2. MỤC LỤC
Lời giới thiệu..............................................................................................................2
Kinh Lương – Vùng đất di sản của Hải Phòng ..........................................................5
Kinh Lương, the land of legacy .................................................................................14
Nhân Dân - Nơi đầu tiên thờ những vị thần giữ Biển Đông ......................................21
BVPL - Về vùng đất địa linh anh hùng kết thế ..........................................................28
BVPL - Giáo sư sử học Lê Văn Lan: nên khơi lại giá trị truyền thống .....................29
Dân trí – Chuyện khắc trên văn bia đình Làng Kinh Lương .....................................30
"Đánh thức" cây bồ đề ngàn tuổi ...............................................................................32
Hình ảnh .....................................................................................................................33
Văn bia .......................................................................................................................38
3. LỜI GIỚI THIỆU
Trong thời gian gần đây, một loạt các bài báo đã được phát hành về vùng đất
chính linh, anh hùng kế thế Kinh Lương, xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng Hải Phòng. Bài
“Về vùng đất địa linh, anh hùng kế thế” và bài phỏng vấn giáo sư sử học Lê Văn Lan
“Nên khơi thông lại các giá trị văn hóa truyền thống” trên báo Bảo vệ Pháp luật ngày
25/4 và 9/5/2014, “Chuyện khắc trên văn bìa Đình làng Kinh Lương” Dân Trí ngày
02/05, Bài “Đánh thức cây Bồ đề ngàn tuổi” trên báo Hải Phòng ngày 18/04 và bài viết
“Nơi đầu tiên thờ những vị thần giữ Biển Đông” trên Nhân Dân ngày 08/05/2014 đã cho
thấy đây là vùng đất có nhiều giá trị về mặt văn hóa lịch sử của Hải Phòng và của Việt
Nam.
Qua các bài báo, qua văn bia về Chùa Đót Sơn, Thần tích Thần thần sắc của Đình
Đền Khai Quốc Kinh Lương, Đống Duy, và qua các câu sấm ký như lời nhắn nhủ đối với
hậu thế của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhiều giá trị văn hóa lịch sử đã được gợi
mở, là lời giải đáp cho nhiều thắc mắc vốn đã tồn tại từ rất lâu. Kinh Lương là lời giải
đáp về Cậu Lâu, Đò Mè, một thành phố thương cảng cửa sông của Đại Việt nơi lưu dấu
tích về Chử Đồng Tử và Tiên Dung, về chiến thắng Bạch Đằng lần thứ hai trong lịch sử
dân tộc Việt vào thời kỳ Đinh Tiên Hoàng Đế ngay sau khi nước nhà tuyên bố độc lập
khỏi Trung Quốc, về những câu sấm ký từ 500 năm trước của Trạng trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm về một vùng đất sinh trạng, một trục thần đạo hướng Nam và giữ Biển Đông và về
mộ của cụ Trạng Trình mà đến nay thế hệ hậu thế vẫn chưa tìm ra và về thời điểm Phật
giáo chính thức du nhập vào Việt Nam và Trung Quốc vói Trung tâm Phật giáo Câu Lậu
tại Chùa Chuyết Sơn với một cây bồ đề gốc Ấn Độ trên nghìn năm tuổi và sự phát triển
của Phật giáo Việt Nam.
Toàn bộ những gì về vùng đất Kinh Lương đã phá sạch và xóa sạch trong cuộc
kháng chiến chống Pháp và sau khi hòa bình lập lại để không còn ai biết gì về vùng đất
này nữa. Thời gian gần đây, khi công tác xây dựng lại Đình Đền Khai Quốc và Chùa Đót
Sơn đang được tiến hành, theo lời Sấm ký của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về Kinh
Lương Chùa Đót, chính quyền địa phương và nhân dân trong vùng mới đi tìm lại các thần
tích, thần sắc và văn bia. May mắn thay, do đây là vùng đất quan trọng của Việt Nam,
những thần tích và toàn bộ những sắc phong của các vị vua nhà Nguyễn cho đình đền
Khai Quốc đều được gìn giữ nguyên vẹn tại Viện Hán Nôm. Các văn bia của Chùa Đót
Sơn cũng được dập cẩn thận và lưu tại Viện Viễn đông Bác Cổ của Pháp.
Tổng Kinh Lương có tên là Cảnh Thanh vào thời kỳ nhà Ngô Đinh Tiền Lê (thế
kỷ thứ IX-X) một thương cảng cửa sông thuộc huyện Bình Hà, phủ Nam Sách, lộ Hải
Dương. Kinh Lương, qua văn bia Chùa Chuyết Sơn Hoàng Đồ củng cố Đót Sơn tự di đà
Phật Bi, tấm bia cổ nhất của Tiên Lãng, còn có trước thế kỷ thứ V-VI nên Kinh Lương là
Thương cảng cửa sông Câu Lậu và Đò Mè như các sử gia Phương tây vẫn mô tả. Đến thế
kỷ XVIII-XIX, khi biển lùi xa, nhiều vùng đất đã xuất hiện, cùng với chính sách bế quan
tỏa cảng của nhà Nguyễn, vai trò của thương cảng cửa sông mất đi và dần biến mật.
Theo Thần tích Thần sắc về Đình Đền Khai Quốc Kinh Lương và Đống Duy,
ngay sau khi vua Đinh Bộ Lĩnh xưng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đánh dấu một thời
kỳ độc lập tự chủ, đạo thủy quân xâm lược Ma Na đã sang đánh nước ta. Vua Đinh Bộ
Lĩnh, cùng với các vị tướng vùng đất Cảnh Thanh với sự giúp đỡ của Thần Thiên Quan
Bình Lãng và Bạt hải Đại vương, từ Trang Cảnh Thanh vượt sông qua An Định, đã làm
lên Chiến thắng Bạch Đằng lần thứ hai trong lịch sử. Sau chiến thắng, các vị tướng của
vua Đinh cùng toàn bộ đạo hùng binh của mình đã hóa thần tại Cảnh Thanh để vua Đinh
dành 300 quan tiền xây dựng Đình Đền Khai Quốc và chuẩn cho muôn đời được thờ
phụng. “Công cao hộ Quốc vạn niên trường/Đức đại an dân thiên cổ thịnh” là hai câu đối
4. mà vua Đinh đã dành kính tặng Ngũ vị đẳng thần tại Kinh Lương, những vị thần giữ biển
đông của đất nước. Lịch sử được viết lại sau khi hòa bình lập lại và khi những gì về Kinh
Lương đã không còn nữa nên Chiến thắng Bạch Đằng lần thứ hai dưới thời vua Đinh đã
không còn được biết đến.
Tổng Kinh Thanh (tên trước đó của Kinh Lương) là vùng đất có liên quan mật
thiết với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Kinh Thanh còn có làng An Tử Hạ nơi quê
nhà của Thượng Thư Nhữ Văn Lan (1443-1523) của triều Lê Thánh Tông, ông ngoại của
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từ 500 năm trước, Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
dự đoán được những biến cố sẽ diễn ra đối với vùng đất này khi biết cả Đình, Đền Khai
Quốc, Chùa Đót Sơn sẽ đều bị phá, sự linh thiêng không còn ai biết đến và chỉ còn sót lại
cái am nhỏ của Chùa Đót Sơn. Thuật ngữ Tiên Lãng chưa hề xuất hiện trong thời kỳ của
ông nhưng cũng đã được biết đến. Lời sấm ký “Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi, Sông Hàn Nối
lại thì tôi lại về” và “Kinh Lương Chùa Đót/Còn sót một ngôi/Huyệt tại Thiên Lôi/Anh
hùng kế thế” cho thấy Trạng trình đã gắn việc tìm lại mộ mình vào việc khơi lại vùng đất
địa linh nhân kiệt này. Trung điểm của ba ngôi sao trong lời sấm ký của Trạng Trình, một
nơi quan trọng nhất của cả một vùng đất, chính là Đình Vận nhưng cũng đã bị phá tan
tành.
Từ văn bia của Chùa Đót Sơn và theo dư địa chí Hải Phòng, Chùa Chuyết Sơn
(Đót Sơn) được xây dựng vào thế kỷ thứ V-VI, thời kỳ nước ta chịu sự đô hộ của nhà
Lương (Trung Quốc), thời kỳ Phật giáo mới được Chính quyền đô hộ cho phép du nhập
và khuyến khích phát triển khi bản thân Lương Vũ Đế là người theo đạo Phật. Từ hòn
đảo ngoài khơi Đồ Sơn vượt qua Sông, một trung tâm Phật giáo Câu Lậu đã được hình
thành bởi các nhà buôn và nhà sư Ấn Độ. Sự ra đời của Chùa Chuyết Sơn đã kích thích
sự ra đời của hàng chục ngôi chùa khác trong vùng với kho chứa Kinh đặt tại Chùa Thiên
Tộ. Trung tâm Phật giáo Câu Lậu và Trung tâm Phật giáo Luy Lâu đánh dấu sự du nhập
chính thức của Phật giáo vào Giao Chỉ để từ đó đi lên Bành Thành Trung Quốc. Sự ra đời
của Chùa Chuyết Sơn tại vùng thương cảng cửa sông cũng là lời lý giải về đường đi của
Phật giáo. Đó chính là lý do tại sao, đến nay, Chùa Đót Sơn có cây bồ đề gốc Ấn Độ trên
1500 tuổi.
Đây là vùng đất nhận được quan tâm đặc biệt của tất cả các triều đại phong kiến
Việt Nam. Nhiều nhiều sắc phong của các triều đại đã được ban cho vùng đất này. Đạo
sắc cuối cùng được vua Khải Định ban vào ngày 25 tháng 7 năm 1924 khi vua Khải Định
tròn 40 tuổi. Kinh Lương được Chính quyền Thực dân Pháp dành sự quan tâm rất lớn nên
toàn bộ những thần tích thần sắc, văn bia về Đình, Đền và Chùa đã được dập rất cẩn thận
và được lưu tại Viện Viễn Đông Bác Cổ. Nhiều nhà sử học và khoa học Việt Nam trong
đó có cố Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng đã cố công tìm kiếm vùng đất thương cảng cổ
của Việt Nam và trục thần đạo đất nước. Do mất đi toàn bộ những giá trị di sản văn hóa
và lịch sử nên Kinh Lương chưa bao giờ được biết đến. Cùng trên dòng sông Thái Bình,
Kinh Lương có trước thì nhận định về Đò Mè tại vùng Nông Trường Quý Cao, Đa Chợ,
Xã Khởi Nghĩa cũng cần phải được xem xét lại.
Giáo sư sử học Lê Văn Lan khẳng định “nếu đặt Kinh Lương – Chùa Đót – Đền
Đống Duy vào một môi trường lịch sử - xã hội thì thấy đấy là nền của một vùng văn hóa
hướng ra biển, tiếp nhận ảnh hưởng của biển. Có nền đó thì mới có các cuộc vân du của
các thích du như các nhà sư Ấn Độ, Chử Đồng Tử, Mạc Đăng Dung…Nhờ đó mà chúng
ta mới được hưởng những di sản văn hóa vô giá là Đình, Đền, Chùa và các đường viền
bao quanh nó. Văn hóa – xã hội trên nền ấy làm cầu nối từ bấy cho đến giờ”. GS. Hoàng
Chương, Tổng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Văn hóa dân tộc
Việt Nam nhận định: Căn cứ vào những thông tin ban đầu thì Đình Khai quốc Kinh
Lương và Đền Khai Quốc Đống Duy xứng đáng là di sản văn hóa của nhân dân, của dân
tộc. Ai đã tàn phá đình đền là có tội với nhân dân với đất nước. Đã là di sản thì phải bảo
5. vệ, sắp tới chúng tôi sẵn sàng cùng với chính quyền, nhân dân địa phương và các nhà
khoa học trong và ngoài nước tổ chức hội thảo khoa học đánh giá lại chính xác giá trị
lịch sử, văn hóa để có những bước đi phù hợp tiếp theo.
