SlideShare a Scribd company logo
1 of 100
1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã giành được quyền cai trị đất nước. Sau nhiều thế
kỷ phân ly, đến đây nền thống nhất đất nước được khôi phục. Lần đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam, một lãnh thổ trải dài từ Lạng Sơn đến Cà Mau được xác lập. Đối với lịch sử
dân tộc, sự kiện này có ý nghĩa vô cùng to lớn. Tuy vậy, nền thống trị của nhà Nguyễn
đứng trước nhiều thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của vương triều. Quản lý
một đất nước rộng lớn trong điều kiện giao thông kém phát triển, thông tin liên lạc lạc
hậu, lòng dân, nhân tâm sĩ phu Bắc Hà không yên, một nền hành chính còn nhiều khác
biệt sau hàng thế kỷ đầy biến động, kinh tế chậm phát triển, nguy cơ ngoại xâm… là
những khó khăn và thách thách thức đặt ra cho nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX. Đứng trước
những khó khăn, thách đố đó, triều đình nhà Nguyễn đã thực thi những chính sách cai
trị về tất cả các mặt của đời sống xã hội để ổn định tình hình và phát triển đất nước.
Nước Việt Nam có sự chuyển biến dưới thời nhà Nguyễn, không chỉ ở tầm vĩ mô mà
còn ở các địa phương cụ thể.
Trong bối cảnh đó, Quảng Ngãi thuộc vùng “tả trực” của Kinh đô Huế. Dưới thời
Nguyễn, cũng như các tỉnh khác trong cả nước, tỉnh Quảng Ngãi cũng có sự chuyển
biến về kinh tế - xã hội. Với vị trí và điều kiện cụ thể của địa phương, tình hình Quảng
Ngãi dưới triều Nguyễn cũng có nét khác với các tỉnh cùng khu vực. Việc tìm hiểu
kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885) sẽ giúp cho chúng ta có
cái nhìn khái quát về tình hình kinh tế, xã hội, đời sống của nhân dân nơi đây. Thông
qua đó, góp phần tìm hiểu đầy đủ hơn về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam dưới
Triều Nguyễn trong thế kỷ XIX, rút ra được những bài học kinh nghiệm giúp cho tỉnh
Quảng Ngãi có thể kế thừa trong công cuộc xây dựng, phát triển hiện nay.
2
Với những lý do trên chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi
dưới triều Nguyễn (1802-1885)” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt
Nam.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài nhằm khôi phục lại bức tranh kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới
triều Nguyễn trong điều kiện đất nước có nhiều biến động và thách thức.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích các yếu tố tác động đến tình hình kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều
Nguyễn. Đồng thời làm rõ tình hình và đặc điểm kinh tế - xã hội dưới triều Nguyễn từ
năm 1802 đến năm 1885. Từ đó rút ra những bài học quý báu để phát triển tỉnh Quảng
Ngãi hiện nay.
3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Nghiên cứu về tình hình kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-
1885) đã có một số công trình được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Thông qua
một số công trình nghiên cứu đó giúp chúng tôi có thể tra cứu và giải quyết được vấn
đề đặt ra trong luận văn.
Liên quan đến tình hình kinh tế, xã hội ở Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn được ghi
chép rải rác trong các thư tịch cổ. Mặc dù chỉ là một phần ít ỏi nhưng đây là tư liệu
gốc rất có giá trị như: Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Nam
nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam thực
lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Mục lục châu bản triều Gia Long, Mục lục
châu bản triều Minh Mạng …
Nghiên cứu về tình hình kinh tế và xã hội triều Nguyễn có cuốn “Kinh tế và xã hội
Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn” của tác giả Nguyễn Thế Anh xuất bản vào năm
1971. Tác phẩm đã để cập đến tình hình kinh tế - xã hội trong đó có một số sự kiện ít
ỏi về Quảng Ngãi. Nghiên cứu về tình hình ruộng đất, năm 1979 tác giả Vũ Huy Phúc
đã cho ra đời tác phẩm “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX”,
3
năm 1996 có cuốn “Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều
Nguyễn” của tác giả Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (chủ biên), cuốn sách “Chế độ
ruộng đất ở Việt Nam” của tác giả Trương Hữu Quýnh ra đời năm 1999. Những tác
phẩm trên đây cũng đã đề c ập đến ruộng đất ở Quảng Ngãi thời Nguyễn. Tác phẩm
“Nghề thủ công truyền thống ở Quảng Ngãi” của Nguyễn Ngọc Trạch (chủ biên,
2005) đã phần nào đề cập đến hoạt động kinh tế thủ công nghiệp ở Quảng Ngãi. Năm
2008 Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã biên soạn cuốn “Địa chí Quảng Ngãi”, là
công trình nghiên cứu tổng quan về Quảng Ngãi từ thời cổ đại đến hiện đại, trong đó
có đề cập về kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn.
Năm 2010 tác giả Nguyễn Đình Đầu với tác phẩm “Nghiên cứu về địa bạ triều
Nguyễn – Quảng Ngãi” đã trình bày cụ thể vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở
Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn.
Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Thu Hương năm 2011 đã viết về “Phố cảng Thu Xà
(Quảng Ngãi) từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX” và Khóa luận tốt nghiệp Đại học
của Dương Thị Thu Hương năm 2011 có đề cập đến “Hoạt động kinh tế của người
Hoa ở Quảng Ngãi từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XX” cũng đề cấp đến hoạt động
kinh tế thương nghiệp ở Quảng Ngãi.
Vấn đề xã hội Quảng Ngãi thế kỷ XIX đã được đề cập trong các tác phẩm “Tìm
hiểu các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (1885-
1945)” của Bùi Định xuất bản năm 1985. Cuốn “Phong trào nông dân Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XIX” của Nguyễn Phan Quang xuất bản năm 1986 đã đề cập đến các vấn
đề kinh tế, xã hội ở miền núi Quảng Ngãi và cuộc đấu tranh quyết liệt của đồng bào
thiểu số chống lại nhà Nguyễn. Hội thảo khoa học” Lê Trung Đình và phong trào Cần
vương ở Quảng Ngãi” (1997) và luận án Tiến sĩ “Phong trào yêu nước chống Pháp ở
Quảng Ngãi từ năm 1885 đến năm 1930” của Trương Công Huỳnh Kỳ (2001) đã đề
cập đến các vấn đề xã hội và cuộc đấu tranh của nhân dân Quảng Ngãi trong việc
hưởng ứng dụ Cần Vương (1885).
4
Có thể khẳng định rằng, với các công trình nghiên cứu trên đây, vấn đề kinh tế, xã
hội Quảng Ngãi đã được các nhà nghiên cứu giải quyết với những thành quả đáng trân
trọng. Đây chính là cơ sở để tác giả luận văn có thể kế thừa và phát triển, hoàn thành
được mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn đề ra.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình kinh tế - xã hội ở Quảng Ngãi dưới
triều Nguyễn (1802-1885).
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu của đề tài là tỉnh Quảng Ngãi.
Thời gian từ năm 1802 đến năm 1885.
Nội dung nghiên cứu là kinh tế - xã hội Quảng Ngãi.
5. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi dựa vào các nguồn tư liệu sau:
Các thư tịch cổ, công trình sử học do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đã
được dịch và xuất bản như: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,Mục
lục châu bản triều Nguyễn…
Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội triều Nguyễn nói chung và Quảng
Ngãi dưới triều Nguyễn nói riêng lưu trữ tại Thư viện Tổng hợp Thừa Thiên Huế, Thư
viện Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi, Trung tâm học liệu Đại học Huế...
Các bài viết được đăng trên các tạp chí Cẩm Thành, tạp chí Xưa và nay…
Đó là những nguồn tư liệu quan trọng giúp phục dựng lại bức tranh lịch sử về kinh
tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn từ năm 1802 đến 1885.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nguồn tư liệu thu thập được, trong quá trình nghiên cứu, để hoàn thành
luận văn, ngoài vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở phương pháp luận, chúng
tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp lịch sử, phương
5
pháp logic, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh, phương pháp liên ngành.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn sẽ có một số đóng góp sau:
Luận văn sẽ hệ thống hóa các nguồn tư liệu liên quan, cung cấp những thông tin
về tình hình kinh tế, xã hội ở Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm
1885.
