SlideShare a Scribd company logo
1 of 90
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ HỒNG NHUNG
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ HỒNG NHUNG
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG
TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thuận
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phạm Thị Hồng Nhung
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN 5
VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1.1. Khái quát về hoạt động tín dụng 5
1.1.1. Khái niệm hoạt động tín dụng 5
1.1.2. Đặc điểm, phân loại hoạt động tín dụng 6
1.2. Khái quát về công ty cho thuê tài chính 8
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm công ty cho thuê tài chính 8
1.2.2. Loại hình hoạt động của công ty cho thuê tài chính 10
1.3. Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính11
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm 11
1.3.2. Về hoạt động huy động vốn, vay vốn 11
1.3.3. Về hoạt động cho thuê tài chính 13
Chương 2 - THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT 19
VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH
Ở VIỆT NAM
2.1. Hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam 19
2.2. Hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam30
2.2.1. Hoạt động cho thuê tài chính 30
2.2.2. Hoạt động huy động vốn, vay vốn 55
2.2.3. Hoạt động khác 60
Chương 3 - ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN 62
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở
VIỆT NAM
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng62
của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng64
của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam
3.2.1. Về tổ chức, hoạt động của công ty cho thuê tài chính 64
ở Việt Nam
3.2.2. Về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính 68
ở Việt Nam
KẾT LUẬN 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CTTC
DN
ĐKDN
ĐKKD
HĐQT
HĐTV
NHNN
NHTM
TAND
TCTD
TNHH
: Cho thuê tài chính
: Doanh nghiệp
: Đăng ký doanh nghiệp
: Đăng ký kinh doanh
: Hội đồng quản trị
: Hội đồng thành viên
: Ngân hàng Nhà nước
: Ngân hàng thương mại
: Tòa án nhân dân
: Tổ chức tín dụng
: Trách nhiệm hữu hạn
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
1.1. Thống kê tiêu chuẩn giao dịch cho thuê tài chính
của các quốc gia trên thế giới
15
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hoạt động tín dụng của công ty CTTC tại Việt Nam trong những năm
gần đây bên cạnh những mặt tích cực là tạo thêm một kênh huy động vốn, vay
vốn cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh
doanh sản xuất thì cũng bộc lộ nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế thế giới trong những năm vừa qua, bản thân sự quản lý yếu kém
của các công ty CTTC… và trong đó có sự ảnh hưởng không nhỏ của các quy
định của pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC còn thiếu sự đồng
bộ, chưa phù hợp.
Đến nay hoạt động này ở Việt Nam mới chỉ được điều chính bởi Nghị
định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ “về tổ chức và hoạt
động của công ty cho thuê tài chính” và đã được sửa đổi, bổ sung một số điều
bởi Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 và Nghị định số
95/2008/NĐ-CP ngày 25/8/2008 của Chính phủ. Luật các Tổ chức tín dụng
cũng đề cập nhưng với tư cách là một hình thức cấp tín dụng của Tổ chức tín
dụng và quy định rất chung chung về hoạt động cho thuê tài chính. Ngoài ra
còn một số Thông tư của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều chỉnh về hoạt
động CTTC như Thông tư số 06/2005/TT-NHNN ngày 12/10/2005 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, Thông tư số 08/2006/TT-NHNN ngày 12/10/2006
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,…Có thể nói văn bản pháp luật điều
chỉnh trực tiếp về công ty CTTC có giá trị pháp lý không cao, đồng thời
những quy định trong các văn bản pháp luật về công ty CTTC vẫn chưa thực
sự linh hoạt, phù hợp với thực tiễn kinh doanh như quy định về trình tự, thủ
tục thành lập công ty, quy trình, nghiệp vụ CTTC, quyền của công ty CTTC,
tài sản cho thuê, chính sách thuế, huy động vốn, xử lý tranh chấp phát sinh từ
2
hoạt động CTTC,…Những bất cập, vướng mắc này đặt ra yêu cầu phải tiếp
tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về công ty CTTC, tạo môi trường pháp
lý đầu đủ, an toàn và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giúp hoạt động của các
công ty CTTC diễn ra an toàn, hiệu quả cao.
Việc hoàn thiện và phát triển hoạt động CTTC, trong đó có việc hoàn
thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC là một yêu cầu cấp
thiết góp phần giải quyết những khó khăn về vốn, thúc đẩy nhanh sự tiến bộ
khoa học và công nghệ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp
phù hợp thúc đẩy sự phát triển hoạt động công ty CTTC là hết sức cần thiết và
vô cùng quan trọng. Xuất phát từ những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn, tác
giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty
cho thuê tài chính ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo
Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Việt Nam đã có một số công trình khoa học, bài viết nghiên cứu, tìm
hiểu cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động CTTC như: Luận án
Tiến sĩ Luật học của tác giả Doãn Hồng Nhung (2006) về “Những vấn đề về
hợp đồng thuê mua ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Lê
Hoàng Oanh (1998) về “Điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thuê mua tài
chính ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Lê Thị Thảo
(2002) về “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt
Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Đinh Bá Tuấn (2006) về “Pháp
luật về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam”, Luận văn Tiến sỹ Kinh tế
của tác giả Tống Thiện Phước (2006) về “Giải pháp phát triển thị trường cho
thuê tài chính ở Việt Nam trong quá trình hội nhập tài chính, tiền tệ quốc tế”,
Luận văn Tiến sỹ Kinh tế của tác giả Bùi Hồng Đới (2003) về “Giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam”;
3
cùng một số bài viết như: “Về quy định đăng ký tài sản cho thuê tài chính”
của tác giả Nguyễn Hữu Thanh, “Cho thuê tài chính ở Việt Nam tại sao chưa
phát triển” của tác giả Hoàng Quý Vương – Phạm Tuấn Long (1999), “Rủi ro
trong hoạt động cho thuê tài chính” của tác giả Hoàng Ngọc Tiến (2004),
“Pháp luật về cho thuê tài chính – một số vấn đề cần hoàn thiện” của Thạc sỹ
Trần Vũ Hải… Tuy nhiên, các công trình và bài viết đó chưa đi sâu phân tích
một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về hoạt động của công ty
CTTC, nhất là các quy định pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty
CTTC. Do đó, vấn đề về hoạt động tín dụng trong công ty CTTC vẫn cần
được tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
Việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC là
một yêu cầu cấp thiết, góp phần hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho thuê
tài chính, phát triển “kênh” dẫn vốn rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Mục
đích của luận văn là tìm hiểu thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của
công ty CTTC ở Việt Nam và đề ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC, góp phần hoàn thiện
khung pháp luật về hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, tác giả luận văn thực hiện một số nhiệm
vụ cơ bản:
Một là, Nghiên cứu một cách hệ thống các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về công ty CTTC.
Hai là, Nghiên cứu thực tiễn về hoạt động tín dụng của công ty
CTTC, qua đó chỉ ra những bất cập của pháp luật Việt Nam về vấn đề này và
đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công
ty CTTC ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4
Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về hoạt động
tín dụng của công ty CTTC bao gồm các hoạt động cho thuê tài chính và hoạt
động huy động vốn của công ty CTTC.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
luật học so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp diễn giải và quy nạp.
Các phương pháp này được sử dụng đan xen, kết hợp trong cả ba chương, để
giải quyết một số nhiệm vụ đặt ra trong quá trình nghiên cứu, đánh giá và kết
luận một số vấn đề cụ thể về pháp luật hoạt động tín dụng của công ty CTTC.
6. Ý nghĩa của luận văn:
Qua nghiên cứu pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC,
mong muốn những đề xuất của người viết có ý nghĩa thực tiễn, góp phần hoàn
thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC, từ đó góp phần hoạt
động CTTC tạo thành kênh dẫn vốn quan trọng đóng góp cho sự phát triển
kinh tế của đất nước.
Đồng thời mong muốn luận văn là tài liệu tham khảo cho những
người quan tâm về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng của công ty
CTTC.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty
CTTC ở Việt Nam.
Chương 3: Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín
dụng của công ty CTTC ở Việt Nam.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1.1. Khái quát về hoạt động tín dụng:
1.1.1. Khái niệm hoạt động tín dụng:
“Tín dụng” xuất phát từ chữ Latin là Creditium có nghĩa là tin tưởng,
tín nhiệm. Tiếng anh là Credit. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, “tín dụng”
có nghĩa là sự vay mượn. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử
dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu
sang người sử dụng sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn.
Dưới góc độ kinh tế, có thể hiểu tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó
cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều
hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ
chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ
này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng
hóa. Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ. Do đó,
tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên - một bên là người cho vay, và
một bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng,
thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả.
Vì vậy, có thể hiểu tín dụng thể hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với
quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu
vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn
trả.[15]
6
1.1.2. Đặc điểm, phân loại hoạt động tín dụng:
Xuất phát từ khái niệm “tín dụng” như đã nêu ở trên có thể hiểu một
quan hệ được gọi là “tín dụng” phải có đầy đủ ba mặt:
Thứ nhất, có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ
người này sang người khác.
Thứ hai, sự chuyển giao mang tính chất tạm thời.
Thứ ba, khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu
phải kèm theo một lượng giá trị dôi thêm lợi tức.
Có thể thấy đặc trưng của tín dụng thể hiện rõ nét nhất trong hoạt động
tín dụng của các tổ chức tín dụng. Theo khoản 8 và khoản 10, Điều 20, Luật
các tổ chức tín dụng 2010, hoạt động tín dụng được định nghĩa là việc tổ chức
tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có nguồn vốn huy động để thỏa thuận cấp tín
dụng cho khách hàng với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Hoạt động tín dụng khác với các loại hình giao dịch khác ở các đặc
điểm sau đây:
Một là, về chủ thể, một bên tham gia giao dịch bao giờ cũng là tổ chức
tín dụng có đủ các điều kiện hoạt động tín dụng theo quy định của pháp luật.
Chủ thể này tham gia giao dịch với tư cách là người đầu tư (người cho vay
hay chủ nợ) và có quyền đòi tiền của người nhận đầu tư (người vay hay con
nợ) khi hợp đồng đáo hạn.
Hai là, về nguồn gốc, các tổ chức tín dụng khi cấp tín dụng cho khách
hàng chủ yếu dựa vào nguồn gốc huy động của các tổ chức, cá nhân thông
qua các hình thức ghi nhận tiền gửi, phát hành trái phiếu hay vay nợ của các
tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng. Đặc điểm này cho phép
phân biệt hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng với hoạt động tín dụng
7
của Ngân hàng nhà nước, với đặc tính của nguồn gốc cho vay là vốn dự trữ
phát hành.
Tín dụng có thể được phân chia thành các loại sau:
Thứ nhất, Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh
nghiệp dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Đây là quan hệ tín dụng giữa
các nhà sản xuất - kinh doanh được thực hiện dưới hình thức mua bán, bán
chịu hàng hóa. Hành vi mua bán chịu hàng hóa được xem là hình thức tín
dụng - người bán chuyển giao cho người mua quyền sử dụng vốn tạm thời
trong một thời gian nhất định, và khi đến thời hạn đã được thỏa thuận, người
mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho
người bán chịu.
Thứ hai, Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các
ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã
hội, bao gồm doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước. Trong
loại hình tín dụng này, huy động vốn và cho vay vốn đều thực hiện dưới hình
thức tiền tệ và các ngân hàng đóng vai trò trung gian trong quá trình huy động
vốn và cho vay;
Thứ ba, Tín dụng nhà nước: Là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước
xuất hiện nhằm thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước
trong điều kiện nguồn thu không đủ để đáp ứng; nó còn là công cụ để nhà
nước hỗ trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, ngành mũi nhọn và khu vực kinh
tế kém phát triển, và là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành vĩ
mô. Chủ thể của tín dụng nhà nước là nhà nước, các pháp nhân và thể nhân;
Hình thức tín dụng này đa dạng, phong phú. Tín dụng nhà nước chủ yếu là
loại hình trực tiếp, không thông qua tổ chức trung gian.
8
Thứ tư, Tín dụng tiêu dùng: Là quan hệ tín dụng giữa dân cư với doanh
nghiệp, ngân hàng và các công ty cho thuê tài chính. Hình thức này đáp ứng
được nhu cầu tiêu dùng cho dân cư; Hình thức là hàng hóa hoặc tiền tệ trong
đó dân cư là người vay; ngân hàng, công ty cho thuê tài chính, doanh nghiệp
là người cho vay.
Thứ năm, Tín dụng quốc tế: Là mối quan hệ giữa các nhà nước, giữa
các cơ quan nhà nước với nhau, hoặc với ngân hàng quốc tế và các tổ chức
quốc tế, các cá nhân người nước ngoài và giữa các doanh nghiệp của các nước
với nhau. Nó phản ánh mối quan hệ tín dụng giữa các chủ thể kinh tế của một
quốc gia với các chủ thể kinh tế của các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế.
Đối tượng tín dụng quốc tế là hàng hóa hoặc tiền tệ. Chủ thể tham gia là chính
phủ, cơ quan nhà nước, ngân hàng quốc tế, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và
cá nhân.
Thứ sáu, Tín dụng thuê mua: Là quan hệ phát sinh giữa các công ty cho
thuê tài chính với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân dưới hình thức
cho thuê tài chính. Trong đó đối tượng của tín dụng thuê mua là tài sản;Chủ
thể là công ty cho thuê tài chính (người cho thuê), và doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế và cá nhân (người đi thuê). Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, Luận
văn sẽ đi sâu tìm hiểu và làm rõ loại tín dụng này của công ty CTTC.
1.2. Khái quát về Công ty CTTC
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm về Công ty CTTC
Cho thuê tài sản là một công cụ tài chính đã được sáng tạo ra từ rất sớm
trong lịch sử văn minh nhân loại. Vào khoảng năm 1.700 trước Công nguyên,
vua Babilon là Hamurabi đã ban hành nhiều văn bản quan trọng tạo thành bộ
luật lớn, trong đó có đưa ra các quy định về hoạt động thuê tài sản. Trong nền
văn minh cổ đại như Hy Lạp – La Mã, Ai Cập,… các hình thức thuê để tài trợ
việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất cũng xuất hiện. Có thể khẳng
9
định rằng, nhiều vấn đề mà các giao dịch thuê mua ngày nay gặp phải đã được
giải quyết từ nhiều thế kỷ trước. Tuy nhiên, “các giao dịch cho thuê tài sản
thời cổ thuộc hình thức thuê kiểu truyền thống” [76]. Phương thức này tương
tự như phương thức thuê vận hành ngày nay.
Đầu thế kỷ XIX, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế
hàng hóa, các nước tư bản bắt đầu thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp,
hoạt động CTTC đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng và chủng loại thiết bị,
tài sản cho thuê, trở thành công cụ tài chính được chấp nhận rộng rãi. Đến đầu
thập niên 50 của thế kỷ XX, giao dịch CTTC đã có những bước phát triển
nhảy vọt, nhất là ở Mỹ. Các công ty kinh doanh tìm cách chuyển dần các rủi
ro và lợi ích từ việc sỡ hữu tài sản của họ sang bên đi thuê dưới hình thức cho
thuê tài sản, đồng thời nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho nền
kinh tế. Đây là tiền đề xuất hiện hoạt động CTTC. Công ty CTTC độc lập đầu
tiên được ra đời ở Mỹ vào năm 1952, do một công ty tư nhân tên là United
States Corporation sáng lập. Sau đó, nghiệp vụ CTTC phát triển sang Châu
Âu vào những năm 60 của thế kỷ XX. CTTC đã có những bước phát triển
mạnh mẽ ở Châu Á và nhiều khu vực khác từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX.
Từ những phân tích trên, chúng ta nhận thấy công ty CTTC là TCTD
phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam, hoạt động chính là CTTC theo quy
định pháp luật. Công ty CTTC là TCTD có những đặc điểm sau:
- Về tổ chức: là pháp nhân kinh doanh chuyên nghiệp trên thị trường tài
chính, hạch toán độc lập, được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp
luật về ngân hàng và các quy định khác có liên quan.
- Về hoạt động: phạm vi hoạt động của công ty CTTC hẹp hơn so với
các TCTD là ngân hàng. Ngoài hoạt động kinh doanh chủ yếu là CTTC, các
công ty CTTC được thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhưng không nhận
10
tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thành toán qua tài khoản của
ngân hàng.
- Về nguồn vốn: ngoài vốn tự có, công ty CTTC thực hiện hoạt động
trên cơ sở nguồn vốn huy động. Công ty CTTC huy động vốn thông qua phát
hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu; vay vốn trên thị
trường của các TCTD, tổ chức tài chính và NHNN theo quy định pháp luật.
- Về quản lý nhà nước: loại hình DN chịu sự quản lý của NHNN Việt
Nam, tồn tại ở hình thức công ty cổ phần hoặc công ty TNHH.
- Về đối tượng kinh doanh: đối tượng kinh doanh chủ yếu là các tài sản
hữu hình: máy móc, thiết bị và các động sản khác.
1.2.2. Loại hình hoạt động tín dụng của công ty CTTC:
- Các hoạt động huy động vốn, trong đó vốn huy động bao gồm tiền gửi
của tổ chức, vốn huy động từ tổ chức thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi,
kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu và vốn vay của TCTD, tổ chức tài chính trong
nước và nước ngoài, vay NHNN dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định của
Luật NHNN Việt Nam và đây là một trong những nguồn vốn bổ sung hoạt
động cho các công ty CTTC.
- Hoạt động cho thuê tài chính như cho vay bổ sung vốn lưu động đối
với bên thuê tài chính; cho thuê vận hành và ủy thác thuê tài chính.
- Ngoài hai hoạt động chủ yếu trên, các công ty CTTC được thực hiện
một số hoạt động khác như: tư vấn khách hàng về vấn đề liên quan đến
nghiệp vụ CTTC; thực hiện dịch vụ bảo lãnh liên quan đến CTTC theo hướng
dẫn của NHNN; thực hiện hoạt động ngoại hối theo quy định của NHNN. Đối
với các công ty CTTC có mức vốn điều lệ tương đương mức vốn pháp định
đối với công ty tài chính thì được phép thực hiện hoạt động bao thanh toán và
nghiệp vụ cho vay ngắn hạn bổ sung lưu động đối với bên thuê và thực hiện
các nghiệp vụ khác khi được NHNN cho phép.
11
Như vậy, có thể thấy các hoạt động khác của công ty CTTC đều có
