Tài Nguyên Du Lịch Nhân Văn Trên Tuyến Đà Nẵng Quảng Trị
1. TÀI NGUYÊN DU LỊCH NHÂN VĂN
TRÊN TUYẾN ĐÀ NẴNG – QUẢNG TRỊ
Tham khảo thêm tài liệu tại Luanvantot.com
Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Luận Văn
Zalo :0934.573.149
1. Tài nguyên du lịch nhân văn trên tuyến Đà Nẵng – Quảng Trị:
Thành phố Đà Nẵng không có nhiều di sản văn hóa như các địa phương
khác.Thế nhưng, mấy năm trở lại đây, thành phố này đã phát huy nét độc đáo của
các di sản văn hóa lịch sử làm đa dạng hóa sản phẩm du lịch, níu chân du khách.Di
sản văn hóa ở Đà Nẵng đang trở thành tài nguyên du lịch hấp dẫn tạo nền tảng cho
phát triển du lịch bền vững.
Đà Nẵng mang trong mình nhiều câu chuyện về lịch sử và văn hóa thú vị. Di
tích lịch sử Thành Điện Hải là đồn lũy quan trọng góp phần đánh bại cuộc tấn công
của thực dân Pháp vào Đà Nẵng những năm 1858 - 1860. Di tích Hải Vân Quan là
một công trình quân sự do triều đình nhà Nguyễn xây dựng trên đỉnh đèo Hải Vân
vào năm 1862 để bảo vệ kinh thành Huế và giám sát các hoạt động ở cửa biển Đà
Nẵng. Di tích Nghĩa trũng Khuê Trung ghi dấu ấn lịch sử những ngày đầu đấu tranh
chống thực dân Pháp… Đây là những chứng tích có ý nghĩa lịch sử, tạo điều kiện
cho du lịch Đà Nẵng phát triển.
Một trong những điểm tham quan du lịch tâm linh thu hút du khách đến Đà
Nẵng là di tích danh thắng Ngũ Hành Sơn. Đến với Ngũ Hành Sơn là về nơi cửa
Phật, sống trong không gian huyền ảo của tiếng chuông chùa, chốn thanh tịnh nơi
chùa chiền, hang động.Một trong những điểm tham quan du lịch tâm linh thu hút du
khách đến Đà Nẵng là di tích danh thắng Ngũ Hành Sơn. Đến với Ngũ Hành Sơn là
về nơi cửa Phật, sống trong không gian huyền ảo của tiếng chuông chùa, chốn thanh
tịnh nơi chùa chiền, hang động.
2. 2.2.2.1. Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể:
a)Tại Đà Nẵng:
Bảo Tàng quân khu 5
Là một nơi ghi nhớ và cất giấu những kí ức của lịch sử dân tộc, Bảo tàng Quân
khu 5 Đà Nẵng là một điểm đến mà du khách không nên bỏ lỡ khi tới Đà thành. Đến
với không gian Bảo tàng du khách sẽ được tìm hiểu và bổ sung thêm những kiến
thức lịch sử của bản thân, đồng thời sống dậy những cảm giác sống động của một
thời kì oanh liệt, hùng tráng của dân tộc. Bảo tàng Quân khu 5 là Bảo tàng quân sự
lớn nhất Đà Nẵng – nơi lưu giữ những kỉ vật lịch sử của dân tộc trong suốt thời kì
kháng chiến giành tự do, độc lập. Với diện tích trưng bày rộng lớn (8.819 m2) Bảo
tàng tái hiện lại quá trình trưởng thành và phát triển của lực lượng vũ trang Quân
khu 5 trong suốt gần 70 năm từ 1945 cho đến nay thông qua hàng ngàn bức ảnh và
hiện vật quý giá.[27]
Hình 2.4 Bảo tàng quân khu 5
Thành Điện Hải
Thành Điện Hải trước là đồn Điện Hải, xây dựng năm 1813 gần cửa biển Đà
Nẵng. Năm 1823 cho dời đồn Điện Hải vào bên trong đất liền, trên một gò đất cao.
Đồn được xây bằng gạch. Năm 1835 đồn đổi tên là thành Điện Hải.
Thành Điện Hải là một dấu ấn ghi nhớ truyền thống đấu tranh chống Pháp của
nhân dân Đà Nẵng và nhân dân cả nước, quyết tâm giữ vững nền độc lập dân tộc,
bảo vệ lãnh thổ. Thành Điện Hải đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di
tích lịch sử quốc gia ngày 16.11.1988, được gắn bia di tích ngày 25.8.1998.[28]
3. Hình 2.5. Thành Điện Hải
Đài tưởng niệm 2-9
Tượng đài 2-9 là sự tổng hòa ý tưởng của kiến trúc sư Phạm Sỹ Chức và nhà
điêu khắc Phạm Văn Hạng cùng với cố họa sỹ, nhà điêu khắc Đỗ Toàn. Tượng đài
có bố cục chính gồm ba cánh tạo thành chân vạc chụm lại và đẩy lên cao tạo thế
đứng vững chắc, sừng sững giữa đất trời.