Việc khôi phục lại vùng đất này là một việc cần phải làm, đúng theo ý nguyện của
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm qua lời Sấm Ký. Khi khơi lại toàn bộ những giá trị lịch
sử và tâm linh của vùng đất Tổng Kinh Lương xưa (gồm Kinh Lương, Phú Xuân, Kiến
Thiết), kết nối với xã Lý Học, Vĩnh Bảo, sẽ tạo ra một Trục Thần Đạo, giúp đất Việt giữ
được Biển Đông, mở mang bờ cõi đến tận mũi Cà Mau như ngày nay đúng như lời tiên
tri mà Trạng Trình đã dành cho Chúa Nguyễn Hoàng với “Hoành Sơn Nhất Đái/Vạn đại
dung thân”.
6. KINH LƯƠNG – VÙNG ĐẤT CỦA DI SẢN
Trong thời gian gần đây, một loạt các bài báo đã được phát hành về vùng đất
chính linh, anh hùng kế thế Kinh Lương, xã Cấp Tiến, huyện Tiên Lãng Hải Phòng. Bài
“Về vùng đất địa linh, anh hùng kế thế” và bài phỏng vấn giáo sư sử học Lê Văn Lan
“Nên khơi thông lại các giá trị văn hóa truyền thống” trên báo Bảo vệ Pháp luật ngày
25/4 và 9/5/2014, “Chuyện khắc trên văn bìa Đình làng Kinh Lương” Dân Trí ngày 02/05
và bài viết “Nơi đầu tiên thờ những vị thần giữ Biển Đông” trên Nhân Dân ngày
08/05/2014 đã cho thấy đây là vùng đất có nhiều giá trị về mặt văn hóa lịch sử của Hải
Phòng và của Việt Nam. Khi nghiên cứu thêm về vùng đất này, nhiều giá trị lịch sử khác
đã được gợi mở, có thể là lời giải đáp cho nhiều thắc mắc vốn đã tồn tại từ rất lâu về một
thành phố thương cảng cửa sông của Đại Việt và về lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Kinh Lương, Thương cảng cửa Sông Câu Lậu cổ và Đò Mè
Câu Lậu là thuật ngữ do nhà Hán đặt sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng. Sách Tiền Hán thư (Địa lý chí) chép quận Giao Chỉ thời Hán gồm 10 huyện: Liên
Thụ, An Định, Câu Lậu, Mi Linh, Khúc Dương, Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên,
Chu Diên. Nhiều tác giả cho rằng Câu Lậu gồm các phần đất thuộc huyện Vĩnh Bảo, Tiên
Lãng, An Lão, Kiến An và Kiến Thuỵ ngày nay.
Trong Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng ghi rằng “Câu Lậu giáp sông, …đối
với huyện An Định chảy vào sông Uất”.1 Thủy kinh chú quyển 37 tờ 6b4-6, “Bến đò
Quan tắc xuất phát từ đó, song nó từ phía đông huyện đi qua huyện An Định và Trường
Giang của Bắc Đái. Trong sông, có nơi vua Việt vương đúc thuyền đồng. Khi nước triều
rút, người ta còn thấy dấu vết. Sông lại chảy về phía đông, cách sông có thành Nê Lê,
người ta bảo là do Vua A-dục dựng”. Theo Giao Châu ký của Lưu Hân Kỳ (viết trong
những năm 360-420)”thành Nê Lê ở phía Đông Nam huyện An Định, cách sông bảy
dặm, tháp và giảng đường do vua A-dục dựng vẫn còn. Những người đốn hái củi gọi là
kim tượng”. Truyền thuyết về Chử Đồng Tử cũng có đề cập tới việc Chử Đồng Tử kinh
doanh tại vùng đất thương cảng cửa sông và gặp được Quang Phật2
Căn cứ vào dữ liệu lịch sử trên, có thể khẳng định, huyện Câu Lậu là vùng đất đối
diện với huyện An Định, nơi có thành Nê Lê, địa danh đã được xác định chính xác là Đồ
Sơn của Hải Phòng. Trong Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài 1688, của William
Dampier, khi mô tả về hệ thống đường thủy từ biển vào thương cảng Đò Mè lên Phố
Hiến và Kẻ Chợ, có nhấn mạnh “Mốc đánh dấu con sông này là một trái núi to, cao và
rất dài ở trong đất liền, mà người ta gọi là Núi Voi… với mốc hải tiêu như thế và căn cứ
vào chiều sâu của nước như trên, ban có thể buông neo để chờ hoa tiêu đến.”3 Do đó, có
thể khẳng định, đến tận thế kỷ XVII, biển nằm rất sâu trong đất liền và thậm chí Núi Voi,
một địa danh ở Huyện An Lão được coi như một mốc hải tiêu, thì An Lão, Kiến An và
phần lớn Kiến Thụy chưa thể xuất hiện.
Như vậy có thể khẳng định, vùng đất đối diện với thành Nê Lê, Đồ Sơn thuộc
huyện An Định thời điểm đó là một vùng đất thương cảng cửa khẩu, nơi đón nhận và
thông quan cho các tàu buôn nước ngoài từ biển trước khi lên các khu vực khác của Giao
Chỉ bằng đường sông. Huyện Câu Lậu bấy giờ chỉ bao gồm các một phần đất thuộc
huyện Tiên Lãng ngày nay và vùng Tứ Kỳ Hải Dương. Khoảng cách bảy dặm từ vùng đất
1 Đồng Hồng Hoàn và Trịnh Minh Hiên, Thành Nê Lê – Đồ Sơn thời kỳ Asoka, Viện Nghiên cứu Phát triển TP Hồ Chí
Minh, Trang 12
2 http://khoaichau.hungyen.gov.vn/Pages/gioi-thieu-chung-93/di-tich-lich-su-126/truyen-tinh-chu-dong-tu-tien-dung-
134/Su-tich-Chu-Dong-Tu-Tie-81c3187f2b339462.aspx
3 William Dampier, Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài 1688, trang 35,
7. này đến Đồ Sơn như nêu trong Giao Châu Ký của Lưu Hân Kỳ cũng bằng khoảng cách
như mô tả của William Dampier trong Hành trình và Khám phá. Con sông mà các sử gia
nhắc đến để đi lên Phố Hiến hay Kẻ Chợ như mô tả bởi các nhà buôn Phương Tây chính
là dòng sông Thái Bình. Do đó bến đò Quan Tắc trước đó, Câu Lậu phải là một và là
vùng đất cao nhất và cổ nhất của Tiên Lãng bây giờ, giáp với Sông Thái Bình.
Bản đồ Đàng Ngoài thế kỷ XVII, trích từ bản đồ của Samuel Baron, Churchill, A collection of voyages and
travel, Vol 6, London, 1974
Để xác định được vùng đất cổ nhất của Tiên Lãng, trước hết cần phải căn cứ vào
văn bia, thần tích thần sắc và khảo cứu thực tế. Tiên Lãng là vùng đất bồi ven sông Thái
Bình được tách ra thành một huyện vào thế kỷ XV sau khi biển lùi xa và nhiều vùng đất
đã xuất hiện. Thời Lý, Trần vùng đất này và Thanh Hà (thuộc Hải Dương) ngày nay có
tên là Xứ Bàng La . Thế kỷ XIV đổi thành huyện Bình Hà thuộc châu Nam Sách. Vào
năm Quang Thuận thứ nhất (1460) Lê Thánh Tông đã tách thành hai huyện Tân Minh và
Bình Hà (nay là Thanh Hà) thuộc Phủ Nam Sách. Năm 1600 do kiêng húy Vua Lê Kính
Tông (1588 – 1619) là Duy Tân nên Tân Minh đổi thành Tiên Minh thuộc trấn Hải
Dương. Năm 1884 do phạm húy Vua Hàm Nghi (1871-1943) là Nguyễn Phúc Minh (Ưng
Lịch) nên đổi thành Tiên Lãng, với từ Lãng lấy từ từ “Bình Lãng”, tên một vị thần được
thờ tại Đền khai quốc, nghĩa là bình biển. Năm 1893 tách khỏi Phủ Nam Sách tỉnh Hải
Dương nhập vào tỉnh Hải Phòng. Tỉnh này từ ngày 05/8/1902 đổi thành Phủ Liễn đến
17/02/1906 đổi ra tỉnh Kiến An. Từ sau 27/10/1962 Kiến An hợp nhất với Hải Phòng và
từ đó Tiên Lãng là huyện ngoại thành của Hải Phòng.
Trong Cuốn Văn Bia Tiên Lãng do PGS.TS Đỗ Thị Hảo, Chủ tịch Hội Văn nghệ
Dân gian Hà Nội cùng các cộng sự đã tiến hành sưu tầm, biên dịch, chú giải vào năm
2008, vùng đất Kinh Lương chỉ còn lại một tấm bia duy nhất nhưng có niên đại sớm nhất
được dựng ở chùa Đốt Sơn (Chùa Đót) với tên Hoàng Đồ Củng cố Đót Sơn Tự Di Đà
Phật Bi. Từ văn bia của Chùa Đót Sơn, có thể khẳng định Kinh Lương có trước giai đoạn
năm 502-543 khi Đót Sơn được xây dựng. Kinh Lương là vùng đất cao nhất, có sớm nhất
của vùng đất bồi Tiên Lãng, bên bờ Sông Thái Bình và như vậy, Quan Tắc, Câu Lậu và
8. Đò Mè phải nằm trong vùng đất Kinh Lương. Thuật ngữ Quan Tắc và Câu Lậu được đổi
thành Cảnh Thanh 4 vào thời kỳ nhà Đinh sau khi nước nhà giành được độc lập, chấm dứt
gần ngàn năm đô hộ của các triều đại Phong kiến Phương Bắc. Cảnh Thanh sau được đổi
là Kinh Thanh và Kinh Lương vào thời kỳ nhà Nguyễn. Sau khi hòa bình lặp lại năm
1954, Kinh Lương đã được đổi thành xã Cấp Tiến gồm các thôn Kinh Lương, Quan Bồ,
Phú Xuân, Thái Lai, Hào Nhuế, Lai Phương Hạ, Phương Lai.
Toàn bộ những gì về vùng đất Kinh Lương đã phá sạch và xóa sạch trong cuộc
kháng chiến chống Pháp và sau khi hòa bình lập lại để không còn ai biết gì về vùng đất
này nữa. Thời gian gần đây, khi công tác xây dựng lại Đình Đền Khai Quốc và Chùa Đót
Sơn đang được tiến hành, theo lời Sấm ký của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về Kinh
Lương Chùa Đót, chính quyền địa phương và nhân dân trong vùng mới đi tìm lại các thần
tích, thần sắc và văn bia. May mắn thay, do đây là vùng đất quan trọng của Việt Nam,
những thần tích và toàn bộ những sắc phong của các vị vua nhà Nguyễn cho đình đền
Khai Quốc đều được gìn giữ nguyên vẹn tại Viện Hán Nôm. Các văn bia của Chùa Đót
Sơn cũng được dập cẩn thận và lưu tại Viện Viễn đông Bác Cổ của Pháp.
Những tấm bia và đạo sắc còn được lưu về vùng đất Kinh Lương có các bia gồm
bia về Đền Khai quốc Kinh Lương như Tân Tạo hậu Thần bi, số 9566-9567 - có tóm tắt
bia trong Văn khác Hán Nôm Việt Nam, Hà Nội, KHXH, 1993, tr. 166), 13 đạo sắc
phong trong đó có 2 đạo sắc phong trong đời vua Tự Đức, một đạo trong đời vua Đồng
Khánh, 3 đạo trong đời vua Thành Thái, 1 đạo trong đời vua Duy Tân, 6 đạo trong đời
vua Khải Định. Đạo sắc cuối cùng được ban cho các vị thần đang được thờ phụng tại
vùng đất Kinh Lương được vua Khải Định ban vào ngày 25 tháng 7 năm 1924 trong dịp
đại lễ mừng Vua Khải Định tròn 40 tuổi. Toàn bộ các thần tích và thần sắc về vùng đất
này vẫn được lưu giữ tại Viện Thông tin Khoa học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. Văn
bia về Chùa Đót Sơn (Chuyết Sơn tên gốc) như Hoàng Đồ củng cố Đót Sơn Tự di Đà
Phật Bi (9571-9572) - có tóm tắt bia trong Văn khác Hán Nôm Việt Nam, Hà Nội,
KHXH, 1993, tr. 457-458, Tân tạo Bồ Đề La Hán Bi ký (số 9575-9576), Tạo thạch
Phật Bi (số 9569-9570), Tân Tạo Thiên đài trụ (số 9562-9563-9564-9565), Tín Thí
(9568), Tân tạo xế giao hậu phòng hành lang bi (số 9473-9574).