quan hệ mật thiết với hoạt động chủ yếu và cơ bản của công ty CTTC là
CTTC. Các hoạt động này góp phần tạo nguồn lực hỗ trợ, thúc đẩy sự phát
triển của hoạt động CTTC, tạo điều kiện cho phép khách hàng tiếp cận giao
dịch CTTC, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty CTTC.
1.3. Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC:
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về hoạt động tín dụng
của công ty CTTC:
Hoạt động tín dụng của công ty CTTC có vai trò rất quan trọng trong
việc tạo vốn cho DN, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Xuất phát từ vai
trò này mà vấn đề hoạt động tín dụng của công ty CTTC hiện nay được điều
chỉnh rất cụ thể trong các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Có thể
nói, toàn bộ những quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty CTTC tạo thành pháp
luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC. Hay nói một cách khác, pháp
luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC là một bộ phận pháp luật của
công ty CTTC thuộc pháp luật ngân hàng, bao gồm những quy phạm pháp
luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong
hoạt động của công ty CTTC, bao gồm các nội dung quy định về hoạt động
cho thuê tài chính, hoạt động huy động vốn, vay vốn và các hoạt động khác
của công ty CTTC.
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn, vay vốn và hoạt động cho
thuê tài chính của công ty CTTC.
1.3.2. Về hoạt động huy động vốn, vay vốn:
Bản chất của CTTC là việc tài trợ vốn trung và dài hạn. Vì vậy, nhu cầu
về vốn của công ty CTTC là rất lớn. Do đó, để có vốn cấp tín dụng thông qua
12
hoạt động CTTC, công ty CTTC phải huy động vốn từ các nguồn khác nhau.
Nguồn vốn hoạt động của các công ty CTTC được hình thành từ 02 nguồn cơ
bản là: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn huy động. Nguồn vốn chủ yếu
dựa vào nguồn vốn ban đầu và vốn cấp tín dụng từ ngân hàng mẹ, công ty mẹ.
Vốn huy động bao gồm:
-Tiền gửi của tổ chức. Hoạt động của công ty CTTC với quy mô nhỏ,
số lượng tiền ít nên chưa chiếm được thị phần lớn trong thị trường tài chính.
Mặt khác, công ty CTTC chưa khai thác mạnh mẽ các dịch vụ phi ngân hàng,
không làm dịch vụ thanh toán nên những người có nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi thường tìm đến ngân hàng thương mại. Vì vậy, để huy động được nguồn
vốn này các công ty CTTC phải tiến hành quảng cáo, quảng bá đại chúng về
dịch vụ CTTC mới và xây dựng một quy trình nghiệp vụ huy động vốn phù
hợp với những hình thức như: lãi suất huy động, tiền gửi bậc thang, tiết kiệm
dự thưởng,...
-Vốn huy động từ tổ chức thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Công ty CTTC có thể phát hành trực tiếp trái
phiếu dưới nhiều hình thức như trả lãi trước, trả lãi có kỳ hạn, trái phiếu được
chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố và có thể bán trên thị trường thứ cấp để thu
hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng.
-Vốn vay của TCTD, tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài, vay
NHNN dưới hình thức cấp vốn. Đây cũng là một trong những nguồn vốn bổ
sung hoạt động cho các công ty CTTC.
Ngoài việc huy động vốn nêu trên, công ty CTTC có thể khai thác
nguồn hàng trả chậm từ các nhà cung cấp nước ngoài: Các công ty CTTC
thiết lập một mạng lưới cung cấp tài sản cho thuê từ các nhà sản xuất ở trong
và ngoài nước. Qua mạng lưới này bằng hình thức mua hàng trả chậm, các
công ty CTTC thu hút, khai thác được nguồn vốn ở nước ngoài. Nhờ vào lợi
13
thế so sánh, trình độ công nghệ hiện đại, năng suất lao động cao làm cho chi
phí, giá thành sản phẩm thấp nên các nhà cung cấp nước ngoài thực hiện việc
bán hàng trả chậm cho các công ty CTTC tại Việt Nam. Một mặt, giúp các
công ty CTTC tăng được nguồn vốn kinh doanh, tăng khả năng đáp ứng tài
sản thuê cho thị trường. Mặt khác, bên thuê cũng được hưởng lợi vì phí cho
thuê có khả năng giảm do chi phí sử dụng vốn của các công ty CTTC giảm,
tài sản cho thuê đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của bên thuê.
1.3.3. Về hoạt động cho thuê tài chính:
1.3.3.1. Khái niệm cho thuê tài chính
Hoạt động CTTC đầu tiên được tổ chức tại Mỹ. Sau đó, nghiệp vụ
CTTC phát triển sang châu Âu, châu Á,... Thuật ngữ CTTC đã trở thành thuật
ngữ quen thuộc đối với giới kinh doanh, nhà đầu tư. Tuy nhiên, thuật ngữ này
được một số nước sử dụng có sự khác nhau.
-Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ ghi nhận: CTTC là loại hình
cho thuê trong đó:
+ Người cho thuê không chọn nhà sản xuất hoặc cung ứng
hàng.
+ Người cho thuê thu nhận hàng hoặc chuyển quyền sở hữu và
sử dụng hàng liên quan đến việc cho thuê.
+ Hoặc người cho thuê nhận một bản sao hợp đồng chứng thực
đã mua hàng vào thời điểm trước hoặc trước khi ký hợp đồng hoặc việc
phê chuẩn hợp đồng của người cho thuê chứng thực việc họ đã mua
hàng đó là một trong những điều kiện xét tính hiệu lực của hợp đồng
thuê [35, tr.8].
-Hiệp hội các công ty CTTC Thụy Điển quan niệm về CTTC với
những đặc điểm cơ bản sau:
+ Bên cho thuê mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê.
14
+ Tài sản cho thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê và
quyền sử dụng được chuyển giao cho bên thuê trong suốt thời hạn thuê,
thường bằng thời gian hữu ích của tài sản.
+ Hợp đồng cho thuê tài chính không được hủy ngang.
+ Số tiền thanh toán cho thuê sẽ bù đắp chi phí lãi, chi phí quản
lý, rủi ro và lãi cho phép khấu hao toàn bộ hoặc gần như toàn bộ giá
mua tài sản đó.
+ Tại thời điểm kết thúc hợp đồng, người thuê có quyền gia hạn
hợp đồng với chi phí được ấn định tại thời điểm ký hợp đồng.
+ Nếu người thuê quyết định không gia hạn thuê thì quyền sử
dụng tài sản sẽ chấm dứt và tài sản được bàn giao lại cho người cho
thuê [69].
- Theo Công ước Unidroit về CTTC quốc tế năm 1998, hoạt động
CTTC được xác định là giao dịch, trong đó một bên (bên cho thuê):
+ Căn cứ vào yêu cầu được nêu cụ thể của bên kia (bên thuê) thống
nhất một thỏa thuận (thỏa thuận cung cấp) với một bên thứ ba (nhà cung cấp).
Theo đó, bên cho thuê mua nhà máy, hàng hóa, tư liệu sản xuất hoặc các thiết
bị khác (gọi chung là thiết bị) theo các điều kiện đã được (bên đi thuê) chấp
nhận.
+ Cùng thống nhất một thỏa thuận với bên đi thuê cho phép bên đi
thuê quyền sử dụng thiết bị để đổi lại bằng việc thanh toán tiền thuê.
Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đưa ra định nghĩa về CTTC
“là loại cho thuê có khả năng chuyển dịch về căn bản tất cả những rủi ro và
lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản. Quyền sở hữu đó cuối cùng có thể
được chuyển giao hoặc không được chuyển giao”[73].
Như vậy, có thể thấy về cơ bản, các điều kiện để nhận biết giao dịch
CTTC của một số nước trên thế giới không có gì khác biệt. Điều này được thể
15
hiện thông qua bảng thống kê về tiêu chuẩn xác định giao dịch CTTC ở một
số nước như sau:
Bảng 1.1: Thống kê tiêu chuẩn giao dịch cho thuê tài chính của các
quốc gia trên thế giới
Quốc gia IASC Hoa Kỳ Anh Nhật Hàn Quốc
Chuyển giao quyền sở
hữu tài sản khi kết thúc
hợp đồng
Có Có Có Có
Không quy
định cụ thể
Quyền chọn mua Có Có
Không bắt
buộc
Không bắt
buộc
Không bắt
buộc
Thời hạn thuê tính theo
đời sống hữu ích của tài
sản thuê
Phần lớn
Tài sản > 7
năm cho
thuê không
quá 30
năm
Phần lớn
Tài sản
>10 năm
thì 60%,
tối đa
120%; Tài
sản <10
năm thì
70%
Tài sản <5
năm thì
60%; Tài
sản > 5
năm thì
70%
Hiện giá thuần của các
khoản tiền thuê tối thiểu
so với giá trị của tài sản
vào thời điểm ký hợp
đồng
Bằng hoặc
lớn hơn giá
trị tài sản
>90% >90% >90%
Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu [49], [76].
1.3.3.2. Đặc trưng của cho thuê tài chính và sự khác biệt giữa cho thuê
tài chính với hoạt động cho vay của ngân hàng và cho thuê vận hành:
* Các đặc trưng của CTTC: Hoạt động CTTC vừa mang đặc trưng của
cho thuê tài sản, vừa mang đặc trưng của hoạt động tín dụng trung và dài hạn.
Loại hình CTTC có những đặc trưng riêng, khác biệt với cho thuê tài sản
thông thường và cũng khác với hoạt động cho vay của ngân hàng:
- Thời gian thuê chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản.
16
- Bên thuê chịu mọi chi phí vận hành, bảo trì, bảo hiểm,... và các rủi ro
liên quan đến tài sản thuê. Quyền sở hữu của tài sản có thể được chuyển giao
khi thời hạn thuê chấm dứt.
- Hợp đồng thuê quy định quyền chọn mua tài sản theo giá tượng trưng.
- Giá trị hiện tại của các khoản tiền thuê tối thiểu, lớn hơn hay tương
đương giá trị tài sản.
* Sự khác biệt giữa CTTC với cho thuê vận hành: Thuê vận hành đã có
trong lịch sử rất lâu đời nên còn được gọi là kiểu thuê mua truyền thống
(Traditional Lease). Trong nền sản xuất nông nghiệp, các loại tài sản thường
được sử dụng trong các giao dịch thuê mua truyền thống bao gồm: ruộng đất,
công cụ lao động, gia súc... Ngày nay, các loại tài sản,thiết bị được sử dụng
cho thuê vận hành rất đa dạng như: máy photocopy, máy vi tính, trang thiết bị
văn phòng...
Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đưa ra định nghĩa về cho
thuê vận hành như sau: “Cho thuê vận hành là cho thuê tài sản không có sự
chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản”
[49].
-Thuê vận hành có thời hạn thuê rất ngắn so với toàn bộ đời sống hữu
ích của tài sản, điều kiện để chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong thời
gian ngắn. Người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi
phí bảo trì, bảo hiểm, thuế tài sản... cùng mọi rủi ro và sự giảm giá của tài sản.
Mặt khác, người cho thuê được hưởng tiền thuê và sự gia tăng giá trị tài sản
hay những quyền lợi do quyền sở hữu tài sản mang lại như: những ưu đãi thuế
thu nhập DN và những khoản khấu trừ do sự giảm giá trị tài sản mang lại,...
Do thuê vận hành là hình thức cho thuê ngắn hạn nên tổng số tiền mà
người thuê phải trả cho người cho thuê có giá trị thấp hơn nhiều so với toàn
bộ giá trị của tài sản. Khi hợp đồng hết hạn, người chủ sở hữu có thể bán tài
17
sản đó, hoặc gia hạn hợp đồng cho thuê hay tìm một khách hàng thuê mới.
Người thuê có quyền sử dụng tài sản trong thời gian đã thỏa thuận và có nghĩa
vụ trả tiền thuê. Người thuê không phải chịu các chi phí bảo trì, vận hành hay
những rủi ro liên quan đến tài sản nếu như không phải lỗi do họ gây ra.
Đối với thuê vận hành, tài sản đã thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê
trước khi ký hợp đồng. Đối với CTTC, tài sản thuê trước khi ký hợp đồng có
thể không thuộc quyền sở hữu của người cho thuê mà là do người đi thuê tìm,
lựa chọn từ nhà cung cấp và yêu cầu công ty CTTC mua để cho thuê. Trong
cho thuê vận hành, tài sản không được ghi chép vào sổ sách kế toán của người
thuê mà phần tiền thuê trả theo thỏa thuận được ghi như mọi khoản chi phí
bình thường khác.
* Hoạt động CTTC và cho vay của ngân hàng thương mại (NHTM).
Về bản chất, hoạt động CTTC là một hình thức tín dụng trung và dài hạn. Tuy
nhiên, so với cho vay ngân hàng, hoạt động CTTC có những khác biệt như
sau:
- Trong giao dịch CTTC, vốn cho vay được thể hiện bằng tài sản cố
định như máy móc, thiết bị văn phòng... Trong cho vay của ngân hàng, vốn
vay được thể hiện bằng tiền. Vì vậy, sau khi hợp đồng được ký kết, trong giao
dịch CTTC, người đi thuê sẽ được bổ sung vốn trực tiếp bằng tài sản cố định,
trong khi cho vay của ngân hàng thì người đi vay được bổ sung vốn bằng tiền.
- Phí cho thuê trong hoạt động CTTC có thể lớn hơn lãi suất cho vay
từ ngân hàng, vì chi phí CTTC được tính trên cơ sở lãi suất cho vay trung, dài
hạn và các khoản phí liên quan đến tài sản thuê.
- Nghiệp vụ CTTC thường có sự tham gia giao dịch quan hệ của nhiều
bên (như bên đi thuê, bên cho thuê, nhà cung cấp, người cho vay). Ngược lại,
cho vay của ngân hàng thì thường chỉ có quan hệ song phương giữa người
cho vay và người đi vay. Hoạt động CTTC thường gắn liền với quyền sở hữu
18
về tài sản, bên cho thuê nắm quyền sở hữu tài sản. Trong khi đó, hoạt động
cho vay của ngân hàng chỉ thông qua hợp đồng tín dụng để nhận biết được
bên đi vay, số tiền cho vay. Vì vậy, khi người đi thuê bị phá sản thì bên cho
thuê mặc nhiên thu hồi tài sản, còn khi người đi vay phá sản thì ngân hàng
phải chờ sự phán xét của cơ quan tài phán nhà nước. Do vậy, về mặt lý thuyết,
CTTC có độ an toàn cao hơn cho vay ngân hàng.
19
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỂ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1. Hoạt động của Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam
Theo Báo cáo của Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam, tính đến năm
2010, cả nước có 13 Công ty CTTC đang hoạt động.
1. Công ty CTTC Quốc tế Việt Nam là công ty liên doanh giữa ngân
hàng Công thương Việt Nam với Công ty Tài chính quốc tế (IFC), Ngân hàng
tín dụng Nhật Bản ( NCB), Ngân hàng Ngoại thương Pháp (BFCE), Công ty
CTTC Công nghiệp Hàn Quốc với vốn điều lệ khi thành lập là 5 triệu USD,
thành lập vào ngày 28/10/1996 theo Giấy phép số 01/GP-CTCTTC của
NHNN Việt Nam.
2. Công ty CTTC Kexim (KVLC) là Công ty 100% vốn nước ngoài
(Hàn Quốc) được thành lập vào ngày 20/11/1996 theo Giấy phép 02/GP-
CTCTTC của NHNN Việt Nam với vốn điều lệ khi mới thành lập là 10 triệu
USD sau nâng lên là 13 triệu USD.
3. Công ty CTTC ANZ-VTRAC là Công ty 100% vốn nước ngoài, liên
doanh giữa Ngân hàng ANZ (Úc) và tập đoàn VTRAC (Hoa Kỳ) được thành
lập vào ngày 19/11/1999 theo Giấy phép số 14/GP-CTCTTC của NHNN Việt
Nam với vốn điều lệ khi mới thành lập là 5 triệu USD.
4. Công ty CTTC – Ngân hàng Công thương Việt Nam ( Công ty
CTTC TNHH một thành viên Ngân hàng Công thương Việt Nam-
ViettinBank Leasing), có vốn điều lệ khi mới thành lập là 55 tỉ đồng, tăng lên
300 tỉ đồng và hiện nay là 500 tỉ đồng, thành lập ngày 20/03/1998 theo Giấy
phép số 04/GP-CTCTTC của NHNN Việt Nam.
5. Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, có vốn điều lệ
khi mới thành lập là 55 tỉ đồng, sau khi sáp nhập với Công ty CTTC Việt
20
Nam thì vốn điều lệ tăng lên 100 tỉ đồng, thành lập vào ngày 25/05/1998 theo
Giấy phép số 05/GP-NHNN Việt Nam.
Công ty CTTC Việt Nam là công ty liên doanh giữa Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam với 02 tổ chức tài chính, tín dụng của Nhật Bản với vốn
điều lệ khi mới thành lập là 10 triệu USD, thành lập ngày 26/7/1997 theo
Giấy phép số 03/GP-CTCTTC đến tháng 03/2001 thì sáp nhập vào Công ty
CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Ngày 15/01/2009, Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có Quyết định số 81/QĐ-NHNN cho phép
Công ty TNHH một thành viên CTTC NHTM cổ phần Ngoại thương Việt
Nam chuyển đổi loại hình công ty từ Công ty CTTC trực thuộc tổ chức tín
dụng (VCB LEACO) thành Công ty TNHH một thành viên CTTC NHTM cổ
phần Ngoại thương Việt Nam (VCLB), vốn điều lệ hiện tại là 200 tỉ đồng.
6. Công ty CTTC I – Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam được thành lập vào ngày 27/08/1998 theo Giấy phép số 06/GP-
CTCTTC của NHNN Việt Nam, có vốn điều lệ khi mới thành lập là 65 tỉ
đồng sau tăng lên 200 tỉ đồng.
7. Công ty CTTC II – Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam, có vốn điều lệ khi mới thành lập là 55 tỉ đồng sau tăng lên 350 tỉ
đồng, thành lập vào ngày 27/08/1998 theo Giấy phép số 07/GP-CTCTTC của
NHNN Việt Nam.
8. Công ty CTTC I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, có vốn
điều lệ khi mới thành lập là 55 tỉ đồng tăng lên 200 tỉ đồng, thành lập theo
Quyết định số 305/1998/QĐ-NHNN do Thống đốc NHNN ký ngày
04/09/1998 và hoạt động theo Giấp phép số 08/GP-CTCTTC của NHNN Việt
Nam.
9. Công ty CTTC II – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, là
công ty trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, có vốn điều lệ
21
là 150 tỉ đồng , thành lập vào ngày 17/12/2004 theo Giấp phép số 11/GP-
CTCTTC của NHNN Việt Nam.
Ngày 29/7/2011, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định chấp thuận việc
sáp nhập Công ty CTTC II – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(BIDV) vào Công ty CTTC – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, đổi
tên Công ty CTTC I thành Công ty CTTC trách nhiệm hữu hạn một thành
viên Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tên Tiếng anh viết tắt là BLC
với số vốn điều lệ là 447,8 tỉ đồng do BIDV sở hữu 100%.
10. Công ty CTTC – Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, thành lập vào
ngày 12/04/2006 theo Giấy phép số 04/GP-NHNN của NHNN Việt Nam.
Ngày 10/07/2006, Công ty CTTC- Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
(SacomBank-SBL) đã chính thức đi vào hoạt động với vốn điều lệ ban đầu là
150 tỷ đồng và đến 17/12/2009 đã tăng lên 300 tỷ đồng.
11. Công ty CTTC – Ngân hàng Á Châu, có vốn điều lệ 100 tỉ đồng,
thành lập vào ngày 22/05/2007 theo Giấy phép số 06/GP-NHNN của NHNN
Việt Nam. Ngày 09/06/2010, NHNN Việt Nam đã ban hành Quyết định số
1388/QĐ-NHNN chấp thuận việc tăng vốn điều lệ của Công ty TNHH một
thành viên CTTC Ngân hàng Á Châu từ 100 tỷ đồng lên 200 tỷ đồng.
12. Công ty TNHH cho thuê tài chính Quốc tế Chailease của Công ty
tài chính Chailease (Đài Loan), có vốn điều lệ 10 triệu USD, thành lập vào
ngày 09/10/2006, Giấy phép số 09/GP-NHNN của NHNN Việt Nam.
13. Công ty CTTC Công nghiệp tàu thủy (VINASHIN Finance
Leasing Company Limited) được thành lập theo Giấy phép số 79/GP-NHNN
ngày 19/03/2008 của NHNN Việt Nam, vốn điều lệ ban đầu là 100 tỷ đồng
Việt Nam và hiện tại là 200 tỷ đồng.
Cơ bản những quy định của pháp luật về việc thành lập, tổ chức
hoạt động của các công ty CTTC đáp ứng được nhu cầu thành lập, hoạt động
22
của các công ty tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng bộc lộ
một số bất cập gây khó khăn cho các tổ chức muốn thành lập công ty CTTC
tại Việt Nam. Cụ thể như sau:
* Về điều kiện “có nhu cầu hoạt động cho thuê tài chính trên địa bàn
hoạt động”: Pháp luật quy định đây là điều kiện bắt buộc nhưng thực tế các cơ
quan có thẩm quyền không kiểm tra hoặc khó kiểm tra. Bởi vì, về mặt lý
thuyết, Việt Nam là một nước phát triển, máy móc thiết bị còn có phần lậc
hậu và đang đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nên
nhu cầu CTTC là tất yếu. Việc lựa chọn địa bàn kinh doanh, thay đổi địa bàn
hoạt động là quyền của nhà đầu tư theo quy định của pháp luật về DN. Nhà
đầu tư khi thành lập các công ty CTTC hầu như chỉ có bản thuyết trình mà
không chứng minh được nhu cầu thực tiễn cụ thể ra sao. Do đó, để phù hợp
với Luật Các TCTD năm 2010, điều kiện về “ nhu cầu hoạt động” không nên
quy định trong pháp luật như là một điều kiện bắt buộc phải chứng minh khi
thành lập các công ty CTTC.
* Về điều kiện phải có đủ vốn pháp định theo quy định của Chính phủ
tại thời điểm xin thành lập công ty CTTC: Đến năm 2010, các công ty CTTC
tại Việt Nam đều thỏa mãn quy định về vốn pháp định nhưng nguồn vốn chủ
yếu là do các ngân hàng mẹ, chủ sở hữu. Việc huy động đủ nguồn vốn như
vậy là rất khó khăn cho các công ty CTTC. Có thể nói, việc điều chỉnh quy
định tăng mức vốn pháp định là cần thiết để nâng cao tiềm lực, khả năng cạnh
tranh trên thị trường. Nhưng việc đáp ứng đủ mức vốn đó không phải là điều
dễ dàng đối với nhà đầu tư khi thành lập công ty CTTC. Trong số các công ty
CTTC đang hoạt động tại Việt Nam, Công ty TNHH một thành viên CTTC
Ngân hàng Á Châu là DN tăng đủ vốn đủ mức như quy định hiện nay là chậm
nhất, tăng từ 100 tỷ đồng lên 200 tỷ đồng từ ngày 09/06/2010 theo Quyết định
số 1388/QĐ-NHNN của NHNN.
23
* Điều kiện về tiêu chí thành viên sáng lập là tổ chức, cá nhân có uy tín
và năng lực tài chính; người quản trị, điều hành có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ và trình độ chuyên môn phù hợp với loại hình TCTD. Đây là điều kiện
