy, phương pháp này cũng nhằm đạt tới vấn đề công bằng. Người dân
sẽ trả với mức phí thấp cho block đầu tiên nhưng giá cao hơn cho việc sử dụng tăng
thêm bất kỳ khối lượng nước nào của block đầu tiên. Phương pháp định giá này thực
hiện tương tự như việc cấp quota. Thực tế, quota là một trường hợp đặc biệt của
việc định giá nước theo block.
Nếu giá khác nhau giữa các block đủ lớn, nông dân sẽ cố gắng không sử dụng
nhiều hơn block nước đầu tiên. Sự bất tiện của phương pháp này là không dễ dàng
32
quyết định mức giá cho mỗi block hay khối lượng của mỗi block (ví dụ như mức giá
thấp áp dụng cho 6.000m3
đầu tiên/ha vụ hay nhiều hơn 6.000 m3
). Hơn nữa, giá trị
dường như không chắc để bù đắp chi phí vận hành bảo dưỡng, đặc biệt nếu phạm vi
của block thứ nhất lớn. Nó phù hợp để sử dụng trong trường hợp ở những nơi nước
khan hiếm, thu nhập của nông trại thấp, và giá nước cao liên quan đến thu nhập thực
của nông trại. Thuận lợi của phương pháp này là bạn có, ít nhất, ba công cụ ảnh
hưởng đến việc sử dụng nước và phục hồi chi phí: giá của block thứ nhất, thứ hai và
khối lượng mà nó bắt đầu giá của block thứ hai.
Giá hai thành phần:
Sự cải tiến thứ hai là giá hai thành phần, đây là sự kết hợp của giá nước theo
khối lượng và phí thành viên cố định (một số nơi dựa vào của diện tích khu tưới).
Đối với phương pháp giá theo block mô tả ở trên, hai mục tiêu (1) thu đủ chi phí
phục hồi và (2) giảm khối lượng nước sử dụng là thường mâu thuẫn. Thuận lợi của
giá hai thành phần này là có thể làm hài hoà các mâu thuẫn này. Phần khối lượng sử
dụng có thể dựa vào chi phí cận biên, điều này sẽ khuyến khích người dân sử dụng
tiết kiệm nước, trong khi đó, phần cố định có thể được sử dụng để bù đắp bất kỳ sự
thiếu hụt nào để đảm bảo nguồn thu nhập cố định mà không cần biết đến có bao
nhiêu nước có thể được sử dụng và cung cấp. Kể cả cho chi phí vận hành và bảo
dưỡng, có thành phần cố định mà không phụ thuộc vào khối lượng nước được cung
cấp, những chi phí cố định này phải được bù đắp khi nước không được sử dụng cho
một mùa. Sự bất lợi trong phương pháp này là nó rất khó khăn trong việc tính toán
và rất khó khăn cho người dùng nước để hiểu được.
Bên cạnh phương pháp đặt giá đã nêu, còn có phương pháp đặt giá theo sản
phẩm đầu ra. Tuy nhiên, phương pháp này ít được các nước sử dụng trong việc cung
cấp nước tưới.
2.1.3.3. Thị trường nước
Ở những quốc gia có thị trường nước, chính thức hoặc không chính thức, các
công ty hoặc cá nhân có thể trao đổi nước ở mức giá cân bằng thị trường đặc biệt mà
sẽ thay đổi theo mùa. Để vận hành hiệu quả, thị trường nước yêu cầu phải có cấu
33
trúc rõ ràng của quyền sử dụng nước, bộ quy tắc rõ ràng và toàn diện trong giao
dịch, cơ quan quản lý phân phối nước và cơ quan pháp luật để giám sát các hoạt
động thương mại và giải quyết các tranh chấp. Họ cũng yêu cầu hệ thống vận
chuyển nước hiện đại cho mọi người sử dụng. Nếu những yêu cầu này được thực
hiện, giá cân bằng thị trường sẽ được điều chỉnh dựa theo cung và cầu.
2.1.4. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về chính sách thuỷ lợi phí
2.1.4.1. Tổng quan
Đối với mỗi hệ thống tưới tiêu cụ thể, việc thiết lập mức thu thuỷ lợi phí đối
với sản xuất nông nghiệp phải dựa vào điều kiện thực tiễn của từng quốc gia, đặc
biệt là điều kiện kinh tế xã hội và mức sống của người dân để quyết định. Mức thu
thuỷ lợi phí ở các nước chỉ đề trang trải chi phí vận hành và bảo dưỡng và hầu như
vẫn chưa đủ chỉ bù đắp được khoảng 20-70% cho phí vận hành và bảo dưỡng. Hầu
hết các nước không thu hồi chi phí đầu tư, hoặc nếu có thu thì tỷ lệ thu cũng rất thấp
như Canada và Italy, kể cả các nước công nghiệp phát triển. Thực tế hiện nay, cả các
nước phát triển và đang phát triển cũng đang tính lại chính sách về phí sử dụng nước
và một số nước đã bắt đầu thu lại ít nhất một phần kinh phí đầu tư ban đầu từ người
sử dụng như Australia và Brazil.
Bên cạnh đó, việc chuyển giao quản lý vận hành cho người sử dụng cũng là
một tiếp cận trong chính sách thiết lập mức thuỷ lợi phí ở các nước. Nhiều nước
đang có xu hướng chuyển giao quản lý vận hành cho người sử dụng hay các tổ chức
phi chính phủ, đặc biệt là chuyển giao hệ thống thủy lợi cho người hưởng lợi và họ
tự thu phí sử dụng nước để đảm bảo chi phí quản lý vận hành. Madagasca là nước
điển hình tốt về công tác chuyển giao và hiện nay các nước như Ấn độ và Pakistan
và nhiều nước khác, Việt Nam cũng đang xúc tiến chương trình chuyển giao này.
Hoặc vấn đề thúc đẩy thị trường nước và quyền sử dụng nước ở các nước phát
triển cũng đang là một chương trình đang được triển khai. Các nước đang phát triển
đang chuyển sang thương mại hóa các dịch vụ về nước như Mỹ, Australia và Israel
cũng tương tự như vậy.
2.1.4.2. Kinh nghiệm về chính sách giá nước tưới/thuỷ lợi phí ở một số nước
34
trên thế giới:
Macedonia (Cornish and Perry 2003)
Thuỷ lợi phí được thu đảm bảo bù đắp đủ chi phí vận hành bảo dưỡng và chi
phí khấu hao cơ bản. Thuỷ lợi phí được thu trên diện tích, gồm 2 thành phần: cố
định và biến đổi. Trong thời gian dài, phí cố định tương đương 50% tổng chi phí
vận hành và bảo dưỡng của hệ thống (O&M) và chi phí khấu hao cơ bản cho năm
tiếp theo (khoảng 10%). Phần cố định đảm bảo nguồn thu ngay cả khi mùa mưa khi
có rất ít hoặc không có nhu cầu tưới. Phần biến đổi dựa vào diện tích được tưới cho
các vụ khác nhau với giá của mỗi vụ tương ứng với lượng nước tiêu thụ. Từ năm
1992, thuỷ lợi phí ở đây không tăng, giá khoảng 0,016EUR/m3
. Phần phí cố định
khoảng 7,05EUR/ha. Tuy thuộc vào giá trị của lượng nước cần cho mỗi vụ cũng như
theo diện tích được tưới cho loại cây trồng khác nhau, thuỷ lợi phí cố định có thể lên
tới 20-70EUR/ha. Thực tế cho thấy, phần cố định là quá thấp bởi vì hầu hết các chi
phí cho tưới là cố định. Phần chi phí biến đổi dao động lớn theo mùa vụ vì đây là
vùng khí hậu bán ẩm ướt. Có tổ chức quản lý nước, thu nhập cao hơn chi phí vận
hành và bảo dưỡng là 41USD/ha nếu chi phí không bao gồm nợ cũ và chi phí khấu
hao. Nếu kể cả nợ xấu và chi phí khấu hao, thì chi phí lớn hơn thu nhập là
165USD/ha.
Bulgaria, 2001
Thuỷ lợi phí được thiết lập dựa vào phương pháp tưới, động lực hay trọng lực,
và không có một sự thống nhất trong việc thiết lập thuỷ lợi phí cho toàn quốc. Mỗi
công ty thuỷ nông và Hội người dùng nước có phương pháp tính giá khác nhau.
Thuỷ lợi phí bao gồm phí lấy nước và tiền nước sử dụng theo khối lượng. Giá trung
bình khoảng 0,01$-0,085$/m3
. Giá nước đối với các hệ thống công trình đầu mối
bằng động lực thường bằng gấp 2 hoặc gấp 3 lần so với các vùng tưới tiêu bằng các
hệ thống công trình trọng lực. Thuỷ lợi phí thu được thường chỉ đủ bù đắp một phần
chi phí vận hành và bảo dưỡng và trong một số trường hợp cũng đủ bù đắp một
phần chi phí vốn đầu tư.
Trung quốc (Awati County Government 2002)
35
Trước đây, cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện dịch vụ tưới tiêu và
bây giờ là các doanh nghiệp tự chủ tài chính. Lương của nhân viên có liên quan trực
tiếp đến tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được. Thông qua Hội những người dùng nước được tổ
chức ở mỗi làng xã, chương trình đào tạo cộng đồng được thực hiện. Kể từ khi đổi
mới, thuỷ lợi phí, chủ yếu dựa vào khối lượng nước sử dụng, tăng khoảng 50% so
với khối lượng quotas được cấp cho mỗi nông trại. Với bất kỳ lượng quotas vượt
định mức nào, nông dân phải trả gấp 2 lần so với mức giá bình thường. Khối lượng
nước sử dụng cho mỗi 0.067ha giảm khoảng 50m3
sau khi đổi mới, và tỷ lệ phí thu
được đạt khoảng 98%.
Trước khi có các chương trình tự chủ tài chính cho các cơ quan tưới tiêu, có
một số vấn đề lớn. Thứ nhất, thuỷ lợi phí thu được thường được sử dụng sai mục
đích. Thứ hai, việc thu phí nước theo diện tích được thực hiện, và việc trả không
trên cơ sở khối lượng nước được sử dụng. Thứ ba, trong thời gian gieo cấy chính vụ,
nông dân thường có ý định sẽ dùng các biện pháp hữu hiệu nhất để lấy nước, kể cả
làm cho người khác xấu đi. Thứ tư, một số nhóm người sử dụng nước được thành
lập, nhưng họ không phải là tổ chức cố định. Lãnh đạo nhóm dược chỉ định bởi
quan chức chính quyền và không phải do nông dân bầu. Bởi vậy, thiếu sự tham gia
và quyền làm chủ của người dân sẽ làm người dân ít có động cơ tham gia vào quản
lý, khai thác công trình thuỷ lợi.
Mục tiêu của cải cách là thành lập hệ thống tự chủ về tổ chức và quản lý bao
gồm hai bộ phận thống nhất: Tổng công ty cấp nước sẽ phân phối nước từ các công
trình đầu mối và tổ chức những người dùng nước vận hành công trình cấp cơ sở.
Mỗi Uỷ ban điều hành tổ chức dùng nước được nông dân bầu ra tại hội nghị của tổ
chức dùng nước. Các làng sẽ hỗ trợ để huy động nguồn nhân lực để tham gia các hội
nghị của hội dùng nước và bầu cử Uỷ ban điều hành, và điều đó sẽ mở rộng sự tham
gia của người dân và hoạt động của tổ chức dùng nước. Sau khi chuyển giao các hệ
thống tưới ở cơ sở, các cơ quan tưới và các cơ quan nhà nước về tưới sẽ hỗ trợ các
chương trình đào tạo cho nông dân, nâng cao năng lực của người dân. Các tổ chức
dùng nước được thành lập sẽ có nhiều lợi ích. Thứ nhất, tổ chức dùng nước kiểm
36
soát việc tưới tiêu ở cơ sở sẽ tiết kiệm lao động, nhân lực và rút ngắn chu kỳ tưới.
Nước sẽ được phân phối đúng thời gian và phù hợp yêu cầu khối lượng. Điều này sẽ
làm tăng khả năng và động cơ của người dân trong việc tham gia quản lý tưới. Thứ
hai, các tổ chức dùng nước sẽ cải thiện việc bảo dưỡng các hệ thống kênh chính và
hệ thống kênh nhánh. Nông dân sẽ đầu tư lao động và kinh phí bởi họ biết công
trình bây giờ là của họ. Thứ ba, chi phí tưới sẽ được giảm đi theo nhiều cách khác
nhau khi tổ chức dùng nước sẽ đưa ra mức giá phù hợp theo khối lượng. Người dân
sẽ sử dụng nước sẽ hiệu quả hơn, và việc phân phối nước cũng sẽ hiệu quả hơn.
Thứ tư, sản phẩm sẽ được cải thiện, bình quân sản lượng tăng lên 6%, trong đó
2,5% là do cải thiện việc tưới.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần xem xét. Thuỷ lợi phí thu quá thấp nên
không đủ bù đắp chi phí. Ví dụ ở Hunan, thuỷ lợi phí thu 0.032NDT/m3, trong khi
đó chi phí khoảng từ 0.1 đến 0.15NDT/m3
. Hơn nữa, nông dân cũng không sẵn sàng
trả nhiều thuỷ lợi phí hơn nữa vì họ đã phải nộp nhiều các loại thuế, phí khác và đã
đóng góp về lao động. Bởi vậy, cần phải nỗ lực hơn nữa để cải thiện vấn đề minh
bạch hoá tài chính, riêng rẽ với thuỷ lợi phí
Ai cập (Perry 1995)
Nghiên cứu năm 1995 do Viện Quản lý tưới Quốc tế (IIMI) đã xác định được
tác động của các phương án giá khác nhau trong ngành nông nghiệp có sử dụng
nước tưới và thu nhập của nông trại. Kết quả tìm được ở Ai cập cho thấy, thuỷ lợi
phí được thiết lập trên vụ gieo trồng hiệu quả như giá nước thu theo khối lượng.
• Tỷ lệ thu cố định là 52$/1ha, không cần biết là nước sử dụng vào mùa vụ gì,
chiếm khoảng 4.5% thu nhập của nông trại, nhưng không ảnh hưởng đến lựa chọn
mùa vụ hoặc công nghệ tưới.
• Thuỷ lợi phí theo vụ trên ha, tương ứng với mức tiêu thụ nước trung bình của
mỗi vụ nhất định
• Thuỷ lợi phí theo khối lượng dựa vào khối lượng nước được phân phối có tác
động gần như tương tự đối với trường hợp thứ hai. Các nhân tố chính giải thích sự
phản ứng khác nhau xuất hiện là khả năng lựa chọn mùa vụ để gieo trồng. Hơn nữa,
37
thuỷ lợi phí chỉ chiếm một phần nhỏ thu nhập của nông trại.
Gujarat - Ấn độ (Cornish and Perry 2003)
Nước mặt để tưới rất có hạn ở vùng Bắc Gujarat và việc phát triển tưới bằng
nước ngầm đã được thực hiện. Các giếng bơm nước tưới là phương tiện chủ yếu để
tưới nước. Bởi vì nước ngầm không bị kiểm soát, và thị trường nước cạnh tranh đã
được phát triển mà không ảnh hưởng/liên quan đối với việc sử dụng tài nguyên bền
vững. Các công trình tưới được phát triển và làm chủ bởi tư nhân. Hầu hết được làm
chủ bởi 3-10 nông dân, những người đã phát triển hệ thống quản lý có thể có lãi về
tài chính dưới tỷ lệ tiền điện của Chính phủ rất thấp. Thuỷ lợi phí chủ yếu được tính
theo khối lượng nước sử dụng và đặt ra đảm bảo đủ bù đắp chi phí vận hành và bảo
dưỡng. Các ông chủ đầu tư vốn thu thuỷ lợi phí dựa vào diện tích mà họ có khả
năng tưới và lợi ích tăng lên từ sản phẩm nông nghiệp. Thuỷ lợi phí hiện nay đảm
bảo đủ chi phí vận hành và bảo dưỡng. Vấn đề nợ đọng thuỷ lợi phí ít khi xảy ra vì
khả năng của nông dân và nếu xảy ra điều này, nông dân sẽ không được sử dụng
nước trong mùa tới.
Iran
Vào năm 2001, thuỷ lợi phí đối với vùng tưới nước bằng công trình trọng lực ở
lưu vực Zayande Rud là 4$/1000m3
. Giá này đã gần đảm bảo chi phí vận hành và
bảo dưỡng. Thuỷ lợi phí chiếm không đến 10% thu nhập thực của nông nghiệp. Để
giảm nhu cầu nước, giá cần phải tăng lên khoảng từ $20 đến 50$/1000m3
. Nghiên
cứu cho biết, giá thuỷ lợi phí hiện tại tăng gấp hai mươi lần thì người dân sẽ đầu tư
vào công nghệ tưới hiệu quả hoặc tưới tiết kiệm nước. Ở mức cao này, thuỷ lợi phí
sẽ tương đương 2/3 thu nhập của nông trại, và khó có thể áp dụng trong thực tế.
Pery (2001) đã chỉ khuyến cáo rằng, sử dụng thuỷ lợi phí để bù đắp các khoản chi
phí vận hành và bảo dưỡng và nên sử dụng biện pháp phân phối nước như là một
công cụ riêng biệt để hạn chế khối lượng nước sử dụng, hơn là dùng biện pháp đặt
mức thu cao.
Mêxico (Phát triển các Hội dùng nước - Zekri and Easter 2003)
Năm 1990, sau khi có rất nhiều kinh nghiệm trong các vấn đề nghiêm trọng
38
trong việc phân phối nước và thu thuỷ lợi phí, Mêxico đã cho thực hiện chương
trình chuyển giao quản lý tưới và chuyển quyền sử dụng nước cho các Hội dùng
nước. Nhưng đến năm 1997, 400 Hội dùng nước đã đi vào hoạt động, trong đó mỗi
Hội dùng nước quản lý công trình tưới có diện tích trung bình khoảng 7.600ha. Kết
quả nghiên cứu ở 6% các địa phương cho thấy, nước sử dụng hiệu quả và vấn đề
bảo trì công trình được cải thiện. Thuỷ lợi phí thu được tăng lên ở hầu hết các địa
phương vì mục tiêu tự chủ của các tổ chức, có nơi cho thấy tăng tới 5 lần so với
trước khi chuyển giao. Chính phủ trợ cấp, cho đến năm 1996, chỉ khoảng 15% chi
phí vận hành và bảo dưỡng ở những địa phương thực hiện chuyển giao.
Sự thành công của Hội dùng nước ở Mêxico được tăng cường bởi kỹ năng thuê
nhân viên kỹ thuật. Ở rất nhiều địa phương, thành viên của Hội dùng nước được hỗ
trợ về bán sản phẩm đầu ra, mua nguyên vật liệu đầu vào, thuê mướn máy móc thiết
bị. 8 công ty trách nhiệm hữu hạn, thực chất là hiệp hội các tổ chức dùng nước, hoạt
động và cung cấp dịch vụ cho các Hội dùng nước đến hết năm 1996. Những công ty
này đã mở rộng dịch vụ bảo dưỡng và vận hành các hệ thống lớn.
Maroc - Hệ thống thuỷ lợi Tadla (Cornish and Perry 2003)
Mục tiêu của chính sách thuỷ lợi phí ở Moroco là bù đắp 40% chi phí vốn đầu
tư và toàn bộ chi phí vận hành và bảo dưỡng. Thuỷ lợi phí được thu theo khối lượng
nước sử dụng và mức thu cao theo tiêu chuẩn quốc tế. Khối lượng nước thanh toán
thường chiếm 80% lượng nước thực tế vì tổn thất nước khi phân phối.
Tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được ở Tadla thường đạt từ 70-80%. Ở hệ thống công
trình đầu tiên và lâu đời nhất ở Moroco, cần nhiều chi phí để vận hành và bảo dưỡng
(127$/ha/năm, thu đủ chi phí là 150$ ha/năm) hơn ở hệ thống Haouz. Thuỷ lợi phí
chiếm khoảng 15% thu nhập thực của nông trại. Tất cả nông dân ở Tadla có sổ kiểm
tra để theo dõi lượng nước sử dụng. Mỗi khi dùng nước, nông dân đưa sổ để người
phân phối nước xác nhận khối lượng nước sử dụng. Nông dân và người phân phối
nước ký xác nhận hàng tháng để đảm bảo không có sai sót gì trong hoá đơn. Tổng
lượng nước sử dụng cả vụ được xác định ở sổ kiểm tra, nhưng kế hoạch phân phối
nước có thể thay đổi bởi nhu cầu dùng nước của người dân.
39
Niger (Abernethy et al. 2000)
Mục tiêu của Chính phủ là chuyển giao trách nhiệm vận hành và bảo dưỡng
công trình tưới cho các hợp tác xã của người dùng nước. Thuỷ lợi phí được thiết lập
nhằm thu hồi toàn bộ chi phí vận hành và bảo dưỡng và một phần chi phí đầu tư ban
đầu. Từ năm 1992 đến 1996, mức phí mùa trung bình đối với lúa là 124$/ha vụ, cao
so với bình quân trên toàn thế giới. Thuỷ lợi phí tương đương 12-25% tổng giá trị
của mùa vụ.
Tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được khá cao, từ 90-100%, nhưng nông dân thường trả
chậm. Mục tiêu của hệ thống giá nước là làm giảm nhu cầu sử dụng nước,nhưng
dường như nó không được thành công lắm bởi thuỷ lợi phí không liên quan đến sử
dụng và phân phối nước. Nông dân có rất ít động cơ để cải thiện việc dùng nước
hiệu quả vì dường như nó không có thay đổi gì so với cái họ phải trả.
Việc tạo nguồn mất khoảng 40-60%, và những mất mát này là chi phí phụ tăng thêm
được chia cho những thành viên tham gia hợp tác xã, có thể lên tới hàng nghìn
người. Bởi vậy, nông dân không có động cơ đóng góp lao động để cải thiện hệ
thống, và cân nhắc việc họ chỉ nhận được 1 đồng trong lợi ích vô vàn từ việc giảm
tổn thất nước.
Pháp
Giá nước tưới ở Pháp từ 0,049-0,171USD/m3
) và thu 0,022USD/m3
nước thải
trở lại sông. Mức thu của các tổ nhóm nông dân 0,081$/m3
(giá ở trên là tính đối với
tự chảy còn đối với những vùng phải bơm động lực thì giá phải cộng thêm chi phí
bơm nên giá sẽ cao hơn mức trên).
Hoa Kỳ
Trước kia, thuỷ nông địa phương thu thuỷ lợi phí dựa trên cơ sở chi phí vận
hành và bảo dưỡng cho các vùng đất canh tác khác nhau. Ví dụ, mức thu đối với
những vùng tưới động lực sẽ cao hơn mức thu những vùng tưới tự chảy.
Bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, nhà nước đã xây dựng luật mà
nó bao hàm cả việc bảo vệ nguồn tài nguyên nước. Thuỷ lợi phí đã được thu tăng
lên đáng kể.
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu
Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu

More Related Content

Similar to Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu

VIỆT NAM Khuôn khổ Kinh tế về Nước để Đánh giá các Thách thức của Ngành Nước.pdf
VIỆT NAM Khuôn khổ Kinh tế về Nước để Đánh giá các Thách thức của Ngành Nước.pdfVIỆT NAM Khuôn khổ Kinh tế về Nước để Đánh giá các Thách thức của Ngành Nước.pdf
VIỆT NAM Khuôn khổ Kinh tế về Nước để Đánh giá các Thách thức của Ngành Nước.pdfNuioKila
 
Tham luận kết quả thực hiện chính sách chi trả dvmtr, định hướng và giải pháp...
Tham luận kết quả thực hiện chính sách chi trả dvmtr, định hướng và giải pháp...Tham luận kết quả thực hiện chính sách chi trả dvmtr, định hướng và giải pháp...
Tham luận kết quả thực hiện chính sách chi trả dvmtr, định hướng và giải pháp...CIFOR-ICRAF
 
Luận văn: Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của quỹ bảo vệ môi trường Hà Nội
 Luận văn: Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của quỹ bảo vệ môi trường Hà Nội Luận văn: Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của quỹ bảo vệ môi trường Hà Nội
Luận văn: Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của quỹ bảo vệ môi trường Hà NộiDịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Quản lý nguồn nước
Quản lý nguồn nướcQuản lý nguồn nước
Quản lý nguồn nướcTuấn Đạt
 
Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường tại Tp.Đà Nẵng.doc
Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường tại Tp.Đà Nẵng.docLuận văn Quản lý nhà nước về môi trường tại Tp.Đà Nẵng.doc
Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường tại Tp.Đà Nẵng.docsividocz
 
Nhóm 9 - QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNGpp.pptx
Nhóm 9 - QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNGpp.pptxNhóm 9 - QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNGpp.pptx
Nhóm 9 - QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNGpp.pptxNguynTinVit3
 
Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường trong khai thác và chế biến Muối Kali...
Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường trong khai thác và chế biến Muối Kali...Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường trong khai thác và chế biến Muối Kali...
Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường trong khai thác và chế biến Muối Kali...sividocz
 
ppt nhóm 4.2- Bài phản biện đề tài pháp luật về bảo vệ môi trường nước và sử ...
ppt nhóm 4.2- Bài phản biện đề tài pháp luật về bảo vệ môi trường nước và sử ...ppt nhóm 4.2- Bài phản biện đề tài pháp luật về bảo vệ môi trường nước và sử ...
ppt nhóm 4.2- Bài phản biện đề tài pháp luật về bảo vệ môi trường nước và sử ...Nguyễn Quang Hiếu
 
Hiện trạng nghề cá hồ chứa lưu vực sông Mê Kông - Tây Nguyên
Hiện trạng nghề cá hồ chứa lưu vực sông Mê Kông - Tây NguyênHiện trạng nghề cá hồ chứa lưu vực sông Mê Kông - Tây Nguyên
Hiện trạng nghề cá hồ chứa lưu vực sông Mê Kông - Tây NguyênLap Dinh
 

Similar to Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu (20)

VIỆT NAM Khuôn khổ Kinh tế về Nước để Đánh giá các Thách thức của Ngành Nước.pdf
VIỆT NAM Khuôn khổ Kinh tế về Nước để Đánh giá các Thách thức của Ngành Nước.pdfVIỆT NAM Khuôn khổ Kinh tế về Nước để Đánh giá các Thách thức của Ngành Nước.pdf
VIỆT NAM Khuôn khổ Kinh tế về Nước để Đánh giá các Thách thức của Ngành Nước.pdf
 
Luận văn: Quản lý về bảo vệ công trình thủy lợi tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Quản lý về bảo vệ công trình thủy lợi tỉnh Quảng NamLuận văn: Quản lý về bảo vệ công trình thủy lợi tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Quản lý về bảo vệ công trình thủy lợi tỉnh Quảng Nam
 
Tham luận kết quả thực hiện chính sách chi trả dvmtr, định hướng và giải pháp...
Tham luận kết quả thực hiện chính sách chi trả dvmtr, định hướng và giải pháp...Tham luận kết quả thực hiện chính sách chi trả dvmtr, định hướng và giải pháp...
Tham luận kết quả thực hiện chính sách chi trả dvmtr, định hướng và giải pháp...
 
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về môi trường nước.docx
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về môi trường nước.docxCơ sở lý luận về quản lý nhà nước về môi trường nước.docx
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về môi trường nước.docx
 
Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của Quỹ Bảo vệ môi trường Hà Nội
Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của Quỹ Bảo vệ môi trường Hà NộiVai trò vốn với dịch vụ môi trường của Quỹ Bảo vệ môi trường Hà Nội
Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của Quỹ Bảo vệ môi trường Hà Nội
 
Phát Triển Nuôi Trồng Thuỷ Sản Tỉnh Quảng Bình.doc
Phát Triển Nuôi Trồng Thuỷ Sản Tỉnh Quảng Bình.docPhát Triển Nuôi Trồng Thuỷ Sản Tỉnh Quảng Bình.doc
Phát Triển Nuôi Trồng Thuỷ Sản Tỉnh Quảng Bình.doc
 
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động nuôi trồng và tiêu thụ th...
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động nuôi trồng và tiêu thụ th...Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động nuôi trồng và tiêu thụ th...
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động nuôi trồng và tiêu thụ th...
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về môi trường tỉnh Quảng Nam, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về môi trường tỉnh Quảng Nam, 9đLuận văn: Quản lý nhà nước về môi trường tỉnh Quảng Nam, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về môi trường tỉnh Quảng Nam, 9đ
 
Luận văn: Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của quỹ bảo vệ môi trường Hà Nội
 Luận văn: Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của quỹ bảo vệ môi trường Hà Nội Luận văn: Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của quỹ bảo vệ môi trường Hà Nội
Luận văn: Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của quỹ bảo vệ môi trường Hà Nội
 
Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của Quỹ Bảo vệ môi trường, HAY
Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của Quỹ Bảo vệ môi trường, HAYVai trò vốn với dịch vụ môi trường của Quỹ Bảo vệ môi trường, HAY
Vai trò vốn với dịch vụ môi trường của Quỹ Bảo vệ môi trường, HAY
 
Powerpoint nhóm 4.1.pptx
Powerpoint nhóm 4.1.pptxPowerpoint nhóm 4.1.pptx
Powerpoint nhóm 4.1.pptx
 
Quản lý nguồn nước
Quản lý nguồn nướcQuản lý nguồn nước
Quản lý nguồn nước
 
Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường tại Tp.Đà Nẵng.doc
Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường tại Tp.Đà Nẵng.docLuận văn Quản lý nhà nước về môi trường tại Tp.Đà Nẵng.doc
Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường tại Tp.Đà Nẵng.doc
 
Nhóm 9 - QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNGpp.pptx
Nhóm 9 - QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNGpp.pptxNhóm 9 - QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNGpp.pptx
Nhóm 9 - QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNGpp.pptx
 
Luận án: Bảo vệ môi trường nước lưu vực sông theo pháp luật
Luận án: Bảo vệ môi trường nước lưu vực sông theo pháp luậtLuận án: Bảo vệ môi trường nước lưu vực sông theo pháp luật
Luận án: Bảo vệ môi trường nước lưu vực sông theo pháp luật
 
Đề tài: Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, HAY
Đề tài: Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, HAYĐề tài: Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, HAY
Đề tài: Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, HAY
 
Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường trong khai thác và chế biến Muối Kali...
Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường trong khai thác và chế biến Muối Kali...Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường trong khai thác và chế biến Muối Kali...
Luận văn Quản lý nhà nước về môi trường trong khai thác và chế biến Muối Kali...
 
ppt nhóm 4.2- Bài phản biện đề tài pháp luật về bảo vệ môi trường nước và sử ...
ppt nhóm 4.2- Bài phản biện đề tài pháp luật về bảo vệ môi trường nước và sử ...ppt nhóm 4.2- Bài phản biện đề tài pháp luật về bảo vệ môi trường nước và sử ...
ppt nhóm 4.2- Bài phản biện đề tài pháp luật về bảo vệ môi trường nước và sử ...
 