Văn bia và Đạo sắc về Đền Khai Quốc Kinh Lương cho biết Kinh Lương là nơi
thờ những vị thần giữ Biển Đông - Thần biển, Thần bình biển và ba Nhãn Thần biển,
những người đã có công giúp vua Đinh Bộ Lĩnh phá tan đạo thủy quân xâm lược ngay
sau khi vua Đinh Bộ Lĩnh xưng đế đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Sau khi giặc giã, các vị
thần đã hóa và Vua Đinh Bộ Lĩnh đã phong thần để nhân dân muôn đời thờ phụng.
“Công cao hộ Quốc vạn niên trường/Đức đại an dân thiên cổ thịnh” là hai câu đối mà vua
Đinh đã dành kính tặng Ngũ vị đẳng thần tại Kinh Lương, những vị thần giữ biển đông
của đất nước. Lịch sử được viết lại sau khi hòa bình lập lại và khi những gì về Kinh
Lương đã không còn nữa nên Chiến thắng Bạch Đằng lần thứ hai dưới thời vua Đinh đã
không còn được biết đến.
Kinh Lương còn có làng An Tử Hạ nơi quê nhà của Thượng Thư Nhữ Văn Lan
(1443-1523) của triều Lê Thánh Tông, ông ngoại của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
và có gắn với Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Lời Sấm Ký “Bao giờ Tiên Lãng xẻ
đôi/Sông Hàn nối lại thì tôi lại về” và “Kinh Lương Chùa Đót/Còn sót một ngôi/ Huyệt
tại Thiên Lôi/Anh hùng kết thế” là lời nhắn nhủ lại hậu thế về vùng đất sinh Trạng và về
vùng đất Kinh Lương. Thuật ngữ Tiên Lãng chưa hề xuất hiện trong thời kỳ của ông
nhưng ông đã biết về thuật ngữ này. Ông cũng dự đoán được những biến cố sẽ diễn ra đối
với vùng đất này khi biết cả Đình, Đền Khai Quốc, Chùa Đót Sơn sẽ đều bị phá, sự linh
4 http://dantri.com.vn/van-hoa/chuyen-khac-tren-van-bia-dinh-lang-kinh-luong-869753.htm
9. thiêng không còn ai biết đến và chỉ còn sót lại cái am nhỏ của Chùa Đót Sơn. Mất các di
trị di sản của Kinh Lương khiến các học giả không thể lý giải được về sự du nhập của
Phật giáo vào Việt Nam, không tìm được đô thị cổ Đò Mè, tạo ra sự đứt gãy về văn hóa
và lịch sử của Hải Phòng và của dân tộc. Ông cũng chỉ cho hậu thế biết huyệt đạo quan
trọng nằm tại cánh đồng Thiên Lôi, tại Làng Phú Xuân, Cấp Tiến.
Ngày 25 tháng 6 năm 2007 Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển đã tổ chức
khảo sát dọc tuyến hạ lưu sông Đàng Ngoài, bắt đầu từ làng Bến (thôn Cung Chúc, xã
Trung Lập, Vĩnh Bảo) và kết thúc tại thị xã Đồ Sơn. Đoàn gồm có: PGS.TS Nguyễn
Quang Ngọc, PGS.TS Trương Quang Hải, NCS Trần Thanh Hà, CN Đỗ Kiên, Vũ Đường
Luân, Tống Văn Lợi (Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển); PGS.TS Vũ Văn Phái,
PGS.TS Đặng Văn Bào, SV Nguyễn Quang Anh (Trường Đại học Khoa học Tự nhiên);
nhà Khảo cổ học Nguyễn Chiều, TS Hoàng Anh Tuấn, Ths Nguyễn Ngọc Phúc (Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn), PGS.TS Trần Đức Thạnh, TS Đinh Văn Huy
(Viện Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường), ông Ngô Đăng Lợi (Chủ tịch Hội Sử học
Hải Phòng), ông Nguyễn Ngọc Thao (Giám đốc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân
văn Hải Phòng), ông Nguyễn Văn Thẩm (phòng Văn hoá Thông tin huyện Tiên Lãng).
Các thành viên đoàn khảo sát bên cạnh thu thập, thẩm định thông tin, tư liệu, trao đổi về
những vấn đề còn vướng mắc, đã tương đối thống nhất với nhau trong xác định các dòng
sông cổ, cửa biển cổ và vị trí của Domea nằm tại Xã Khởi Nghĩa và ngôi chùa cổ được
xác định là Chùa Phúc Linh.5
Tiên Minh trong Đồng Khánh dư địa chí
1886-1888
Kinh Lương, Cấp Tiến Ngày nay
Nhìn vào bản đồ của Công ty Đông Ấn và từ Bản đồ của Huyện Tiên Lãng hiện
tại, vùng Kinh Lương nằm phía dưới của Nông Trường Quý Cao và Xã Khởi Nghĩa nơi
có Bến Tháp, Bến Ốc và Đa Chợ và cùng nằm trên bờ của Sông Thái Bình. Kinh Lương,
Chùa Đót và Dòng Sông Tuyết Giang đã hiện diện ở đó từ thế VI thì đô thị cổ Đò Mè
không thể ở Xã khởi Nghĩa mà phải nằm ở vùng đất Kinh Lương. Ngôi chùa ở vùng
thương cảng không phải ngôi chùa thông thường bởi nó liên quan trực tiếp đến sự truyền
bá Phật Giáo vào Việt Nam. Từ Bản đồ Công ty Đông Ấn, đô thị cổ Đò Mè phải nằm ở
dưới Cánh Đồng Mè bây giờ, phía Tây Nam của Chùa Đót, Phía Tây Bắc của Đền Khai
Quốc Đống Duy. Giếng nước ngọt là giếng thần trong làng Kinh Lương, là Nhãn Thần
của Hỏa Thần Đống Duy như theo Thần tích thần sách về Tổng Kinh Lương.
5 Nguyễn Quang Ngọc, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, 2007, Domea (Đô-mê-a) trong hệ thống thương mại đàng ngoài
thế kỷ XVII-XVIII
10. Sở dĩ, các nhà sử học và các nhà khoa học không thể xác định được về Domea là
do thiếu toàn bộ thông tin về Kinh Lương. Theo các cụ trong làng kể lại, khu vực giếng
nước ngọt, nhãn thần của Ngài Hỏa Thần Đống Duy vốn là nơi quan thuế. Ở đó, dưới
lòng đất vẫn còn một con tàu cổ. Trong quá trình làm nhà, nhiều gia đình đã đào được
nhiều mảnh sứ và nhiều đồ cổ nhưng do không biết về giá trị nên họ đều chôn đi. Vào
những năm 1980, trong quá trình đào đất, dân làng đã đào được một con tàu cổ tại làng
Phú Xuân, trong đó tìm thấy rất nhiều chum, bát vv. Những gì còn nguyên vẹn được chia
cho người dân và những gì bị vỡ thì chất thành đống, thành một cái gò gọi là “Gò Mả
Lố”.
Hạ lưu sông Đàng Ngoài thế kỷ XVII. Bản đồ của công ty
Đông Ấn Hà Lan
Hạ lưu sông Đàng Ngoài thế kỷ XVII. Bản đồ của công ty
Đông Ấn Anh
Để xác định được Đò Mè, cần phải đối chiếu ba bản đồ gồm bản đồ của Công ty
Đông Ấn, bản đồ trong Đồng Khánh Dư địa chí và bản đồ Tiên Lãng ngày nay. Hướng từ
biển vào chính là hướng từ Tử Đôi và Dương Áo trong Đồng Khánh Dư địa chí.
Chùa Chuyết Sơn – Trung tâm Phật giáo Câu Lậu
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, ngoài Đồ Sơn được xác định là nơi khởi thủy
của Phật giáo, có hai trung tâm Phật giáo gồm trung tâm Phật giáo Luy Lâu và trung tâm
Phật giáo Câu Lậu. Trung tâm Phật giáo Luy Lâu được mọi người biết đến với Chùa Dâu
tại Thuận Thành Bắc Ninh nhưng trung tâm Phật giáo Câu Lậu vẫn chưa xác định được
vị trí. Nhiều nhà sử học và nghiên cứu Phật giáo trong khi mô tả về sự phát triển của Phật
giáo Việt Nam đã nhắc đến trung tâm Phật giáo Câu Lậu với “trên Luy Lâu, dưới Câu
Lậu” nhưng dường như không có nhà nghiên cứu Việt Nam nào thực sự để tâm tới trung
tâm Phật giáo này. Việc bỏ qua vai trò của trung tâm Phật giáo Câu Lậu đã tạo ra rất
nhiều tranh cãi trong giới học giả về đường đi của Phật giáo vào Việt Nam. Nhiều học giả
cho rằng Phật giáo được truyền bá sang Việt Nam trực tiếp từ Ấn Độ sau đó sang Trung
Quốc nhưng cũng không ít học giả cho rằng Phật giáo được truyền bá từ Trung Quốc
sang Việt Nam. Đến thời điểm hiện tại, quan điểm cho rằng Phật giáo được truyền bá vào
Giao Châu trước khi sang Trung Quốc với thành Nê Lê và tháp cổ Asoka ở Đồ Sơn là nơi
bắt đầu là quan điểm thắng thế.
Dư Địa chí Hải Phòng do Hội đồng Lịch sử Thành Phố Hải Phòng biên soạn năm
1990, đoạn về vùng đất Tiên Lãng có viết "Nền văn hóa Tiên Lãng phát triển sớm. Đạo
Phật du nhập vào mảnh đất này từ thế kỷ V, VI. Khoảng thời gian ấy, Tiên Lãng đã xuất
hiện một trung tâm Phật giáo ở Chùa Đót (Cấp Tiến) với kiến trúc quy mô, bảo tháp và
tượng Phật đồ sộ. Chùa Đót đã hoạt động liên tục suốt các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc ...
11. kích thích sự ra đời của hàng chục ngôi chùa khác ở trong vùng, trong đó có hẳn một kho
chứa kinh đặt ở Chùa Thiên Tộ (Phác Xuyên - Bạch Đằng)"6.
Chùa Chuyết Sơn, Non Đông, Đốt Sơn hay Đót Sơn, tên gọi của chùa qua các
thời kỳ lịch sử. Không ai biết về số phận của toàn bộ kho kinh Phật của Chùa Đót nằm tại
thư viện Chùa Thiên Tộ (Phác Xuyên, Bạch Đằng). Số kinh Phật này có lẽ đã bị đốt sau
khi hòa bình lặp lại hoặc vẫn còn lẩn khuất đâu đó. Theo bà con trong vùng, thỉnh thoảng,
trong quá trình làm nhà hay đào đất, họ thường phát hiện những hiện vật nhưng do không
hiểu biết nên lại chôn lại. Nhưng có một chứng tích duy nhất còn sót lại của Chùa đó là
cây Bồ đề. Đức Pháp Vương Jambey Dorjee, trưởng đoàn Phật giáo Ấn Độ sang thăm
Việt Nam để tổ chức đại lễ Phật giáo từ ngày 05-16 tháng 3 năm 2014, đã khẳng định từ
cấu trúc lá Bồ đề và trường lực do cây mang lại có thể khẳng định đây là cây Bồ đề gốc
Ấn Độ. Ông Vũ Quang Diệm, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ cũng có khẳng định
tương tự bởi ông cũng là người có nhiều lần được chiêm bái và nghiên cứu sâu về cây Bồ
đề gốc Phật giáo tại Bodh Gaya, Bang Bihar, Ấn Độ. Một câu hỏi được đặt ra ai đã mang
cây Bồ đề gốc Ấn Độ sang trồng tại Việt Nam? Vai trò của chùa Đót trong lịch sử Phật
giáo Việt Nam là gì khi chùa được xây trong giai đoạn 503-543, cùng với giai đoạn ra đời
của Trung tâm Phật giáo tại Luy Lâu? Di sản của chùa Đót ở đâu hay vẫn nằm dưới lòng
đất? Trước khi bị phá vào năm 1949, liệu các vị sư cao tăng của chùa còn giữ lại những
di sản quý không? Một thông tin đáng chú ý là sự kiện Hòa thượng Thích Thanh Lạc tự
thiêu ở Sử Đồng Kệ khi ngài đạt được sự đắc đạo vào năm 1947, hai năm sau khi chùa bị
phá.
