SlideShare a Scribd company logo
1 of 113
i
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
LÊ VĂN HOÀ
TỰ SỰ ĐA CHỦ THỂ TRONG TIỂU THUYẾT
NGƯỜI ĐI DÂY CỦA COLUM MCCANN
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học
TS. THÁI PHAN VÀNG ANH
THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2016
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là
trung thực, đƣợc các đồng tác giả cho phép sử dụng và chƣa
từng đƣợc công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Họ tên tác giả
Lê Văn Hòa
iii
Lời Cảm Ơn
Sau một thời gian làm việc nghiêm túc, đề tài
luận văn “Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết
Người đi dây của Colum McCann” đã hoàn thành.
Tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành
tới thầy giáo Nguyễn Lãm Thắng; cô giáo Nguyễn
Thị Tịnh Thy; quý thầy cô giáo khoa Ngữ văn,
trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế; gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp đã động viên và nhiệt tình
giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện đề tài.
Đặc biệt, xin được tri ân giảng viên, TS. Thái Phan
Vàng Anh đã tậm tâm hướng dẫn, góp ý và sửa
chữa, tạo điều kiện thuận lợi để tác giả có thể hoàn
thành luận văn một cách tốt nhất.
Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng có thể luận văn
sẽ còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự
quan tâm góp ý của quý thầy cô giáo và đồng
nghiệp.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Lê Văn Hòa
1
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ...............................................................................................................i
Lời cam đoan...............................................................................................................ii
Lời cảm ơn ................................................................................................................ iii
MỤC LỤC..................................................................................................................1
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài....................................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề.......................................................................................................5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................8
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................................9
5. Đóng góp của luận văn .........................................................................................9
6. Kết cấu của luận văn.............................................................................................9
NỘI DUNG ............................................................................................................. 10
CHƢƠNG 1: TỰ SỰ ĐA CHỦ THỂ VÀ CÁC THỦ PHÁP TRẦN THUẬT.. 10
1.1. Tự sự đa chủ thể - đa ngôi kể, đa điểm nhìn trần thuật................................... 10
1.1.1. Trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn toàn tri............................................ 10
1.1.2. Trần thuật ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong..................................... 11
1.1.3. Trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài........................................ 14
1.1.4. Sự di chuyển điểm nhìn ............................................................................. 15
1.2. Tự sự đa chủ thể - kết cấu phân mảnh và dán ghép........................................ 17
1.2.1. Phân mảnh và dán ghép cốt truyện............................................................ 19
1.2.2. Phân mảnh và dán ghép nhân vật .............................................................. 20
1.2.3. Phân mảnh và dán ghép không – thời gian................................................ 22
1.3. Tự sự đa chủ thể - kiến tạo biểu tƣợng giàu ý nghĩa nhân sinh...................... 28
1.3.1. Tái hiện một sự kiện có thật trong lịch sử ................................................. 30
1.3.2. Xây dựng hình tƣợng ngƣời đi dây nhƣ một mắt xích kết nối các câu
chuyện ...................................................................................................................... 31
1.3.3. Đƣa ra những đánh giá đa chiều ................................................................ 33
1.3.4. Gợi liên tƣởng từ cuộc đời nhân vật .......................................................... 34
2
1.4. Tự sự đa chủ thể - những tƣơng quan đối lập................................................. 36
1.4.1. Tự sự đa chủ thể và sự đối lập trong quan điểm cá nhân .......................... 36
1.4.2. Tự sự đa chủ thể và những đối lập trong hiện thực cuộc sống.................. 37
CHƢƠNG 2: TỰ SỰ ĐA CHỦ THỂ VÀ BỨC TRANH ĐA CHIỀU CỦA ĐỜI
SỐNG....................................................................................................................... 39
2.1.Tự sự đa chủ thể và cái nhìn đa chiều về đời sống .......................................... 39
2.1.1. Khái niệm điểm nhìn nghệ thuật................................................................ 39
2.1.2. Đa chủ thể - đa góc nhìn và đa chủ đề....................................................... 39
2.2. Tự sự đa chủ thể và những câu chuyện của cá nhân....................................... 41
2.2.1. Gia đình – tình yêu thƣơng và nỗi đau li tán ............................................. 41
2.2.2. Tình yêu – sự đốt cháy hết mình ............................................................... 46
2.3. Tự sự đa chủ thể và những câu chuyện xã hội................................................ 48
2.3.1. Chiến tranh – đƣờng đến tự do hay cỗ máy xay thịt và sự trống rỗng đến vô
hồn............................................................................................................................ 48
2.3.2. Xung đột sắc tộc – ngọn lửa còn âm ỉ cháy............................................... 52
2.3.3. Tôn giáo – Chúa không phảng phất, hƣ vô................................................ 56
2.3.4. Tệ nạn xã hội – những nấm mồ chôn tình yêu và hạnh phúc.................... 59
CHƢƠNG 3: TỰ SỰ ĐA CHỦ THỂ VÀ NHỮNG CON NGƢỜI ĐA DIỆN.. 64
3.1. Tự sự đa chủ thể và sự đa tuyến nhân vật....................................................... 64
3.1.1. Tự sự đa chủ thể và nhiều vai trần thuật.................................................... 64
3.1.2. Tự sự đa chủ thể và những số phận nhân vật............................................. 66
3.2. Tự sự đa chủ thể và hình tƣợng những con ngƣời đi dây............................... 67
3.2.1. Khát vọng và sự dấn thân trở thành lí tƣởng và nguồn sống dồi dào........ 67
3.2.2. Tình thƣơng vô bờ bến trong những trái tim còn rỉ máu vì nỗi đau hậu
chiến ......................................................................................................................... 78
3.2.3. Nỗi đau trụy lạc – sự ám ảnh và cái kết nhân văn cho những kiếp ngƣời. 86
KẾT LUẬN............................................................................................................. 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 97
PHỤ LỤC................................................................................................................ P1
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Người đi dây – đứa con tinh thần đầy sức sống của tiểu thuyết gia Colum
McCann
Buổi sáng tháng 8 năm 1974, một ngƣời đàn ông thực hiện trò đi dây giữa hai tòa
tháp của trung tâm thƣơng mại thế giới ở độ cao tầng 110 khiến dân chúng
Manhattan ―ngƣớc nhìn và sững lặng‖. Con ngƣời ấy là ai? Anh ta đang ném sinh
mạng mình vào may rủi, ngạo mạn đứng cao hơn Chúa trên cây thập giá nhà thờ,
hay đang sáng tạo ra những điều kì diệu nhất? Cảm hứng về anh khơi nguồn và
miên man chảy trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann. Dƣới nhãn quan
và bút lực sung mãn của một nhà văn, ngƣời đi dây trở thành biểu tƣợng ẩn chứa
nhiều thông điệp với tinh thần nhân văn cao cả. Tác phẩm đạt giải thƣởng Quốc gia
giành cho tiểu thuyết năm 2009, giải thƣởng Impac Dublin năm 2011 và là một
trong những đầu sách bán chạy theo nhận định của New York Times.
Tiểu thuyết đƣợc xây dựng dựa trên một câu chuyện có thật trong lịch sử - sự
kiện nghệ sĩ ngƣời Pháp - Philippe Petit đi dây giữa hai tòa tháp đôi năm 1974.
Thông qua đó tạo sự liên tƣởng rất khéo tới sự kiện khủng bố 11/9 ở Mĩ. Trên cái
nền cơ bản là câu chuyện về ngƣời đi dây cùng sự tác động của nó tới mọi ngƣời,
Colum McCann đã tái hiện những mảng đời sống khác nhau nhƣng có liên hệ một
cách tự nhiên và độc đáo. Khép lại những trang văn cuối cùng, độc giả vỡ ra rằng ai
trong chúng ta cũng đi dây, cả xã hội này cũng đang đi dây nhƣ thế. Không quá lời
khi cho rằng ý nghĩa của cuốn tiểu thuyết này đã vƣợt qua giá trị của một thời. Từ
tiểu thuyết này, chúng ta nhận diện đƣợc phần nào đó đặc điểm văn hóa, văn học Mĩ
và Ireland. Colum McCann thực sự đã đƣa ngƣời đọc đến gần hơn với những vùng
miền nơi ông sinh sống thuở thiếu thời cũng nhƣ nơi ông đang theo đuổi sự nghiệp
hiện tại của mình.
Trƣớc và sau Người đi dây, tiểu thuyết gia ngƣời Ireland đang sống tại Mĩ cũng
đã thành công với nhiều tác phẩm khác. Tiêu biểu nhƣ: Songdogs (1995), This Side
of Brightness (1998), Everything in this Country Must (2000), Dancer (2003), Zoli
(2006), TransAtlantic (2013), Thirteen Ways of Looking (2015)…
4
1.2. Tự sự đa chủ thể - dấu ấn nghệ thuật trần thuật đặc sắc của tiểu thuyết
Người đi dây
Tái tạo một xã hội đa chiều với những con ngƣời đa diện, tác giả của sáu tiểu
thuyết và hai tập truyện, xuất bản với hơn ba mƣơi lăm ngôn ngữ, xuất hiện trên các
tờ New Yorker, Esquire, Paris Review, Granta, The Atlantic Monthly, GQ, Tin
House, Bomb – Colum McCann thực sự thành công khi sử dụng tự sự đa chủ thể
trong tác phẩm Người đi dây.
Có thể nói, tự sự đa chủ thể là phƣơng thức đƣợc sử dụng phổ biến và mang
lại hiệu quả nghệ thuật cao khi sáng tạo văn học, đặc biệt là trong văn học hiện
đại và hậu hiện đại. Ở những tác phẩm sử dụng phƣơng thức tự sự đa chủ thể, tác
giả để cho nhiều ngƣời cùng tham gia kể chuyện với những điểm nhìn rất khác
nhau. Sự dịch chuyển điểm nhìn hiện diện nhƣ một đặc điểm tiêu biểu của tự sự
đa chủ thể. Với lối kể chuyện ấy, nhà văn phát huy cao độ tính khách quan, trung
thực trong nhìn nhận cuộc đời và con ngƣời; mặt khác góp phần tạo ra tiếng nói
đa thanh, phức điệu cho tác phẩm. Tự sự đa chủ thể tất yếu sẽ dẫn độc giả đi theo
những ngả đƣờng khác nhau trƣớc khi tới đích; nhờ đó câu chuyện trở nên hấp
dẫn hơn. Với riêng Colum McCann, điều này hoàn toàn phù hợp với những gì
ông tâm niệm: "Tôi tin vào sự bình đẳng của những câu chuyện. Tôi yêu sự thật
rằng những câu chuyện của chúng ta có thể vƣợt qua tất cả các loại biên giới và
ranh giới. Tôi cảm thấy khiêm nhƣờng khi biết rằng mình chỉ là một phần nhỏ bé
của nền tri thức văn chƣơng‖ [67]. Tìm hiểu tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết
Người đi dây do đó không chỉ cho thấy tài năng trần thuật của Colum McCann
mà còn là cách tiếp cận sâu hơn về nghệ thuật trần thuật nói chung trong các
truyện kể hƣ cấu.
* * *
Hứng thú với một phƣơng thức tự sự coi trọng tính đồng đẳng và đa diện, rung
động với tinh thần nhân văn của một tác phẩm văn chƣơng, ngƣỡng mộ tài năng
nghệ thuật của Colum McCann chính là lí do để ngƣời viết lựa chọn đề tài ―Tự sự
đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann‖.
5
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu về tự sự học và nghệ thuật trần thuật từ
nhiều điểm nhìn, nhiều người trần thuật
Tự sự học (Narratologie / Narratology) là tên gọi do Todorov đề xuất năm 1969
trong cuốn sách Ngữ pháp “Câu chuyện mười ngày”. Với tƣ cách là một ngành
khoa học, tự sự học đƣợc định hình ở Pháp những năm 60, 70 của thế kỉ XX sau đó
lan rộng ra phạm vi thế giới. Lịch sử tự sự học đã trải qua hai giai đoạn phát triển:
Tự sự học kinh điển và tự sự học hậu kinh điển. Hiện nay, theo các nhà nghiên cứu,
tự sự học đang ―cố gắng xác lập một nền tự sự học đƣơng đại‖ [30].
Tự sự học kinh điển theo Prince có thể chia làm ba nhóm. Nhóm thứ nhất chịu
ảnh hƣởng trực tiếp của V. Propp, tập trung nghiên cứu cấu trúc của truyện, đối
tƣợng của trần thuật, chú ý xây dựng ngữ pháp của tự sự, chức năng của sự kiện, kết
cấu, lôgích phát triển của chúng. V. Shklovski phân biệt ―tích truyện‖ với ―truyện
kể‖, B.Tomashevski nghiên cứu đơn vị môtip và phân loại chúng, trong khi đó
Greimas nghiên cứu logích ngữ nghĩa của truyện còn Bremond chủ yếu nghiên cứu
cấu trúc bề mặt của truyện, C. Levi-Strauss quan tâm khám phá cấu trúc bề sâu, tĩnh
tại của truyện để tìm nghĩa, R. Barthes lại nghiên cứu cấu trúc, yếu tố của truyện,
phát triển ý tƣởng kiểu Tomashevski, Tz. Todorov tiếp tục đi theo hƣớng của ngƣời
đi trƣớc…Nhóm thứ hai tiêu biểu là G. Genette, tập trung nghiên cứu sự triển khai
của diễn ngôn trần thuật. Rimmon – Kenan nêu ra ba phƣơng diện độc lập với diễn
ngôn trần thuật: Đó là phong cách thể loại; chủng loại ngôn ngữ mà nhà văn sử
dụng; hệ thống kí hiệu, phƣơng tiện truyền đạt trong tác phẩm Hư cấu tự sự.
Genette nêu ra ba phạm trù của diễn ngôn trần thuật: thời thái (tence); ngữ thức
(mood); ngữ thái (voice). F. Stanzel, ngƣời Áo đề ra khái niệm ―tình huống kể‖
(narrative situation), thực ra là một cách phân loại điểm nhìn. S. Lanser và James
Phelan nghiên cứu giọng kể gắn với việc sử dụng các biện pháp tu từ. Nhóm thứ ba
tiêu biểu là Prince, S. Chatman và Mieke Bal. Họ cho rằng cấu trúc diễn ngôn và
cấu trúc chuyện đều quan trọng nhƣ nhau nên hƣớng đến kết hợp cả hai mặt.
Tự sự học hậu kinh điển bắt đầu từ những năm 80 của thế kỉ XX với những công
trình nghiên cứu mang tính chất liên ngành. Việc nghiên cứ tự sự phát triển theo ba
6
hƣớng chính: nghiên cứu tự sự học trong mối quan hệ với các loại hình nghệ thuật
khác, nghiên cứu tự sự học với các lĩnh vực khoa học khác và nghiên cứu cấu trúc
văn bản theo hƣớng liên văn bản.
Ở Việt Nam, những công trình dịch thuật, giới thiệu, nghiên cứu về tự sự học nói
chung và vấn đề đa điểm nhìn, đa chủ thể nói riêng mới bắt đầu phát triển vào
khoảng những năm đầu thế kỉ XXI. Tiêu biểu nhƣ các công trình của Trần Đình Sử,
Nguyễn Thái Hòa, Phƣơng Lựu, Lại Nguyên Ân, Trần Huyền Sâm, Đặng Anh Đào,
Thái Phan Vàng Anh, Phan Thu Hiền…Có thể nói, dù là ngành khoa học non trẻ
nhƣng tự sự học thực sự thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngƣời. Việc ứng
dụng lí thuyết tự sự học vào nghiên cứu văn học cũng là hƣớng đi của nhiều nhà
nghiên cứu. Có lẽ vì lẽ đó, GS.TS Trần Đình Sử cho rằng tự sự học là một bộ môn
nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng.
2.2. Những công trình, bài viết về tiểu thuyết “Người đi dây”
Người đi dây là tiểu thuyết xuất sắc của Colum McCann. Bởi vậy không có gì
ngạc nhiên khi có nhiều bài viết về tác phẩm này. Trang web
http://giaitri.vnexpress.net thứ năm ngày16/6/2011 của báo Vnexpress dẫn lời nhận
xét của ban giám khảo giải thƣởng IMPAC Dublin về Người đi dây nhƣ sau: ―Đây
là tác phẩm văn học có giá trị, một tiểu thuyết xuất sắc của thế kỷ 21. Cuốn sách đề
cập đến câu chuyện về một thời đại nhƣng không bị phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch
sử của nó‖. Trong ―The soul of a city‖ trên trang web http://www.nytimes.com ngày
29/7/2009, Jonathan Mahler viết ―Like a great pitcher in his prime, McCann is
constantly changing speeds, adopting different voices, tones and narrative styles as
he shifts between story lines‖ (Tạm dịch là: Giống nhƣ một bình lớn trong chính
mình, McCann liên tục thay đổi tốc độ, áp dụng giọng nói khác nhau, tông màu và
phong cách kể chuyện giữa các tình tiết). Và ―In a loose sense, what connects
everyone in this novel is the high-wire walker; the day of his stunt is a pivotal one
in all of their lives‖ (Trong một cảm giác lỏng lẻo, những gì kết nối tất cả mọi ngƣời
trong tiểu thuyết này là những ngƣời diễn viên đu dây; mỗi ngày của diễn viên đóng
thế là ngày quan trọng nhất trong đời họ). Cùng chung cảm hứng ngợi ca, Greg
Zimmerman trong bài ―Let the great world spin: Elegant, profound, beautiful‖ trên
7
trang http://www.thenewdorkreviewofbooks.com ngày 25/5/2010 nhận định: ―Part
of the wonder of the novel is the verisimilitude with which McCann renders these
characters. Endowed by their creator with beautiful, elegant, but clearly delineated
voices, these New Yorkers practically spring off the page. They are so real,
themselves so human. And through them, McCann offers a simple road map for
beinghuman: Connect. Love. Hope‖ (Tạm dịch là ―Một phần tuyệt vời của tiểu
thuyết này đó là sự chân thực mà McCann đã lột tả ở những nhân vật này. Tạo hóa
đã ban tặng cho họ giọng điệu miêu tả tuyệt vời, sâu sắc mà còn rõ ràng, những
ngƣời New York này thật sự đã làm cho tác phẩm nổi bật lên. Các nhân vật rất chân
thực, chính họ rất đậm tính nhân văn. Và thông qua họ, McCann đã đƣa ra một bản
đồ giản đơn cho con ngƣời chúng ta, đó là: Kết nối, tình yêu và hy vọng‖).
Ở Việt Nam, tiểu thuyết Người đi dây mới đƣợc dịch vào quý III năm 2014. Các
công trình nghiên cứu về tác giả và tác phẩm này ở nƣớc ta do đó chƣa nhiều. Trong
phạm vi tìm hiểu của mình, ngƣời viết nhận thấy đến thời điểm thực hiện đề tài này,
ngoài khóa luận ―Kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum Mc
Cann‖ của Nguyễn Thị Ánh Linh, Khoa Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Đại
học Huế mang tính chất chuyên sâu về một khía cạnh của nghệ thuật trần thuật, còn
lại tất cả các bài viết liên quan đến tác phẩm này chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu sơ
lƣợc hoặc bài bình luận nhỏ.
Nhà xuất bản trẻ trên trang web http://www.nxbtre.com.vn, thứ năm, ngày
29/10/2015 có đoạn giới thiệu sách nhƣ sau: ―Ngƣời đi dây là tác phẩm viết theo
thủ pháp tiểu thuyết mới của Column McCann. Tiểu thuyết gồm nhiều truyện dạng
trọn vẹn và độc lập, nhƣng các nhân vật và tình tiết đều có mối liên hệ với nhau‖.
Và ―Ngƣời đi dây đã nắm bắt đƣợc cái hồn của nƣớc Mỹ trong buổi giao thời, với
triển vọng phi thƣờng, và, ẩn sau, là một sự vô tội đến xé ruột‖. Việt Quỳnh trên
trang web http://thethaovanhoa.vn chủ nhật, ngày 14/12/2014 nhận định về nhân vật
ngƣời đi dây nhƣ sau: ―Anh ta đang thực hiện một chuyện mà ngƣời khác cho là
điên rồ. Mà thực sự, nếu quan tâm đến ngƣời khác nghĩ gì, anh đã không thể làm
đƣợc điều từ bên trong mong muốn. Đó là tận cùng cho trải nghiệm làm ngƣời‖.
Vƣơng Mộc trong bài ―Mọi cuộc đời đều quấn bện nhau‖ trên trang web
8
http://tuoitre.vn, ngày 4/12/2014 nhận định: ―Thế giới xoay vần. Những cuộc đời
kết nối với ta theo những cách không ngờ, đều đang ―đi dây‖ giữa thực tại theo một
cách nào đó, sợi dây mà theo tác giả là ―chăng gần sát đất‖ chứ không phải giữa
trời, mong manh giữa thăm thẳm buồn vui, tốt và xấu, hồi ức và giấc mơ muôn màu
cho tƣơng lai‖ và ―Lối kể bình thản của Colum McCann lật mở những biểu hiện
đáng kinh ngạc của lòng thiện và cái ác nơi con ngƣời‖…
Khóa luận của Nguyễn Thị Ánh Linh chỉ ra kết cấu điểm nhìn và luân phiên
ngƣời kể chuyện, cách tổ chức cốt truyện với kết cấu nhân vật đa tuyến, kết cấu
không gian, thời gian và đa dạng hóa ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật trong tiểu
thuyết này. Trong quá trình triển khai, tác giả đã phần nào làm rõ tính chất và tác
dụng của tự sự đa chủ thể trong kiến tạo kết cấu. Ngƣời viết luận văn xin tiếp thu
một số kết quả nghiên cứu từ khóa luận, đồng thời phát triển và có một vài điểm
trao đổi thêm trong quá trình thực hiện đề tài này.
Nhƣ vậy, các bài viết chủ yếu tập trung làm rõ ý nghĩa nội dung tƣ tƣởng của tác
phẩm. Trừ khóa luận của Nguyễn Thị Ánh Linh xem xét một biểu hiện của nghệ
thuật, còn lại chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Tự sự đa chủ thể
của Người đi dây do đó vẫn là mảnh đất màu mỡ cho các nhà nghiên cứu và phê
bình văn học khai phá.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu nghệ thuật tự sự đa chủ thể trong tác phẩm Người
đi dây của Colum McCann.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật tự sự đa chủ thể của Colum McCann
trong tiểu thuyết Người đi dây trên các phƣơng diện: sự kết hợp của tự sự đa chủ thể
và các thủ pháp trần thuật, tự sự đa chủ thể nhƣ một phƣơng thức mở rộng bức tranh
đa chiều của đời sống, vai trò của tự sự đa chủ thể trong việc khám phá hình tƣợng
những con ngƣời đa diện dựa vào việc khảo sát bản dịch của dịch giả Nguyễn Thị
Thu Thủy, có đối chiếu một vài chỗ với bản tiếng Anh.
9
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài, luận văn chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp sau:
Thứ nhất là phƣơng pháp cấu trúc - hệ thống: nhằm xây dựng một cấu trúc hợp lí
để thấy đƣợc mối quan hệ bề mặt và bề sâu của văn bản thông qua nghệ thuật tự sự
đa chủ thể, giữa tự sự đa chủ thể với các yếu tố nội dung và nghệ thuật khác.
Thứ hai là phƣơng pháp xã hội học: nhằm lí giải các hiện tƣợng lịch sử, xã hội
đƣợc tác phẩm đề cập đến thông qua nghệ thuật tự sự đa chủ thể.
Thứ ba là phƣơng pháp loại hình: nhằm hƣớng đến tìm ra điểm chung và điểm
riêng của nghệ thuật tự sự đa chủ thể đƣợc sử dụng trong tác phẩm.
Trong một chừng mực nhất định, luận văn còn hƣớng đến so sánh đối chiếu
Người đi dây với một vài tác phẩm có hình thức tự sự đa chủ thể khác.
5. Đóng góp của luận văn
Đi sâu khai thác một phƣơng diện nghệ thuật trần thuật, luận văn chỉ ra những
biểu hiện cụ thể của tự sự đa chủ thể cũng nhƣ vai trò, tác dụng của phƣơng thức kể
chuyện này trong việc tạo nên giá trị nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Người
đi dây. Sự đan quện giữa nội dung và nghệ thuật ở tác phẩm này có thể nói đạt đến
độ hài hòa và điêu luyện. Có đƣợc điều đó dĩ nhiên nhờ vào tài năng của tác giả
McCann. Bởi vậy, luận văn cũng đã cố gắng chỉ ra ngòi bút tự sự đa chủ thể rất
riêng của tác giả trong tiểu thuyết này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, lời cảm ơn, lời cam đoan, mục lục, tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Tự sự đa chủ thể và các thủ pháp trần thuật
Chƣơng 2: Tự sự đa chủ thể và bức tranh đa chiều của đời sống
Chƣơng 3: Tự sự đa chủ thể và những con ngƣời đa diện
10
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỰ SỰ ĐA CHỦ THỂ VÀ CÁC THỦ PHÁP TRẦN THUẬT
Cầm một cuốn tiểu thuyết sử dụng phƣơng thức tự sự đa chủ thể trên tay, khi độc
giả chƣa có điều kiện đọc kĩ và tìm hiểu nó, hẳn sẽ chỉ thấy một văn bản truyện kể
với kết cấu rời rạc do nhiều chủ thể liên tục đảm nhiệm vai trò kể chuyện. Việc
khảo sát thủ pháp tự sự do đó trƣớc hết nhằm hƣớng đến việc minh xác giá trị nội
dung tác phẩm ấy đã đƣợc thể hiện ra sao qua phƣơng thức kể chuyện này. Tự sự đa
chủ thể trong Người đi dây phát huy hiệu quả cao nhờ việc nhà văn sử dụng kết hợp
thành công các thủ pháp trần thuật. Sự bổ trợ của chúng tạo nên một lối kể chuyện
đầy mê hoặc nhƣng không quá khó để tiếp thu.
1.1. Tự sự đa chủ thể - đa ngôi kể, đa điểm nhìn trần thuật
Tiểu thuyết Người đi dây có sự hiện diện của nhiều ngôi kể gắn với đa bội điểm
nhìn. Chủ thể tự sự có lúc xuất hiện ở ngôi thứ nhất với tƣ cách ngƣời trong cuộc,
có khi lại xuất hiện ở ngôi thứ ba nhƣ một kẻ đứng ngoài. Điểm đặc sắc là ở chỗ
ngƣời kể chuyện thay đổi điểm nhìn đầy linh hoạt, giúp cho việc khám phá hiện
thực và con ngƣời của nhà văn diễn ra một cách hết sức tự nhiên và có chiều sâu.
1.1.1. Trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn toàn tri
Theo lí thuyết tự sự học, ngƣời kể chuyện toàn tri là ngƣời kể chuyện có kiểu
nhìn ―từ đằng sau‖, ―có vai trò toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả‖ [39]. ―Đặc
điểm phổ biến của sự toàn tri…là tác giả (tác giả - ngƣời kể chuyện) luôn sẵn sàng
xen vào giữa độc giả và câu chuyện, thậm chí khi dựng cảnh anh ta sẽ khiến nó
giống nhƣ anh ta thấy hơn là nhân vật anh ta thấy‖ [18, tr.45].
Người đi dây chia làm nhiều câu truyện khác nhau. Kiểu trần thuật ngôi thứ ba
với điểm nhìn toàn tri nổi bật nhất ở phần truyện ―Ngƣớc nhìn và sững lặng‖. Ngƣời
kể chuyện – tác giả dựng lên bức phông nền đầy náo nhiệt của Manhattan buổi sáng
mùa hè 1974. Đó là bức tranh của chằng chịt phố xá nối tiếp nhau, của những phút
giây tĩnh lặng đến nghẹt thở thoáng qua: ―Một sự im lặng tuyệt đối, uy nghiêm và
tuyệt đẹp‖ [27, tr.5], của sự hỗn độn, xô bồ nhịp sống nơi thành thị, của đủ mọi
hạng ngƣời, đủ mọi nghề nghiệp và lứa tuổi, của không khí sôi sục phản đối chiến
tranh và phong trào hippie đang độ dâng cao - tất cả những gì diễn ra bên dƣới
11
ngƣời đi dây. Còn ở phía trên kia giữa hai tòa tháp, một dáng ngƣời đang thực hiện
những cú nhảy đùa cợt với tử thần. Ngƣời kể chuyện thâm nhập vào điểm nhìn của
đám đông dân chúng để cảm thán trƣớc hành động ấy. Ở độ cao tầng 110, ―thân ảnh
của anh ta giống một vệt chì đã bị xóa gần hết‖ [27, tr.12]. Khi chiếc áo của anh rơi
xuống, ban đầu ngƣời ta còn nghĩ đó là ―một thân ngƣời đang bơi ra giữa không
trung‖ [27, tr.12], sau đó mới nhận ra và thốt lên trong bầu không khí dƣờng nhƣ
nghẹt thở: ―Chúa ơi, lạy Chúa, đó là cái áo, đó chỉ là cái áo thôi‖ [27, tr.12]. Lẽ ra
với điểm nhìn của đám đông, ngƣời kể chuyện khó có thể quan sát đƣợc hết mọi cử
chỉ và hành động của ngƣời đàn ông trên kia. Tuy nhiên, bởi là toàn tri, nên ngƣời
kể chuyện còn cho ngƣời đọc thấy đƣợc cả những biến chuyển tinh vi nhất: ―mắt
anh ta nhìn chằm chằm về tòa tháp phía xa, vẫn còn đƣợc bọc trong giàn giáo, giống
nhƣ con thú bị thƣơng chờ ngƣời đi săn tiến đến‖ [27, tr.13]. Ngƣời kể chuyện cũng
thấy rõ anh chàng đi dây kia đang chuyển một thông điệp đến với tất cả mọi ngƣời.
Hoặc ở phần truyện ―Hãy để thế giới trƣợt mãi đi‖, ngƣời kể chuyện có lúc thâm
nhập vào điểm nhìn bên trong của nhân vật, nhƣng lại cũng thêm vào đó những