Luận văn góp phần khôi phục bức tranh kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều
Nguyễn (1802-1885) có tính hệ thống, rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc đề
ra các chính sách phát triển kinh tế - xã hội để tạo nên sự phát triển bền vững Ngãi
hiện nay.
7. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1. Khái quát về vùng đất Quảng Ngãi
Chương 2.Kinh tế Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Chương 3. Xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
6
CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT QUẢNG NGÃI
1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên và xã hội Quảng Ngãi
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1.1.Địa hình
Quảng Ngãi thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, có tọa độ địa lý 140
32’
– 150
25’
vĩ Bắc, 1080
06’
– 1090
04’
kinh Đông, lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt nhìn
ra biển Đông; phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp tỉnh Bình Định; phía tây
và tây bắc giáp tỉnh Quảng Nam và tỉnh Kon Tum; phía đông giáp biển Đông.
Tỉnh Quảng Ngãi có diện tích tự nhiên 5.131,5 km2
. Quảng Ngãi có đường bờ biển
dài gồm 130 km với 5 cửa biển chính: Sa Cần, Sa Kỳ, Cửa Đại, Mỹ Á và Sa Huỳnh
[71,tr.31]. Với đặc điểm chung là núi lớn chạy sát biển và có tính chuyển tiếp từ địa
hình đồng bằng ven biển phía đông đến địa hình đồi núi cao ở phía tây nên ở đây được
chia thành bốn vùng có tính chất và đặc trưng khác nhau rõ rệt, bao gồm vùng núi,
vùng trung du, vùng đồng bằng và vùng bãi cát ven biển.
Vùng rừng núi: Quảng Ngãi là một trong những tỉnh có nhiều rừng núi cao trùng
điệp, với diện tích 391.192 ha, chiếm 2/3 diện tích đất đai toàn tỉnh. Núi cao tạo thành
hình vòng cung, hai đầu nhô ra sát biển, ôm chặt lấy đồng bằng. Các núi cao có thể kể
đến như núi Cà Đam (1413m), núi Đá Vách (1115m), núi U Bò (1100m), núi Cao
Muôn (1085m). Bên cạnh đó, các huyện đồng bằng nơi nào cũng có núi cao thấp khác
nhau [36, tr. 24]. Núi rừng Quảng Ngãi có nguồn tài nguyên phong phú về lâm thổ sản
với nhiều loại gỗ quý như lim, sao vát, chò, trắc, huỳnh đàng, kiền kiền, gõ. Ngoài gỗ,
rừng Quảng Ngãi còn có nhiều loại cây thuốc như sa nhân, hà thủ ô, thiên niên kiện,
ngũ gia bì, sâm; các loại cây có sợi, cây có dầu trầm hương, cây lấy nhựa và các loại
cây lấy nấm. Đồng thời đây còn là nơi sinh sống của nhiều loại thú quý, hàng trăm loại
chim quý và là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên khoáng sản, bao gồm các loại: sắt,
7
nhôm, mica, cao lanh, thạch anh, đá vôi. Trong đó hàm lượng sắt chiếm tỷ lệ khá cao
trong các cồn đất Trà Lâm, Thanh Trà (Bình Sơn), Thiết Trường (Mộ Đức), vì thế
trước đây một số nơi trong tỉnh người dân xây dựng các lò để luyện sắt như: Lò Thổi,
Gò Đình (Bình Sơn), Lò Thổ (Mộ Đức) và các làng ở Trà Bồng. Cao lanh khá nhiều ở
Sơn Tịnh, Sơn Hà, Bình Sơn, Tư Nghĩa. Đá vôi san hô có nhiều ở đảo Lý Sơn, là
nguyên liệu phụ gia cần thiết để chế biến đường muỗng, đường phèn, đường cát trắng.
Vùng trung du: Hầu như đất đai được phát triển trên nền đá ong latêrit hóa. Đất
bazan phong hóa, đất cát, đất ruộng thung lũng thấp. Đất ở đây thường bị bào mòn từ
cao xuống thấp, có nhiều gò đồi, lắm sỏi đá. Do đó, vùng này thường là đất xám, đất
bạc màu, đất đen nên rất thích hợp với các loại cây lương thực và cây công nghiệp
ngắn ngày như chè, mì, khoai lang, đậu, mía, lúa.
Vùng đồng bằng Quảng Ngãi: Đồng bằng Quảng Ngãi nhỏ hẹp nhưng khá đa dạng
về hình thái. Diện tích khoảng 160.678 ha, trong đó chỉ có 13.672 ha được bồi đắp phù
sa thường xuyên bởi bốn hệ thống sông chính là sông Trà Bồng, sông Trà Khúc, Sông
Vệ và sông Trà Câu. Càng đi về phía nam, đồng bằng càng hẹp lại, chỉ còn là một rẻo
dọc bờ biển. Địa hình bề mặt đồng bằng Quảng Ngãi khá bằng phẳng, nghiêng thoải về
phía đông, độ cao từ 2 – 30m [71, tr.62]. Đất ở đây thích hợp với các loại cây lương
thực, cây công nghiệp ngắn ngày, đặc biệt là cây mía. Đồng thời đây còn là nơi chứa
nước ngầm lớn nhất phục vụ nhu cầu đời sống, sản xuất của phần lớn cư dân Quảng
Ngãi.
Vùng bãi cát ven biển: nhỏ hẹp với diện tích khoảng 2446,8 ha. Địa hình vùng bãi
cát ven biển Quảng Ngãi có đặc điểm chung giống như các khu vực khác ở miền
Trung, là sự hiện diện của các dải cát cao song song với đường bờ giữ vai trò như đê
cát chắn sóng tự nhiên, bảo vệ phần đá phía sau các cồn cát. Ngoài ra, vùng cát Quảng
Ngãi còn có kiểu địa hình thấp rất đặc trưng, đó là dạng địa hình đầm lầy bị bồi lấp.
Đất vùng này thích hợp với các loại cây khoai lang, mì, dừa, rừng phi lao có tác dụng
làm đai phòng hộ chống cát bay, bồi lấn.
8
Biển Quảng Ngãi dài hơn 130 km, nằm trong vùng nước sâu trũng của biển Đông,
do đó có điều kiện phát triển mạnh. Hơn nữa, vùng biển Quảng Ngãi còn chịu ảnh
hưởng mạnh của các hướng gió mùa và các hiện tượng nhiễu động thời tiết cực đoan
như bão, áp thấp nhiệt đới, giông lốc nên việc đánh bắt xa bờ gặp nhiều khó khăn. Tuy
nhiên, vùng biển Quảng Ngãi là nơi có nhiều loại hải sản như cá, mực, tôm, cua, hải
sâm, rau câu…
Bờ biển Quảng Ngãi có những cửa biển thuận lợi cho tàu thuyền cập bến như cửa
Sa Cần, cửa Sa Kỳ, cửa Cổ Lũy, cửa Lỡ, cửa Mỹ Á, cửa Sa Huỳnh.
1.1.1.2. Khí hậu
Cũng như cả nước, Quảng Ngãi nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa. Một năm được
chia làm hai mùa: mùa khô và mùa mưa.
Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8. Trong mùa khô số giờ nắng bình quân là 6,4
giờ/ngày, đỉnh điểm là 9,9 giờ/ngày. Có năm nắng kéo dài liên tục từ tháng 3 – 4 tháng,
gây ra hạn hán làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.Trong mùa khô thường có
những trận mưa giông và gió nồm làm diệu bớt sự oi bức của mùa hè và làm cho cây
cối tốt tươi [36, tr. 33].
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng Giêng năm sau. Hằng năm, ngày mưa từ
121 ngày đến 126 ngày, số ngày mưa tập trung nhiều nhất vào tháng 10, tháng 11 [36,
tr. 32].
Nhiệt độ trung bình hằng năm là 25,30
C.Vào thời điểm nóng nhất của các tháng 6,
7, 8 nhiệt độ lên đến 400
C. Độ ẩm hằng năm là 83,9%. Quảng Ngãi có những hướng
gió theo mùa như sau: từ tháng 3 đến tháng 9 thường xuyên có gió Đông Nam và Tây
Nam. Từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau có gió Đông Bắc. Nhiều năm cường độ gió
mạnh thành bão [36, tr.33].