còn khác biệt trong các quy định của các văn bản pháp luật, gây khó khăn
trong việc thành lập các công ty CTTC.
- Luật Các TCTD năm 2010 và các văn bản pháp luật về thành lập
Công ty CTTC quy định “ người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự” là đối
tượng không được thành lập, quản lý công ty CTTC. Bên cạnh đó, Luật Các
TCTD năm 2010 còn quy định “người đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng
trở lên” không được quản lý công ty CTTC. Quy định đó vừa không thể hiện
nghiêm túc tinh thần cải cách tư pháp hiện nay vừa chưa đảm bảo tốt quyền
của công dân trong tự do kinh doanh được quy định trong Luật DN 2005. So
với Luật DN 1999, Luật DN 2005 đã thu hẹp đối tượng bị cấm thành lập và
quản lý DN, “người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự”, “người đã bị kết
án về tội phạm nghiêm trọng trở lên” không thuộc đối tượng bị hạn chế
quyền thành lập DN. Vấn đề này, Luật Các TCTD năm 2010 cần được xem
xét, sửa đổi.
- Số lượng cổ đông, thành viên tham gia thành lập công ty CTTC và
mức vốn sở hữu:
+ Theo Quyết định số 40/2007/QĐ-NHNN, công ty CTTC cổ phần
phải có ít nhất 50 cổ đông nhưng Luật Các TCTD 2010 quy định phải có tối
thiểu 100 cổ đông; cổ đông là các cá nhân được sở hữu cổ phần với mức tối
đa là 10% vối điều lệ; cổ đông là tổ chức được sở hữu đến mức tối đa là 20%
vốn điều lệ. Nhưng, Luật các TCTD năm 2010 quy định mức sở hữu tối đa:
5% vốn điều lệ đối với một cổ đông là cá nhân, 15% vốn điều lệ đối với một
cổ đông là tổ chức.
24
Quy định trên tạo ra chồng chéo, khó khăn trong việc thành lập mới các
công ty CTTC cổ phần. Nhà đầu tư không dễ dàng tìm kiếm đủ 100 cổ đông,
trong đó ít nhất 03 cổ đông là pháp nhân để thành lập công ty CTTC cổ phần.
Tính đến thời điểm năm 2010, cả nước vẫn chỉ dừng lại ở con số 13 công ty
CTTC mà không có công ty CTTC nào tồn tại dưới hình thức công ty cổ
phần. Quy định về công ty CTTC cổ phần chỉ áp dụng cho cá nhân, tổ chức
Việt Nam, không áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài vì nhà đầu tư nước
ngoài khi thành lập các công ty CTTC chỉ được thực hiện ở loại hình TNHH,
gây khó khăn cho các công ty CTTC trong việc huy động vốn, tham gia thị
trường chứng khoán, thu hút vốn đầu tư,…Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các
công ty cổ phần với ưu thế về nguồn vốn nhưng với quy định nêu trên thì
nước ta sẽ có rất ít côn gty CTTC cổ phần được thành lập, nhất là khi không
cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập các công ty CTTC mà nhà đầu tư
trong nước còn hạn chế về nguồn vốn, kinh nghiệm,…Luật Các TCTD năm
2010 đã mở rộng việc thành lập các TCTD cổ phần vốn của nhà đầu tư nước
ngoài. Do vậy, quy định về cổ đông trong công ty CTTC cổ phần cần phải sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cam kết
quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
* Về quy định số lượng và tỉ lệ góp vốn trong việc thành lập các công
ty CTTC TNHH còn có sự bất cập. Theo quy định Điều 70 – Luật Các TCTD
năm 2010, TCTD là Công ty TNHH hai thành viên trở lên thì thành viên phải
là pháp nhân, có số lượng không quá 05 (năm), “tỉ lệ sở hữu tối đa của một
thành viên và người liên quan không được vượt quá 50% vốn điều lệ của
TCTD”[66]. Nhưng Điều 29 – Luật Các TCTD năm 2010 về giới hạn góp
vốn, mua cổ phần của các NHTM, công ty con, công ty liên kết của NHTM
lại khống chế ở mức tối đa 11% vốn điều lệ của DN nhận góp vốn. Giới hạn
mức góp vốn này cũng được quy định tại Điều 16 – Thông tư số 13/2010/TT-
25
NHNN và Thông tư số 19/2010/TT-NHNN. Với tỉ lệ sở hữu và giới hạn góp
vốn như vậy, loại hình công ty CTTC TNHH hai thành viên rất ít được thành
lập trong thực tiễn và sẽ không thể thành lập theo quy định của Luật các
TCTD năm 2010. Do đó, Nhà nước cần phải điều chỉnh quy định về tỷ lệ trên.
* Theo quy định của pháp luật Việt Nam, công ty CTTC có thể tồn tại
dưới hình thức là công ty CTTC TNHH có một thành viên hoặc từ hai thành
viên trở lên. Cho đến thời điểm hiện tại, NHNN Việt Nam vẫn chưa ban hành
các văn bản pháp luật để hướng dẫn cụ thể điều kiện, trình tự, thủ tục thành
lập, tổ chức quản lý và hoạt động đối với loại hình này.
* Về điều kiện có phương án kinh doanh khả thi: Tất cả các công ty
CTTC khi thành lập đều có đề án hoạt động và đề án hoạt động đó được đánh
giá là khả thi nhưng việc kiểm tra trên thực tế xem hoạt động này khả thi hay
không thì rất khó. Hiện nay, hầu hết các công ty CTTC đang gặp khó khăn
sau một thời gian hoạt động, khoản dư nợ CTTC không ngừng tăng lên. Vậy
phương án kinh doanh khi thành lập và trong quá trình hoạt động luôn có sự
khác biệt, không phải lúc nào cũng “kinh doanh khả thi”.
Về việc thành lập các công ty CTTC liên doanh hoặc 100% vốn nước
ngoài: Theo quy định tại Điều 8 – Nghị định số 16/2001/NĐ-CP, Nghị định
95/2008/NĐ-CP, bên nước ngoài thành lập các Công ty CTTC 100% vốn
nước ngoài hoặc liên doanh phải đảm bảo các điều kiện trên và 02 điều kiện
khác:
a) Được tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
nước nguyên xứ cho phép hoạt động cho thuê tài chính Việt Nam.
b) Có tổng tài sản trên 10 tỷ đồng đô la Mỹ vào cuối năm
trước thời điểm nộp đơn, trừ trường hợp Hiệp định đầu tư song phương
giữa Việt Nam và nước nguyên xứ có quy định khác[9].
26
Nhưng Luật Các TCTD năm 2010 đã quy định thêm nhiều điều kiện tại
Điều 20 như: Công ty CTTC nước ngoài được phép thực hiện hoạt động theo
quy định của pháp luật của nước nơi công ty CTTC nước ngoài đặt trụ sở
chính; phải có hoạt động lành mạnh, đáp ứng các điều kiện về tổng tài sản có,
tình hình tài chính, các tỷ lệ bảo đảm an toàn theo quy định của NHNN; cam
kết hỗ trợ tài chính, công nghệ, quản trị, điều hành, bảo đảm duy trì giá trị
thực vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định và thực hiện các quy
định về bảo đảm an toàn của Luật Các TCTD; cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài đã ký kết thỏa thuận với NHNN về thanh tra, giám sát hoạt động
ngân hàng, trao đổi thông tin giám sát an toàn ngân hàng và có văn bản cam
kết giám sát hợp nhất theo thông lệ quốc tế. Vậy thì nhà đầu tư nước ngoài
phải thực hiện quy định nào ?
Tuy nhiên trong thực tế áp dụng các quy định trên, phát sinh một số bất
cập như sau:
- Quy định về hồ sơ thành lập công ty CTTC cổ phần: Quyết định số
40/2007/QĐ-NHNN của NHNN yêu cầu phải lập hồ sơ xin chấp thuận
nguyên tắc cấp Giấy phép và Hồ sơ cấp Giấy phép. Nhưng theo quy định tại
Điều 22 – Luật Các TCTD năm 2010, thời hạn cấp giấy phép cho các TCTD
là 180 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ và bước chấp thuận nguyên tắc
hố sơ cấp giấy phép không được quy định trong Luật Các TCTD năm 2010.
- Yêu cầu những loại giấy tờ trong Hồ sơ xin phép thành lập công ty
CTTC vẫn chưa có thống nhất trong các văn bản pháp luật, tạo ra những rào
cản không cần thiết cho nhà đầu tư:
+ Về văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền
nơi đặt trụ sở của công ty CTTC: Đây là văn bản bắt buộc phải có trong Hồ sơ
xin phép thành lập công ty CTTC theo quy định của Nghị định số
16/2001/NĐ-CP. Tuy nhiên, khi thành lập công ty CTTC cổ phần, văn bản
27
không buộc phải có theo quy định của Thông tư số 24/2011/TT-NHNN ngày
31/08/2011 của NHNN “về việc thực thi phương án đơn giản hóa thủ tục
hành chính lĩnh vực thành lập và hoạt động ngân hàng theo các Nghị quyết
của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng
của ngân hàng nhà nước Việt Nam”. Vậy nhà đầu tư có cần phải xin phép Ủy
ban nhân dân cấp có thẩm quyền để có văn bản chấp thuận đó hay không?
+ Về văn bản xác nhận quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp của trụ sở
chính: Đây là văn bản không được quy định trong Hồ sơ xin phép theo quy
định của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP nhưng lại được quy định trong Thông
tư số 65/2005/TT-NHNN, Quyết định số 40/2007/QĐ-NHNN.
+ Về hồ sơ cổ đông là cá nhân: Quyết định số 40/2007/QĐ-NHNN của
NHNN quy định cổ đông sở hữu từ 5% vốn điều lệ trở lên phải có hồ sơ cổ
đông. Nhưng, theo quy định Luật Các TCTD năm 2010, một cổ đông là cá
nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ. Như vậy, bản chất của
việc lập hồ sơ cổ đông để nhà nước và các nhà đầu tư thuận tiện trong quản
lý, giám sát đã trở nên không khả thi khi thực hiện quy định này.
Với những phân tích như trên, chúng ta nhận thấy pháp luật quy định
về lập Hồ sơ xin cấp Giấy phép thành lập công ty CTTC còn chồng chéo, mâu
thuẫn, “vừa thừa, vừa thiếu”. Điều này góp phần tạo thêm rào cản cho nhà
đầu tư, không khuyến khích thành lập công ty CTTC và thực tế hiện nay chưa
có công ty CTTC cổ phần nào được thành lập tại Việt Nam.
Tuy nhiên, quy định pháp luật về thẩm quyền xem xét, thẩm định và
thời hạn NHNN xem xét, thẩm định cấp hay không cấp Giấy phép thành lập
công ty CTTC vẫn có sự mâu thuẫn cần khắc phục. Theo quy định Luật Các
TCTD năm 2010, thời hạn để xem xét cấp Giấy phép là 180 kể từ ngày nhận
đủ hồ sơ hợp lệ nhưng quy định của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP, Quyết
định số 40/2007/QĐ-NHNN, Thông tư số 65/2005/TT-NHNN chỉ quy định
28
tối đa là 90 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ nhưng được phân thành các trường
hợp khác nhau ( được trình bày ở Chương 2). Như vậy, pháp luật đã quy định
khác nhau về thời hạn, mốc tính thời hạn và vai trò xem xét, thẩm định của
Chi nhánh NHNN ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi công ty CTTC
có trụ sở chính.
- Thông tư số 06/2005/TT-NHNN của NHNN được ban hành trước khi
áp dụng quy định Luật Các TCTD năm 2010 nên thời hạn xem xét cấp phép
chưa thống nhất cả về khoảng thời gian và căn cứ tính thời gian cấp phép.
Những quy định về thời hạn như vậy đã làm giảm cơ hội kinh doanh của cá
nhà đầu tư. Do đó, Nhà nước cần quy định thống nhất áp dụng hồ sơ hợp lệ
hay hồ sơ, thuận tiện cho các loại hình DN và hướng đến việc đơn giản hóa,
tạo điều kiện thuận lợi hơn như việc thành lập các DN theo Luật DN 2005.
Việc công bố thông tin hoạt động của các công ty CTTC theo quy định
của pháp luật vẫn có sự khác biệt cần điều chỉnh. Theo Quyết định số
40/2007/QĐ-NHNN của NHNN Việt Nam, công ty CTTC cổ phần đăng báo
theo quy định của pháp luật. Vậy thì quy định ở đây là quy định nào? Tuân
thủ quy định của Luật DN hay là quy định của NHNN Việt Nam. Theo quy
định của Thông tư số 06/2005/TT-NHNN của NHNN, công ty CTTC phải
đăng báo trung ương và báo địa phương trong 05 số liên tục. Tuy nhiên, Điều
28 Luật DN 2005, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP của Chính phủ lại quy định:
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD, DN
phải đăng trên mạng thông tin DN của cơ quan ĐKKD hoặc một trong các
loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong 03 số liên tiếp. Thực tiễn, trong thời
gian qua, các công ty CTTC đều thực hiện quy định công bố thông tin theo
quy định của Thông tư số 06/2005/TT-NHNN. Thông tư số 06/2005/TT-
NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành và áp dụng khi Luật DN
nhà nước 2003 đang có hiệu lực nhưng văn bản luật này hết hiệu lực thi hành.
29
Do đó, pháp luật về ngân hàng cần sửa đổi, bổ sung thống nhất với quy định
của Luật DN, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư.
+ Quy định về nội dung công bố thông tin trong Luật Các TCTD năm
2010 có nhiều điểm giống với Luật DN 2005 nhưng vẫn có sự khác biệt về
phương tiện được công bố, thời hạn công bố thông tin và một số nội dung
công bố thông tin. Luật DN quy định công ty CTTC phải đăng công bố “trên
mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc một
trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử”[59]. Nhưng Luật các TCTD năm
2010 lại yêu cầu phải công bố trên “phương tiện thông tin của ngân hàng nhà
nước và trên một tờ báo viết hàng ngày trong 03 số liên tiếp hoặc báo điện tử
Việt Nam”[66]. Vậy, các công ty CTTC sẽ công bố theo quy định của Luật
DN năm 2005 hay Luật Các TCTD năm 2010? Luật DN năm 2005 quy định
30 ngày nhưng tính từ khi được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD và không quy
định phải công bố ngày dự kiến khai trương hoạt động. Luật Các TCTD năm
2010 quy định tính thời gian công bố dựa vào ngày dự kiến khai trương và
phải đăng thông tin trong NHNN và một tờ báo khác. Do vậy, các công ty
CTTC sẽ gộp những nội dung công bố trong Luật DN và Luật Các TCTD để
đảm bảo “vừa thừa” nội dung công bố, “vừa đúng” phương tiện được công
bố.
Để khai trương hoạt động, công ty CTTC phải góp đủ vốn điều lệ đăng
ký và số vốn điều lệ này phải gửi vào tài khoản phong tỏa không được hưởng
lãi mở tại NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố nơi công ty CTTC đặt trụ sở
chính trước khi khai trương hoạt động tối thiểu 30 ngày. Số vốn này chỉ được
giải tỏa sau khi công ty CTTC khai trương hoạt động. Tuy nhiên, quy định đó
lại bất lợi cho nhà đầu tư. Bởi vì, dù chưa tiến hành các hoạt động kinh doanh
nhưng các công ty CTTC phải tốn một khoản kinh phí không nhỏ cho việc tài
khoản bị phong tỏa ít nhất 30 ngày mà không hưởng lãi,…trong khi nguồn
30
vốn chủ yếu của công ty CTTC ở nước ta được cấp bởi các ngân hàng mẹ, các
công ty mẹ. Bản chất của những quy định này nhằm yêu cầu các TCTD có
vốn thực, đảm bảo tính an toàn của hệ thống ngân hàng, tránh tình trạng “vốn
ảo”, vốn trên giấy tờ là chủ yếu của một số loại DN được thành lập chỉ dựa
trên quy định của Luật DN. Bên cạnh đó, khi thành lập, các Công ty CTTC
đều góp vốn chủ yếu bằng tiền, tài sản bằng quyền tài sản khó thực hiện được.
Nếu góp vốn bằng quyền tài sản thì việc phong tỏa sẽ như thế nào và có cần
thiết phải phong tỏa hay không? Nghị định số 102/2010/NĐ-CP cuả Chính
phủ đã quy định về vấn đề cho phép góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ nhưng
không thể thực hiện đối với công ty CTTC vì pháp luật chưa hướng dẫn cụ
thể và chưa quy định cụ thể vấn đề này đối với các công ty CTTC.
2.2. Về hoạt động tín dụng của công ty CTTC:
2.2.1. Hoạt động cho thuê tài chính
2.2.1.1. Chủ thể tham gia hoạt động CTTC
Tham gia hoạt động CTTC gồm 02 loại chủ thể cơ bản là bên cho thuê
tài chính và bên thuê tài chính.
* Bên cho thuê tài chính:
- Quy định về chủ thể CTTC hiện nay còn một số điểm cần hoàn thiện.
Nhiều quốc gia có những quy định rộng rãi hơn về chủ thể CTTC, cho phép
các công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp tham gia CTTC
như một hình thức hỗ trợ để bán sản phẩm thông qua các công ty con chuyên
kinh doanh hoạt động CTTC (điển hình như Hoa Kỳ). Một số nước như Thái
Lan,... thì DN kinh doanh CTTC cũng như một công ty thương mại. Mô hình
tổ chức công ty CTTC khác nhau ở mỗi nước phụ thuộc vào điều kiện kinh tế
- xã hội. Việt Nam là một nước đang phát triển, hoạt động CTTC hình thành
31
muộn và chưa phát triển mạnh thì việc nghiên cứu mô hình tổ chức công ty
CTTC phù hợp là cần thiết.
Theo Nghị định số 95/2008/NĐ-CP của Chính phủ, công ty CTTC hoạt
động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc TNHH (riêng các công ty CTTC có
vốn đầu tư nước ngoài thì hoạt động dưới hình thức công ty TNHH). Các
công ty CTTC hoạt động tại Việt Nam phải là các TCTD phi ngân hàng, là
pháp nhân Việt Nam. Quy định này đã góp phần làm hạn chế sự thu hút các
nguồn vốn khác vào thị trường CTTC, nhất là nguồn vốn nước ngoài. Pháp
luật Việt Nam không cho phép các công ty CTTC nước ngoài tài trợ trực tiếp
thông qua chi nhánh tại Việt Nam, đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa chi chi
nhánh ngân hàng nước ngoài với các công ty CTTC nước ngoài. Bởi vì, cho
nhánh ngân hàng nước ngoài được thực hiện trực tiếp hoạt động cấp tín dụng
tại Việt Nam nhưng các công ty CTTC thì không được thực hiện dù cho hoạt
động CTTC có độ rủi ro thấp hơn nhiều về mặt lý thuyết.
- Quy định về công ty CTTC liên doanh và công ty CTTC 100% vốn
nước ngoài theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP và Nghị định số 95/2008/NĐ-
CP cũng còn sự bất cập. Theo Nghị định số 95/2008/NĐ-CP, các bên tham
gia thành lập công ty CTTC liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài phải là
một hoặc một số TCTD. Quy định này tạo ra rào cản trong việc thu hút các
nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài đối với nền kinh tế và các công ty CTTC, làm
hạn chế nguồn vốn và không tạo thuận lợi trong việc tiếp cận máy móc, thiết
bị, công nghệ hiện đại để thực hiện tốt các giao dịch CTTC.
* Bên thuê tài chính:
Việc áp dụng quy định pháp luật về chủ thể là Bên thuê tài chính hiện
nay còn một số điểm bất cập cần khắc phục:
- Quy định tại Điều 126, Điều 127 và Điều 128 Luật các TCTD năm
2010 về những trường hợp không được cấp tín dụng và hạn chế cấp tín dụng
32
vẫn kế thừa những quy định của Luật các TCTD năm 1997 nhưng có một số
quy định vẫn chưa thống nhất. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 31 - Nghị
định số 16/2001/NĐ-CP, Nghị định số 65/2005/NĐ-CP, giới hạn CTTC phải
đảm bảo: “Tổng dư nợ cho thuê tài chính đối với một khách hàng không vượt
quá 30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính, trừ trường hợp đối với
những khoản cho thuê tài chính từ các nguồn vốn ủy thác của Chính phủ, của
các tổ chức, cá nhân hoặc khách hàng thuê là tổ chức tín dụng...”[4]. Trên cơ
sở quy định của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư số
13/2010/TT-NHNN của NHNN quy định về giới hạn cấp tín dụng thì: “Tổng
dư nợ cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá 30%
vốn tự có của công ty cho thuê tài chính”[44]. Nhưng Khoản 2 Điều 128 Luật
các TCTD quy định: “Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng
không được vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng phi ngân hàng; tổng
mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không
được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng phi ngân hàng” [66]. Vậy
thì mức tối đa là 25% hay 30% vốn tự có của công ty CTTC? Sự khác biệt
này cần phải được điều chỉnh thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp
luật nhưng cũng cần lưu ý tới hoạt động của công ty CTTC, vì vốn tự có của
phần lớn các công ty CTTC hiện nay không nhiều, trong khi đó có nhiều DN
cần thuê tài sản, nếu giới hạn mức 30% thì không phù hợp với thực tế nhu cầu
cạnh tranh và chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm
2020.
- Công ty CTTC không được CTTC với những điều kiện ưu đãi cho cổ
đông lớn nhưng việc quy định về cổ đông lớn vẫn chưa thống nhất. Theo quy
định của Luật Chứng khoán 2006 thì cổ đông lớn là cổ đông sở hữu vốn với tỉ
lệ là từ 5% đối với các công ty niêm yết; Luật DN 2005 và Thông tư số
06/2005/TT-NHNN quy định tỉ lệ là từ 10% tổng số cổ phần phổ thông; Luật
33
các TCTD năm 2010 quy định tỉ lệ là từ 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết.
Chính vì vậy, Luật DN và các quy định về CTTC nên quy định thống nhất tỉ
lệ của cổ đông lớn.
- Đề góp phần bảo vệ nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nhỏ, thiểu số,
Luật DN 2005 dã đưa ra các quy định nhằm kiểm soát các giao dịch tư lợi,
giao dịch lớn, nội gián nhưng pháp luật về CTTC chưa được vận dụng triệt
để. Một trong những đối tượng cần kiểm giám sát là “người liên quan” trong
công ty. Khoản 17 Điều 4 Luật DN có quy định:
Người có liên quan là tổ chức, cá nhân có quan hệ trực tiếp
hoặc gián tiếp với doanh nghiệp trong các trường hợp sau đây:
a) Công ty mẹ, người quản lý công ty mẹ và người có thẩm
quyền bổ nhiệm người quản lý đó đối với công ty con;
b) Công ty con đối với công ty mẹ;
c) Người hoặc nhóm người có khả năng chi phối việc ra quyết