Điểm sáng tạo trong kiến trúc và thiết kế của công trình không chỉ thể hiện qua
những đường nét của phần chân và thân tượng mà còn ở cấu trúc lồng ghép chức
năng của phần chân đế. Dưới khối kiến trúc cao vút của tượng, một không gian
trang nghiêm được xây dựng là nơi đặt lư hương, vòng hoa và tưởng niệm các anh
hùng liệt sỹ.[29]
4. Hình 2.6 Đài tưởng niệm 2-9
b)Tại Huế:
Bảo tàng Hồ Chí Minh
Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế là nơi trưng bày, giới thiệu những
hình ảnh, tài liệu, hiện vật về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó nhấn mạnh hai nội dung chủ yếu: “Những năm
thánh Bác Hồ và gia đình Người ở Huế; “Thừa Thiên Huế với Bác Hồ và Bác Hồ
với Thừa Thiên Huế”, gồm 1.300 hình ảnh, hiện vật, tài liệu phân bố trên diện tích
sàn trưng bày 600m2, được thể hiện bằng những ý đồ và giải pháp và giải pháp mỹ
thuật hiện đại[30]
Hình 2.7 Bảo tàng Hồ Chí Minh
Trường quốc học Huế
Trường Trung học Phổ thông Chuyên Quốc học Huế là ngôi trường mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng theo học vào những năm đầu thế kỷ 20.
5. Chính tại ngôi trường này, Người đã tiếp thu nhiều tri thức mới và được giác
ngộ để trở thành một thanh niên trí thức yêu nước.
Với bề dày lịch sử hơn 120 năm, các thế hệ giáo viên và học sinh Trường
Trung học Phổ thông Chuyên Quốc học Huế luôn giữ gìn, phát huy truyền thống tốt
đẹp xứng đáng là ngôi trường Anh hùng, là cái nôi ươm mầm tri thức, tài năng cách
mạng cho miền Trung và của cả nước. Các thầy không chỉ dạy về văn hóa mà còn
dành nhiều thời gian nói chuyện với học sinh về những thành tựu dân chủ, văn minh
ở phương Tây.[31]
Hình 2.8 Trường quốc học Huế
Di tích lịch sử chín hầm
Bên cạnh những địa điểm du lịch đã trở nên quen thuộc, tỉnh Thừa Thiên- Huế
đã và đang phục dựng lại những di tích lịch sử cách mạng ghi nhớ công ơn các
chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh cho Tổ quốc.
Khu di tích lịch sử Chín Hầm thuộc thôn Ngũ Tây, xã Thủy An (nay là phường
An Tây), thành phố Huế, cách trung tâm thành phố khoảng 6km về phía Tây Nam,
dưới chân núi Thiên Thai. Gọi là Chín Hầm nhưng thực ra khu vực này chỉ có 8
hầm và 1 căn nhà lính gác nằm trên đỉnh đồi. Năm 1941, thực dân Pháp xây dựng
khu Chín Hầm để làm kho chứa vật liệu, vũ khí. Năm 1945, sau sự kiện Nhật đảo
chính Pháp (9/3/1945), phát xít Nhật lấy toàn bộ vũ khí ở đây, khu Chín Hầm bị bỏ
trống.
Thực hiện chính sách bạo tàn của chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, Ngô Đình
Cẩn với vai trò “Chúa tể miền Trung” đã cải tạo Chín Hầm trở thành những chuồng
cọp giam giữ các chiến sĩ cách mạng, những người tham gia phong trào yêu nước…
6. Khu Chín Hầm nằm trên một ngọn đồi thông xa dân cư.Diện tích toàn bộ khu
vực nhà giam là 4ha. Nhà tù Chín Hầm gồm có tất cả 9 căn hầm, mỗi hầm có chiều
dài khoảng 10m, bề ngang khoảng 6m, độ cao khoảng 4m được ngăn thành 2 dãy xà
lim chuồng cọp ở 2 bên, mỗi bên có khoảng 10 “chuồng”. Mỗi chuồng cọp dài
khoảng 2m, rộng khoảng 90cm, chiều cao 2m, phía trên các chuồng cọp được gia cố
bằng 16 thanh sắt ngang và 2 thanh sắt dọc. Căn hầm lớn nhất có diện tích 85m2,
căn nhỏ nhất 41m2. Ngô Đình Cẩn cho sửa lại các căn hầm này làm trại giam. Cấu
trúc bề ngoài căn hầm không thay đổi, chỉ gia cố lại cửa thép, lưới sắt nắp hầm. Trừ
hầm số 5, các hầm khác ngăn thành xà lim nhỏ. Theo lời kể của các nhân chứng, các
căn hầm này khi trời mưa, nước ngập đến thắt lưng; ngày nắng, nóng hầm hập như
trong lò than; trời rét, lạnh cắt da cắt thịt. Người bị giam sống chung với chuột, dòi,
muỗi mòng…[32]
Hình 2.9 Khu di tích lịch sử chín hầm
Làng Dương Nỗ
Dương Nỗ là một làng người Việt khai phá xây dựng từ khá sớm. Thuở nhỏ, Hồ Chí
Minh đã sống cùcụ thân sinh khi còn dạy học ở đây.
Tại đây hiện còn lưu giữ ngôi nhà kỷ niệm, cùng những kỷ vật gắn bó với tuổi thơ của
người.Cách đây vài thế kỷ, Dương Nỗ là làng quê sầm uất, giàu có và là mảnh đất
có truyền thống văn võ. Ngôi đình làng được xây cất từ lâu đời. Ðình Dương Nỗ
khá nổi tiếng bởi kiến trúc quy mô đẹp và thâm nghiêm, một di tích tiêu biểu cho
mô hình làng cổ Việt Nam.