nhận định mang tính điều hƣớng, lí giải. Ví dụ nhƣ: ―Mọi thứ đều có mục đích, dấu
hiệu, ý nghĩa‖ [27, tr.279], ―Lý do cốt lõi cho tất cả chuyện này là cái đẹp. Đi trên
dây là một niềm vui sƣớng siêu phàm…‖ [27, tr.283].
Tất nhiên, việc phân loại điểm nhìn cũng chỉ mang tính chất tƣơng đối. Với điểm
nhìn toàn tri chẳng hạn, thực tế cho thấy bất cứ tác phẩm nào cũng nằm trong quyền
năng kiến tạo của nhà văn. Thậm chí ―chọn kiểu nhìn nào, xuất phát từ điểm nhìn
nào để ngƣời kể chuyện kể lại ―chuyện‖ chính là do cách tổ chức ―truyện‖ có dụng
ý của nhà văn‖ [39]. Có lẽ vì vậy, dù muốn hay không, tác phẩm nào cũng có một
điểm nhìn toàn tri nhƣ thế.
1.1.2. Trần thuật ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong
Bên cạnh lối kể chuyện từ ngôi kể thứ ba, Người đi dây còn dành sáu phần
truyện kể ở ngôi thứ nhất góp phần khai thác triệt để tâm tƣ, tình cảm của con
ngƣời. Với kiểu trần thuật ngôi thứ nhất, ngƣời trần thuật là nhân vật. ―Điểm nhìn
bên trong thƣờng thể hiện qua độc thoại nội tâm của nhân vật‖ [39]. Câu chuyện
đƣợc kể ở đây là ―câu chuyện về những sự kiện mà bản thân anh/cô ta tự trải
12
nghiệm, một câu chuyện về trải nghiệm cá nhân. Cá nhân hành động nhƣ là một
ngƣời kể chuyện (cái ―tôi‖ kể chuyện) cũng là một nhân vật (cái ―tôi‖ trải nghiệm)
ở cấp độ hành động‖ [18, tr.43].
Tất cả các câu chuyện đƣợc kể ở ngôi thứ nhất trong tiểu thuyết Người đi dây
đều có điểm nhìn bên trong. Các nhân vật tự bộc lộ cảm xúc, kể lại những sự
kiện liên quan đến cuộc đời mình, bằng cảm nhận của chính mình. Khái niệm
―bên trong‖ theo GS.TS Trần Đình Sử ―không phải nhƣ cái bên trong của khách
thể nào đó, mà chính là cái hoạt động tự cảm thấy, tức là tính chủ quan, tức đời
sống tâm lí‖ [31, tr.183].
Câu chuyện ―Thiên đàng đẹp đẽ thật, nhƣng tôi vẫn thích ở đây hơn‖ phần lớn là
những mảng kí ức của Ciaran về tuổi ấu thơ. Ở đó có những tháng ngày êm ả bên
bờ vịnh Dublin, có tình mẹ con, anh em sâu đậm. Ngƣời kể chuyện xƣng tôi –
Ciaran kể lại những sự kiện liên quan đến bản thân mình thuở ấu thơ cho đến lúc
em trai anh qua đời trong vụ tai nạn thảm khốc. Qua đó ngƣời đọc thấy đƣợc quan
điểm của anh về tôn giáo, về tình yêu, về công việc và tình cảm sâu nặng với gia
đình, với quê hƣơng, xứ sở. Chúng ta bắt gặp trong lời kể nhiều câu chữ thể hiện rõ
dấu ấn chủ quan của ngƣời kể chuyện, kiểu nhƣ: ―Tôi cũng không nhớ rõ làm sao
thằng em nhỏ hơn tôi tận hai tuổi lại chiếm đƣợc giƣờng tầng trên‖ [27, tr.21], ―tôi
chợt nghĩ hay là có điều gì đó mình chƣa biết‖ [27, tr.23]. Ciaran không chỉ kể lại
hành trình đến Bronx kiếm sống của mình, thế giới của những cô gái bán hoa, cuộc
sống của cậu em trai…mà còn xuất hiện trong câu chuyện ấy nhƣ một ngƣời trải
nghiệm, anh tham gia vào các sự việc, hành động để tạo nên các sự kiện của câu
chuyện ấy.
Tƣơng tự nhƣ Ciaran, Lara trong câu chuyện ―Sợ yêu‖ cũng xuất hiện với tƣ cách
vừa là ngƣời kể chuyện, vừa là nhân vật chính. Dõi theo sự dẫn dắt của Lara - ngƣời
kể chuyện, chúng ta biết đƣợc nguyên nhân của vụ tai nạn – sự bất cẩn khi giao
thông: ―Giá mà chúng tôi đã cẩn trọng nhƣ vậy với chính bản thân mình‖ [27,
tr.200], chúng ta thấy đƣợc con đƣờng từ giàu sang đến sa lầy trong nghiện ngập, tệ
nạn của vợ chồng cô, chúng ta biết Lara đã tìm đến bệnh viện lấy di vật của
Corrigan sau khi nói dối là ngƣời thân, rồi đem nó đến cho anh trai của ngƣời xấu
13
số, cô tham gia tang lễ của Jazzlyn, thú thật mọi chuyện với Ciaran và sau đó họ hẹn
hò. Tất cả những điều đó có thể đƣợc kể lại từ điểm nhìn của một hoặc nhiều nhân
vật khác, song với cách kể chuyện xƣng tôi, Lara đã bộc lộ tối đa nỗi đau của bản
thân mình. ―Nhƣng những đêm chơi đang dần vắt kiệt tôi‖ [27, tr.214], ―Tôi thậm
chí chẳng còn muốn khóc‖ [27, tr.217]. Đó là nỗi đau đớn khi nhận ra mình rơi
xuống vực sâu của tệ nạn, để đến mức bị cảnh sát gọi và bị bẽ mặt ở Manhattan. Đó
còn là sự day dứt và ám ảnh sau khi gây tai nạn. Nhà văn đã rất khéo léo khi xây
dựng đối thoại giữa Lara với Blaine để cho thấy sự ám ảnh trong tâm hồn cô.
Dƣờng nhƣ cô không nghe những điều chồng nói mặc dù đang trò chuyện:
―- Đâu phải lỗi của tụi mình đâu cƣng, - anh lại nói.
- Cô ấy còn quá trẻ.
- Không phải lỗi của mình, em ạ, em có nghe anh nói không?
- Anh có nhìn thấy cô ấy nằm trên đất không?...‖ [27, tr.206].
Có thể nói từ sau khi gây tai nạn, trong lúc hoảng loạn và lo sợ cô đã bảo chồng
mình bỏ chạy, đến tận trƣớc lúc nói ra sự thật với anh trai Corrigan, Lara luôn
sống trong dằn vặt vì tội lỗi. Đã có lúc cô không dám đối diện với sự thật này. Vậy
nên khi chồng nhắc lại chính cô đã bảo anh bỏ chạy, Lara tát anh. Nhƣng cô lại
―kinh ngạc vì thấy tay mình đau rát đến thế‖ [27, tr.208]. Cái tát ấy phải chăng là
cái tát cô dành cho chính bản thân mình? Tay cô rát đâu chỉ vì sức mạnh của
tƣơng tác lực mà còn vì nỗi xót xa vốn thƣờng trực trong tim giờ đã vỡ òa. Để rồi
mãi sau này, khi đã nhận ra sự vô tâm của chồng, khi cảm nhận đƣợc tấm lòng của
Ciaran, ám ảnh tội lỗi và cuộc sống gia đình cũ khiến cô mang tâm trạng rất đáng
thƣơng: sợ yêu!
Kiểu nhân vật tự kể chuyện nhƣ Ciaran và Lara còn đƣợc lặp lại trong các
phần truyện ―Phía tây thinh không‖, ―Ngôi nhà ma túy xây nên‖, ―Đồng
Centavo‖, ―Tung hô và ngợi ca Thiên Chúa‖. Tất cả đều là những trang văn đậm
sắc màu cảm xúc. Thế giới nội tâm của nhân vật hiện lên một cách sinh động qua
hồi ức của ngƣời kể chuyện trải nghiệm và hành động. Quan điểm, suy nghĩ, việc
làm của họ cứ thế đƣợc phơi bày từ cái nhìn rất chủ quan. Dĩ nhiên, ngƣời đọc có
thể hoài nghi về tính chân thực của nó. Tác giả sẽ giải quyết điều này bằng cách
14
sử dụng kết hợp thêm hình thức trần thuật với điểm nhìn bên ngoài và sự dịch
chuyển điểm nhìn.
1.1.3. Trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài
Ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài là kiểu ngƣời kể chuyện
đứng ở bên ngoài, ―chỉ kể ―chuyện‖ chứ không hiểu rõ tâm lí nhân vật. Đây cũng là
điểm nhìn từ các nhân vật khác‖ [39]. ―Cái bên ngoài không phải là cái bên ngoài,
mà là cái có thể quan sát từ bên ngoài‖ [31, tr.183-184]. Khác với trần thuật ngôi
thứ ba với điểm nhìn toàn tri, ngƣời kể chuyện ở đây ―chỉ kể những điều anh ta thấy
(nghe thấy, nhìn thấy) chứ không phải là kể những điều anh ta biết‖ [9, tr.72]. Ở đây
không có những miêu tả ý nghĩ bên trong của nhân vật, chi tiết thƣờng bộn bề, đòi
hỏi năng lực quan sát và cảm nhận của ngƣời kể chuyện phải vô cùng tinh tế.
Khách quan mà nói, Người đi dây không có câu chuyện nào đơn thuần kể ở ngôi
ba với điểm nhìn bên ngoài mà có sự kết hợp với điểm nhìn bên trong của nhân vật.
Ngƣời viết sẽ làm rõ sự dịch chuyển điểm nhìn này trong các phần tiếp theo. Riêng
với điểm nhìn bên ngoài ở các phần truyện kể ở ngôi thứ ba đƣợc biểu hiện dƣới hai
dạng sau:
Trƣớc hết đó là điểm nhìn của ngƣời kể chuyện giấu mặt khi nhìn về các sự
kiện, nhân vật trong truyện kể. Mở đầu ―Chữ kí‖ là lời giới thiệu của ngƣời kể
chuyện: ―BẮT GẶP NÓ Ở ĐÂY, CHỖ KHỚP NỐI giữa các toa tàu, trong một
buổi sáng đã bắt đầu trở nên oi bức nóng nực…‖ [27, tr.286]. Ngƣời kể chuyện
trong ―Mắt xích‖ hiện rõ qua những lời đánh giá: ―Soderberg không phải kiểu
ngƣời ƣa ngồi một chỗ và chê bai những gì đã qua. Thành phố này vĩ đại hơn
những tòa nhà, vĩ đại hơn cả những cƣ dân sinh sống nơi đây‖ [27, tr.419]. Trong
khi đó, ngƣời kể chuyện ở ―Đi về phía biển thét gào‖ lại đứng ngoài quan sát cuộc
gặp gỡ của Jaslyn và Pino: ―Phía bên kia, một tiếng kêu chói tai vẳng đến. Bọn trẻ
con cƣỡi lên những chiếc va li trên băng chuyền vừa ngã trúng nhân viên an ninh.
Cô và Pino nhìn nhau‖ [27, tr.560]…
Bên cạnh đó, các nhân vật còn thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá của mình về
những nhân vật khác trong tác phẩm. Đây cũng là một biểu hiện của điểm nhìn
bên ngoài. Dĩ nhiên những dẫn chứng sau ngƣời viết chỉ khảo sát trong các câu
15
chuyện kể ở ngôi ba. Sau nửa đƣờng bay ngồi cùng nhau, Jaslyn đã nhận ra ở Pino
những lời thành thật: ―Cô biết anh nói thật, cứ nhìn cổ áo sơ mi to bản và vết mực
trên túi ngực là rõ. Kiểu ngƣời nhƣ anh thậm chí có thể tự cắt tóc cho mình‖ [27,
tr.552]. Nhận định ấy có đƣợc hoàn toàn do sự quan sát và tiếp xúc bên ngoài.
Tƣơng tự nhƣ vậy, Solomon chỉ nghe kể về anh chàng đi dây cũng đã đƣa ra phán
đoán: ―Ông đồ rằng ngƣời đi dây đó hẳn đã phải suy nghĩ kỹ lƣỡng trƣớc khi hành
động. Đó không phải là một cuộc đi bộ bất ngờ không có chuẩn bị‖ [27, tr.419].
Còn thẩm phán Pollack thì cho rằng: ―Gã đó khùng‖ [27, tr.424]. Ngay cả phần
truyện ―Miró ngự ở trên tƣờng‖ chủ yếu đƣợc khai thác điểm nhìn bên trong nhân
vật Claire thì cũng có lúc điểm nhìn bên ngoài đƣợc sử dụng. Đó là khi Claire
đánh giá về ngƣời đi dây, khi bà nhìn về cuộc sống của Gloria cũng nhƣ khi bà
nghĩ về Solomon vậy.
Ở tiểu thuyết này, điểm nhìn bên ngoài đƣợc nhà văn vận dụng tối đa để phác
họa chân dung. Ví nhƣ hình ảnh ngƣời đi dây: ―Bộ dạng ranh mãnh. Áo sơ-mi và
quần bó đen sẫm. Đôi giày ba lê mỏng manh kì quặc dƣới chân. Thậm chí trông gã
có vẻ phờ phạc thế nào đó. Tóc gã hoe vàng, khoảng ngoài hai tƣ, hai lăm tuổi…cái
kiểu nghênh ngang mà Soderberg có cảm tình‖ [27, tr.450]. Hoặc hình ảnh Tillie:
―Khuôn mặt cô ta trông kì dị và yếu đuối, thế nhƣng vẫn toát lên vẻ nhục cảm. Đôi
mắt tối sẫm, hai hàng lông mày tỉa mỏng. Có một thứ ánh sáng nơi cô ta, lấp lánh‖
[27, tr.464]. Nhờ đó, diện mạo nhân vật hiển thị rõ hơn.
Có một thực tế là một điểm nhìn có thể là điểm nhìn bên trong đối với nhân vật
này nhƣng lại là điểm nhìn bên ngoài đối với nhân vật kia. Việc khảo sát điểm nhìn
do đó vẫn chỉ là việc làm mang tính chất tƣơng đối. Mục đích chỉ nhằm hƣớng tới
việc xem xét sự kiện, nhân vật và nghệ thuật tự sự một cách kĩ lƣỡng hơn.
1.1.4. Sự di chuyển điểm nhìn
Sử dụng điểm nhìn toàn tri quá nhiều sẽ tạo nên cảm giác câu chuyện thiếu
tính tự nhiên vì tất cả đều bị chi phối bởi ngƣời kể chuyện. Sử dụng điểm nhìn
bên trong giúp khai thác tối đa cảm xúc của nhân vật song phần nào đó lại thiếu
tính chất khách quan. Sử dụng điểm nhìn bên ngoài khách quan hóa câu chuyện
nhƣng lại không thể khai thác sâu tâm lí con ngƣời. Đó là lí do vì sao các nhà
16
văn thƣờng kể chuyện phối hợp các điểm nhìn và sự dịch chuyển điểm nhìn
thƣờng xuyên diễn ra trong tác phẩm.
Câu chuyện ―Miró ngự ở trên tƣờng‖ là biểu hiện sinh động cho sự dịch chuyển
điểm nhìn trong tác phẩm này. Kể ở ngôi thứ ba, tuy vậy, ngƣời kể chuyện không
chỉ đứng ngoài quan sát và kể về Claire mà phần lớn lại áp sát, thâm nhập và len lỏi
vào trong nhân vật, để nhân vật tự thổn thức, lặn ngụp trong kí ức về Joshua. Chúng
ta thấy có những câu văn mang dấu ấn của ngƣời kể chuyện giấu mặt nhƣ: ―Một
hành động chính xác. Hoàn toàn, tuyệt đối. Bà rón rén đi về phía bếp nhƣng lại
dừng lại ở cửa‖ [27, tr.168]. Hay nhƣ ―Nó viết thƣ kể cho bà nghe về những cuộc
chiến xâm nhập giành quyền truy nhập tài khoản vào lúc đêm khuya. Bốn giờ sáng,
giờ làm việc cuối ngày của nó…‖ [27, tr.171], ―Tiếng cƣời bật lên giữa phòng và,
trong một phút nhãng trí, Claire băng qua tấm thảm trở lại, tay vẫn cầm những bông
hoa, nhƣng chẳng ai để ý hết‖ [27, tr.169]. Bên cạnh đó là những câu văn xuất phát
từ điểm nhìn bên trong nhân vật Claire, kiểu nhƣ: ―Giờ phải nhanh lên. Lối cửa.
Chỗ điện thoại. Bà biết cần dìm đầu nhanh trong nƣớc‖ [27, tr.145], ―Nhìn mình.
Nhìn chị ấy. Bị bắt quả tang rồi. Mơ giữa ban ngày. Giúp ƣ? Trong giây lát bà suýt
nghĩ Gloria muốn làm người giúp việc‖ [27, tr.176]. Cũng có khi, sự dịch chuyển
điểm nhìn diễn ra trong hai câu văn liên tiếp nhau: ―Còn bà tới bên tủ lạnh và đọc
những lá thƣ của con, thỉnh thoảng mở ngăn đá ra để hơi lạnh làm nó bình tĩnh lại.
Sẽ ổn thôi, con yêu, con sẽ giành lại được” [27, tr.173]. Thậm chí dấu hiệu di
chuyển điểm nhìn thể hiện rõ ở đại từ nhân xƣng cả trong nguyên tác lẫn bản dịch:
―The voices fading. Silly of me. In the kitchen, quickquick‖ [45, tr.93] (―Những
giọng nói nghe nhỏ dần. Mình thật ngớ ngẩn. Vào bếp, nhanh nhanh lên thôi‖ [27,
tr.159]). Trong ba câu văn, câu thứ nhất là điểm nhìn bên ngoài, hai câu còn lại là
điểm nhìn bên trong của Claire. Đại từ ―me‖ (dịch là ―mình‖) đánh dấu điểm nhìn
bên trong đó.
Phần truyện ―Đi về phía biển thét gào‖ cũng có sự di chuyển điểm nhìn khá linh
hoạt. Cũng là sự góp mặt của những câu văn kể về hành trình của Jaslyn đến thăm
Claire, Ciaran, gặp gõ Pino từ điểm nhìn bên ngoài nhân vật chính nhƣ: ―Ngƣời gác
cổng mỉm cƣời, dù đã bao nhiêu năm cô chƣa gặp lại ông. Một ngƣời đàn ông xứ
17
Wales‖ [27, tr.564]. Cũng có những câu văn xuất phát từ chính điểm nhìn của
Jaslyn: ―Nhƣ vậy là anh biết thành phố này, cô thầm nghĩ. Hẳn là anh ấy đã từng ở
đây‖ [27, tr.560]. Và sự kết hợp điểm nhìn trong – ngoài rất tự nhiên: ―Trƣớc giờ cô
chƣa hành động nhƣ thế này với một ngƣời đàn ông, nhƣng giờ cô cũng lấy danh
thiếp của mình và đút nó vào túi áo sơ-mi của anh, còn vỗ nhẹ cho nó lọt sâu vào.
Cô cảm thấy khuôn mặt mình lại đang căng ra. Quá trơ tráo. Quá mời chào. Quá dễ
dãi‖ [27, tr.562]. Chúng ta sẽ thấy điều tƣơng tự trong các phần truyện viết về
ngƣời đàn ông đi dây, về nhân vật nó, về thẩm phán Solomon.
Tóm lại, có thể nói ở những phần truyện kể ngôi thứ ba, có sự dịch chuyển điểm
nhìn từ ngƣời kể chuyện sang nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật khác. Còn ở
những phần truyện kể ở ngôi thứ nhất, sự dịch chuyển này là từ nhân vật xƣng tôi
sang các nhân vật khác trong câu chuyện. Sự dịch chuyển điểm nhìn có thể xảy ra
trong diễn ngôn của ngƣời kể chuyện hoặc trong diễn ngôn của nhân vật khi có hiện
tƣợng nhƣờng vai trần thuật. Tất cả làm nên sự đa dạng trong cách nhìn, tăng tính
hấp dẫn cho câu chuyện.
Nếu sử dụng thuật ngữ ―Tiêu điểm‖ của Genette, chúng ta thấy Người đi dây có
đầy đủ các dạng thức tiêu điểm mà Genette đã nêu: tiêu điểm cố định, tiêu điểm
thay đổi, tiêu điểm hỗn hợp và tiêu điểm tập thể. Nhấn mạnh thêm điều này để một
lần nữa thấy đƣợc sự đa dạng trong nghệ thuật tự sự đa chủ thể gắn với đa điểm
nhìn của Colum McCann.
1.2. Tự sự đa chủ thể - kết cấu phân mảnh và dán ghép
Phân mảnh (fragmentation) – cũng gọi là mảnh vỡ - là một đặc trƣng tiêu biểu của văn
học h(ậu h)iện đại. Vì sao vậy? Lê Huy Bắc từng lí giải: ―Đơn giản mảnh vỡ chính là bản
thể của hiện tồn hậu hiện đại, khi ngƣời ta thôi không còn tin vào những gì tròn trịa, đầy
đặn, dễ nắm bắt…thì ―vỡ‖ tức là tiêu chí bản chất của sự vật‖ [8].
Vậy phân mảnh là gì? Hiểu đơn giản đó là sự chia nhỏ, đập vụn cái thống nhất ra
thành những mảnh vỡ khác nhau. Ở kiểu kết cấu này, các sự kiện trong cốt truyện rời rạc,
không liền mạch với nhau, xếp đặt cạnh nhau một cách tự nhiên, hỗn độn. Cách kết cấu
phân mảnh nhƣ vậy trái ngƣợc với kết cấu của truyện kể truyền thống. ―Đây là kiểu kết
cấu nhiều truyện, nhiều mảnh nhỏ trong một truyện, mỗi mảnh nhỏ ấy là một kết cấu, tất
18
cả hợp lại tạo thành kết cấu chung của truyện‖ [55]. Dĩ nhiên, sự đứt gãy, không liền
mạch ở đây đƣợc tạo ra hoàn toàn bởi chủ ý của nhà văn. Barry Lewis trong bài viết
―Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học‖ diễn đạt khá sinh động về kĩ thuật phân mảnh nhƣ
sau: ―Chắc chắn rằng những nhà văn về sau đã gắng hết sức đập cho bốn thạch trụ văn
chƣơng này tan nát vào quên lãng. Hoặc là cốt chuyện bị nghiền thành từng viên nhỏ của
biến cố và hoàn cảnh, nhân vật bị phân tán thành một bó của những khát vọng nhức nhối,
cảnh trí thì chỉ hơn những phông màn dựng tạm một chút mà thôi, hoặc đề tài trở thành
mơ hồ đến nỗi nếu cho rằng những cuốn tiểu thuyết nào đó nói ―về‖ điều này hay điều
nọ thì thật là sai lầm một cách buồn cƣời‖[42].
Nhƣ thế, các yếu tố trong tác phẩm h(ậu h)iện đại thƣờng đƣợc tạo nên từ nhiều mảnh
vỡ. ―Mỗi mảnh vỡ trở thành một câu chuyện, có thể lôgic có thể không, tùy thuộc trạng
thái của nhân vật ngƣời kể chuyện, trạng thái kể có ý thức hay vô thức‖ [40]. Bởi vậy,
ngƣời đọc có vai trò rất lớn trong việc tìm ra giá trị tự thân của từng mảnh vỡ cũng nhƣ
giá trị của mối liên kết các mảnh vỡ lại với nhau. Kết cấu phân mảnh và dán ghép góp
phần phát huy cao độ vai trò đồng sáng tạo của độc giả, trao cho họ một phần quyền
năng kiến tạo ý nghĩa tác phẩm văn chƣơng từ phía nhà văn.
Sự phân mảnh xảy ra ở nhiều cấp độ khác nhau: có thể là văn bản, cốt truyện, nhân
vật, đề tài, không – thời gian; cũng có thể ―còn đi xa hơn nữa và phân mảnh cả chính cái
vật liệu của văn bản với những hình vẽ, kiểu chữ, hoặc những phƣơng tiện biểu hiện hỗn
hợp‖ [42].
Tính phân mảnh kéo theo sự phi trung tâm hóa, nghĩa là tạo ra đa tâm điểm. Mỗi nhân
vật trong tác phẩm có thể trở thành một trung tâm của một câu chuyện nào đó. Tƣơng tự
nhƣ vậy, các yếu tố khác nhƣ nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian…cũng đều mang
tính phi tâm. Ở những tác phẩm sử dụng kết cấu phân mảnh và dán ghép, không có yếu
tố chính quán xuyến tất cả các yếu tố khác, trọng tâm có thể rơi vào bất cứ yếu tố nào tùy
theo góc nhìn và sự khai thác tác phẩm của ngƣời tiếp nhận văn chƣơng.
Phân mảnh luôn đi kèm với dán ghép. Người đi dây là cuốn tiểu thuyết đƣợc dán ghép
bằng mƣời ba mảnh khác nhau (Xét về mặt bố cục văn bản truyện kể). Mỗi mảnh là một
truyện hoặc một phần của truyện kể, chúng đƣợc móc nối lại bằng sự liên hệ, gắn bó
19
giữa các nhân vật một cách hết sức tình cờ mà ngƣời viết sẽ cụ thể hóa ở những phần tiếp
sau đây.
1.2.1. Phân mảnh và dán ghép cốt truyện
Cốt truyện của tiểu thuyết Người đi dây là cốt truyện phi tuyến tính, đƣợc chia làm
nhiều phần. Tác phẩm có một phần nhƣ màn mở đầu và bốn phần đƣợc đánh số thứ tự từ
1 tới 4. Mỗi phần hàm chứa trong nó nhiều truyện nhỏ. Bản thân mỗi cốt truyện nhỏ này
cũng kết cấu theo kiểu phi tuyến tính, tâm lí hoặc đa tuyến. Và một cách ngẫu nhiên,
chúng có mối liên hệ với nhau, hƣớng ngƣời đọc đến thông điệp mà nhà văn gửi gắm.
Câu chuyện về ngƣời thanh niên biểu diễn trò đi dây bất hợp pháp đƣợc ghép lại
từ ba mảnh vỡ: ―Ngƣớc nhìn và sững lặng‖, ―Hãy để thế giới trƣợt mãi đi‖, ―Trên
nhịp đƣờng rầy tiến bộ‖. Tác giả sử dụng hình thức kể chuyện ở ngôi kể thứ ba
nhƣng có sự kết hợp và dịch chuyển điểm nhìn bên trong với bên ngoài; qua đó dần
làm rõ chân dung ngƣời thanh niên, quá trình luyện tập, tài năng và khát vọng làm
nên điều kì diệu ở anh. Không kể chuyện theo kết cấu truyền thống; câu chuyện về
ngƣời đi dây đƣợc rải vào ba phần khác nhau, không liên tiếp về mặt văn bản truyện
kể lẫn không – thời gian. Bắt đầu bằng hình ảnh anh đang chăng mình giữa không
trung, sau đó nhà văn lại quay về quá trình luyện tập của anh rồi mới trở lại để kể
tiếp về cuộc biểu diễn. Xen giữa những phần này là những câu chuyện khác, có
hoặc không liên quan trực tiếp đến anh chàng này.
Tƣơng tự nhƣ vậy, các câu chuyện về cha xứ Corrigan, chuyện anh trai linh mục
Ciaran, chuyện mẹ con cô gái bán hoa Jazzlyn, chuyện bà mẹ mất con trong chiến tranh
ở Việt Nam Claire, Gloria…cũng đƣợc phân mảnh nhƣ thế.
Một biểu hiện nổi bật của kĩ thuật phân mảnh cốt truyện trong tiểu thuyết Người đi
dây là kể chuyện theo lối tiểu truyện trong đại truyện. ―Thiên đàng đẹp đẽ thật, nhƣng tôi
vẫn thích ở đây hơn‖ là câu chuyện của Ciaran kể về cuộc đời anh. Nhƣng lồng trong nó
là câu chuyện em trai anh trên hành trình tu hành và làm thiện nguyện, cũng là câu
chuyện tình yêu của vị linh mục với cô gái Adelita. Hay nhƣ ―Miró ngự ở trên tƣờng‖ kể
về câu chuyện họp mặt của các bà mẹ mất con trong chiến tranh ở Việt Nam, nhƣng nó
còn hàm chứa chuyện những ngƣời lính Mỹ tham chiến, chuyện về ngƣời đi dây biểu
diễn đang thu hút sự chú ý của nhiều ngƣời…
20
Ngoài ra, kĩ thuật phân mảnh cốt truyện còn đƣợc thể hiện ở lối kể truyện nối tiếp
truyện. Trong tác phẩm này, câu chuyện về ngƣời đi dây đƣợc kể chính ở ba phần nhƣ đã
nói ở trên, song nó còn đƣợc kể tiếp nối ở những câu chuyện khác nhƣ: ―Miró ngự ở trên
tƣờng‖, ―Phía tây thinh không‖, ―Mắt xích‖, ―Tung hô và ngợi ca Thiên Chúa‖. Hoặc
nhƣ câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Claire và các bà bạn trong ―Miró ngự ở trên tƣờng‖
sẽ đƣợc ―kể gối đầu‖ ở phần ―Tung hô và ngợi ca Thiên Chúa‖.
Việc kết hợp nhiều hình thức kể nhƣ vậy làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn, ngƣời
đọc theo đó muốn nắm bắt trọn vẹn nội dung câu chuyện cần theo dõi ở nhiều phần,
nhiều mảnh vỡ khác nhau và tự lắp ghép theo mối dây liên hệ ngầm nhà văn thiết kế,
hoặc cũng có thể theo cách riêng của từng ngƣời.
1.2.2. Phân mảnh và dán ghép nhân vật
Nhân vật trong Người đi dây là những nhân vật mảnh vỡ. Họ là ngƣời tốt hay xấu?
Thật khó để có câu trở lời một cách rạch ròi. Bởi nhân vật đƣợc soi chiếu từ nhiều góc
nhìn của nhiều chủ thể.
Nếu chỉ qua lời kể của Ciaran, ta thấy linh mục Corrigan là một ngƣời kính chúa, từ
nhỏ đã thật tâm gắn bó với mọi hạng ngƣời. Anh lao vào làm thiện nguyện không mệt
mỏi, quên cả bản thân để lo cho những cô gái điếm hạng quèn…Nhƣng đằng sau con
ngƣời ấy lại là một trái tim nóng hổi yêu thƣơng, anh đã lao vào vòng tay Adelita đầy
hứng khởi, đê mê trong những cuộc làm tình. Góc khuất này chỉ đƣợc hiện ra dƣới cái
nhìn của Adelita.
Tƣơng tự nhƣ vậy, ngƣời đọc không khỏi ngạc nhiên khi một ngƣời phụ nữ hiếu
khách, luôn mong đƣợc san sẻ nỗi đau mất con trong hoàn cảnh cô đơn, một ngƣời thuộc
―tầng lớp trên‖ với trái tim nhân ái nhƣ Claire lại có thể thốt nên câu ―Gloria, tôi rất vui
đƣợc trả tiền công cho em‖ [27, tr.506]; hoặc con ngƣời mang cảm giác ―Sợ chết khiếp‖
[27, tr.129] khi lần đầu đến khu phố tệ nạn nơi Gloria ở sau đó lại ―thƣờng ngồi xe hơi
thuê có kèm tài xế đến thăm‖ [27, tr.558].
Và nhất là đối với nhân vật viên thẩm phán Solomon, chúng ta phải soi chiếu từ điểm
nhìn của chính ông, của Gloria, của Tillie và cả vợ ông mới có cái nhìn bao quát. Qua
những dòng hồi tƣởng, độc giả nhận thấy ở Solomon sự khéo léo có phần ranh mãnh để
thăng tiến trong công việc: ―Rất nhiều vụ chỉ đƣợc giải quyết qua loa nhanh chóng…Ông
21
còn phải hoàn thành cho kịp chỉ tiêu xét xử…ông càng mang lại ít việc cho các đồng
nghiệp ở tầng trên thì họ càng vui vẻ‖ [27, tr.433]; những tâm sự rất riêng sau vẻ giàu
sang và uy quyền thể hiện bên ngoài: ―Ông phải xử lí những thứ tệ hại nhất trong đám
cặn cùng xã hội. Mọi ngƣời đều nghĩ ông sống trong không gian nhƣ thiên đƣờng ốp gỗ
gụ, có một công việc nghe vang nhƣ mõ, một sự nghiệp đầy quyền lực, nhƣng thực sự
ngoài danh tiếng ra thì chẳng có gì đáng kể hết‖ [27, tr.426]. Dù vậy, qua cái nhìn của
Gloria, ông là con ngƣời lạnh nhạt và sực mùi khinh miệt đẳng cấp: ―Ông ta đảo mắt về
phía tôi. Tôi dám chắc ông ta đang bực mình vì sự có mặt của tôi, ông ta nghĩ tôi là một
ngƣời giúp việc nào đó…‖ [27, tr.536]
Nhân vật mảnh vỡ gắn với những không gian tồn tại khác nhau. Mỗi không gian với
những đặc điểm riêng của nó ở từng thời điểm trở thành một bức phông nền mà trên đó
hằn lên đặc điểm tính cách của họ. Tiêu biểu cho kiểu này không thể không nhắc tới
Ciaran.
Mảnh đất Dublin xƣa kia là bầu sữa ngọt ngào nuôi dƣỡng tâm hồn hai anh em cậu bé
Ciaran. Ở nơi đó có tuổi thơ yêu dấu, có những tháng ngày hạnh phúc bên mái ấm gia
đình, có tình anh em ruột thịt ―tôi dìu nó suốt dọc bờ sông Liffey, qua những con tàu chở
than đá, đến tận khu Ringsend, ở đó tôi rửa ráy qua cho nó ở chỗ máy nƣớc cũ trên phố
Irishtown‖ [27, tr.27]. Nhƣng cũng chính nơi đây với sự tác động của phong trào hippie
và cuộc nội chiến đã đẩy chàng trai ấy vào một ngã rẽ khác của cuộc đời: bỏ ngang
trƣờng đại học, theo lối sống hippie, vƣớng vào cần sa và phải ra tòa.
Nam Bronx lại là nơi để Ciaran phơi bày lối sống bám chặt vào hiện thế mà tồn
tại. Anh nghĩ mình không thích hợp với mảnh đất này, em trai anh cũng vậy, nên
anh từng đề nghị em trai quay lại quê nhà. Anh không thể sống cuộc đời lí tƣởng
nhƣ em trai anh, không thể lăn lộn trong nghèo nàn, nỗi đau và rác rƣởi. ―Tôi phải
thoát khỏi nơi này. Tôi dự định tìm một công việc, kiếm một chốn đi về nho nhỏ…‖
[27, tr.54]. Ghét xứ sở này, ghét những cô gái điếm đang lợi dụng lòng tốt của em
anh, nhƣng anh cũng bỏ tiền nếm trải mùi vị ấy với cô gái che ô Tillie trên đƣờng
phố. Anh lại cũng vì em trai mà chấp nhận giúp những ngƣời ở viện dƣỡng lão lúc
em anh cần. Có thể nói, Bronx có bao nhiêu mảng màu tối sáng thì Ciaran cũng
mang trong anh những sắc màu tính cách tƣơng đƣơng.
22
Cuối cùng, khi đã ở độ tuổi xế chiều, khi đã trải nghiệm và đặc biệt gặp gỡ ngƣời phụ
nữ của đời anh, Ciaran trở về với vùng quê Dublin nơi anh từng gắn bó. Có lẽ so với
Bronx, ở đây ít xô bồ. Cũng có lẽ Bronx đã để lại trong anh nỗi đau mất ngƣời em trai
yêu quý. Theo thời gian, giờ đây Dublin đã mang gƣơng mặt mới, bắt đầu có những đổi
thay nhƣ bao nhiêu sự biến thiên của cuộc đời; Ciaran đã trở thành một con ngƣời giàu
có, sang trọng và điềm tĩnh. ―Ông là giám đốc điều hành của một công ti kinh doanh dịch
vụ internet đặt trụ sở tại một trong những tòa nhà cao ốp kính dọc sông Liffey‖ [27,
tr.577]. Ông sống cùng vợ trong căn nhà cũ của gia đình đã đƣợc chính ông bỏ tiền ra
mua lại. Gặp ông trong không gian này ngƣời đọc không khỏi thấy hạnh phúc tràn đầy.
Nghe nhƣ bài ca quê hƣơng, gia đình và cuộc sống mãi âm vang theo mỗi đợt thủy triều
bên bờ vịnh: Ciaran – một ngƣời đàn ông thành đạt và viên mãn trong hạnh phúc.
Không chỉ sắm một vai mà ở rất nhiều vai, không chỉ đơn diện, lƣỡng diện mà là đa
diện; nhân vật trong Người đi dây thực sự là những mảnh vỡ mà ta chỉ có thể nhận ra
tính cách họ khi tỉ mỉ đan ghép lại – những con ngƣời rất chân thật của sự hiện tồn trong
xã hội này.
1.2.3. Phân mảnh và dán ghép không – thời gian
1.2.3.1. Phân mảnh và dán ghép không gian
Ứng với sự phân mảnh của cốt truyện và nhân vật, không gian nghệ thuật bị chia nhỏ
và rải ra ở nhiều nơi trong tác phẩm. Có thể nói không gian trong Người đi dây là không
gian phi tâm. Thoạt nhìn, ta thấy không gian dƣới tòa tháp đôi của trung tâm thƣơng mại
đƣợc phác họa khá cụ thể nhƣ tâm điểm hƣớng tới của câu chuyện. Nhƣng thực ra nó