Đức Pháp Vương Jambey Dorjee dưới gốc cây Bồ đề
Theo sách Thiền Uyển tập anh, trong câu Quốc sư Thông Biện dẫn lời sư Đàm
Thiên (542-607) (trình vua Trung Hoa Tùy Cao Tổ) để trả lời hoàng thái hậu Ỷ Lan:
"Một phương Giao Châu, đường thông Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì
Giang Đông chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn hai mươi ngôi, độ Tăng hơn 500
6 Địa Chí Hải Phòng, Hội đồng Lịch sử Thành Phố Hải Phòng, Trang 223
12. người, dịch kinh 15 quyển, vì nó có trước vậy. Vào lúc ấy, thì đã có Khâu ni danh, Ma Ha
Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó. Nay lại có Pháp Hiển
thượng sĩ, đắc pháp với Tì-ni-đa-lưu-chi, truyền tông phái của tam tố, là người trong
làng Bồ-Tát, đang ở chùa Chúng Thiện dạy dỗ học trò. Trong lớp học đó không dưới 300
người, cùng với Trung Quốc không khác. Bệ hạ là cha lành của thiên hạ, muốn bố thí
một cách bình đẳng, thì chỉ riêng khiến sứ đưa Xá lợi đến, vì nơi ấy đã có người, không
cần đến dạy dỗ."
Dưới thời A-dục vương trị vì tại Ấn Độ (từ năm 273 đến 232 trước CN), nhờ sự
ủng hộ của nhà vua nên đạo Phật đã được truyền đi nhiều xứ sở bên ngoài Ấn Độ. Các
thương nhân người Ấn theo đường biển đã đến Giao Chỉ buôn bán và mang theo đạo
Phật mới mẻ đến xứ này. Sau đó đến lượt các tăng sĩ người Ấn tới đây truyền đạo, góp
phần lập ra trung tâm đạo Phật tại Luy Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc
Ninh, Việt Nam), một trong những trung tâm lớn nhất của đạo Phật tại phương Đông đầu
Công nguyên cùng với hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành (nay thuộc Trung
Quốc)7
Như vậy, có thể khẳng định Chùa Đót được xây dựng trước cuộc khởi nghĩa của
Lý Nam Đế với sự ra đời của nước Vạn Xuân và được coi là ngôi Chùa tối cổ của Việt
Nam. Hoàng Đồ Củng cố Đót Sơn Tự Di Đà Phật Bi thể hiện Chùa Đót Sơn là ngôi
chùa quan trọng trong Phật giáo của Việt Nam và được Triều đại nhà Lê, đặc biệt vua Lê
Thánh Tông, dùng quốc khố để phục dựng lại. Chùa Đót Sơn đầu tiên có tên gọi là
Chuyết Sơn8, tiếng Phạn/Hindi có phát âm tương tự Jaisan - có nghĩa nơi tràn ngập ánh
hào quang của Đức Phật hay sự đắc đạo như nhiều vị sư cao tăng cổ Việt Nam đã sử
dụng trong đó có vị sư Chuyết Chuyết, người tu ở Chùa Bút Tháp và hóa ở Chùa Phật
Tích. Chuyết Sơn cũng có thể là Chryse (đảo vàng) như các nhà thám hiểm Hy Lạp cổ
xưa thường đặt cho những mảnh đất vàng khi họ đặt chân đến9.
Khi phân tích về thời điểm chính thức của sự du nhập của Phật giáo vào Việt
Nam, cần phải có cái nhìn tổng quát về bối cảnh lich sử toàn bộ khu vực vào thời điểm
bấy giờ và điều kiện tự nhiên và xã hội của đất nước ta thời kỳ bấy giờ. Sự ra đời của
Chùa Chuyết Sơn vào giai đoạn năm 502-543 và việc hình thành Trung tâm Phật giáo
Luy Lâu cùng thời gian này đánh dấu một bước ngoặt trong sự du nhập của Phật giáo vào
Việt Nam và Trung Quốc.
Thứ nhất, vào thời kỳ này, Giao Chỉ vẫn thuộc sự đô hộ của nhà Lương, Trung
Quốc (502-557). Sau khi Lương Vũ Đế Tiêu Diễn giết chết người anh Tiêu Bảo Dung để
tiếm quyền vào năm 502, ông ta đã vấp phải rất nhiều thách thức liên quan đến sự hợp
pháp trong ngôi vị và sự đồng thuận của các quan lại trong triều, những người đang chịu
ảnh hưởng rất lớn của tư tưởng nho giáo và Lão giáo. Trong “Sự từ bi của Đức Phật và
việc sử dụng Phật giáo cho mục đích chính trị của Hoàng Đế Vũ đời nhà Lương (502-
549)”, Tom De Rauw đã viết “Phật giáo đã được Lương Vũ Đế sử dụng rất thành công
trong việc quy phục được sự ủng hộ của giới quan lại và các hầu tước phong kiến… và
cải tổ được hệ thống chính trị, văn hóa và tôn giáo, điều mà nhiều vị hoàng đế trước đó
không làm được”10. Chính vì lẽ đó, khác với giai đoạn trước khi đạo Phật được coi là
ngoại đạo và Nho Giáo và Lão Giáo là hai tư tưởng thống soái, Đạo Phật đã có chỗ đứng
7 http://www.thuvienhoasen.org/u-lspgvn1.htm
8 Viện Viễn đông Bác Cổ Pháp, Thư mục Thác bản Văn khác Hán Nôm Hoàng Đồ củng cố Đót Sơn Tự di Đà Phật Bi
(9571-9572)
9 http://en.wikipedia.org/wiki/Chryse
10 Tom De Rauw, Ghent University, Beyond Buddhist apology: the political use of Buddhism by emperor Wu of the
Liang Dynasty (r. 502-549)
13. trong xã hội Giao Chỉ cũng như Trung Quốc và được khuyến khích phát triển. Nó cũng lý
giải tại sao khu vực Dâu - Luy Lâu mới trở thành Trung tâm Phật giáo và trở thành điểm
tiếp nối đi sang Bành Thành, Trung Quốc của các nhà sư Ấn Độ.
Thứ hai, trong bối cảnh khu vực, nền văn minh Ấn Độ có ảnh hưởng mạnh mẽ. Ts
Ngô Văn Doanh, khi viết về lịch sử Vương Quốc Chăm Pa, nhận định “từ nước láng
giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp (349-756) - Vương Quốc Chăm Pa nhanh
chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu
có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ chữ cái
hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm. Nhiều ngôi đền thờ thần Shiva, vị thần
của các Thần trong Hindu giáo đã được xây dựng”11. Cùng với ảnh hưởng mạnh mẽ tại
Lâm Ấp, văn hóa Ấn Độ cũng bắt đầu có ảnh hưởng mạnh tới vùng Giao Chỉ thông qua
các hoạt động giao lưu thương mại và văn hóa, đặc biệt là Phật giáo. Con đường tơ lụa
trên biển được định hình rõ bắt nguồn từ vùng Tây Bengal Ấn Độ, qua eo biển Malacca
đến Vương Quốc Chăm Pa, Giao Chỉ và Quảng Châu vv. Giao Chỉ là địa điểm mà các
nhà buôn thường và những nhà truyền giáo Ấn Độ thường ghé qua.
Việt Nam Phật giáo sử luận của tác giả Nguyễn Lang viết “Các vị tăng sĩ này tới
viếng Việt Nam bằng đường biển, theo các thuyền buôn người Ấn. Nhưng trước khi các vị
tăng sĩ Ấn Ðộ tới Việt Nam, các thương gia Ấn Ðộ cũng đã tới Việt Nam rồi và cũng đã
mang theo sinh hoạt Phật Giáo tới xứ ta. Hồi bấy giờ (đầu kỷ nguyên) Ấn Ðộ đã có liên
hệ thưong mại trực tiếp với Trung Ðông và gián tiếp với các nước vùng Ðịa Trung Hải,
Ðế quốc La Mã tiêu thụ rất nhiều vàng, lụa, hương liệu, trầm, quế, tiêu, ngà voi, châu
báu... Ðể có đủ hàng cung cấp cho thị trường ấy, các thương gia Ấn Ðộ đã dong thuyền
đi mãi vè Viễn Ðông. Những thương thuyền này theo gió mùa Tây nam đi về Ðông Nam
Á, tời bờ biển Mã Lai, Phù Nam và Giao Chỉ. Thương gia Ấn Ðộ phải ở lại đây cho đến
năm tới, chờ cho gió mà Ðông bắc để trở về Ấn Ðộ. Trong thời gian này, họ lại sống với
dân bản xứ à đã ảnh hưởng tới dân bản xứ bằng lối sống văn minh của họ. Vì sự có mặt
của những thương gia Ấn Ðộ mà dân ta hồi đó đã biết đến ít nhiều về kỹ thuật canh tác, y
thuật và tôn giáo Ấn Ðộ. Ta có thể nói rằng chính những thương gia Ấn Ðộ đã trước tiên
đem Phật giáo vào nước ta”.
Thứ ba, từ bán đảo Đồ Sơn, một dải đất chạy theo hướng Đông Bắc, tương đối
biệt lập do Biển vẫn nằm rất sâu trong đất liền, việc truyền đạo chỉ mang tính chất hạn
chế. Khi có sự ủng hộ mạnh mẽ của chính quyền nhà Lương, Phật giáo bấy giờ mới công
khai hoạt động với việc hình thành chùa Chuyết Sơn tại vùng Thương Cảng cửa sông,
cách Thành Nê Lê, Đồ Sơn rất gần. Hoạt động truyền bá đạo Phật và hoạt động dịch thuật
nhiều văn kinh từ tiếng Phạn sang tiếng bản địa. Giai đoạn năm 503-543 mới chính thức
là thời điểm chính thức với quy mô lớn hơn với việc hình thành hai trung tâm Phật giáo,
Chùa Chuyết Sơn, trung tâm Phật Giáo Câu Lậu ở thương cảng và Luy Lâu ở trung tâm
của Chính quyền đô hộ. Nên Chùa Đót Sơn có hẳn một kho kinh đặt ở Chùa Thiên Tộ -
Bạch Đằng.
Thứ tư, là một quốc gia có chủ quyền, Chùa Chuyết Sơn, một ngôi chùa của các
nhà sư Ấn Độ có thể được đánh giá là một Hội Quán Ấn Độ với nhiệm vụ giúp các tàu
buôn Ấn Độ và các nhà truyền giáo Ấn Độ thông quan trước khi vào đất liền và giúp
nhiều vị sư của Việt Nam lên các tàu buôn Ấn Độ để sang Ấn Độ thỉnh kinh. Việc này có
thể lý giải tại sao có những giai đoạn, hàng trăm sư Ấn Độ có thể mặt tại Trung tâm Phật
giáo Dâu Luy Lâu trước khi sang Trung Quốc truyền đạo. Đây cũng là sự lý giải hợp lý
cho việc, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, từ thế kỷ thứ V đến XI, rất nhiều nhà sư Việt
Nam đã sang học Phật tại Ấn Độ.
11 Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.38-39;
14. Vào thế kỷ thứ 10 dưới thời của Đinh Tiên Hoàng Đế, thời kỳ của quốc gia độc
lập nhưng cũng là thời kỳ suy tàn của Phật giáo Ấn Độ, Chùa không còn sự hiện diện của
các nhà sư Ấn Độ và được đổi tên thành là chùa Non Đông. Chùa nằm trên địa bàn Cảnh
Thanh sau là Tổng Kinh Thanh, Huyện Bình Hà, Phủ Nam Sách, Hải Dương. Chùa gắn
liền với Đức tổ Huyền Quang, Thánh tổ Non Đông và là kinh đô của Pháp Môn Tịnh Độ
Thiền tông.
Theo các cụ cao niên trong làng, Chùa Đót Sơn có quy mô lớn và được coi là kỳ
quan của Phật giáo Việt Nam. Khuôn viên của Chùa rộng 8 mẫu trong đó có hai mẫu
vườn, một mẫu ao và năm mẫu ruộng. Ngôi Chùa chính nằm ở Hướng Đông với 100 gian
và hoành phi câu đối có ghi dòng chữ Non Đông Tự. Xung quanh chùa chính có hành
lang rộng 3 mét. Đằng sau, phía tây có 100 pho tượng La Hán bằng đá. Hai dãy nhà
ngang, một quay hướng Bắc và một quay hướng Nam theo kiều răng bừa, phía sau nhà
chính mỗi dãy 50 gian. Xung quanh hay dãy nhà ngang đều có hành lang rộng 3 mét.