Năm 1898, cụ Nguyễn Sinh Huy (thân sinh của Bác Hồ) được ông Nguyễn Viết Tuyên,
7. nhân viên Bộ hình, người làng Dương Nỗ mời về dạy cho các con mình đang chuẩn
bị kỳ thi Hương. Thời gian ấy, cậu bé Nguyễn Sinh Cung (tên gọi của Bác khi đó)
được theo cha về làng Dương Nỗ. Tại đây, cậu bắt đầu học chữ Hán cùng với những
học sinh nhỏ của cha. [33]
Hình 2.10 Làng Dương Nỗ
c) Tại Quảng Trị:
Thành Cổ Quảng Trị
Thành Cổ trở thành điểm tham quan không thể bỏ qua mỗi khi du lịch
QuảngTrị, đây được coi là nghĩa trang không nấm mồ, là ngôi mộ chung của những
người lính Thành Cổ đã ngã xuống vì quê hương vì sự hòa bình thống nhất đất
nước. Trận Thành cổ Quảng Trị là một trận chiến giữa Quân Giải phóng miền Nam
ViệtNam được sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam với Quân
độiHoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại khu vực thành cổ Quảng Trị vào
năm 1972. Đây là một trong những trận chiến ác liệt nhất của Chiến dịch Xuân
Hè1972 trong Chiến tranh Việt Nam.
Trận chiến kéo dài trong suốt 81 ngày đêm, sau khi liên tiếp đưa vào các đơn
vị bộ binh cũng như sử dụng hỏa lực bom đạn cực kỳ lớn, Hoa Kỳ và Việt Nam
Cộng hòa đã thành công trong việc tái chiếm lại Thành cổ nhưng vẫn không thể
giành lại nửa Bắc của tỉnh Quảng Trị. Tuy vậy về mặt chiến lược, sự kháng cự
mạnh mẽ của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với sự hỗ trợ về hậu cần của
Quân đội Nhân dân Việt Nam đã khiến kế hoạch tái chiếm thành cổ của đối phương
bị kéo dài tới 3 tháng so với kế hoạch ban đầu là 2 tuần.[34]
8. Hình 2.11. Thành Cổ Quảng Trị
Địa đạo Vịnh Mốc
Địa đạo Vịnh Mốc và Hệ thống làng hầm Vĩnh Linh là công trình kiến trúc
quân sự kỳ vĩ dưới lòng đất, ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Với khẩu hiệu “quân sự hóa toàn dân, công sự hóa toàn khu vực” quân dân Vĩnh
Linh đã tiến hành đào hầm hào, với nhiều công năng: trụ sở, kho hậu cần, trường
học, bệnh viện, khu vực sinh hoạt của từng gia đình…, được bố trí khắp các điểm
dân cư, dọc đường đi, ven ruộng, bờ biển, được nối thông nhau bằng hệ thống giao
thông hào chằng chịt thay cho đường trên mặt đất. Thuộc thôn Vịnh Mốc và thôn
Sơn Hạ, xã Vĩnh Thạch, dài 1.060,25m (chưa bao gồm các ngách, căn hộ...); chiều
cao đường hầm từ 1,7 - 1,8m, gồm có 13 cửa ra vào (có 6 cửa được thông lên đồi, 7
cửa thông ra hướng biển). Dọc hai bên đường hầm, có khoét các ngách nhỏ đủ sinh
hoạt cho 2 đến 4 người. Trong hầm còn có hội trường (sức chứa từ 50 - 60 người),
làm nơi hội họp, xem phim, biểu diễn văn nghệ... và một số công trình khác như:
bảng tin, nhà hộ sinh, 3 giếng nước, nhà vệ sinh, trạm phẫu thuật, trạm xá, bếp nấu
ăn (bếp Hoàng Cầm).
Hệ thống đường hầm và các công trình trong lòng đất của địa đạo Vịnh Mốc
gồm 3 tầng: Tầng 1 có tổng chiều dài 421,82m, rộng từ 0,90m - 1,1m và chiều cao
từ 1,6m - 1,75m, có độ sâu cách mặt đất 8 - 11m, đường hầm có dạng hình vòm,
lòng đường, vách, trần đào khá phẳng... Tầng 2 có độ sâu cách mặt đất 11 - 15m,
chiều dài 508,08m, cao từ 1,6m - 1,94m, rộng từ 0,8m - 1,1m. Đường hầm có dạng
hình vòm cuốn với kết cấu đất đỏ bazan vững chắc.. Trục chính tầng 3 chạy chủ yếu
theo hướng Nam rồi vòng qua hướng Đông, dài 130,35m, cao từ 1,6 - 1,74m, rộng
từ 0,8 - 1,1m, trần hình vòm cuốn, sâu cách mặt đất từ 21 - 22,5m, có 2 giếng nước,
9. 1 nhà tắm, 5 căn hầm được bố trí so le ở hai bên trục chính, 2 hệ thống cửa (10 và số
12) thông ra biển và cũng có hệ thống đường trục để nối giữa các tầng hầm với
nhau.[35]
Hình 2.12 Địa đạo Vĩnh Mốc
Cầu Hiền Lương-Bến Hải
Ðôi bờ Hiền Lương – Bến Hải là tên gọi cho một cụm di tích ở hai bên bờ
sông Bến Hải tại khu vực cầu Hiền Lương – nơi được coi là tâm điểm thể hiện cao
nhất những vấn đề lịch sử về một thời kỳ gần 20 năm chia cắt đau thương của hai
miền Nam – Bắc, và cũng là nơi chứng kiến cuộc đấu tranh bền bỉ, bi hùng của cả
dân tộc ta trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Cụm di tích này nằm ở
điểm giao nhau giữa đường Quốc lộ 1A và sông Bến Hải; phía Bắc thuộc thôn Hiền
Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh; phía Nam thuộc thôn Xuân Hòa, xã
Trung Hải, huyện Do Linh;cách thị trấn Hồ Xá 7km về phía Nam và cách Thành
phố Ðông Hà 22km về phía Bắc.[36]
Hình 2.13 Cầu Hiền Lương
10. Đường 9
Nghĩa trang Quốc gia Đường 9 nằm trên Quốc lộ 9, P. 4, nằm ở phía Tây, cách
trung tâm thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị khoảng 6km. Vì vậy, du khách có thể