Hiện trạng nghề cá hồ chứa lưu vực sông Mê Kông - Tây Nguyên
Hiện trạng nghề cá hồ chứa lưu vực sông Mê Kông - Tây NguyênHiện trạng nghề cá hồ chứa lưu vực sông Mê Kông - Tây Nguyên
Hiện trạng nghề cá hồ chứa lưu vực sông Mê Kông - Tây Nguyên
 
Quản lý nhà nước về môi trường nước từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình.doc
Quản lý nhà nước về môi trường nước từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình.docQuản lý nhà nước về môi trường nước từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình.doc
Quản lý nhà nước về môi trường nước từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình.doc
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 

Recently uploaded (20)

1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

Đề tài: Chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu

  • 1. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự tìm tòi, nghiên cứu; các số liệu trong luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Tác giả luận văn Nguyễn Hồng Khanh
  • 2. 2 MỞ ĐẦU Tài nguyên nước hiện nay đã và đang được các quốc gia và toàn thể cộng đồng trên thế giới quan tâm bảo vệ. Như chúng ta đã biết, Hội nghị thượng đỉnh của lãnh đạo các quốc gia trên thế giới tổ chức tại Rio de Janeiro (Brazil), tháng 6/1992 về Môi trường và Phát triển, đã đưa ra bốn nguyên tắc khuyến nghị các quốc gia trên thế giới có những biện pháp khẩn cấp, nhằm tăng cường việc bảo vệ và phát triển nguồn nước, trong đó đã đề cập đến các khía cạnh sinh thái, thể chế, xã hội và kinh tế. Cụ thể như sau: “Nguyên tắc sinh thái: Nước ngọt là nguồn tài nguyên có hạn và dễ bị tổn thương, cần thiết cho sự sống, phát triển và môi trường. Nguyên tắc thể chế: Phát triển và quản lý nước phải dựa trên cơ sở tiếp cận có sự tham gia của các bên có liên quan, từ người sử dụng đến người lập kế hoạch quy hoạch, người lập chính sách, ở mọi cấp độ. Nguyên tắc xã hội: Phụ nữ đóng vai trò trung tâm trong việc cung cấp, quản lý và đảm bảo an toàn về nước. Nguyên tắc kinh tế: Nước có giá trị kinh tế ở mọi nhu cầu sử dụng có tính cạnh tranh và phải được xem như hàng hóa kinh tế”. Ở nước ta, trong những năm gần đây, nước đã được coi là tài nguyên và Chính phủ đã đệ trình Quốc hội ban hành Luật Tài nguyên nước, chính thức được thông qua vào tháng 5/1998. Việc ban hành Luật Tài nguyên nước là một bước tiến quan trọng trong việc đưa vấn đề bảo vệ tài nguyên nước trở thành một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay của Chính phủ Việt Nam, đồng thời cũng đưa Việt Nam là một trong số ít các nước có Luật riêng về Tài nguyên nước. Tại mục 3, khoản 1, Điều 23 của Luật Tài nguyên nước đã quy định về nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước như sau: “1. Tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước có những nghĩa vụ sau đây: e) Thực hiện nghĩa vụ tài chính; bồi thường thiệt hại do mình gây ra trong khai
  • 3. 3 thác, sử dụng tài nguyên nước theo quy định của pháp luật”. Tại khoản 3, Điều 47 của Luật Tài nguyên nước, về khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi đã quy định: “3. Tổ chức, cá nhân khai thác và hưởng lợi từ công trình thủy lợi phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật”. Như vậy, tiếp cận nước là một loại hàng hoá kinh tế và việc các tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm tài chính đối với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước đã được các quốc gia và Chính phủ Việt Nam quan tâm từ lâu. I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1. Tính cấp thiết của đề tài Đến nay, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng để hình thành nên một hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hết sức to lớn, góp phần quan trọng trong việc tưới tiêu, cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối, phòng chống lũ lụt, cấp nước công nghiệp, sinh hoạt, giao thông, du lịch và nhiều ngành kinh tế xã hội khác. Hiệu quả của công tác thuỷ lợi mang lại cho sản xuất đời sống xã hội là hết sức to lớn, có những hiệu quả tính được bằng tiền, nhưng cũng có nhiều những hiệu quả hết sức to lớn khác khó có thể định lượng được, đó là những tác động tích cực về dân trí, xã hội môi trường, nông nghiệp nông thôn... Để đáp ứng cho yêu cầu quản lý và khai thác khép kín các công trình, hệ thống công trình thuỷ lợi, hiện nay, cả nước đã hình thành một hệ thống các tổ chức để quản lý, khai thác các công trình như sau: - Khoảng 100 doanh nghiệp quản lý các công trình đầu mối lớn, kênh trục chính (cấp 1, cấp 2): các công trình đầu mối lớn, kênh trục chính, chưa bao gồm các tổ chức khác thuộc nhà nước cũng được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. - Khoảng 12.000 tổ chức hợp tác dùng nước bao gồm các hợp tác xã nông lâm nghiệp có làm dịch vụ thuỷ lợi, hợp tác xã dùng nước, tổ chức hợp tác, Ban quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, tổ thuỷ nông, đường nước độc lập... quản lý các công
  • 4. 4 trình thuỷ lợi cơ sở nhỏ, hệ thống thuỷ lợi mặt ruộng. - Một số loại hình có tính chất đặc thù khác: như Ban, Trạm Quản lý khai thác công trình thuỷ lợi huyện, liên xã, Trung tâm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, Chi cục thuỷ lợi, công ty khác cũng được giao chức năng quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Để đảm bảo cho các hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên vận hành an toàn, hàng năm yêu cầu phải có đủ kinh phí để vận hành, duy tu, bảo dưỡng, chưa kể đến kinh phí yêu cầu xây dựng mới, nâng cấp, khôi phục công trình hư hỏng do sử dụng lâu ngày và do thiên tai gây ra và kinh phí khắc phục hạn hán, úng lụt. Với mục tiêu này, chính sách thuỷ lợi phí đã được ban hành. Nhằm bù đắp một phần kinh phí yêu cầu nói trên, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương thu thuỷ lợi phí từ người hưởng lợi và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong các đơn vị quản lý khai thác công trình thủy lợi. Ngay từ năm 1962, Hội đồng Chính phủ, nay là Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/CP ngày 5/6/1962 quy định điều lệ thu thuỷ lợi phí, tuy nhiên Nghị định này chỉ áp dụng đối với các hệ thống nông giang lớn. Tiếp đó, là các Nghị định số 112-HĐBT ngày 25/8/1984 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ. Để khuyến khích sản xuất lương thực, trong các văn bản trên, thuỷ lợi phí đối với tưới chỉ thu ở mức cần thiết, đảm bảo chi phí cho sửa chữa thường xuyên (chưa tính đến chi phí nâng cấp, thu hồi vốn). Nhà nước phải hỗ trợ phần chi phí tiền điện tiêu úng, sửa chữa công trình hư hỏng nặng do thiên tai gây ra bằng những quy định chặt chẽ. Xuất phát từ chính sách hỗ trợ nông dân được giao đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối, từ năm 2008, Chính phủ đã miễn giảm thuỷ lợi phí cho người dân theo quy định của Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 của Chính phủ, sau đó được thay thế bằng Nghị định số 115/2008/NĐ- CP ngày 14/11/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
  • 5. 5 điều của Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi. Việc nghiên cứu và ban hành chính sách thuỷ lợi phí phù hợp từng giai đoạn phát triển của đất nước là thực sự cần thiết như đã được đề cập ở trên. Ngoài việc giúp có được một khoản kinh phí đáng kể cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng công trình, nếu chính sách thuỷ lợi phí phù hợp, chúng ta sẽ nâng cao được ý thức của người nông dân trong việc sử dụng nước có ý thức, tiết kiệm và nâng cao trách nhiệm, vai trò của họ trong việc gìn giữ, bảo vệ công trình thuỷ lợi. Về bản chất, thuỷ lợi phí thực chất là chính sách của nhà nước đối với nông dân, vì khi nhà nước hỗ trợ cho công ty khai thác công trình thuỷ lợi phần thiếu hụt do mất mùa không thu được thuỷ lợi phí, hoặc thu ở mức quy định thấp chính là nhà nước hỗ trợ nông dân để sản xuất lương thực. Ở từng giai đoạn phát triển sẽ có chính sách thuỷ lợi phí tương ứng, thu hay miễn, giảm là giải pháp cụ thể của Chính phủ nhằm mục đích đáp ứng bài toán phát triển tổng thể kinh tế xã hội, phù hợp với từng giai đoạn, và bài toán được đặt ra đối với chính sách thủy lợi phí sẽ là: - Nếu quy định thu thuỷ lợi phí, Nhà nước sẽ giảm nguồn kinh phí đáp ứng cho vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa công trình. - Ngược lại, nếu giảm hoặc không thu, Nhà nước phải hỗ trợ hoặc chi phí nhiều hơn cho công tác quản lý vận hành, khai thác công trình thuỷ lợi. Là một cán bộ làm việc tại Tổng cục Thuỷ lợi - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cơ quan chuyên nghiên cứu, tham mưu đề xuất giúp Bộ và giúp Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, bao gồm cả cơ chế chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi và chính sách về thuỷ lợi phí, học viên lựa chọn và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ “Nghiên cứu chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong hoạt động tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp” nhằm đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách thuỷ lợi phí. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Từ lâu, chính sách thuỷ lợi phí đã được Chính phủ, các Bộ ngành và chính quyền các địa phương rất quan tâm, nhằm đảm bảo một khoản kinh phí nhất định để đáp ứng cho công tác vận hành, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa các công trình thuỷ lợi.
  • 6. 6 Có thể liệt kê ra một số các công trình, tài liệu nghiên cứu có liên quan đến chính sách thuỷ lợi phí như sau: - Quản lý thuỷ nông trong nền kinh tế thị trường, Đoàn Thế Lợi, sách do Nhà xuất bản nông nghiệp – 2004. - Thuỷ lợi phí và chính sách thuỷ lợi phí trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế - Đề tài cấp Bộ, Trung tâm nghiên cứu Kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực hiện năm 2007-2008. - Nghiên cứu xây dựng giá nước tại hệ thống thuỷ lợi hồ Núi Cốc – tỉnh Thái Nguyên – Trung tâm nghiên cứu kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực hiện năm 2002. - Nghiên cứu mô hình quản lý thuỷ lợi hiệu quả và bền vững phục vụ nông nghiệp và nông thôn, Trung tâm nghiên cứu kinh tế, Viện Khoa học Thuỷ lợi thực hiện năm 2006-2008. - Nghiên cứu xây dựng hệ thống các chỉ tiêu khoản mục chi phí hợp lý trong sản xuất 1m3 nước để tính giá nước lấy từ công trình thủy lợi cho các mục đích sử dụng khác nhau, Trường Đại học Thuỷ lợi thực hiện, năm 2006-2007. - Nghiên cứu tính giá thành 1m3 nước tưới tiêu của hệ thống thuỷ lợi sáu trạm bơm Bắc Nam Hà, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam 2007-2008. - Nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ chính sách miễn, giảm thuỷ lợi phí, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, thực hiện năm 2008-2009. Tuy vậy, những nghiên cứu này chủ yếu tiến hành vào trong giai đoạn nhà nước đang thực hiện thu thuỷ lợi phí hoặc chính sách miễn thuỷ lợi phí đang được thực hiện ở giai đoạn đầu chưa thực sự hoàn thiện, nên chưa thể hiện được nhiều và toàn diện. Mặc dù vậy, các tài liệu này sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị để học viên tiến hành nghiên cứu này. II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI 1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn chính sách thuỷ lợi phí, luận văn sẽ
  • 7. 7 kiến nghị, luận chứng những giải pháp bảo đảm hiệu quả của chính sách thuỷ lợi phí, nhằm góp phần nghiên cứu đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của công tác quản lý, khai thác công trình thủy lợi trong thời gian tới. Để đạt được mục đích này, luận văn có nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận, quá trình hình thành và thực thi chính sách thuỷ lợi phí ở Việt Nam. - Phân tích, xác định những mặt được, những mặt còn hạn chế và tác động chủ yếu của chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí trong sản xuất nông nghiệp đối với hoạt động quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi. - Kiến nghị đề xuất một số giải pháp, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác các hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có. 2. Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu: Đánh giá tổng thể trên phạm vi cả nước, có tập trung nghiên cứu điển hình tại 1 tỉnh. Do thuỷ lợi phí là chính sách nhạy cảm, có tác động đến nhiều đối tượng dùng nước, phạm vi của luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu, đánh giá các tác động của thuỷ lợi phí trong tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở hoạt động của các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi. III. CÁCH TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu đã nêu trên, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu trong luận văn được sử dụng như sau: - Cách tiếp cận: được vận dụng theo phương pháp từ dưới lên, từ đối tượng hưởng lợi; tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi, tổ chức hợp tác dùng nước; cơ quan nghiên cứu; cơ quan quản lý nhà nước về quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. - Phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp khảo sát từ thực tế quản lý, khai thác ở một số hệ thống công trình thuỷ lợi; + Áp dụng triệt để nguyên tắc tiếp cận từ dưới lên;