9
Nhìn chung, khí hậu Quảng Ngãi có nhiều thuận lợi cho cây trồng và hoạt động
của các nghề thủ công. Tháng nắng trong năm thuận lợi cho nghề làm gốm, nghề chế
biến đường, kẹo, mạch nha…trong việc phơi nắng nguyên liệu, chế biến sản phẩm.
Tuy nhiên, do độ ẩm cao nên dễ sinh sâu bệnh cho lúa, hoa màu và cây trái. Đồng
thời những năm nắng hạn kéo dài gây tình trạng thiếu nước tưới cho cây trồng, mưa lũ
mùa giông thường gây lụt lội, ngập úng.
1.1.1.3. Thủy văn
Trên địa bàn Quảng Ngãi, sông suối phân bố tương đối đều. Các sông có một số
đặc điểm như: bắt nguồn từ phía đông dãy Trường Sơn và đổ ra biển, sông chảy trên
hai địa hình (đồi núi phức tạp và đồng bằng hẹp), sông ngắn và độ dốc lòng sông lớn
bao gồm 4 sông chính: sông Trà Bồng, sông Trà Khúc, sông Vệ và sông Trà Câu.
Sông Trà Bồng: Nằm ở phía Bắc tỉnh, bắt nguồn từ dãy núi phía tây của huyện Trà
Bồng, chảy qua huyện Bình Sơn đổ ra cửa biển Sa Cần. Sông dài khoảng 45 km,
hướng chảy cơ bản từ tây sang đông. Phần lớn chảy qua địa hình rừng núi, phần còn lại
chảy vào vùng đồng bằng xen đồi trọc và bãi cát. Phía thượng nguồn của sông Trà
Bồng có nhiều phụ lưu như: suối Nún, suối Cà Đú, nhánh suối Sâu, nhánh suối
Bí…[71, tr.65].
Sông Trà Khúc: Nằm gần giữa tỉnh, đây là sông có lượng nước dồi dào nhất so với
các sông khác trong toàn tỉnh. Sông Trà Khúc dài khoảng 135 km, được hợp lưu bởi 4
con sông lớn là sông Rhe, sông Xà Lộ, sông Rinh, sông Tang chảy xuống hướng Đông
qua ranh giới các huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Thành phố Quảng Ngãi và đổ ra
cửa biển Cổ Lũy.
Sông Trà Khúc có lưu vực khoảng 3240 km2
, trên bề mặt lưu vực sông có khoảng
nửa diện tích kể từ nguồn là rừng già, còn lại là rừng thưa, vùng hạ lưu là đất canh tác
và đồng bằng trồng lúa, mía chiếm diện tích khá lớn.
10
Sông Vệ: Dài khoảng 90 km, phát nguyên từ vùng rừng núi phía tây của huyện Ba
Tơ, chảy theo hướng tây nam – Đông Bắc qua các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Mộ
Đức đổ ra biển Đông tại cửa biển Cổ Lũy và cửa Đại Lợi.
Sông Vệ có một chi lưu đáng kể nhất là sông Thoa, cung cấp lượng nước khá lớn
cho đại bộ phận đồng lúa Mộ Đức.
Sông Trà Câu: dài khoảng 32 km, bắt nguồn từ rừng núi Ba Trang (huyện Ba Tơ)
chảy xuyên qua huyện Đức Phổ để ra cửa biển Mỹ Á. Đây là con sông nhỏ nhất trong
số các con sông nói trên, nước ở đây cũng thường xuyên cũng cạn kiệt vào mùa khô.
Nhìn chung, điều kiện tự nhiên và đặc điểm địa hình cùng nguồn tài nguyên thiên
nhiên đã tạo cho Quảng Ngãi có nhiều khả năng để phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.2. Đặc điểm xã hội
1.1.2.1.Dân cư Quảng Ngãi
Nhìn chung dân cư trong tỉnh phân bố không đồng đều, vùng trung châu và ven
biển đông đúc, còn miền núi dân cư thưa thớt. Trên địa bàn Quảng Ngãi có 4 dân tộc
anh em sinh sống, bao gồm Kinh, Hrê, Cor và Ca Dong (một nhánh của dân tộc Xơ
Đăng) [71, tr.145].
Có thể nói, người Kinh hiện diện ở Quảng Ngãi bắt đầu từ thế kỷ XV trở đi, đa số
là những người nông dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng Thanh – Nghệ di cư vào
khẩn hoang đất đai, lập thành làng mạc.
Dưới thời các chúa Nguyễn, một số người Hoa từ vùng Quảng Đông, Phúc Kiến,
Triều Châu, Hải Nam (Trung Quốc) đến sinh sống ở Thu Xà, cửa biển Sa Cần, Sa
Huỳnh và một số điểm ở trung du. Người Hoa đóng vai trò tương đối quan trọng trong
sự phát triển kinh tế ở vùng đất Quảng Ngãi thời Nguyễn. Nhưng trải qua các cuộc
chiến tranh, người Hoa phần nhiều đã phân tán đi nơi khác, phần hòa nhập vào cộng
đồng người Việt, không còn các cộng đồng làng xã đặc thù.
11
Ở miền núi, dân cư có sự ổn định hơn. Miền núi Quảng Ngãi là địa bàn cư trú của
dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong sinh sống; là là cư dân lâu đời, sống theo từng khu vực và
có sự đan xen nhất định, có sự giao lưu buôn bán với nhau và với người Việt ở miền
xuôi lên buôn bán, khai khẩn.
1.1.2.2.Thành phần dân tộc
* Dân tộc Kinh
Tộc danh chính thức gọi là Việt, nhưng để phân biệt với các dân tộc thiểu số thì
người Việt thường được gọi là người Kinh.
Cư dân người Việt có mặt đầu tiên ở Qảng Ngãi vào thế kỷ XV. Năm 1402, qua
cuộc xung đột giữa phong kiến Đại Việt và Chămpa, vua Chămpa nhượng hai châu
Chiêm Động và Cổ Lũy Động cho nhà Hồ. Sau đó Hồ Quý Ly đổi đặt thành 4 châu
Thăng, Hoa (Quảng Nam) và Tư, Nghĩa (Quảng Ngãi).
Năm 1472 cuộc chinh phạt Chămpa của vua Lê Thánh Tông, vùng đất từ nam đèo
Hải Vân đến đèo Cù Mông nằm trong sự quản lý của Đại Việt và đặt thành đạo thừa
tuyên Quảng Nam, gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn. Nhà Lê chiêu mộ
dân chúng vào khai khẩn đất hoang và đồng thời khuyến khích quân lính ở lại mở
mang đồn điền, phát vãng những tù nhân lưu đày vào đây. Đây được xem là những
nguồn nhân lực chủ yếu khai phá vùng đất mới.
Vùng cư trú của người Kinh tập trung chủ yếu ở đồng bằng và các thị trấn, thị tứ ở
miền núi Quảng Ngãi, một số sinh sống đan xen với người dân tộc thiểu số ở miền núi.
*Dân tộc Hrê
Hrê là tộc người có số dân đứng thứ hai trong tỉnh sau dân tộc Kinh. Họ cư trú chủ
yếu ở các huyện: Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Hà, Sơn Tây, Minh Long, Ba Tơ, Nghĩa
Hành và Tư Nghĩa.
12
Hrê là tộc danh chính thức của dân tộc này. Dưới triều Nguyễn và Pháp thuộc,
người Hrê được gọi bằng những phiếm danh, có ý nghĩa khinh miệt như: “Mọi Đá
Vách”, “Mọi Thạch Bích”, “Mọi Sơn Phòng”, “Thượng Ba Tơ”… Sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945 được thống nhất chung tên gọi dân tộc Hrê.
Trong xã hội của người Hrê, làng là đơn vị cư trú, đồng thời là cộng đồng tự quản
với những thiết chế sinh hoạt đã định hình từ lâu. Mỗi làng đều có chủ làng (Krăng
plây), là người lớn tuổi, có nhiều kinh nghiệm, có uy tín, gia đình thuộc loại giàu có
trong làng.Chủ làng là người cùng với thầy cúng (Pơ dâu) tổ chức các lễ cúng của làng.