định, hoạt động của doanh nghiệp đó thông qua các cơ quan quản lý
doanh nghiệp;
d) Người quản lý doanh nghiệp;
đ) Vợ, chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh,
chị, em ruột của người quản lý doanh nghiệp hoặc của thành viên, cổ
đông sở hữu phần vốn góp hay cổ phần chi phối;
e) Cá nhân được uỷ quyền đại diện cho những người quy định
tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này;
g) Doanh nghiệp trong đó những người quy định tại các điểm a,
b, c, d, đ, e và h khoản này có sở hữu đến mức chi phối việc ra quyết
định của các cơ quan quản lý ở doanh nghiệp đó;
34
h) Nhóm người thoả thuận cùng phối hợp để thâu tóm phần vốn
góp, cổ phần hoặc lợi ích ở công ty hoặc để chi phối việc ra quyết định
của công ty [59].
Vấn đề người liên quan cũng được đề cập tại Điều 4 Luật các TCTD
năm 2010 nhưng có một số sự khác biệt so với Luật DN 2005, trong đó có
quy định về tỉ lệ sở hữu. Như vậy, đối với những đối tượng không được quy
định tại điểm 24.1 và 25 Mục IV của Thông tư số 06/2005/TT-NHNN của
NHNN mà thuộc đối tượng là người liên quan như trên thì có bị cấm hay
không? Việc áp dụng quy định về giới hạn CTTC đối tượng đó như thế nào?
Do đó, NHNN Việt Nam cần bổ sung đối tượng này để tạo ra sự thống nhất,
đồng bộ trong hệ thống pháp luật, tạo ra tính ổn định, an toàn trong việc kinh
doanh của các công ty CTTC và hệ thống các TCTD.
-Quy định về chủ thể CTTC của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP vẫn còn
bất cập, hạn chế khách hàng được tài trợ thuê tài chính vì không thỏa mãn các
điều kiện để tài trợ CTTC. Theo quy định tại Điều 23 và Điều 26 Nghị định
số 16/2001/NĐ-CP, bên thuê phải nộp báo cáo quý, quyết toán tài chính năm
và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cho công ty CTTC. Trong điều
kiện hiện nay của Việt Nam, quy định này không khả thi và chưa hợp lý vì
Nhà nước chưa có văn bản hướng dẫn nào bắt buộc các chủ trang trại, hộ kinh
tế gia đình, cá nhân,... phải lập báo cáo tài chính hay quyết toán năm, báo cáo
tình hình sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, nhà nước cần có những quy
định phù hợp để tháo gỡ vướng mắc này.
* Về thực tiễn nhà cung ứng
Pháp luật hiện hành vẫn chưa có những điều chỉnh cụ thể về đối tượng
này. Bên cung ứng có thể là các DN trong và ngoài nước, có các quyền và
nghĩa vụ cơ bản: ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán tài sản và thực hiện
thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên cho thuê theo quy định; yêu cầu
35
bên cho thuê thanh toán đầy đủ theo các điều khoản đã được thỏa thuận trong
hợp đồng, bảo hành tài sản, cung cấp các dịch vụ liên quan đến tài sản
CTTC,... Hợp đồng CTTC chủ yếu được thực hiện bởi bên cho thuê và bên
thuê. Trong một số trường hợp nhất định, việc xác định trách nhiệm của nhà
cung ứng và vai trò của nhà cung ứng là cần thiết, tác động đến việc thực hiện
hợp đồng, có thể gây thiệt hại cho các bên tham gia giao dịch CTTC trong
trường hợp: Chậm cung cấp, cung cấp không đúng tài sản, chất lượng không
tốt,... trong một số trường hợp, hợp đồng CTTC lại bị chấm dứt trước thời hạn
mà lỗi là do nhà cung ứng. Chẳng hạn, trường hợp tranh chấp xảy ra giữa
Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ thương mại Thái Bình Dương (trụ sở
chính tại Thành phố Nha Trang – tỉnh Khánh Hòa) với Công ty CTTC I -
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (trụ sở chính tại quận Hai Bà Trưng
- TP. Hà Nội) đã kéo dài mà vẫn chưa giải quyết dứt điểm:
-Ngày 01/3/2002, Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ Thái Bình
Dương gửi văn bản đến Công ty CTTC – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt
Nam đề nghị xin thuê tài sản là màn hình quảng cáo ngoài trời (màn hình
LED), giữa Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương và nhà
cung ứng là Công ty Kumgang AD System Corporation – Hàn Quốc (công ty
Kumgang) có biên bản thỏa thuận nguyên tắc mua bán bảng thông tin LED.
Ngày 10/4/2002, Công ty CTTC - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam đã ký hợp đồng CTTC với Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ
Thái Bình Dương số 44/2002/HĐ-CTTC là 311.950 USD tương đương với số
tiền là 4.471.000.000 đồng với thời hạn thuê 30 tháng, lãi suất thuê là
0.87%/tháng cho năm đầu và từ năm thứ hai trở đi thì áp dụng lãi suất thả nổi
theo quy định của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Công ty CTTC
đã ký tiếp hợp đồng ủy thác cho Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ Thái
Bình Dương ký hợp đồng mua bán với nhà cung ứng là Công ty Kumgang.
36
Đến cuối tháng 12/2002, màn hình LED bộc lộ nhiều sai sót, bị hỏng và tập
đoàn Kumgang đã thay thế, sửa chữa nhưng vẫn không được. Công ty TNHH
Quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã kiện Công ty Kumgang ra trọng
tài nhưng sau đó giữa Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ Thái Bình
Dương và Công ty CTTC – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam lại phát
sinh tranh chấp về tiền gốc và phí thuê tài chính.
-Vụ việc được xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân (TAND) thành phố
Hà Nội từ năm 2005 (từ năm 2003, các bên đã kiện ra Trung tâm Trọng tài
quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại Việt Nam nhưng vẫn chưa giải quyết
được) bởi bản án sơ thẩm số 106/2005/KDTM, xét xử phúc thẩm vào ngày
09/5/2006 bởi Tòa phúc thẩm – TAND tối cao tại Hà Nội (bản án phúc thẩm
số 102/2006/KDTM), xét xử giám đốc thẩm tại TAND tối cao ngày
19/6/2008, tòa phúc thẩm – TAND Hà Nội bởi bản án số 229/2008/KDTMPT
ngày 05/12/2008. Ngày 31/7/2009, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ra quyết
định kháng nghị số 24/QĐ-KNGĐT. Trên cơ sở quyết định kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan thi hành án đã ra quyết định đình chỉ
thi hành án. Vụ việc đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Theo quyết
định kháng nghị số 24/QĐ-KNGĐT của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì:
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 27 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày
02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC: “Hợp
đồng cho thuê tài chính được chấm dứt trước thời hạn cho thuê trong trường
hợp tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa”[18]. TAND
tối cao đã chấp nhận kháng nghị để giải quyết lại vụ việc, theo hướng xem xét
định giá lại phí thuê tài chính vì hợp đồng CTTC chấm dứt trước hạn.
Đây là một vụ việc cho thấy hệ thống pháp luật của chúng ta chưa hoàn
thiện, trong đó có việc quy định chưa cụ thể về trách nhiệm của nhà cung ứng
trong hợp đồng CTTC. Như vậy, việc quy định trách nhiệm pháp lý cụ thể của
37
các bên trong giao dịch CTTC, trong đó có nhà cung ứng sẽ hạn chế những
thiệt hại, tranh chấp xảy ra đối với các bên.
2.2.1.2. Hợp đồng cho thuê tài chính
* Chủ thể tham gia hợp đồng CTTC: Chủ thể chính tham gia hoạt động
CTTC là Bên cho thuê và Bên thuê:
- Bên cho thuê: Theo quy định tại Điều 3 – Nghị định 16/2001/NĐ-CP,
Nghị định số 65/2005/NĐ-CP, Nghị định số 95/2008/NĐ-CP của Chính phủ,
bên CTTC là các công ty CTTC với tư cách là “một tổ chức tín dụng phi ngân
hàng, là pháp nhân Việt Nam”[4]. Theo Luật các TCTD năm 2010, công ty tài
chính được thực hiện nghiệp vụ CTTC bởi vì “công ty cho thuê tài chính là
loại hình công ty tài chính có hoạt động chính là cho thuê tài chính”[66]. Vậy
chủ thể CTTC có thể là công ty tài chính và công ty CTTC. Bên CTTC có các
quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 23, Điều 24 của Nghị định số
16/2001/NDD-CP của Chính phủ:
+ Về quyền: Yêu cầu bên thuê cung cấp các báo cáo quý, quyết toán tài
chính hàng năm và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và các vấn đề
khác liên quan đến tài sản thuê; kiểm tra việc quản lý và sử dụng tài sản cho
thuê; mua, nhập khẩu tài sản cho thuê theo yêu cầu của bên thuê; gắn ký hiệu
sở hữu trên tài sản cho thuê trong suốt thời gian cho thuê; chuyển nhượng các
quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng CTTC cho một công ty CTTC
khác (trong trường hợp này, bên cho thuê chỉ cần thông báo trước bằng văn
bản cho bên thuê); yêu cầu bên thuê đặt tiền ký cược hoặc có bảo lãnh nếu
thấy cần thiết; việc giảm lãi cho thuê, gia hạn, điều chỉnh thời hạn trả tiền
thuê, chuyển nợ quá hạn tiền thuê theo quy định của pháp luật; yêu cầu bên
thuê bồi thường thiệt hại khi bên thuê vi phạm hợp đồng CTTC.
+ Về nghĩa vụ: Ký hợp đồng mua tài sản với bên cung ứng theo các
điều kiện thỏa thuận giữa bên thuê và bên cung ứng. Bên cho thuê không phải
38
chịu trách nhiệm về việc tài sản cho thuê không được giao hoặc giao không
đúng với các điều kiện do bên thuê thỏa thuận với bên cung ứng; đăng ký
quyền sở hữu, làm thủ tục mua bảo hiểm đối với tài sản thuê; thực hiện đầy
đủ, đúng các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng.
-Bên thuê (bên đi thuê): Các chủ thể có nhu cầu vốn trung, dài hạn trên
thị trường CTTC là các cá nhân, tổ chức kinh tế, đặc biệt là DN vừa và nhỏ.
Các chủ thể này đóng vai trò là bên thuê (bên đi thuê) tài sản và họ có quyền
sử dụng, hưởng lợi ích do tài sản mang lại và có trách nhiệm trả tiền thuê theo
thỏa thuận. Theo quy định của Nghị định 16/2001/NĐ-CP, Nghị định số
65/2005/NĐ-CP, Nghị định số 95/2008/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư số
06/2005/TT-NHNN của NHNN thì bên thuê tài chính gồm: tổ chức hoạt động
ở Việt Nam, cá nhân sinh sống làm việc tại Việt Nam, trực tiếp sử dụng tài
sản cho thuê với mục đích hoạt động của mình; DN; các tổ chức khác thuộc
đối tượng vay vốn của các TCTD. Bên thuê có các quyền và nghĩa vụ cơ bản
theo quy định tại Điều 25, Điều 26 của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của
Chính phủ:
+ Về quyền: Lựa chọn, thỏa thuận với bên cung ứng về đặc tính kỹ
thuật, chủng loại, giá cả, cách thức và thời hạn giao nhận, lắp đặt, bảo hành tài
sản thuê; trực tiếp nhận tài sản cho thuê từ bên cung ứng theo thỏa thuận
trong hợp đồng; quyết định việc mua tài sản hoặc tiếp tục thuê sau khi kết
thúc hợp đồng CTTC; yêu cầu bên cho thuê bồi thường thiệt hại khi bên cho
thuê vi phạm hợp đồng CTTC và các quyền khác theo sự thỏa thuận và quy
định pháp luật.
+Về nghĩa vụ: Cung cấp báo cáo tài chính quý, quyết toán tài chính
năm và tình hình sản xuất kinh doanh, các vấn đề liên quan đến tài sản khi
bên thuê yêu cầu; tạo điều kiện để bên cho thuê kiểm tra tài sản cho thuê; chịu
trách nhiệm về sự lựa chọn, thỏa thuận với bên cung ứng về đặc tính kỹ thuật,
39
chủng loại, giá cả, cách thức và thời hạn giao nhận, lắp đặt, bảo hành tài sản
thuê; sử dụng tài sản cho thuê đúng mục đích trong hợp đồng CTTC và thanh
toán các chi phí có liên quan đến việc nhập khẩu, thuế, lệ phí đăng ký quyền
sở hữu, bảo hiểm đối với tài sản thuê; chịu mọi rủi ro về những mất mát, hư
hỏng đối với tài sản thuê do việc sử dụng tài sản thuê gây ra đối với tổ chức
và cá nhân khác trong quá trình sử dụng tài sản thuê; bảo dưỡng, sửa chữa tài
sản thuê trong thời hạn thuê; không được tẩy xóa, làm hỏng ký hiệu sở hữu
gắn trên tài sản thuê; không được dùng tài sản thuê để thế chấp, cầm cố hoặc
để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác; thực hiện đầy đủ, đúng các điều khoản
đã cam kết trong hợp đồng.
* Nội dung hợp đồng CTTC: là toàn bộ những điều khoản do các bên
thỏa thuận trong hợp đồng CTTC. Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính
phủ không quy định cụ thể những nội dung của hợp đồng CTTC. Tuy nhiên,
căn cứ vào các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Luật các
TCTD, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Thương mại...thì hợp
đồng CTTC có những nội dung cơ bản: Tên, địa chỉ của các bên tham gia hợp
đồng; đối tượng của hợp đồng (tài sản thuê) với quy định về đặc tính, tiêu
chuẩn kỹ thuật, quy cách, chất lượng tài sản, nơi sản xuất...; thời gian hữu ích
của tài sản; địa điểm tài sản thuê; thời hạn thuê của hợp đồng (thời hạn thuê
cơ bản bằng phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản thuê và tổng hiện giá, ít
nhất là 60 % thời gian cần thiết để khấu hao tài sản); phí thuê; nộp thuế, mua
bảo hiểm cho tài sản thuê và các chi phí khác; các biện pháp bảo đảm thực
hiện hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của các bên; chấm dứt hợp đồng; xử lý vi
phạm hợp đồng, giải quyết tranh chấp; các thỏa thuận khác không trái pháp
luật và đạo đức xã hội.
* Hiệu lực của hợp đồng CTTC và sự vô hiệu của hợp đồng CTTC:
40
- Hợp đồng CTTC được thiết lập trên các lĩnh vực kinh doanh khác
nhau nên điều chỉnh hợp đồng CTTC còn có các văn bản khác ngoài Luật các
TCTD 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành như Luật Hàng không dân
dụng Việt Nam; Luật Kinh doanh bảo hiểm,... Điều kiện để hợp đồng CTTC
có hiệu lực theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và các văn bản pháp luật
chuyên ngành.
Bộ luật Dân sự năm 2005 với tư cách là luật chung, “quy định địa vị
pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể
khác; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các
quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại và lao động” [55]. Do đó,
hợp đồng CTTC có hiệu lực phải thỏa mãn các điều kiện được quy định tại
Điều 122 – Bộ luật Dân sự:
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau
đây:
a) Người tham gia giao dịch có nang lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều
cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định [55].
-Hợp đồng CTTC bị vô hiệu khi không đảm bảo một trong các điều
kiện để hợp đồng có hiệu lực. Hợp đồng CTTC bị vô hiệu được xử lý theo
quy định tại Điều 137 – Bộ luật Dân sự; các bên khôi phục lại tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện
vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi
tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật; bên có lỗi gây thiệt hại
phải bồi thường.
41
* Chấm dứt hợp đồng CTTC: Hợp đồng CTTC có thể được chấm dứt
theo thỏa thuận hoặc chấm dứt hợp đồng CTTC trước thời hạn. Bên vi phạm
hợp đồng phải bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật.
- Theo quy định tại Khoản 1, Điều 27 – Nghị định số 16/2001/NĐ-CP,
công ty CTTC có thể chấm dứt hợp đồng CTTC trước hạn trong những
trường hợp:
a) Bên thuê không trả tiền thuê theo quy định trong hợp
đồng cho thuê tài chính;
b) Bên thuê vi phạm các điều khoản của hợp đồng cho thuê
tài chính;
c) Bên thuê bị phá sản, giải thể;
d) Người bảo lãnh bị phá sản, giải thể và bên cho thuê
không chấp nhận để nghị chấm dứt bảo lãnh hoặc đề nghị người bảo
lãnh khác thay thế của bên thuê [4].
- Bên thuê có thể chấm dứt hợp đồng CTTC theo quy định tại Khoản 2,
Điều 27 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ: bên cho thuê không
giao đúng tài sản cho thuê hoặc bên cho thuê vi phạm hợp đồng.
* Đối tượng của hợp đồng CTTC (tài sản CTTC): Theo Nghị định số
16/2001/NĐ-CP của Chính phủ, tài sản CTTC là các động sản. Công ty
CTTC cho thuê phổ biến là các loại động sản như: phương tiện vận tải và các
máy móc, thiết bị của một số ngành in, dệt, thiết bị văn phòng, xây dựng...
Đối với Việt Nam, pháp luật hiện hành quy định bất động sản không phải là
đối tượng của hợp đồng CTTC.
Việc thực hiện hợp đồng CTTC trên thực tiễn vẫn còn những bất cập
cần hoàn thiện:
* Đối tượng của hợp đồng CTTC (tài sản CTTC):
42
- Theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ, tài sản CTTC là
các động sản. Theo quy định này, pháp luật chú trọng vào tăng năng lực sản
xuất của khách hàng thuê là chính. Thực tế, các nhà đầu tư trong và ngoài
nước đang hoạt động tại Việt Nam có nhu cầu rất lớn về bất động sản như:
nhà xưởng, nhà kho, văn phòng làm việc,... để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh nhưng vì vốn của các DN này còn hạn chế nên việc đi thuê bất
động sản thích hợp hơn là tự xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà xưởng,
trạm trại, cửa hàng, kho tàng, bến bãi,... Đây cũng là tiềm năng của thị trường
CTTC tại Việt Nam. Theo quy định hiện hành, bất động sản không được
CTTC. Đây là hạn chế rất lớn để phát triển thị trường CTTC tại Việt Nam.
- Theo chuẩn mực 06, Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam quy định
tài sản cho thuê là động sản và bất động sản. Do đó, pháp luật cần phải quy
định thống nhất ban hành các văn bản hướng dẫn liên quan đến tài sản cho
thuê là động sản và cả bất động sản vì các lý do sau:
+ Khách hàng chủ yếu của công ty CTTC là DN vừa và nhỏ, với quy
mô vốn nhỏ nên không có khả năng tự đầu tư, xây dựng nhà xưởng, văn
phòng,... đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Thuê bất động sản chỉ được phép thuê hoạt động, thời gian cho thuê
ngắn, kết cấu sử dụng không phù hợp, phí thuê cao, gây khó khăn trong việc
xây dựng chiến lược kinh doanh lâu dài, không chủ động sản xuất kinh doanh
của DN đi thuê. Nếu tài sản CTTC là bất động sản thì sẽ đáp ứng được nhu
cầu rất lớn của các DN hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế tại các khu
công nghiệp, khu chế xuất các nhà đầu tư đã xây dựng nhà kho, nhà
xưởng...theo yều cầu thiết kế của khách hàng để bán hoặc thực hiện cho thuê.
Mô hình thuê bất động sản qua các công ty CTTC được thực hiện giống như
CTTC ba bên, chỉ khác ở đây là nhà cung cấp sẽ là các nhà đầu tư kinh doanh
bất động sản. Sau đó, đàm phán ký hợp đồng CTTC với công ty CTTC. Nhà
43
kinh doanh bất động sản chuyển giao tài sản hoặc có thể xây dựng theo thiết
kế của DN đi thuê. Công ty CTTC (Bên cho thuê) chuyển vốn cho nhà kinh
doanh bất động sản. Quyền sở hữu bất động sản thuộc về công ty CTTC và sẽ
chuyển giao cho bên thuê khi kết thúc hợp đồng CTTC đã thỏa thuận.
-Ở các nước (Mỹ, Hàn Quốc,...) việc CTTC đối với bất động sản chiếm
một tỉ lệ quan trọng nhưng ở Việt Nam thì pháp luật chỉ cho phép đối tượng
cho thuê là động sản. Luật Các TCTD, Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng
dẫn thi hành đều cho phép áp dụng bất động sản để thế chấp vay vốn ngân
hàng. Nhưng đối với hoạt động CTTC thì bất động sản lại không phải là đối
tượng để CTTC theo quy định của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP. Việc hạn
chế này nhằm đảm bảo độ an toàn cho hoạt động tín dụng nhưng lại không
phù hợp với thực tiễn nhu cầu kinh doanh của bên thuê. Vì vậy, pháp luật cần
quy định theo hướng cho phép sử dụng bất động sản là đối tượng của CTTC.
* Về đăng ký hợp đồng CTTC:
- Việc đăng ký hợp đồng CTTC là bắt buộc, nhằm mục đích công khai
hóa tình trạng pháp lý của giao dịch CTTC, tạo điều kiện để những chủ thể có
nhu cầu tìm hiểu thông tin một cách nhanh chóng, chính xác, góp phần giảm
thiểu rủi ro cho các công ty CTTC khi có tranh chấp phát sinh. Theo quy định
của Nghị định 16/2001/NĐ-CP, Nghị định 65/2005/NĐ-CP, Nghị định số
163/2006/NĐ-CP về “giao dịch bảo đảm”, Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về
“đăng ký giao dịch bảo đảm” và Thông tư số 04/2007/TT-BTP ngày
11/05/2007 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn “thẩm quyền, trình tự, và thủ tục
đăng ký, cung cấp thông tin về hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng
thuê tài sản, hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng chuyển giao quyền đòi
nợ” thì “mọi giao dịch cho thuê tài chính phải được đăng ký tại Trung tâm
đăng ký giao dịch bảo đảm”. Nhưng các văn bản pháp luật vẫn chưa phân
định cụ thể trường hợp hợp đồng CTTC có đăng ký với trường hợp không
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY
Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY

More Related Content

What's hot

Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đềTổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Thanh Trúc Lưu Hoàng
 

What's hot (20)

Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt NamLuận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
 
Bài tập thương mại
Bài tập thương mại Bài tập thương mại
Bài tập thương mại
 
Luận án: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Luận án: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn Bảo hiểm tiền gửi Việt NamLuận án: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Luận án: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi từ thực tiễn Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAYĐề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAYLuận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
 
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây DựngBáo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
 
Luận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOTLuận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
 
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Luận văn: Pháp luật về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty
Luận văn: Pháp luật về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công tyLuận văn: Pháp luật về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty
Luận văn: Pháp luật về bảo lãnh phát hành chứng khoán của công ty
 
Bài mẫu tiểu luận về pháp luật kinh doanh, HAY
Bài mẫu tiểu luận về pháp luật kinh doanh, HAYBài mẫu tiểu luận về pháp luật kinh doanh, HAY
Bài mẫu tiểu luận về pháp luật kinh doanh, HAY
 
Đề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty
Đề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công tyĐề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty
Đề tài: Nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với cổ đông trong công ty
 
Luận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệpLuận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệp
 
Luận văn: Trách nhiệm của người quản lý công ty TNHH 2 thành viên
Luận văn: Trách nhiệm của người quản lý công ty TNHH 2 thành viênLuận văn: Trách nhiệm của người quản lý công ty TNHH 2 thành viên
Luận văn: Trách nhiệm của người quản lý công ty TNHH 2 thành viên
 
Bài tập luật lao động
Bài tập luật lao độngBài tập luật lao động
Bài tập luật lao động
 
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng SHB, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng SHB, HAYLuận văn: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng SHB, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng SHB, HAY
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đềTổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
Tổng hợp câu hỏi ôn thi tư pháp quốc tế theo chủ đề
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
 

Similar to Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY

Similar to Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY (20)

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG T...
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH  VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG T...PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH  VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG T...
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG T...
 