  • 8. 8 + Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá; + Phương pháp chuyên gia. IV. CÁC KẾT QUẢ DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC - Cơ sở lý luận quá trình hình thành và thực thi chính sách thuỷ lợi phí; - Những tác động chủ yếu của chính sách thuỷ lợi phí trong sản xuất nông nghiệp tới hoạt động quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi; - Đề xuất định hướng chính sách thuỷ lợi phí phù hợp đối với sản xuất nông nghiệp. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và áp dụng trong việc nghiên cứu, sửa đổi bổ sung chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí và các chính sách về tài chính trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Từ các vấn đề đã được trình bày ở trên sẽ hình thành nội dung nghiên cứu. Những nội dung này được thể hiện trong bố cục của luận văn như sau:
  • 9. 9 Chương 1: THỰC TRẠNG THUỶ LỢI Ở VIỆT NAM 1.1. Tổng quan thực trạng về các hệ thống thuỷ lợi. Ngành thuỷ lợi giữ một vị trí quan trọng đối với phát triển sản xuất nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, nhân dân ta có truyền thống và bề dày lịch sử làm thuỷ lợi, xây dựng hệ thống đê điều và mạng lưới kênh rạch “dẫn thuỷ nhập điền” rộng khắp, nhằm khai thác mặt lợi và hạn chế mặt hại của nước. Từ khi giành độc lập, đặc biệt kể từ giai đoạn đất nước thống nhất đến nay, Nhà nước và nhân dân ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác thuỷ lợi. Kết quả đầu tư thuỷ lợi không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế, mà còn mang ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc. Trong phát triển nông nghiệp, thuỷ lợi là biện pháp hàng đầu, nhờ được đầu tư thuỷ lợi rộng khắp trên mọi vùng đất nước, đã tạo điều kiện đưa khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, nhất là về giống, về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ. Trước đây, nhiều khu vực ở miền núi, Trung bộ, Tây nguyên, Đông Nam bộ hầu hết dựa vào nước "trời" thì nay phần lớn diện tích gieo trồng lúa, và một phần diện tích cây trồng cạn đã được tưới nước bằng công trình thuỷ lợi. Trong quá trình phát triển nông nghiệp nói riêng và kinh tế xã hội nói chung, công tác thuỷ lợi luôn có vị trí quan trọng và nhận được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước cùng với sự đóng góp công sức vô cùng to lớn của nhân dân. Sự nghiệp phát triển thuỷ lợi đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần quan trọng cho sự phát triển của mọi ngành kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để nông nghiệp nước ta có những bước nhảy vọt. Nhiều thập kỷ qua, cùng với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư xây dựng nhiều công trình, hệ thống công trình thuỷ lợi lớn, nhỏ, hình thành nên một cơ sở vật chất hạ tầng hết sức to lớn, phục vụ đa mục tiêu tưới tiêu cho nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, cắt lũ, giao thông, phát
  • 10. 10 điện, ngăn mặn giữ ngọt, du lịch..., bảo đảm cho sản xuất và đời sống dân sinh. Đặc biệt, thuỷ lợi đã góp phần ổn định sản xuất, giữ vững và nâng cao năng suất sản lượng cây trồng, đảm bảo an ninh lương thực, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, đưa nước ta từ một nước thiếu lương thực, trở thành một nước không chỉ ổn định lương thực mà còn có dư thừa, là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới. Theo kết quả điều tra đánh giá của Cục Thuỷ lợi, đến nay (31/12/2008), trên cả nước đã hình thành rất nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi lớn nhỏ, trong đó có 904 hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn có diện tích phục vụ từ 200ha trở lên. Cụ thể số lượng phân theo các loại diện tích tưới được thể hiện ở 1.1. Bảng 1.1: Hệ thống công trình thuỷ lợi phân theo diện tích phục vụ TT Khu vực Tổng số Phân loại theo diện tích phục vụ > 2.000 (ha) 2002.000 (ha) 1 Miền núi Bắc bộ 78 10 68 2 Đồng bằng trung du Bắc bộ 44 28 16 3 Bắc Trung bộ 227 23 204 4 Duyên hải Nam Trung bộ 51 21 30 5 Tây Nguyên 87 8 79 6 Đông nam Bộ 82 8 74 7 Đồng bằng sông Cửu Long 335 12 323 Tổng cộng 904 110 794 Trong danh mục 110 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 2.000ha trở lên trên toàn quốc, bao gồm: - 19 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 2.000 ÷ 3.000 ha. - 15 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 3.000 ÷ 4000 ha. - 9 hệ thống thuỷ lợi có diện tích phục vụ từ 4.000 ÷ 5000 ha. - 13 hệ thống có diện tích phục vụ từ 5.000 ÷ 10000 ha. - 43 hệ thống có diện tích phục vụ từ 10.000 ÷100.000 ha.
  • 11. 11 - 11 hệ thống có diện tích phục vụ lớn hơn 100.000 ha. Tổng số có trên 5000 hồ chứa các loại, với tổng dung tích trữ nước trên 35,34 tỷ m3 , gồm: 26 hồ chứa thuỷ điện có tổng dung tích trữ là 27,12 tỷ m3 , 2460 hồ chứa thủy lợi có dung tích từ 200 ngàn m3 trở lên và hàng ngàn hồ nhỏ với tổng dung tích trữ khoảng 8,22 tỷ m3 , phục vụ cho phát điện, cấp nước sinh hoạt, cấp nước cho các ngành kinh tế trọng yếu và bảo đảm tưới cho 80 vạn ha đất canh tác; trên 10.000 trạm bơm điện lớn với các loại máy bơm khác nhau, có tổng công suất lắp máy phục vụ tưới là 250 Mw, phục vụ tiêu là 300Mw. Ngoài ra, còn có gần 5.000 cống tưới tiêu lớn các loại. Tổng số 126.000km kênh mương các loại, trong đó có trên 1.000 km kênh trục lớn, cùng với hàng vạn công trình trên kênh. Trên 26.000 km bờ bao ngăn lũ đầu vụ hè thu ở Đồng bằng sông Cửu Long, khoảng 3700 km đê sông, trên 2000 km đê biển. Các hệ thống công trình thuỷ lợi này đã cơ bản đáp ứng được những yêu cầu thiết yếu trong sản xuất và đời sống dân sinh. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang diễn ra theo chiều hướng cực đoan và đã có những tác động trực tiếp và rõ nét đối với nước ta đòi hỏi Chính phủ và nhân dân ta cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa trong công tác đầu tư và quản lý khai thác mới có thể đáp ứng được các mục tiêu, yêu cầu ngày càng lớn hiện nay. 1.2. Tổ chức, quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Để quản lý, vận hành các hệ thống công trình thuỷ lợi đã có, hiện nay cả nước hình thành một hệ thống tổ chức quản lý thuỷ nông, khép kín gồn hai cấp bao gồm: - Các đơn vị quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc Nhà nước. - Các tổ chức quản lý thuỷ nông thuộc tập thể, người dân (gọi là tổ chức hợp tác dùng nước). Các tổ chức này độc lập hoặc phối hợp với nhau trong việc quản lý, khai thác hệ thống công trình thuỷ lợi, đảm bảo phục vụ các hoạt động sản xuất và dân sinh kinh tế. 1.2.1. Số lượng, loại hình các đơn vị quản lý thuỷ nông thuộc nhà nước Theo quy định tại Điều 9, Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi:
  • 12. 12 “Công trình thuỷ lợi được xây dựng bằng ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước do doanh nghiệp nhà nước quản lý, khai thác và bảo vệ”. Theo số liệu báo cáo của các địa phương trên toàn quốc, hình thức tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước trên toàn quốc chủ yếu là các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, trong từng điều kiện cụ thể, mỗi địa phương đã quy định những mô hình tổ chức khác nhau. Cụ thể ở các vùng như sau: 1.2.1.1. Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc: Miền núi phía Bắc bao gồm 15 tỉnh, với những mô hình tổ chức quản lý, khai thác công trình thủy lợi như sau: - Các tỉnh không thành lập tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước gồm: Hà Giang, Lào Cai. Ở các tỉnh này, công trình thuỷ lợi đã được giao cho cấp huyện, xã quản lý, khai thác. Tỉnh Lào Cai trước kia có thành lập một số Trạm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc huyện nhưng do không có kinh phí hoạt động nay đã giải tán. - Các tỉnh có thành lập doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi bao gồm: Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La, Hoà Bình, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Điện Biên, Lai Châu, Quảng Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ. Tuy vậy, mô hình ở tỉnh Bắc Kạn chưa phù hợp. - Các tỉnh có đơn vị sự nghiệp tham gia quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi gồm: Tuyên Quang (Ban quản lý công trình thuỷ lợi Ngòi Là), Yên Bái (Trạm Quản lý khai thác công trình thuỷ lợi Văn Yên, Lục Yên), Quảng Ninh (Trung tâm ở Hải Hà, Đầm Hà). 1.2.1.2. Vùng Đồng bằng sông Hồng Ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc Nhà nước tương đối giống nhau. 100% các tỉnh có thành lập Công ty Khai thác công trình thuỷ lợi (Công ty quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi liên tỉnh, toàn tỉnh hoặc quản lý công trình thuỷ lợi liên huyện hoặc trong phạm vi huyện). Có 2 doanh nghiệp khai thác công trình thủy lợi quản lý, khai thác công
  • 13. 13 trình thuỷ lợi liên tỉnh, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý (Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải), 5 hệ thống công trình thuỷ lợi liên tỉnh trực thuộc các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi thuộc các tỉnh, thành phố (Bắc Đuống, An Kim Hải, Sông Nhuệ, Thác Huống, Sông Cầu). Tỉnh Hà Tây (nay đã sáp nhập vào Thủ đô Hà Nội) có 10 Công ty Khai thác công trình thuỷ lợi. Tuy nhiên, theo lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nay chỉ còn 4 công ty là Công ty Khai thác công trình thuỷ lợi Sông Nhuệ, Sông Đáy, Sông Tích và Mê Linh. Như vậy, Thành phố Hà Nội (mới) hiện nay có 5 công ty khai thác công trình thuỷ lợi. Tỉnh Hải Dương còn có Xí nghiệp Khai thác công trình thuỷ lợi Thành phố Hải Dương trực thuộc Công ty TNHH MTV quản lý công trình đô thị Hải Dương. Trong 11 tỉnh, thành phố thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng có 3 tỉnh, thành phố thành lập công ty với quy mô toàn tỉnh (Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên – trên cơ sở sáp nhập các công ty khai thác công trình thuỷ lợi huyện trước kia), các tỉnh còn lại thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi quy mô liên huyện hoặc quy mô huyện để quản lý các hệ thống công trình thuỷ lợi có tính chất tương tự. 1.2.1.3. Vùng Bắc Trung bộ Đây là vùng có mô hình tổ chức khá tương đồng với vùng Đồng bằng sông Hồng. Vùng Bắc Trung bộ có 6 tỉnh, thì 100% các tỉnh có thành lập doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi. Có 3 tỉnh thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Các tỉnh còn lại (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) thành lập mô hình công ty khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô liên huyện hoặc quy mô huyện. Hiện nay, một số huyện ở Nghệ An, Hà Tĩnh và các tỉnh trong vùng này còn có nơi giao công trình vừa và nhỏ cho huyện hoặc xã trực tiếp quản lý. 1.2.1.4. Vùng Duyên hải Nam Trung bộ Vùng này bao gồm gồm 6 tỉnh, mô hình quản lý, khai thác công trình thủy lợi tương đối giống nhau. Ngoại trừ tỉnh Khánh Hoà thành lập hai Công ty khai thác công trình thuỷ lợi theo quy mô liên huyện (Bắc Khánh Hoà và Nam Khánh Hoà),
  • 14. 14 các tỉnh trong vùng đều thành lập công ty có quy mô toàn tỉnh, hoạt động khá hiệu quả. Một số huyện miền núi, công trình thuỷ lợi nhỏ được giao cho huyện hoặc Uỷ ban nhân dân các xã tự tổ chức mô hình quản lý, khai thác. 1.2.1.5. Các tỉnh Tây Nguyên Tây Nguyên có 5 tỉnh thì có 4 tỉnh có mô hình tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh. Riêng tỉnh Đắc Nông không có mô hình doanh nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Chỉ có một Trạm Quản lý khai thác công trình thuỷ lợi Đắc Mil (thuộc Huyện), quản lý hệ thống công trình thuỷ lợi Đăc Mil tưới chủ yếu cho cây cà phê và một ít diện tích trồng lúa. Tỉnh Lâm Đồng có công ty khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh, nhưng công ty này đã giải tán và sáp nhập với Ban Quản lý khai thác công trình thuỷ lợi Thành phố Đà Lạt thành Trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi Lâm Đồng, hoạt động như một đơn vị sự nghiệp có thu. Cũng giống như các nơi khác, các công trình thủy lợi nhỏ trong khu vực được giao cho Uỷ ban nhân dân các huyện, xã trong vùng tổ chức các loại hình để quản lý, khai thác. 1.2.1.6. Các tỉnh Đông Nam bộ Mô hình quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi khu vực Đông Nam Bộ khá đa dạng. Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu không thành lập công ty quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, Chi cục Quản lý thuỷ nông trực tiếp tham gia quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Tỉnh Bình Dương có Xí nghiệp quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc Công ty cấp thoát nước và môi trường Bình Dương. Các tỉnh còn lại đều thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi có quy mô toàn tỉnh như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Phước, Tây Ninh, Ninh Thuận, Bình Thuận hoạt động khá hiệu quả. Khu vực này còn có Công ty TNHH Một thành viên Khai thác Thuỷ lợi Dầu Tiếng – Phước Hoà, quản lý, khai thác Hồ Dầu Tiếng, sắp tới thêm hồ Phước Hoà phục vụ tưới, cấp nước, xả ngọt đẩy mặn và phòng lũ cho các tỉnh, thành phố: Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An và Bình Phước trực thuộc