Cá nhân chủ làng đứng ra chịu trách nhiệm tổ chức bắt máng nước, làm đường, rào
làng, hướng dẫn việc sản xuất, giải quyết các vụ xử phạt…
Xã hội truyền thống của người Hrê có sự phân hóa giàu nghèo, do chênh lệch về
ruộng đất, về lao động và về thu nhập giữa các hộ gia đình. Trong xã hội có 4 tầng lớp
người: người giàu (Proong), người đủ ăn có chút ít dư thừa (Lắp ká), người thiếu ăn,
kinh tế khó khăn (Pa), người đi ở vì nơ, nô lệ vì nợ (Hapoong, dik) [71, tr. 148].
Nguồn kinh tế đem lại thu nhập quan trọng nhất cho đời sống của người Hrê là
nông nghiệp trồng lúa nước. Nghề thủ công cũng góp phần bổ sung quan trọng trong
đời sống kinh tế tự cung tự cấp, bao gồm nghề dệt, đan lát, chăn nuôi gia súc, gia
cầm…
* Dân tộc Cor
Dân tộc Cor là dân tộc có số dân đông thứ 3 trong tỉnh và là dân tộc có số dân đông
thứ 2 trong các dân tộc thiểu sô sau dân tộc Hrê.
Địa bàn cư trú của dân tộc Cor ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà của tỉnh Quảng
Ngãi và một số ít của huyện Trà My tỉnh Quảng Nam. Xưa kia, người ta gọi người Cor
là người Cua, người Trầu. Tên tự gọi của dân tộc Cor, là tộc danh chính thức.
13
Đặc trưng sinh hoạt kinh tế của người Cor là lấy kinh tế nương rẫy làm nguồn thu
nhập chính. Ngoài ra, vùng người Cor còn nổi tiếng về giống trầu không và quế.
* Dân tộc Ca Dong
Ca Dong là tộc người có số dân đứng thứ 4 trong tỉnh. Địa bàn cư trú của người Ca
Dong phân bố ở các huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi), Sa Thầy , Kon Plong (Kon Tum),
Trà My (Quảng Nam).
Kinh tế của tộc người Ca Dong chủ yếu là nông nghiệp rẫy canh tác theo kiểu luân
canh luân khoảnh, trồng trọt vụ đầu tiên đến vụ thứ hai hoặc vụ ba rồi bỏ hoang khoảng
1 đến 2 năm mới canh tác lại. Từ sau năm 1975, chính quyền địa phương đã vận động
họ chuyển dần tập quán canh tác sang làm ruộng nước.
Địa bàn cư trú chủ yếu của người Ca Dong nằm giáp giới với vùng Tây Nguyên, có
nhiều đường bộ liên thông nên thường có các cuộc trao đổi hàng hóa với miền xuôi.
Người Ca Dong mua các loại chiêng, ché, vải mặc, nồi đồng,… buôn bán trao đổi bằng
nguồn quế, loại cây nguyên liệu có giá trị thương phẩm cao. Ngoài ra, các sản phẩm
chăn nuôi như trâu, bò…được buôn bán trao đổi cho các cư dân vùng Tây Nguyên để
đổi lấy chiêng, ché.
Trong xã hội người Ca Dong có sự phân chia giàu nghèo dựa trên lượng gạo thu
hoạch, chiêng, ché, trâu, bò…Trong làng có 3 loại người: người giàu, người đủ ăn và
người nghèo, nhưng chưa thấy có sự bóc lột nhau [71, tr.155].
1.2. Tổ chức hành chính Quảng Ngãi dưới thời Nguyễn
Quảng Ngãi là Cổ Lũy động thuộc châu Amaravati. Năm 1400 nhà Hồ thay triều
Trần, tháng 7 năm 1402 đánh lấy đất Chiêm động và Cổ lũy động. Năm 1407, nhà
Minh (Trung Quốc) đem quân xâm lược và thống trị nước ta.Nhân cơ hội này, Chiêm
thành đem quân chiếm đất Chiêm động và Cổ Lũy động.
14
Để củng cố vùng đất phía Nam, xây dựng đất nước thống nhất, năm Hồng Đức thứ
2 (năm 1471), vua Lê Thánh Tông cùng các tướng Lê Huy Cát, Hoàng Nhân Thiêm,
Lê Thế, Nguyễn Đức Trung đem quân thu phục các đất Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và
thành Đồ Bàn (thuộc tỉnh Bình Định ngày nay), sau đó thiết lập đạo Thừa tuyên Quảng
Nam là đơn vị hành chính (như cấp tỉnh ngày nay) thứ 13 của cả nước. Thừa tuyên
Quảng Nam thống lĩnh 3 phủ: Thăng Hoa (Quảng Nam), Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Hoài
Nhân (Bình Định) gồm 9 huyện. Trong đó phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện: Bình Dương,
Nghĩa Giang và Mộ Hoa.
Năm 1602, đời Lê Hoằng Định thứ 3, Nguyễn Hoàng cải đổi tên các đơn vị lãnh
thổ, hành chính đã được đặt từ trước ở hai trấn Thuận – Quảng. Trấn Quảng Nam đổi
thành dinh Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa (thuộc dinh Quảng Nam) đổi thành phủ Quảng
Nghĩa.Tên Quảng Nghĩa ra đời từ đó.
Năm 1771, phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ. Năm 1776, nhà Tây Sơn đổi
phủ Quảng Nghĩa thành phủ Hoà Nghĩa.
Năm 1805, Gia Long đổi phủ Hòa Nghĩa thành phủ Tư Nghĩa, đồng thời đặt ra
dinh Quảng Nghĩa, đặt các chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục. Năm 1808, Gia Long lại đổi
dinh Quảng Nghĩa thành trấn Quảng Nghĩa và đến năm 1810 đổi chức Lưu thủ thành
Trấn thủ.
Năm 1832, Minh Mạng bãi bỏ các trấn, dinh, chia cả nước thành 31 tỉnh. Trấn
Quảng Nghĩa đổi thành tỉnh Quảng Nghĩa, Quảng Nghĩa trở thành đơn vị hành chính
cấp tỉnh từ đó. Nhưng đến năm 1934, Minh Mạng lại cải tên Quảng Nghĩa thành tỉnh
“Nam trực”.Năm Thiệu Trị thứ 7 (năm 1847), đặt chức Tuần phủ Quảng Nghĩa và đặt
chức Tổng đốc Nam – Nghĩa. Tỉnh Quảng Nghĩa dưới thời Nguyễn gồm 1 phủ Tư
Nghĩa và 3 huyện: Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Đức và 4 nguồn Trà Bồng, Sơn Hà,
Minh Long và Ba Tơ.
15
Năm 1858, thực dân Pháp nổ sung xâm lược nước ta. Với các điều ước Quý Mùi
(năm 1883), Giáp Thân (năm 1884), triều đình Huế thừa nhận sự đô hộ của thực dân
Pháp trên cả nước. Sau đó, cùng với các địa phương khác, tỉnh Quảng Nghĩa cũng bị
Pháp đô hộ. Tên tỉnh được đổi thành tỉnh Quảng Ngãi.
1.3.Tình hình kinh tế - xã hội Quảng Ngãi từ thế kỷ XV đến năm 1802
Năm 1471, triều đình nhà Lê cho thiết lập đạo thừa tuyên Quảng Nam, đạo thừa
tuyên thứ 13 của Đại Việt, bao gồm vùng đất nam đèo Hải Vân của châu Hóa cùng 4
châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa thời nhà Hồ và kinh đô Chà Bàn của vương quốc
Chămpa. Đạo thừa tuyên Quảng Nam thống lĩnh 3 phủ: Thăng Hoa (Quảng Nam), Tư
Nghĩa (Quảng Ngãi), Hoài Nhân (Bình Định). Phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện là Bình
Dương, Nghĩa Giang và Mộ Hoa.
Thực hiện chỉ dụ và được sự khuyến khích của triều đình, dân cư các vùng Sơn
Nam Hạ, Thanh Hóa, Nghệ An đi vào vùng đất Nam – Ngãi – Bình cùng sống với
người Chăm, cấy cày ở những vùng đồng bằng, khai thác tài nguyên phong phú trên
rừng, dưới biển. Vùng đất thừa tuyên Quảng Nam từ đó vĩnh viễn trở thành một bộ
phận lãnh thổ của quốc gia Đại Việt.