Chùa có một quả chuông nặng năm tấn.
Giáo sư sử học Lê Văn Lan trong cuộc phỏng vấn Phóng viên của Báo Bảo vệ
Pháp luật về vùng đất Kinh Lương, Xã Cấp Tiến khẳng định “nếu đặt Kinh Lương - Chùa
Đót Sơn – Đền Đống Duy vào một môi trường lịch sử xã hội thì thấy đấy là nền của một
vùng văn hóa hướng ra biển, tiếp nhận ảnh hưởng của biển. Có nền đó thì mới có các
cuộc vân du của các thích du như các nhà sư Ấn Độ, Chử Đồng Tử, Mạc Đăng Dung.
Nhờ đó mà chúng ta mới được hưởng những di sản văn hóa vô giá trị là đình, đền, chùa
và các đường viền bao quanh nó. Văn hóa – xã hội trên nền ấy làm cầu nối từ bấy giờ đến
bây giờ”12
Việc khôi phục lại vùng đất này là một việc cần phải làm, đúng theo ý nguyện của
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm qua lời Sấm Ký. Khi khơi lại toàn bộ những giá trị lịch
sử và tâm linh của vùng đất Tổng Kinh Lương xưa, kết nối với xã Kiến Thiết, Lý Học,
Vĩnh Bảo, sẽ tạo ra một Trục Thần Đạo, giúp đất Việt giữ được Biển Đông, mở mang bờ
cõi đến tận mũi Cà Mau như ngày nay đúng như lời tiên tri mà Trạng Trình đã dành cho
Chúa Nguyễn Hoàng với “Hoành Sơn Nhất Đái/Vạn đại dung thân”.
12 Giáo sư Sử học Lê Văn Lan “Nên khơi thông các giá trị văn hóa truyền thống” Bảo vệ Pháp luật, số 37, Thứ sáu
09.05.2014
15. KINH LUONG, THE LAND OF LEGACIES
Recently, series of articles have been published on various newspapers about the
sacred land of Kinh Luong, Cap Tien, Tien Lang, Hai Phong. These articles included
“Going to the sacred land with generation of heroes” on April 25, 2014, “Prof Le Van
Lan: it is advisable to restore the traditional cultural values” on May 9, 2014 on Bao Ve
Phap Luat (Law Guardian Newspaper), “Story on the stone stela of Kinh Luong Temple”
on Dan Tri Newspaper on May 2, 2014, “Where Gods who safeguard the East Sea are
worshipped” on Nhan Dan Newspaper on May 8, 2014 and “Awakening the thousand
year Bodhi Tree” on Hai Phong Newspaper on April 18, 2014. These articles have proved
that Kinh Luong with Dot Son Pagoda and Kinh Luong Temple is the land with full
cultural legacies which relates to the establishment of Buddhism in Vietnam and gives
the answer about the lost ancient River Port of Vietnam which many historians could not
find.
Kinh Luong is now a village of Cap Tien Commune, Hai Phong city. Based on
old documents which were recently found out, Kinh Luong used to be the name of the
whole region and was changed to Cap Tien (Progressive) after 1954. Kinh Luong was
famous with Dot Son Pagoda, the oldest pagoda in Vietnam and Kinh Luong temple
complex, worshipping five Gods who protect the East Sea of Vietnam. During the war
with the French (1945-1954), on finding that former General Secretary Do Muoi, who
was then Political Commissar of Left River Command, stayed in Dot Son Pagoda and
instructed military campaigns, the French mobilized warships, tanks and troops
conducted massive attacks in Kinh Luong. Pagoda got destroyed in 1949 and Kinh Luong
temple complex got destroyed in 1953. Huge bronze Buddhist statues were used to make
ammunitions and stone stela used for the resistant war. The sad episode was that after
peace resumed, lands of pagoda and temple got given to peasans or used for other
purposes, all the legacies got full eliminated so that nobody knows about its importance.
The Spread of Buddhism to Vietnam
The spread of Buddhism to Vietnam and subsequently to China, East Asian
countries and other parts of the world is considered the heyday of India’s global
ideological power and the miracle of the Indian Buddism Diplomacy. In this course,
Vietnam, the then Jiao Zhi or Jiao Zhou, under the Chinese domination, was on the Silk
Road and identified as the key zone for the start of Buddhism. However, the role of Jiao
Zhi or Jiao Zhou for the spread of Buddhism was not acknowledged due to various
reasons including the reason of Vietnam’s government opinion that Buddhism came to
Vietnam from Pengcheng China.
It is commonly known that Buddhism is the religion nurturing the patriotism of
the Vietnamese. Buddhism is the companion of the nation, going with the ups and downs
of the history of Vietnam. Ever since, Emperor Dinh Bo Linh alias Dinh Tien Hoang
(924-979) declared independence from China, naming Vietnam as Dai Co Viet,
Buddhism was adopted as the national religion with Patriarch Huyen Quang the
Counsellor Minister of the dynasty. Buddhism was also the national religion during
subsequent dynasties i.e. Pre-Le (980-1009), Ly (1009–1225), Tran (1226–1400), Le
(1428-1789). During Tran Dynasty, the Zen School of Buddhism (Truc Lam) was
invented with Emperor Tran Nhan Tong acknowledged Vietnamese Buddha along with
Parchiarch Phap Loa and Huyen Quang.
Many scholars have written about the history of Buddhism in Vietnam. Those
scholars include Dr. Le Manh That, Nguyen Lang, Nguyen Bang etc. Before that, the
French also had a great role in writing about Vietnamese Buddhism including the works
16. by Mr. Tran Van Giap titled “X Le Bouddhisme en Annan, des origine au XIIIe siecle –
The Buddhism in Annam, from Origin to XIII century published in Bulletin de l’Ecode
Francaise d’Extrême-Orient. These works proved that Buddhism came to Vietnam first
with Ne Le Citadel now known as Cave Pagoda in Do Son of Hai Phong being the place
where Indian Buddhist Monks and Merchants stayed. This place has been proved to be an
island off-coast of Vietnam at that time. However, these works can not prove when
Buddhism had its full establishment and how Buddhism traveled from the sea to the
Buddhism Centre of Luy Lau (Dau Pagoda and Phat Tich Pagoda). All scholars agreed
that there used to be a Buddhism Centre of Cau Lau near the Sea with “above is Luy Lau,
down is Cau Lau” but could not find where Cau Lau was located.
According to the Book titled “The Pachiarch of Buddhism” the oldest Book on
Buddhism still preserved, there was one story that the Chinese Monk on the report to the
Sui Emperor (Sui Dynasty during 542-607) that “In Jiao Zhou, with easy access to India,
when Buddhism arrived, it is not there in Jiang Dong, there have been 20 pagodas in Luy
Lau13 with 100 Buddhist Monks who translated 15 Buddhist Books so Buddhism had to
be there first. When Buddhism came, famous Indian translators namely Kandinya,
Mahajivaka, Sogdiane, Mou Tsu were there. Now they have Pachiarch Phap Hien and
Vinidaruci, considered as Bodhisattvas, who are teaching lots of monks. In that class,
there are no less than 300 people. Emperor, as the kind father of the country, with equal
treatment, just ask them to submit the Buddha Remains…Under King Asoka’s reign (273-
232 BC), with the support of the king, Buddhism got disseminated to many countries
outside India. Indian merchants came to Jiao Zhi by sea to trade and brought along with
them the new school of thought of Buddhism. Later on, Indian monks came here to
disseminate religion, contributing to the establishment of Buddhist Centre in Luy Lau,
one of the biggest Buddhism centre in the Oriental region along with Luòyáng and Peng
Cheng”14
Kinh Luong, the Cau Lau and Domea ancient River Port
In order to have the clear answer to the questions of when Buddhism got full
establishment in Vietnam and where Cau Lau Buddhism Centre was located, it is
important to identify the exact location of Cau Lau River Port.
Cau Lau is one of the districts named by Han Dynasty after defeating the
revolutionary of the Two Sisters (Hai Ba Trung). In Han Geology Book, Jiaozhi under
Han domination had 10 districts of Liên Thụ, An Định, Câu Lậu, My Linh, Khúc Dương,
Bắc Đái, Kê Từ, Tây Vu, Long Biên, Chu Diên. In the book History of Vietnam (Sử học
Bị khảo) writen by Dang Xuan Bang (1828-1910), a Mandarin under Nguyen Dynasty,
“Cau Lau was opposite An Dinh district and located by the river which joins with Uat
River”. An Dinh has been proved to be district covering Do Son of Hai Phong so Cau
Lau district was confirmed by scholars to be the area covering the districts of Vinh Bao,
Tien Lang, An Lao, Kien An and Kien Thuy of Hai Phong now. The Centre of Cau Lau
was located on the mouth of a river that led to Long Bien and had to be the highest land
of the whole area.
13 Luy Lau was the capital of Jiao Zhi
14 http://www.thuvienhoasen.org/u-lspgvn1.htm
17. Map of the North, XVII, Maps of Samuel Baron, Churchill, A collection of voyages and
travel, Vol 6, London, 1974
While describing Domea (Do Me), a River Port of Dai Viet, William Dampier
(1652-1715), a British explorer, in his works A Collection Of Voyages 1688, wrote “That
part of the Kingdom (Tonquin), that borders on the sea is very very low land: neither is
there any Hill to be seen but the Elephant Mountain and a Ridge of a much less Heighth
continued from then to the Mouth of the River of Domea”15. It can be concluded that by
1688, the sea level was so high that the Elephant Mountan was used as Maritime Post.
Therefore, district of An Lao, Kien An and major parts of Kien Thuy, Tien Lang and
Vinh Bao were not there. So Cau Lau comprised some part of Tien Lang and Tu Ky
District of Hai Duong.
The River that led to Hean (Pho Hien, Hung Yen now) and Cacho (Ke Cho –
Thang Long) was the river of Thai Binh. On June 25, 2007, under the project organized
by the Vietnam Study and Development Science to find the ancient town of Domea, a
delegation, comprising Assc Prof Nguyen Quang Ngoc, Assc Prof Truong Quang Hai,
Research Tran Thanh Ha, Do Kien, Vu Duong Luan, Tong Van Loi, Assc Prof Vu Van
Phai, Assc Prof. Dang Van Bao, Student Nguyen Quang Anh, Archeologist Nguyen
Chieu, Dr. Hoang Anh Tuan, MA Nguyen Ngoc Phuc (USSH), Assc Prof Tran Duc
Thanh, Dr. Dinh Van Huy (Institute of Natural Resource and Environment), Mr. Ngo
Dang Loi (Chairman of Hai Phong History Council), Mr. Nguyen Ngo Thao, Director of
Social Science and Humanity Centre of Hai Phong, Mr. Nguyen Van Tham, Official of
Information and Culture of Tien Lang District, conducted a field visit along Thai Binh
River, starting from Ben Village (Cung Chuc, Trung Lap Commune of Vinh Bao) and
ending in Do Son. After the visit, the members of the delegation arrived at a conclusion
15 William Dampier, Voyage and Discovery, Volume II, The Situation of the Kingdom of Tonquin,
Chapter II, Page 19
18. that Domea is located at Khoi Nghia commune and ancient pagoda identified as Phuc
Linh Pagoda.16
Domea in the map of East Indian company
Kinh Lương, Cấp Tiến at present
The conclusion made by the delegation was only based on maps and field visits,
not on any historical evidences and stone stelas. From the map of East Indian Company
and map of Tien Lang now, Kinh Luong is down below Da Cho, Ben Thap and Ben Oc
of Khoi Nghia commune and on the bank of Thai Binh River, so Kinh Luong has to be in
existence first and Domea can not be in Khoi Nghia Commune. The pagoda in Domea
can not be an ordinary pagoda but a Buddhist centre, having relations with the
establishment of Buddism in Vietnam. Domea has to be somewhere in area of Me paddy
field, which is in the West of the Dot Son Pagoda and North of Kinh Luong National
Guardian Temple. The fresh water well has to be of the well of Hoa Than Dong Duy Dai
Vuong (the Dong Duy God of Fire) as mentioned in the stone stela of Kinh Luong
Temple
Tiên Lãng, the alluvial land by the River of Thai Binh was separated to be one
district in XV century. Under Ly and Tran dynasty, this area had the name of Bang La
belonging to Thanh Ha District of Hai Duong Province. In XIV century, it belonged to
Binh Ha District of Nam Sach Province. In 1460, under the reign of King Le Thanh
Tong, the district was separated to make Tan Minh and Binh Ha under Nam Sach. In
1600, the word “Tan” changed to Tien due to having the same name with King Le Kinh
Tong (1588-1619) to become Tien Minh. In 1884, due to having the same name with
King Ham Nghi (Nguyen Phuc Minh), the word “Minh” changed to “Lang” with the
word “Lang” taking from the word “Binh Lang”, name of one of the God of Kinh Luong
National Guardian Temple, meaning “pacifying sea”. In 1893, Tien Lang got separated
from Nam Sach to join with Hai Phong province.