  • 15. 15 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 1.2.1.7. Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long Thực tế cho thấy, mô hình quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi vùng Đồng bằng sông Cửu Long thể hiện sự đa dạng và có nhiều sự biến đổi nhất so với các vùng khác trong toàn quốc. Toàn vùng có 13 tỉnh, thành phố thì hiện nay chỉ có 5 tỉnh thành lập công ty có quy mô toàn tỉnh gồm Tiền Giang, An Giang, Trà Vinh, Bến Tre và Sóc Trăng, trong đó Sóc Trăng là mô hình công ty cổ phần, hoạt động chủ yếu là các dịch vụ xây lắp, được Uỷ ban nhân dân tỉnh giao nhiệm vụ quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trong toàn tỉnh (chủ yếu là cống, bọng, kênh mương). Một số tỉnh trước kia cũng thành lập công ty khai thác công trình thuỷ lợi như Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Cần Thơ nhưng hiện nay đã được giải tán hoặc chuyển đổi để thành lập trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoặc giao về các huyện thành lập các trạm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi chịu sự quản lý về chuyên môn của Chi cục như Cần Thơ, Vĩnh Long. Một số tỉnh thành các trạm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi thuộc các huyện như Hậu Giang, Cà Mau, Kiên Giang. Tỉnh Long An, trước đây Chi cục Thủy lợi trực tiếp quản lý, khai thác các công trình thuỷ lợi, kể cả hệ thống thuỷ lợi liên tỉnh như cống Bắc Đông, Rạch Chanh. Đến năm 2010, tỉnh Long An đã thành lập Trung tâm quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Ở tỉnh Đồng Tháp, ngoài Chi cục Thủy lợi làm chức năng quản lý nhà nước, trực tiếp quản lý, vận hành công trình thuỷ lợi do tỉnh quản lý khai thác thì Công ty Cổ phần Vinaconex 27 cũng tham gia quản lý một số trạm bơm, hoạt động dịch vụ, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các huyện quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi do huyện quản lý, khai thác. Các công trình nhỏ, lẻ giao các tổ chức của người dân trực tiếp quản lý, khai thác. Tổng hợp số liệu về mô hình tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi toàn quốc như bảng 1.2.
  • 16. 16 Bảng 1.2: Tổng hợp tổ chức khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước Thứ tự Tên vùng Số lượng công ty, đơn vị sự nghiệp QLKCTTL Tỉnh/liên tỉnh Huyện, liên huyện Đơn vị sự nghệp 1 Miền núi phía Bắc (25/15 tỉnh) 8 13 4 2 Đồng bằng sông Hồng (35/11 tỉnh) 5 30 0 3 Bắc Trung bộ (21/6 tỉnh) 3 18 0 4 Duyên hải miền Trung (7/6 tỉnh) 5 2 0 5 Tây Nguyên (5 tỉnh) 4 0 1 6 Đông Nam Bộ (8/8 tỉnh) 8 0 0 7 Đồng bằng sông Cửu Long (7/13 tỉnh) 5 0 2 Tổng: 38 63 7 Bảng tổng hợp này không bao gồm các Chi cục thuỷ lợi vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước, vừa tham gia quản lý khai thác như Bà Rịa Vũng Tàu, Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Cà Mau, Bà Rịa Vũng Tàu. 1.2.2. Về loại hình hoạt động của doanh nghiệp: Phân theo phạm vi phục vụ của các doanh nghiệp, hiện nay có các loại hình chủ yếu sau: 1.2.2.1. Công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ thống công trình thuỷ lợi lớn, kỹ thuật phức tạp, kênh trục chính phục vụ tưới tiêu, cấp
  • 17. 17 nước có tính chất liên tỉnh (gọi tắt là công ty liên tỉnh). Các công ty này do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trực tiếp quản lý (như Bắc Nam Hà, Bắc Hưng Hải, Dầu Tiếng) hoặc do địa phương có diện tích hưởng lợi lớn quản lý như Sông Nhuệ, Bắc Đuống. 1.2.2.2. Công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ thống thủy lợi, kênh trục chính, kênh nhánh các cấp lớn phục vụ tưới tiêu, cấp nước trong phạm vi toàn tỉnh hoặc có tính chất liên huyện, như công ty của tỉnh Hoà Bình, Lai Châu, Lạng Sơn, Hải Dương, Thái Nguyên, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Tiền Giang, Trà Vinh. 1.2.2.3. Các công ty khai thác công trình thuỷ lợi quản lý, vận hành các hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu, cấp nước trong phạm vi huyện hoặc liên huyện như các công ty của tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Khánh Hoà. Phương thức hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay được thực hiện theo quy định của Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3/2005 của Chính phủ về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và theo quy định khác của pháp luật hướng dẫn phương thức này. Thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2005, đến nay, hầu hết các đơn vị chuyển đổi từ loại hình công ty nhà nước hoạt động công ích trong quản lý khai thác công trình thuỷ lợi sang loại hình Công ty TNHH một thành viên. Bên cạnh đó, một số nơi có hình thức công ty cổ phần tham gia/được giao nhiệm vụ quản lý khai thác công trình thuỷ lợi như: Công ty Cổ phần Khai thác công trình thuỷ lợi Sơn La; Công ty CP Khai thác thuỷ lợi Kon Tum; Công ty Cổ phần dịch vụ Thuỷ lợi Vĩnh Long (hiện đã không còn tham gia quản lý thuỷ nông); Công ty Cổ phần Thuỷ lợi Sóc Trăng. Tuy nhiên việc thực hiện cổ phần ở các công ty này chưa đúng bản chất của vấn đề cổ phần hoá nên hoạt động còn nhiều khó khăn. Tỉnh Sơn La đang đề xuất chuyển đổi công ty này sang loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước. Đến nay, hầu hết, các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi đã được chuyển đổi thành Công ty TNHH một thành viên theo đúng lộ trình quy định của
  • 18. 18 Luật Doanh nghiệp năm 2005. 1.2.3. Loại hình các đơn vị quản lý thuỷ nông cơ sở Bên cạnh các doanh nghiệp, tổ chức quản lý khai thác công trình thuỷ lợi thuộc nhà nước, còn có các tổ chức của tập thể, cá nhân cùng tham gia. Theo báo cáo tổng hợp, cả nước có khoảng trên 12.000 tổ chức làm dịch vụ thuỷ nông gồm: - Hợp tác xã nông nghiệp làm dịch vụ thuỷ lợi hoặc chuyên khâu - Tổ hợp tác dùng nước: - Hội dùng nước: - Ban quản lý thủy nông xã (hoặc liên xã): - Ban tự quản dùng nước thôn bản. 1.3. Một số tồn tại, thách thức của công tác thuỷ lợi hiện nay. 1.3.1. Một số tồn tại của công tác thuỷ lợi Mặc dù đã phát huy và đạt được nhiều thành tựu trong việc phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh, tuy nhiên công tác thuỷ lợi còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém. Những tồn tại yếu kém trong công tác thuỷ lợi phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh, biểu hiện qua các nội dung sau đây: Thứ nhất là, các hệ thống công trình phát huy hiệu quả còn ở mức thấp, bình quân chỉ đạt 70% năng lực thiết kế do nhiều nguyên nhân, như việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá, dẫn đến diện tích, mục tiêu phục vụ không còn như thiết kế ban đầu, hiệu suất sử dụng công trình theo thiết kế thấp. Thứ hai là, hầu hết diện tích được bảo đảm chủ động tưới, tiêu còn thấp hoặc tưới tiêu không chắc chắn. Theo chỉ tiêu thiết kế, công trình tưới bảo đảm ở mức p=75% (đến nay đã có nhiều hệ thống đạt 85%), tiêu ở mức 10%, song trên thực tế nhiều vùng diện tích còn bị hạn, bị úng ngay cả khi thời tiết, khí hậu chưa nghiêm trọng như tính toán thiết kế ban đầu. Diện tích không chủ động tiêu tập trung ở các vùng tiêu bằng trọng lực hoặc nội đồng. Vấn đề tiêu thoát nước nội đồng ở nhiều hệ thống rất phức tạp. Thứ ba là, nhiều công trình bị xuống cấp nhanh do một thời gian dài không được duy tu bảo dưỡng đầy đủ, kịp thời; nhiều công trình có hệ số an toàn theo quy
  • 19. 19 phạm trước đây còn thấp, có thể gây nguy hiểm khi gặp lũ. Nhiều hệ thống kênh dẫn chất lượng kém và tình trạng quản lý nước trên kênh tưới không chặt chẽ, dẫn đến phần đầu kênh thì thừa nước, cuối kênh thiếu nước; Thứ bốn là, tại các hệ thống thuỷ lợi lớn, diện tích phải bơm tưới, bơm tiêu hỗ trợ chiếm tỷ lệ khá cao, đặc biệt là những vùng cuối nguồn; tình trạng lãng phí nước tưới còn phổ biến; mức tiêu hao nhiên liệu, năng lượng lớn; cho phí cho tưới cao; Thứ năm là, vấn đề ô nhiễm nước trong hệ thống công trình thuỷ lợi do nước thải, rác thải xả bừa bãi vào hệ thống kênh xảy ra phổ biến; tình trạng vi phạm, xâm hại, lấn chiếm công trình và phạm vi bảo vệ công trình thuỷ lợi xảy ra ở hầu hết các hệ thống thuỷ lợi chưa được ngăn chặn kịp thời, đặc biệt là ở hệ thống kênh chuyển nước. Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém trong công tác thuỷ lợi có nhiều, nhưng tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau: Một là, công trình thuỷ lợi thường có giá trị lớn, nằm trên địa bàn rộng nên công tác quản lý và hiệu quả của các công trình thuỷ lợi chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan, như điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội từng vùng, lũ lụt, hạn hán và các thiên tai khác. Thời tiết, khí hậu diễn biến bất thường có xu hướng ngày càng bất lợi, vấn đề biến đổi khí hậu và nước biển dâng ngày càng nghiêm trọng, trong khi tần suất thiết kế các công trình thuỷ lợi ở nước ta còn ở mức thấp (tưới 75%, tiêu 10%). Hai là, quá trình thay đổi, chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất từ nông nghiệp sang đất đô thị, công nghiệp và các mục đích khác trong các hệ thống thuỷ lợi diễn ra rất nhanh và mạnh mẽ, dẫn đến việc điều hành hệ thống công trình thuỷ lợi rất khó khăn, việc phát huy hiệu quả không đảm bảo như thiết kế, nhiều hệ thống thuỷ lợi phải sửa chữa, nâng cấp mới đáp ứng yêu cầu thực tế. Ba là, rất nhiều công trình thuỷ lợi được đầu tư xây dựng trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, suất đầu tư còn thấp, do vậy khi thiết kế thường có diện tích thiên lớn. Nhiều hệ thống thuỷ lợi công trình được xây dựng thiếu kiên cố, công nghệ xây dựng lạc hậu, chưa được đầu tư đồng bộ từ đầu mối đến mặt
  • 20. 20 ruộng, nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi thiếu trang thiết bị cho công tác quản lý, vận hành. Việc đầu tư phát triển thuỷ lợi chưa phù hợp, nặng về xây dựng các công trình mới, nhẹ về củng cố, khôi phục, nâng cấp sửa chữa các công trình đã có. Nhiều công trình thuỷ lợi hiện nay đã bị xuống cấp, thiếu kinh phí để sửa chữa công trình hoặc nâng cấp công trình cho phù hợp với mục tiêu nhiệm vụ mới. Bên cạnh đó, đầu tư cho công tác quản lý còn chưa được coi trọng, do vậy không phát huy hết hiệu quả của hệ thống. Bốn là, yêu cầu cấp nước ngày càng cao để đáp ứng với việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp; trong khi đó quy hoạch thuỷ lợi tổng thể phục vụ cho đa ngành, đa mục tiêu chưa đáp ứng yêu cầu; chưa tính toán đầy đủ yêu cầu cấp nước phục vụ sinh hoạt nông thôn, nước cho sản xuất công nghiệp, các làng nghề, nước cho nuôi trồng thuỷ sản. Do vậy, có nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi không đáp ứng được yêu cầu sản xuất thực tế. Năm là, việc thực thi Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình thuỷ lợi và các cơ chế chính sách trong quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở nhiều địa phương chưa tốt. Nhiều văn bản pháp quy được ban hành nhưng khó đi vào cuộc sống, dẫn đến việc vi phạm diễn ra phổ biến, đặc biệt là vi phạm hành lang bảo vệ công trình thuỷ lợi, hành vi xả thải vào công trình thuỷ lợi. Sáu là, nguồn nhân lực phát triển chưa tương xứng với yêu cầu hiện tại. Năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân khai thác công trình thuỷ lợi chưa đáp ứng được với yêu cầu về công nghiệp hoá và hiện đại hoá quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Phân bố nhân lực ngành giữa các vùng, miền chưa cân đối, nhiều nơi rất thiếu cán bộ thuỷ lợi, đặc biệt là các tỉnh vùng trung du, miền núi. Bảy là, tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi ở nhiều địa phương còn chưa đồng bộ, khép kín, kể cả hệ thống tổ chức quản lý nhà nước và quản lý khai thác. Chưa có tổ chức thanh tra chuyên ngành, chế tài xử phạt các hành vi xâm hại công trình thuỷ lợi còn chưa đủ mạnh. Năng suất lao động chưa cao, thu nhập thấp, đời sống của cán bộ, công nhân khó khăn và không thu hút được cán bộ kỹ thuật có năng lực về làm việc cho đơn vị. Nhiều tổ chức quản lý, khai thác công trình thủy