Thế kỷ XVI, thừa tuyên Quảng Nam trong đó có vùng đất Quảng Ngãi, tình hình
kinh tế - xã hội đi vào ổn định, kinh tế không ngừng phát triển, diện tích khai hoang
được mở rộng, sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, các nghề thủ công phát triển, thu
hút ngày càng nhiều di dân từ các vùng Hoan, Ái (Thanh Hóa, Nghệ An) vào lập
nghiệp, sinh tụ lâu dài.
Từ khi Nguyễn Hoàng trấn thủ vùng Thuận – Quảng, ông ra sức xây dựng vùng
này thành một khu vực kinh tế trù phú với nhiều chính sách về điền địa, thuế khóa,
giao thương nội địa và ngoại thương, thu phục được nhân tâm, tạo được uy thế lâu dài.
Năm 1602, Nguyễn Hoàng cải tổ các đơn vị hành chính – lãnh thổ ở hai trấn Thuận
16
Quảng, theo đó trấn Quảng Nam đổi thành dinh Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa (thuộc
dinh Quảng Nam) đổi thành phủ Quảng Nghĩa.
Từ sau khi dinh Quảng Nam được thành lập (bao gồm các phủ Điện Bàn, Thăng
Hoa, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn), vùng đất phủ Quảng Nghĩa nói riêng, dinh Quảng
Nam nói chung, tiếp tục phát triển trong một thời gian dài về sau dinh Quảng Nam
không còn là miền biên trấn vì các chúa Nguyễn đã mở rộng lãnh thổ xa dần vào phía
Nam. Trong thời gian đó, miền đất Quảng Nam trong đó có Quảng Ngãi, diễn ra một
quá trình xen lẫn chuyển dịch và ổn định cư dân.
Lớp cư dân đến từ trước tiếp tục dựng làng, lập ấp, ổn định đời sống và phát triển
sản xuất. Lớp người đến sau (gồm một số lớn là tù binh và cư dân Đàng Ngoài bị chúa
Nguyễn bắt đem về trong các cuộc tấn công ra phía bắc sông Gianh, một số khác là di
dân tự do, đào tẩu…) khai phá những vùng đất còn hoang hóa, lập thêm làng ấp mới.
Ở Quảng Ngãi, số cư dân mới đến này định cư rải rác cả 3 huyện nhưng nhiều nhất
là huyện Mộ Hoa (nay là 2 huyện Mộ Đức và Đức Phổ) ở phía nam. Ngoài ra, còn có
một bộ phận người Hoa (Minh Hương) từ Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Hải
Nam đến sinh sống và lập một số khu dân cư mua bán lâm thổ sản, làm một số nghề
thủ, công mỹ nghệ mà họ mang từ cố hương đến, thu mua hàng xuất khẩu. Một bộ
phận khác của cư dân Đàng Ngoài đến định cư từ trấn Thuận – Hóa (Thừa Thiên –
Huế) và các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa (phía bắc dinh Quảng Nam) những giai đoạn
trước, lúc này có sự dịch chuyển vào Quảng Ngãi, Quy Nhơn.
Cũng trong thời gian này, biển Đông và các đảo ven bờ trong đó có đảo Lý Sơn
(Cù Lao Ré, nay là huyện đảo Lý Sơn) xa hơn là Hoàng Sa, Trường Sa (Bắc Hải) cũng
thu hút sự quan tâm của các chúa Nguyễn với việc hình thành các đội Hoàng Sa, Bắc
Hải để tuần phòng và khai thác hải sản. Lúc bấy giờ, Hoàng Sa lệ thuộc vào sự quản lý
của phủ Quảng Nghĩa. Hàng năm, chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa gồm 60 người, là các
dân binh lấy từ ngư dân 2 xã An Vĩnh và An Hải thuộc huyện Bình Sơn (nay thuộc
17
huyện Lý Sơn) đi thuyền đến Hoàng Sa để tuần phòng và khai thác đồi mồi, ba ba, hải
sâm, san hô. Nhiều thư tịch Việt Nam, Trung Hoa và nhất là những ghi chép của các
nhà hàng hải phương Tây còn để lại đã góp phần khẳng định từ lâu, Hoàng Sa đã là
một phần lãnh thổ Việt Nam, thuộc địa phận Quảng Ngãi [71, tr.169].
Lúc bấy giờ dinh Quảng Nam là vùng đất phồn thịnh nhờ vào sự phát triển nông
nghiệp trên những cánh đồng tương đối rộng và có điều kiện khí hậu phần nào thuận
lợi hơn vùng Bắc Trung Bộ. Tài nguyên rừng (sa nhân, cánh kiến, trầm hương, kỳ nam,
gỗ quý…), tài nguyên biển (trai ngọc, đồi mồi, cá, mực…) được khai thác phục vụ xuất
khẩu qua các cảng biển như Hội An (Quảng Nam), Thu Xà (Quảng Nghĩa). Các nghề
thủ công nghiệp cũng khá phát đạt, gồm cả những nghề do cư dân Việt phía Bắc mang
theo trong quá trình di dân (dệt chiếu, đan nón, làm gốm…), nghề của người Chăm
(đóng thuyền, đan lưới…), nghề của một bộ phận người Hoa Minh Hương đến định cư
(kẹo gương, làm nhang…).
Thế nhưng đến giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, sự phát triển kinh tế - xã hội ở Đàng
Trong đã dần dần tích tụ những mâu thuẫn nội tại với việc hình thành lớp người giàu,
có quyền lực, chiếm hữu nhiều đất đai, bên kia là đại đa số nông dân nghèo khó, ruộng
đất khai khẩn được bằng mồ hôi, nước mắt và cả xương máu dần dần rơi vào tay điền
chủ, quan lại.
Mối quan hệ chung lưng đấu cật giữa những người có của đi kinh dinh với số đông
người lao động đã phai nhạt dần theo năm tháng. Đồng thời, nhiều mâu thuẫn giữa kẻ
giàu với kẻ nghèo, người chiếm hữu và người bị chiếm hữu ngày càng trở nên gay gắt.
Thêm vào đó do đặc điểm xã hội Đàng Trong, bộ máy cai trị về đại thể mang hình thức
quân quản nên những người giàu có, nhiều ruộng đất, cũng đồng thời là tầng lớp tướng
lĩnh hoặc quan lại xuất thân từ tướng lĩnh. Quá trình chiếm hữu ruộng đất của tầng lớp
trên được hỗ trợ bằng các chính sách, chủ trương của nhà nước phong kiến mà trong
đó, ngày càng nặng nề hơn là sự nghiệt ngã của chính sách sưu dịch, thuế khóa. Bên
cạnh đó, sự quản lý chặt chẽ của các chúa Nguyễn đối với việc khai thác các nguồn tài
18
nguyên nhằm phục vụ xuất khẩu, mua sắm vũ khí và các mặt hàng xa xỉ khác đã làm
cho tầng lớp thương nhân không thể hình thành, cho dù đã có một lực lượng khá đông
đảo những người mua bán nhỏ lẻ, thu mua nông thổ sản, lâm sản, hải sản đã nhóm
thành các “nậu” ở khắp vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi lúc bấy giờ. Bao trùm lên tất
cả, chi phối tất cả các quan hệ phức tạp trên đây là mâu thuẫn giữa tập đoàn phong kiến
Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài và các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nếu như ở giai đoạn đầu
mối quan hệ này đã gián tiếp thúc đẩy quá trình Nam tiến cũng như sự thịnh vượng của
đất Thuận Quảng thì càng về sau, khi các chúa Nguyễn đã công khai ý đồ cát cứ, thì
ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển đất nước ngày càng trầm trọng. Những cuộc
chiến tranh triền miên giữa hai bờ sông Gianh, việc huy động một lực lượng lớn nhân
tài, vật lực để đào hào, đắp lũy, mua sắm vũ khí, huy động tráng đinh bỏ ruộng vườn
tham gia quân đội đã làm cho nền kinh tế Đàng Trong nói chung và Quảng Ngãi nói
riêng rơi vào khủng hoảng. Người dân vốn đã khổ cực vì sưu cao thuế nặng, lại thêm
nạn dịch binh, thiên tai, mất mùa…làm cho bội phần khốn đốn.