lựa chọn rất nhiều phương tiện khác nhau để di chuyển tham quan và viếng mộ các
anh hùng liệt sĩ tại nghĩa trang này. Nghĩatrang Quốc gia Đường 9 được xây dựng từ
1983, đến nay nghĩa trang này đã trở nên điểm đến của nhiều người dân và du
khách.Nghĩa trang liệt sỹ đường 9, được xây dựng năm 1995, là nơi yên nghỉ của
hàng ngàn các anh hùng, liệt sỹ, đầy đủ cấp bậc, quân hàm.Họ là những bộ đội,
những dân quân, những thanh niên xung phong xả thân quên mình cứu nước. [37]
Hình 2.14 Nghĩa trang đường 9
Khe Sanh
Khe Sanh nằm trên quốc lộ số 9 thuộc huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị, cách
thị xã Đông Hà khoảng 63 cây số về phía tây. Khe Sanh được cả thế giới biết đến
như là “Điện Biên Phủ thứ hai” hay là chốn “địa ngục trần gian” theo cách cảm
nhận của thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong 77 ngày bị vây hãm ở Khe Sanh từ ngày
21-1 đến ngày 8-4-1968. Khe Sanh nằm lọt thỏm trong một thung lũng đất đỏ cao
hơn mặt nước biển khoảng 400m, bốn bề là đồi núi trùng điệp. Đây là một trong ba
"mắt thần" - Khe Sanh, Làng Vây và Tà Cơ, của hàng rào điện tử McNamara. Tại
Khe Sanh Quảng Trị đã diễn ra những trận đánh lớn trong chiến dịch Đường 9 -
Khe Sanh năm 1968, chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971.Tổng thống Mỹ
Johnson đã từng yêu cầu Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ ký
cam kết bằng máu quyết tâm giữ Khe Sanh.[38]
11. Hình 2.15 Khe Sanh
Căn cứ Dốc Miếu
Căn cứ quân sự Dốc Miếu thuộc xã Gio Phong, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng
Trị. Đây là một điểm du lịch Quảng Trị nhắc nhớ khá nhiều điều về thời chiến. Di
tích lịch sử này trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, địch đã
lập đồn chốt tuyên bố là pháo đài bất khả xâm phạm. Tại đây, Mỹ đã cho xây dựng
hàng rào điện tử Mc Namara, gồm 12 lớp kẽm gai cao 3 mét, có cài mìn, cùng hệ
thống bãi mìn tự động dày đặc hàng trăm mét. Bên cạnh đó, tại đây địch còn cài
phương tiện thông tin, hệ thống đèn pha để chống mọi cuộc tiếp cận của ta. Quân số
của địch đóng tại đây rất đông, trong đó có một đội ngũ biệt kích biên giới được ví
là “hồn ma biên giới” thường xuyên chống phá các hoạt động du kích của quân ta.
Dốc Miếu trở thành cứ điểm quan trọng nhất của phòng tuyến Mc Namara. Đế
quốc Mỹ hiểu được điều đó đã cho xây dựng hệ thống hầm nhà vòm, lô cốt, trận địa
pháo, trận địa phòng khôn…để chống lại mọi cuộc xâm nhập của ta[39]
12. Hình 2.16 Căn cứ Dốc Miếu
Đảo cồn cỏ
Đảo Cồn Cỏ nằm cách cảng Cửa Việt, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị gần
30km, còn có tên gọi khác là Hòn Cỏ, Con Hổ, hay Hòn Mệ. Do được hình thành
bởi hoạt động kiến tạo từ phun trào của núi lửa nên đảo có giá trị về địa chất và sinh
thái, cảnh quan như một bảo tàng thiên nhiên với các thềm đá bazan độc đáo dọc bờ
biển, các bải tắm nhỏ hoang sơ được tạo thành từ vụn san hô, sò, điệp, cát... Đặc
biệt, khi tới Cồn Cỏ, du khách đừng quên tham quan Nhà truyền thống đảo Cồn Cỏ,
nơi lưu giữ kỷ vật tái hiện lịch sử hào hùng của quân và dân huyện đảo, dâng hương
tại Đài tưởng niệm tôn vinh những người lính anh dũng đã hy sinh để bảo vệ biển
đảo Tổ Quốc hay ghé thăm nhiều điểm tham quan hấp dẫn như: Cột cờ Tổ
quốc, ngọn hải đăng đảo Cồn Cỏ, bến Nghè, bến Tranh...
Cùng với việc đầu tư cơ sở hạ tầng, liên kết phát triển tour, tuyến du lịch và
đẩy mạnh khai thác thế mạnh của địa phương, đảo Cồn Cỏ được kỳ vọng sẽ ngày
càng phát triển, thu hút đông đảo khách du lịch trong nước và quốc tế.[40]
13. Hình 2.17 Đảo Cồn Cỏ
2.2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể
Tên lễ hội Thời gian Địa điểm
Quy mô,
sứchấp dẫn
Sức chứa
Đối tượng
thu hút
Lễ
hộiThống
Nhất
NonSông
Bờ Hiền
Lương
Lễ hội mang
ýnghĩa
thiêngliêng, của
dântộc Việt Nam
Hơn chục
ngànngười
Kháchtrong
vàngoài
nước
Lễ hội Thống Nhất Non Sông
Tại buổi lễ, đoàn đại biểu đã dâng hai bầu nước được lấy từ nơi địa đầu biên
giới phía bắc của Tổ quốc - đầu nguồn suối Lê Nin và từ cuối dòng sông Hậu, nơi
hợp lưu của chín dòng sông phương Nam hoà cùng nước dòng sông Bến Hải. Đoàn
đại biểu cũng đã đến dâng hoa, dâng hương tại Nhà lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn;
đài tưởng niệm Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Đường 9; Thành Cổ thị xã Quảng Trị và
Nghĩa trang liệt sỹ quốc gia Trường Sơn ở xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong.