  • 21. 21 lợi còn tính ỷ lại, thiếu năng động. Tổ chức quản lý thuỷ nông ở cơ sở còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa phát huy được vai trò của cộng đồng tham gia trong công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. 1.3.2. Một số thách thức trong công tác thuỷ lợi sắp tới Đất nước ngày càng ổn định và phát triển, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là thời cơ thuận lợi để thuỷ lợi có điều kiện phát triển đi lên. Tuy vậy, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi trong công tác thủy lợi hiện nay cũng đang đứng trước những thách thức rất lớn, đó là: Thứ nhất là, nguồn nước ở nước ta phân bố không đều cả theo không gian và thời gian, hệ thống sông lớn chủ yếu bắt nguồn từ nước ngoài, rất lệ thuộc vào khả năng khai thác, sử dụng nước của quốc gia ở phía thượng lưu; trong khi đó, nước ta nằm ở vùng hạ lưu, không chủ động được nguồn nước. Thứ hai là, xu thế biến đổi khí hậu toàn cầu, nhiệt độ trái đất nóng lên, nước biển dâng cao làm cho thiên tai trên phạm vi toàn cầu xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn, cường độ tăng mạnh hơn, cực đoan hơn và khả năng tác động không thể lường hết. Việt Nam được cảnh báo là 1 trong 5 quốc gia sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Do biến đổi khí hậu toàn cầu, hiện tượng Elnino, Lanina thường xuyên xuất hiện, gây lũ lụt, hạn hán liên tiếp. Tình trạng xâm nhập mặn, khan hiếm nước ngọt đã xuất hiện ngày càng nghiêm trọng. Thứ ba là, tình trạng ô nhiễm nguồn nước trong các hệ thống công trình thuỷ lợi ngày càng gia tăng, do nước thải từ các khu công nghiệp được phát triển nhanh, những làng nghề, khu đô thị tập trung nhiều nơi đã xả trực tiếp nước vào các hệ thống công trình thuỷ lợi không qua xử lý. Thứ bốn là, nhu cầu nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, cấp nước dân sinh, đô thị, du lịch, dịch vụ, môi trường và các yêu cầu dùng nước khác đang tăng cao. Các đối tượng sử dụng nước ngày càng đa dạng, với yêu cầu chất lượng dịch vụ cao hơn, trong khi nguồn nước đang ngày càng khan hiếm, cạn kiệt và có nguy cơ bị ô nhiễm. Theo dự báo của Ngân hàng Phát triển châu Á, đối với Việt Nam, cần phải yêu cầu bảo đảm an ninh lương thực cho dân số
  • 22. 22 trên 100 triệu người đến năm 2020 và 130 triệu người đến năm 2050, trong khi diện tích lúa ngày càng giảm, đòi hỏi chất lượng, mức bảo đảm tưới tiêu phải được nâng cao hơn nữa. Thứ năm là, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế trong quá trình quản lý, vận hành, điều tiết nguồn nước ở các công trình thuỷ lợi đầu nguồn, giữa việc phục vụ cho tưới tiêu và phát điện hoặc giữa việc nuôi trồng thuỷ sản hay trồng lúa cũng là một thách thức trong công tác thuỷ lợi trong thời gian tới. Trong nhiều thập kỷ qua, Nhà nước và nhân dân ta đã đầu tư, hình thành một hệ thống cơ sở hạ tầng thuỷ lợi hết sức to lớn, cơ bản đáp ứng những yêu cầu bức thiết của sản xuất và đời sống dân sinh. Để quản lý, vận hành các hệ thống thuỷ lợi này, chúng ta cũng đã hình thành một hệ thống tổ chức để thực hiện nhiệm vụ quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Các công trình thuỷ lợi đã phát huy được vai trò của mình, tuy nhiên trong thực tế vẫn còn nhiều tồn tại. Công tác thuỷ lợi cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức trước mắt đòi hỏi các cơ quan chức năng phải có các giải pháp cần thiết để biến những khó khăn, thách thức thành cơ hội để phát triển ngành thuỷ lợi, đáp ứng với yêu cầu phát triển dân sinh, kinh tế xã hội của đất nước. Với mục tiêu quản lý, khai thác công trình hiệu quả, đảm bảo an toàn thì việc ban hành những cơ chế, chính sách, đặc biệt là chính sách về tài chính, mà thuỷ lợi phí là một trong những chính sách đó, nhằm đáp ứng được yêu cầu tổng thể, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, đáp ứng lòng mong mỏi của người dân nhưng phải theo hướng khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm và bền vững nguồn tài nguyên là yêu cầu đặc biệt cần thiết.
  • 23. 23 Chương 2: CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH THUỶ LỢI PHÍ 2.1. Cơ sở khoa học và sự cần thiết của chính sách thuỷ lợi phí. 2.1.1. Khái niệm thuỷ lợi phí: Thuỷ lợi phí hay định giá nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp nói chung là mô tả việc định giá của dịch vụ cung cấp nước cho các tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp. Đối với việc áp dụng cho tưới tiêu (thuỷ lợi phí), giá nước nhìn chung được nhìn nhận qua hai loại hàng hoá kinh tế: 1) dịch vụ cung cấp nước (thời lượng, phân phối và chất lượng của dịch vụ); và 2) nước được phân phối, thường được xác định bởi khối lượng, nhưng đôi khi cũng đề cập đến vấn đề chất lượng. Liên quan đến vấn đề này, chúng ta hãy tìm hiểu, làm rõ thêm vấn đề tại sao các chính sách không đề cập thuỷ lợi phí là giá, thuế, chi phí, hay lệ phí chi trả cho dịch vụ về nước đối với sản xuất nông nghiệp mà gọi là phí – thuỷ lợi phí. Thứ nhất, khái niệm giá, trong đó, chỉ đề cập khái niệm giá thành và giá bán. Giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí bằng tiền để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Như vậy, khái niệm giá thành sản phẩm và chi phí trực tiếp liên quan mật thiết với nhau, thể hiện những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất một
  • 24. 24 đơn vị sản phẩm. Giá bán được hiểu là số tiền người mua phải trả cho người bán để có/nhận được sản phẩm hoặc dịch vụ mà người mua mong muốn có. Giá bán chính là thước đo trao đổi của một hàng hoá cho một hàng hoá khác, được tính bằng tiền. Trong cơ chế thị trường, giá bán được xác định dựa trên những nguyên tắc mà ở đó cho phép giá có thể tự do dịch chuyển nhằm đáp ứng cầu của một loại hàng hoá nhất định. Nếu cung vượt cầu thì giá giảm và ngược lại. Thứ hai, thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành. Đây là một khoản thu chủ yếu của ngân sách mang tính chất nghĩa vụ bắt buộc. Thuế không được hoàn trả trực tiếp, ngang giá cho người nộp thuế. Một phần số thuế đã nộp cho ngân sách Nhà nước trả về cho người dân một cách gián tiếp dưới những hình thức đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng về giáo dục, y tế, phúc lợi công cộng, an ninh quốc phòng và xây dựng cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống, đê điều. Thứ ba, khái niệm chi phí được hiểu là tổng nguồn lực (thường được qui ra tiền) để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí bao gồm chi phí biến đổi, là những chi phí thay đổi cùng với sự thay đổi của sản lượng; và chi phí cố định là những chi phí không thay đổi khi sản lượng thay đổi. Thứ tư, lệ phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý Nhà nước được qui định trong danh mục lệ phí ban hành kèm theo Pháp lệnh Phí và lệ phí. Lệ phí là khoản thu vừa mang tính chất phục vụ cho đối tượng nộp lệ phí về việc thực hiện một số thủ tục hành chính vừa mang tính chất động viên sự đóng góp cho ngân sách Nhà nước. Thứ năm, phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được qui định trong Danh mục phí ban hành kèm
  • 25. 25 theo Pháp lệnh Phí và lệ phí. Phí là khoản thu mang tính chất bù đắp chi phí thường xuyên hoặc bất thường như phí về xây dựng, bảo dưỡng, duy tu của Nhà nước đối với những hoạt động phục vụ người nộp phí. Như vậy, xét theo tiêu chí các khái niệm trên, thì định giá nước đối với nông nghiệp, không thể theo giá thị trường, hoặc lấy tổng chi phí làm ra sản phẩm/dịch vụ để quy định mức thu đối với những người sản xuất nông nghiệp, vì họ sẽ không thể chịu đựng nổi. Tuy vậy, ở một số trường hợp vẫn có thể gọi là giá dịch vụ thuỷ lợi đối với sản xuất nông nghiệp hoặc giá nước đối với sản xuất nông nghiệp. Tất nhiên, không thể gọi là thuế nước vì tính chất của thuế khác hẳn với giá, chi phí và các loại phí. Vì thuế là khoản có tính chất bắt buộc tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ nộp cho nhà nước khi thực hiện một dịch vụ nào đó mà Nhà nước quy định phải nộp thuế. Đương nhiên, không thể gọi chi phí này là lệ phí vì lệ phí là chi phí cho các nội dung có tính chất hành chính. Để thể hiện sự ưu đãi đối với sản xuất nông nghiệp và tính “khoan sức dân”, thuỷ lợi phí chính thức được xem, định nghĩa như là một loại phí, điều đó cũng được khẳng định trong Pháp lệnh Phí và lệ phí ngày 28/8/2001 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Trải qua nhiều văn bản có khái niệm khác nhau, tại Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi (ngày 4/4/2001) thuỷ lợi phí đã định nghĩa như sau: “Thuỷ lợi phí là phí dịch vụ về nước thu từ tổ chức, cá nhân sử dụng nước hoặc làm dịch vụ từ công trình thủy lợi cho mục đích sản xuất nông nghiệp để góp phần chi phí cho việc quản lý, duy tu, bảo dưỡng và bảo vệ công trình thuỷ lợi”. Định nghĩa đã thể hiện rõ bản chất của thuỷ lợi phí đối với sản xuất nông nghiệp. 2.1.2. Cơ sở khoa học và sự hình thành chính sách thuỷ lợi phí ở Việt Nam. 2.1.2.1. Cơ sở khoa học Nước là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và có hạn. Không có nước sẽ không thể duy trì sự sống hay bất kỳ một hoạt động nào khác. Ngày nay, nguồn nước đang ngày càng có xu hướng cạn kiệt, suy thoái và ô nhiễm trầm trọng, trong khi nhu cầu sử dụng nước cho các ngành kinh tế, sinh hoạt ngày càng tăng cao. Bên cạnh đó, nước được xem như một loại hàng hoá, hàng hoá đặc biệt và
  • 26. 26 không có hàng thay thế, đặc biệt nước khi đã qua công trình thuỷ lợi thì đặc tính nước là hàng hoá càng thể hiện rõ nét. Do vậy, mọi người cần phải có trách nhiệm trong việc giữ gìn và bảo vệ tài nguyên nước. Trên cơ sở đánh giá những hiệu quả thực tế của công tác thuỷ lợi mang lại cho sản xuất đời sống xã hội và dân sinh kinh tế, chúng ta có thể nhận định rằng, những hiệu quả này là hết sức to lớn, có hiệu quả được định lượng, có thể tính được bằng tiền. Tuy nhiên, còn nhiều hiệu quả hết sức to lớn mà khó định lượng được hoặc quy đổi thành tiền, như việc giảm thiểu thiệt hại do lũ, lụt ở vùng hạ du, tác dụng về dân trí, xã hội do việc khai hoang, phục hoá, mở rộng diện tích đất canh tác, tạo nên những vùng đất sản xuất trù phú mới, hoặc tạo ra những vùng có môi trường thiên nhiên trong lành, tuyệt vời làm nơi du lịch sinh thái, đặc biệt ở những vùng có hồ chứa, hoặc thay đổi bộ mặt nông nghiệp nông thôn dự trên kết quả đầu tư thuỷ lợi. Nguyên tắc người dùng hoặc hưởng lợi đều phải trả chi phí được áp dụng đối với bất cứ loại dịch vụ nào, trong đó có người sử dụng, hưởng lợi từ nước, kể cả sử dụng nước cho sản xuất nông nghiệp, đều phải có nghĩa vụ tài chính đối với việc sử dụng nước từ công trình thuỷ lợi. Vì vậy, việc đặt ra và thực hiện chính sách thuỷ lợi phí là có cơ sở khoa học rõ ràng. 2.1.2.2. Sự cần thiết phải có chính sách thuỷ lợi phí Như trong chương 1 đã đề cập, với hệ thống thuỷ lợi hiện có, để đáp ứng cho yêu cầu quản lý và khai thác khép kín các công trình, hệ thống công trình này, hiện nay, đã hình thành hai cấp quản lý như sau: Thứ nhất, các tổ chức, đơn vị thuộc nhà nước, bao gồm: hơn 100 công ty nhà nước, công ty TNHH một thành viên 100% vốn thuộc sở hữu nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý, khai thác các công trình đầu mối lớn, công trình có kỹ thuật phức tạp, kênh trục chính (chưa bao gồm các doanh nghiệp, tổ chức khác thuộc nhà nước cũng có chức năng quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi). Thứ hai, cấp tập thể, cá nhân (gọi là tổ chức thuỷ nông cơ sở): bao gồm khoảng 12.000 tổ chức hợp tác dùng nước (bao gồm các hợp tác xã nông nghiệp có làm dịch vụ thuỷ lợi, hợp tác xã dùng nước, tổ hợp tác, tổ, đội, ban) làm chức năng
  • 27. 27 cầu nối giữa các đơn vị quản lý khai thác của nhà nước với các hộ nông dân và quản lý, khai thác những công trình thuỷ lợi nhỏ, có quy mô phù hợp. Muốn đảm bảo cho các hệ thống công trình thuỷ lợi nói trên vận hành an toàn, hàng năm, yêu cầu phải có một khoản kinh phí nhất định để vận hành, duy tu, bảo dưỡng công trình thuỷ lợi (chưa kể đến kinh phí yêu cầu để đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, đại tu sửa chữa công trình thuỷ lợi bị hư hỏng do sử dụng lâu ngày và do thiên tai gây ra). Để bù đắp một phần kinh phí yêu cầu nói trên, giảm nhẹ gánh nặng bao cấp ngân sách nhà nước, Nhà nước đã có chủ trương thu thuỷ lợi phí từ người hưởng lợi. Ngay từ năm 1962, Hội đồng chính phủ, nay là Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/CP ngày 5/6/1962 quy định điều lệ thu thuỷ lợi phí (Nghị định 66), tuy nhiên, số thuỷ lợi phí thu được là không đáng kể. Chính sách thuỷ lợi phí được thay đổi theo thời gian, tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Chính phủ đã ban hành chính sách thuỷ lợi phí cho phù hợp. Năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định số 112-HĐBT ngày 25/8/1094 về việc thu thuỷ lợi phí (Nghị định 112), thay thế Nghị định 66. Đến năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 143/2003/NĐ- CP ngày 28/11/2003 quy định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, trong đó có quy định về việc thu thuỷ lợi phí (Nghị định 143). Năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 154/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 quy định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi, trong đó quy định miễn thu thuỷ lợi phí (Nghị định 154). Đến năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 115/2008/NĐ-CP ngày 14/11/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 quy định thi hành chi tiết một số điều của Pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi (Nghị định 115), thay thế Nghị định 154 nói trên. Như vậy, tính đến nay, chúng ta đã có 05 văn bản cấp Chính phủ quy định về