Cuộc khởi nghĩa của anh em nhà Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn
Lữ) từ vùng rừng núi Tây Sơn Thượng Đạo, nổ ra vào năm 1771, và nhanh chóng trở
thành một phong trào nông dân rộng lớn. Từ Quy Nhơn, Quảng Ngãi phong trào này
lan ra khắp đất Quảng Nam, rồi cả nước, cuốn cả tập đoàn phong kiến của các chúa
Nguyễn ở Đàng Trong và tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài, đánh bại cả
quân Thanh xâm lược ở phía Bắc và quân Xiêm gây rối ở phía Nam.
Ngay sau khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, ở miền Tây Quảng Ngãi, các ông Đa
Phát Rang (chủ động Cao Muôn), Đa Phát Canh (chủ động Thạch Bích), Đinh Thung
(chủ động Cà Đam) đã hô hào đồng bào các dân tộc ít người nổi dậy hưởng ứng cuộc
khởi nghĩa, thiết lập 3 căn cứ kháng chiến ở vùng cao. Từ đây, phong trào nhanh lan
xuống vùng thấp với việc hình thành các căn cứ: Sa Lang (tây nam Đức Phổ), Vực
Liêm (tây Đức Phổ, Mộ Đức), Tây Giang (vùng giáp ranh Nghĩa Hành, Minh Long),
Tuyền Tung (vùng giáp ranh Bình Sơn, Trà Bồng). Ngoài ra, quân Tây Sơn còn có các
19
chốt điểm hoạt động quan trọng ở Bến Thóc (huyện Mộ Đức), Lò Thổi (Tuyền Tung),
Thiết Trường (huyện Mộ Đức), Trà Câu (huyện Đức Phổ) và đặc biệt là vùng rừng núi
Cà Ty (nay thuộc xã Tịnh Trà, huyện Sơn Tịnh), tiếp giáp với xã Bình Chương, huyện
Bình Sơn, nơi quân Tây Sơn xuất quân tiến đánh quân chúa Nguyễn tại dinh Quảng
Nam (1773) và cũng là nơi Nguyễn Huệ tổ chức cuộc hội tụ quan trọng gồm các văn
thần, mưu sĩ, tướng lĩnh cùng các đạo kỵ binh hùng mạnh trước giờ xuất quân đánh lấy
Phú Xuân vào năm 1786.
Từ khắp nơi trong phủ Quảng Nghĩa, nhiều bậc hiền tài đã hướng về nghĩa quân
Tây Sơn, quy tụ dưới ngọn cờ anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Nhiều
người trong số đó đã trở thành các yếu nhân của phong trào nông dân Tây Sơn, lập
chiến công xuất sắc trong việc xóa sổ các tập đoàn phong kiến Đàng Trong lẫn Đàng
Ngoài, đánh bại quân xâm lược Mãn Thanh năm 1789, như: Thái phó Trần Quang Diệu
(người làng Tú Sơn, xã Đứ Lân, huyện Mộ Đức); Đô đốc Nguyễn Văn Huấn và Đại tư
mã Nguyễn Văn Danh (là hai anh em ruột, người làng Văn Hà, xã Đức Phong, huyện
Mộ Đức); Đô Đốc Huỳnh Văn Thuận (người làng Dương Quang, xã Đức Thắng, huyện
Mộ Đức); Đô đốc Trương Đăng Đồ (người làng Mỹ Khê, xã Tịnh Khê, huyện Sơn
Tịnh); …
Cùng với nhân dân phủ Quy Nhơn (nay là tỉnh Bình Định), nhân dân phủ Quảng
Nghĩa (nay là tỉnh Quảng Ngãi) đã có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp của nhà
Tây Sơn và phong trào nông dân Tây Sơn. Trong lời Hịch truyền quan lại, quân dân
của các phủ Quảng Nghĩa, Quy Nhơn đề ngày 10-9 năm Quang Trung thứ 5 (27-8-
1792), Quang Trung – Nguyễn Huệ đã khẳng định: “Tất cả các ngươi, lớn nhỏ từ hơn
hai chục năm nay, đều luôn luôn chịu ân đức của nhà Tây Sơn ta. Sự thật, trong mấy
chục năm qua, trẫm đã chiến thắng cả trong Nam, ngoài Bắc. Trẫm nhận rằng có được
những chiến thắng ấy chính là nhờ có sự phù trợ hết lòng của nhân dân hai phủ. Hai
phủ cũng đã tiến cử lên trẫm nhiều người trung dung, hiền tài để giúp triều đình” [32,
tr.101].
20
Năm 1776, dưới thời Tây Sơn, phủ Quảng Nghĩa được đổi tên là phủ Hòa Nghĩa,
kéo dài từ phía nam sông Bến Ván (Bản Tân) đến đèo Bình Đê và đặt dưới quyền quản
lý trực tiếp của vua Thái Đức – Nguyễn Nhạc. Triều Tây Sơn chỉ tồn tại ngắn ngủi,
nhưng đã thực thi nhiều chính sách tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước,
trong đó có phủ Hòa Nghĩa (Quảng Ngãi).
Từ sau khi vua Quang Trung – Nguyễn Huệ qua đời (1792), nhà Tây Sơn nhanh
chóng rơi vào khủng hoảng. Những mâu thuẫn xã hội tạm thời lắng dịu do ảnh hưởng
và thanh thế của phong trào Tây Sơn trong buổi đầu dấy nghiệp cũng như tài năng, đức
độ của Nguyễn Huệ, đến lúc này đã bộc lộ trở lại và ngày càng trở nên gay gắt hơn.
Thêm vào đó, những lục đục trong nội bộ vương triều, do những tham vọng cát cứ,
thâu tóm quyền lực của một số công thần, sự bất tài, nhu nhược của Trung ương Hoàng
đế Nguyễn Nhạc, Đông Định vương Nguyễn Lữ, người kế vị Quang Trung là Quang
Toản, và nhất là sự phản kích liên tục của tập đoàn Nguyễn Ánh từ phía Nam khiến
nhà Tây Sơn trở nên suy yếu.
Năm 1801, triều Tây Sơn sụp đổ. Nguyễn Ánh lên ngôi vua (1802), thiết lập vương
triều Nguyễn, xây dựng và củng cố quyền lực trên toàn cõi đất nước.
Tiểu kết
Quảng Ngãi là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng không chỉ về mặt quân sự
mà cả về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa. Trên mảnh đất núi Ấn – sông Trà mà thiên
nhiên không mấy ưu đãi này, các thế hệ kế tiếp nhau sinh sống, đã lập nên những giá
trị văn hóa vật thể và phi vật thể mang đậm sắc thái địa phương, un đúc nên những con
người lao động cần cù, sáng tạo, đánh giặc giỏi, thông minh, nhân hậu, thời nào cũng
xuất hiện những nhà quân sự tài ba, những bậc anh hung hào kiệt như sách Đại Nam
nhất thống chí chép: “Đất bạc, dân chăm, tính tằn tiện, không xa hoa, người quân tử
thích việc nghĩa, giữ khí tiết…Địa thế tuy hẹp mà khí mạch tốt, nên đời nào cũng có
21
người làm đến quan to chức trọng, bước đường thanh thản, trọn được danh vọng…”
[48, tr. 356-357].
Vào thế kỷ XV – XVI, địa giới và dân cư Quảng Ngãi được dần ổn định. Đến thế
kỷ XIX, trải qua thời Gia Long, Minh Mạng, các vị vua đầu triều Nguyễn đã cố gắng
tổ chức bộ máy hành chính các cấp nối liền giữa triều đình và các cấp cơ sở tạo thành
một hệ thống tương đối chặt chẽ. Quảng Ngãi cũng như các miền đất khác, nhà
Nguyễn đã thiết lập ở đây một bộ máy hành chính các cấp một cách hoàn chỉnh, tập
trung, góp phần vào công cuộc ổn định kinh tế - xã hội nơi đây.
22
CHƯƠNG 2.