Luận án: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật tại các ngân hàng
Luận án: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật tại các ngân hàngLuận án: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật tại các ngân hàng
Luận án: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật tại các ngân hàng
 
Luận án: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam
Luận án: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt NamLuận án: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam
Luận án: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAYLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
 
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
 
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệpTổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
 
Luận án: Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng ở Việt NamLuận án: Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng ở Việt Nam
 
Đề tài: Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại, HOT
Đề tài: Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại, HOTĐề tài: Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại, HOT
Đề tài: Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại, HOT
 
Luận án: Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại
Luận án: Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mạiLuận án: Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại
Luận án: Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại
 
Luận văn: Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam, HAY
 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
 
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệpLuận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
 
Luận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Pháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp.doc
Pháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp.docPháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp.doc
Pháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp.doc
 
Pháp luật về hoạt động tín dụng, thực tiễn áp dụng tại công ty tài chính Tín ...
Pháp luật về hoạt động tín dụng, thực tiễn áp dụng tại công ty tài chính Tín ...Pháp luật về hoạt động tín dụng, thực tiễn áp dụng tại công ty tài chính Tín ...
Pháp luật về hoạt động tín dụng, thực tiễn áp dụng tại công ty tài chính Tín ...
 
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, 9 ĐIỂM
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, 9 ĐIỂMLuận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, 9 ĐIỂM
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, 9 ĐIỂM
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ HỒNG NHUNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2014
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ HỒNG NHUNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thuận Hà Nội - 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Thị Hồng Nhung
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN 5 VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH 1.1. Khái quát về hoạt động tín dụng 5 1.1.1. Khái niệm hoạt động tín dụng 5 1.1.2. Đặc điểm, phân loại hoạt động tín dụng 6 1.2. Khái quát về công ty cho thuê tài chính 8 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm công ty cho thuê tài chính 8 1.2.2. Loại hình hoạt động của công ty cho thuê tài chính 10 1.3. Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính11 1.3.1. Khái niệm, đặc điểm 11 1.3.2. Về hoạt động huy động vốn, vay vốn 11 1.3.3. Về hoạt động cho thuê tài chính 13 Chương 2 - THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT 19 VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 2.1. Hoạt động của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam 19 2.2. Hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam30 2.2.1. Hoạt động cho thuê tài chính 30 2.2.2. Hoạt động huy động vốn, vay vốn 55
  • 5. 2.2.3. Hoạt động khác 60 Chương 3 - ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN 62 PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng62 của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng64 của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam 3.2.1. Về tổ chức, hoạt động của công ty cho thuê tài chính 64 ở Việt Nam 3.2.2. Về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính 68 ở Việt Nam KẾT LUẬN 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CTTC DN ĐKDN ĐKKD HĐQT HĐTV NHNN NHTM TAND TCTD TNHH : Cho thuê tài chính : Doanh nghiệp : Đăng ký doanh nghiệp : Đăng ký kinh doanh : Hội đồng quản trị : Hội đồng thành viên : Ngân hàng Nhà nước : Ngân hàng thương mại : Tòa án nhân dân : Tổ chức tín dụng : Trách nhiệm hữu hạn
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1.1. Thống kê tiêu chuẩn giao dịch cho thuê tài chính của các quốc gia trên thế giới 15
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Hoạt động tín dụng của công ty CTTC tại Việt Nam trong những năm gần đây bên cạnh những mặt tích cực là tạo thêm một kênh huy động vốn, vay vốn cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất thì cũng bộc lộ nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến nền kinh tế. Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới trong những năm vừa qua, bản thân sự quản lý yếu kém của các công ty CTTC… và trong đó có sự ảnh hưởng không nhỏ của các quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC còn thiếu sự đồng bộ, chưa phù hợp. Đến nay hoạt động này ở Việt Nam mới chỉ được điều chính bởi Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ “về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính” và đã được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 65/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 và Nghị định số 95/2008/NĐ-CP ngày 25/8/2008 của Chính phủ. Luật các Tổ chức tín dụng cũng đề cập nhưng với tư cách là một hình thức cấp tín dụng của Tổ chức tín dụng và quy định rất chung chung về hoạt động cho thuê tài chính. Ngoài ra còn một số Thông tư của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều chỉnh về hoạt động CTTC như Thông tư số 06/2005/TT-NHNN ngày 12/10/2005 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thông tư số 08/2006/TT-NHNN ngày 12/10/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,…Có thể nói văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp về công ty CTTC có giá trị pháp lý không cao, đồng thời những quy định trong các văn bản pháp luật về công ty CTTC vẫn chưa thực sự linh hoạt, phù hợp với thực tiễn kinh doanh như quy định về trình tự, thủ tục thành lập công ty, quy trình, nghiệp vụ CTTC, quyền của công ty CTTC, tài sản cho thuê, chính sách thuế, huy động vốn, xử lý tranh chấp phát sinh từ
  • 9. 2 hoạt động CTTC,…Những bất cập, vướng mắc này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về công ty CTTC, tạo môi trường pháp lý đầu đủ, an toàn và tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giúp hoạt động của các công ty CTTC diễn ra an toàn, hiệu quả cao. Việc hoàn thiện và phát triển hoạt động CTTC, trong đó có việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC là một yêu cầu cấp thiết góp phần giải quyết những khó khăn về vốn, thúc đẩy nhanh sự tiến bộ khoa học và công nghệ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp phù hợp thúc đẩy sự phát triển hoạt động công ty CTTC là hết sức cần thiết và vô cùng quan trọng. Xuất phát từ những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Việt Nam đã có một số công trình khoa học, bài viết nghiên cứu, tìm hiểu cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động CTTC như: Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Doãn Hồng Nhung (2006) về “Những vấn đề về hợp đồng thuê mua ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Lê Hoàng Oanh (1998) về “Điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động thuê mua tài chính ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Lê Thị Thảo (2002) về “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Đinh Bá Tuấn (2006) về “Pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam”, Luận văn Tiến sỹ Kinh tế của tác giả Tống Thiện Phước (2006) về “Giải pháp phát triển thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam trong quá trình hội nhập tài chính, tiền tệ quốc tế”, Luận văn Tiến sỹ Kinh tế của tác giả Bùi Hồng Đới (2003) về “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam”;
  • 10. 3 cùng một số bài viết như: “Về quy định đăng ký tài sản cho thuê tài chính” của tác giả Nguyễn Hữu Thanh, “Cho thuê tài chính ở Việt Nam tại sao chưa phát triển” của tác giả Hoàng Quý Vương – Phạm Tuấn Long (1999), “Rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính” của tác giả Hoàng Ngọc Tiến (2004), “Pháp luật về cho thuê tài chính – một số vấn đề cần hoàn thiện” của Thạc sỹ Trần Vũ Hải… Tuy nhiên, các công trình và bài viết đó chưa đi sâu phân tích một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về hoạt động của công ty CTTC, nhất là các quy định pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC. Do đó, vấn đề về hoạt động tín dụng trong công ty CTTC vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn: Việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC là một yêu cầu cấp thiết, góp phần hoàn thiện pháp luật về hoạt động cho thuê tài chính, phát triển “kênh” dẫn vốn rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Mục đích của luận văn là tìm hiểu thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC ở Việt Nam và đề ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC, góp phần hoàn thiện khung pháp luật về hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam. Để thực hiện nhiệm vụ đó, tác giả luận văn thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản: Một là, Nghiên cứu một cách hệ thống các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về công ty CTTC. Hai là, Nghiên cứu thực tiễn về hoạt động tín dụng của công ty CTTC, qua đó chỉ ra những bất cập của pháp luật Việt Nam về vấn đề này và đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC ở Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
  • 11. 4 Luận văn tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC bao gồm các hoạt động cho thuê tài chính và hoạt động huy động vốn của công ty CTTC. 5. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp luật học so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp diễn giải và quy nạp. Các phương pháp này được sử dụng đan xen, kết hợp trong cả ba chương, để giải quyết một số nhiệm vụ đặt ra trong quá trình nghiên cứu, đánh giá và kết luận một số vấn đề cụ thể về pháp luật hoạt động tín dụng của công ty CTTC. 6. Ý nghĩa của luận văn: Qua nghiên cứu pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC, mong muốn những đề xuất của người viết có ý nghĩa thực tiễn, góp phần hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC, từ đó góp phần hoạt động CTTC tạo thành kênh dẫn vốn quan trọng đóng góp cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Đồng thời mong muốn luận văn là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm về vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng của công ty CTTC. Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC ở Việt Nam. Chương 3: Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC ở Việt Nam.
  • 12. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH 1.1. Khái quát về hoạt động tín dụng: 1.1.1. Khái niệm hoạt động tín dụng: “Tín dụng” xuất phát từ chữ Latin là Creditium có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng anh là Credit. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, “tín dụng” có nghĩa là sự vay mượn. Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, từ người sở hữu sang người sử dụng sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn. Dưới góc độ kinh tế, có thể hiểu tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ. Do đó, tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên - một bên là người cho vay, và một bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả. Vì vậy, có thể hiểu tín dụng thể hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.[15]
  • 13. 6 1.1.2. Đặc điểm, phân loại hoạt động tín dụng: Xuất phát từ khái niệm “tín dụng” như đã nêu ở trên có thể hiểu một quan hệ được gọi là “tín dụng” phải có đầy đủ ba mặt: Thứ nhất, có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người khác. Thứ hai, sự chuyển giao mang tính chất tạm thời. Thứ ba, khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm theo một lượng giá trị dôi thêm lợi tức. Có thể thấy đặc trưng của tín dụng thể hiện rõ nét nhất trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. Theo khoản 8 và khoản 10, Điều 20, Luật các tổ chức tín dụng 2010, hoạt động tín dụng được định nghĩa là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có nguồn vốn huy động để thỏa thuận cấp tín dụng cho khách hàng với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Hoạt động tín dụng khác với các loại hình giao dịch khác ở các đặc điểm sau đây: Một là, về chủ thể, một bên tham gia giao dịch bao giờ cũng là tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện hoạt động tín dụng theo quy định của pháp luật. Chủ thể này tham gia giao dịch với tư cách là người đầu tư (người cho vay hay chủ nợ) và có quyền đòi tiền của người nhận đầu tư (người vay hay con nợ) khi hợp đồng đáo hạn. Hai là, về nguồn gốc, các tổ chức tín dụng khi cấp tín dụng cho khách hàng chủ yếu dựa vào nguồn gốc huy động của các tổ chức, cá nhân thông qua các hình thức ghi nhận tiền gửi, phát hành trái phiếu hay vay nợ của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng. Đặc điểm này cho phép phân biệt hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng với hoạt động tín dụng
  • 14. 7 của Ngân hàng nhà nước, với đặc tính của nguồn gốc cho vay là vốn dự trữ phát hành. Tín dụng có thể được phân chia thành các loại sau: Thứ nhất, Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Đây là quan hệ tín dụng giữa các nhà sản xuất - kinh doanh được thực hiện dưới hình thức mua bán, bán chịu hàng hóa. Hành vi mua bán chịu hàng hóa được xem là hình thức tín dụng - người bán chuyển giao cho người mua quyền sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định, và khi đến thời hạn đã được thỏa thuận, người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu. Thứ hai, Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các đối tác kinh tế - tài chính của toàn xã hội, bao gồm doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước. Trong loại hình tín dụng này, huy động vốn và cho vay vốn đều thực hiện dưới hình thức tiền tệ và các ngân hàng đóng vai trò trung gian trong quá trình huy động vốn và cho vay; Thứ ba, Tín dụng nhà nước: Là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất hiện nhằm thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong điều kiện nguồn thu không đủ để đáp ứng; nó còn là công cụ để nhà nước hỗ trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, ngành mũi nhọn và khu vực kinh tế kém phát triển, và là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành vĩ mô. Chủ thể của tín dụng nhà nước là nhà nước, các pháp nhân và thể nhân; Hình thức tín dụng này đa dạng, phong phú. Tín dụng nhà nước chủ yếu là loại hình trực tiếp, không thông qua tổ chức trung gian.
  • 15. 8 Thứ tư, Tín dụng tiêu dùng: Là quan hệ tín dụng giữa dân cư với doanh nghiệp, ngân hàng và các công ty cho thuê tài chính. Hình thức này đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho dân cư; Hình thức là hàng hóa hoặc tiền tệ trong đó dân cư là người vay; ngân hàng, công ty cho thuê tài chính, doanh nghiệp là người cho vay. Thứ năm, Tín dụng quốc tế: Là mối quan hệ giữa các nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước với nhau, hoặc với ngân hàng quốc tế và các tổ chức quốc tế, các cá nhân người nước ngoài và giữa các doanh nghiệp của các nước với nhau. Nó phản ánh mối quan hệ tín dụng giữa các chủ thể kinh tế của một quốc gia với các chủ thể kinh tế của các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế. Đối tượng tín dụng quốc tế là hàng hóa hoặc tiền tệ. Chủ thể tham gia là chính phủ, cơ quan nhà nước, ngân hàng quốc tế, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và cá nhân. Thứ sáu, Tín dụng thuê mua: Là quan hệ phát sinh giữa các công ty cho thuê tài chính với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân dưới hình thức cho thuê tài chính. Trong đó đối tượng của tín dụng thuê mua là tài sản;Chủ thể là công ty cho thuê tài chính (người cho thuê), và doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân (người đi thuê). Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, Luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu và làm rõ loại tín dụng này của công ty CTTC. 1.2. Khái quát về Công ty CTTC 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm về Công ty CTTC Cho thuê tài sản là một công cụ tài chính đã được sáng tạo ra từ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân loại. Vào khoảng năm 1.700 trước Công nguyên, vua Babilon là Hamurabi đã ban hành nhiều văn bản quan trọng tạo thành bộ luật lớn, trong đó có đưa ra các quy định về hoạt động thuê tài sản. Trong nền văn minh cổ đại như Hy Lạp – La Mã, Ai Cập,… các hình thức thuê để tài trợ việc sử dụng đất đai, gia súc, công cụ sản xuất cũng xuất hiện. Có thể khẳng
  • 16. 9 định rằng, nhiều vấn đề mà các giao dịch thuê mua ngày nay gặp phải đã được giải quyết từ nhiều thế kỷ trước. Tuy nhiên, “các giao dịch cho thuê tài sản thời cổ thuộc hình thức thuê kiểu truyền thống” [76]. Phương thức này tương tự như phương thức thuê vận hành ngày nay. Đầu thế kỷ XIX, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nền kinh tế hàng hóa, các nước tư bản bắt đầu thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp, hoạt động CTTC đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng và chủng loại thiết bị, tài sản cho thuê, trở thành công cụ tài chính được chấp nhận rộng rãi. Đến đầu thập niên 50 của thế kỷ XX, giao dịch CTTC đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhất là ở Mỹ. Các công ty kinh doanh tìm cách chuyển dần các rủi ro và lợi ích từ việc sỡ hữu tài sản của họ sang bên đi thuê dưới hình thức cho thuê tài sản, đồng thời nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Đây là tiền đề xuất hiện hoạt động CTTC. Công ty CTTC độc lập đầu tiên được ra đời ở Mỹ vào năm 1952, do một công ty tư nhân tên là United States Corporation sáng lập. Sau đó, nghiệp vụ CTTC phát triển sang Châu Âu vào những năm 60 của thế kỷ XX. CTTC đã có những bước phát triển mạnh mẽ ở Châu Á và nhiều khu vực khác từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX. Từ những phân tích trên, chúng ta nhận thấy công ty CTTC là TCTD phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam, hoạt động chính là CTTC theo quy định pháp luật. Công ty CTTC là TCTD có những đặc điểm sau: - Về tổ chức: là pháp nhân kinh doanh chuyên nghiệp trên thị trường tài chính, hạch toán độc lập, được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về ngân hàng và các quy định khác có liên quan. - Về hoạt động: phạm vi hoạt động của công ty CTTC hẹp hơn so với các TCTD là ngân hàng. Ngoài hoạt động kinh doanh chủ yếu là CTTC, các công ty CTTC được thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhưng không nhận
  • 17. 10 tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thành toán qua tài khoản của ngân hàng. - Về nguồn vốn: ngoài vốn tự có, công ty CTTC thực hiện hoạt động trên cơ sở nguồn vốn huy động. Công ty CTTC huy động vốn thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu; vay vốn trên thị trường của các TCTD, tổ chức tài chính và NHNN theo quy định pháp luật. - Về quản lý nhà nước: loại hình DN chịu sự quản lý của NHNN Việt Nam, tồn tại ở hình thức công ty cổ phần hoặc công ty TNHH. - Về đối tượng kinh doanh: đối tượng kinh doanh chủ yếu là các tài sản hữu hình: máy móc, thiết bị và các động sản khác. 1.2.2. Loại hình hoạt động tín dụng của công ty CTTC: - Các hoạt động huy động vốn, trong đó vốn huy động bao gồm tiền gửi của tổ chức, vốn huy động từ tổ chức thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu và vốn vay của TCTD, tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài, vay NHNN dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định của Luật NHNN Việt Nam và đây là một trong những nguồn vốn bổ sung hoạt động cho các công ty CTTC. - Hoạt động cho thuê tài chính như cho vay bổ sung vốn lưu động đối với bên thuê tài chính; cho thuê vận hành và ủy thác thuê tài chính. - Ngoài hai hoạt động chủ yếu trên, các công ty CTTC được thực hiện một số hoạt động khác như: tư vấn khách hàng về vấn đề liên quan đến nghiệp vụ CTTC; thực hiện dịch vụ bảo lãnh liên quan đến CTTC theo hướng dẫn của NHNN; thực hiện hoạt động ngoại hối theo quy định của NHNN. Đối với các công ty CTTC có mức vốn điều lệ tương đương mức vốn pháp định đối với công ty tài chính thì được phép thực hiện hoạt động bao thanh toán và nghiệp vụ cho vay ngắn hạn bổ sung lưu động đối với bên thuê và thực hiện các nghiệp vụ khác khi được NHNN cho phép.
  • 18. 11 Như vậy, có thể thấy các hoạt động khác của công ty CTTC đều có quan hệ mật thiết với hoạt động chủ yếu và cơ bản của công ty CTTC là CTTC. Các hoạt động này góp phần tạo nguồn lực hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động CTTC, tạo điều kiện cho phép khách hàng tiếp cận giao dịch CTTC, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty CTTC. 1.3. Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC: 1.3.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC: Hoạt động tín dụng của công ty CTTC có vai trò rất quan trọng trong việc tạo vốn cho DN, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Xuất phát từ vai trò này mà vấn đề hoạt động tín dụng của công ty CTTC hiện nay được điều chỉnh rất cụ thể trong các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Có thể nói, toàn bộ những quy định pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty CTTC tạo thành pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC. Hay nói một cách khác, pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC là một bộ phận pháp luật của công ty CTTC thuộc pháp luật ngân hàng, bao gồm những quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động của công ty CTTC, bao gồm các nội dung quy định về hoạt động cho thuê tài chính, hoạt động huy động vốn, vay vốn và các hoạt động khác của công ty CTTC. Pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty CTTC là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn, vay vốn và hoạt động cho thuê tài chính của công ty CTTC. 1.3.2. Về hoạt động huy động vốn, vay vốn: Bản chất của CTTC là việc tài trợ vốn trung và dài hạn. Vì vậy, nhu cầu về vốn của công ty CTTC là rất lớn. Do đó, để có vốn cấp tín dụng thông qua
  • 19. 12 hoạt động CTTC, công ty CTTC phải huy động vốn từ các nguồn khác nhau. Nguồn vốn hoạt động của các công ty CTTC được hình thành từ 02 nguồn cơ bản là: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn huy động. Nguồn vốn chủ yếu dựa vào nguồn vốn ban đầu và vốn cấp tín dụng từ ngân hàng mẹ, công ty mẹ. Vốn huy động bao gồm: -Tiền gửi của tổ chức. Hoạt động của công ty CTTC với quy mô nhỏ, số lượng tiền ít nên chưa chiếm được thị phần lớn trong thị trường tài chính. Mặt khác, công ty CTTC chưa khai thác mạnh mẽ các dịch vụ phi ngân hàng, không làm dịch vụ thanh toán nên những người có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi thường tìm đến ngân hàng thương mại. Vì vậy, để huy động được nguồn vốn này các công ty CTTC phải tiến hành quảng cáo, quảng bá đại chúng về dịch vụ CTTC mới và xây dựng một quy trình nghiệp vụ huy động vốn phù hợp với những hình thức như: lãi suất huy động, tiền gửi bậc thang, tiết kiệm dự thưởng,... -Vốn huy động từ tổ chức thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu. Công ty CTTC có thể phát hành trực tiếp trái phiếu dưới nhiều hình thức như trả lãi trước, trả lãi có kỳ hạn, trái phiếu được chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố và có thể bán trên thị trường thứ cấp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng. -Vốn vay của TCTD, tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài, vay NHNN dưới hình thức cấp vốn. Đây cũng là một trong những nguồn vốn bổ sung hoạt động cho các công ty CTTC. Ngoài việc huy động vốn nêu trên, công ty CTTC có thể khai thác nguồn hàng trả chậm từ các nhà cung cấp nước ngoài: Các công ty CTTC thiết lập một mạng lưới cung cấp tài sản cho thuê từ các nhà sản xuất ở trong và ngoài nước. Qua mạng lưới này bằng hình thức mua hàng trả chậm, các công ty CTTC thu hút, khai thác được nguồn vốn ở nước ngoài. Nhờ vào lợi
  • 20. 13 thế so sánh, trình độ công nghệ hiện đại, năng suất lao động cao làm cho chi phí, giá thành sản phẩm thấp nên các nhà cung cấp nước ngoài thực hiện việc bán hàng trả chậm cho các công ty CTTC tại Việt Nam. Một mặt, giúp các công ty CTTC tăng được nguồn vốn kinh doanh, tăng khả năng đáp ứng tài sản thuê cho thị trường. Mặt khác, bên thuê cũng được hưởng lợi vì phí cho thuê có khả năng giảm do chi phí sử dụng vốn của các công ty CTTC giảm, tài sản cho thuê đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của bên thuê. 1.3.3. Về hoạt động cho thuê tài chính: 1.3.3.1. Khái niệm cho thuê tài chính Hoạt động CTTC đầu tiên được tổ chức tại Mỹ. Sau đó, nghiệp vụ CTTC phát triển sang châu Âu, châu Á,... Thuật ngữ CTTC đã trở thành thuật ngữ quen thuộc đối với giới kinh doanh, nhà đầu tư. Tuy nhiên, thuật ngữ này được một số nước sử dụng có sự khác nhau. -Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ ghi nhận: CTTC là loại hình cho thuê trong đó: + Người cho thuê không chọn nhà sản xuất hoặc cung ứng hàng. + Người cho thuê thu nhận hàng hoặc chuyển quyền sở hữu và sử dụng hàng liên quan đến việc cho thuê. + Hoặc người cho thuê nhận một bản sao hợp đồng chứng thực đã mua hàng vào thời điểm trước hoặc trước khi ký hợp đồng hoặc việc phê chuẩn hợp đồng của người cho thuê chứng thực việc họ đã mua hàng đó là một trong những điều kiện xét tính hiệu lực của hợp đồng thuê [35, tr.8]. -Hiệp hội các công ty CTTC Thụy Điển quan niệm về CTTC với những đặc điểm cơ bản sau: + Bên cho thuê mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê.