The reason for the lost of Domea was attributable to the fact that during the
Nguyen Dynasty (1782-1945), trading activities with the West or foreigner were
forbidden. The River port no longer maintained its role. When tide receded, new land
came, Domea or Kinh Luong fell deep in the main land. The inability to find Domea was
also due to the lost of all the legacies, stone stela, and old douments about Kinh Luong
after the war. Domea was actually found out by French historians in the early of 20th
century when they identified Kinh Luong as the prime location and carefully copied all
the stone stelas and noted down all the old documents. After getting defeated in Dien
16 Nguyễn Quang Ngọc, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, 2007, Domea (Đô-mê-a) trong hệ thống thương mại đàng ngoài
thế kỷ XVII-XVIII
19. Bien Phu, they brought these documents back to France. Recently, under the bilateral
cooperation between two Governments of Vietnam and Franch, the French Institute of
Extreme Orient was established and documents about Kinh Luong were found in all at
Catalogue of Vietnamese Inscription and Institute of Han Nom. According to old locals,
the area near the well used to be the custom area. In 1980, during the excavation, an old
ship was found where there were lots of vase, bowls etc. Whatever were still in tact were
distributed among people and the rest got piled up to make a big pile which was called by
the local as Go Ma Lo.
Map of Northern River XVII. Dutch East Indian Company
Tiên Minh in the Map of Đồng Khánh Reign
1886-1888
In the Book Stelas of Tien Lang presented by Assc Prof Dr. Đỗ Thị Hảo,
Chairman of Hanoi Folklore and Art Association in 2008, the oldest stela of Tien Lang
was the Stela of Dot Son Pagoda name Royal Stela for Reconstruction of Dot Son Pagoda
made during King Le Thanh Tong in 1491, saying that the Pagoda of Dot Son previous
names Non Dong and Chuyet Son was constructed in the year 503 under the Liang
Dynasty. The oldest land of Tien Lang used to be the King Luong, now Cap Tien ward of
Tien Lang District, Hai Phong. Based on other stelas of Dot Son Pagoda and King Luong
temple, the National Guardian Temple, worshipping five Gods to protect the East Sea of
Vietnam, Kinh Luong used to have the name of Kinh Thanh, Canh Thanh and Cau Lau. It
was found out that any dynasties and Kings of Vietnam, when they came to power, they
immediately honoured the pagoda and all the Gods who were worshiped in Kinh Luong,
who guard the East Sea of Vietnam. The last honour was made by King Khai Dinh of
Nguyen Dynasty on July 25, 1924 when the King celebrated his birthday at 40.
Chuyet Son Pagoda – the Cau Lau Buddhism Centre of Vietnam
According to Hai Phong’s Book of Geology, prepared by Hai Phong Council of
History in 1990 based on various documents inherited from the French, in the portion
about Tien Lang, it says “Tien Lang witnessed an early development of its culture.
Buddhism entered this district from V-VI century. During that period, a Buddhist Centre
was established at Dot Pagoda (Cap Tien) with large scale, big stupa and huge Buddha
statues. The Dot Pagoda was in existence through all the dynasties of Ly, Tran, Le, Mac
… encouraging the birth of tens of pagodas in the whole region. It has its own library,
containing Buddhist Books at Thien To Pagoda in “Phac Xuyen – Bach Dang"17.
Chuyết Sơn, Non Đông, Đốt Sơn or Đót Sơn, are the names of the Pagoda in
different period of history. Nobody knows about the fate of all the Buddhist Books which
17 Địa Chí Hải Phòng, Hội đồng Lịch sử Thành Phố Hải Phòng, Trang 223
20. was kept at Thien To Pagoda. They might got burnt after peace resumed in 1954 or might
be kept somewhere. According to local people, from times to times, when people
excavate the land to build house, many things were found but were not known so they
buried them again. The only thing left was the Bodhi Tree, which was acknowledged by
former Ambassador of Vietnam to India, Mr. Vu Quang Diem and Ven Jambey Dorjee,
who visited Vietnam to organize the Buddhist Festival of India in Vietnam during March
05-16, 2014, as the Bodhi tree of Indian origin with strong power. Who brought this
Bodhi tree to Vietnam? What is the role of Chuyet Son Pagoda in the history of
Vietnam’s Buddhism when it was built in 503 much before the revolutionary of Ly Nam
De who built Tran Quoc Pagoda which is now claimed to be the oldest pagoda in
Vietnam? Where were all the legacies which related to India at Dot Son Pagoda or are
they still kept somewhere? Before the pagoda got burnt and all copper statues got melted
to make ammunition in 1949, could any of the monk manage to preserve anything?
Before it was destroyed, the pagoda had 100 rooms and a hospital. One interesting detail,
as told by old local people, was that Most Ven Thich Thanh Lac, the abbot of the Pagoda,
burnt himself after getting enlightment in 1947, two years after the pagoda got burnt.
All what belonged to Kinh Luong was completely destroyed and eliminated
during the war against the French and course of revolutionalization so that nobody can
know about its legacies. Recently, when the job of restoration of the National Guardian
Temple of Kinh Luong and Dot Son Pagoda started, following the message/prediction by
prestigious Nguyen Binh Khiem (1491–1585) in XVI century about Kinh Luong and Dot
Son, local authority and people searched and found out photos of many stone stelas and
old documents which was preserved at Institute of Han Nom and French Institute of
Extreme Orient (École française d'Extrême-Orient - EFEO), giving lots of explanation
about the spread of Buddhism from ancient River Port of Cau Lau.
As cited above, Royal Stela for Reconstruction of Dot Son Pagoda, the Pagoda of
Dot Son, used to have the names Chuyet Son and Non Dong (Pagoda in the East), was
constructed in the year 503 under the Liang Dynasty, marking the ripe condition for full
establishment of Buddhism in Vietnam and subsequently China. Chuyet Son, which has
no meaning in Vietnamese, can be the term Chryse (Golden land) 18 or can be a Sankrit
term which means Pagoda of enligntened Bodhisattvas. Vietnamese Buddhist history also
witnessed several well-known enlightened monks naming themselve Chuyet including
Monk Chuyet Chuyet who were worshipped at Phat Tich Pagoda.
18 http://en.wikipedia.org/wiki/Chryse
21. Ven Jambey Dorjee under the Bodhi Tree
Firstly, it has to be stated that Buddhism got its firm establishment in Jiao Zhi
(Jiao Zhou) only during the Liang dynasty (502-549). In Beyond Buddhist Apology, the
Political use of Buddhism by Emperor Wu of the Liang Dynasty (r. 502-549), Tom De
Rauw wrote “When Xiao Yan ascended the throne of the Liang (502-557) Dynasty as
Emperor Wu (r.502-549), he was faced with some huge challenges which included the
problem of legitimacy (as an usurper) when he had seized power from one of his
kinsmen, Xiao Baorong (488-502), in revenge for the murder of his older brother, the
devolution of the empire for centuries after the disintegration of the Han and the support
of elites of literati families who was dependent on the existing Confucian political
system… Through the use of Buddhism, he could make reforms in the political, cultural
and religious realm which tied different modes of thought together which no other
precedessor could do”. Therefore, different from the previous period when Daoism and
Confucism were the two overwhelming ideologies, Buddhism had its standing in the
society of Jiaozhi and China and was encouraged to develop. The Indian station at Ne Le
citadel (Do Son now) was shifted to the River Port of Cau Lau for further dissemination
to Luy Lau, (the Capital), Peng Cheng and Luoyang.
Secondly, India civilization had had a strong influence in the South already with
the presence of the Cham Kingdom. Dr. Ngô Văn Doanh, an expert on Cham Kingdom,
wrote “from the neighbouring countries of Phnom (Funan) in West and South and Lam
Ap Kingdom (existed during 349-756) which covers the area of Quang Binh to Quang
Nam, the Cham Kingdom absorbed Indian civilization quickly. This was the period when
the Cham used Sakrit to form their own writing and built lot of Temples worshipping God
Shiva and Vishnu…”19. Indian civilization also exerted influence in Jiaozhi through trade
and cultural interaction including Buddhism. The maritime Silk Road was established,
starting from West Bengal through Malacca strait to Champa Kingdom, Jiaozhi and
Guangxi.
19 Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.38-39;
22. Map of Kindom of Champa and the Silk Road from West to East during 7-10th Century
Thirdly, from Do Son Island and ancient An Dinh district that ran on Northeast
direction, the dissemination of Buddhism was very restricted. When there was support
from the Chinese authority under Liang emperor, with support of Indian Government and
Merchants, the Chuyet Son Pagoda was built on the ancient River Port, about 7 miles
offcoast of Do Son. Buddhist books got translated from Sankrit to local language. It can
be confirm that the period of 502-543 was period of the full establishment of Buddhism
in Jiaozhi, with the existence of Cau Lau Buddhism centre at the Port and Luy Lau
Buddhism Centre in the Capital.
Fourthly, as a sovereign state, Chuyet Son, a pagoda of Indian monks and
merchants can be consider an Indian club, having the function of helping Indian merchant
ships, clearing immigration procedures for entering Jiaozhi. Going along the river on
merchant ships from Cau Lau to Long Bien and Luy Lau was the best explanation, not on
foot from Do Son to the Northeast as explained by many Vietnamese Buddhist
Researchers. That was the reason why in some points of time, 500 Indian monks gathered
in Luy Lau before going to China for spread of Buddhism. It also provided explanation
that in Vietnamese Buddhism history, many Vietnamese monks travelled to India to learn
Buddhism.
Indian monks, actually Indian Buddhist Diplomats, never come back India. After
completing the jobs, they returned to Chuyet Son pagoda and got enlighment under the
Bodhi Tree.
Professor Historian Le Van Lan, in an interview with journalist of Bao ve Phap
Luat Newspaper about Kinh Luong, affirmed that “if we place Kinh Luong – Dot Son
Pagoda – Dong Duy Temple (Kinh Luong Guardian Temple) in a context of socio-history,
we can find that it is a sea oriented culture, absorbing the influence from outside.
With that influencce, we can see the expedition of Indian monks, Chu Dong Tu, Mac
Dang Dung. Thanks to that, we can enjoy invaluable cultural legacies including temples,
23. pagodas and all the effects. The shape of present socio culture was based on such
legacies.”20
Restoring the legacies of Kinh Luong is a must-do job, exactly as the message left
over to the current generation by Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm in XVI century. At
the moment, the pagoda and temples are being re-constructed. The Bodhi tree was
approved by the Ministry of Culture, Sport and Tourism as the Tree of Heritage with
more than 1500 years old and of Indian origin. Once all the historical and spiritual values
including the pagoda and temples got restored, it will form again the Exis of God, helping
the nation of Viet develop and protect the East Sea.
20 Giáo sư Sử học Lê Văn Lan “Nên khơi thông các giá trị văn hóa truyền thống” Bảo vệ Pháp luật, số 37, Thứ sáu
09.05.2014
24. Nơi đầu tiên thờ những vị thần giữ biển Đông
Thứ năm, 08/05/2014 - 03:58 PM
http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/di-san/item/23142502-noi-dau-tien-tho-nhung-vi-than-
giu-bien-dong.html
Đót Sơn, ngôi chùa bị lãng quên.
NDĐT - Vùng đất được coi là “chính linh” của Tiên Lãng, huyệt đạo của Hải Phòng,
nơi quê nhà của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, có ngôi chùa cổ nhất Việt Nam
và nơi thờ Ngũ vị đẳng Thần gìn giữ biển Đông ít người biết đến. Đó chính là vùng
đất mà xưa kia được gọi là Trang Cảnh Thanh, nay là Kinh Lương, Cấp Tiến.