cũng chỉ đúng với câu chuyện về ngƣời đi dây. Còn những câu chuyện khác lại gắn với
những không gian riêng biệt khác nhau. Ví dụ nhƣ câu chuyện của ngƣời anh trai Ciaran
là cuộc dịch chuyển không gian từ quê nhà thuở ấu thơ – Sandymount bên vịnh Dublin,
đến Nam Bronx – nơi em trai anh hiện tại đang sống. Hoặc câu chuyện của Jaslyn là
hành trình qua các không gian Little Rock, New York và Ireland, câu chuyện của Claire
là sự đan xen không gian căn phòng với không gian chiến trƣờng…
Điều đáng nói ở đây là không gian không chỉ gắn với một câu chuyện, một nhân vật
mà đƣợc tái hiện qua nhiều điểm nhìn, nhiều chủ thể nhìn, gắn với nhiều câu chuyện
khác nhau. Yếu tố phân mảnh không gian bộc lộ rõ nhất ở điểm này. Trong tác phẩm, dễ
23
dàng nhận ra hai không gian rộng đƣợc nhà văn dụng công phác họa là không gian New
York với hai quận Bronx, Manhattan và không gian Dublin của Ireland. Ở đây, có lẽ có
một chút dấu ấn tự thuật của Colum McCann.
Bộ mặt Nam Bronx hiện lên từ nhiều góc độ qua nhiều chủ thể nhìn khác nhau. Theo
khảo sát của ngƣời viết, có thể thấy nhƣ sau:
Carian Lara Tillie Gloria Claire
Thiên đàng
đẹp đẽ thật,
nhƣng tôi vẫn
thích ở đây hơn
– Phần 1
Sợ yêu –
Phần 1
Ngôi nhà ma
túy xây nên –
Phần 2
Tung hô và
ngợi ca Thiên
Chúa – Phần 3
Miró ngự ở
trên tƣờng –
Phần 1
Cái nhìn của Ciaran, Lara, Tillie, Gloria và Claire là những mảnh ghép bổ sung cho
nhau để hoàn chỉnh bức phông nền Bronx nghèo nàn, u ám. Đó là thành phố có ―không
khí thật ẩm ƣớt‖ [27, tr.53], ―cái thành phố ngập trong rác rƣởi, sống nhoi nhóc trên bẩn
thỉu‖ [27, tr.54]. Đó là thành phố của những dãy nhà ổ chuột, ―tôi coi đó nhƣ là thứ gì đó
đáng sợ, ẩn chứa điều gì đáng xấu hổ - những dãy nhà cao tầng xập xệ này hoàn toàn
không tồn tại trong kí ức thơ ấu hay tranh vẽ của tôi, hay ở bất cứ nơi nào khác‖ [27,
tr.243]. Đó là thành phố của sự đổ vỡ, của sự xuống cấp mọi giá trị trƣớc sóng gió cuộc
đời: ―Chúng tôi vào khu Bronx, lƣớt qua những cửa hàng đã đóng cửa, có mấy con chó
ve vẩy bên ngoài. Những bãi trống đầy gạch vụn. Những ống thép móp xoắn. Những
mảng tƣờng vỡ…Vài bóng ngƣời lê la giữa đống thùng rác và rác thải‖ [27, tr.542] và
―Bọn trẻ trên tầng mƣời ôm ti vi ném vào đầu đám tuần tra khu nhà đang đi rảo bên
dƣới…Cảnh sát ập đến nện dùi cui. Tiếng súng nổ vẳng xuống từ góc nhà…Cảnh đốt
phá ngoài đƣờng…‖ [27, tr.53]. Đó là thành phố của sự khắc nghiệt về thời tiết: ―Khu
Bronx mùa hè quá nóng mà mùa đông thì quá lạnh‖ [27, tr.529].
Cùng với Bronx là Manhattan. Nhƣng nếu nhƣ Bronx xập xệ, nghèo nàn, ẩm mốc và
tệ nạn thì Manhattan giàu sang, tráng lệ. Manhattan nổi tiếng là khu vực sống của những
đại gia ở đất nƣớc này. Dƣới con mắt của những ngƣời phụ nữ nhƣ Gloria và các bà bạn
của bà, đó là thành phố của ―nhà to phố sang‖ [27, tr.493]. Còn với Claire, ngƣời dân cƣ
24
ngụ ở đây, vẻ sang trọng toát ra từ phong cách sống. Cũng bởi vì sống trong khu phố của
tỉ phú nên bà đã rất ngần ngại khi nói địa chỉ cho các bạn mình, lần gặp đầu tiên bà cũng
không mang trang sức, và dĩ nhiên, ngƣời kể đã khéo léo cho thấy bà luôn có cảm giác
nhƣ mình đang phô trƣơng quá sức trƣớc mắt bạn bè. Diện mạo Manhattan đƣợc vẽ
thêm một nét từ điểm nhìn của cô gái điếm Tillie. Cô đã từng làm gái ở Lexington.
Nhƣng lúc có tuổi, cô buộc phải về khu Bronx. Đơn giản vì Manhattan chỉ dành cho gái
gọi cao cấp, trẻ và hầu nhƣ không có gái da màu. Còn với điểm nhìn của đám đông trong
buổi sáng mùa hè 1974, thành phố hiện lên với muôn vàn âm thanh náo nhiệt: ―Tiếng còi
xe hơi. Những chiếc xe chở rác. Còi hiệu chuyến phà. Âm thanh xô bồ từ xe điện
ngầm…Những mảnh rác lẫn lộn trong những góc hẻm tối tăm…‖ [27, tr.6], những tuyến
đƣờng nối tiếp lẫn nhau: ―Trên phố Nhà thờ. Phố Liberty. Phố Cortland. Phố West. Phố
Fulton. Phố Vesey‖ [27, tr.5], những hình ảnh chân thực đằng sau sự hào nhoáng từng
biết đến: ―Những cô gái điếm trong bộ đồ jean nhàu nhĩ…Thƣơng nhân. Mấy cậu nhóc
giao hàng. Những ngƣời đeo bảng quảng cáo thuê to kếch. Cánh cờ bạc bịp…Thêm gã
sâu rƣợu đang bò ra ngoài tìm cữ rƣợu sớm‖ [27, tr.7].
Nhƣ vậy, không gian New York ở đây là những mảnh vỡ, ngƣời đọc chỉ có đƣợc cái
nhìn toàn diện khi lắp ghép nhiều mảng màu hiện thực từ cái nhìn của nhiều chủ thể
đƣợc rải ra trong tác phẩm. Tƣơng tự nhƣ vậy với không gian Ireland. Bộ mặt hiện ra đầy
đủ hơn nếu chúng ta tiếp cận với cả câu chuyện của Ciaran về quê nhà lẫn câu chuyện cô
gái Jaslyn tìm đến thăm khi ông đã ở tuổi lục tuần.
Trong hoài niệm của Ciaran, đó là thành phố của năm tháng tuổi thơ yên ả, thanh
bình: ―Hai trạm điện khổng lồ màu đỏ và trắng chọc gãy đƣờng chân trời phía đông,
nhƣng ở những hƣớng còn lại chân trời vẫn là một đƣờng cong nhẹ nguyên lành,
đƣợc tô điểm bởi những con mòng biển trong không trung, những chiếc tàu thủy
chở thƣ ngoài Dun Laoghaire và những đám mây lƣớt nhanh cuối trời‖ [27, tr.19].
Song cũng giống nhƣ ―Thủy triều vịnh Dublin vốn dâng lên chậm chạp…nhƣng nó
có thể thay đổi khó lƣờng‖ [27, tr.19], đây còn là không gian mang trong mình nó
biết bao mảng màu xám tối: ―Khu cảng. Những quán trọ rẻ tiền. Những góc phố nơi
đá lót đƣờng vỡ nham nhở‖ [27, tr.25], những ngƣời cơ nhỡ, những ngƣời già nát
rƣợu…Chính điều này đã làm cho cô gái trẻ Jaslyn phải ngạc nhiên khi đặt chân đến
25
mảnh đất này: ―Cô vốn mƣờng tƣợng ra những con đƣờng cấp phối, hai bên rợp
bóng cây và những dãy hàng rào cao, rồi cánh đàn ông với mái tóc đen nhánh,
những túp lều trắng đứng lẻ loi trên đỉnh đồi. Nhƣng thay vào đó cô lại thấy những
cầu vƣợt, dốc lên cầu và những màn lên lớp của những gã say rƣợu mặt phị về ý
nghĩa đích thực của chính sách thế giới‖ [27, tr.576]…
Đọc Người đi dây, chúng ta khó có thể trả lời không gian nào là không gian chính của
câu chuyện. Bởi không gian ở đây là phi tâm điểm. Cái tƣởng nhƣ chính chƣa hẳn đã là
chính, cái phụ biết đâu lại trở thành tâm điểm của tác phẩm này.
Từ một góc độ khác, không gian mảnh vỡ ở đây còn đƣợc biểu hiện qua sự đan xen
giữa không gian hiện thực và không gian quá khứ, hoài niệm của nhân vật. Đó là không
gian gãy rời, đứt nối qua dòng hồi tƣởng của Claire khi bạn bà đến thăm nhà. Hiện thực
là ngôi nhà của bà trên đại lộ Park. Quá khứ là không gian ở của Gloria – khu Bronx,
không gian chiến trƣờng Việt Nam trong hồi ức về Joshua…
Một biểu hiện nữa của không gian mảnh vỡ trong tác phẩm là không gian hồi ức
bị cắt xén rời rạc, lộn xộn. Đó là không gian đƣợc tái hiện trong câu chuyện của
Tillie. Bà bị bắt, phải nhận tội thay con, bị quản giáo là ngƣời đồng tính chuyển trại
khi không làm mụ vừa lòng và chống trả mụ; rồi con gái bị tai nạn qua đời, lo lắng
cho hai đứa cháu…Tất cả khiến Tillie bất an, hoảng loạn, rối trí. Điều ấy thể hiện rõ
qua cách nhân vật kể chuyện: kể không trật tự, không quan tâm đến thời gian,
không gian, quan hệ của các sự việc. Đó hoàn toàn chỉ là những hình ảnh hiện lên
ngẫu nhiên trong trí nhớ mà thôi.
1.2.3.2. Phân mảnh và dán ghép thời gian
Cốt truyện Người đi dây kể về hiện thực đời sống New York và Ireland những năm 70
của thế kỉ XX, kéo dài đến tháng 12 năm 2006. Dấu ấn thời gian ấy in hằn trên tác phẩm
bởi những thời điểm cụ thể. Ví dụ buổi biểu diễn đi dây bắt đầu khoảng 7 giờ 45 phút
sáng, bạo động ở miền Nam Ireland mùa xuân năm 1974, trát gọi trình diện Tillie ngày
19 tháng 11 năm 1973 và hành trình trở lại thăm Claire lần cuối trƣớc khi bà mất của
Jaslyn vào tháng 12 năm 2006. Đƣơng nhiên xen vào đó là những mảng hiện thực hồi ức
trƣớc những năm 70 này.
26
Nhƣ đã nói trong phần phân mảnh cốt truyện, tiểu thuyết đƣợc kể không theo trật tự
tuyến tính. Thời gian kể chuyện và thời gian sự kiện bị phân mảnh, gấp khúc, đồng hiện
và nhiều khi lẫn lộn quá khứ, hiện tại theo suy nghĩ của nhân vật.
Thời gian sự kiện của câu chuyện về ngƣời đi dây đƣợc bẻ ra làm ba đoạn và kể
không liền mạch nhƣ sau:
Ngƣớc nhìn và sững lặng Hãy để thế giới trƣợt mãi
đi
Trên nhịp đƣờng rầy tiến
bộ
Hiện tại Quá khứ Hiện tại
Xen vào giữa những phần này là những câu chuyện khác. Thời gian theo đó cũng có
thể là hiện tại hoặc quá khứ theo cách kể của từng chủ thể. Trong tƣơng quan so sánh
giữa phần truyện ―Ngƣớc nhìn và sững lặng‖ với ―Hãy để thế giới trƣợt mãi đi‖, chúng ta
thấy tác giả đảo trật tự thời gian khi kể chuyện. Những sự kiện xảy ra trƣớc đƣợc đem kể
sau và ngƣợc lại. Với cách đảo thuật này, ngƣời kể chuyện dẫn ngƣời đọc vào hành trình
khám phá quá khứ, khám phá nguyên nhân của những vấn đề trong hiện tại; nhiều yếu tố
bất ngờ, ngẫu nhiên cứ thế đƣợc phơi bày, thu hút sự quan tâm của độc giả qua từng
trang viết.
Ngoài cách kể chuyện đảo thuật nhƣ trên, tiểu thuyết Người đi dây còn có cách kể
chuyện bổ thuật đầy hiệu quả. Việc bổ thuật giúp ngƣời kể chuyện cung cấp hàm lƣợng
lớn những thông tin liên quan đến sự kiện chính đang kể cũng nhƣ làm giãn mạch truyện,
giảm tốc độ kể, đôi khi là ngƣng đọng thời gian kể. Tiêu biểu có lẽ phải nhắc đến phần
―Miró ngự ở trên tƣờng‖. Thời gian kể chuyện gói gọn trong buổi sáng khi những ngƣời
bạn đến thăm Claire. Nhƣng với cách kể chuyện bổ thuật, ngƣời kể chuyện đƣa ngƣời
đọc quay trở về với quá khứ xa xăm, tìm đến nguyên nhân khiến bao trái tim Mỹ còn
nhức nhối. Xen kẽ vào cốt truyện chính là những mảnh ghép thời gian hồi ức của Claire.
Chuyện mở ra bằng sự kiện Claire thức dậy và tiễn chồng đi làm. Tiếp đó là suy nghĩ của
bà về buổi đầu gặp gỡ với những ngƣời bạn. Sau đó mạch kể lại trở về hiện tại bằng việc
bà dặn dò ngƣời gác thang máy khi khách đến. Rồi những bà bạn đến chơi, ngƣời kể
chuyện kể theo cảm xúc của nhân vật Claire. Kí ức về con của bà hiện lên xen vào những
câu nói và suy nghĩ, hành động trong hiện tại. Ví nhƣ:
27
―- Tôi nghĩ giờ tôi đi cắm hoa vào nƣớc đây, - bà nói.
Nó viết thƣ kể cho bà nghe về những cuộc chiến xâm nhập giành quyền truy nhập tài
khoản vào lúc nửa đêm…
- Chị ổn chứ, Claire?
Một cái chạm khẽ vào khuỷu tay bà. Là Gloria.‖ [27, tr.171-176]
Bằng cách bổ thuật nhƣ vậy, tác giả bổ sung những sự kiện về con trai Claire và
những bà mẹ khác một cách khá đậm đặc. Mặt khác còn cho thấy nhân vật sống cuộc
sống đầy tâm trạng. Đứa con trai luôn hiển hiện trong cuộc sống của bà, nỗi đau mất con
không thể nào nguôi ngoai đƣợc. Bà không mạnh mẽ nhƣ chồng, có thể lẻn vào nhà tắm
xả vòi nƣớc mà khóc một trận rồi sẽ nguôi ngoai. Bà luôn sống trong ám ảnh đau
thƣơng, quá khứ và hiện tại dƣờng nhƣ đồng hiện, bóp nghẹt trái tim bà. Có lẽ đó là lí do
chúng ta gặp rất nhiều những đoạn văn thể hiện sự rối bời của Claire kiểu nhƣ thế này
trong tác phẩm:
―Bà duỗi bàn tay chống lên quầy bếp. Những ngón tay choãi ra ấn xuống bàn.
Joshua. Có phải cái tên ấy đã khiến bà day dứt? Có phải bởi họ chƣa nhắc đến tên nó?
Có phải bởi nó đã chẳng hiển hiện trong suốt cuộc trò chuyện buổi sáng nay?...
Thôi đủ rồi. Đủ rồi. Bƣng khay lên. Đừng nghĩ nhảm nhí nữa. Mọi thứ đang thật
tuyệt. Nụ cƣời đó của Gloria. Những bông hoa tuyệt đẹp.
Ra ngoài.
Bây giờ.
Đi thôi.‖ [27, tr.179].
Bên cạnh lối đảo thuật và bổ thuật, chúng ta còn bắt gặp cách kể chuyện dự thuật
trong Người đi dây dù rất hiếm. Đó là những đoạn kể chuyện tƣơng lai khi đang ở thì
hiện tại nhƣ đoạn Gloria kể về gia đình, bà nhắc tới hai đứa bé gái, sau đó trong đoạn kể
tiếp về cuộc gặp gỡ ở nhà Claire mới cho ngƣời đọc biết hai đứa bé đó là con của
Jazzlyn. Hoặc nhƣ đoạn Adelita kể về ngƣời yêu của mình – linh mục Corrigan. Chủ thể
kể chuyện đang kể chuyện họ vừa trải qua một đêm làm tình đầy hứng khởi thì đột ngột
chuyển sang kể chuyện sẽ xảy ra sau đó khá lâu, sau khi Corrigan gặp tai nạn và qua đời.
―Một tuần sau – sau vụ tai nạn – tôi về nhà và nhặt nhạnh đám râu tóc của anh còn dính
trên thành bồn rửa, sắp xếp chúng thành các hình thù khác nhau, một cách ám ảnh, hết
28
lần này đến lần khác…‖ [27, tr.475]. Báo trƣớc sự kiện sẽ xảy ra, ngƣời kể chuyện gieo
vào ngƣời đọc không chỉ nỗi đau mà còn sự hồi hộp theo dõi, đợi chờ kết cục đầy thảm
khốc ấy. Đó cũng là một cách lạ hóa kể chuyện để tránh nhàm chán khá thành công của
Colum McCann.
Một điểm khá đặc biệt của tiểu thuyết này là kể chuyện men theo tâm trạng nhân vật.
Khi đó, ranh giới thời gian sự kiện bị xóa nhòa. Sự kiện, không gian cứ thế hiện lên theo
lời kể của nhân vật, không quan tâm đến mối quan hệ của chúng. Nói cách khác, đó là
những lát cắt thời gian ứng với những sự kiện rời rạc đƣợc tái hiện qua suy nghĩ. Tiêu
biểu là thời gian trong câu chuyện của Tillie. Ngƣời đọc khó mà phân biệt đƣợc sự việc
nào diễn ra trƣớc, sự việc nào diễn ra sau qua cách kể của bà. Thời gian kể bắt đầu từ lúc
bà bị bắt vào tù đến khi quyết định tự tử. Nhƣng sự kiện thì diễn ra không theo trật tự
nào. Đang kể chuyện hiện tại mình bị bắt, bà quay lại quá khứ năm mƣời ba tuổi với
những lần đi khách đầu tiên, rồi chuyện sinh con, chuyện ở khu Lexington, chuyện
những gã bảo kê, chuyện Corrigan, rồi lại ở hiện tại với việc chống lại quản trại…hiện
thực và quá khứ cứ thế đan cài, chồng chéo lên nhau.
Nhƣ vậy có thể nói: Tính chất phân mảnh của tiểu thuyết này thể hiện ở nhiều cấp độ
khác nhau. Đó là sự phân mảnh về cốt truyện, về nhân vật và về không – thời gian. Tất
cả góp phần tạo nên sự đa dạng trong cách kể, lôi kéo ngƣời đọc tham gia một cách tích
cực vào việc theo dõi diễn biến của những câu chuyện khác nhau. Thông qua đó, nhà văn
đƣa độc giả đến với một hiện thực khá bộn bề, với những mảng màu đen trắng khác nhau
của hiện thực xã hội đầy biến động, với những con ngƣời đa tính cách, đa tâm trạng,
đƣợc tái hiện từ rất nhiều góc độ nhìn.
Với kĩ thuật phân mảnh và dán ghép, tiểu thuyết Người đi dây thể hiện rõ tính chất phi
trung tâm. Không còn cốt truyện nào là chính, không còn nhân vật nào là chính, và cũng
không có không – thời gian chính cho tất cả các câu chuyện này. Bất cứ câu chuyện nào
cũng có thể trở thành trung tâm, nhân vật nào cũng có thể thu hút sự chú ý nhƣ một tâm
điểm…Cuộc sống do đó đa sắc màu.
1.3. Tự sự đa chủ thể - kiến tạo biểu tƣợng giàu ý nghĩa nhân sinh
Với tƣ cách là nghệ thuật ngôn từ, văn học trƣớc hết mang đặc trƣng hình tƣợng –
gián tiếp. Bất cứ nghệ sĩ nào khi sáng tác văn chƣơng cũng hƣớng đến kiến tạo những
29
biểu tƣợng để chuyển tải thông điệp thẩm mĩ trong tác phẩm của mình. Không có biểu
tƣợng sẽ không có nghệ thuật.
Khái niệm biểu tƣợng thƣờng đƣợc hiểu là ―hình ảnh các vật thể, cảnh tƣợng và sự
kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tƣởng tƣợng. Khác với tri giác, biểu tƣợng có thể
mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu tƣợng liên quan đến
quá khứ và tƣơng lai‖ (Từ điển tâm lý học). Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học
giải thích rằng: biểu tƣợng là ―Hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình
ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan đã
chấm dứt‖ [56] Theo từ điển biểu tƣợng, những gì đƣợc gọi là biểu tƣợng khi và chỉ khi
nó đƣợc một nhóm ngƣời đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho chính
bản thân nó.
Tính chất đa nghĩa của biểu tƣợng đƣợc làm nên không chỉ từ góc độ sáng tạo mà còn
từ góc độ tiếp nhận. Kiến tạo biểu tƣợng do đó trở thành xu hƣớng tất yếu của quá trình
mã hóa thông tin trong các tác phẩm văn chƣơng.
―Nhƣ là ngôn ngữ của cái bất tri giác, biểu tƣợng là ―một sự so sánh kéo dài‖
(J.Lemaitre), là sự thể hiện gián tiếp một ý tƣởng bằng một hình ảnh hay một câu
chuyện có nội dung tƣơng tự với ý tƣởng ấy‖ (Lautréamon)…Đặc điểm chung nhất
của mọi dạng thức biểu tƣợng là sự thông qua một hình ảnh cụ thể để biểu hiện một
điều trừu tƣợng, ―biểu hiện một cái gì khác căn cứ vào một tƣơng ứng loại suy‖
(Agndré Lalande)‖ [3]. Biểu tƣợng bao giờ cũng có tính ƣớc lệ, tính đại diện và gợi
liên tƣởng. Chiều sâu tƣ tƣởng của tác phẩm do đó một phần lớn đƣợc thể hiện qua
các biểu tƣợng mà nhà văn xây dựng. Mỗi tác phẩm, mỗi nghệ sĩ sẽ có một hƣớng
kiến tạo biểu tƣợng riêng, sao cho vừa dung chứa tốt nhất ý đồ nghệ thuật, lại vừa
hấp dẫn ngƣời đọc, ngƣời xem.
Trong tiểu thuyết này, tác giả đã xây dựng thành công khá nhiều biểu tƣợng. Đặc sắc
nhất là biểu tƣợng ngƣời đi dây. Từ một sự kiện có thật trong lịch sử, soi chiếu dƣới góc
nhìn của những chủ thể khác nhau, nhà văn kiến tạo một biểu tƣợng mang ý nghĩa nhân
sinh vô cùng sâu sắc.
30
1.3.1. Tái hiện một sự kiện có thật trong lịch sử
Văn học và hiện thực cuộc sống có mối quan hệ khăng khít với nhau. Hiện thực là
mảnh đất màu mỡ ƣơm mầm cho sáng tác. Cuộc sống ngoài kia cung cấp cho tác giả
nguồn đề tài phong phú, gợi lên trong lòng nghệ sĩ những xúc cảm ban đầu để đến
khoảnh khắc nào đó nó chín muồi thành những thăng hoa nghệ thuật. Dĩ nhiên, hiện thực
trong tác phẩm văn chƣơng đã đƣợc thanh lọc qua cái nhìn và quan điểm, cảm xúc của
nhà văn. Ngƣời nghệ sĩ do đó không chỉ đƣa một lát cắt của đời sống vào trong tác phẩm
mà không kèm theo đó một ẩn ý nghệ thuật nào. Hiện thực phản ánh luôn mang thông
điệp hoặc phục vụ tối đa cho việc truyền tải thông điệp của tác phẩm văn chƣơng. Một
trong những yếu tố góp phần hiệu quả nhất vào việc thể hiện ý đồ nghệ thuật là sử dụng
những biểu tƣợng đa nghĩa. Có thể biểu tƣợng ấy do tác giả sáng tạo nên, cũng có thể
thuộc về bản thân hiện thực. Nhƣng dẫu sáng tạo thì cũng khởi phát trên một cơ sở hiện
thực cụ thể nào đó. Nhà văn tài năng sẽ là ngƣời biết lẩy ra giữa bộn bề sự kiện và con
ngƣời ngoài kia những vấn đề có ý nghĩa với tất cả mọi ngƣời, đồng thời lại nhắn nhủ
đƣợc những cảm nhận rất cá nhân. Cái khó là làm sao đó để độc giả nhận ra những gì
hiện lên trong tác phẩm không quá xa lạ mà cũng chẳng phải thứ họ đã chứng kiến đến
độ nhàm. Bởi vậy, vấn đề phản ánh để làm gì luôn đƣợc đặc biệt quan tâm.
Ngƣời đi dây trƣớc hết đƣợc gợi lên từ một sự kiện có thật trong lịch sử. Đó là sự kiện
nghệ sĩ ngƣời Pháp Philippe Petit đi dây giữa hai tòa tháp đôi ngày 7 tháng 8 năm 1974 –
những bƣớc đi thế kỉ. Thông qua đó tác giả tạo sự liên tƣởng rất khéo tới sự kiện khủng
bố 11/9 ở Mĩ.
Từ năm 18 tuổi, Philippe Petit đã bắt đầu thu thập thông tin về tháp đôi và ấp ủ
ƣớc mơ thực hiện buổi đi dây nối giữa hai tòa tháp ấy. Sau sáu năm tìm kiếm tài liệu
song song với quá trình tập luyện, buổi sáng mùa hè năm 1974, ông và nhóm bạn đã
thực hiện kế hoạch mạo hiểm này. Trƣớc đêm biểu diễn, họ đã bí mật đem vật dụng
lẫn trong hàng hóa lên bằng thang máy. Họ sử dụng dây cung và một mũi tên gắn với
một đoạn dây thừng để chăng cáp qua hai tòa nhà. Và rồi sáng hôm sau, buổi biểu
diễn 45 phút của ông đã thu hút sự chú ý của đông đảo công chúng và cả nhà chức
trách. Họ không chỉ thuyết phục mà còn đe dọa dùng trực thăng tiếp cận buộc ông
phải dừng cuộc biểu diễn.
31
Trƣớc khi thực hiện những bƣớc nhảy tử thần trên sợi dây ở tháp đôi, Philippe Petit
từng trải qua quá trình khổ luyện và thực hành đi dây giữa hai tòa tháp của nhà thờ Đức
Bà vào năm 1971. Ông cũng thực hiện một lần đi dây mạo hiểm nữa vào năm 1973 trong
buổi biểu diễn giữa hai trụ tháp ở phía bắc cầu Sydney Harbour. Đó là những bƣớc đệm
chắc chắn để nghệ sĩ đi dây thực hiện thành công niềm khao khát của mình ở trung tâm
thƣơng mại thế giới năm 1974.
Sự kiện đi dây của Philippe Petit đã đi vào điện ảnh. Bởi đó không đơn thuần là một
trò mạo hiểm mà còn là hành động kì vĩ của con ngƣời. Cảm hứng ấy cũng đã miên man
chảy trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann.
1.3.2. Xây dựng hình tượng người đi dây như một mắt xích kết nối các câu chuyện
Trên cái nền sự kiện lịch sử, Colum McCann khắc họa nhân vật đi dây cho tác phẩm
của mình. Ở câu chuyện thứ nhất, từ điểm nhìn của ngƣời kể chuyện ngôi ba, một ấn
tƣợng mạnh bạt vào tri giác ngƣời đọc khi ngƣời kể chuyện giới thiệu về nhân vật một
cách khá mơ hồ: ―Anh ta đứng ở rìa tòa nhà, thân hình tối sẫm tƣơng phản trên nền xám
của buổi sáng. Một thợ lau chùi cửa sổ chăng. Hay công nhân xây dựng. Hay nghệ sĩ
nhào lộn?‖ [27, tr.5].
Cảm thức mơ hồ ấy thả ngƣời đọc vào những liên tƣởng khác nhau; để hồi hộp dõi
theo câu chuyện, cũng là dõi theo từng động tác của anh ta, hòa vào điểm nhìn của trăm
ngàn dân chúng Manhattan trong buổi sáng mùa hè hôm ấy. Mặc công việc, mặc thời
gian. Chỉ còn lại cái ngƣớc nhìn sững lặng! Sự hoài nghi, phán đoán về anh ta chỉ đƣợc
ngƣời kể chuyện tƣờng minh hóa ở phần cuối câu chuyện thứ nhất, khi ―ngƣời đàn ông
đã đứng thẳng lên, tay cầm một thanh dài và mỏng, đƣa đẩy nhẹ, lƣợng sức nặng của nó,
thử nâng nó giữa không trung…‖ [27, tr.13]; và ―Không khí đột nhiên ngập tràn thông
cảm. Ngƣời đàn ông phía trên là một thông điệp mà họ chừng nhƣ đã biết, mặc dù trƣớc
đây chƣa từng nghe qua‖ [27, tr.13].
Nếu nhƣ ở phần đầu, ngƣời kể chuyện đứng từ điểm nhìn bên ngoài để kể về ngƣời đi
dây thì ở phần ―Hãy để thế giới trƣợt mãi đi‖ điểm nhìn của ngƣời kể chuyện đã bắt đầu
hành trình dịch chuyển vào trong nhân vật. Bên cạnh những câu kể mang tính chất khách
quan về công việc luyện tập của ―gã‖ nhƣ ―Gã đi tới giữa sợi dây, chỗ thách thức nhất.
Gã tập nhảy lò cò, chuyển từ chân nọ sang chân kia. Gã cầm một cái sào nặng giúp giữ
32
thăng bằng…‖ [27, tr.271], ―Khoảnh khắc yêu thích của gã là chạy dọc sợi dây mà
không cần đến sào thăng bằng…‖ [27, tr.271]; kể về công việc chuẩn bị cho buổi đi dây
giữa hai tòa tháp đôi nhƣ ―Gã bàn bạc kế hoạch với những ngƣời bạn. Họ sẽ phải lẻn vào
tòa tháp kia, đặt những trụ đỡ vào đúng chỗ…‖ [27, tr.280] là những câu văn xuất phát từ
chính điểm nhìn của nhân vật. Ở những câu văn ấy, ngƣời kể chuyện men theo tâm
trạng, suy nghĩ của ngƣời đi dây. Ví nhƣ: ―Chỉ đến khi trở lại căn nhà gỗ, gã mới nghĩ ra
cây sào trong tay gã chính là một cột thu lôi…‖ [27, tr.272], ―Gã cảm thấy vô cùng thoải
mái, dù cho lũ chuột cào lên ván sàn loạt soạt‖ [27, tr.272], ―Gã tự hỏi chúng đã nhìn gì
và cảm nhận ra sao về cảnh trƣớc mắt‖ [27, tr.272], ―Gã băn khoăn không biết liệu chúng
có đến và cọ mình lên những cọc gỗ khổng lồ mà gã đã đóng xuống đất làm trụ…‖ [27,
tr.273]. Một đặc điểm dễ nhận thấy là nhà văn sử dụng khá nhiều từ ngữ mang tính chất
độc thoại khi kể về nhân vật. Dấu hiệu ấy cho thấy rõ nhất sự dịch chuyển điểm nhìn từ
ngƣời kể chuyện ngôi ba vào nhân vật này. Vậy là với mảnh ghép thứ hai, với ngƣời kể
chuyện thứ hai, câu chuyện về ngƣời đi dây hoàn thiện thêm một bƣớc với hành trình
luyện tập, công tác chuẩn bị cho buổi biểu diễn, và đặc biệt hơn, ngƣời kể chuyện đã dần
khám phá phần nội tâm nhân vật.
Bản thể ngƣời đi dây tiếp tục đƣợc phơi bày trong mảnh ghép thứ ba: ―Trên nhịp
đƣờng rầy tiến bộ‖. Ngƣời kể chuyện phác họa thêm một đặc điểm của anh ta: nhanh
nhẹn, trí nhớ tốt và đƣợc nhiều ngƣời ngƣỡng mộ, nhất là phụ nữ; đồng thời kể tiếp về
buổi biểu diễn. Tuy nhiên, ngƣời kể chuyện dƣờng nhƣ tập trung nhiều vào suy nghĩ và
tâm trạng của nhân vật. Vẫn là lối kể nhằm lột tả anh ta nghĩ gì. Có thể nói, nhờ những
câu văn đặc tả suy nghĩ và tâm trạng này, ý nghĩa biểu tƣợng ngƣời đi dây sáng rõ hơn.
Thì ra, có những điều kì diệu đƣợc làm nên từ khoảnh khắc ―đánh mất mình‖, phút giây
không cảm thấy mình là sự đốn ngộ và tận cùng trải nghiệm.
Một cách rất ngẫu nhiên, ngƣời đi dây trở thành nhân vật kết nối tất cả các nhân vật,
các câu chuyện trong tác phẩm. Những bà mẹ mất con trong chiến tranh bàn tán về anh,
vợ chồng Lara gây tai nạn đúng vào hôm anh biểu diễn, những cô gái điếm không quan
tâm lắm đến việc của anh chàng này, vị thẩm phán nóng lòng chờ đƣợc thụ lí vụ án của
anh, ―nó‖ mải mê tìm kiếm ―chữ kí‖ khi ngƣời ta đang bận rộn với buổi biểu diễn trên
kia…Quả thật, dù muốn hay không, mọi cuộc đời vẫn cứ quấn bện bên nhau.
33
1.3.3. Đưa ra những đánh giá đa chiều
Tính đa thanh, phức điệu là một đặc điểm tiêu biểu của văn học hiện đại và hậu hiện
đại. Theo Bakhtin, một tác phẩm có tính đa thanh, phức điệu là một tác phẩm ―tồn tại
không hòa đồng nhiều tiếng nói và ý thức độc lập, bình quyền, đầy đủ giá trị, nơi tiếng
nói của nhân vật bình đẳng với tiếng nói tác giả, tác giả không chỉ nói về nhân vật mà
còn nói với nhân vật, quan hệ đối thoại với nhân vật‖ [5, tr.12]. Ông ví văn bản tiểu
thuyết giống nhƣ bản tổng phổ một tác phẩm giao hƣởng, ―ở đấy có rất nhiều bè, nhiều
bộ với những cách đi bè, phối khí phức tạp‖ [5, tr.21].
Ở tác phẩm này, chúng ta thấy tự sự đa chủ thể không chỉ giúp khắc họa thành công
nhân vật mà còn giúp nhà văn đƣa ra những nhận định khác nhau, thậm chí trái chiều từ
những chủ thể và điểm nhìn khác biệt. Tính chất đa thanh, phức điệu của tác phẩm một
phần làm nên từ đó.
Đám đông Manhattan trong khoảnh khắc hồi hộp, hứng khởi đã phát lộ nhiều quan
điểm trƣớc hiện tƣợng anh chàng chăng mình giữa không trung trên chiếc dây nối liền
hai tòa tháp. Nhiều ngƣời cùng chung một niềm cảm thán: ―Trời đất ơi, chuyện gì thế
này‖ hay ―Lạy Chúa tôi‖ [27, tr.8]. Ai đó thiếu kiên nhẫn tỏ ra khó chịu, ―cố gào lên
giọng để nó vang xa: Nhảy mẹ nó đi, thằng kia!‖ [27, tr.11]. ―Những ngƣời muốn anh ta
ở nguyên đó, dính lấy sợi dây, ở đó thôi chứ đừng xa hơn – cảm thấy kinh tởm những lời
gào thét ấy: họ muốn ngƣời đàn ông an toàn quay trở vào trong vòng tay của cảnh sát
chứ không phải bầu trời‖ [27, tr.12]. Và hiệu ứng trái chiều quả thật vô cùng rõ nét:
―Nhảy đi, mẹ kiếp!
Đừng nhảy!‖ [27, tr.12]
Với điểm nhìn của nhân vật Tillie – một cô gái điếm chấp nhận nhận tội thay con để
cháu mình có mẹ thì hình tƣợng ngƣời đi dây chẳng có ý nghĩa gì trong hoàn cảnh hiện
tại của bà. Bởi đơn giản ―những đứa trẻ có ý nghĩa hơn nhiều so với chiếc vòng đeo
khóa, hơn cả cú nhào lộn trên không trung‖ [27, tr.116].
Với điểm nhìn của Claire – một bà mẹ mất con trong chiến tranh ở Việt Nam, đang rất
mong muốn đƣợc kể về con mình trong buổi họp mặt bè bạn, không muốn mọi ngƣời vì
chú ý vào ngƣời đi dây mà lãng quên con mình - thì ngƣời đi dây chẳng qua là sự dại dột
đánh cƣợc với mạng sống của mình: ―Cuối cùng cũng đến thế. Thật trắng trợn với cơ thể
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann
Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann

More Related Content

What's hot

Hiện tượng song trùng trong "Trăm Năm Cô Đơn của G.Márquez
Hiện tượng song trùng trong "Trăm Năm Cô Đơn của G.MárquezHiện tượng song trùng trong "Trăm Năm Cô Đơn của G.Márquez
Hiện tượng song trùng trong "Trăm Năm Cô Đơn của G.Márquezhttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Học tốt ngữ văn 10 nâng caotruonghocso.com
Học tốt ngữ văn 10 nâng caotruonghocso.comHọc tốt ngữ văn 10 nâng caotruonghocso.com
Học tốt ngữ văn 10 nâng caotruonghocso.comThế Giới Tinh Hoa
 
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAYĐề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Dap an-de-thi-mon-ngu-van-vao-lop-10-tai-ha-noi
Dap an-de-thi-mon-ngu-van-vao-lop-10-tai-ha-noiDap an-de-thi-mon-ngu-van-vao-lop-10-tai-ha-noi
Dap an-de-thi-mon-ngu-van-vao-lop-10-tai-ha-noigiaoduc0123
 
Dap an-de-thi-mon-van-ha-noi
Dap an-de-thi-mon-van-ha-noiDap an-de-thi-mon-van-ha-noi
Dap an-de-thi-mon-van-ha-noionthitot .com
 
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...https://www.facebook.com/garmentspace
 

What's hot (16)

Hiện tượng song trùng trong "Trăm Năm Cô Đơn của G.Márquez
Hiện tượng song trùng trong "Trăm Năm Cô Đơn của G.MárquezHiện tượng song trùng trong "Trăm Năm Cô Đơn của G.Márquez
Hiện tượng song trùng trong "Trăm Năm Cô Đơn của G.Márquez
 
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đQuan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
Quan niệm về con người trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, 9đ
 
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, HAYLuận án: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI, HAY
 
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAYLuận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
 
Luận án: Cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, HAY
Luận án: Cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, HAYLuận án: Cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, HAY
Luận án: Cặp thoại hỏi - trả lời trong kịch Lưu Quang Vũ, HAY
 
Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết kẻ xa lạ của Albert Camus
Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết kẻ xa lạ của Albert CamusCảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết kẻ xa lạ của Albert Camus
Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết kẻ xa lạ của Albert Camus
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt NamLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
 
Học tốt ngữ văn 10 nâng caotruonghocso.com
Học tốt ngữ văn 10 nâng caotruonghocso.comHọc tốt ngữ văn 10 nâng caotruonghocso.com
Học tốt ngữ văn 10 nâng caotruonghocso.com
 
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đLuận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
 
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOTLuận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
Luận văn: Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, HOT
 
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAYĐề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
Đề tài: Hệ thống biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương, HAY
 
Dap an-de-thi-mon-ngu-van-vao-lop-10-tai-ha-noi
Dap an-de-thi-mon-ngu-van-vao-lop-10-tai-ha-noiDap an-de-thi-mon-ngu-van-vao-lop-10-tai-ha-noi
Dap an-de-thi-mon-ngu-van-vao-lop-10-tai-ha-noi
 
Dap an-de-thi-mon-van-ha-noi
Dap an-de-thi-mon-van-ha-noiDap an-de-thi-mon-van-ha-noi
Dap an-de-thi-mon-van-ha-noi
 
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOTLuận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
 
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
 

Similar to Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann

Luận văn: Tính đối thoại trong tiểu thuyết “cám dỗ cuối cùng của chúa” và “tự...
Luận văn: Tính đối thoại trong tiểu thuyết “cám dỗ cuối cùng của chúa” và “tự...Luận văn: Tính đối thoại trong tiểu thuyết “cám dỗ cuối cùng của chúa” và “tự...
Luận văn: Tính đối thoại trong tiểu thuyết “cám dỗ cuối cùng của chúa” và “tự...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnhSự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnhDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnhSự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnhDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931
Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931
Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931Garment Space Blog0
 
Cài biên như là cách thức tái hiện Huyền Thoại người nữ trường hợp 3 phim điệ...
Cài biên như là cách thức tái hiện Huyền Thoại người nữ trường hợp 3 phim điệ...Cài biên như là cách thức tái hiện Huyền Thoại người nữ trường hợp 3 phim điệ...
Cài biên như là cách thức tái hiện Huyền Thoại người nữ trường hợp 3 phim điệ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêLuận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann (20)

Luận văn: Phương Đông lướt ngoài cửa sổ dưới góc nhìn thể loại, 9đ
Luận văn: Phương Đông lướt ngoài cửa sổ dưới góc nhìn thể loại, 9đLuận văn: Phương Đông lướt ngoài cửa sổ dưới góc nhìn thể loại, 9đ
Luận văn: Phương Đông lướt ngoài cửa sổ dưới góc nhìn thể loại, 9đ
 
Luận văn: Nghiên cứu Phương Đông lướt ngoài cửa sổ của Paul Theroux
Luận văn: Nghiên cứu Phương Đông lướt ngoài cửa sổ của Paul TherouxLuận văn: Nghiên cứu Phương Đông lướt ngoài cửa sổ của Paul Theroux
Luận văn: Nghiên cứu Phương Đông lướt ngoài cửa sổ của Paul Theroux
 
Luận văn: Tính đối thoại trong tiểu thuyết Cám dỗ cuối cùng của chúa
Luận văn: Tính đối thoại trong tiểu thuyết Cám dỗ cuối cùng của chúaLuận văn: Tính đối thoại trong tiểu thuyết Cám dỗ cuối cùng của chúa
Luận văn: Tính đối thoại trong tiểu thuyết Cám dỗ cuối cùng của chúa
 
Luận văn: Tính đối thoại trong tiểu thuyết “cám dỗ cuối cùng của chúa” và “tự...
Luận văn: Tính đối thoại trong tiểu thuyết “cám dỗ cuối cùng của chúa” và “tự...Luận văn: Tính đối thoại trong tiểu thuyết “cám dỗ cuối cùng của chúa” và “tự...
Luận văn: Tính đối thoại trong tiểu thuyết “cám dỗ cuối cùng của chúa” và “tự...
 