KINH TẾ QUẢNG NGÃI DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802-1885)
2.1. Nông nghiệp
2.1.1. Tình hình ruộng đất
Vào thế kỷ XIX, ở Việt Nam, nông nghiệp là hoạt động chính và cung cấp tài
nguyên chính yếu. Dưới thời nông nghiệp cực thịnh, phần ruộng đất là quan trọng hơn
cả. Dân gian trông cậy vào đó để sinh tồn và phát triển. Triều đình nhờ đó thu thuế để
nuôi quân và điều hành việc nước. Ở Quảng Ngãi nửa đầu thế kỷ XIX vẫn tồn tại hai
loại hình sở hữu ruộng đất chủ yếu là công điền, công thổ (sở hữu nhà nước) và tư
điền, tư thổ (sở hữu tư nhân). Công điền công thổ lại chia ra hai loại: quan điền, quan
thổ và công điền, công thổ.
Quan điền, quan thổ là những loại ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và do quan
chức quản lý như tịch điền, quan xá thổ, quân trại thổ, quan trại điền, quan đồn điền,
quan tiêu viên…Đối với mỗi loại ruộng đất đó, quan chức quản lý theo những quy chế
mà triều đình đã định riêng cho mỗi loại. Tựu trung về mặt sử dụng, thường chia làm
hai phần: phần công dụng như quan xá thổ và phần dân dụng như quan trại điền. Phần
công dụng thì ít mà phần dân dụng thì nhiều.Song dân dụng thì phải đóng thuế, thuế
này cao hơn thuế các loại công điền công thổ hay tư điền tư thổ [15, tr.10].
* Quan điền, quan trại
Đây là loại ruộng ngụ lộc, thưởng lộc, chế lộc, quan điền, quan điền trang, quan
đồn điền, quan trại…
Loại quan điền, quan trại phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền Trung từ Nghệ An trở
vào, tuy nhiên số lượng không nhiều. Ở Quảng Ngãi, loại này có tồn tại nhưng chiếm
23
tỷ lệ ít, theo địa bạ Quảng Ngãi lập năm Gia Long thứ 12 (1813) toàn diện tích thực
canh ở Quảng Ngãi là 48.446 mẫu, trong đó quan điền chiếm 587 mẫu, quan thổ 6 mẫu
[15, tr. 91-92].
Năm 1822, Minh Mạng cho chuyển dần quan điền quan trại thành ruộng công làng
xã và đến giữa thế kỷ XIX cơ bản quan điền, quan trại không còn tồn tại nữa.
* Đồn điền
Đồn điền là một hình thức khai hoang vốn xuất hiện từ thời Trần, nhà Lê phát triển
thêm một bước và tiếp tục duy trì cho đến nhà Nguyễn. Trước năm 1802 trong quá
trình xây dựng lực lượng của mình, nhằm đốc thúc binh lính và nhân dân khai khẩn đất
hoang, Gia Long đã sáng lập ra các loại đồn điền mới. Tinh thần đó được tiếp tục dưới
thời Nguyễn vào thế kỷ XIX.
Kể từ 1802, các loại đồn điền vẫn duy trì khắp trên toàn quốc, kể cả Nam Kỳ, Trực
Kỳ, Bắc Kỳ. Ở miền Trung, năm 1804 các loại đồn điền do binh lính canh tác được mở
thêm nhiều ở toàn hạt Quảng Ngãi trên cơ sở các liên cơ binh lính địa phương.
Công điền, công thổ là những loại ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và để cho xã
thôn quản lý theo quy định của triều đình như cách chia ra khẩu phần và thời gian phân
chia lại.
Vào đầu thế kỷ XIX, một tình trạng chung là ruộng đất công làng xã bị thu hẹp
dần. Năm 1852 khi được vua Tự Đức hỏi về ruộng công, ruộng tư ở các tỉnh, Thượng
thư bộ Hộ là Hà Duy Phiên tâu: “Thừa Thiên, Quảng Trị ruộng công nhiều hơn ruộng
tư. Quảng Bình thì ruộng công, ruộng tư bằng nhau.Còn các hạt khác thì ruộng tư
nhiều mà ruộng công ít, tỉnh Bình Định lại càng ít hơn” [59, tr.238]. Theo địa bạ
Quảng Ngãi thì ruộng đất công làng xã chỉ có 7.406 mẫu trong tổng số 48.446 mẫu
diện tích thực canh, chiếm tỉ lệ 15,29% [15, tr. 91-92].
24
Ruộng đất công ở đây chiếm đa số một phần là do kết quả của công cuộc khai
hoang mở đất lập làng từ các thế kỷ trước. Tuy nhiên, tỷ lệ phân bố ruộng đất công
trong tỉnh cũng không đồng đều cho các huyện và các xã thôn, cụ thể là huyện Bình
Sơn trong tổng số diện tích ruộng thực canh 19.948 mẫu thì công quan điền thổ chỉ
chiếm hơn 2.765 mẫu (13,86%), tương tự huyện Chương Nghĩa công quan điền thổ là
1.502 mẫu trong tổng số 11.624 mẫu, chiếm tỷ lệ 12,92% và huyện Mộ Hoa công quan
điền thổ là 3.138 mẫu trong tổng số 16.873 mẫu (18,6%) [15, tr. 92-93].
Theo Nguyễn Đình Đầu, trong 230 làng còn địa bạ ở Quảng Ngãi thì có 60 làng có
dưới 100 mẫu ruộng đất và 20 làng có trên 500 mẫu ruộng đất. Còn 150 làng ở giữa, có
từ 100 đến 500 mẫu ruộng đất. Tiêu biểu như ở xã Đại Nham (Tổng Hạ, huyện Chương
Nghĩa) có 6 mẫu và xã Vạn Phước Tứ (Tổng Thượng, huyện Mộ Hoa) có 1.532 mẫu,
tức cách nhau tới 251 lần. Những làng theo nghề đánh cá hay làm mắm muối tất nhiên
sẽ có ít ruộng đất. Những làng ở ven biển hay gần rừng, có nhiều đất hoang nhàn mà ít
ruộng đất canh tác [15, tr. 94].
Nhà Nguyễn đã có nhiều biện pháp nhằm bảo vệ ruộng đất công làng xã thành cơ
sở kinh tế phù hợp với chế độ đương thời. Để gia tăng diện tích, nhà Nguyễn không
ngần ngại sung công ruộng đất tư, ruộng đất bỏ hoang, không thể cày cấy được làm
công điền. Các vua Nguyễn, nhất là vua Tự Đức đã đánh thuế ruộng công nhẹ hơn
ruộng tư và cùng với các chính sách tô thuế của nhà nước ở Quảng Ngãi cũng góp phần
củng cố công điền.
Xưa kia, tuyệt đại đa số dân ta sống theo nghề nông, tức phải có ruộng đất. Quảng
Ngãi tương đối không có nhiều ruộng đất nhưng sự phân bố giữa các cá nhân không
đến nỗi quá chênh lệch. Chế độ công điền, công thổ cũng là một định chế giúp cho
người không có sản nghiệp được chia khẩu phần ruộng đất để làm ăn và cư ngụ.
Tiêu biểu hơn cả là Tổng Trung của huyện Mộ Hoa có tỷ lệ ruộng công khá cao, cụ
thể là ở một số xã thôn:
25
Tên xã thôn Diện tích công điền Diện tích tư điền
Thôn Đông Ngạn
Xã Lộ Bôi
Xã Miên Trường
Xã Nga Dân
56 mẫu
231 mẫu
224 mẫu
146 mẫu
12 mẫu
331 mẫu
224 mẫu
149 mẫu
[15, tr. 98].
Tư điền, tư thổ là loại ruộng đất không thuộc sở hữu nhà nước, mà thuộc tư nhân
vừa sở hữu vừa quản lý, tự do mua đi bán lại, song phải khai báo để lập sổ địa bạ hay
điền bạ. Tư nhân có thể là cá nhân, là tộc họ, tập thể hay làng xã (bổn thôn điền, bổn
thôn xã).
Bước sang thế kỷ XIX, ruộng tư có xu hướng phát triển và ngày càng có địa vị
thống trị. Ở một số địa phương, ruộng đất công chỉ là một con số nhỏ bé. Điều này có
nhiều nguyên nhân khác nhau.