Nằm trong phần lễ chính của lễ hội vào ngày 30/4, tại kì đài phía bắc cầu Hiền
Lương các đoàn đại biểu đại diện các tỉnh thành trong cả nước và đông đảo ngƣời
dân địa phương đã long trọng làm “Lễ thượng cờ”. Lá cờ Tổ quốc trên đỉnh cột cờ
Hiền Lương lịch sử là niềm tự hào của dân tộc, niềm kiêu hãnh, ý chí, niềm tin và
sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam, là màu son rực rỡ của lịch sử đấu tranh
14. xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong khuôn khổ lễ hội, Ban tổ chức còn tổ chức các
hoạt động như: bắn pháo hoa, liên hoan tuyên truyền lưu động, hội trại và đua
thuyền.[41]
Hình 2.18. Lễ hội Thống Nhất Non Sông
2.2.3. Tiềm năng về cơ sở vật chất – kỹ thuật trên tuyến Đà Nẵng – Quảng Trị:
2.2.3.1. Điều kiện cơ sở hạ tầng:
Trong những năm qua, khu vực Đà Nẵng - Quảng Trị luôn đầu tư nhằm nâng
cao chất lượng cơ sở hạ tầng nhằm phục vụ cho công tác phát triển du lịch.Đồng
hành cùng chương trình phát triển du lịch về nguồn có điều kiện giao thông khá
thuận lợi cả về đường bộ, đường sắt và đường thủy. Qua địa phận này có các tuyến
giao thông huyết mạch như:
- Có Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc Nam đi qua;
- Có Đường 9 qua cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo nối với đường Xuyên Á cho phép
Quảng Trị có thể giao lưu kinh tế với các nước Lào – Thái Lan – Myanmar;
- Cảng biển Cửa Việt đáp ứng trọng tài tàu 5.000 DWT, Cảng biển nước sâu Mỹ
Thủy trong tương lai có trọng tài tàu 100.000 DWT;
- Cảng sân bay Quốc tế Phú Bài – Huế 92 km và sân bay Quốc tế Đà Nẵng 170
km về phía Nam, cách sân bay Đồng Hới – Quảng Bình 107 km về phía Bắc;
- Quốc lộ 15A đi từ cửa khẩu La Lay đến Cảng biển Mỹ Thủy dài 105km (đang
xây dựng);
- Đường cao tốc nối Cam Lộ với La Sơn, Túy Loan;
- Khu vực nằm trên tuyến Hành lang Kinh tế Đông – Tây (EWEC): Hành lang
Kinh tế Đông – Tây dài 1.450 km, đi qua 4 nước, bắt đầu từ Myanmar, Thái
15. Lan, Lào đến Việt Nam qua cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo. Điểm đầu hướng ra biển
Đông là Cảng Cửa Việt Quảng Trị.
2.2.3.2. Điều kiện vật chất - kỹ thuật:
Bảng 2.1. Số lượng khách sạn 2015 – 2019 tại Đà Nẵng
Chỉ tiêu 2015 2016 2017 2018 2019
Số lượng 490 535 693 786 820
Theo bảng số liệu trên cho thấy tình hình hoạt động kinh doanh của các cơ sở
lưu trú có hiệu quả đáng kể, số lượng khách sạn không ngừng tăng lên mỗi năm. Số
khách sạn từ 1* - 5* trong vòng 5 năm từ 490 (2015) lên 820 (2019). Với con số
tổng về các khách sạn như vậy đã đáp ứng cơ bản về nhu cầu lưu trú của khách du
lịch.
Bên cạnh những nhà hàng, khách sạn cao cấp, hiện đại giành cho những đối
tượng có khả năng chi trả cao thì những nhà hàng, khách sạn với quy mô nhỏ hơn
cũng được chú trọng đâu tư đáp ứng nhu cầu khách du lịch.Cơ sở vật chất du lịch là
một trong những nền tảng để phát triển tốt cho hoạt động du lịch. Trong thời gian
qua, Đà Nẵng từng bước phát triển, ngày càng hoàn thiện cơ sở vật chất du lịch một
cách đầy đủ và hiện đại hơn.
Riêng tại Huế, đến cuối năm 2019, trên địa bàn toàn tỉnh có 578 cơ sở lưu trú,
tổng số phòng đạt 10.663 phòng, trong đó có 201 khách sạn với 7.518 phòng; riêng
khách sạn 3-5 sao có 27 cơ sở với 3.227 phòng. Năm 2020, Huế sẽ có them khoảng
4.000 phòng lưu trú cao cấp ở khu kinh tế Chân Mây – Lăng Cô, giúp tăng quỹ
phòng cho Huế và đáp ứng được sự tăng trưởng số lượng khách.
Còn tại TP Đông Hà có 43 khách sạn trong đó có 02 khách sạn 4 sao và 05
khách sạn 3 sao với khoảng 1.200 phòng. Ngoài ra, hệ thống nhà nghỉ cũng góp
một phần đáp ứng nhu cầu ở bình dân cho du khách với 23 cơ sở cùng 340 phòng.