  • 21. 14 + Tài sản cho thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê và quyền sử dụng được chuyển giao cho bên thuê trong suốt thời hạn thuê, thường bằng thời gian hữu ích của tài sản. + Hợp đồng cho thuê tài chính không được hủy ngang. + Số tiền thanh toán cho thuê sẽ bù đắp chi phí lãi, chi phí quản lý, rủi ro và lãi cho phép khấu hao toàn bộ hoặc gần như toàn bộ giá mua tài sản đó. + Tại thời điểm kết thúc hợp đồng, người thuê có quyền gia hạn hợp đồng với chi phí được ấn định tại thời điểm ký hợp đồng. + Nếu người thuê quyết định không gia hạn thuê thì quyền sử dụng tài sản sẽ chấm dứt và tài sản được bàn giao lại cho người cho thuê [69]. - Theo Công ước Unidroit về CTTC quốc tế năm 1998, hoạt động CTTC được xác định là giao dịch, trong đó một bên (bên cho thuê): + Căn cứ vào yêu cầu được nêu cụ thể của bên kia (bên thuê) thống nhất một thỏa thuận (thỏa thuận cung cấp) với một bên thứ ba (nhà cung cấp). Theo đó, bên cho thuê mua nhà máy, hàng hóa, tư liệu sản xuất hoặc các thiết bị khác (gọi chung là thiết bị) theo các điều kiện đã được (bên đi thuê) chấp nhận. + Cùng thống nhất một thỏa thuận với bên đi thuê cho phép bên đi thuê quyền sử dụng thiết bị để đổi lại bằng việc thanh toán tiền thuê. Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đưa ra định nghĩa về CTTC “là loại cho thuê có khả năng chuyển dịch về căn bản tất cả những rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản. Quyền sở hữu đó cuối cùng có thể được chuyển giao hoặc không được chuyển giao”[73]. Như vậy, có thể thấy về cơ bản, các điều kiện để nhận biết giao dịch CTTC của một số nước trên thế giới không có gì khác biệt. Điều này được thể
  • 22. 15 hiện thông qua bảng thống kê về tiêu chuẩn xác định giao dịch CTTC ở một số nước như sau: Bảng 1.1: Thống kê tiêu chuẩn giao dịch cho thuê tài chính của các quốc gia trên thế giới Quốc gia IASC Hoa Kỳ Anh Nhật Hàn Quốc Chuyển giao quyền sở hữu tài sản khi kết thúc hợp đồng Có Có Có Có Không quy định cụ thể Quyền chọn mua Có Có Không bắt buộc Không bắt buộc Không bắt buộc Thời hạn thuê tính theo đời sống hữu ích của tài sản thuê Phần lớn Tài sản > 7 năm cho thuê không quá 30 năm Phần lớn Tài sản >10 năm thì 60%, tối đa 120%; Tài sản <10 năm thì 70% Tài sản <5 năm thì 60%; Tài sản > 5 năm thì 70% Hiện giá thuần của các khoản tiền thuê tối thiểu so với giá trị của tài sản vào thời điểm ký hợp đồng Bằng hoặc lớn hơn giá trị tài sản >90% >90% >90% Nguồn: Tổng hợp từ tài liệu [49], [76]. 1.3.3.2. Đặc trưng của cho thuê tài chính và sự khác biệt giữa cho thuê tài chính với hoạt động cho vay của ngân hàng và cho thuê vận hành: * Các đặc trưng của CTTC: Hoạt động CTTC vừa mang đặc trưng của cho thuê tài sản, vừa mang đặc trưng của hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Loại hình CTTC có những đặc trưng riêng, khác biệt với cho thuê tài sản thông thường và cũng khác với hoạt động cho vay của ngân hàng: - Thời gian thuê chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản.
  • 23. 16 - Bên thuê chịu mọi chi phí vận hành, bảo trì, bảo hiểm,... và các rủi ro liên quan đến tài sản thuê. Quyền sở hữu của tài sản có thể được chuyển giao khi thời hạn thuê chấm dứt. - Hợp đồng thuê quy định quyền chọn mua tài sản theo giá tượng trưng. - Giá trị hiện tại của các khoản tiền thuê tối thiểu, lớn hơn hay tương đương giá trị tài sản. * Sự khác biệt giữa CTTC với cho thuê vận hành: Thuê vận hành đã có trong lịch sử rất lâu đời nên còn được gọi là kiểu thuê mua truyền thống (Traditional Lease). Trong nền sản xuất nông nghiệp, các loại tài sản thường được sử dụng trong các giao dịch thuê mua truyền thống bao gồm: ruộng đất, công cụ lao động, gia súc... Ngày nay, các loại tài sản,thiết bị được sử dụng cho thuê vận hành rất đa dạng như: máy photocopy, máy vi tính, trang thiết bị văn phòng... Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đưa ra định nghĩa về cho thuê vận hành như sau: “Cho thuê vận hành là cho thuê tài sản không có sự chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản” [49]. -Thuê vận hành có thời hạn thuê rất ngắn so với toàn bộ đời sống hữu ích của tài sản, điều kiện để chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong thời gian ngắn. Người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo trì, bảo hiểm, thuế tài sản... cùng mọi rủi ro và sự giảm giá của tài sản. Mặt khác, người cho thuê được hưởng tiền thuê và sự gia tăng giá trị tài sản hay những quyền lợi do quyền sở hữu tài sản mang lại như: những ưu đãi thuế thu nhập DN và những khoản khấu trừ do sự giảm giá trị tài sản mang lại,... Do thuê vận hành là hình thức cho thuê ngắn hạn nên tổng số tiền mà người thuê phải trả cho người cho thuê có giá trị thấp hơn nhiều so với toàn bộ giá trị của tài sản. Khi hợp đồng hết hạn, người chủ sở hữu có thể bán tài
  • 24. 17 sản đó, hoặc gia hạn hợp đồng cho thuê hay tìm một khách hàng thuê mới. Người thuê có quyền sử dụng tài sản trong thời gian đã thỏa thuận và có nghĩa vụ trả tiền thuê. Người thuê không phải chịu các chi phí bảo trì, vận hành hay những rủi ro liên quan đến tài sản nếu như không phải lỗi do họ gây ra. Đối với thuê vận hành, tài sản đã thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê trước khi ký hợp đồng. Đối với CTTC, tài sản thuê trước khi ký hợp đồng có thể không thuộc quyền sở hữu của người cho thuê mà là do người đi thuê tìm, lựa chọn từ nhà cung cấp và yêu cầu công ty CTTC mua để cho thuê. Trong cho thuê vận hành, tài sản không được ghi chép vào sổ sách kế toán của người thuê mà phần tiền thuê trả theo thỏa thuận được ghi như mọi khoản chi phí bình thường khác. * Hoạt động CTTC và cho vay của ngân hàng thương mại (NHTM). Về bản chất, hoạt động CTTC là một hình thức tín dụng trung và dài hạn. Tuy nhiên, so với cho vay ngân hàng, hoạt động CTTC có những khác biệt như sau: - Trong giao dịch CTTC, vốn cho vay được thể hiện bằng tài sản cố định như máy móc, thiết bị văn phòng... Trong cho vay của ngân hàng, vốn vay được thể hiện bằng tiền. Vì vậy, sau khi hợp đồng được ký kết, trong giao dịch CTTC, người đi thuê sẽ được bổ sung vốn trực tiếp bằng tài sản cố định, trong khi cho vay của ngân hàng thì người đi vay được bổ sung vốn bằng tiền. - Phí cho thuê trong hoạt động CTTC có thể lớn hơn lãi suất cho vay từ ngân hàng, vì chi phí CTTC được tính trên cơ sở lãi suất cho vay trung, dài hạn và các khoản phí liên quan đến tài sản thuê. - Nghiệp vụ CTTC thường có sự tham gia giao dịch quan hệ của nhiều bên (như bên đi thuê, bên cho thuê, nhà cung cấp, người cho vay). Ngược lại, cho vay của ngân hàng thì thường chỉ có quan hệ song phương giữa người cho vay và người đi vay. Hoạt động CTTC thường gắn liền với quyền sở hữu
  • 25. 18 về tài sản, bên cho thuê nắm quyền sở hữu tài sản. Trong khi đó, hoạt động cho vay của ngân hàng chỉ thông qua hợp đồng tín dụng để nhận biết được bên đi vay, số tiền cho vay. Vì vậy, khi người đi thuê bị phá sản thì bên cho thuê mặc nhiên thu hồi tài sản, còn khi người đi vay phá sản thì ngân hàng phải chờ sự phán xét của cơ quan tài phán nhà nước. Do vậy, về mặt lý thuyết, CTTC có độ an toàn cao hơn cho vay ngân hàng.
  • 26. 19 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỂ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 2.1. Hoạt động của Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam Theo Báo cáo của Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam, tính đến năm 2010, cả nước có 13 Công ty CTTC đang hoạt động. 1. Công ty CTTC Quốc tế Việt Nam là công ty liên doanh giữa ngân hàng Công thương Việt Nam với Công ty Tài chính quốc tế (IFC), Ngân hàng tín dụng Nhật Bản ( NCB), Ngân hàng Ngoại thương Pháp (BFCE), Công ty CTTC Công nghiệp Hàn Quốc với vốn điều lệ khi thành lập là 5 triệu USD, thành lập vào ngày 28/10/1996 theo Giấy phép số 01/GP-CTCTTC của NHNN Việt Nam. 2. Công ty CTTC Kexim (KVLC) là Công ty 100% vốn nước ngoài (Hàn Quốc) được thành lập vào ngày 20/11/1996 theo Giấy phép 02/GP- CTCTTC của NHNN Việt Nam với vốn điều lệ khi mới thành lập là 10 triệu USD sau nâng lên là 13 triệu USD. 3. Công ty CTTC ANZ-VTRAC là Công ty 100% vốn nước ngoài, liên doanh giữa Ngân hàng ANZ (Úc) và tập đoàn VTRAC (Hoa Kỳ) được thành lập vào ngày 19/11/1999 theo Giấy phép số 14/GP-CTCTTC của NHNN Việt Nam với vốn điều lệ khi mới thành lập là 5 triệu USD. 4. Công ty CTTC – Ngân hàng Công thương Việt Nam ( Công ty CTTC TNHH một thành viên Ngân hàng Công thương Việt Nam- ViettinBank Leasing), có vốn điều lệ khi mới thành lập là 55 tỉ đồng, tăng lên 300 tỉ đồng và hiện nay là 500 tỉ đồng, thành lập ngày 20/03/1998 theo Giấy phép số 04/GP-CTCTTC của NHNN Việt Nam. 5. Công ty CTTC - Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, có vốn điều lệ khi mới thành lập là 55 tỉ đồng, sau khi sáp nhập với Công ty CTTC Việt
  • 27. 20 Nam thì vốn điều lệ tăng lên 100 tỉ đồng, thành lập vào ngày 25/05/1998 theo Giấy phép số 05/GP-NHNN Việt Nam. Công ty CTTC Việt Nam là công ty liên doanh giữa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với 02 tổ chức tài chính, tín dụng của Nhật Bản với vốn điều lệ khi mới thành lập là 10 triệu USD, thành lập ngày 26/7/1997 theo Giấy phép số 03/GP-CTCTTC đến tháng 03/2001 thì sáp nhập vào Công ty CTTC- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Ngày 15/01/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có Quyết định số 81/QĐ-NHNN cho phép Công ty TNHH một thành viên CTTC NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam chuyển đổi loại hình công ty từ Công ty CTTC trực thuộc tổ chức tín dụng (VCB LEACO) thành Công ty TNHH một thành viên CTTC NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam (VCLB), vốn điều lệ hiện tại là 200 tỉ đồng. 6. Công ty CTTC I – Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam được thành lập vào ngày 27/08/1998 theo Giấy phép số 06/GP- CTCTTC của NHNN Việt Nam, có vốn điều lệ khi mới thành lập là 65 tỉ đồng sau tăng lên 200 tỉ đồng. 7. Công ty CTTC II – Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, có vốn điều lệ khi mới thành lập là 55 tỉ đồng sau tăng lên 350 tỉ đồng, thành lập vào ngày 27/08/1998 theo Giấy phép số 07/GP-CTCTTC của NHNN Việt Nam. 8. Công ty CTTC I – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, có vốn điều lệ khi mới thành lập là 55 tỉ đồng tăng lên 200 tỉ đồng, thành lập theo Quyết định số 305/1998/QĐ-NHNN do Thống đốc NHNN ký ngày 04/09/1998 và hoạt động theo Giấp phép số 08/GP-CTCTTC của NHNN Việt Nam. 9. Công ty CTTC II – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, là công ty trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, có vốn điều lệ
  • 28. 21 là 150 tỉ đồng , thành lập vào ngày 17/12/2004 theo Giấp phép số 11/GP- CTCTTC của NHNN Việt Nam. Ngày 29/7/2011, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định chấp thuận việc sáp nhập Công ty CTTC II – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) vào Công ty CTTC – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, đổi tên Công ty CTTC I thành Công ty CTTC trách nhiệm hữu hạn một thành viên Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tên Tiếng anh viết tắt là BLC với số vốn điều lệ là 447,8 tỉ đồng do BIDV sở hữu 100%. 10. Công ty CTTC – Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, thành lập vào ngày 12/04/2006 theo Giấy phép số 04/GP-NHNN của NHNN Việt Nam. Ngày 10/07/2006, Công ty CTTC- Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (SacomBank-SBL) đã chính thức đi vào hoạt động với vốn điều lệ ban đầu là 150 tỷ đồng và đến 17/12/2009 đã tăng lên 300 tỷ đồng. 11. Công ty CTTC – Ngân hàng Á Châu, có vốn điều lệ 100 tỉ đồng, thành lập vào ngày 22/05/2007 theo Giấy phép số 06/GP-NHNN của NHNN Việt Nam. Ngày 09/06/2010, NHNN Việt Nam đã ban hành Quyết định số 1388/QĐ-NHNN chấp thuận việc tăng vốn điều lệ của Công ty TNHH một thành viên CTTC Ngân hàng Á Châu từ 100 tỷ đồng lên 200 tỷ đồng. 12. Công ty TNHH cho thuê tài chính Quốc tế Chailease của Công ty tài chính Chailease (Đài Loan), có vốn điều lệ 10 triệu USD, thành lập vào ngày 09/10/2006, Giấy phép số 09/GP-NHNN của NHNN Việt Nam. 13. Công ty CTTC Công nghiệp tàu thủy (VINASHIN Finance Leasing Company Limited) được thành lập theo Giấy phép số 79/GP-NHNN ngày 19/03/2008 của NHNN Việt Nam, vốn điều lệ ban đầu là 100 tỷ đồng Việt Nam và hiện tại là 200 tỷ đồng. Cơ bản những quy định của pháp luật về việc thành lập, tổ chức hoạt động của các công ty CTTC đáp ứng được nhu cầu thành lập, hoạt động
  • 29. 22 của các công ty tại Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng bộc lộ một số bất cập gây khó khăn cho các tổ chức muốn thành lập công ty CTTC tại Việt Nam. Cụ thể như sau: * Về điều kiện “có nhu cầu hoạt động cho thuê tài chính trên địa bàn hoạt động”: Pháp luật quy định đây là điều kiện bắt buộc nhưng thực tế các cơ quan có thẩm quyền không kiểm tra hoặc khó kiểm tra. Bởi vì, về mặt lý thuyết, Việt Nam là một nước phát triển, máy móc thiết bị còn có phần lậc hậu và đang đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nên nhu cầu CTTC là tất yếu. Việc lựa chọn địa bàn kinh doanh, thay đổi địa bàn hoạt động là quyền của nhà đầu tư theo quy định của pháp luật về DN. Nhà đầu tư khi thành lập các công ty CTTC hầu như chỉ có bản thuyết trình mà không chứng minh được nhu cầu thực tiễn cụ thể ra sao. Do đó, để phù hợp với Luật Các TCTD năm 2010, điều kiện về “ nhu cầu hoạt động” không nên quy định trong pháp luật như là một điều kiện bắt buộc phải chứng minh khi thành lập các công ty CTTC. * Về điều kiện phải có đủ vốn pháp định theo quy định của Chính phủ tại thời điểm xin thành lập công ty CTTC: Đến năm 2010, các công ty CTTC tại Việt Nam đều thỏa mãn quy định về vốn pháp định nhưng nguồn vốn chủ yếu là do các ngân hàng mẹ, chủ sở hữu. Việc huy động đủ nguồn vốn như vậy là rất khó khăn cho các công ty CTTC. Có thể nói, việc điều chỉnh quy định tăng mức vốn pháp định là cần thiết để nâng cao tiềm lực, khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nhưng việc đáp ứng đủ mức vốn đó không phải là điều dễ dàng đối với nhà đầu tư khi thành lập công ty CTTC. Trong số các công ty CTTC đang hoạt động tại Việt Nam, Công ty TNHH một thành viên CTTC Ngân hàng Á Châu là DN tăng đủ vốn đủ mức như quy định hiện nay là chậm nhất, tăng từ 100 tỷ đồng lên 200 tỷ đồng từ ngày 09/06/2010 theo Quyết định số 1388/QĐ-NHNN của NHNN.
  • 30. 23 * Điều kiện về tiêu chí thành viên sáng lập là tổ chức, cá nhân có uy tín và năng lực tài chính; người quản trị, điều hành có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và trình độ chuyên môn phù hợp với loại hình TCTD. Đây là điều kiện còn khác biệt trong các quy định của các văn bản pháp luật, gây khó khăn trong việc thành lập các công ty CTTC. - Luật Các TCTD năm 2010 và các văn bản pháp luật về thành lập Công ty CTTC quy định “ người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự” là đối tượng không được thành lập, quản lý công ty CTTC. Bên cạnh đó, Luật Các TCTD năm 2010 còn quy định “người đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng trở lên” không được quản lý công ty CTTC. Quy định đó vừa không thể hiện nghiêm túc tinh thần cải cách tư pháp hiện nay vừa chưa đảm bảo tốt quyền của công dân trong tự do kinh doanh được quy định trong Luật DN 2005. So với Luật DN 1999, Luật DN 2005 đã thu hẹp đối tượng bị cấm thành lập và quản lý DN, “người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự”, “người đã bị kết án về tội phạm nghiêm trọng trở lên” không thuộc đối tượng bị hạn chế quyền thành lập DN. Vấn đề này, Luật Các TCTD năm 2010 cần được xem xét, sửa đổi. - Số lượng cổ đông, thành viên tham gia thành lập công ty CTTC và mức vốn sở hữu: + Theo Quyết định số 40/2007/QĐ-NHNN, công ty CTTC cổ phần phải có ít nhất 50 cổ đông nhưng Luật Các TCTD 2010 quy định phải có tối thiểu 100 cổ đông; cổ đông là các cá nhân được sở hữu cổ phần với mức tối đa là 10% vối điều lệ; cổ đông là tổ chức được sở hữu đến mức tối đa là 20% vốn điều lệ. Nhưng, Luật các TCTD năm 2010 quy định mức sở hữu tối đa: 5% vốn điều lệ đối với một cổ đông là cá nhân, 15% vốn điều lệ đối với một cổ đông là tổ chức.
  • 31. 24 Quy định trên tạo ra chồng chéo, khó khăn trong việc thành lập mới các công ty CTTC cổ phần. Nhà đầu tư không dễ dàng tìm kiếm đủ 100 cổ đông, trong đó ít nhất 03 cổ đông là pháp nhân để thành lập công ty CTTC cổ phần. Tính đến thời điểm năm 2010, cả nước vẫn chỉ dừng lại ở con số 13 công ty CTTC mà không có công ty CTTC nào tồn tại dưới hình thức công ty cổ phần. Quy định về công ty CTTC cổ phần chỉ áp dụng cho cá nhân, tổ chức Việt Nam, không áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài vì nhà đầu tư nước ngoài khi thành lập các công ty CTTC chỉ được thực hiện ở loại hình TNHH, gây khó khăn cho các công ty CTTC trong việc huy động vốn, tham gia thị trường chứng khoán, thu hút vốn đầu tư,…Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các công ty cổ phần với ưu thế về nguồn vốn nhưng với quy định nêu trên thì nước ta sẽ có rất ít côn gty CTTC cổ phần được thành lập, nhất là khi không cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập các công ty CTTC mà nhà đầu tư trong nước còn hạn chế về nguồn vốn, kinh nghiệm,…Luật Các TCTD năm 2010 đã mở rộng việc thành lập các TCTD cổ phần vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy, quy định về cổ đông trong công ty CTTC cổ phần cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. * Về quy định số lượng và tỉ lệ góp vốn trong việc thành lập các công ty CTTC TNHH còn có sự bất cập. Theo quy định Điều 70 – Luật Các TCTD năm 2010, TCTD là Công ty TNHH hai thành viên trở lên thì thành viên phải là pháp nhân, có số lượng không quá 05 (năm), “tỉ lệ sở hữu tối đa của một thành viên và người liên quan không được vượt quá 50% vốn điều lệ của TCTD”[66]. Nhưng Điều 29 – Luật Các TCTD năm 2010 về giới hạn góp vốn, mua cổ phần của các NHTM, công ty con, công ty liên kết của NHTM lại khống chế ở mức tối đa 11% vốn điều lệ của DN nhận góp vốn. Giới hạn mức góp vốn này cũng được quy định tại Điều 16 – Thông tư số 13/2010/TT-
  • 32. 25 NHNN và Thông tư số 19/2010/TT-NHNN. Với tỉ lệ sở hữu và giới hạn góp vốn như vậy, loại hình công ty CTTC TNHH hai thành viên rất ít được thành lập trong thực tiễn và sẽ không thể thành lập theo quy định của Luật các TCTD năm 2010. Do đó, Nhà nước cần phải điều chỉnh quy định về tỷ lệ trên. * Theo quy định của pháp luật Việt Nam, công ty CTTC có thể tồn tại dưới hình thức là công ty CTTC TNHH có một thành viên hoặc từ hai thành viên trở lên. Cho đến thời điểm hiện tại, NHNN Việt Nam vẫn chưa ban hành các văn bản pháp luật để hướng dẫn cụ thể điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động đối với loại hình này. * Về điều kiện có phương án kinh doanh khả thi: Tất cả các công ty CTTC khi thành lập đều có đề án hoạt động và đề án hoạt động đó được đánh giá là khả thi nhưng việc kiểm tra trên thực tế xem hoạt động này khả thi hay không thì rất khó. Hiện nay, hầu hết các công ty CTTC đang gặp khó khăn sau một thời gian hoạt động, khoản dư nợ CTTC không ngừng tăng lên. Vậy phương án kinh doanh khi thành lập và trong quá trình hoạt động luôn có sự khác biệt, không phải lúc nào cũng “kinh doanh khả thi”. Về việc thành lập các công ty CTTC liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài: Theo quy định tại Điều 8 – Nghị định số 16/2001/NĐ-CP, Nghị định 95/2008/NĐ-CP, bên nước ngoài thành lập các Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh phải đảm bảo các điều kiện trên và 02 điều kiện khác: a) Được tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nước nguyên xứ cho phép hoạt động cho thuê tài chính Việt Nam. b) Có tổng tài sản trên 10 tỷ đồng đô la Mỹ vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn, trừ trường hợp Hiệp định đầu tư song phương giữa Việt Nam và nước nguyên xứ có quy định khác[9].
  • 33. 26 Nhưng Luật Các TCTD năm 2010 đã quy định thêm nhiều điều kiện tại Điều 20 như: Công ty CTTC nước ngoài được phép thực hiện hoạt động theo quy định của pháp luật của nước nơi công ty CTTC nước ngoài đặt trụ sở chính; phải có hoạt động lành mạnh, đáp ứng các điều kiện về tổng tài sản có, tình hình tài chính, các tỷ lệ bảo đảm an toàn theo quy định của NHNN; cam kết hỗ trợ tài chính, công nghệ, quản trị, điều hành, bảo đảm duy trì giá trị thực vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định và thực hiện các quy định về bảo đảm an toàn của Luật Các TCTD; cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã ký kết thỏa thuận với NHNN về thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng, trao đổi thông tin giám sát an toàn ngân hàng và có văn bản cam kết giám sát hợp nhất theo thông lệ quốc tế. Vậy thì nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện quy định nào ? Tuy nhiên trong thực tế áp dụng các quy định trên, phát sinh một số bất cập như sau: - Quy định về hồ sơ thành lập công ty CTTC cổ phần: Quyết định số 40/2007/QĐ-NHNN của NHNN yêu cầu phải lập hồ sơ xin chấp thuận nguyên tắc cấp Giấy phép và Hồ sơ cấp Giấy phép. Nhưng theo quy định tại Điều 22 – Luật Các TCTD năm 2010, thời hạn cấp giấy phép cho các TCTD là 180 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ và bước chấp thuận nguyên tắc hố sơ cấp giấy phép không được quy định trong Luật Các TCTD năm 2010. - Yêu cầu những loại giấy tờ trong Hồ sơ xin phép thành lập công ty CTTC vẫn chưa có thống nhất trong các văn bản pháp luật, tạo ra những rào cản không cần thiết cho nhà đầu tư: + Về văn bản chấp thuận của Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền nơi đặt trụ sở của công ty CTTC: Đây là văn bản bắt buộc phải có trong Hồ sơ xin phép thành lập công ty CTTC theo quy định của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP. Tuy nhiên, khi thành lập công ty CTTC cổ phần, văn bản
  • 34. 27 không buộc phải có theo quy định của Thông tư số 24/2011/TT-NHNN ngày 31/08/2011 của NHNN “về việc thực thi phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính lĩnh vực thành lập và hoạt động ngân hàng theo các Nghị quyết của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng của ngân hàng nhà nước Việt Nam”. Vậy nhà đầu tư có cần phải xin phép Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền để có văn bản chấp thuận đó hay không? + Về văn bản xác nhận quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp của trụ sở chính: Đây là văn bản không được quy định trong Hồ sơ xin phép theo quy định của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP nhưng lại được quy định trong Thông tư số 65/2005/TT-NHNN, Quyết định số 40/2007/QĐ-NHNN. + Về hồ sơ cổ đông là cá nhân: Quyết định số 40/2007/QĐ-NHNN của NHNN quy định cổ đông sở hữu từ 5% vốn điều lệ trở lên phải có hồ sơ cổ đông. Nhưng, theo quy định Luật Các TCTD năm 2010, một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ. Như vậy, bản chất của việc lập hồ sơ cổ đông để nhà nước và các nhà đầu tư thuận tiện trong quản lý, giám sát đã trở nên không khả thi khi thực hiện quy định này. Với những phân tích như trên, chúng ta nhận thấy pháp luật quy định về lập Hồ sơ xin cấp Giấy phép thành lập công ty CTTC còn chồng chéo, mâu thuẫn, “vừa thừa, vừa thiếu”. Điều này góp phần tạo thêm rào cản cho nhà đầu tư, không khuyến khích thành lập công ty CTTC và thực tế hiện nay chưa có công ty CTTC cổ phần nào được thành lập tại Việt Nam. Tuy nhiên, quy định pháp luật về thẩm quyền xem xét, thẩm định và thời hạn NHNN xem xét, thẩm định cấp hay không cấp Giấy phép thành lập công ty CTTC vẫn có sự mâu thuẫn cần khắc phục. Theo quy định Luật Các TCTD năm 2010, thời hạn để xem xét cấp Giấy phép là 180 kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ nhưng quy định của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP, Quyết định số 40/2007/QĐ-NHNN, Thông tư số 65/2005/TT-NHNN chỉ quy định
  • 35. 28 tối đa là 90 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ nhưng được phân thành các trường hợp khác nhau ( được trình bày ở Chương 2). Như vậy, pháp luật đã quy định khác nhau về thời hạn, mốc tính thời hạn và vai trò xem xét, thẩm định của Chi nhánh NHNN ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi công ty CTTC có trụ sở chính. - Thông tư số 06/2005/TT-NHNN của NHNN được ban hành trước khi áp dụng quy định Luật Các TCTD năm 2010 nên thời hạn xem xét cấp phép chưa thống nhất cả về khoảng thời gian và căn cứ tính thời gian cấp phép. Những quy định về thời hạn như vậy đã làm giảm cơ hội kinh doanh của cá nhà đầu tư. Do đó, Nhà nước cần quy định thống nhất áp dụng hồ sơ hợp lệ hay hồ sơ, thuận tiện cho các loại hình DN và hướng đến việc đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi hơn như việc thành lập các DN theo Luật DN 2005. Việc công bố thông tin hoạt động của các công ty CTTC theo quy định của pháp luật vẫn có sự khác biệt cần điều chỉnh. Theo Quyết định số 40/2007/QĐ-NHNN của NHNN Việt Nam, công ty CTTC cổ phần đăng báo theo quy định của pháp luật. Vậy thì quy định ở đây là quy định nào? Tuân thủ quy định của Luật DN hay là quy định của NHNN Việt Nam. Theo quy định của Thông tư số 06/2005/TT-NHNN của NHNN, công ty CTTC phải đăng báo trung ương và báo địa phương trong 05 số liên tục. Tuy nhiên, Điều 28 Luật DN 2005, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP của Chính phủ lại quy định: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD, DN phải đăng trên mạng thông tin DN của cơ quan ĐKKD hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong 03 số liên tiếp. Thực tiễn, trong thời gian qua, các công ty CTTC đều thực hiện quy định công bố thông tin theo quy định của Thông tư số 06/2005/TT-NHNN. Thông tư số 06/2005/TT- NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành và áp dụng khi Luật DN nhà nước 2003 đang có hiệu lực nhưng văn bản luật này hết hiệu lực thi hành.