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
 
Luận án: Truyện nôm bác học từ góc nhìn cổ mẫu, HAY
Luận án: Truyện nôm bác học từ góc nhìn cổ mẫu, HAYLuận án: Truyện nôm bác học từ góc nhìn cổ mẫu, HAY
Luận án: Truyện nôm bác học từ góc nhìn cổ mẫu, HAY
 
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnhSự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
 
Luận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc
Luận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn QuốcLuận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc
Luận án: Nhân vật trong truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam và Hàn Quốc
 
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnhSự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
Sự trình hiện nhân vật nữ trong Cánh Đồng Bất Tận Từ truyện ngắn đến điện ảnh
 
Luận văn: Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Hồ Phương, 9đ
Luận văn: Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Hồ Phương, 9đLuận văn: Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Hồ Phương, 9đ
Luận văn: Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Hồ Phương, 9đ
 
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản ĐàKhóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
 
Tiểu thuyết về đề tài xây dựng CNXH trong văn xuôi miền Bắc, HAY
Tiểu thuyết về đề tài xây dựng CNXH trong văn xuôi miền Bắc, HAYTiểu thuyết về đề tài xây dựng CNXH trong văn xuôi miền Bắc, HAY
Tiểu thuyết về đề tài xây dựng CNXH trong văn xuôi miền Bắc, HAY
 
Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931
Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931
Van hoa kinh_bac_vung_tham_my_trong_tho_hoang_cam_7931
 
Cài biên như là cách thức tái hiện Huyền Thoại người nữ trường hợp 3 phim điệ...
Cài biên như là cách thức tái hiện Huyền Thoại người nữ trường hợp 3 phim điệ...Cài biên như là cách thức tái hiện Huyền Thoại người nữ trường hợp 3 phim điệ...
Cài biên như là cách thức tái hiện Huyền Thoại người nữ trường hợp 3 phim điệ...
 
Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học việt nam thế kỷ XX.doc
Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học việt nam thế kỷ XX.docĐặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học việt nam thế kỷ XX.doc
Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học việt nam thế kỷ XX.doc
 
Luận án: Đặc điểm hồi kí văn học Việt Nam (1975 - 2010), HAY
Luận án: Đặc điểm hồi kí văn học Việt Nam (1975 - 2010), HAYLuận án: Đặc điểm hồi kí văn học Việt Nam (1975 - 2010), HAY
Luận án: Đặc điểm hồi kí văn học Việt Nam (1975 - 2010), HAY
 
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh KhuêLuận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
Luận Văn Thế Giới Nhân Vật Trong Truyện Ngắn Lê Minh Khuê
 
Luận văn: Đặc điểm lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Luận văn: Đặc điểm lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy ThiệpLuận văn: Đặc điểm lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Luận văn: Đặc điểm lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
 
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAYLuận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
Luận văn: Văn xuôi Hồ Anh Thái từ góc nhìn Liên văn hóa, HAY
 
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAYLuận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
Luận văn: Nghệ thuật châm biếm trong tiểu thuyết Một tỷ sáu, HAY
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 

Recently uploaded (20)

Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 

Luận văn: Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann

  • 1. i ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LÊ VĂN HOÀ TỰ SỰ ĐA CHỦ THỂ TRONG TIỂU THUYẾT NGƯỜI ĐI DÂY CỦA COLUM MCCANN Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học TS. THÁI PHAN VÀNG ANH THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2016
  • 2. ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, đƣợc các đồng tác giả cho phép sử dụng và chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Họ tên tác giả Lê Văn Hòa
  • 3. iii Lời Cảm Ơn Sau một thời gian làm việc nghiêm túc, đề tài luận văn “Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann” đã hoàn thành. Tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo Nguyễn Lãm Thắng; cô giáo Nguyễn Thị Tịnh Thy; quý thầy cô giáo khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế; gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên và nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện đề tài. Đặc biệt, xin được tri ân giảng viên, TS. Thái Phan Vàng Anh đã tậm tâm hướng dẫn, góp ý và sửa chữa, tạo điều kiện thuận lợi để tác giả có thể hoàn thành luận văn một cách tốt nhất. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng có thể luận văn sẽ còn nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của quý thầy cô giáo và đồng nghiệp. Trân trọng cảm ơn! Tác giả Lê Văn Hòa
  • 4. 1 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa ...............................................................................................................i Lời cam đoan...............................................................................................................ii Lời cảm ơn ................................................................................................................ iii MỤC LỤC..................................................................................................................1 MỞ ĐẦU ....................................................................................................................3 1. Lí do chọn đề tài....................................................................................................3 2. Lịch sử vấn đề.......................................................................................................5 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.........................................................................8 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................................9 5. Đóng góp của luận văn .........................................................................................9 6. Kết cấu của luận văn.............................................................................................9 NỘI DUNG ............................................................................................................. 10 CHƢƠNG 1: TỰ SỰ ĐA CHỦ THỂ VÀ CÁC THỦ PHÁP TRẦN THUẬT.. 10 1.1. Tự sự đa chủ thể - đa ngôi kể, đa điểm nhìn trần thuật................................... 10 1.1.1. Trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn toàn tri............................................ 10 1.1.2. Trần thuật ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong..................................... 11 1.1.3. Trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài........................................ 14 1.1.4. Sự di chuyển điểm nhìn ............................................................................. 15 1.2. Tự sự đa chủ thể - kết cấu phân mảnh và dán ghép........................................ 17 1.2.1. Phân mảnh và dán ghép cốt truyện............................................................ 19 1.2.2. Phân mảnh và dán ghép nhân vật .............................................................. 20 1.2.3. Phân mảnh và dán ghép không – thời gian................................................ 22 1.3. Tự sự đa chủ thể - kiến tạo biểu tƣợng giàu ý nghĩa nhân sinh...................... 28 1.3.1. Tái hiện một sự kiện có thật trong lịch sử ................................................. 30 1.3.2. Xây dựng hình tƣợng ngƣời đi dây nhƣ một mắt xích kết nối các câu chuyện ...................................................................................................................... 31 1.3.3. Đƣa ra những đánh giá đa chiều ................................................................ 33 1.3.4. Gợi liên tƣởng từ cuộc đời nhân vật .......................................................... 34
  • 5. 2 1.4. Tự sự đa chủ thể - những tƣơng quan đối lập................................................. 36 1.4.1. Tự sự đa chủ thể và sự đối lập trong quan điểm cá nhân .......................... 36 1.4.2. Tự sự đa chủ thể và những đối lập trong hiện thực cuộc sống.................. 37 CHƢƠNG 2: TỰ SỰ ĐA CHỦ THỂ VÀ BỨC TRANH ĐA CHIỀU CỦA ĐỜI SỐNG....................................................................................................................... 39 2.1.Tự sự đa chủ thể và cái nhìn đa chiều về đời sống .......................................... 39 2.1.1. Khái niệm điểm nhìn nghệ thuật................................................................ 39 2.1.2. Đa chủ thể - đa góc nhìn và đa chủ đề....................................................... 39 2.2. Tự sự đa chủ thể và những câu chuyện của cá nhân....................................... 41 2.2.1. Gia đình – tình yêu thƣơng và nỗi đau li tán ............................................. 41 2.2.2. Tình yêu – sự đốt cháy hết mình ............................................................... 46 2.3. Tự sự đa chủ thể và những câu chuyện xã hội................................................ 48 2.3.1. Chiến tranh – đƣờng đến tự do hay cỗ máy xay thịt và sự trống rỗng đến vô hồn............................................................................................................................ 48 2.3.2. Xung đột sắc tộc – ngọn lửa còn âm ỉ cháy............................................... 52 2.3.3. Tôn giáo – Chúa không phảng phất, hƣ vô................................................ 56 2.3.4. Tệ nạn xã hội – những nấm mồ chôn tình yêu và hạnh phúc.................... 59 CHƢƠNG 3: TỰ SỰ ĐA CHỦ THỂ VÀ NHỮNG CON NGƢỜI ĐA DIỆN.. 64 3.1. Tự sự đa chủ thể và sự đa tuyến nhân vật....................................................... 64 3.1.1. Tự sự đa chủ thể và nhiều vai trần thuật.................................................... 64 3.1.2. Tự sự đa chủ thể và những số phận nhân vật............................................. 66 3.2. Tự sự đa chủ thể và hình tƣợng những con ngƣời đi dây............................... 67 3.2.1. Khát vọng và sự dấn thân trở thành lí tƣởng và nguồn sống dồi dào........ 67 3.2.2. Tình thƣơng vô bờ bến trong những trái tim còn rỉ máu vì nỗi đau hậu chiến ......................................................................................................................... 78 3.2.3. Nỗi đau trụy lạc – sự ám ảnh và cái kết nhân văn cho những kiếp ngƣời. 86 KẾT LUẬN............................................................................................................. 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 97 PHỤ LỤC................................................................................................................ P1
  • 6. 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Người đi dây – đứa con tinh thần đầy sức sống của tiểu thuyết gia Colum McCann Buổi sáng tháng 8 năm 1974, một ngƣời đàn ông thực hiện trò đi dây giữa hai tòa tháp của trung tâm thƣơng mại thế giới ở độ cao tầng 110 khiến dân chúng Manhattan ―ngƣớc nhìn và sững lặng‖. Con ngƣời ấy là ai? Anh ta đang ném sinh mạng mình vào may rủi, ngạo mạn đứng cao hơn Chúa trên cây thập giá nhà thờ, hay đang sáng tạo ra những điều kì diệu nhất? Cảm hứng về anh khơi nguồn và miên man chảy trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann. Dƣới nhãn quan và bút lực sung mãn của một nhà văn, ngƣời đi dây trở thành biểu tƣợng ẩn chứa nhiều thông điệp với tinh thần nhân văn cao cả. Tác phẩm đạt giải thƣởng Quốc gia giành cho tiểu thuyết năm 2009, giải thƣởng Impac Dublin năm 2011 và là một trong những đầu sách bán chạy theo nhận định của New York Times. Tiểu thuyết đƣợc xây dựng dựa trên một câu chuyện có thật trong lịch sử - sự kiện nghệ sĩ ngƣời Pháp - Philippe Petit đi dây giữa hai tòa tháp đôi năm 1974. Thông qua đó tạo sự liên tƣởng rất khéo tới sự kiện khủng bố 11/9 ở Mĩ. Trên cái nền cơ bản là câu chuyện về ngƣời đi dây cùng sự tác động của nó tới mọi ngƣời, Colum McCann đã tái hiện những mảng đời sống khác nhau nhƣng có liên hệ một cách tự nhiên và độc đáo. Khép lại những trang văn cuối cùng, độc giả vỡ ra rằng ai trong chúng ta cũng đi dây, cả xã hội này cũng đang đi dây nhƣ thế. Không quá lời khi cho rằng ý nghĩa của cuốn tiểu thuyết này đã vƣợt qua giá trị của một thời. Từ tiểu thuyết này, chúng ta nhận diện đƣợc phần nào đó đặc điểm văn hóa, văn học Mĩ và Ireland. Colum McCann thực sự đã đƣa ngƣời đọc đến gần hơn với những vùng miền nơi ông sinh sống thuở thiếu thời cũng nhƣ nơi ông đang theo đuổi sự nghiệp hiện tại của mình. Trƣớc và sau Người đi dây, tiểu thuyết gia ngƣời Ireland đang sống tại Mĩ cũng đã thành công với nhiều tác phẩm khác. Tiêu biểu nhƣ: Songdogs (1995), This Side of Brightness (1998), Everything in this Country Must (2000), Dancer (2003), Zoli (2006), TransAtlantic (2013), Thirteen Ways of Looking (2015)…
  • 7. 4 1.2. Tự sự đa chủ thể - dấu ấn nghệ thuật trần thuật đặc sắc của tiểu thuyết Người đi dây Tái tạo một xã hội đa chiều với những con ngƣời đa diện, tác giả của sáu tiểu thuyết và hai tập truyện, xuất bản với hơn ba mƣơi lăm ngôn ngữ, xuất hiện trên các tờ New Yorker, Esquire, Paris Review, Granta, The Atlantic Monthly, GQ, Tin House, Bomb – Colum McCann thực sự thành công khi sử dụng tự sự đa chủ thể trong tác phẩm Người đi dây. Có thể nói, tự sự đa chủ thể là phƣơng thức đƣợc sử dụng phổ biến và mang lại hiệu quả nghệ thuật cao khi sáng tạo văn học, đặc biệt là trong văn học hiện đại và hậu hiện đại. Ở những tác phẩm sử dụng phƣơng thức tự sự đa chủ thể, tác giả để cho nhiều ngƣời cùng tham gia kể chuyện với những điểm nhìn rất khác nhau. Sự dịch chuyển điểm nhìn hiện diện nhƣ một đặc điểm tiêu biểu của tự sự đa chủ thể. Với lối kể chuyện ấy, nhà văn phát huy cao độ tính khách quan, trung thực trong nhìn nhận cuộc đời và con ngƣời; mặt khác góp phần tạo ra tiếng nói đa thanh, phức điệu cho tác phẩm. Tự sự đa chủ thể tất yếu sẽ dẫn độc giả đi theo những ngả đƣờng khác nhau trƣớc khi tới đích; nhờ đó câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn. Với riêng Colum McCann, điều này hoàn toàn phù hợp với những gì ông tâm niệm: "Tôi tin vào sự bình đẳng của những câu chuyện. Tôi yêu sự thật rằng những câu chuyện của chúng ta có thể vƣợt qua tất cả các loại biên giới và ranh giới. Tôi cảm thấy khiêm nhƣờng khi biết rằng mình chỉ là một phần nhỏ bé của nền tri thức văn chƣơng‖ [67]. Tìm hiểu tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây do đó không chỉ cho thấy tài năng trần thuật của Colum McCann mà còn là cách tiếp cận sâu hơn về nghệ thuật trần thuật nói chung trong các truyện kể hƣ cấu. * * * Hứng thú với một phƣơng thức tự sự coi trọng tính đồng đẳng và đa diện, rung động với tinh thần nhân văn của một tác phẩm văn chƣơng, ngƣỡng mộ tài năng nghệ thuật của Colum McCann chính là lí do để ngƣời viết lựa chọn đề tài ―Tự sự đa chủ thể trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann‖.
  • 8. 5 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Những công trình nghiên cứu về tự sự học và nghệ thuật trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều người trần thuật Tự sự học (Narratologie / Narratology) là tên gọi do Todorov đề xuất năm 1969 trong cuốn sách Ngữ pháp “Câu chuyện mười ngày”. Với tƣ cách là một ngành khoa học, tự sự học đƣợc định hình ở Pháp những năm 60, 70 của thế kỉ XX sau đó lan rộng ra phạm vi thế giới. Lịch sử tự sự học đã trải qua hai giai đoạn phát triển: Tự sự học kinh điển và tự sự học hậu kinh điển. Hiện nay, theo các nhà nghiên cứu, tự sự học đang ―cố gắng xác lập một nền tự sự học đƣơng đại‖ [30]. Tự sự học kinh điển theo Prince có thể chia làm ba nhóm. Nhóm thứ nhất chịu ảnh hƣởng trực tiếp của V. Propp, tập trung nghiên cứu cấu trúc của truyện, đối tƣợng của trần thuật, chú ý xây dựng ngữ pháp của tự sự, chức năng của sự kiện, kết cấu, lôgích phát triển của chúng. V. Shklovski phân biệt ―tích truyện‖ với ―truyện kể‖, B.Tomashevski nghiên cứu đơn vị môtip và phân loại chúng, trong khi đó Greimas nghiên cứu logích ngữ nghĩa của truyện còn Bremond chủ yếu nghiên cứu cấu trúc bề mặt của truyện, C. Levi-Strauss quan tâm khám phá cấu trúc bề sâu, tĩnh tại của truyện để tìm nghĩa, R. Barthes lại nghiên cứu cấu trúc, yếu tố của truyện, phát triển ý tƣởng kiểu Tomashevski, Tz. Todorov tiếp tục đi theo hƣớng của ngƣời đi trƣớc…Nhóm thứ hai tiêu biểu là G. Genette, tập trung nghiên cứu sự triển khai của diễn ngôn trần thuật. Rimmon – Kenan nêu ra ba phƣơng diện độc lập với diễn ngôn trần thuật: Đó là phong cách thể loại; chủng loại ngôn ngữ mà nhà văn sử dụng; hệ thống kí hiệu, phƣơng tiện truyền đạt trong tác phẩm Hư cấu tự sự. Genette nêu ra ba phạm trù của diễn ngôn trần thuật: thời thái (tence); ngữ thức (mood); ngữ thái (voice). F. Stanzel, ngƣời Áo đề ra khái niệm ―tình huống kể‖ (narrative situation), thực ra là một cách phân loại điểm nhìn. S. Lanser và James Phelan nghiên cứu giọng kể gắn với việc sử dụng các biện pháp tu từ. Nhóm thứ ba tiêu biểu là Prince, S. Chatman và Mieke Bal. Họ cho rằng cấu trúc diễn ngôn và cấu trúc chuyện đều quan trọng nhƣ nhau nên hƣớng đến kết hợp cả hai mặt. Tự sự học hậu kinh điển bắt đầu từ những năm 80 của thế kỉ XX với những công trình nghiên cứu mang tính chất liên ngành. Việc nghiên cứ tự sự phát triển theo ba
  • 9. 6 hƣớng chính: nghiên cứu tự sự học trong mối quan hệ với các loại hình nghệ thuật khác, nghiên cứu tự sự học với các lĩnh vực khoa học khác và nghiên cứu cấu trúc văn bản theo hƣớng liên văn bản. Ở Việt Nam, những công trình dịch thuật, giới thiệu, nghiên cứu về tự sự học nói chung và vấn đề đa điểm nhìn, đa chủ thể nói riêng mới bắt đầu phát triển vào khoảng những năm đầu thế kỉ XXI. Tiêu biểu nhƣ các công trình của Trần Đình Sử, Nguyễn Thái Hòa, Phƣơng Lựu, Lại Nguyên Ân, Trần Huyền Sâm, Đặng Anh Đào, Thái Phan Vàng Anh, Phan Thu Hiền…Có thể nói, dù là ngành khoa học non trẻ nhƣng tự sự học thực sự thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngƣời. Việc ứng dụng lí thuyết tự sự học vào nghiên cứu văn học cũng là hƣớng đi của nhiều nhà nghiên cứu. Có lẽ vì lẽ đó, GS.TS Trần Đình Sử cho rằng tự sự học là một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng. 2.2. Những công trình, bài viết về tiểu thuyết “Người đi dây” Người đi dây là tiểu thuyết xuất sắc của Colum McCann. Bởi vậy không có gì ngạc nhiên khi có nhiều bài viết về tác phẩm này. Trang web http://giaitri.vnexpress.net thứ năm ngày16/6/2011 của báo Vnexpress dẫn lời nhận xét của ban giám khảo giải thƣởng IMPAC Dublin về Người đi dây nhƣ sau: ―Đây là tác phẩm văn học có giá trị, một tiểu thuyết xuất sắc của thế kỷ 21. Cuốn sách đề cập đến câu chuyện về một thời đại nhƣng không bị phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của nó‖. Trong ―The soul of a city‖ trên trang web http://www.nytimes.com ngày 29/7/2009, Jonathan Mahler viết ―Like a great pitcher in his prime, McCann is constantly changing speeds, adopting different voices, tones and narrative styles as he shifts between story lines‖ (Tạm dịch là: Giống nhƣ một bình lớn trong chính mình, McCann liên tục thay đổi tốc độ, áp dụng giọng nói khác nhau, tông màu và phong cách kể chuyện giữa các tình tiết). Và ―In a loose sense, what connects everyone in this novel is the high-wire walker; the day of his stunt is a pivotal one in all of their lives‖ (Trong một cảm giác lỏng lẻo, những gì kết nối tất cả mọi ngƣời trong tiểu thuyết này là những ngƣời diễn viên đu dây; mỗi ngày của diễn viên đóng thế là ngày quan trọng nhất trong đời họ). Cùng chung cảm hứng ngợi ca, Greg Zimmerman trong bài ―Let the great world spin: Elegant, profound, beautiful‖ trên
  • 10. 7 trang http://www.thenewdorkreviewofbooks.com ngày 25/5/2010 nhận định: ―Part of the wonder of the novel is the verisimilitude with which McCann renders these characters. Endowed by their creator with beautiful, elegant, but clearly delineated voices, these New Yorkers practically spring off the page. They are so real, themselves so human. And through them, McCann offers a simple road map for beinghuman: Connect. Love. Hope‖ (Tạm dịch là ―Một phần tuyệt vời của tiểu thuyết này đó là sự chân thực mà McCann đã lột tả ở những nhân vật này. Tạo hóa đã ban tặng cho họ giọng điệu miêu tả tuyệt vời, sâu sắc mà còn rõ ràng, những ngƣời New York này thật sự đã làm cho tác phẩm nổi bật lên. Các nhân vật rất chân thực, chính họ rất đậm tính nhân văn. Và thông qua họ, McCann đã đƣa ra một bản đồ giản đơn cho con ngƣời chúng ta, đó là: Kết nối, tình yêu và hy vọng‖). Ở Việt Nam, tiểu thuyết Người đi dây mới đƣợc dịch vào quý III năm 2014. Các công trình nghiên cứu về tác giả và tác phẩm này ở nƣớc ta do đó chƣa nhiều. Trong phạm vi tìm hiểu của mình, ngƣời viết nhận thấy đến thời điểm thực hiện đề tài này, ngoài khóa luận ―Kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum Mc Cann‖ của Nguyễn Thị Ánh Linh, Khoa Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm, Đại học Huế mang tính chất chuyên sâu về một khía cạnh của nghệ thuật trần thuật, còn lại tất cả các bài viết liên quan đến tác phẩm này chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu sơ lƣợc hoặc bài bình luận nhỏ. Nhà xuất bản trẻ trên trang web http://www.nxbtre.com.vn, thứ năm, ngày 29/10/2015 có đoạn giới thiệu sách nhƣ sau: ―Ngƣời đi dây là tác phẩm viết theo thủ pháp tiểu thuyết mới của Column McCann. Tiểu thuyết gồm nhiều truyện dạng trọn vẹn và độc lập, nhƣng các nhân vật và tình tiết đều có mối liên hệ với nhau‖. Và ―Ngƣời đi dây đã nắm bắt đƣợc cái hồn của nƣớc Mỹ trong buổi giao thời, với triển vọng phi thƣờng, và, ẩn sau, là một sự vô tội đến xé ruột‖. Việt Quỳnh trên trang web http://thethaovanhoa.vn chủ nhật, ngày 14/12/2014 nhận định về nhân vật ngƣời đi dây nhƣ sau: ―Anh ta đang thực hiện một chuyện mà ngƣời khác cho là điên rồ. Mà thực sự, nếu quan tâm đến ngƣời khác nghĩ gì, anh đã không thể làm đƣợc điều từ bên trong mong muốn. Đó là tận cùng cho trải nghiệm làm ngƣời‖. Vƣơng Mộc trong bài ―Mọi cuộc đời đều quấn bện nhau‖ trên trang web
  • 11. 8 http://tuoitre.vn, ngày 4/12/2014 nhận định: ―Thế giới xoay vần. Những cuộc đời kết nối với ta theo những cách không ngờ, đều đang ―đi dây‖ giữa thực tại theo một cách nào đó, sợi dây mà theo tác giả là ―chăng gần sát đất‖ chứ không phải giữa trời, mong manh giữa thăm thẳm buồn vui, tốt và xấu, hồi ức và giấc mơ muôn màu cho tƣơng lai‖ và ―Lối kể bình thản của Colum McCann lật mở những biểu hiện đáng kinh ngạc của lòng thiện và cái ác nơi con ngƣời‖… Khóa luận của Nguyễn Thị Ánh Linh chỉ ra kết cấu điểm nhìn và luân phiên ngƣời kể chuyện, cách tổ chức cốt truyện với kết cấu nhân vật đa tuyến, kết cấu không gian, thời gian và đa dạng hóa ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết này. Trong quá trình triển khai, tác giả đã phần nào làm rõ tính chất và tác dụng của tự sự đa chủ thể trong kiến tạo kết cấu. Ngƣời viết luận văn xin tiếp thu một số kết quả nghiên cứu từ khóa luận, đồng thời phát triển và có một vài điểm trao đổi thêm trong quá trình thực hiện đề tài này. Nhƣ vậy, các bài viết chủ yếu tập trung làm rõ ý nghĩa nội dung tƣ tƣởng của tác phẩm. Trừ khóa luận của Nguyễn Thị Ánh Linh xem xét một biểu hiện của nghệ thuật, còn lại chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Tự sự đa chủ thể của Người đi dây do đó vẫn là mảnh đất màu mỡ cho các nhà nghiên cứu và phê bình văn học khai phá. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu nghệ thuật tự sự đa chủ thể trong tác phẩm Người đi dây của Colum McCann. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật tự sự đa chủ thể của Colum McCann trong tiểu thuyết Người đi dây trên các phƣơng diện: sự kết hợp của tự sự đa chủ thể và các thủ pháp trần thuật, tự sự đa chủ thể nhƣ một phƣơng thức mở rộng bức tranh đa chiều của đời sống, vai trò của tự sự đa chủ thể trong việc khám phá hình tƣợng những con ngƣời đa diện dựa vào việc khảo sát bản dịch của dịch giả Nguyễn Thị Thu Thủy, có đối chiếu một vài chỗ với bản tiếng Anh.
  • 12. 9 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để triển khai đề tài, luận văn chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp sau: Thứ nhất là phƣơng pháp cấu trúc - hệ thống: nhằm xây dựng một cấu trúc hợp lí để thấy đƣợc mối quan hệ bề mặt và bề sâu của văn bản thông qua nghệ thuật tự sự đa chủ thể, giữa tự sự đa chủ thể với các yếu tố nội dung và nghệ thuật khác. Thứ hai là phƣơng pháp xã hội học: nhằm lí giải các hiện tƣợng lịch sử, xã hội đƣợc tác phẩm đề cập đến thông qua nghệ thuật tự sự đa chủ thể. Thứ ba là phƣơng pháp loại hình: nhằm hƣớng đến tìm ra điểm chung và điểm riêng của nghệ thuật tự sự đa chủ thể đƣợc sử dụng trong tác phẩm. Trong một chừng mực nhất định, luận văn còn hƣớng đến so sánh đối chiếu Người đi dây với một vài tác phẩm có hình thức tự sự đa chủ thể khác. 5. Đóng góp của luận văn Đi sâu khai thác một phƣơng diện nghệ thuật trần thuật, luận văn chỉ ra những biểu hiện cụ thể của tự sự đa chủ thể cũng nhƣ vai trò, tác dụng của phƣơng thức kể chuyện này trong việc tạo nên giá trị nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết Người đi dây. Sự đan quện giữa nội dung và nghệ thuật ở tác phẩm này có thể nói đạt đến độ hài hòa và điêu luyện. Có đƣợc điều đó dĩ nhiên nhờ vào tài năng của tác giả McCann. Bởi vậy, luận văn cũng đã cố gắng chỉ ra ngòi bút tự sự đa chủ thể rất riêng của tác giả trong tiểu thuyết này. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, lời cảm ơn, lời cam đoan, mục lục, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm ba chƣơng: Chƣơng 1: Tự sự đa chủ thể và các thủ pháp trần thuật Chƣơng 2: Tự sự đa chủ thể và bức tranh đa chiều của đời sống Chƣơng 3: Tự sự đa chủ thể và những con ngƣời đa diện
  • 13. 10 NỘI DUNG CHƢƠNG 1: TỰ SỰ ĐA CHỦ THỂ VÀ CÁC THỦ PHÁP TRẦN THUẬT Cầm một cuốn tiểu thuyết sử dụng phƣơng thức tự sự đa chủ thể trên tay, khi độc giả chƣa có điều kiện đọc kĩ và tìm hiểu nó, hẳn sẽ chỉ thấy một văn bản truyện kể với kết cấu rời rạc do nhiều chủ thể liên tục đảm nhiệm vai trò kể chuyện. Việc khảo sát thủ pháp tự sự do đó trƣớc hết nhằm hƣớng đến việc minh xác giá trị nội dung tác phẩm ấy đã đƣợc thể hiện ra sao qua phƣơng thức kể chuyện này. Tự sự đa chủ thể trong Người đi dây phát huy hiệu quả cao nhờ việc nhà văn sử dụng kết hợp thành công các thủ pháp trần thuật. Sự bổ trợ của chúng tạo nên một lối kể chuyện đầy mê hoặc nhƣng không quá khó để tiếp thu. 1.1. Tự sự đa chủ thể - đa ngôi kể, đa điểm nhìn trần thuật Tiểu thuyết Người đi dây có sự hiện diện của nhiều ngôi kể gắn với đa bội điểm nhìn. Chủ thể tự sự có lúc xuất hiện ở ngôi thứ nhất với tƣ cách ngƣời trong cuộc, có khi lại xuất hiện ở ngôi thứ ba nhƣ một kẻ đứng ngoài. Điểm đặc sắc là ở chỗ ngƣời kể chuyện thay đổi điểm nhìn đầy linh hoạt, giúp cho việc khám phá hiện thực và con ngƣời của nhà văn diễn ra một cách hết sức tự nhiên và có chiều sâu. 1.1.1. Trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn toàn tri Theo lí thuyết tự sự học, ngƣời kể chuyện toàn tri là ngƣời kể chuyện có kiểu nhìn ―từ đằng sau‖, ―có vai trò toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả‖ [39]. ―Đặc điểm phổ biến của sự toàn tri…là tác giả (tác giả - ngƣời kể chuyện) luôn sẵn sàng xen vào giữa độc giả và câu chuyện, thậm chí khi dựng cảnh anh ta sẽ khiến nó giống nhƣ anh ta thấy hơn là nhân vật anh ta thấy‖ [18, tr.45]. Người đi dây chia làm nhiều câu truyện khác nhau. Kiểu trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn toàn tri nổi bật nhất ở phần truyện ―Ngƣớc nhìn và sững lặng‖. Ngƣời kể chuyện – tác giả dựng lên bức phông nền đầy náo nhiệt của Manhattan buổi sáng mùa hè 1974. Đó là bức tranh của chằng chịt phố xá nối tiếp nhau, của những phút giây tĩnh lặng đến nghẹt thở thoáng qua: ―Một sự im lặng tuyệt đối, uy nghiêm và tuyệt đẹp‖ [27, tr.5], của sự hỗn độn, xô bồ nhịp sống nơi thành thị, của đủ mọi hạng ngƣời, đủ mọi nghề nghiệp và lứa tuổi, của không khí sôi sục phản đối chiến tranh và phong trào hippie đang độ dâng cao - tất cả những gì diễn ra bên dƣới