Hệ thống nhà hàng, các cơ sở ăn uống tại Quảng Trị còn hạn chế. Tuy nhiên hiện
nay trong thời gian qua, Quảng Trị từng bước phát triển và ngày càng hoàn thiện cơ
sở vật chất du lịch một cách đầy đủ và hiện đại hơn. [42]
2.3. Thực trạng phát triển du lịch về nguồn tuyến Đà Nẵng – Quảng Trị:
55
16. 2.3.1. Khái quát tình hình phát triển du lịch về nguồn trên tuyến Đà Nẵng –
Quảng Trị:
Với những giá trị như vậy là điều kiện để phát triển loại hình du lịch về nguồn
trên một vùng đất đầy tiềm năng này.Tuy nhiên, trên thực tế thì những tiềm năng
này vẫn đang còn bỏ ngỏ, chưa tương xứng.Có chăng cũng là việc khai thác một số
điểm tạo nên một số tour, tuyến du lịch về nguồn hay văn hóa một số công ty du
lịch trong và ngoài tỉnh.Loại hình này hiện vẫn chưa nằm trong định hướng phát
triển các loại hình du lịch của thành phố.
Hiện nay, du khách đến với loại du lịch về nguồn trên tuyến Đà Nẵng – Quảng
Trị còn ít, một phần do công tác quảng bá chưa có chiều sâu.Du khách chưa biết
nhiều đến giá trị di sản văn hóa.Cơ sở hạ tầng về du lịch trong các địa điểm di sản
chưa được đầu tư nhiều. Sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chủ yếu dựa vào tài nguyên
du lịch sẵn có. Chưa khai thác tốt tiềm năng sản phẩm du lịch hiện có.Đặc biệt là du
lịch dựa vào di sản văn hóa, du lịch làng nghề, di tích lịch sử.
Chưa tổ chức tốt các hoạt động phụ trợ để đáp ứng nhu cầu về ẩm thực, giải trí,
nghỉ dưỡng của du khách.
Tuy chưa được hình thành tuyến du lịch cụ thể, nhưng những di tích lịch
sửcách mạng, đình làng, lăng mộ, di tích lịch sử, các lễ hội … vẫn là những điểm du
lịch độc lập đƣợc quản lý, thu hút hàng ngàn lượt khách đến mỗi năm.
2.3.1.1. Lượng khách:
Bảng 2.2. Lượng khách du lịch đến Đà Nẵng giai đoạn 2015 – 2019
(đơn vị: nghìn lượt khách).
Chỉ tiêu 2015 2016 2017 2018 2019
Tổng KDL 4.600 5.510 6.600 7.600 8.700
Quốc tế 1.250 1.660 2.300 2.800 3.550
Nội địa 3.350 3.850 4.300 4.700 5.150
Nguồn: Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Đà Nẵng
Từ 4,6 triệu lượt (2015) lên đến hơn 8,7 triệu lượt (2019). Trong vòng 5 năm,
lượng khách tăng gấp 2,3 lần so với năm 2015. Trong đó, khách quốc tế ngày càng
tăng nhanh, từ 1.250.000 lượt năm 2015 lên năm 2019 đạt 3.522.928 lượt, tăng hơn
1.860.000 so với năm 2016. Khách nội địa cũng ngày càng tăng mạnh, tăng hơn 1,8
17. triệu lượt. Kết quả cho thấy, lượng khách quốc tế đến Đà Nẵng năm 2019 tăng lên
khoảng 22,5% và khách du lịch nội địa tăng 8% so với năm 2018. Trong tương lai
sắp tới, xu hướng khách nội địa và khách quốc tế đến Đà Nẵng tiếp tục tăng mạnh
nhờ có chiến lược quảng bá, nâng cao chất lƣợng, sản phẩm du lịch, dịch vụ…
Những kết quả đạt được trong những năm qua là sự góp phần không nhỏ của
các điểm đến du lịch về nguồn. Theo tình hình phát triển chung của ngành du lịch
thành phố Đà Nẵng thì lượng khách đến các điểm di tích lịch sử, làng cổ cũng ngày
một đông đảo hơn, không chỉ khách nội địa mà cả khách quốc tế nữa.
Tại các khu du lịch Sơn Trà, Bà Nà là những nơi mà khách du lịch chọn làm
điểm đến vào những ngày hè nóng nực để nghỉ dưỡng, vui chơi với lượng khách
mỗi năm được tăng lên.
Kết quả đạt được như vậy cho thấy tình hình khai thác loại hình du lịch đang
ngày càng được chú trọng, tạo nên một sức hấp dẫn mới cho các danh thắng tại đây.
Bảng 2.3. Lượng khách du lịch đến Huế giai đoạn 2015 – 2019
(đơn vị: triệu lượt khách).
Chỉ tiêu 2015 2016 2017 2018 2019
Tổng KDL 3.126.495 3,250.000 3.800.000 4.250.000 4.810.000
Quốc tế 1.023.015 1.080.000 1.501.226 1.950.000 2.186.747
Nội địa 2.103.480 2.170.000 2.298.774 2.300.000 2.623.253
Nguồn: Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế
Từ 3,1 triệu lượt (2015) lên đến hơn 4,8 triệu lượt (2019). Trong vòng 5 năm,
lượng khách tăng gấp 1,55 lần so với năm 2015. Trong đó, khách quốc tế ngày càng
tăng nhanh, từ 1.023.015 lƣợt năm 2015 lên 2.186.747 lượt năm 2019, tăng hơn
1.163.732 so với năm 2015. Khách nội địa cũng ngày càng tăng mạnh, tăng nhẹ
519.773 nghìn lượt. Kết quả cho thấy, lượng khách quốc tế đến Huế năm 2019 tăng
lên nhanh.
Những kết quả đạt được trong những năm qua là sự góp phần không nhỏ của
các điểm đến du lịch về nguồn. Theo tình hình phát triển chung của ngành du lịch
thành phố Huế thì lượng khách đến các điểm di tích lịch sử, làng cổ cũng ngày một
đông đảo hơn, không chỉ khách nội địa mà cả khách quốc tế nữa.