  • 36. 29 Do đó, pháp luật về ngân hàng cần sửa đổi, bổ sung thống nhất với quy định của Luật DN, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư. + Quy định về nội dung công bố thông tin trong Luật Các TCTD năm 2010 có nhiều điểm giống với Luật DN 2005 nhưng vẫn có sự khác biệt về phương tiện được công bố, thời hạn công bố thông tin và một số nội dung công bố thông tin. Luật DN quy định công ty CTTC phải đăng công bố “trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử”[59]. Nhưng Luật các TCTD năm 2010 lại yêu cầu phải công bố trên “phương tiện thông tin của ngân hàng nhà nước và trên một tờ báo viết hàng ngày trong 03 số liên tiếp hoặc báo điện tử Việt Nam”[66]. Vậy, các công ty CTTC sẽ công bố theo quy định của Luật DN năm 2005 hay Luật Các TCTD năm 2010? Luật DN năm 2005 quy định 30 ngày nhưng tính từ khi được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD và không quy định phải công bố ngày dự kiến khai trương hoạt động. Luật Các TCTD năm 2010 quy định tính thời gian công bố dựa vào ngày dự kiến khai trương và phải đăng thông tin trong NHNN và một tờ báo khác. Do vậy, các công ty CTTC sẽ gộp những nội dung công bố trong Luật DN và Luật Các TCTD để đảm bảo “vừa thừa” nội dung công bố, “vừa đúng” phương tiện được công bố. Để khai trương hoạt động, công ty CTTC phải góp đủ vốn điều lệ đăng ký và số vốn điều lệ này phải gửi vào tài khoản phong tỏa không được hưởng lãi mở tại NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố nơi công ty CTTC đặt trụ sở chính trước khi khai trương hoạt động tối thiểu 30 ngày. Số vốn này chỉ được giải tỏa sau khi công ty CTTC khai trương hoạt động. Tuy nhiên, quy định đó lại bất lợi cho nhà đầu tư. Bởi vì, dù chưa tiến hành các hoạt động kinh doanh nhưng các công ty CTTC phải tốn một khoản kinh phí không nhỏ cho việc tài khoản bị phong tỏa ít nhất 30 ngày mà không hưởng lãi,…trong khi nguồn
  • 37. 30 vốn chủ yếu của công ty CTTC ở nước ta được cấp bởi các ngân hàng mẹ, các công ty mẹ. Bản chất của những quy định này nhằm yêu cầu các TCTD có vốn thực, đảm bảo tính an toàn của hệ thống ngân hàng, tránh tình trạng “vốn ảo”, vốn trên giấy tờ là chủ yếu của một số loại DN được thành lập chỉ dựa trên quy định của Luật DN. Bên cạnh đó, khi thành lập, các Công ty CTTC đều góp vốn chủ yếu bằng tiền, tài sản bằng quyền tài sản khó thực hiện được. Nếu góp vốn bằng quyền tài sản thì việc phong tỏa sẽ như thế nào và có cần thiết phải phong tỏa hay không? Nghị định số 102/2010/NĐ-CP cuả Chính phủ đã quy định về vấn đề cho phép góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ nhưng không thể thực hiện đối với công ty CTTC vì pháp luật chưa hướng dẫn cụ thể và chưa quy định cụ thể vấn đề này đối với các công ty CTTC. 2.2. Về hoạt động tín dụng của công ty CTTC: 2.2.1. Hoạt động cho thuê tài chính 2.2.1.1. Chủ thể tham gia hoạt động CTTC Tham gia hoạt động CTTC gồm 02 loại chủ thể cơ bản là bên cho thuê tài chính và bên thuê tài chính. * Bên cho thuê tài chính: - Quy định về chủ thể CTTC hiện nay còn một số điểm cần hoàn thiện. Nhiều quốc gia có những quy định rộng rãi hơn về chủ thể CTTC, cho phép các công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp tham gia CTTC như một hình thức hỗ trợ để bán sản phẩm thông qua các công ty con chuyên kinh doanh hoạt động CTTC (điển hình như Hoa Kỳ). Một số nước như Thái Lan,... thì DN kinh doanh CTTC cũng như một công ty thương mại. Mô hình tổ chức công ty CTTC khác nhau ở mỗi nước phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội. Việt Nam là một nước đang phát triển, hoạt động CTTC hình thành
  • 38. 31 muộn và chưa phát triển mạnh thì việc nghiên cứu mô hình tổ chức công ty CTTC phù hợp là cần thiết. Theo Nghị định số 95/2008/NĐ-CP của Chính phủ, công ty CTTC hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc TNHH (riêng các công ty CTTC có vốn đầu tư nước ngoài thì hoạt động dưới hình thức công ty TNHH). Các công ty CTTC hoạt động tại Việt Nam phải là các TCTD phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam. Quy định này đã góp phần làm hạn chế sự thu hút các nguồn vốn khác vào thị trường CTTC, nhất là nguồn vốn nước ngoài. Pháp luật Việt Nam không cho phép các công ty CTTC nước ngoài tài trợ trực tiếp thông qua chi nhánh tại Việt Nam, đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa chi chi nhánh ngân hàng nước ngoài với các công ty CTTC nước ngoài. Bởi vì, cho nhánh ngân hàng nước ngoài được thực hiện trực tiếp hoạt động cấp tín dụng tại Việt Nam nhưng các công ty CTTC thì không được thực hiện dù cho hoạt động CTTC có độ rủi ro thấp hơn nhiều về mặt lý thuyết. - Quy định về công ty CTTC liên doanh và công ty CTTC 100% vốn nước ngoài theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP và Nghị định số 95/2008/NĐ- CP cũng còn sự bất cập. Theo Nghị định số 95/2008/NĐ-CP, các bên tham gia thành lập công ty CTTC liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài phải là một hoặc một số TCTD. Quy định này tạo ra rào cản trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài đối với nền kinh tế và các công ty CTTC, làm hạn chế nguồn vốn và không tạo thuận lợi trong việc tiếp cận máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại để thực hiện tốt các giao dịch CTTC. * Bên thuê tài chính: Việc áp dụng quy định pháp luật về chủ thể là Bên thuê tài chính hiện nay còn một số điểm bất cập cần khắc phục: - Quy định tại Điều 126, Điều 127 và Điều 128 Luật các TCTD năm 2010 về những trường hợp không được cấp tín dụng và hạn chế cấp tín dụng
  • 39. 32 vẫn kế thừa những quy định của Luật các TCTD năm 1997 nhưng có một số quy định vẫn chưa thống nhất. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 31 - Nghị định số 16/2001/NĐ-CP, Nghị định số 65/2005/NĐ-CP, giới hạn CTTC phải đảm bảo: “Tổng dư nợ cho thuê tài chính đối với một khách hàng không vượt quá 30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính, trừ trường hợp đối với những khoản cho thuê tài chính từ các nguồn vốn ủy thác của Chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc khách hàng thuê là tổ chức tín dụng...”[4]. Trên cơ sở quy định của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư số 13/2010/TT-NHNN của NHNN quy định về giới hạn cấp tín dụng thì: “Tổng dư nợ cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá 30% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính”[44]. Nhưng Khoản 2 Điều 128 Luật các TCTD quy định: “Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng phi ngân hàng; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng phi ngân hàng” [66]. Vậy thì mức tối đa là 25% hay 30% vốn tự có của công ty CTTC? Sự khác biệt này cần phải được điều chỉnh thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật nhưng cũng cần lưu ý tới hoạt động của công ty CTTC, vì vốn tự có của phần lớn các công ty CTTC hiện nay không nhiều, trong khi đó có nhiều DN cần thuê tài sản, nếu giới hạn mức 30% thì không phù hợp với thực tế nhu cầu cạnh tranh và chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020. - Công ty CTTC không được CTTC với những điều kiện ưu đãi cho cổ đông lớn nhưng việc quy định về cổ đông lớn vẫn chưa thống nhất. Theo quy định của Luật Chứng khoán 2006 thì cổ đông lớn là cổ đông sở hữu vốn với tỉ lệ là từ 5% đối với các công ty niêm yết; Luật DN 2005 và Thông tư số 06/2005/TT-NHNN quy định tỉ lệ là từ 10% tổng số cổ phần phổ thông; Luật
  • 40. 33 các TCTD năm 2010 quy định tỉ lệ là từ 5% vốn cổ phần có quyền biểu quyết. Chính vì vậy, Luật DN và các quy định về CTTC nên quy định thống nhất tỉ lệ của cổ đông lớn. - Đề góp phần bảo vệ nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nhỏ, thiểu số, Luật DN 2005 dã đưa ra các quy định nhằm kiểm soát các giao dịch tư lợi, giao dịch lớn, nội gián nhưng pháp luật về CTTC chưa được vận dụng triệt để. Một trong những đối tượng cần kiểm giám sát là “người liên quan” trong công ty. Khoản 17 Điều 4 Luật DN có quy định: Người có liên quan là tổ chức, cá nhân có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với doanh nghiệp trong các trường hợp sau đây: a) Công ty mẹ, người quản lý công ty mẹ và người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý đó đối với công ty con; b) Công ty con đối với công ty mẹ; c) Người hoặc nhóm người có khả năng chi phối việc ra quyết định, hoạt động của doanh nghiệp đó thông qua các cơ quan quản lý doanh nghiệp; d) Người quản lý doanh nghiệp; đ) Vợ, chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của người quản lý doanh nghiệp hoặc của thành viên, cổ đông sở hữu phần vốn góp hay cổ phần chi phối; e) Cá nhân được uỷ quyền đại diện cho những người quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này; g) Doanh nghiệp trong đó những người quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và h khoản này có sở hữu đến mức chi phối việc ra quyết định của các cơ quan quản lý ở doanh nghiệp đó;
  • 41. 34 h) Nhóm người thoả thuận cùng phối hợp để thâu tóm phần vốn góp, cổ phần hoặc lợi ích ở công ty hoặc để chi phối việc ra quyết định của công ty [59]. Vấn đề người liên quan cũng được đề cập tại Điều 4 Luật các TCTD năm 2010 nhưng có một số sự khác biệt so với Luật DN 2005, trong đó có quy định về tỉ lệ sở hữu. Như vậy, đối với những đối tượng không được quy định tại điểm 24.1 và 25 Mục IV của Thông tư số 06/2005/TT-NHNN của NHNN mà thuộc đối tượng là người liên quan như trên thì có bị cấm hay không? Việc áp dụng quy định về giới hạn CTTC đối tượng đó như thế nào? Do đó, NHNN Việt Nam cần bổ sung đối tượng này để tạo ra sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, tạo ra tính ổn định, an toàn trong việc kinh doanh của các công ty CTTC và hệ thống các TCTD. -Quy định về chủ thể CTTC của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP vẫn còn bất cập, hạn chế khách hàng được tài trợ thuê tài chính vì không thỏa mãn các điều kiện để tài trợ CTTC. Theo quy định tại Điều 23 và Điều 26 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP, bên thuê phải nộp báo cáo quý, quyết toán tài chính năm và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cho công ty CTTC. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, quy định này không khả thi và chưa hợp lý vì Nhà nước chưa có văn bản hướng dẫn nào bắt buộc các chủ trang trại, hộ kinh tế gia đình, cá nhân,... phải lập báo cáo tài chính hay quyết toán năm, báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, nhà nước cần có những quy định phù hợp để tháo gỡ vướng mắc này. * Về thực tiễn nhà cung ứng Pháp luật hiện hành vẫn chưa có những điều chỉnh cụ thể về đối tượng này. Bên cung ứng có thể là các DN trong và ngoài nước, có các quyền và nghĩa vụ cơ bản: ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán tài sản và thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên cho thuê theo quy định; yêu cầu
  • 42. 35 bên cho thuê thanh toán đầy đủ theo các điều khoản đã được thỏa thuận trong hợp đồng, bảo hành tài sản, cung cấp các dịch vụ liên quan đến tài sản CTTC,... Hợp đồng CTTC chủ yếu được thực hiện bởi bên cho thuê và bên thuê. Trong một số trường hợp nhất định, việc xác định trách nhiệm của nhà cung ứng và vai trò của nhà cung ứng là cần thiết, tác động đến việc thực hiện hợp đồng, có thể gây thiệt hại cho các bên tham gia giao dịch CTTC trong trường hợp: Chậm cung cấp, cung cấp không đúng tài sản, chất lượng không tốt,... trong một số trường hợp, hợp đồng CTTC lại bị chấm dứt trước thời hạn mà lỗi là do nhà cung ứng. Chẳng hạn, trường hợp tranh chấp xảy ra giữa Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ thương mại Thái Bình Dương (trụ sở chính tại Thành phố Nha Trang – tỉnh Khánh Hòa) với Công ty CTTC I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (trụ sở chính tại quận Hai Bà Trưng - TP. Hà Nội) đã kéo dài mà vẫn chưa giải quyết dứt điểm: -Ngày 01/3/2002, Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương gửi văn bản đến Công ty CTTC – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đề nghị xin thuê tài sản là màn hình quảng cáo ngoài trời (màn hình LED), giữa Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương và nhà cung ứng là Công ty Kumgang AD System Corporation – Hàn Quốc (công ty Kumgang) có biên bản thỏa thuận nguyên tắc mua bán bảng thông tin LED. Ngày 10/4/2002, Công ty CTTC - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã ký hợp đồng CTTC với Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương số 44/2002/HĐ-CTTC là 311.950 USD tương đương với số tiền là 4.471.000.000 đồng với thời hạn thuê 30 tháng, lãi suất thuê là 0.87%/tháng cho năm đầu và từ năm thứ hai trở đi thì áp dụng lãi suất thả nổi theo quy định của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Công ty CTTC đã ký tiếp hợp đồng ủy thác cho Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương ký hợp đồng mua bán với nhà cung ứng là Công ty Kumgang.
  • 43. 36 Đến cuối tháng 12/2002, màn hình LED bộc lộ nhiều sai sót, bị hỏng và tập đoàn Kumgang đã thay thế, sửa chữa nhưng vẫn không được. Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương đã kiện Công ty Kumgang ra trọng tài nhưng sau đó giữa Công ty TNHH Quảng cáo và hội chợ Thái Bình Dương và Công ty CTTC – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam lại phát sinh tranh chấp về tiền gốc và phí thuê tài chính. -Vụ việc được xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Hà Nội từ năm 2005 (từ năm 2003, các bên đã kiện ra Trung tâm Trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại Việt Nam nhưng vẫn chưa giải quyết được) bởi bản án sơ thẩm số 106/2005/KDTM, xét xử phúc thẩm vào ngày 09/5/2006 bởi Tòa phúc thẩm – TAND tối cao tại Hà Nội (bản án phúc thẩm số 102/2006/KDTM), xét xử giám đốc thẩm tại TAND tối cao ngày 19/6/2008, tòa phúc thẩm – TAND Hà Nội bởi bản án số 229/2008/KDTMPT ngày 05/12/2008. Ngày 31/7/2009, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ra quyết định kháng nghị số 24/QĐ-KNGĐT. Trên cơ sở quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cơ quan thi hành án đã ra quyết định đình chỉ thi hành án. Vụ việc đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Theo quyết định kháng nghị số 24/QĐ-KNGĐT của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì: Theo quy định tại Khoản 3 Điều 27 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC: “Hợp đồng cho thuê tài chính được chấm dứt trước thời hạn cho thuê trong trường hợp tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa”[18]. TAND tối cao đã chấp nhận kháng nghị để giải quyết lại vụ việc, theo hướng xem xét định giá lại phí thuê tài chính vì hợp đồng CTTC chấm dứt trước hạn. Đây là một vụ việc cho thấy hệ thống pháp luật của chúng ta chưa hoàn thiện, trong đó có việc quy định chưa cụ thể về trách nhiệm của nhà cung ứng trong hợp đồng CTTC. Như vậy, việc quy định trách nhiệm pháp lý cụ thể của
  • 44. 37 các bên trong giao dịch CTTC, trong đó có nhà cung ứng sẽ hạn chế những thiệt hại, tranh chấp xảy ra đối với các bên. 2.2.1.2. Hợp đồng cho thuê tài chính * Chủ thể tham gia hợp đồng CTTC: Chủ thể chính tham gia hoạt động CTTC là Bên cho thuê và Bên thuê: - Bên cho thuê: Theo quy định tại Điều 3 – Nghị định 16/2001/NĐ-CP, Nghị định số 65/2005/NĐ-CP, Nghị định số 95/2008/NĐ-CP của Chính phủ, bên CTTC là các công ty CTTC với tư cách là “một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam”[4]. Theo Luật các TCTD năm 2010, công ty tài chính được thực hiện nghiệp vụ CTTC bởi vì “công ty cho thuê tài chính là loại hình công ty tài chính có hoạt động chính là cho thuê tài chính”[66]. Vậy chủ thể CTTC có thể là công ty tài chính và công ty CTTC. Bên CTTC có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 23, Điều 24 của Nghị định số 16/2001/NDD-CP của Chính phủ: + Về quyền: Yêu cầu bên thuê cung cấp các báo cáo quý, quyết toán tài chính hàng năm và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và các vấn đề khác liên quan đến tài sản thuê; kiểm tra việc quản lý và sử dụng tài sản cho thuê; mua, nhập khẩu tài sản cho thuê theo yêu cầu của bên thuê; gắn ký hiệu sở hữu trên tài sản cho thuê trong suốt thời gian cho thuê; chuyển nhượng các quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng CTTC cho một công ty CTTC khác (trong trường hợp này, bên cho thuê chỉ cần thông báo trước bằng văn bản cho bên thuê); yêu cầu bên thuê đặt tiền ký cược hoặc có bảo lãnh nếu thấy cần thiết; việc giảm lãi cho thuê, gia hạn, điều chỉnh thời hạn trả tiền thuê, chuyển nợ quá hạn tiền thuê theo quy định của pháp luật; yêu cầu bên thuê bồi thường thiệt hại khi bên thuê vi phạm hợp đồng CTTC. + Về nghĩa vụ: Ký hợp đồng mua tài sản với bên cung ứng theo các điều kiện thỏa thuận giữa bên thuê và bên cung ứng. Bên cho thuê không phải
  • 45. 38 chịu trách nhiệm về việc tài sản cho thuê không được giao hoặc giao không đúng với các điều kiện do bên thuê thỏa thuận với bên cung ứng; đăng ký quyền sở hữu, làm thủ tục mua bảo hiểm đối với tài sản thuê; thực hiện đầy đủ, đúng các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng. -Bên thuê (bên đi thuê): Các chủ thể có nhu cầu vốn trung, dài hạn trên thị trường CTTC là các cá nhân, tổ chức kinh tế, đặc biệt là DN vừa và nhỏ. Các chủ thể này đóng vai trò là bên thuê (bên đi thuê) tài sản và họ có quyền sử dụng, hưởng lợi ích do tài sản mang lại và có trách nhiệm trả tiền thuê theo thỏa thuận. Theo quy định của Nghị định 16/2001/NĐ-CP, Nghị định số 65/2005/NĐ-CP, Nghị định số 95/2008/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư số 06/2005/TT-NHNN của NHNN thì bên thuê tài chính gồm: tổ chức hoạt động ở Việt Nam, cá nhân sinh sống làm việc tại Việt Nam, trực tiếp sử dụng tài sản cho thuê với mục đích hoạt động của mình; DN; các tổ chức khác thuộc đối tượng vay vốn của các TCTD. Bên thuê có các quyền và nghĩa vụ cơ bản theo quy định tại Điều 25, Điều 26 của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ: + Về quyền: Lựa chọn, thỏa thuận với bên cung ứng về đặc tính kỹ thuật, chủng loại, giá cả, cách thức và thời hạn giao nhận, lắp đặt, bảo hành tài sản thuê; trực tiếp nhận tài sản cho thuê từ bên cung ứng theo thỏa thuận trong hợp đồng; quyết định việc mua tài sản hoặc tiếp tục thuê sau khi kết thúc hợp đồng CTTC; yêu cầu bên cho thuê bồi thường thiệt hại khi bên cho thuê vi phạm hợp đồng CTTC và các quyền khác theo sự thỏa thuận và quy định pháp luật. +Về nghĩa vụ: Cung cấp báo cáo tài chính quý, quyết toán tài chính năm và tình hình sản xuất kinh doanh, các vấn đề liên quan đến tài sản khi bên thuê yêu cầu; tạo điều kiện để bên cho thuê kiểm tra tài sản cho thuê; chịu trách nhiệm về sự lựa chọn, thỏa thuận với bên cung ứng về đặc tính kỹ thuật,
  • 46. 39 chủng loại, giá cả, cách thức và thời hạn giao nhận, lắp đặt, bảo hành tài sản thuê; sử dụng tài sản cho thuê đúng mục đích trong hợp đồng CTTC và thanh toán các chi phí có liên quan đến việc nhập khẩu, thuế, lệ phí đăng ký quyền sở hữu, bảo hiểm đối với tài sản thuê; chịu mọi rủi ro về những mất mát, hư hỏng đối với tài sản thuê do việc sử dụng tài sản thuê gây ra đối với tổ chức và cá nhân khác trong quá trình sử dụng tài sản thuê; bảo dưỡng, sửa chữa tài sản thuê trong thời hạn thuê; không được tẩy xóa, làm hỏng ký hiệu sở hữu gắn trên tài sản thuê; không được dùng tài sản thuê để thế chấp, cầm cố hoặc để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác; thực hiện đầy đủ, đúng các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng. * Nội dung hợp đồng CTTC: là toàn bộ những điều khoản do các bên thỏa thuận trong hợp đồng CTTC. Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ không quy định cụ thể những nội dung của hợp đồng CTTC. Tuy nhiên, căn cứ vào các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Luật các TCTD, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Thương mại...thì hợp đồng CTTC có những nội dung cơ bản: Tên, địa chỉ của các bên tham gia hợp đồng; đối tượng của hợp đồng (tài sản thuê) với quy định về đặc tính, tiêu chuẩn kỹ thuật, quy cách, chất lượng tài sản, nơi sản xuất...; thời gian hữu ích của tài sản; địa điểm tài sản thuê; thời hạn thuê của hợp đồng (thời hạn thuê cơ bản bằng phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản thuê và tổng hiện giá, ít nhất là 60 % thời gian cần thiết để khấu hao tài sản); phí thuê; nộp thuế, mua bảo hiểm cho tài sản thuê và các chi phí khác; các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của các bên; chấm dứt hợp đồng; xử lý vi phạm hợp đồng, giải quyết tranh chấp; các thỏa thuận khác không trái pháp luật và đạo đức xã hội. * Hiệu lực của hợp đồng CTTC và sự vô hiệu của hợp đồng CTTC:
  • 47. 40 - Hợp đồng CTTC được thiết lập trên các lĩnh vực kinh doanh khác nhau nên điều chỉnh hợp đồng CTTC còn có các văn bản khác ngoài Luật các TCTD 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành như Luật Hàng không dân dụng Việt Nam; Luật Kinh doanh bảo hiểm,... Điều kiện để hợp đồng CTTC có hiệu lực theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 và các văn bản pháp luật chuyên ngành. Bộ luật Dân sự năm 2005 với tư cách là luật chung, “quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại và lao động” [55]. Do đó, hợp đồng CTTC có hiệu lực phải thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 122 – Bộ luật Dân sự: 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Người tham gia giao dịch có nang lực hành vi dân sự; b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. 2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định [55]. -Hợp đồng CTTC bị vô hiệu khi không đảm bảo một trong các điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Hợp đồng CTTC bị vô hiệu được xử lý theo quy định tại Điều 137 – Bộ luật Dân sự; các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
  • 48. 41 * Chấm dứt hợp đồng CTTC: Hợp đồng CTTC có thể được chấm dứt theo thỏa thuận hoặc chấm dứt hợp đồng CTTC trước thời hạn. Bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật. - Theo quy định tại Khoản 1, Điều 27 – Nghị định số 16/2001/NĐ-CP, công ty CTTC có thể chấm dứt hợp đồng CTTC trước hạn trong những trường hợp: a) Bên thuê không trả tiền thuê theo quy định trong hợp đồng cho thuê tài chính; b) Bên thuê vi phạm các điều khoản của hợp đồng cho thuê tài chính; c) Bên thuê bị phá sản, giải thể; d) Người bảo lãnh bị phá sản, giải thể và bên cho thuê không chấp nhận để nghị chấm dứt bảo lãnh hoặc đề nghị người bảo lãnh khác thay thế của bên thuê [4]. - Bên thuê có thể chấm dứt hợp đồng CTTC theo quy định tại Khoản 2, Điều 27 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ: bên cho thuê không giao đúng tài sản cho thuê hoặc bên cho thuê vi phạm hợp đồng. * Đối tượng của hợp đồng CTTC (tài sản CTTC): Theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ, tài sản CTTC là các động sản. Công ty CTTC cho thuê phổ biến là các loại động sản như: phương tiện vận tải và các máy móc, thiết bị của một số ngành in, dệt, thiết bị văn phòng, xây dựng... Đối với Việt Nam, pháp luật hiện hành quy định bất động sản không phải là đối tượng của hợp đồng CTTC. Việc thực hiện hợp đồng CTTC trên thực tiễn vẫn còn những bất cập cần hoàn thiện: * Đối tượng của hợp đồng CTTC (tài sản CTTC):
  • 49. 42 - Theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ, tài sản CTTC là các động sản. Theo quy định này, pháp luật chú trọng vào tăng năng lực sản xuất của khách hàng thuê là chính. Thực tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đang hoạt động tại Việt Nam có nhu cầu rất lớn về bất động sản như: nhà xưởng, nhà kho, văn phòng làm việc,... để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng vì vốn của các DN này còn hạn chế nên việc đi thuê bất động sản thích hợp hơn là tự xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà xưởng, trạm trại, cửa hàng, kho tàng, bến bãi,... Đây cũng là tiềm năng của thị trường CTTC tại Việt Nam. Theo quy định hiện hành, bất động sản không được CTTC. Đây là hạn chế rất lớn để phát triển thị trường CTTC tại Việt Nam. - Theo chuẩn mực 06, Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam quy định tài sản cho thuê là động sản và bất động sản. Do đó, pháp luật cần phải quy định thống nhất ban hành các văn bản hướng dẫn liên quan đến tài sản cho thuê là động sản và cả bất động sản vì các lý do sau: + Khách hàng chủ yếu của công ty CTTC là DN vừa và nhỏ, với quy mô vốn nhỏ nên không có khả năng tự đầu tư, xây dựng nhà xưởng, văn phòng,... đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh. + Thuê bất động sản chỉ được phép thuê hoạt động, thời gian cho thuê ngắn, kết cấu sử dụng không phù hợp, phí thuê cao, gây khó khăn trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh lâu dài, không chủ động sản xuất kinh doanh của DN đi thuê. Nếu tài sản CTTC là bất động sản thì sẽ đáp ứng được nhu cầu rất lớn của các DN hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế tại các khu công nghiệp, khu chế xuất các nhà đầu tư đã xây dựng nhà kho, nhà xưởng...theo yều cầu thiết kế của khách hàng để bán hoặc thực hiện cho thuê. Mô hình thuê bất động sản qua các công ty CTTC được thực hiện giống như CTTC ba bên, chỉ khác ở đây là nhà cung cấp sẽ là các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản. Sau đó, đàm phán ký hợp đồng CTTC với công ty CTTC. Nhà
  • 50. 43 kinh doanh bất động sản chuyển giao tài sản hoặc có thể xây dựng theo thiết kế của DN đi thuê. Công ty CTTC (Bên cho thuê) chuyển vốn cho nhà kinh doanh bất động sản. Quyền sở hữu bất động sản thuộc về công ty CTTC và sẽ chuyển giao cho bên thuê khi kết thúc hợp đồng CTTC đã thỏa thuận. -Ở các nước (Mỹ, Hàn Quốc,...) việc CTTC đối với bất động sản chiếm một tỉ lệ quan trọng nhưng ở Việt Nam thì pháp luật chỉ cho phép đối tượng cho thuê là động sản. Luật Các TCTD, Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành đều cho phép áp dụng bất động sản để thế chấp vay vốn ngân hàng. Nhưng đối với hoạt động CTTC thì bất động sản lại không phải là đối tượng để CTTC theo quy định của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP. Việc hạn chế này nhằm đảm bảo độ an toàn cho hoạt động tín dụng nhưng lại không phù hợp với thực tiễn nhu cầu kinh doanh của bên thuê. Vì vậy, pháp luật cần quy định theo hướng cho phép sử dụng bất động sản là đối tượng của CTTC. * Về đăng ký hợp đồng CTTC: - Việc đăng ký hợp đồng CTTC là bắt buộc, nhằm mục đích công khai hóa tình trạng pháp lý của giao dịch CTTC, tạo điều kiện để những chủ thể có nhu cầu tìm hiểu thông tin một cách nhanh chóng, chính xác, góp phần giảm thiểu rủi ro cho các công ty CTTC khi có tranh chấp phát sinh. Theo quy định của Nghị định 16/2001/NĐ-CP, Nghị định 65/2005/NĐ-CP, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về “giao dịch bảo đảm”, Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về “đăng ký giao dịch bảo đảm” và Thông tư số 04/2007/TT-BTP ngày 11/05/2007 của Bộ Tư pháp về hướng dẫn “thẩm quyền, trình tự, và thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng cho thuê tài chính và hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ” thì “mọi giao dịch cho thuê tài chính phải được đăng ký tại Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm”. Nhưng các văn bản pháp luật vẫn chưa phân định cụ thể trường hợp hợp đồng CTTC có đăng ký với trường hợp không