Kinh Lương, trước là Kinh Thanh, Cảnh Thanh, huyện Bình Hà, phủ Nam Sách, Hải
Dương. Đây là nơi có đình Khai quốc Kinh Lương, đền Khai quốc Đống Duy và chùa
Đót Sơn, trung tâm Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ V đến trước năm 1945.
Trong cuốn Văn Bia Tiên Lãng do PGS.TS Đỗ Thị Hảo, Chủ tịch Hội Văn nghệ Dân
gian Hà Nội cùng các cộng sự sưu tầm, biên dịch, chú giải vào năm 2008, vùng đất Kinh
Lương chỉ còn lại một tấm bia duy nhất nhưng có niên đại sớm nhất được dựng ở chùa
Đót Sơn (chùa Đót) với tên Hoàng Đồ Củng cố Đót Sơn Tự Di Đà Phật Bi và toàn bộ
tám văn bia khác đã bị thất lạc.
Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu và khảo cứu tại Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, Viện Cao
học thực hành và Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trong cuốn Thư mục Thác bản Văn khắc
Hán Nôm Việt Nam, vùng đất Kinh Lương có các bia gồm bia về Đình Khai quốc Kinh
Lương như Tân Tạo hậu Thần bi, về chùa Đót Sơn (Chuyết Sơn) như Hoàng Đồ củng
cố Đót Sơn Tự di Đà Phật Bi, Tân tạo Bồ Đề La Hán Bi ký, Tạo thạch Phật Bi, Tân
Tạo Thiên đài trụ, Tín Thí, Tân tạo xế giai hậu phòng hành lang bi.
25. Vốn là vùng đất chính linh của Tiên Lãng và huyệt đạo của vùng, Kinh Lương được nhắc
đến trong nhiều thần tích và thần sắc của các triều đại phong kiến và trong các văn tịch
liên quan đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đã có rất nhiều sắc phong của các triều
đại tại đây. Đến thời kỳ nhà Nguyễn, 13 đạo sắc phong đã được ban cho Ngũ vị Đẳng
thần. Toàn bộ các thần tích và thần sắc về vùng đất này vẫn được lưu giữ tại Viện Thông
tin Khoa học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
Cũng giống Thánh Gióng, những vị thần được thờ tại Kinh Lương là những bậc hộ quốc
công thần và được ân điển cho muôn đời thờ phụng.
Trong miếu có năm bài vị thờ Ngũ vị Đẳng thần gồm Bạt Hải Hữu vi Vô danh Thần
vị; Bình Lãng Hữu vi Vô danh thần vị; Mạnh tướng húy danh Phương Thần vị; Đống Duy
húy danh Tụy Thần vị và Thần kỳ Cửa Chùa húy danh Tề Thần vị, ghi bằng chữ Nôm.
Bạt hải Đại vương tôn thần, vị thần "hữu vi, vô danh" tức có nhiều công giúp nước
nhưng không biết đến danh tính, là một vị thần liên quan trực tiếp đến biển. Ngài Thiên
Quan Bình lãng Đại Vương, cũng là vị Hữu vi Vô danh, là vị thần giúp nhân dân bình
được sóng gió. Ba vị Mạnh Tướng Đăng Kinh Đại Vương, Hỏa thần Đống Duy Đại
Vương, Thần Kỳ Cửa Chùa Đại Vương, là những vị Nhãn Thần, được coi như những con
mắt dõi theo và bảo vệ dân. Do đó có thể nói Ngũ vị Đẳng thần này liên quan trực tiếp tới
Biển Đông của Việt Nam. Ân chuẩn thờ phụng các Ngài còn mãi cho đến khi đình, đền,
chùa bị tàn phá trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sự tàn phá và quên lãng
một di sản quan trọng của đất nước là một điều rất đáng tiếc.
Theo Văn tịch về Thần Tích và Thần Sắc về làng Kinh Lương được lưu giữ tại Viện
KHXH Việt Nam, đây là nơi thờ Ngũ vị Đẳng Thần gồm Mạnh Tướng Đăng Kinh Đại
Vương (Nhãn thần), Hỏa thần Đống Duy Đại Vương (Nhãn thần), Thiên Quan Bình Lãng
Đại Vương (Thiên thần), Thần Kỳ Cửa Chùa Đại Vương (Nhãn thần) và Bạt Hải Đại
Vương Tôn Thần (Thiên thần). Những vị này đã giúp Vua Đinh Bộ Lĩnh sau khi xưng đế
phá tan đạo thủy quân xâm lược Ma Na và hóa thần ngay sau khi giặc giã. Vua Đinh Bộ
Lĩnh đã phong thần để nhân dân muôn đời thờ cúng.
26. Theo Địa chí Hải Phòng (1990), đoạn về vùng đất Tiên Lãng có viết "Nền văn hóa Tiên
Lãng phát triển sớm. Đạo Phật du nhập vào mảnh đất này từ thế kỷ V, VI. Khoảng thời
gian ấy, Tiên Lãng đã xuất hiện một trung tâm Phật giáo ở Chùa Đót (Cấp Tiến) với kiến
trúc quy mô, bảo tháp và tượng Phật đồ sộ. Chùa Đót đã hoạt động liên tục suốt các triều
đại Lý, Trần, Lê, Mạc ... kích thích sự ra đời của hàng chục ngôi chùa khác ở Tiên Lãng,
trong đó có hẳn một kho chứa kinh đặt ở Chùa Thiên Tộ (Phác Xuyên - Bạch Đằng)".
Chùa Đót Sơn, nơi cùng với Chùa Hang ở Đồ Sơn, lưu lại dấu tích của nhiều nhà sư Ấn
Độ trong buổi đầu Phật giáo được truyền bá sang Việt Nam.
Tấm bia dựng tại chùa Đót Sơn Hoàng Đồ Củng cố Đót Sơn Tự Di Đà Phật Bi, dựng
năm 1491, cho biết “chùa có từ đời nhà Lương (505-543), trải qua các đời Lý Trần, con
vị Quản lão ở bản xã cùng vị sư trụ trì đứng ra sửa chùa quy mô to lớn”. Như vậy, có thể
khẳng định chùa Đót được xây dựng trước cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế với sự ra đời
của nước Vạn Xuân và được coi là một trong những ngôi chùa cổ nhất của Việt Nam.
Chùa Đót Sơn đầu tiên có tên gọi là Chuyết Sơn (Tiếng Phạn (Hindi) Juisan - có nghĩa
nơi tràn ngập không khí kỷ niệm của Phật giáo). Chùa, sau đó, được đổi tên thành là chùa
Non Đông vào thế kỷ thứ 10 và Đót Sơn vào năm 1941. Đây là ngôi chùa gắn liền với
Đức tổ Huyền Quang, Thánh tổ Non Đông và là kinh đô của Pháp Môn Tịnh Độ Thiền
tông. Chùa hiện vẫn còn cây bồ đề được các nhà sư Ấn Độ mang sang khi truyền đạo vào
thế kỷ thứ 6 và được coi là cây bồ đề gốc Phật giáo của Việt Nam. Năm 1491, trong lần
vãn cảnh chùa sau khi chùa được phục dựng lại, Vua Lê Thánh Tông đã có bài thơ viết
tại đây, được lưu lại trong văn bia của chùa. Chùa cũng đổi tên thành chùa Đót Sơn từ
thời điểm này.
Chùa Đót Sơn có quy mô lớn, rộng tám mẫu và được coi là kỳ quan của Phật giáo Việt
Nam. Ngôi chùa chính nằm ở hướng đông với 100 gian và hoành phi câu đối có ghi dòng
chữ Non Đông Tự. Xung quanh chùa chính có hành lang rộng 3m. Đằng sau, phía tây có
100 pho tượng La Hán bằng đá. Chùa có một quả chuông nặng năm tấn.
27. Nơi an nghỉ của các vị thánh tổ trong chùa.
Trước Cách mạng Tháng Tám, vùng đất Kinh Lương vẫn nổi tiếng với đình Kinh Lương,
đền Đống Dõi (Duy) và chùa Đót Sơn với ba giếng thần. Đến năm 1947, Thượng tọa
Thích Thanh Lạc trụ trì chùa tròn 100 tuổi, thầy đã tự thiêu ở Sự Đồng Kệ. Trước khi hỏa
táng, Thầy đã nói "Ta hỏa táng để Phật pháp được trường tồn".
Trong kháng chiến chống Pháp, giai đoạn 1945-1954, chùa Đót Sơn cũng như đình Kinh
Lương là những căn cứ cách mạng quan trọng. Theo một số cán bộ lão thành cách mạng,
nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã từng ở tại chùa để chỉ đạo kháng chiến khi ông là Chính
ủy Quân khu Tả ngạn. Kinh Lương đã trở thành nơi chiến địa ác liệt nhất. Và trong thời
gian này, trước sự ác liệt của cuộc chiến tranh, chùa Đót Sơn, đình Kinh Lương và đền
Đống Duy đã bị phá hủy. Hòa thượng Thích Thanh Dũng cũng hy sinh trong trận càn của
Pháp năm 1953.
Đót Sơn ngày nay đã trở thành Nghĩa trang Liệt sĩ. Toàn bộ các tượng Phật và tượng thần
bằng đá đều bị thất lạc. Theo bà con trong vùng, sau khi hòa bình lập lại, các cột đá ở tam
quan cũng như nhiều văn bia đã được sử dụng để xây Cống Nẻ. Đất của chùa, đình và
đền đã bị giao cho nhiều hộ gia đình. Ngôi chùa chỉ còn lại là một am rất nhỏ, vốn là
chiếc bếp xưa của chùa và một cây bồ đề trên nghìn năm tuổi.
Đúng 60 năm kể từ khi đình và đền Khai Quốc và chùa Đót Sơn bị phá, hậu thế mới tiến
hành phục dựng lại (đình, đền và chùa bị phá hoàn toàn vào cuối năm 1953 và đầu 1954).
PHẠM THẮNG
28.
29.
30. Thứ Sáu, 02/05/2014
Chuyện khắc trên văn bia Đình làng Kinh Lương
(Dân trí) - Ngọc Phả ba vị Đại Vương là Bậc Khai quốc có công lao lớn được phong
Thần tước Triều Đinh họ Việt Thường. Và văn bia Đình làng Kinh Lương đã kể lại
thân thế, công lao của ba vị Đại Vương:
Một văn bia tại đình làng Kinh Lương được lưu trong sách cổ
Thời bấy giờ, người đời truyền lại rằng, ở trang Vĩnh Đồng, phủ Khoái Châu, đạo Sơn
Nam có một nhà danh gia vọng tộc họ Trương, húy Lợi, vợ là người ở trong trang tên là
Nguyễn Thị Nguyên nhưng đã lấy nhau được ba năm rồi mà vẫn chưa thấy nảy mầm thai
nghén. Bởi vậy, trải thêm được ba bốn năm sau, hai người đã bỏ đi và tìm đến địa giới
trang Cảnh Thanh (sau đổi là Kinh Thanh rồi Kinh Lương), huyện Bình Hà, phủ Nam
Sách, lộ Hải Dương xin định cư khi thấy nơi đây dân tục thuần hậu.
Trải được khoảng một hai năm, gia sản ngày thêm khá giả và dần được xếp vào hạng Hào
trưởng trong làng. Vào một hôm giữa lúc đêm khuya, người vợ mộng thấy mình bỗng
được bay lên trời và bẻ được bốn đóa hoa quế ôm vào trong lòng rồi chợt tỉnh giấc. 3
tháng sau, bà thấy trong mình chuyển dạ rồi có thai, đến kỳ mãn nguyệt thì đẻ ra một bọc
sinh ra được ba người con trai (tức giờ Tuất, ngày 16 tháng giêng năm Ất Mùi), diện mạo
khôi kỳ, thân dung dài rộng, long nhan cằm hổ, mặt cứng như sắt, toàn thân sắc đỏ, đều là
khác hẳn người thường, đặt tên cho người thứ nhất là Phương, người thứ hai là Tụy và
người thứ ba là Tề.