Tại các điểm du lịch như Đại Nội Huế, chùa Linh Mụ, hệ thống lăng tẩm của
các vị vua triều Nguyễn là những nơi mà khách du lịch chọn làm điểm đến tham
18. quan nhiều khi đến đây.Kết quả đạt được như vậy cho thấy tình hình khai thác loại
hình du lịch tìm hiểu lịch sử đang ngày càng đƣợc chú trọng, tạo nên một sức hấp
dẫn mới cho các điểm du lịch tại đây.
Bảng 2.4. Lượng khách du lịch đến Quảng Trị giai đoạn 2015 – 2019
(đơn vị: nghìn lượt khách).
Chỉ tiêu 2015 2016 2017 2018 2019
Tổng KDL 1.400.000 1,100,000 1.649.000 1.820.000 2.000.000
Quốc tế 200.000 165.000 37.458 168.000 176.000
Nội địa 1.200.000 935.000 308.708 1.652.000 1.900.000
Nguồn: Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Quảng Trị
Từ 1,4 triệu lượt (2015) lên đến hơn 2 triệu lượt (2019). Trong vòng 5 năm,
lượng khách tăng gấp 1,5 lần so với năm 2015. Trong đó, khách quốc tế ngày càng
giảm nhẹ từ 200.000 lượt năm 2015 giảm xuống còn 176.000 lượt năm 2019, giảm
24.000 nghìn lượt so với năm 2015. Khách nội địa tăng giảm không đồng đều, năm
2015 khách nội địa đạt 1.200.000 lượt đến 2019 là 1.900.000 lượt chỉ tăng 200.000
nghìn lượt . Kết quả cho thấy, lượng khách quốc tế đến Quảng Trị năm 2019 giảm
nhẹ, lượt khách nội địa tăng nhẹ.
Những kết quả đạt được trong những năm qua cho thấy sựu phát triển du lịch
tại Quảng Trị chưa đạt được nhiều thành tựu. Theo tình hình phát triển chung của
ngành du lịch thành phố Quảng Trị thì lượng khách đến các điểm di tích lịch sử,
làng cổ, các di tích tại đây cũng khá bất ổn, không chỉ khách nội địa mà cả khách
quốc tế nữa
Tại các điểm du lịch như: thành cổ Quảng Trị, địa đạo...là những nơi mà khách
du lịch chọn làm điểm đến tham quan nhiều khi đến đây.
Kết quả đạt được như vậy cho thấy tình hình khai thác loại hình du lịch tại đây
còn nhiều hạn chế.
2.3.1.2. Doanh thu:
19. Bảng 2.5. Doanh thu du lịch Đà Nẵng trong những năm 2015 - 2019
(Đơn vị: tỷ đồng)
2015 2016 2017 2018 2019
Doanh
thudu lịch
12.700 16.544 19.403 24.060 30.973
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Đà Nẵng
Tổng doanh thu từ năm 2015 là 12.700 tỷ đến năm 2019 đặt 30.973 tỷ. Doanh
thu cho thấy việc khai thác du lịch tại đây đạt hiểu quả vô cùng tốt.
Bảng 2.6. Doanh thu du lịch Huế trong những năm 2015 - 2019
(Đơn vị: tỷ đồng)
2015 2016 2017 2018 2019
Doanh thu
du lịch
2.985 2.005 3.520 4.400 4.945
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế
Doanh thu tăng gấp 2 lần từ năm 2015 đến năm 2019 tại Huế cho thấy việc
khai thác cac thế mạnh về du lịch tại đây rất tốt và trong tƣơng lai cần phát triển
thêm.
Bảng 2.7. Doanh thu du lịch Quảng Trị trong những năm 2015 - 2019
(Đơn vị: tỷ đồng)
2015 2016 2017 2018 2019
Doanh
thudu lịch
1.453 2.400 3.130 1.624 1.782
Nguồn: Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Quảng Trị
Doanh thu năm 2015 đạt hơn 1,4 tỷ lên 1,7 tỷ năm 2019 có phần tăng tuy nhiên
vẫn tăngchưa cao so với những tiềm năng du lịch ở đây đang có và cần có những
biện pháp giúp du lịch có sức hấp dẫn hơn để kích cầu du khách đến đây.
Từ doanh thu các điểm du lịch của các tỉnh trên suốt tuyến Đà Nẵng – Quảng
Trị cho thấy việc khai thác các điểm du lịch độc lập tại các tỉnh, thành phố rất tốt và
có sức hấp dẫn nhiều. Từ đó cho thấy du lịch về nguồn cũng góp phần tạo nên
doanh thu cho ngành du lịch tại các tỉnh thành phố nơi có các địa điểm du lịch về
20. nguồn. Tuy nhiên cần có sự liên kết các tour, tuyến, điểm du lịch để đạt hiệu quả
cao hơn trong tương lai.
2.3.1.3. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch:
Với quyết tâm đưa du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong những năm
qua, số lượng lao động trong ngành du lịch ngày tăng nhanh. Trong bối cảnh hiện
nay trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị số lượng nhà hàng, khách sạn,
quán bar ngày càng tăng, nhu cầu nhân lực cho ngành du lịch đòi hỏi rất lớn.
Hiện nay, nguồn nhân lực của Đà Nẵng – Quảng Trị cần phải tiếp tục được rèn
luyện, bồi dưỡng và đào tạo theo hướng chuyên nghiệp.