  • 14. 11 ngƣời đi dây. Còn ở phía trên kia giữa hai tòa tháp, một dáng ngƣời đang thực hiện những cú nhảy đùa cợt với tử thần. Ngƣời kể chuyện thâm nhập vào điểm nhìn của đám đông dân chúng để cảm thán trƣớc hành động ấy. Ở độ cao tầng 110, ―thân ảnh của anh ta giống một vệt chì đã bị xóa gần hết‖ [27, tr.12]. Khi chiếc áo của anh rơi xuống, ban đầu ngƣời ta còn nghĩ đó là ―một thân ngƣời đang bơi ra giữa không trung‖ [27, tr.12], sau đó mới nhận ra và thốt lên trong bầu không khí dƣờng nhƣ nghẹt thở: ―Chúa ơi, lạy Chúa, đó là cái áo, đó chỉ là cái áo thôi‖ [27, tr.12]. Lẽ ra với điểm nhìn của đám đông, ngƣời kể chuyện khó có thể quan sát đƣợc hết mọi cử chỉ và hành động của ngƣời đàn ông trên kia. Tuy nhiên, bởi là toàn tri, nên ngƣời kể chuyện còn cho ngƣời đọc thấy đƣợc cả những biến chuyển tinh vi nhất: ―mắt anh ta nhìn chằm chằm về tòa tháp phía xa, vẫn còn đƣợc bọc trong giàn giáo, giống nhƣ con thú bị thƣơng chờ ngƣời đi săn tiến đến‖ [27, tr.13]. Ngƣời kể chuyện cũng thấy rõ anh chàng đi dây kia đang chuyển một thông điệp đến với tất cả mọi ngƣời. Hoặc ở phần truyện ―Hãy để thế giới trƣợt mãi đi‖, ngƣời kể chuyện có lúc thâm nhập vào điểm nhìn bên trong của nhân vật, nhƣng lại cũng thêm vào đó những nhận định mang tính điều hƣớng, lí giải. Ví dụ nhƣ: ―Mọi thứ đều có mục đích, dấu hiệu, ý nghĩa‖ [27, tr.279], ―Lý do cốt lõi cho tất cả chuyện này là cái đẹp. Đi trên dây là một niềm vui sƣớng siêu phàm…‖ [27, tr.283]. Tất nhiên, việc phân loại điểm nhìn cũng chỉ mang tính chất tƣơng đối. Với điểm nhìn toàn tri chẳng hạn, thực tế cho thấy bất cứ tác phẩm nào cũng nằm trong quyền năng kiến tạo của nhà văn. Thậm chí ―chọn kiểu nhìn nào, xuất phát từ điểm nhìn nào để ngƣời kể chuyện kể lại ―chuyện‖ chính là do cách tổ chức ―truyện‖ có dụng ý của nhà văn‖ [39]. Có lẽ vì vậy, dù muốn hay không, tác phẩm nào cũng có một điểm nhìn toàn tri nhƣ thế. 1.1.2. Trần thuật ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong Bên cạnh lối kể chuyện từ ngôi kể thứ ba, Người đi dây còn dành sáu phần truyện kể ở ngôi thứ nhất góp phần khai thác triệt để tâm tƣ, tình cảm của con ngƣời. Với kiểu trần thuật ngôi thứ nhất, ngƣời trần thuật là nhân vật. ―Điểm nhìn bên trong thƣờng thể hiện qua độc thoại nội tâm của nhân vật‖ [39]. Câu chuyện đƣợc kể ở đây là ―câu chuyện về những sự kiện mà bản thân anh/cô ta tự trải
  • 15. 12 nghiệm, một câu chuyện về trải nghiệm cá nhân. Cá nhân hành động nhƣ là một ngƣời kể chuyện (cái ―tôi‖ kể chuyện) cũng là một nhân vật (cái ―tôi‖ trải nghiệm) ở cấp độ hành động‖ [18, tr.43]. Tất cả các câu chuyện đƣợc kể ở ngôi thứ nhất trong tiểu thuyết Người đi dây đều có điểm nhìn bên trong. Các nhân vật tự bộc lộ cảm xúc, kể lại những sự kiện liên quan đến cuộc đời mình, bằng cảm nhận của chính mình. Khái niệm ―bên trong‖ theo GS.TS Trần Đình Sử ―không phải nhƣ cái bên trong của khách thể nào đó, mà chính là cái hoạt động tự cảm thấy, tức là tính chủ quan, tức đời sống tâm lí‖ [31, tr.183]. Câu chuyện ―Thiên đàng đẹp đẽ thật, nhƣng tôi vẫn thích ở đây hơn‖ phần lớn là những mảng kí ức của Ciaran về tuổi ấu thơ. Ở đó có những tháng ngày êm ả bên bờ vịnh Dublin, có tình mẹ con, anh em sâu đậm. Ngƣời kể chuyện xƣng tôi – Ciaran kể lại những sự kiện liên quan đến bản thân mình thuở ấu thơ cho đến lúc em trai anh qua đời trong vụ tai nạn thảm khốc. Qua đó ngƣời đọc thấy đƣợc quan điểm của anh về tôn giáo, về tình yêu, về công việc và tình cảm sâu nặng với gia đình, với quê hƣơng, xứ sở. Chúng ta bắt gặp trong lời kể nhiều câu chữ thể hiện rõ dấu ấn chủ quan của ngƣời kể chuyện, kiểu nhƣ: ―Tôi cũng không nhớ rõ làm sao thằng em nhỏ hơn tôi tận hai tuổi lại chiếm đƣợc giƣờng tầng trên‖ [27, tr.21], ―tôi chợt nghĩ hay là có điều gì đó mình chƣa biết‖ [27, tr.23]. Ciaran không chỉ kể lại hành trình đến Bronx kiếm sống của mình, thế giới của những cô gái bán hoa, cuộc sống của cậu em trai…mà còn xuất hiện trong câu chuyện ấy nhƣ một ngƣời trải nghiệm, anh tham gia vào các sự việc, hành động để tạo nên các sự kiện của câu chuyện ấy. Tƣơng tự nhƣ Ciaran, Lara trong câu chuyện ―Sợ yêu‖ cũng xuất hiện với tƣ cách vừa là ngƣời kể chuyện, vừa là nhân vật chính. Dõi theo sự dẫn dắt của Lara - ngƣời kể chuyện, chúng ta biết đƣợc nguyên nhân của vụ tai nạn – sự bất cẩn khi giao thông: ―Giá mà chúng tôi đã cẩn trọng nhƣ vậy với chính bản thân mình‖ [27, tr.200], chúng ta thấy đƣợc con đƣờng từ giàu sang đến sa lầy trong nghiện ngập, tệ nạn của vợ chồng cô, chúng ta biết Lara đã tìm đến bệnh viện lấy di vật của Corrigan sau khi nói dối là ngƣời thân, rồi đem nó đến cho anh trai của ngƣời xấu
  • 16. 13 số, cô tham gia tang lễ của Jazzlyn, thú thật mọi chuyện với Ciaran và sau đó họ hẹn hò. Tất cả những điều đó có thể đƣợc kể lại từ điểm nhìn của một hoặc nhiều nhân vật khác, song với cách kể chuyện xƣng tôi, Lara đã bộc lộ tối đa nỗi đau của bản thân mình. ―Nhƣng những đêm chơi đang dần vắt kiệt tôi‖ [27, tr.214], ―Tôi thậm chí chẳng còn muốn khóc‖ [27, tr.217]. Đó là nỗi đau đớn khi nhận ra mình rơi xuống vực sâu của tệ nạn, để đến mức bị cảnh sát gọi và bị bẽ mặt ở Manhattan. Đó còn là sự day dứt và ám ảnh sau khi gây tai nạn. Nhà văn đã rất khéo léo khi xây dựng đối thoại giữa Lara với Blaine để cho thấy sự ám ảnh trong tâm hồn cô. Dƣờng nhƣ cô không nghe những điều chồng nói mặc dù đang trò chuyện: ―- Đâu phải lỗi của tụi mình đâu cƣng, - anh lại nói. - Cô ấy còn quá trẻ. - Không phải lỗi của mình, em ạ, em có nghe anh nói không? - Anh có nhìn thấy cô ấy nằm trên đất không?...‖ [27, tr.206]. Có thể nói từ sau khi gây tai nạn, trong lúc hoảng loạn và lo sợ cô đã bảo chồng mình bỏ chạy, đến tận trƣớc lúc nói ra sự thật với anh trai Corrigan, Lara luôn sống trong dằn vặt vì tội lỗi. Đã có lúc cô không dám đối diện với sự thật này. Vậy nên khi chồng nhắc lại chính cô đã bảo anh bỏ chạy, Lara tát anh. Nhƣng cô lại ―kinh ngạc vì thấy tay mình đau rát đến thế‖ [27, tr.208]. Cái tát ấy phải chăng là cái tát cô dành cho chính bản thân mình? Tay cô rát đâu chỉ vì sức mạnh của tƣơng tác lực mà còn vì nỗi xót xa vốn thƣờng trực trong tim giờ đã vỡ òa. Để rồi mãi sau này, khi đã nhận ra sự vô tâm của chồng, khi cảm nhận đƣợc tấm lòng của Ciaran, ám ảnh tội lỗi và cuộc sống gia đình cũ khiến cô mang tâm trạng rất đáng thƣơng: sợ yêu! Kiểu nhân vật tự kể chuyện nhƣ Ciaran và Lara còn đƣợc lặp lại trong các phần truyện ―Phía tây thinh không‖, ―Ngôi nhà ma túy xây nên‖, ―Đồng Centavo‖, ―Tung hô và ngợi ca Thiên Chúa‖. Tất cả đều là những trang văn đậm sắc màu cảm xúc. Thế giới nội tâm của nhân vật hiện lên một cách sinh động qua hồi ức của ngƣời kể chuyện trải nghiệm và hành động. Quan điểm, suy nghĩ, việc làm của họ cứ thế đƣợc phơi bày từ cái nhìn rất chủ quan. Dĩ nhiên, ngƣời đọc có thể hoài nghi về tính chân thực của nó. Tác giả sẽ giải quyết điều này bằng cách
  • 17. 14 sử dụng kết hợp thêm hình thức trần thuật với điểm nhìn bên ngoài và sự dịch chuyển điểm nhìn. 1.1.3. Trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài Ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài là kiểu ngƣời kể chuyện đứng ở bên ngoài, ―chỉ kể ―chuyện‖ chứ không hiểu rõ tâm lí nhân vật. Đây cũng là điểm nhìn từ các nhân vật khác‖ [39]. ―Cái bên ngoài không phải là cái bên ngoài, mà là cái có thể quan sát từ bên ngoài‖ [31, tr.183-184]. Khác với trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn toàn tri, ngƣời kể chuyện ở đây ―chỉ kể những điều anh ta thấy (nghe thấy, nhìn thấy) chứ không phải là kể những điều anh ta biết‖ [9, tr.72]. Ở đây không có những miêu tả ý nghĩ bên trong của nhân vật, chi tiết thƣờng bộn bề, đòi hỏi năng lực quan sát và cảm nhận của ngƣời kể chuyện phải vô cùng tinh tế. Khách quan mà nói, Người đi dây không có câu chuyện nào đơn thuần kể ở ngôi ba với điểm nhìn bên ngoài mà có sự kết hợp với điểm nhìn bên trong của nhân vật. Ngƣời viết sẽ làm rõ sự dịch chuyển điểm nhìn này trong các phần tiếp theo. Riêng với điểm nhìn bên ngoài ở các phần truyện kể ở ngôi thứ ba đƣợc biểu hiện dƣới hai dạng sau: Trƣớc hết đó là điểm nhìn của ngƣời kể chuyện giấu mặt khi nhìn về các sự kiện, nhân vật trong truyện kể. Mở đầu ―Chữ kí‖ là lời giới thiệu của ngƣời kể chuyện: ―BẮT GẶP NÓ Ở ĐÂY, CHỖ KHỚP NỐI giữa các toa tàu, trong một buổi sáng đã bắt đầu trở nên oi bức nóng nực…‖ [27, tr.286]. Ngƣời kể chuyện trong ―Mắt xích‖ hiện rõ qua những lời đánh giá: ―Soderberg không phải kiểu ngƣời ƣa ngồi một chỗ và chê bai những gì đã qua. Thành phố này vĩ đại hơn những tòa nhà, vĩ đại hơn cả những cƣ dân sinh sống nơi đây‖ [27, tr.419]. Trong khi đó, ngƣời kể chuyện ở ―Đi về phía biển thét gào‖ lại đứng ngoài quan sát cuộc gặp gỡ của Jaslyn và Pino: ―Phía bên kia, một tiếng kêu chói tai vẳng đến. Bọn trẻ con cƣỡi lên những chiếc va li trên băng chuyền vừa ngã trúng nhân viên an ninh. Cô và Pino nhìn nhau‖ [27, tr.560]… Bên cạnh đó, các nhân vật còn thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá của mình về những nhân vật khác trong tác phẩm. Đây cũng là một biểu hiện của điểm nhìn bên ngoài. Dĩ nhiên những dẫn chứng sau ngƣời viết chỉ khảo sát trong các câu
  • 18. 15 chuyện kể ở ngôi ba. Sau nửa đƣờng bay ngồi cùng nhau, Jaslyn đã nhận ra ở Pino những lời thành thật: ―Cô biết anh nói thật, cứ nhìn cổ áo sơ mi to bản và vết mực trên túi ngực là rõ. Kiểu ngƣời nhƣ anh thậm chí có thể tự cắt tóc cho mình‖ [27, tr.552]. Nhận định ấy có đƣợc hoàn toàn do sự quan sát và tiếp xúc bên ngoài. Tƣơng tự nhƣ vậy, Solomon chỉ nghe kể về anh chàng đi dây cũng đã đƣa ra phán đoán: ―Ông đồ rằng ngƣời đi dây đó hẳn đã phải suy nghĩ kỹ lƣỡng trƣớc khi hành động. Đó không phải là một cuộc đi bộ bất ngờ không có chuẩn bị‖ [27, tr.419]. Còn thẩm phán Pollack thì cho rằng: ―Gã đó khùng‖ [27, tr.424]. Ngay cả phần truyện ―Miró ngự ở trên tƣờng‖ chủ yếu đƣợc khai thác điểm nhìn bên trong nhân vật Claire thì cũng có lúc điểm nhìn bên ngoài đƣợc sử dụng. Đó là khi Claire đánh giá về ngƣời đi dây, khi bà nhìn về cuộc sống của Gloria cũng nhƣ khi bà nghĩ về Solomon vậy. Ở tiểu thuyết này, điểm nhìn bên ngoài đƣợc nhà văn vận dụng tối đa để phác họa chân dung. Ví nhƣ hình ảnh ngƣời đi dây: ―Bộ dạng ranh mãnh. Áo sơ-mi và quần bó đen sẫm. Đôi giày ba lê mỏng manh kì quặc dƣới chân. Thậm chí trông gã có vẻ phờ phạc thế nào đó. Tóc gã hoe vàng, khoảng ngoài hai tƣ, hai lăm tuổi…cái kiểu nghênh ngang mà Soderberg có cảm tình‖ [27, tr.450]. Hoặc hình ảnh Tillie: ―Khuôn mặt cô ta trông kì dị và yếu đuối, thế nhƣng vẫn toát lên vẻ nhục cảm. Đôi mắt tối sẫm, hai hàng lông mày tỉa mỏng. Có một thứ ánh sáng nơi cô ta, lấp lánh‖ [27, tr.464]. Nhờ đó, diện mạo nhân vật hiển thị rõ hơn. Có một thực tế là một điểm nhìn có thể là điểm nhìn bên trong đối với nhân vật này nhƣng lại là điểm nhìn bên ngoài đối với nhân vật kia. Việc khảo sát điểm nhìn do đó vẫn chỉ là việc làm mang tính chất tƣơng đối. Mục đích chỉ nhằm hƣớng tới việc xem xét sự kiện, nhân vật và nghệ thuật tự sự một cách kĩ lƣỡng hơn. 1.1.4. Sự di chuyển điểm nhìn Sử dụng điểm nhìn toàn tri quá nhiều sẽ tạo nên cảm giác câu chuyện thiếu tính tự nhiên vì tất cả đều bị chi phối bởi ngƣời kể chuyện. Sử dụng điểm nhìn bên trong giúp khai thác tối đa cảm xúc của nhân vật song phần nào đó lại thiếu tính chất khách quan. Sử dụng điểm nhìn bên ngoài khách quan hóa câu chuyện nhƣng lại không thể khai thác sâu tâm lí con ngƣời. Đó là lí do vì sao các nhà
  • 19. 16 văn thƣờng kể chuyện phối hợp các điểm nhìn và sự dịch chuyển điểm nhìn thƣờng xuyên diễn ra trong tác phẩm. Câu chuyện ―Miró ngự ở trên tƣờng‖ là biểu hiện sinh động cho sự dịch chuyển điểm nhìn trong tác phẩm này. Kể ở ngôi thứ ba, tuy vậy, ngƣời kể chuyện không chỉ đứng ngoài quan sát và kể về Claire mà phần lớn lại áp sát, thâm nhập và len lỏi vào trong nhân vật, để nhân vật tự thổn thức, lặn ngụp trong kí ức về Joshua. Chúng ta thấy có những câu văn mang dấu ấn của ngƣời kể chuyện giấu mặt nhƣ: ―Một hành động chính xác. Hoàn toàn, tuyệt đối. Bà rón rén đi về phía bếp nhƣng lại dừng lại ở cửa‖ [27, tr.168]. Hay nhƣ ―Nó viết thƣ kể cho bà nghe về những cuộc chiến xâm nhập giành quyền truy nhập tài khoản vào lúc đêm khuya. Bốn giờ sáng, giờ làm việc cuối ngày của nó…‖ [27, tr.171], ―Tiếng cƣời bật lên giữa phòng và, trong một phút nhãng trí, Claire băng qua tấm thảm trở lại, tay vẫn cầm những bông hoa, nhƣng chẳng ai để ý hết‖ [27, tr.169]. Bên cạnh đó là những câu văn xuất phát từ điểm nhìn bên trong nhân vật Claire, kiểu nhƣ: ―Giờ phải nhanh lên. Lối cửa. Chỗ điện thoại. Bà biết cần dìm đầu nhanh trong nƣớc‖ [27, tr.145], ―Nhìn mình. Nhìn chị ấy. Bị bắt quả tang rồi. Mơ giữa ban ngày. Giúp ƣ? Trong giây lát bà suýt nghĩ Gloria muốn làm người giúp việc‖ [27, tr.176]. Cũng có khi, sự dịch chuyển điểm nhìn diễn ra trong hai câu văn liên tiếp nhau: ―Còn bà tới bên tủ lạnh và đọc những lá thƣ của con, thỉnh thoảng mở ngăn đá ra để hơi lạnh làm nó bình tĩnh lại. Sẽ ổn thôi, con yêu, con sẽ giành lại được” [27, tr.173]. Thậm chí dấu hiệu di chuyển điểm nhìn thể hiện rõ ở đại từ nhân xƣng cả trong nguyên tác lẫn bản dịch: ―The voices fading. Silly of me. In the kitchen, quickquick‖ [45, tr.93] (―Những giọng nói nghe nhỏ dần. Mình thật ngớ ngẩn. Vào bếp, nhanh nhanh lên thôi‖ [27, tr.159]). Trong ba câu văn, câu thứ nhất là điểm nhìn bên ngoài, hai câu còn lại là điểm nhìn bên trong của Claire. Đại từ ―me‖ (dịch là ―mình‖) đánh dấu điểm nhìn bên trong đó. Phần truyện ―Đi về phía biển thét gào‖ cũng có sự di chuyển điểm nhìn khá linh hoạt. Cũng là sự góp mặt của những câu văn kể về hành trình của Jaslyn đến thăm Claire, Ciaran, gặp gõ Pino từ điểm nhìn bên ngoài nhân vật chính nhƣ: ―Ngƣời gác cổng mỉm cƣời, dù đã bao nhiêu năm cô chƣa gặp lại ông. Một ngƣời đàn ông xứ
  • 20. 17 Wales‖ [27, tr.564]. Cũng có những câu văn xuất phát từ chính điểm nhìn của Jaslyn: ―Nhƣ vậy là anh biết thành phố này, cô thầm nghĩ. Hẳn là anh ấy đã từng ở đây‖ [27, tr.560]. Và sự kết hợp điểm nhìn trong – ngoài rất tự nhiên: ―Trƣớc giờ cô chƣa hành động nhƣ thế này với một ngƣời đàn ông, nhƣng giờ cô cũng lấy danh thiếp của mình và đút nó vào túi áo sơ-mi của anh, còn vỗ nhẹ cho nó lọt sâu vào. Cô cảm thấy khuôn mặt mình lại đang căng ra. Quá trơ tráo. Quá mời chào. Quá dễ dãi‖ [27, tr.562]. Chúng ta sẽ thấy điều tƣơng tự trong các phần truyện viết về ngƣời đàn ông đi dây, về nhân vật nó, về thẩm phán Solomon. Tóm lại, có thể nói ở những phần truyện kể ngôi thứ ba, có sự dịch chuyển điểm nhìn từ ngƣời kể chuyện sang nhân vật, từ nhân vật này sang nhân vật khác. Còn ở những phần truyện kể ở ngôi thứ nhất, sự dịch chuyển này là từ nhân vật xƣng tôi sang các nhân vật khác trong câu chuyện. Sự dịch chuyển điểm nhìn có thể xảy ra trong diễn ngôn của ngƣời kể chuyện hoặc trong diễn ngôn của nhân vật khi có hiện tƣợng nhƣờng vai trần thuật. Tất cả làm nên sự đa dạng trong cách nhìn, tăng tính hấp dẫn cho câu chuyện. Nếu sử dụng thuật ngữ ―Tiêu điểm‖ của Genette, chúng ta thấy Người đi dây có đầy đủ các dạng thức tiêu điểm mà Genette đã nêu: tiêu điểm cố định, tiêu điểm thay đổi, tiêu điểm hỗn hợp và tiêu điểm tập thể. Nhấn mạnh thêm điều này để một lần nữa thấy đƣợc sự đa dạng trong nghệ thuật tự sự đa chủ thể gắn với đa điểm nhìn của Colum McCann. 1.2. Tự sự đa chủ thể - kết cấu phân mảnh và dán ghép Phân mảnh (fragmentation) – cũng gọi là mảnh vỡ - là một đặc trƣng tiêu biểu của văn học h(ậu h)iện đại. Vì sao vậy? Lê Huy Bắc từng lí giải: ―Đơn giản mảnh vỡ chính là bản thể của hiện tồn hậu hiện đại, khi ngƣời ta thôi không còn tin vào những gì tròn trịa, đầy đặn, dễ nắm bắt…thì ―vỡ‖ tức là tiêu chí bản chất của sự vật‖ [8]. Vậy phân mảnh là gì? Hiểu đơn giản đó là sự chia nhỏ, đập vụn cái thống nhất ra thành những mảnh vỡ khác nhau. Ở kiểu kết cấu này, các sự kiện trong cốt truyện rời rạc, không liền mạch với nhau, xếp đặt cạnh nhau một cách tự nhiên, hỗn độn. Cách kết cấu phân mảnh nhƣ vậy trái ngƣợc với kết cấu của truyện kể truyền thống. ―Đây là kiểu kết cấu nhiều truyện, nhiều mảnh nhỏ trong một truyện, mỗi mảnh nhỏ ấy là một kết cấu, tất
  • 21. 18 cả hợp lại tạo thành kết cấu chung của truyện‖ [55]. Dĩ nhiên, sự đứt gãy, không liền mạch ở đây đƣợc tạo ra hoàn toàn bởi chủ ý của nhà văn. Barry Lewis trong bài viết ―Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học‖ diễn đạt khá sinh động về kĩ thuật phân mảnh nhƣ sau: ―Chắc chắn rằng những nhà văn về sau đã gắng hết sức đập cho bốn thạch trụ văn chƣơng này tan nát vào quên lãng. Hoặc là cốt chuyện bị nghiền thành từng viên nhỏ của biến cố và hoàn cảnh, nhân vật bị phân tán thành một bó của những khát vọng nhức nhối, cảnh trí thì chỉ hơn những phông màn dựng tạm một chút mà thôi, hoặc đề tài trở thành mơ hồ đến nỗi nếu cho rằng những cuốn tiểu thuyết nào đó nói ―về‖ điều này hay điều nọ thì thật là sai lầm một cách buồn cƣời‖[42]. Nhƣ thế, các yếu tố trong tác phẩm h(ậu h)iện đại thƣờng đƣợc tạo nên từ nhiều mảnh vỡ. ―Mỗi mảnh vỡ trở thành một câu chuyện, có thể lôgic có thể không, tùy thuộc trạng thái của nhân vật ngƣời kể chuyện, trạng thái kể có ý thức hay vô thức‖ [40]. Bởi vậy, ngƣời đọc có vai trò rất lớn trong việc tìm ra giá trị tự thân của từng mảnh vỡ cũng nhƣ giá trị của mối liên kết các mảnh vỡ lại với nhau. Kết cấu phân mảnh và dán ghép góp phần phát huy cao độ vai trò đồng sáng tạo của độc giả, trao cho họ một phần quyền năng kiến tạo ý nghĩa tác phẩm văn chƣơng từ phía nhà văn. Sự phân mảnh xảy ra ở nhiều cấp độ khác nhau: có thể là văn bản, cốt truyện, nhân vật, đề tài, không – thời gian; cũng có thể ―còn đi xa hơn nữa và phân mảnh cả chính cái vật liệu của văn bản với những hình vẽ, kiểu chữ, hoặc những phƣơng tiện biểu hiện hỗn hợp‖ [42]. Tính phân mảnh kéo theo sự phi trung tâm hóa, nghĩa là tạo ra đa tâm điểm. Mỗi nhân vật trong tác phẩm có thể trở thành một trung tâm của một câu chuyện nào đó. Tƣơng tự nhƣ vậy, các yếu tố khác nhƣ nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian…cũng đều mang tính phi tâm. Ở những tác phẩm sử dụng kết cấu phân mảnh và dán ghép, không có yếu tố chính quán xuyến tất cả các yếu tố khác, trọng tâm có thể rơi vào bất cứ yếu tố nào tùy theo góc nhìn và sự khai thác tác phẩm của ngƣời tiếp nhận văn chƣơng. Phân mảnh luôn đi kèm với dán ghép. Người đi dây là cuốn tiểu thuyết đƣợc dán ghép bằng mƣời ba mảnh khác nhau (Xét về mặt bố cục văn bản truyện kể). Mỗi mảnh là một truyện hoặc một phần của truyện kể, chúng đƣợc móc nối lại bằng sự liên hệ, gắn bó
  • 22. 19 giữa các nhân vật một cách hết sức tình cờ mà ngƣời viết sẽ cụ thể hóa ở những phần tiếp sau đây. 1.2.1. Phân mảnh và dán ghép cốt truyện Cốt truyện của tiểu thuyết Người đi dây là cốt truyện phi tuyến tính, đƣợc chia làm nhiều phần. Tác phẩm có một phần nhƣ màn mở đầu và bốn phần đƣợc đánh số thứ tự từ 1 tới 4. Mỗi phần hàm chứa trong nó nhiều truyện nhỏ. Bản thân mỗi cốt truyện nhỏ này cũng kết cấu theo kiểu phi tuyến tính, tâm lí hoặc đa tuyến. Và một cách ngẫu nhiên, chúng có mối liên hệ với nhau, hƣớng ngƣời đọc đến thông điệp mà nhà văn gửi gắm. Câu chuyện về ngƣời thanh niên biểu diễn trò đi dây bất hợp pháp đƣợc ghép lại từ ba mảnh vỡ: ―Ngƣớc nhìn và sững lặng‖, ―Hãy để thế giới trƣợt mãi đi‖, ―Trên nhịp đƣờng rầy tiến bộ‖. Tác giả sử dụng hình thức kể chuyện ở ngôi kể thứ ba nhƣng có sự kết hợp và dịch chuyển điểm nhìn bên trong với bên ngoài; qua đó dần làm rõ chân dung ngƣời thanh niên, quá trình luyện tập, tài năng và khát vọng làm nên điều kì diệu ở anh. Không kể chuyện theo kết cấu truyền thống; câu chuyện về ngƣời đi dây đƣợc rải vào ba phần khác nhau, không liên tiếp về mặt văn bản truyện kể lẫn không – thời gian. Bắt đầu bằng hình ảnh anh đang chăng mình giữa không trung, sau đó nhà văn lại quay về quá trình luyện tập của anh rồi mới trở lại để kể tiếp về cuộc biểu diễn. Xen giữa những phần này là những câu chuyện khác, có hoặc không liên quan trực tiếp đến anh chàng này. Tƣơng tự nhƣ vậy, các câu chuyện về cha xứ Corrigan, chuyện anh trai linh mục Ciaran, chuyện mẹ con cô gái bán hoa Jazzlyn, chuyện bà mẹ mất con trong chiến tranh ở Việt Nam Claire, Gloria…cũng đƣợc phân mảnh nhƣ thế. Một biểu hiện nổi bật của kĩ thuật phân mảnh cốt truyện trong tiểu thuyết Người đi dây là kể chuyện theo lối tiểu truyện trong đại truyện. ―Thiên đàng đẹp đẽ thật, nhƣng tôi vẫn thích ở đây hơn‖ là câu chuyện của Ciaran kể về cuộc đời anh. Nhƣng lồng trong nó là câu chuyện em trai anh trên hành trình tu hành và làm thiện nguyện, cũng là câu chuyện tình yêu của vị linh mục với cô gái Adelita. Hay nhƣ ―Miró ngự ở trên tƣờng‖ kể về câu chuyện họp mặt của các bà mẹ mất con trong chiến tranh ở Việt Nam, nhƣng nó còn hàm chứa chuyện những ngƣời lính Mỹ tham chiến, chuyện về ngƣời đi dây biểu diễn đang thu hút sự chú ý của nhiều ngƣời…
  • 23. 20 Ngoài ra, kĩ thuật phân mảnh cốt truyện còn đƣợc thể hiện ở lối kể truyện nối tiếp truyện. Trong tác phẩm này, câu chuyện về ngƣời đi dây đƣợc kể chính ở ba phần nhƣ đã nói ở trên, song nó còn đƣợc kể tiếp nối ở những câu chuyện khác nhƣ: ―Miró ngự ở trên tƣờng‖, ―Phía tây thinh không‖, ―Mắt xích‖, ―Tung hô và ngợi ca Thiên Chúa‖. Hoặc nhƣ câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Claire và các bà bạn trong ―Miró ngự ở trên tƣờng‖ sẽ đƣợc ―kể gối đầu‖ ở phần ―Tung hô và ngợi ca Thiên Chúa‖. Việc kết hợp nhiều hình thức kể nhƣ vậy làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn, ngƣời đọc theo đó muốn nắm bắt trọn vẹn nội dung câu chuyện cần theo dõi ở nhiều phần, nhiều mảnh vỡ khác nhau và tự lắp ghép theo mối dây liên hệ ngầm nhà văn thiết kế, hoặc cũng có thể theo cách riêng của từng ngƣời. 1.2.2. Phân mảnh và dán ghép nhân vật Nhân vật trong Người đi dây là những nhân vật mảnh vỡ. Họ là ngƣời tốt hay xấu? Thật khó để có câu trở lời một cách rạch ròi. Bởi nhân vật đƣợc soi chiếu từ nhiều góc nhìn của nhiều chủ thể. Nếu chỉ qua lời kể của Ciaran, ta thấy linh mục Corrigan là một ngƣời kính chúa, từ nhỏ đã thật tâm gắn bó với mọi hạng ngƣời. Anh lao vào làm thiện nguyện không mệt mỏi, quên cả bản thân để lo cho những cô gái điếm hạng quèn…Nhƣng đằng sau con ngƣời ấy lại là một trái tim nóng hổi yêu thƣơng, anh đã lao vào vòng tay Adelita đầy hứng khởi, đê mê trong những cuộc làm tình. Góc khuất này chỉ đƣợc hiện ra dƣới cái nhìn của Adelita. Tƣơng tự nhƣ vậy, ngƣời đọc không khỏi ngạc nhiên khi một ngƣời phụ nữ hiếu khách, luôn mong đƣợc san sẻ nỗi đau mất con trong hoàn cảnh cô đơn, một ngƣời thuộc ―tầng lớp trên‖ với trái tim nhân ái nhƣ Claire lại có thể thốt nên câu ―Gloria, tôi rất vui đƣợc trả tiền công cho em‖ [27, tr.506]; hoặc con ngƣời mang cảm giác ―Sợ chết khiếp‖ [27, tr.129] khi lần đầu đến khu phố tệ nạn nơi Gloria ở sau đó lại ―thƣờng ngồi xe hơi thuê có kèm tài xế đến thăm‖ [27, tr.558]. Và nhất là đối với nhân vật viên thẩm phán Solomon, chúng ta phải soi chiếu từ điểm nhìn của chính ông, của Gloria, của Tillie và cả vợ ông mới có cái nhìn bao quát. Qua những dòng hồi tƣởng, độc giả nhận thấy ở Solomon sự khéo léo có phần ranh mãnh để thăng tiến trong công việc: ―Rất nhiều vụ chỉ đƣợc giải quyết qua loa nhanh chóng…Ông
  • 24. 21 còn phải hoàn thành cho kịp chỉ tiêu xét xử…ông càng mang lại ít việc cho các đồng nghiệp ở tầng trên thì họ càng vui vẻ‖ [27, tr.433]; những tâm sự rất riêng sau vẻ giàu sang và uy quyền thể hiện bên ngoài: ―Ông phải xử lí những thứ tệ hại nhất trong đám cặn cùng xã hội. Mọi ngƣời đều nghĩ ông sống trong không gian nhƣ thiên đƣờng ốp gỗ gụ, có một công việc nghe vang nhƣ mõ, một sự nghiệp đầy quyền lực, nhƣng thực sự ngoài danh tiếng ra thì chẳng có gì đáng kể hết‖ [27, tr.426]. Dù vậy, qua cái nhìn của Gloria, ông là con ngƣời lạnh nhạt và sực mùi khinh miệt đẳng cấp: ―Ông ta đảo mắt về phía tôi. Tôi dám chắc ông ta đang bực mình vì sự có mặt của tôi, ông ta nghĩ tôi là một ngƣời giúp việc nào đó…‖ [27, tr.536] Nhân vật mảnh vỡ gắn với những không gian tồn tại khác nhau. Mỗi không gian với những đặc điểm riêng của nó ở từng thời điểm trở thành một bức phông nền mà trên đó hằn lên đặc điểm tính cách của họ. Tiêu biểu cho kiểu này không thể không nhắc tới Ciaran. Mảnh đất Dublin xƣa kia là bầu sữa ngọt ngào nuôi dƣỡng tâm hồn hai anh em cậu bé Ciaran. Ở nơi đó có tuổi thơ yêu dấu, có những tháng ngày hạnh phúc bên mái ấm gia đình, có tình anh em ruột thịt ―tôi dìu nó suốt dọc bờ sông Liffey, qua những con tàu chở than đá, đến tận khu Ringsend, ở đó tôi rửa ráy qua cho nó ở chỗ máy nƣớc cũ trên phố Irishtown‖ [27, tr.27]. Nhƣng cũng chính nơi đây với sự tác động của phong trào hippie và cuộc nội chiến đã đẩy chàng trai ấy vào một ngã rẽ khác của cuộc đời: bỏ ngang trƣờng đại học, theo lối sống hippie, vƣớng vào cần sa và phải ra tòa. Nam Bronx lại là nơi để Ciaran phơi bày lối sống bám chặt vào hiện thế mà tồn tại. Anh nghĩ mình không thích hợp với mảnh đất này, em trai anh cũng vậy, nên anh từng đề nghị em trai quay lại quê nhà. Anh không thể sống cuộc đời lí tƣởng nhƣ em trai anh, không thể lăn lộn trong nghèo nàn, nỗi đau và rác rƣởi. ―Tôi phải thoát khỏi nơi này. Tôi dự định tìm một công việc, kiếm một chốn đi về nho nhỏ…‖ [27, tr.54]. Ghét xứ sở này, ghét những cô gái điếm đang lợi dụng lòng tốt của em anh, nhƣng anh cũng bỏ tiền nếm trải mùi vị ấy với cô gái che ô Tillie trên đƣờng phố. Anh lại cũng vì em trai mà chấp nhận giúp những ngƣời ở viện dƣỡng lão lúc em anh cần. Có thể nói, Bronx có bao nhiêu mảng màu tối sáng thì Ciaran cũng mang trong anh những sắc màu tính cách tƣơng đƣơng.
  • 25. 22 Cuối cùng, khi đã ở độ tuổi xế chiều, khi đã trải nghiệm và đặc biệt gặp gỡ ngƣời phụ nữ của đời anh, Ciaran trở về với vùng quê Dublin nơi anh từng gắn bó. Có lẽ so với Bronx, ở đây ít xô bồ. Cũng có lẽ Bronx đã để lại trong anh nỗi đau mất ngƣời em trai yêu quý. Theo thời gian, giờ đây Dublin đã mang gƣơng mặt mới, bắt đầu có những đổi thay nhƣ bao nhiêu sự biến thiên của cuộc đời; Ciaran đã trở thành một con ngƣời giàu có, sang trọng và điềm tĩnh. ―Ông là giám đốc điều hành của một công ti kinh doanh dịch vụ internet đặt trụ sở tại một trong những tòa nhà cao ốp kính dọc sông Liffey‖ [27, tr.577]. Ông sống cùng vợ trong căn nhà cũ của gia đình đã đƣợc chính ông bỏ tiền ra mua lại. Gặp ông trong không gian này ngƣời đọc không khỏi thấy hạnh phúc tràn đầy. Nghe nhƣ bài ca quê hƣơng, gia đình và cuộc sống mãi âm vang theo mỗi đợt thủy triều bên bờ vịnh: Ciaran – một ngƣời đàn ông thành đạt và viên mãn trong hạnh phúc. Không chỉ sắm một vai mà ở rất nhiều vai, không chỉ đơn diện, lƣỡng diện mà là đa diện; nhân vật trong Người đi dây thực sự là những mảnh vỡ mà ta chỉ có thể nhận ra tính cách họ khi tỉ mỉ đan ghép lại – những con ngƣời rất chân thật của sự hiện tồn trong xã hội này. 1.2.3. Phân mảnh và dán ghép không – thời gian 1.2.3.1. Phân mảnh và dán ghép không gian Ứng với sự phân mảnh của cốt truyện và nhân vật, không gian nghệ thuật bị chia nhỏ và rải ra ở nhiều nơi trong tác phẩm. Có thể nói không gian trong Người đi dây là không gian phi tâm. Thoạt nhìn, ta thấy không gian dƣới tòa tháp đôi của trung tâm thƣơng mại đƣợc phác họa khá cụ thể nhƣ tâm điểm hƣớng tới của câu chuyện. Nhƣng thực ra nó cũng chỉ đúng với câu chuyện về ngƣời đi dây. Còn những câu chuyện khác lại gắn với những không gian riêng biệt khác nhau. Ví dụ nhƣ câu chuyện của ngƣời anh trai Ciaran là cuộc dịch chuyển không gian từ quê nhà thuở ấu thơ – Sandymount bên vịnh Dublin, đến Nam Bronx – nơi em trai anh hiện tại đang sống. Hoặc câu chuyện của Jaslyn là hành trình qua các không gian Little Rock, New York và Ireland, câu chuyện của Claire là sự đan xen không gian căn phòng với không gian chiến trƣờng… Điều đáng nói ở đây là không gian không chỉ gắn với một câu chuyện, một nhân vật mà đƣợc tái hiện qua nhiều điểm nhìn, nhiều chủ thể nhìn, gắn với nhiều câu chuyện khác nhau. Yếu tố phân mảnh không gian bộc lộ rõ nhất ở điểm này. Trong tác phẩm, dễ