  • 28. 28 chính sách thuỷ lợi phí, trong đó có 2 văn bản (Nghị định 66 và Nghị định 112 là có hiệu lực thi hành lâu nhất, tương ứng là 22 và 19 năm. Để giải được bài toán về chính sách miễn giảm thuỷ lợi phí, nếu không có sự tính toán, cấp bù đúng mức, đáp ứng chi phí trong quản lý, duy tu, sửa chữa thì các công trình thuỷ lợi sẽ bị xuống cấp, đe doạ đến an toàn công trình, thậm chí đến ninh lương thực, an toàn xã hội. Do vậy, sự lựa chọn về chính sách thuỷ lợi phí có một ý nghĩa kinh tế - chính trị - xã hội hết sức to lớn. 2.1.3. Một số phương pháp xác định mức thuỷ lợi phí Hiện nay, có 3 phương pháp chủ yếu thường được sử dụng để định giá nước: (1) giá nước theo diện tích; (2) giá theo khối lượng sử dụng và (3) giá cân bằng thị trường. Thực tế, phương pháp đầu tiên hay được sử dụng để thực hiện quy định mức thuỷ lợi phí. Ngoài ra, ở một số nước, thì việc áp dụng thu phí theo diện tích kết hợp với tính giá theo khối lượng nước thực tế sử dụng cũng hay được áp dụng, thường được gọi là giá nước hai thành phần: phần cứng và phần mềm. 2.1.3.1. Giá nước theo diện tích Giá nước nước theo diện tích phục vụ là phí cố định, dựa vào diện tích được tưới hoặc có thể được tưới. Chúng thường được tính toán bằng cách chia tổng chi phí vận hành bảo dưỡng cho việc cung cấp nước tưới cho tổng diện tích được tưới, mà thường được xác định theo nguyên tắc giá trung bình. Việc xác định chi phí vận hành và bảo dưỡng là rất quan trọng, bởi vì tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi cung cấp nước có thể có động cơ tăng chi phí đối với người dân. Hơn nữa, việc sử dụng diện tích được tưới rất đa dạng từ năm này qua năm khác, mùa này qua mùa khác. Ví dụ, diện tích được tưới trong mùa mưa thường lớn hơn trong mùa khô. Hơn nữa, diện tích vùng dự án thường lớn hơn diện tích được tưới thực tế. Bởi vậy, các tổ chức quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi cần phải ước tính được diện tích thực tế tưới cho mỗi mùa vụ. Điểm không thuận lợi trong việc xác định giá theo phương pháp này là, khi đã quyết định diện tích phải chịu giá, giá nước tưới sẽ không có tác động được việc tiêu dùng nước của người nông dân, bởi vậy, chi phí cận biên của khối lượng nước tăng
  • 29. 29 thêm cho một hectare bằng không. Thế nên, nhu cầu nước theo phương pháp này thường cao hơn khi giá nước được định bằng phương pháp cấp nước theo khối lượng, và nó cũng dẫn đến tình trạng sử dụng thừa thãi nước của những người nông dân ở khu vực đầu kênh. Điểm thuận lợi của phương pháp này là áp dụng đơn giản, dễ hiểu để tính toán, dễ dàng cho người nông dân hiểu và các chi phí thực hiện thấp hơn giá theo mét khối bởi vì nước được cung cấp mà không được đo đếm một cách rõ ràng. Mặc dù nó không giúp cho người nông dân động cơ giảm mức sử dụng nước trên 01 ha, nhưng phương pháp này cũng được sử dụng rộng rãi ở rất nhiều hệ thống trên thế giới bởi tính đơn giản trong cách thực hiện. Ở Haryana (Ấn độ), nước tưới được định giá là 2,5USD/ha, trong khi đó ở Pakistan giá từ 2÷8USD/ha, mức phí này được đặt ra chỉ đủ bù đắp một phần chi phí vận hành và bảo dưỡng. Việc định giá nước theo hectare sử dụng thuần tuý chỉ được áp dụng ở những nơi không khan hiếm về nước, mùa vụ không đa dạng và ở những nơi mà việc đo đếm nước theo mét khối rất khó khăn hoặc đắt đỏ. Dẫu sao, hệ thống định giá nước theo diện tích ngày càng trở nên ít phổ biến, và các hệ thống định giá nước theo diện tích sử dụng trong thời gian gần đây đã đưa ra những nét riêng biệt mới. Sự cải tiến của việc định giá nước tưới theo diện tích bao gồm diện tích vụ (hầu như được sử dụng có điều chỉnh), diện tích theo mùa, và giá theo diện tích kết hợp công nghệ. Hệ thống giá theo diện tích vụ thay đổi theo hectare được tưới dựa trên các vụ khác nhau. Sự biến đổi của giá nước theo các vụ phụ thuộc vào mục tiêu của những người làm chính sách. Nếu họ muốn khuyến khích hiệu quả sử dụng nước, các vụ tiêu thụ nhiều nước như lúa, sẽ phải có giá cao hơn theo hectare. Nếu sự khác nhau về giá đủ lớn, người nông dân sẽ chuyển đổi vụ. Mặt khác, nếu Chính phủ có chính sách thu mua lương thực với giá thập hoặc muốn khuyến khích những vụ sản xuất vụ phục vụ thương mại, giá nước đối với vụ này sẽ được đặt thấp hơn cho những vụ khác. Tuy nhiên, cần quan tâm trong việc trợ cấp đầu vào như nước để tăng sản phẩm các vụ bởi vì nó thường dẫn tới vấn đề không hiệu quả và sử dụng dự thừa nguồn tài nguyên, đặc biệt như các vụ sản xuất lúa hay mía.
  • 30. 30 Trong phương pháp xác định mức giá theo diện tích được tưới, phí nước thường phản ánh sự khác nhau trong chi phí dịch vụ tưới bởi các phương pháp tưới khác nhau. Ví dụ, hầu hết các hệ thống tưới bằng trọng lực có mức phí biến đổi thấp hơn so với các hệ thống tưới bằng bơm điện. Tuy nhiên, lợi thế của hệ thống tưới bằng bơm điện là việc kiểm soát nước và việc đo đếm nước nhìn chung dễ dàng hơn hệ thống tưới bằng trọng lực. Bởi vậy, thuỷ lợi phí theo diện tích được tưới ở các hệ thống bơm thường cao hơn ở các hệ thống hồ chứa bởi các chi phí tưới và thu nhập thực trên một đơn vị nước nhìn chung cao hơn. Ở một số nước thường sử dụng phương pháp thu theo diện tích mùa. Ví dụ, giá cao sẽ được áp dụng ở mùa khô, khi nguồn nước khan hiếm, mức giá thấp sẽ được áp dụng ở thời điểm gió mùa hay mùa ướt, khi nguồn nước tương đối dồi dào. Nếu mức giá đặt cao vừa phải ở mùa khô, sẽ giúp giới hạn số lượng ha được tưới. Một phương pháp khác là đặt giá theo diện tích liên quan đến công nghệ tưới. Cho dù không nhận được nhiều sự quan tâm, về lý thuyết, phương pháp này khuyến khích lựa chọn công nghệ tưới mới, tiết kiệm. Ý tưởng của phương pháp này tương tự như phí dựa theo diện tích vụ, khi nông dân sử dụng công nghệ tiết kiệm nước sẽ trả ít hơn cho 1 ha. Ví dụ, tưới nhỏ giọt và tưới phun cho phép kiểm soát việc sử dụng nước tốt hơn và hiệu quả hơn so với phương pháp tưới ngập. Bởi vậy, mức giá thấp hơn cho một ha có thể được đặt ra đối với những người nông dân sử dụng phương pháp này nhằm khuyến khích người dân chuyển đổi. 2.1.3.2. Giá nước theo khối lượng Với việc đặt giá nước theo khối lượng, thì giá nước sẽ được dựa vào khối lượng nước đã được cung cấp. Nguyên tắc giá tối ưu về kinh tế yêu cầu giá phải được thiết lập cân bằng với chi phí cận biên của việc tăng thêm 01 sản phẩm nước và nó khuyến khích người nông dân giới hạn việc sử dụng nước của họ. Bên cạnh đó, nó cũng dễ dàng để người dân hiểu và cảm nhận được rằng họ trả cho khối lượng nước cung cấp cho đồng ruộng của họ. Dẫu sao, phương pháp này cũng có
  • 31. 31 một số tồn tại. Thứ nhất, các chi phí thực hiện có thể cao bởi yêu cầu đo đếm theo mét khối, và họ phải sẵn sàng trong việc đọc và thông báo các chỉ số sử dụng nước. Thứ hai, giá theo chi phí cận biên không cho phép đảm bảo chi phí thu hồi vốn trong trường hợp các chi phí trung bình giảm (ví dụ như hệ thống kênh mương lớn). Mặt khác, trong trường hợp các trạm bơm tưới sử dụng nước ngầm, các chi phí dự án cận biên có thể cao hơn chi phí dự án trung bình, đặc biệt khi các chi phí cận biên bao gồm cả chi phí người dùng cận biên. Bởi vậy, trong một số dự án nước ngầm, giá chi phí cận biên có thể tăng thu cũng như giá nước cao liên quan tới thu nhập của người dân. Ví dụ, có hệ thống, thuỷ lợi phí chiếm tới trên 30% của thu nhập người dân nhưng không đủ bù đắp chi phí vận hành và bảo dưỡng bởi vì chi phí tiền điện rất lớn và phải được trợ cấp. Hơn nữa, đối với các hệ thống trọng lực, thuỷ lợi phí thường nhỏ hơn nhiều so với % thu nhập thực của nông trại. Để chỉ ra những vấn đề liên quan đến tác động của thuỷ lợi phí đối với thu nhập của nông trại, phương pháp định giá nước hai thành phần theo khối lượng sẽ được sử dụng. Giá theo block Giá block bao gồm thay đổi giá nước khi sử dụng nước vượt quá một ngưỡng nhất định, (ví dụ 6.000m3 cho 1ha vụ). Nếu sử dụng cao hơn, việc thu phí đối với block tăng thêm sẽ được sử dụng. Giá cho block đầu tiên sẽ được đặt ra dựa trên cơ sở bù đắp một phần chi phí vận hành và bảo dưỡng. Giá cho các block thứ hai và cuối cùng được tăng lên theo tỷ lệ để bù đắp chi phí vận hành và bảo dưỡng và tương ứng với chi phí cận biên của việc vận hành. Khối lượng của block đầu tiên thường được cân nhắc như là khối lượng cơ bản về nhu cầu nước để hỗ trợ người nông dân, vì vậy, phương pháp này cũng nhằm đạt tới vấn đề công bằng. Người dân sẽ trả với mức phí thấp cho block đầu tiên nhưng giá cao hơn cho việc sử dụng tăng thêm bất kỳ khối lượng nước nào của block đầu tiên. Phương pháp định giá này thực hiện tương tự như việc cấp quota. Thực tế, quota là một trường hợp đặc biệt của việc định giá nước theo block. Nếu giá khác nhau giữa các block đủ lớn, nông dân sẽ cố gắng không sử dụng nhiều hơn block nước đầu tiên. Sự bất tiện của phương pháp này là không dễ dàng
  • 32. 32 quyết định mức giá cho mỗi block hay khối lượng của mỗi block (ví dụ như mức giá thấp áp dụng cho 6.000m3 đầu tiên/ha vụ hay nhiều hơn 6.000 m3 ). Hơn nữa, giá trị dường như không chắc để bù đắp chi phí vận hành bảo dưỡng, đặc biệt nếu phạm vi của block thứ nhất lớn. Nó phù hợp để sử dụng trong trường hợp ở những nơi nước khan hiếm, thu nhập của nông trại thấp, và giá nước cao liên quan đến thu nhập thực của nông trại. Thuận lợi của phương pháp này là bạn có, ít nhất, ba công cụ ảnh hưởng đến việc sử dụng nước và phục hồi chi phí: giá của block thứ nhất, thứ hai và khối lượng mà nó bắt đầu giá của block thứ hai. Giá hai thành phần: Sự cải tiến thứ hai là giá hai thành phần, đây là sự kết hợp của giá nước theo khối lượng và phí thành viên cố định (một số nơi dựa vào của diện tích khu tưới). Đối với phương pháp giá theo block mô tả ở trên, hai mục tiêu (1) thu đủ chi phí phục hồi và (2) giảm khối lượng nước sử dụng là thường mâu thuẫn. Thuận lợi của giá hai thành phần này là có thể làm hài hoà các mâu thuẫn này. Phần khối lượng sử dụng có thể dựa vào chi phí cận biên, điều này sẽ khuyến khích người dân sử dụng tiết kiệm nước, trong khi đó, phần cố định có thể được sử dụng để bù đắp bất kỳ sự thiếu hụt nào để đảm bảo nguồn thu nhập cố định mà không cần biết đến có bao nhiêu nước có thể được sử dụng và cung cấp. Kể cả cho chi phí vận hành và bảo dưỡng, có thành phần cố định mà không phụ thuộc vào khối lượng nước được cung cấp, những chi phí cố định này phải được bù đắp khi nước không được sử dụng cho một mùa. Sự bất lợi trong phương pháp này là nó rất khó khăn trong việc tính toán và rất khó khăn cho người dùng nước để hiểu được. Bên cạnh phương pháp đặt giá đã nêu, còn có phương pháp đặt giá theo sản phẩm đầu ra. Tuy nhiên, phương pháp này ít được các nước sử dụng trong việc cung cấp nước tưới. 2.1.3.3. Thị trường nước Ở những quốc gia có thị trường nước, chính thức hoặc không chính thức, các công ty hoặc cá nhân có thể trao đổi nước ở mức giá cân bằng thị trường đặc biệt mà sẽ thay đổi theo mùa. Để vận hành hiệu quả, thị trường nước yêu cầu phải có cấu
  • 33. 33 trúc rõ ràng của quyền sử dụng nước, bộ quy tắc rõ ràng và toàn diện trong giao dịch, cơ quan quản lý phân phối nước và cơ quan pháp luật để giám sát các hoạt động thương mại và giải quyết các tranh chấp. Họ cũng yêu cầu hệ thống vận chuyển nước hiện đại cho mọi người sử dụng. Nếu những yêu cầu này được thực hiện, giá cân bằng thị trường sẽ được điều chỉnh dựa theo cung và cầu. 2.1.4. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về chính sách thuỷ lợi phí 2.1.4.1. Tổng quan Đối với mỗi hệ thống tưới tiêu cụ thể, việc thiết lập mức thu thuỷ lợi phí đối với sản xuất nông nghiệp phải dựa vào điều kiện thực tiễn của từng quốc gia, đặc biệt là điều kiện kinh tế xã hội và mức sống của người dân để quyết định. Mức thu thuỷ lợi phí ở các nước chỉ đề trang trải chi phí vận hành và bảo dưỡng và hầu như vẫn chưa đủ chỉ bù đắp được khoảng 20-70% cho phí vận hành và bảo dưỡng. Hầu hết các nước không thu hồi chi phí đầu tư, hoặc nếu có thu thì tỷ lệ thu cũng rất thấp như Canada và Italy, kể cả các nước công nghiệp phát triển. Thực tế hiện nay, cả các nước phát triển và đang phát triển cũng đang tính lại chính sách về phí sử dụng nước và một số nước đã bắt đầu thu lại ít nhất một phần kinh phí đầu tư ban đầu từ người sử dụng như Australia và Brazil. Bên cạnh đó, việc chuyển giao quản lý vận hành cho người sử dụng cũng là một tiếp cận trong chính sách thiết lập mức thuỷ lợi phí ở các nước. Nhiều nước đang có xu hướng chuyển giao quản lý vận hành cho người sử dụng hay các tổ chức phi chính phủ, đặc biệt là chuyển giao hệ thống thủy lợi cho người hưởng lợi và họ tự thu phí sử dụng nước để đảm bảo chi phí quản lý vận hành. Madagasca là nước điển hình tốt về công tác chuyển giao và hiện nay các nước như Ấn độ và Pakistan và nhiều nước khác, Việt Nam cũng đang xúc tiến chương trình chuyển giao này. Hoặc vấn đề thúc đẩy thị trường nước và quyền sử dụng nước ở các nước phát triển cũng đang là một chương trình đang được triển khai. Các nước đang phát triển đang chuyển sang thương mại hóa các dịch vụ về nước như Mỹ, Australia và Israel cũng tương tự như vậy. 2.1.4.2. Kinh nghiệm về chính sách giá nước tưới/thuỷ lợi phí ở một số nước