Trên thực tế, chưa có đơn vị đào tạo hướng dẫn viên du lịch hành hương
chuyên sâu, đặc biệt các kiến thức chuyên ngành liên quan đến hành hương Phật
giáo trong nước, nếu có cũng rất hạn chế.Hiện nay, ở Đà Nẵng, Quảng Trị, Huế…
cũng như trên cả nước, có rất ít cơ sở đào đạo chuyên sâu về hướng dẫn viên du lịch
về nguồn.
Cùng với hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch, trong những năm gần đây,
công tác xúc tiến quảng bá du lịch của các thành phố đã được đẩy mạnh với mục
tiêu xây dựng hình ảnh du lịch đặc thù cho Đà Nẵng- Quảng Trị với mục tiêu là
điểm đến hấp dẫn của khu vực miền Trung. Theo đó, loại hình du lịch về nguồn
cũng được tạo cơ hội được phát triển, khai thác những lợi thế về loại hình này để đạt
được mục tiêu trên.
Hiện nay, Đà Nẵng – Quảng Trị đang chủ động đưa ra những giải pháp phù
hợp, trước hết là quan niệm về hình thức du lịch này. Cần nhận thức, các di tích lịch
sử, văn hóa đang ngày càng đem lại cơ hội lớn thu hút du khách vì các giá trị văn
hóa, lịch sử, tâm linh luôn luôn ẩn chứa trong đó, nhiệm vụ của chúng ta là phải
phát huy tối đa những giá trị của từng “địa chỉ đỏ”. Mỗi di tích lịch sử đang
đượcxây dựng một chương trình riêng và phù hợp, với nội dung hấp dẫn để quảng
bá hình ảnh tới khách.
Đà Nẵng và Quảng Trị cũng đang khuyến khích sự chung tay của xã hội cũng
như vốn đầu tư ngoài ngân sách nhà nước. Nhằm khai thác du lịch tại điểm di tích
lịch sử.
21. Vấn đề quảng bá thông tin du lịch tại các “địa chỉ đỏ” cũng đang được quan
tâm nhằm giúp du khách có cơ hội biết nhiều hơn về các tour về nguồn để có lựa
chọnphù hợp. Theo Tổng cục Du lịch Đà Nẵng (Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch),
một trong những vấn đề quan trọng nhất để phát triển du lịchvề nguồn là tính chủ
động của từng địa phương trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường công
tác tuyên truyền, quảng bá mời gọi du khách tìm đến.
Hiện nay việc khai thác tuyến du lịch về nguồn Đà Nẵng – Quảng Trị còn rất
nhiều hạn chế.
Tại TP Quảng Trị và các thành phố: Huế, Đà Nẵng…, thực trạng các địa chỉ du
lịch về nguồn chưa được khai thác thật sự hiệu quả. Ví dụ khu di tích lịch sử địa đạo
Vĩnh Mốc là nơi lưu dấu kỳ quan đánh giặc độc đáo của quân, dân ta.Khu di tích
đón 643.000 lượt khách, chủ yếu là học sinh, sinh viên, cựu chiến binh. Theo
Nguyễn Văn Chiến: “Một trong những hạn chế trong phát triển du lịch ở đây là do
công tác tuyên truyền, quảng bá chưa xứng tầm; việc phối hợp với các công ty du
lịch còn thiếu gắn kết; hệ thống các dịch vụ đi kèm còn thiếu và yếu”.
2.3.2.Các sản phẩm du lịch đang khai thác trên tuyểnĐà Nẵng – Quảng Trị:
Sản phẩm du lịch chủ yếu trên tuyến Đà Nẵng – Quảng Trị là tham quan vui
chơi, giải trí, tìm hiểu lịch sử ...nhờ vị trí thuận lợi, nhiều địa điểm du lịch thu hút
như: biển Mỹ Khê, Chùa Linh Ứng Bãi Bụi, Bà Na Hill, Bảo Tàng Chăm, Đại Nội
Huế, Lăng Tẩm Triều Nguyễn, Đảo Cồn Cỏ…
Sản phẩm du lịch Quảng Trị nhờ vào Quảng Trị được coi là một bảo tàng
chiến tranh lớn, một sa bàn đầy đủ nhất để giới thiệu về chiến tranh Việt Nam, một
cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong thế kỷ 20. Với nhiều du khách quốc tế, một
trong những lý do để họ tìm đến Quảng Trị là để tìm hiểu và hồi tưởng về quá khứ
của họ. Bên cạnh đó, Quảng Trị được biết đến như một vùng đất có nhiều di tích
lịch sử nhất Việt Nam với 431 di tích lịch sử cách mạng trong tổng số 498 di tích và
danh thắng của Quảng Trị đƣợc kiểm kê, đánh giá. Trong số 70 nghĩa trang liệt sĩ ở
Quảng Trị, thì có đến hai nghĩa trang quốc gia (Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn và
Nghĩa trang Quốc gia đường 9) nơi yên nghỉ của hơn 6 vạn liệt sĩ, một địa chỉ hành
hương của người dân trong phạm vi cả nước. Nói chung những sản phẩm du lịch
của Quảng Trị hầu như được tạo nên bằng máu xương của cuộc chiến tranh - điều
làm nên sự khác biệt rõ rệt so với sản phẩm du lịch ở các địa phương, vùng miền
khác. Quảng Trị có những địa danh mang dấu ấn về quá khứ của chiến tranh như:
22. sông Thạch Hãn, sông Bến Hải, cầu Hiền Lương, hàng rào điện tử McNamara,
địađạo Vịnh Mốc, Khe Sanh, Tà Cơn, Làng Vây, Đường 9 Nam Lào, nghĩa
trangTrường Sơn...vì vậy sản phẩm du lịch chủ yếu là tìm hiểu lịch sử, chương trình
du lịch về nguồn.