  • 26. 23 dàng nhận ra hai không gian rộng đƣợc nhà văn dụng công phác họa là không gian New York với hai quận Bronx, Manhattan và không gian Dublin của Ireland. Ở đây, có lẽ có một chút dấu ấn tự thuật của Colum McCann. Bộ mặt Nam Bronx hiện lên từ nhiều góc độ qua nhiều chủ thể nhìn khác nhau. Theo khảo sát của ngƣời viết, có thể thấy nhƣ sau: Carian Lara Tillie Gloria Claire Thiên đàng đẹp đẽ thật, nhƣng tôi vẫn thích ở đây hơn – Phần 1 Sợ yêu – Phần 1 Ngôi nhà ma túy xây nên – Phần 2 Tung hô và ngợi ca Thiên Chúa – Phần 3 Miró ngự ở trên tƣờng – Phần 1 Cái nhìn của Ciaran, Lara, Tillie, Gloria và Claire là những mảnh ghép bổ sung cho nhau để hoàn chỉnh bức phông nền Bronx nghèo nàn, u ám. Đó là thành phố có ―không khí thật ẩm ƣớt‖ [27, tr.53], ―cái thành phố ngập trong rác rƣởi, sống nhoi nhóc trên bẩn thỉu‖ [27, tr.54]. Đó là thành phố của những dãy nhà ổ chuột, ―tôi coi đó nhƣ là thứ gì đó đáng sợ, ẩn chứa điều gì đáng xấu hổ - những dãy nhà cao tầng xập xệ này hoàn toàn không tồn tại trong kí ức thơ ấu hay tranh vẽ của tôi, hay ở bất cứ nơi nào khác‖ [27, tr.243]. Đó là thành phố của sự đổ vỡ, của sự xuống cấp mọi giá trị trƣớc sóng gió cuộc đời: ―Chúng tôi vào khu Bronx, lƣớt qua những cửa hàng đã đóng cửa, có mấy con chó ve vẩy bên ngoài. Những bãi trống đầy gạch vụn. Những ống thép móp xoắn. Những mảng tƣờng vỡ…Vài bóng ngƣời lê la giữa đống thùng rác và rác thải‖ [27, tr.542] và ―Bọn trẻ trên tầng mƣời ôm ti vi ném vào đầu đám tuần tra khu nhà đang đi rảo bên dƣới…Cảnh sát ập đến nện dùi cui. Tiếng súng nổ vẳng xuống từ góc nhà…Cảnh đốt phá ngoài đƣờng…‖ [27, tr.53]. Đó là thành phố của sự khắc nghiệt về thời tiết: ―Khu Bronx mùa hè quá nóng mà mùa đông thì quá lạnh‖ [27, tr.529]. Cùng với Bronx là Manhattan. Nhƣng nếu nhƣ Bronx xập xệ, nghèo nàn, ẩm mốc và tệ nạn thì Manhattan giàu sang, tráng lệ. Manhattan nổi tiếng là khu vực sống của những đại gia ở đất nƣớc này. Dƣới con mắt của những ngƣời phụ nữ nhƣ Gloria và các bà bạn của bà, đó là thành phố của ―nhà to phố sang‖ [27, tr.493]. Còn với Claire, ngƣời dân cƣ
  • 27. 24 ngụ ở đây, vẻ sang trọng toát ra từ phong cách sống. Cũng bởi vì sống trong khu phố của tỉ phú nên bà đã rất ngần ngại khi nói địa chỉ cho các bạn mình, lần gặp đầu tiên bà cũng không mang trang sức, và dĩ nhiên, ngƣời kể đã khéo léo cho thấy bà luôn có cảm giác nhƣ mình đang phô trƣơng quá sức trƣớc mắt bạn bè. Diện mạo Manhattan đƣợc vẽ thêm một nét từ điểm nhìn của cô gái điếm Tillie. Cô đã từng làm gái ở Lexington. Nhƣng lúc có tuổi, cô buộc phải về khu Bronx. Đơn giản vì Manhattan chỉ dành cho gái gọi cao cấp, trẻ và hầu nhƣ không có gái da màu. Còn với điểm nhìn của đám đông trong buổi sáng mùa hè 1974, thành phố hiện lên với muôn vàn âm thanh náo nhiệt: ―Tiếng còi xe hơi. Những chiếc xe chở rác. Còi hiệu chuyến phà. Âm thanh xô bồ từ xe điện ngầm…Những mảnh rác lẫn lộn trong những góc hẻm tối tăm…‖ [27, tr.6], những tuyến đƣờng nối tiếp lẫn nhau: ―Trên phố Nhà thờ. Phố Liberty. Phố Cortland. Phố West. Phố Fulton. Phố Vesey‖ [27, tr.5], những hình ảnh chân thực đằng sau sự hào nhoáng từng biết đến: ―Những cô gái điếm trong bộ đồ jean nhàu nhĩ…Thƣơng nhân. Mấy cậu nhóc giao hàng. Những ngƣời đeo bảng quảng cáo thuê to kếch. Cánh cờ bạc bịp…Thêm gã sâu rƣợu đang bò ra ngoài tìm cữ rƣợu sớm‖ [27, tr.7]. Nhƣ vậy, không gian New York ở đây là những mảnh vỡ, ngƣời đọc chỉ có đƣợc cái nhìn toàn diện khi lắp ghép nhiều mảng màu hiện thực từ cái nhìn của nhiều chủ thể đƣợc rải ra trong tác phẩm. Tƣơng tự nhƣ vậy với không gian Ireland. Bộ mặt hiện ra đầy đủ hơn nếu chúng ta tiếp cận với cả câu chuyện của Ciaran về quê nhà lẫn câu chuyện cô gái Jaslyn tìm đến thăm khi ông đã ở tuổi lục tuần. Trong hoài niệm của Ciaran, đó là thành phố của năm tháng tuổi thơ yên ả, thanh bình: ―Hai trạm điện khổng lồ màu đỏ và trắng chọc gãy đƣờng chân trời phía đông, nhƣng ở những hƣớng còn lại chân trời vẫn là một đƣờng cong nhẹ nguyên lành, đƣợc tô điểm bởi những con mòng biển trong không trung, những chiếc tàu thủy chở thƣ ngoài Dun Laoghaire và những đám mây lƣớt nhanh cuối trời‖ [27, tr.19]. Song cũng giống nhƣ ―Thủy triều vịnh Dublin vốn dâng lên chậm chạp…nhƣng nó có thể thay đổi khó lƣờng‖ [27, tr.19], đây còn là không gian mang trong mình nó biết bao mảng màu xám tối: ―Khu cảng. Những quán trọ rẻ tiền. Những góc phố nơi đá lót đƣờng vỡ nham nhở‖ [27, tr.25], những ngƣời cơ nhỡ, những ngƣời già nát rƣợu…Chính điều này đã làm cho cô gái trẻ Jaslyn phải ngạc nhiên khi đặt chân đến
  • 28. 25 mảnh đất này: ―Cô vốn mƣờng tƣợng ra những con đƣờng cấp phối, hai bên rợp bóng cây và những dãy hàng rào cao, rồi cánh đàn ông với mái tóc đen nhánh, những túp lều trắng đứng lẻ loi trên đỉnh đồi. Nhƣng thay vào đó cô lại thấy những cầu vƣợt, dốc lên cầu và những màn lên lớp của những gã say rƣợu mặt phị về ý nghĩa đích thực của chính sách thế giới‖ [27, tr.576]… Đọc Người đi dây, chúng ta khó có thể trả lời không gian nào là không gian chính của câu chuyện. Bởi không gian ở đây là phi tâm điểm. Cái tƣởng nhƣ chính chƣa hẳn đã là chính, cái phụ biết đâu lại trở thành tâm điểm của tác phẩm này. Từ một góc độ khác, không gian mảnh vỡ ở đây còn đƣợc biểu hiện qua sự đan xen giữa không gian hiện thực và không gian quá khứ, hoài niệm của nhân vật. Đó là không gian gãy rời, đứt nối qua dòng hồi tƣởng của Claire khi bạn bà đến thăm nhà. Hiện thực là ngôi nhà của bà trên đại lộ Park. Quá khứ là không gian ở của Gloria – khu Bronx, không gian chiến trƣờng Việt Nam trong hồi ức về Joshua… Một biểu hiện nữa của không gian mảnh vỡ trong tác phẩm là không gian hồi ức bị cắt xén rời rạc, lộn xộn. Đó là không gian đƣợc tái hiện trong câu chuyện của Tillie. Bà bị bắt, phải nhận tội thay con, bị quản giáo là ngƣời đồng tính chuyển trại khi không làm mụ vừa lòng và chống trả mụ; rồi con gái bị tai nạn qua đời, lo lắng cho hai đứa cháu…Tất cả khiến Tillie bất an, hoảng loạn, rối trí. Điều ấy thể hiện rõ qua cách nhân vật kể chuyện: kể không trật tự, không quan tâm đến thời gian, không gian, quan hệ của các sự việc. Đó hoàn toàn chỉ là những hình ảnh hiện lên ngẫu nhiên trong trí nhớ mà thôi. 1.2.3.2. Phân mảnh và dán ghép thời gian Cốt truyện Người đi dây kể về hiện thực đời sống New York và Ireland những năm 70 của thế kỉ XX, kéo dài đến tháng 12 năm 2006. Dấu ấn thời gian ấy in hằn trên tác phẩm bởi những thời điểm cụ thể. Ví dụ buổi biểu diễn đi dây bắt đầu khoảng 7 giờ 45 phút sáng, bạo động ở miền Nam Ireland mùa xuân năm 1974, trát gọi trình diện Tillie ngày 19 tháng 11 năm 1973 và hành trình trở lại thăm Claire lần cuối trƣớc khi bà mất của Jaslyn vào tháng 12 năm 2006. Đƣơng nhiên xen vào đó là những mảng hiện thực hồi ức trƣớc những năm 70 này.
  • 29. 26 Nhƣ đã nói trong phần phân mảnh cốt truyện, tiểu thuyết đƣợc kể không theo trật tự tuyến tính. Thời gian kể chuyện và thời gian sự kiện bị phân mảnh, gấp khúc, đồng hiện và nhiều khi lẫn lộn quá khứ, hiện tại theo suy nghĩ của nhân vật. Thời gian sự kiện của câu chuyện về ngƣời đi dây đƣợc bẻ ra làm ba đoạn và kể không liền mạch nhƣ sau: Ngƣớc nhìn và sững lặng Hãy để thế giới trƣợt mãi đi Trên nhịp đƣờng rầy tiến bộ Hiện tại Quá khứ Hiện tại Xen vào giữa những phần này là những câu chuyện khác. Thời gian theo đó cũng có thể là hiện tại hoặc quá khứ theo cách kể của từng chủ thể. Trong tƣơng quan so sánh giữa phần truyện ―Ngƣớc nhìn và sững lặng‖ với ―Hãy để thế giới trƣợt mãi đi‖, chúng ta thấy tác giả đảo trật tự thời gian khi kể chuyện. Những sự kiện xảy ra trƣớc đƣợc đem kể sau và ngƣợc lại. Với cách đảo thuật này, ngƣời kể chuyện dẫn ngƣời đọc vào hành trình khám phá quá khứ, khám phá nguyên nhân của những vấn đề trong hiện tại; nhiều yếu tố bất ngờ, ngẫu nhiên cứ thế đƣợc phơi bày, thu hút sự quan tâm của độc giả qua từng trang viết. Ngoài cách kể chuyện đảo thuật nhƣ trên, tiểu thuyết Người đi dây còn có cách kể chuyện bổ thuật đầy hiệu quả. Việc bổ thuật giúp ngƣời kể chuyện cung cấp hàm lƣợng lớn những thông tin liên quan đến sự kiện chính đang kể cũng nhƣ làm giãn mạch truyện, giảm tốc độ kể, đôi khi là ngƣng đọng thời gian kể. Tiêu biểu có lẽ phải nhắc đến phần ―Miró ngự ở trên tƣờng‖. Thời gian kể chuyện gói gọn trong buổi sáng khi những ngƣời bạn đến thăm Claire. Nhƣng với cách kể chuyện bổ thuật, ngƣời kể chuyện đƣa ngƣời đọc quay trở về với quá khứ xa xăm, tìm đến nguyên nhân khiến bao trái tim Mỹ còn nhức nhối. Xen kẽ vào cốt truyện chính là những mảnh ghép thời gian hồi ức của Claire. Chuyện mở ra bằng sự kiện Claire thức dậy và tiễn chồng đi làm. Tiếp đó là suy nghĩ của bà về buổi đầu gặp gỡ với những ngƣời bạn. Sau đó mạch kể lại trở về hiện tại bằng việc bà dặn dò ngƣời gác thang máy khi khách đến. Rồi những bà bạn đến chơi, ngƣời kể chuyện kể theo cảm xúc của nhân vật Claire. Kí ức về con của bà hiện lên xen vào những câu nói và suy nghĩ, hành động trong hiện tại. Ví nhƣ:
  • 30. 27 ―- Tôi nghĩ giờ tôi đi cắm hoa vào nƣớc đây, - bà nói. Nó viết thƣ kể cho bà nghe về những cuộc chiến xâm nhập giành quyền truy nhập tài khoản vào lúc nửa đêm… - Chị ổn chứ, Claire? Một cái chạm khẽ vào khuỷu tay bà. Là Gloria.‖ [27, tr.171-176] Bằng cách bổ thuật nhƣ vậy, tác giả bổ sung những sự kiện về con trai Claire và những bà mẹ khác một cách khá đậm đặc. Mặt khác còn cho thấy nhân vật sống cuộc sống đầy tâm trạng. Đứa con trai luôn hiển hiện trong cuộc sống của bà, nỗi đau mất con không thể nào nguôi ngoai đƣợc. Bà không mạnh mẽ nhƣ chồng, có thể lẻn vào nhà tắm xả vòi nƣớc mà khóc một trận rồi sẽ nguôi ngoai. Bà luôn sống trong ám ảnh đau thƣơng, quá khứ và hiện tại dƣờng nhƣ đồng hiện, bóp nghẹt trái tim bà. Có lẽ đó là lí do chúng ta gặp rất nhiều những đoạn văn thể hiện sự rối bời của Claire kiểu nhƣ thế này trong tác phẩm: ―Bà duỗi bàn tay chống lên quầy bếp. Những ngón tay choãi ra ấn xuống bàn. Joshua. Có phải cái tên ấy đã khiến bà day dứt? Có phải bởi họ chƣa nhắc đến tên nó? Có phải bởi nó đã chẳng hiển hiện trong suốt cuộc trò chuyện buổi sáng nay?... Thôi đủ rồi. Đủ rồi. Bƣng khay lên. Đừng nghĩ nhảm nhí nữa. Mọi thứ đang thật tuyệt. Nụ cƣời đó của Gloria. Những bông hoa tuyệt đẹp. Ra ngoài. Bây giờ. Đi thôi.‖ [27, tr.179]. Bên cạnh lối đảo thuật và bổ thuật, chúng ta còn bắt gặp cách kể chuyện dự thuật trong Người đi dây dù rất hiếm. Đó là những đoạn kể chuyện tƣơng lai khi đang ở thì hiện tại nhƣ đoạn Gloria kể về gia đình, bà nhắc tới hai đứa bé gái, sau đó trong đoạn kể tiếp về cuộc gặp gỡ ở nhà Claire mới cho ngƣời đọc biết hai đứa bé đó là con của Jazzlyn. Hoặc nhƣ đoạn Adelita kể về ngƣời yêu của mình – linh mục Corrigan. Chủ thể kể chuyện đang kể chuyện họ vừa trải qua một đêm làm tình đầy hứng khởi thì đột ngột chuyển sang kể chuyện sẽ xảy ra sau đó khá lâu, sau khi Corrigan gặp tai nạn và qua đời. ―Một tuần sau – sau vụ tai nạn – tôi về nhà và nhặt nhạnh đám râu tóc của anh còn dính trên thành bồn rửa, sắp xếp chúng thành các hình thù khác nhau, một cách ám ảnh, hết
  • 31. 28 lần này đến lần khác…‖ [27, tr.475]. Báo trƣớc sự kiện sẽ xảy ra, ngƣời kể chuyện gieo vào ngƣời đọc không chỉ nỗi đau mà còn sự hồi hộp theo dõi, đợi chờ kết cục đầy thảm khốc ấy. Đó cũng là một cách lạ hóa kể chuyện để tránh nhàm chán khá thành công của Colum McCann. Một điểm khá đặc biệt của tiểu thuyết này là kể chuyện men theo tâm trạng nhân vật. Khi đó, ranh giới thời gian sự kiện bị xóa nhòa. Sự kiện, không gian cứ thế hiện lên theo lời kể của nhân vật, không quan tâm đến mối quan hệ của chúng. Nói cách khác, đó là những lát cắt thời gian ứng với những sự kiện rời rạc đƣợc tái hiện qua suy nghĩ. Tiêu biểu là thời gian trong câu chuyện của Tillie. Ngƣời đọc khó mà phân biệt đƣợc sự việc nào diễn ra trƣớc, sự việc nào diễn ra sau qua cách kể của bà. Thời gian kể bắt đầu từ lúc bà bị bắt vào tù đến khi quyết định tự tử. Nhƣng sự kiện thì diễn ra không theo trật tự nào. Đang kể chuyện hiện tại mình bị bắt, bà quay lại quá khứ năm mƣời ba tuổi với những lần đi khách đầu tiên, rồi chuyện sinh con, chuyện ở khu Lexington, chuyện những gã bảo kê, chuyện Corrigan, rồi lại ở hiện tại với việc chống lại quản trại…hiện thực và quá khứ cứ thế đan cài, chồng chéo lên nhau. Nhƣ vậy có thể nói: Tính chất phân mảnh của tiểu thuyết này thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Đó là sự phân mảnh về cốt truyện, về nhân vật và về không – thời gian. Tất cả góp phần tạo nên sự đa dạng trong cách kể, lôi kéo ngƣời đọc tham gia một cách tích cực vào việc theo dõi diễn biến của những câu chuyện khác nhau. Thông qua đó, nhà văn đƣa độc giả đến với một hiện thực khá bộn bề, với những mảng màu đen trắng khác nhau của hiện thực xã hội đầy biến động, với những con ngƣời đa tính cách, đa tâm trạng, đƣợc tái hiện từ rất nhiều góc độ nhìn. Với kĩ thuật phân mảnh và dán ghép, tiểu thuyết Người đi dây thể hiện rõ tính chất phi trung tâm. Không còn cốt truyện nào là chính, không còn nhân vật nào là chính, và cũng không có không – thời gian chính cho tất cả các câu chuyện này. Bất cứ câu chuyện nào cũng có thể trở thành trung tâm, nhân vật nào cũng có thể thu hút sự chú ý nhƣ một tâm điểm…Cuộc sống do đó đa sắc màu. 1.3. Tự sự đa chủ thể - kiến tạo biểu tƣợng giàu ý nghĩa nhân sinh Với tƣ cách là nghệ thuật ngôn từ, văn học trƣớc hết mang đặc trƣng hình tƣợng – gián tiếp. Bất cứ nghệ sĩ nào khi sáng tác văn chƣơng cũng hƣớng đến kiến tạo những
  • 32. 29 biểu tƣợng để chuyển tải thông điệp thẩm mĩ trong tác phẩm của mình. Không có biểu tƣợng sẽ không có nghệ thuật. Khái niệm biểu tƣợng thƣờng đƣợc hiểu là ―hình ảnh các vật thể, cảnh tƣợng và sự kiện xuất hiện trên cơ sở nhớ lại hay tƣởng tƣợng. Khác với tri giác, biểu tƣợng có thể mang tính khái quát. Nếu tri giác chỉ liên quan đến hiện tại, thì biểu tƣợng liên quan đến quá khứ và tƣơng lai‖ (Từ điển tâm lý học). Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học giải thích rằng: biểu tƣợng là ―Hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt‖ [56] Theo từ điển biểu tƣợng, những gì đƣợc gọi là biểu tƣợng khi và chỉ khi nó đƣợc một nhóm ngƣời đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho chính bản thân nó. Tính chất đa nghĩa của biểu tƣợng đƣợc làm nên không chỉ từ góc độ sáng tạo mà còn từ góc độ tiếp nhận. Kiến tạo biểu tƣợng do đó trở thành xu hƣớng tất yếu của quá trình mã hóa thông tin trong các tác phẩm văn chƣơng. ―Nhƣ là ngôn ngữ của cái bất tri giác, biểu tƣợng là ―một sự so sánh kéo dài‖ (J.Lemaitre), là sự thể hiện gián tiếp một ý tƣởng bằng một hình ảnh hay một câu chuyện có nội dung tƣơng tự với ý tƣởng ấy‖ (Lautréamon)…Đặc điểm chung nhất của mọi dạng thức biểu tƣợng là sự thông qua một hình ảnh cụ thể để biểu hiện một điều trừu tƣợng, ―biểu hiện một cái gì khác căn cứ vào một tƣơng ứng loại suy‖ (Agndré Lalande)‖ [3]. Biểu tƣợng bao giờ cũng có tính ƣớc lệ, tính đại diện và gợi liên tƣởng. Chiều sâu tƣ tƣởng của tác phẩm do đó một phần lớn đƣợc thể hiện qua các biểu tƣợng mà nhà văn xây dựng. Mỗi tác phẩm, mỗi nghệ sĩ sẽ có một hƣớng kiến tạo biểu tƣợng riêng, sao cho vừa dung chứa tốt nhất ý đồ nghệ thuật, lại vừa hấp dẫn ngƣời đọc, ngƣời xem. Trong tiểu thuyết này, tác giả đã xây dựng thành công khá nhiều biểu tƣợng. Đặc sắc nhất là biểu tƣợng ngƣời đi dây. Từ một sự kiện có thật trong lịch sử, soi chiếu dƣới góc nhìn của những chủ thể khác nhau, nhà văn kiến tạo một biểu tƣợng mang ý nghĩa nhân sinh vô cùng sâu sắc.
  • 33. 30 1.3.1. Tái hiện một sự kiện có thật trong lịch sử Văn học và hiện thực cuộc sống có mối quan hệ khăng khít với nhau. Hiện thực là mảnh đất màu mỡ ƣơm mầm cho sáng tác. Cuộc sống ngoài kia cung cấp cho tác giả nguồn đề tài phong phú, gợi lên trong lòng nghệ sĩ những xúc cảm ban đầu để đến khoảnh khắc nào đó nó chín muồi thành những thăng hoa nghệ thuật. Dĩ nhiên, hiện thực trong tác phẩm văn chƣơng đã đƣợc thanh lọc qua cái nhìn và quan điểm, cảm xúc của nhà văn. Ngƣời nghệ sĩ do đó không chỉ đƣa một lát cắt của đời sống vào trong tác phẩm mà không kèm theo đó một ẩn ý nghệ thuật nào. Hiện thực phản ánh luôn mang thông điệp hoặc phục vụ tối đa cho việc truyền tải thông điệp của tác phẩm văn chƣơng. Một trong những yếu tố góp phần hiệu quả nhất vào việc thể hiện ý đồ nghệ thuật là sử dụng những biểu tƣợng đa nghĩa. Có thể biểu tƣợng ấy do tác giả sáng tạo nên, cũng có thể thuộc về bản thân hiện thực. Nhƣng dẫu sáng tạo thì cũng khởi phát trên một cơ sở hiện thực cụ thể nào đó. Nhà văn tài năng sẽ là ngƣời biết lẩy ra giữa bộn bề sự kiện và con ngƣời ngoài kia những vấn đề có ý nghĩa với tất cả mọi ngƣời, đồng thời lại nhắn nhủ đƣợc những cảm nhận rất cá nhân. Cái khó là làm sao đó để độc giả nhận ra những gì hiện lên trong tác phẩm không quá xa lạ mà cũng chẳng phải thứ họ đã chứng kiến đến độ nhàm. Bởi vậy, vấn đề phản ánh để làm gì luôn đƣợc đặc biệt quan tâm. Ngƣời đi dây trƣớc hết đƣợc gợi lên từ một sự kiện có thật trong lịch sử. Đó là sự kiện nghệ sĩ ngƣời Pháp Philippe Petit đi dây giữa hai tòa tháp đôi ngày 7 tháng 8 năm 1974 – những bƣớc đi thế kỉ. Thông qua đó tác giả tạo sự liên tƣởng rất khéo tới sự kiện khủng bố 11/9 ở Mĩ. Từ năm 18 tuổi, Philippe Petit đã bắt đầu thu thập thông tin về tháp đôi và ấp ủ ƣớc mơ thực hiện buổi đi dây nối giữa hai tòa tháp ấy. Sau sáu năm tìm kiếm tài liệu song song với quá trình tập luyện, buổi sáng mùa hè năm 1974, ông và nhóm bạn đã thực hiện kế hoạch mạo hiểm này. Trƣớc đêm biểu diễn, họ đã bí mật đem vật dụng lẫn trong hàng hóa lên bằng thang máy. Họ sử dụng dây cung và một mũi tên gắn với một đoạn dây thừng để chăng cáp qua hai tòa nhà. Và rồi sáng hôm sau, buổi biểu diễn 45 phút của ông đã thu hút sự chú ý của đông đảo công chúng và cả nhà chức trách. Họ không chỉ thuyết phục mà còn đe dọa dùng trực thăng tiếp cận buộc ông phải dừng cuộc biểu diễn.
  • 34. 31 Trƣớc khi thực hiện những bƣớc nhảy tử thần trên sợi dây ở tháp đôi, Philippe Petit từng trải qua quá trình khổ luyện và thực hành đi dây giữa hai tòa tháp của nhà thờ Đức Bà vào năm 1971. Ông cũng thực hiện một lần đi dây mạo hiểm nữa vào năm 1973 trong buổi biểu diễn giữa hai trụ tháp ở phía bắc cầu Sydney Harbour. Đó là những bƣớc đệm chắc chắn để nghệ sĩ đi dây thực hiện thành công niềm khao khát của mình ở trung tâm thƣơng mại thế giới năm 1974. Sự kiện đi dây của Philippe Petit đã đi vào điện ảnh. Bởi đó không đơn thuần là một trò mạo hiểm mà còn là hành động kì vĩ của con ngƣời. Cảm hứng ấy cũng đã miên man chảy trong tiểu thuyết Người đi dây của Colum McCann. 1.3.2. Xây dựng hình tượng người đi dây như một mắt xích kết nối các câu chuyện Trên cái nền sự kiện lịch sử, Colum McCann khắc họa nhân vật đi dây cho tác phẩm của mình. Ở câu chuyện thứ nhất, từ điểm nhìn của ngƣời kể chuyện ngôi ba, một ấn tƣợng mạnh bạt vào tri giác ngƣời đọc khi ngƣời kể chuyện giới thiệu về nhân vật một cách khá mơ hồ: ―Anh ta đứng ở rìa tòa nhà, thân hình tối sẫm tƣơng phản trên nền xám của buổi sáng. Một thợ lau chùi cửa sổ chăng. Hay công nhân xây dựng. Hay nghệ sĩ nhào lộn?‖ [27, tr.5]. Cảm thức mơ hồ ấy thả ngƣời đọc vào những liên tƣởng khác nhau; để hồi hộp dõi theo câu chuyện, cũng là dõi theo từng động tác của anh ta, hòa vào điểm nhìn của trăm ngàn dân chúng Manhattan trong buổi sáng mùa hè hôm ấy. Mặc công việc, mặc thời gian. Chỉ còn lại cái ngƣớc nhìn sững lặng! Sự hoài nghi, phán đoán về anh ta chỉ đƣợc ngƣời kể chuyện tƣờng minh hóa ở phần cuối câu chuyện thứ nhất, khi ―ngƣời đàn ông đã đứng thẳng lên, tay cầm một thanh dài và mỏng, đƣa đẩy nhẹ, lƣợng sức nặng của nó, thử nâng nó giữa không trung…‖ [27, tr.13]; và ―Không khí đột nhiên ngập tràn thông cảm. Ngƣời đàn ông phía trên là một thông điệp mà họ chừng nhƣ đã biết, mặc dù trƣớc đây chƣa từng nghe qua‖ [27, tr.13]. Nếu nhƣ ở phần đầu, ngƣời kể chuyện đứng từ điểm nhìn bên ngoài để kể về ngƣời đi dây thì ở phần ―Hãy để thế giới trƣợt mãi đi‖ điểm nhìn của ngƣời kể chuyện đã bắt đầu hành trình dịch chuyển vào trong nhân vật. Bên cạnh những câu kể mang tính chất khách quan về công việc luyện tập của ―gã‖ nhƣ ―Gã đi tới giữa sợi dây, chỗ thách thức nhất. Gã tập nhảy lò cò, chuyển từ chân nọ sang chân kia. Gã cầm một cái sào nặng giúp giữ
  • 35. 32 thăng bằng…‖ [27, tr.271], ―Khoảnh khắc yêu thích của gã là chạy dọc sợi dây mà không cần đến sào thăng bằng…‖ [27, tr.271]; kể về công việc chuẩn bị cho buổi đi dây giữa hai tòa tháp đôi nhƣ ―Gã bàn bạc kế hoạch với những ngƣời bạn. Họ sẽ phải lẻn vào tòa tháp kia, đặt những trụ đỡ vào đúng chỗ…‖ [27, tr.280] là những câu văn xuất phát từ chính điểm nhìn của nhân vật. Ở những câu văn ấy, ngƣời kể chuyện men theo tâm trạng, suy nghĩ của ngƣời đi dây. Ví nhƣ: ―Chỉ đến khi trở lại căn nhà gỗ, gã mới nghĩ ra cây sào trong tay gã chính là một cột thu lôi…‖ [27, tr.272], ―Gã cảm thấy vô cùng thoải mái, dù cho lũ chuột cào lên ván sàn loạt soạt‖ [27, tr.272], ―Gã tự hỏi chúng đã nhìn gì và cảm nhận ra sao về cảnh trƣớc mắt‖ [27, tr.272], ―Gã băn khoăn không biết liệu chúng có đến và cọ mình lên những cọc gỗ khổng lồ mà gã đã đóng xuống đất làm trụ…‖ [27, tr.273]. Một đặc điểm dễ nhận thấy là nhà văn sử dụng khá nhiều từ ngữ mang tính chất độc thoại khi kể về nhân vật. Dấu hiệu ấy cho thấy rõ nhất sự dịch chuyển điểm nhìn từ ngƣời kể chuyện ngôi ba vào nhân vật này. Vậy là với mảnh ghép thứ hai, với ngƣời kể chuyện thứ hai, câu chuyện về ngƣời đi dây hoàn thiện thêm một bƣớc với hành trình luyện tập, công tác chuẩn bị cho buổi biểu diễn, và đặc biệt hơn, ngƣời kể chuyện đã dần khám phá phần nội tâm nhân vật. Bản thể ngƣời đi dây tiếp tục đƣợc phơi bày trong mảnh ghép thứ ba: ―Trên nhịp đƣờng rầy tiến bộ‖. Ngƣời kể chuyện phác họa thêm một đặc điểm của anh ta: nhanh nhẹn, trí nhớ tốt và đƣợc nhiều ngƣời ngƣỡng mộ, nhất là phụ nữ; đồng thời kể tiếp về buổi biểu diễn. Tuy nhiên, ngƣời kể chuyện dƣờng nhƣ tập trung nhiều vào suy nghĩ và tâm trạng của nhân vật. Vẫn là lối kể nhằm lột tả anh ta nghĩ gì. Có thể nói, nhờ những câu văn đặc tả suy nghĩ và tâm trạng này, ý nghĩa biểu tƣợng ngƣời đi dây sáng rõ hơn. Thì ra, có những điều kì diệu đƣợc làm nên từ khoảnh khắc ―đánh mất mình‖, phút giây không cảm thấy mình là sự đốn ngộ và tận cùng trải nghiệm. Một cách rất ngẫu nhiên, ngƣời đi dây trở thành nhân vật kết nối tất cả các nhân vật, các câu chuyện trong tác phẩm. Những bà mẹ mất con trong chiến tranh bàn tán về anh, vợ chồng Lara gây tai nạn đúng vào hôm anh biểu diễn, những cô gái điếm không quan tâm lắm đến việc của anh chàng này, vị thẩm phán nóng lòng chờ đƣợc thụ lí vụ án của anh, ―nó‖ mải mê tìm kiếm ―chữ kí‖ khi ngƣời ta đang bận rộn với buổi biểu diễn trên kia…Quả thật, dù muốn hay không, mọi cuộc đời vẫn cứ quấn bện bên nhau.
  • 36. 33 1.3.3. Đưa ra những đánh giá đa chiều Tính đa thanh, phức điệu là một đặc điểm tiêu biểu của văn học hiện đại và hậu hiện đại. Theo Bakhtin, một tác phẩm có tính đa thanh, phức điệu là một tác phẩm ―tồn tại không hòa đồng nhiều tiếng nói và ý thức độc lập, bình quyền, đầy đủ giá trị, nơi tiếng nói của nhân vật bình đẳng với tiếng nói tác giả, tác giả không chỉ nói về nhân vật mà còn nói với nhân vật, quan hệ đối thoại với nhân vật‖ [5, tr.12]. Ông ví văn bản tiểu thuyết giống nhƣ bản tổng phổ một tác phẩm giao hƣởng, ―ở đấy có rất nhiều bè, nhiều bộ với những cách đi bè, phối khí phức tạp‖ [5, tr.21]. Ở tác phẩm này, chúng ta thấy tự sự đa chủ thể không chỉ giúp khắc họa thành công nhân vật mà còn giúp nhà văn đƣa ra những nhận định khác nhau, thậm chí trái chiều từ những chủ thể và điểm nhìn khác biệt. Tính chất đa thanh, phức điệu của tác phẩm một phần làm nên từ đó. Đám đông Manhattan trong khoảnh khắc hồi hộp, hứng khởi đã phát lộ nhiều quan điểm trƣớc hiện tƣợng anh chàng chăng mình giữa không trung trên chiếc dây nối liền hai tòa tháp. Nhiều ngƣời cùng chung một niềm cảm thán: ―Trời đất ơi, chuyện gì thế này‖ hay ―Lạy Chúa tôi‖ [27, tr.8]. Ai đó thiếu kiên nhẫn tỏ ra khó chịu, ―cố gào lên giọng để nó vang xa: Nhảy mẹ nó đi, thằng kia!‖ [27, tr.11]. ―Những ngƣời muốn anh ta ở nguyên đó, dính lấy sợi dây, ở đó thôi chứ đừng xa hơn – cảm thấy kinh tởm những lời gào thét ấy: họ muốn ngƣời đàn ông an toàn quay trở vào trong vòng tay của cảnh sát chứ không phải bầu trời‖ [27, tr.12]. Và hiệu ứng trái chiều quả thật vô cùng rõ nét: ―Nhảy đi, mẹ kiếp! Đừng nhảy!‖ [27, tr.12] Với điểm nhìn của nhân vật Tillie – một cô gái điếm chấp nhận nhận tội thay con để cháu mình có mẹ thì hình tƣợng ngƣời đi dây chẳng có ý nghĩa gì trong hoàn cảnh hiện tại của bà. Bởi đơn giản ―những đứa trẻ có ý nghĩa hơn nhiều so với chiếc vòng đeo khóa, hơn cả cú nhào lộn trên không trung‖ [27, tr.116]. Với điểm nhìn của Claire – một bà mẹ mất con trong chiến tranh ở Việt Nam, đang rất mong muốn đƣợc kể về con mình trong buổi họp mặt bè bạn, không muốn mọi ngƣời vì chú ý vào ngƣời đi dây mà lãng quên con mình - thì ngƣời đi dây chẳng qua là sự dại dột đánh cƣợc với mạng sống của mình: ―Cuối cùng cũng đến thế. Thật trắng trợn với cơ thể