  • 34. 34 trên thế giới: Macedonia (Cornish and Perry 2003) Thuỷ lợi phí được thu đảm bảo bù đắp đủ chi phí vận hành bảo dưỡng và chi phí khấu hao cơ bản. Thuỷ lợi phí được thu trên diện tích, gồm 2 thành phần: cố định và biến đổi. Trong thời gian dài, phí cố định tương đương 50% tổng chi phí vận hành và bảo dưỡng của hệ thống (O&M) và chi phí khấu hao cơ bản cho năm tiếp theo (khoảng 10%). Phần cố định đảm bảo nguồn thu ngay cả khi mùa mưa khi có rất ít hoặc không có nhu cầu tưới. Phần biến đổi dựa vào diện tích được tưới cho các vụ khác nhau với giá của mỗi vụ tương ứng với lượng nước tiêu thụ. Từ năm 1992, thuỷ lợi phí ở đây không tăng, giá khoảng 0,016EUR/m3 . Phần phí cố định khoảng 7,05EUR/ha. Tuy thuộc vào giá trị của lượng nước cần cho mỗi vụ cũng như theo diện tích được tưới cho loại cây trồng khác nhau, thuỷ lợi phí cố định có thể lên tới 20-70EUR/ha. Thực tế cho thấy, phần cố định là quá thấp bởi vì hầu hết các chi phí cho tưới là cố định. Phần chi phí biến đổi dao động lớn theo mùa vụ vì đây là vùng khí hậu bán ẩm ướt. Có tổ chức quản lý nước, thu nhập cao hơn chi phí vận hành và bảo dưỡng là 41USD/ha nếu chi phí không bao gồm nợ cũ và chi phí khấu hao. Nếu kể cả nợ xấu và chi phí khấu hao, thì chi phí lớn hơn thu nhập là 165USD/ha. Bulgaria, 2001 Thuỷ lợi phí được thiết lập dựa vào phương pháp tưới, động lực hay trọng lực, và không có một sự thống nhất trong việc thiết lập thuỷ lợi phí cho toàn quốc. Mỗi công ty thuỷ nông và Hội người dùng nước có phương pháp tính giá khác nhau. Thuỷ lợi phí bao gồm phí lấy nước và tiền nước sử dụng theo khối lượng. Giá trung bình khoảng 0,01$-0,085$/m3 . Giá nước đối với các hệ thống công trình đầu mối bằng động lực thường bằng gấp 2 hoặc gấp 3 lần so với các vùng tưới tiêu bằng các hệ thống công trình trọng lực. Thuỷ lợi phí thu được thường chỉ đủ bù đắp một phần chi phí vận hành và bảo dưỡng và trong một số trường hợp cũng đủ bù đắp một phần chi phí vốn đầu tư. Trung quốc (Awati County Government 2002)
  • 35. 35 Trước đây, cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện dịch vụ tưới tiêu và bây giờ là các doanh nghiệp tự chủ tài chính. Lương của nhân viên có liên quan trực tiếp đến tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được. Thông qua Hội những người dùng nước được tổ chức ở mỗi làng xã, chương trình đào tạo cộng đồng được thực hiện. Kể từ khi đổi mới, thuỷ lợi phí, chủ yếu dựa vào khối lượng nước sử dụng, tăng khoảng 50% so với khối lượng quotas được cấp cho mỗi nông trại. Với bất kỳ lượng quotas vượt định mức nào, nông dân phải trả gấp 2 lần so với mức giá bình thường. Khối lượng nước sử dụng cho mỗi 0.067ha giảm khoảng 50m3 sau khi đổi mới, và tỷ lệ phí thu được đạt khoảng 98%. Trước khi có các chương trình tự chủ tài chính cho các cơ quan tưới tiêu, có một số vấn đề lớn. Thứ nhất, thuỷ lợi phí thu được thường được sử dụng sai mục đích. Thứ hai, việc thu phí nước theo diện tích được thực hiện, và việc trả không trên cơ sở khối lượng nước được sử dụng. Thứ ba, trong thời gian gieo cấy chính vụ, nông dân thường có ý định sẽ dùng các biện pháp hữu hiệu nhất để lấy nước, kể cả làm cho người khác xấu đi. Thứ tư, một số nhóm người sử dụng nước được thành lập, nhưng họ không phải là tổ chức cố định. Lãnh đạo nhóm dược chỉ định bởi quan chức chính quyền và không phải do nông dân bầu. Bởi vậy, thiếu sự tham gia và quyền làm chủ của người dân sẽ làm người dân ít có động cơ tham gia vào quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Mục tiêu của cải cách là thành lập hệ thống tự chủ về tổ chức và quản lý bao gồm hai bộ phận thống nhất: Tổng công ty cấp nước sẽ phân phối nước từ các công trình đầu mối và tổ chức những người dùng nước vận hành công trình cấp cơ sở. Mỗi Uỷ ban điều hành tổ chức dùng nước được nông dân bầu ra tại hội nghị của tổ chức dùng nước. Các làng sẽ hỗ trợ để huy động nguồn nhân lực để tham gia các hội nghị của hội dùng nước và bầu cử Uỷ ban điều hành, và điều đó sẽ mở rộng sự tham gia của người dân và hoạt động của tổ chức dùng nước. Sau khi chuyển giao các hệ thống tưới ở cơ sở, các cơ quan tưới và các cơ quan nhà nước về tưới sẽ hỗ trợ các chương trình đào tạo cho nông dân, nâng cao năng lực của người dân. Các tổ chức dùng nước được thành lập sẽ có nhiều lợi ích. Thứ nhất, tổ chức dùng nước kiểm
  • 36. 36 soát việc tưới tiêu ở cơ sở sẽ tiết kiệm lao động, nhân lực và rút ngắn chu kỳ tưới. Nước sẽ được phân phối đúng thời gian và phù hợp yêu cầu khối lượng. Điều này sẽ làm tăng khả năng và động cơ của người dân trong việc tham gia quản lý tưới. Thứ hai, các tổ chức dùng nước sẽ cải thiện việc bảo dưỡng các hệ thống kênh chính và hệ thống kênh nhánh. Nông dân sẽ đầu tư lao động và kinh phí bởi họ biết công trình bây giờ là của họ. Thứ ba, chi phí tưới sẽ được giảm đi theo nhiều cách khác nhau khi tổ chức dùng nước sẽ đưa ra mức giá phù hợp theo khối lượng. Người dân sẽ sử dụng nước sẽ hiệu quả hơn, và việc phân phối nước cũng sẽ hiệu quả hơn. Thứ tư, sản phẩm sẽ được cải thiện, bình quân sản lượng tăng lên 6%, trong đó 2,5% là do cải thiện việc tưới. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề cần xem xét. Thuỷ lợi phí thu quá thấp nên không đủ bù đắp chi phí. Ví dụ ở Hunan, thuỷ lợi phí thu 0.032NDT/m3, trong khi đó chi phí khoảng từ 0.1 đến 0.15NDT/m3 . Hơn nữa, nông dân cũng không sẵn sàng trả nhiều thuỷ lợi phí hơn nữa vì họ đã phải nộp nhiều các loại thuế, phí khác và đã đóng góp về lao động. Bởi vậy, cần phải nỗ lực hơn nữa để cải thiện vấn đề minh bạch hoá tài chính, riêng rẽ với thuỷ lợi phí Ai cập (Perry 1995) Nghiên cứu năm 1995 do Viện Quản lý tưới Quốc tế (IIMI) đã xác định được tác động của các phương án giá khác nhau trong ngành nông nghiệp có sử dụng nước tưới và thu nhập của nông trại. Kết quả tìm được ở Ai cập cho thấy, thuỷ lợi phí được thiết lập trên vụ gieo trồng hiệu quả như giá nước thu theo khối lượng. • Tỷ lệ thu cố định là 52$/1ha, không cần biết là nước sử dụng vào mùa vụ gì, chiếm khoảng 4.5% thu nhập của nông trại, nhưng không ảnh hưởng đến lựa chọn mùa vụ hoặc công nghệ tưới. • Thuỷ lợi phí theo vụ trên ha, tương ứng với mức tiêu thụ nước trung bình của mỗi vụ nhất định • Thuỷ lợi phí theo khối lượng dựa vào khối lượng nước được phân phối có tác động gần như tương tự đối với trường hợp thứ hai. Các nhân tố chính giải thích sự phản ứng khác nhau xuất hiện là khả năng lựa chọn mùa vụ để gieo trồng. Hơn nữa,
  • 37. 37 thuỷ lợi phí chỉ chiếm một phần nhỏ thu nhập của nông trại. Gujarat - Ấn độ (Cornish and Perry 2003) Nước mặt để tưới rất có hạn ở vùng Bắc Gujarat và việc phát triển tưới bằng nước ngầm đã được thực hiện. Các giếng bơm nước tưới là phương tiện chủ yếu để tưới nước. Bởi vì nước ngầm không bị kiểm soát, và thị trường nước cạnh tranh đã được phát triển mà không ảnh hưởng/liên quan đối với việc sử dụng tài nguyên bền vững. Các công trình tưới được phát triển và làm chủ bởi tư nhân. Hầu hết được làm chủ bởi 3-10 nông dân, những người đã phát triển hệ thống quản lý có thể có lãi về tài chính dưới tỷ lệ tiền điện của Chính phủ rất thấp. Thuỷ lợi phí chủ yếu được tính theo khối lượng nước sử dụng và đặt ra đảm bảo đủ bù đắp chi phí vận hành và bảo dưỡng. Các ông chủ đầu tư vốn thu thuỷ lợi phí dựa vào diện tích mà họ có khả năng tưới và lợi ích tăng lên từ sản phẩm nông nghiệp. Thuỷ lợi phí hiện nay đảm bảo đủ chi phí vận hành và bảo dưỡng. Vấn đề nợ đọng thuỷ lợi phí ít khi xảy ra vì khả năng của nông dân và nếu xảy ra điều này, nông dân sẽ không được sử dụng nước trong mùa tới. Iran Vào năm 2001, thuỷ lợi phí đối với vùng tưới nước bằng công trình trọng lực ở lưu vực Zayande Rud là 4$/1000m3 . Giá này đã gần đảm bảo chi phí vận hành và bảo dưỡng. Thuỷ lợi phí chiếm không đến 10% thu nhập thực của nông nghiệp. Để giảm nhu cầu nước, giá cần phải tăng lên khoảng từ $20 đến 50$/1000m3 . Nghiên cứu cho biết, giá thuỷ lợi phí hiện tại tăng gấp hai mươi lần thì người dân sẽ đầu tư vào công nghệ tưới hiệu quả hoặc tưới tiết kiệm nước. Ở mức cao này, thuỷ lợi phí sẽ tương đương 2/3 thu nhập của nông trại, và khó có thể áp dụng trong thực tế. Pery (2001) đã chỉ khuyến cáo rằng, sử dụng thuỷ lợi phí để bù đắp các khoản chi phí vận hành và bảo dưỡng và nên sử dụng biện pháp phân phối nước như là một công cụ riêng biệt để hạn chế khối lượng nước sử dụng, hơn là dùng biện pháp đặt mức thu cao. Mêxico (Phát triển các Hội dùng nước - Zekri and Easter 2003) Năm 1990, sau khi có rất nhiều kinh nghiệm trong các vấn đề nghiêm trọng
  • 38. 38 trong việc phân phối nước và thu thuỷ lợi phí, Mêxico đã cho thực hiện chương trình chuyển giao quản lý tưới và chuyển quyền sử dụng nước cho các Hội dùng nước. Nhưng đến năm 1997, 400 Hội dùng nước đã đi vào hoạt động, trong đó mỗi Hội dùng nước quản lý công trình tưới có diện tích trung bình khoảng 7.600ha. Kết quả nghiên cứu ở 6% các địa phương cho thấy, nước sử dụng hiệu quả và vấn đề bảo trì công trình được cải thiện. Thuỷ lợi phí thu được tăng lên ở hầu hết các địa phương vì mục tiêu tự chủ của các tổ chức, có nơi cho thấy tăng tới 5 lần so với trước khi chuyển giao. Chính phủ trợ cấp, cho đến năm 1996, chỉ khoảng 15% chi phí vận hành và bảo dưỡng ở những địa phương thực hiện chuyển giao. Sự thành công của Hội dùng nước ở Mêxico được tăng cường bởi kỹ năng thuê nhân viên kỹ thuật. Ở rất nhiều địa phương, thành viên của Hội dùng nước được hỗ trợ về bán sản phẩm đầu ra, mua nguyên vật liệu đầu vào, thuê mướn máy móc thiết bị. 8 công ty trách nhiệm hữu hạn, thực chất là hiệp hội các tổ chức dùng nước, hoạt động và cung cấp dịch vụ cho các Hội dùng nước đến hết năm 1996. Những công ty này đã mở rộng dịch vụ bảo dưỡng và vận hành các hệ thống lớn. Maroc - Hệ thống thuỷ lợi Tadla (Cornish and Perry 2003) Mục tiêu của chính sách thuỷ lợi phí ở Moroco là bù đắp 40% chi phí vốn đầu tư và toàn bộ chi phí vận hành và bảo dưỡng. Thuỷ lợi phí được thu theo khối lượng nước sử dụng và mức thu cao theo tiêu chuẩn quốc tế. Khối lượng nước thanh toán thường chiếm 80% lượng nước thực tế vì tổn thất nước khi phân phối. Tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được ở Tadla thường đạt từ 70-80%. Ở hệ thống công trình đầu tiên và lâu đời nhất ở Moroco, cần nhiều chi phí để vận hành và bảo dưỡng (127$/ha/năm, thu đủ chi phí là 150$ ha/năm) hơn ở hệ thống Haouz. Thuỷ lợi phí chiếm khoảng 15% thu nhập thực của nông trại. Tất cả nông dân ở Tadla có sổ kiểm tra để theo dõi lượng nước sử dụng. Mỗi khi dùng nước, nông dân đưa sổ để người phân phối nước xác nhận khối lượng nước sử dụng. Nông dân và người phân phối nước ký xác nhận hàng tháng để đảm bảo không có sai sót gì trong hoá đơn. Tổng lượng nước sử dụng cả vụ được xác định ở sổ kiểm tra, nhưng kế hoạch phân phối nước có thể thay đổi bởi nhu cầu dùng nước của người dân.
  • 39. 39 Niger (Abernethy et al. 2000) Mục tiêu của Chính phủ là chuyển giao trách nhiệm vận hành và bảo dưỡng công trình tưới cho các hợp tác xã của người dùng nước. Thuỷ lợi phí được thiết lập nhằm thu hồi toàn bộ chi phí vận hành và bảo dưỡng và một phần chi phí đầu tư ban đầu. Từ năm 1992 đến 1996, mức phí mùa trung bình đối với lúa là 124$/ha vụ, cao so với bình quân trên toàn thế giới. Thuỷ lợi phí tương đương 12-25% tổng giá trị của mùa vụ. Tỷ lệ thuỷ lợi phí thu được khá cao, từ 90-100%, nhưng nông dân thường trả chậm. Mục tiêu của hệ thống giá nước là làm giảm nhu cầu sử dụng nước,nhưng dường như nó không được thành công lắm bởi thuỷ lợi phí không liên quan đến sử dụng và phân phối nước. Nông dân có rất ít động cơ để cải thiện việc dùng nước hiệu quả vì dường như nó không có thay đổi gì so với cái họ phải trả. Việc tạo nguồn mất khoảng 40-60%, và những mất mát này là chi phí phụ tăng thêm được chia cho những thành viên tham gia hợp tác xã, có thể lên tới hàng nghìn người. Bởi vậy, nông dân không có động cơ đóng góp lao động để cải thiện hệ thống, và cân nhắc việc họ chỉ nhận được 1 đồng trong lợi ích vô vàn từ việc giảm tổn thất nước. Pháp Giá nước tưới ở Pháp từ 0,049-0,171USD/m3 ) và thu 0,022USD/m3 nước thải trở lại sông. Mức thu của các tổ nhóm nông dân 0,081$/m3 (giá ở trên là tính đối với tự chảy còn đối với những vùng phải bơm động lực thì giá phải cộng thêm chi phí bơm nên giá sẽ cao hơn mức trên). Hoa Kỳ Trước kia, thuỷ nông địa phương thu thuỷ lợi phí dựa trên cơ sở chi phí vận hành và bảo dưỡng cho các vùng đất canh tác khác nhau. Ví dụ, mức thu đối với những vùng tưới động lực sẽ cao hơn mức thu những vùng tưới tự chảy. Bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, nhà nước đã xây dựng luật mà nó bao hàm cả việc bảo vệ nguồn tài nguyên nước. Thuỷ lợi phí đã được thu tăng lên đáng kể.