Ngày tháng thấm thoắt trôi mau, những người con đã lên 14 tuổi. Cha mẹ bèn tìm thầy
cho nhập học, nhưng các người con lại đều không chịu học mà chỉ chuyên võ nghệ và
giỏi binh thư. Tài nghệ của những người này giỏi đến mức các bằng hữu không ai là
không kính phục.
Các ông chợt nghe thấy giặc Ma Na kháo với nhau rằng, nhà Đinh đã đến lúc suy đồi, thế
vận đã hết, nên chuẩn bị binh mã để tiến đến xâm chiếm. Nhà vua lại vội vã cho truyền
31. hịch khắp thiên hạ muôn phương để tìm người anh tài võ sĩ cùng về giúp nước, sau khi
bình giặc xong sẽ ban quan tước để hiển công danh mãi ở đời sau.
Các ông nghe được hịch, bèn cùng bảo nhau đến tòa Vọng Quang làm lễ bái yết rồi đến
triều đình bệ kiến. Đức Vua thấy các ông có long nha hổ tướng khác hẳn người thường
nên đã bái ông thứ nhất làm Quyền chưởng trung hoa tể, ông thứ hai làm Quyền chưởng
sơn đầu các châu làm tước, ông thứ ba làm Quyền chưởng thống lĩnh 15 đầu sông làm
tước.
Các ông ai nấy thụ phong xong xuôi, nhà vua bèn lập tức cử binh thẳng tiến đến đồn sở
quân giặc (tức đồn lập ở sông Bạch Đằng). Giáp công một trân được thua chưa phân thì
nhà vua lại thoái binh về đến địa giới Bản Trang (tức trang Cảnh Thanh) rồi cho lập đồn
trú binh lại một ngày. Giữa đêm hôm ấy, nhà vua mộng thấy có một vị quan nhân áo mũ
chỉnh tề viết hai chữ “Bình Lãng” (tức Bình được sóng gió) để trước mặt nhà vua, vua lấy
làm lạ thì người ấy tâu rằng “Ta vốn ở thiên đình, vâng mệnh giáng xuống báo cho nhà
vua biết là sẽ âm phù giúp nước để mong được quốc lộc hương hỏa đến vô cùng vậy”.
Nhà vua chợt tỉnh giấc, biết đây là thần báo mộng nên sáng sớm hôm sau vua sai các ông
chia làm hai đạo thay nhà vua thánh giá thân chinh cử binh thẳng tiến đến đồn sở của
giặc. Vậy là thủy bộ song hành đại chiến một trận, quân giặc đại bại, thuyền lớn thuyền
nhỏ của giặc phần bị lửa thiêu, phần bị chìm đắm vô số và đất nước lại trở lại yên bình,
giặc không còn một bóng. Sau đó các ông trở về cung sở (tức trang Cảnh Thanh). Nhà
vua nghe tin thắng trận, bèn cho mở đại yến tiệc ăn mừng khao quân sỹ, thưởng gia
phong, sau đó lại truyền nhân dân bản trang dựng cung đền để làm đền thờ chính phụng
tự vị Thiên Quan báo mộng.
Việc yến tiệc xong xuôi và kỳ hạn cũng đã đến ngày hết, các ông bèn tiến binh trở về
triều nhậm sự. Hôm ấy, khi các ông bắt đầu xuất binh ở địa giới bản trang thì tự nhiên
trời đất tối đen, gió mưa nổi lên ầm ầm, sấm vang chớp giật, rồi các ông cùng hóa (tức
ngày mồng 7 tháng 11). Chỉ trong chốc lát, trời đất lại trở lại trong sáng, gió mưa dứt hẳn,
nhân dân chạy đến chỗ ấy thì đã thấy kiến xông thành ngôi mộ lớn. Nhân dân lấy làm kỳ
sự bèn biểu tấu lên nhà vua. Nhà vua thương xót công thần có công lớn với quốc triều
bèn lệnh cho đình thần dâng đưa sắc chỉ về cho nhân dân, sau đó lạ truyền cho tu sửa lập
đền miếu ở đúng nơi các ông hóa để hương hỏa phụng thờ, lại ban cho nhân dân 300
quan tiền công quỹ để lấy đó làm hương hỏa rồi bao phong mỹ tự để muôn thuở huyết
thực mãi mãi trường tồn cùng hưởng phúc lành với đất nước.
Nguồn tài liệu tham khảo:
Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ, thần Nguyễn Bính phụng soạn năm Hồng
Phúc nguyên niên (1572).
Quản giám bách thần Tri điện hùng lãnh thiếu khanh Nguyễn Hiền tuân y chính
bản của triều trước phụng sao lại năm Vĩnh Hưu 6 (1740).
Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, Viện Cao Học Thực Hành và Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, trong cuốn Thư mục Thác bản Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Đình
Khai quốc Kinh Lương có tấm bia Tân Tạo hậu Thần bi, số 9566-9567 - có tóm
tắt bia trong Văn khác Hán Nôm Việt Nam, Hà Nội, KHXH, 1993, tr. 166).
Văn tịch về Thần Tích và Thần Sắc về Làng Kinh Lương, Tổng Kinh Lương,
Huyên Tiên Lãng, Kiến An, số TT-TS FQ 4018 X3, lưu giữ tại Viện KHXH Việt
Nam thuộc Viện Hàn Lâm KHXH Việt Nam.
http://dantri.com.vn/van-hoa/chuyen-khac-tren-van-bia-dinh-lang-kinh-luong-869753.htm
32. Xã hội
"Đánh thức" cây bồ đề ngàn tuổi
Cập nhật lúc10:44, Thứ Sáu, 18/04/2014 (GMT+7)
Trải qua thời gian cùng nhiều biến cố của lịch sử, ngôi chùa Đót, xã Cấp Tiến
(huyện Tiên Lãng) đang được phục dựng, nhưng cây bồ đề cổ thụ vẫn sừng sững
đứng đó, bốn mùa tươi tốt. Đến mùa quả chín, chim chóc đàn đàn lũ lũ kéo về, vừa
nhẩn nha ăn quả, vừa nghe những tán lá cây xào xạc, rủ rỉ kể chuyện ngàn xưa…
Chùa cổ, cây thiêng
Vào đầu Xuân, thông thường là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, thế nhưng, dưới gốc
cây bồ đề cạnh chùa Đót ở thôn Kinh Lương, xã Cấp Tiến lại la liệt những lá vàng. Cụ
Bùi Hồng Tăng, 81 tuổi, người đảm nhiệm việc chăm sóc cây bồ đề, cho biết: Khoảng
tháng 3, tháng 4 âm lịch hằng năm, lá cây bồ đề úa vàng rồi rụng dần, sau đó ra lộc non.
Mà cây có từ bao giờ, chẳng ai trong làng biết cả. Chỉ biết, cây được trồng cạnh cổng
Tam quan ngôi chùa Đót cổ. Nhiều người phỏng đoán, tuổi của cây có lẽ cũng cả ngàn
năm.
Cụ Bùi Hồng Tăng bên cây bồ đề cổ thụ.
Theo cuốn sách Văn bia Tiên Lãng, chỉ còn sót lại tấm bia cổ duy nhất được dựng ở
chùa Đót vào năm 1491 dưới thời vua Lê Thánh Tông. Nội dung tấm bia ghi, chùa được
xây dựng trong giai đoạn từ năm 505 đến năm 543, có tên là chùa Non Đông, sau được
đổi thành chùa Đót Sơn. Qua nhiều lần sửa chữa, xây mới, chùa Đót có quy mô lớn và trở
33. thành một kỳ quan Phật giáo nổi tiếng khắp cả nước. Khuôn viên của chùa rộng 8 mẫu,
trong đó có 2 mẫu vườn, 1 mẫu ao và 5 mẫu ruộng. Chùa chính có 100 gian, hành lang
rộng 3 mét, sau chùa có 100 pho tượng La Hán bằng đá. Phía sau chùa chính là 2 dãy nhà
ngang, mỗi dãy có 50 gian. Quả chuông treo tại chùa nặng khoảng 5 tấn. Chùa Đót bề
thế, hoành tráng khi xưa, sau bị hư hỏng. Năm 2010, ngôi chùa được dựng lên từ một
phần nền chùa cũ, nay còn dở dang.
Tương truyền, hơn 1.000 năm trước, đoàn các nhà sư từ Ấn Độ sang
Việt Nam truyền giáo bằng đường biển, ghé qua chùa Hang (quận Đồ Sơn) và chùa Đót.
Tại nơi dừng chân này, họ trồng 2 cây bồ đề nhỏ mà khi đi mang theo. Nhiều người tin
rằng, cây bồ đề cổ thụ hiện nay ở thôn Kinh Lương có thể chính là cây bồ đề linh thiêng
khi xưa hoặc hậu duệ của nó. Người làng mặc nhiên coi cây như một phần của ngôi chùa
cổ.
“Đánh thức” cây cổ thụ bị quên lãng
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cây bồ đề cổ thụ nơi đây trở
thành nơi tập trung của đám trẻ chăn trâu trong làng, đến mùa quả chín thì trèo lên hái
quả. Quả bồ đề rất giống về màu sắc, hình dáng nhưng to gấp đôi quả si. Khi chín, vỏ quả
có màu đỏ sẫm, ăn rất ngọt. Phần gốc cây được bao bọc bởi tầng tầng, lớp lớp rễ. Rễ cây
rủ xuống, rồi quấn quýt gốc cây diễn ra khá kỳ lạ. Lúc đầu, tơ rễ có màu đỏ au, từ xa nhìn
lại, gốc cây như nàng công chúa mặc tấm áo lụa đỏ mới. Sau đó, rễ dần dần ngả màu
xám, ngày một bám chặt vào thân.
Cụ Tăng chỉ phần đuôi dài, nhọn của lá cây
Hàng chục năm trước, người làng tận dụng gốc cây và bóng mát làm nơi buộc
trâu. Những tưởng, cây bồ đề cứ thế mà “ngủ quên” trong tâm thức của người làng như
cả ngàn năm qua. Thế nhưng, trong dịp Lễ giỗ tổ Non Đông tại chùa Đót đầu năm 2013,
nhiều khách thập phương tỏ ra ngạc nhiên, trầm trồ thán phục khi thấy cây bồ đề cổ thụ.
Một người con của quê hương đề xuất với chính quyền địa phương và một số cơ quan
chức năng mời các nhà khoa học nghiên cứu. Qua đo đạc, khảo sát, gốc cây có chu vi 5
mét (đo cách mặt đất 1 mét), có 9 nhánh lớn, tán vươn ra dài nhất cách gốc hơn 10 mét,
phần cao nhất trên 26 mét. Theo lời kể của cụ Tăng, đầu năm 2014, có đoàn các nhà sư từ
34. Ấn Độ sang Việt Nam và ghé thăm chùa Đót. Khi thấy cây bồ đề, họ rất ngạc nhiên. Sau
khi xem xét, những nhà sư này khẳng định, cây có nguồn gốc từ Ấn Độ bởi đặc điểm dễ
nhận biết nhất là phía đuôi lá hình trái tim có thêm một đoạn dài, hẹp, mỏng và nhọn.
Ông Nguyễn Văn Viễn, Phó chủ tịch UBND xã Cấp Tiến, cho biết: Chính quyền
địa phương đang phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành giám định tuổi của cây
bồ đề, hoàn thiện hồ sơ đề nghị Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường công nhận là cây di
sản. Trong thời gian tới, nếu cây bồ đề được vinh danh cây di sản, sẽ là niềm tự hào lớn
của người dân trong xã, trong huyện. Không những thế, du khách khi đến Tiên Lãng, sẽ
có thêm một điểm dừng chân thú vị, vừa ngắm “cụ” bồ đề ngàn tuổi, vừa chiêm nghiệm
chuyện xưa.
Thái Phan
http://www.baohaiphong.com.vn/channel/4905/201404/danh-thuc-cay-bo-de-ngan-tuoi-
2322507/
35. Chùa Đót Sơn còn sót lại một ngôi
Chùa mới đang được phục dựng lại
36. Nơi an nghỉ của các vị thánh tổ
Ngôi mộ đất của Liệt sỹ Hòa Thượng Thích Thanh Dũng
37. Đình Kinh Lương, đang được phục dựng lại
Hỏa Thần Đống Duy Thần nhãn, nơi thông thiên địa
(Khi bị lấp đã tạo ra hiện tượng sét đánh liên tục tại cánh đồng Thiên Lôi)