Nhà nước là chủ sở hữu ruộng đất hoang trong nước và do nhu cầu của xã hội về
lương thực nên các triều đại phong kiến cho đến các địa chủ phong kiến đứng ra khai
hoang. Số ruộng khai hoang được phần lớn trở thành tư điền. Hơn nữa, bọn quan lại
chiếm đoạt ruộng đất công làng xã biến thành ruộng tư.
Đầu thế kỷ XIX, sở hữu tư nhân về ruộng đất ở Quảng Ngãi chiếm vị trí bao trùm.
Theo ghi chép địa bạ của Nguyễn Đình Đầu, ruộng tư ở Quảng Ngãi là 41.040 mẫu,
chiếm tỷ lệ 84,71% [14, tr. 91]. Trong đó, huyện Bình Sơn là 17.182 mẫu chiếm tỷ lệ
86,14%, huyện Chương Nghĩa là 10.122 mẫu chiếm tỷ lệ 87,08% và huyện Mộ Hoa là
13.734 mẫu chiếm tỷ lệ 81,4% [15, tr. 92-93] .
Tuy nhiên, cũng giống như ruộng đất công, sự phân bố ruộng đất tư giữa các
huyện, xã, thôn ở Quảng Ngãi không giống nhau. Những nơi có diện tích ruộng tư lớn:
huyện Bình Sơn có Tổng Trung ruộng tư 9.925 mẫu (87,44%), thuộc Hà Bạc là 1.724
mẫu (90,27%); huyện Chương Nghĩa có Tổng Hạ ruộng tư 749 mẫu (96,65%), thuộc
Đồn Điền là 2.256 mẫu (96,25%) và Tổng Hạ thuộc huyện Mộ Hoa là 1.588 mẫu
(98,52%).
26
Tư hữu là xu hướng phát triển mang tính tất yếu của lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ
XIX và Quảng Ngãi không nằm ngoài quy luật đó. Bên cạnh những nơi có tỷ lệ ruộng
đất công ít ỏi tồn tại ở các vùng trong tỉnh còn có những nơi không còn ruộng đất công,
cụ thể như ở Nội Phủ (huyện Bình Sơn) toàn bộ diện tích ruộng đất là 65 mẫu đều là tư
điền [15, tr. 187]; tương tự thuộc Hà Bạc, thuộc Hoa Châu của huyện Chương Nghĩa
ruộng đất tư chiếm tuyệt đại đa số [15, tr. 187] và huyện Mộ Hoa có thuộc Đồn Điền,
ruộng đất tư là 521 mẫu chiếm tỷ lệ 100% [15, tr. 264].
Nhìn chung, tư hữu hóa ruộng đất là xu thế phát triển của chế độ ruộng đất ở
Quảng Ngãi thế kỷ XIX. Phân hóa và tập trung ruộng đất, dù ở nơi này hay nơi khác
trong tỉnh đã đạt trình độ khá cao. Đó là kết quả của chính sách khai hoang cũng như
quá trình thâu tóm ruộng đất của giới cầm quyền.
2.1.2. Nông nghiệp
2.1.2.1. Khai hoang
Cũng giống như các triều đại phong kiến khác, từ khi nhà Nguyễn lên cầm quyền
đã luôn chú trọng đến công tác khai khẩn ruộng đất bỏ hoang.Suốt trong thời gian 1802
– 1885 vấn đề khai hoang thường xuyên được triều đình đưa ra bàn bạc với những hình
thức và biện pháp cụ thể.Mục đích chủ yếu của chính sách khai hoang dưới triều
Nguyễn là nhằm giải quyết nạn nông dân lưu tán, nguồn gốc của những cuộc khởi
nghĩa nông dân.Đồng thời nó còn bao hàm cả ý nghĩa về mặt quân sự.Thế kỷ XIX, nạn
nông dân xiêu tán ngày càng trở nên phổ biến.Chính vì vậy mà ruộng đất bỏ hoang
ngày càng nhiều.Bên cạnh đó, bọn quan lại, cường hào lại cướp đoạt ruộng đất của
nông dân, khiến cho họ không có tư liệu để sản xuất nên nạn đói thường xuyên xảy ra,
đe dọa cuộc sống của người nông dân.Để giảm bớt phần nào mâu thuẫn giữa triều đình
với nhân dân, mà chủ yếu là nông dân buộc nhà nước phong kiến phải tìm mọi cách để
mở rộng diện tích đất canh tác.
Năm Minh Mạng thứ 19 (1838) dụ rằng:
27
Nay Nam, Nghĩa, Bình, Trị bốn tỉnh đã đệ trù sách về, ta xem kỹ thì bọn
Lê Văn Giảng 26 tên, từ các tỉnh giải về Thừa Thiên tha xiềng cùm cho lên sở
khai khẩn ở Tả Trạch. Nguyên mở mang làm ruộng, đó là gia ân cho được an
toàn sinh mạng, nếu còn nhác nhớn, thì trọng trị, nếu trốn tránh bắt được thì
xử tử không tha [74: MM, 56, tr. 153].
Vấn đề khai hoang giữ một vị trí quan trọng trong chính sách nông nghiệp của nhà
Nguyễn. Đứng về mặt quyền lợi bản thân, nhà nước phong kiến đẩy mạnh hoạt động
khai hoang là nhằm thỏa mãn nhu cầu xa xỉ của triều đình. Hơn nữa, triều đình không
thể làm ngơ trước hiện tượng nông dân bị cướp đoạt ruộng đất, bị nạn đói luôn luôn đe
dọa.Vì thế mà nhà nước phải tích cực khai khẩn ruộng đất bỏ hoang để mở rộng diện
tích canh tác. Mặt khác để tăng thêm nguồn thu nhập cho nhà nước, tập trung ruộng đất
vào tay mình cũng như giải quyết những vấn đề xã hội, an ninh, quốc phòng. Để
khuyến khích nhân dân tự động khai hoang đạt kết quả tốt, nhà Nguyễn đã có nhiều
hình thức thưởng phạt đối với những người khai hoang và cai mộ. Lệ thưởng phạt cho
người khai hoang rất lớn. Năm 1841, vua Thiệu Trị định lệ thưởng 20 quan tiền cho ai
mộ được 5 suất đinh, khai khẩn được 50 mẫu ruộng đất trở lên, thưởng 40 quan tiền
cho ai mộ được 10 suất đinh, khai khẩn được 100 mẫu ruộng đất hoang trở lên, thưởng
60 quan tiền cho ai mộ được 15 suất đinh, khai khẩn được 150 mẫu ruộng đất hoang trở
lên [58, tr. 180].
Cùng với khai hoang, việc phục hóa tận dụng những vùng đất ven sông, đồi núi
chưa canh tác trồng trọt đã được thực hiện một cách rộng khắp trong cả nước và ở
Quảng Ngãi là một ví dụ.
Tháng 5 năm Minh Mạng thứ 12 (1831) nhà vua định lệ xét phủ, huyện
khuyên dân trồng cây suốt trong cả nước, bên đường, bên bờ, bên sông, bờ
khe, rừng núi, phàm nơi nào bỏ hoang, cho phép ai mà khai khẩn trước, hạn
trong ba năm coi số nhiều hay ít, công siêng hay nhác tâu lên nhà vua. Nếu
28
đã đến ba năm mà đất còn bỏ hoang nhiều thời hạn tham nghỉ phạt, để phân
biệt kẻ siêng người nhác [52, tr. 200].
Thế kỷ XIX công cuộc khẩn hoang của triều Nguyễn phát triển khá mạnh so với
các thế kỷ trước.Theo thống kê của Bộ Hộ thì số công tư điền thổ năm Gia Long thứ 18
(1819) ở Quảng Ngãi hơn 60.000 mẫu [53, tr. 1001]. Theo sách Đại Nam Nhất Thống
Chí được viết vào thời Tự Đức thì số điền thổ toàn quốc là 4.617.343 mẫu ruộng đất
công tư. Trong đó ở Quảng Ngãi có hơn 50.934 mẫu, các thành quả kể trên cũng là một
thành công lớn của sự kết hợp giữa nhà nước và nhân dân. Tuy nhiên, đến thời Tự Đức
chính quyền phong kiến đã có những biểu hiện thoái hóa, nhân dân lại nổi lên chống
đối triều đình, nạn nông dân lưu tán lại xảy ra nên số lượng ruộng đất bỏ hoang lại
nhiều thêm. Tình hình đó đã làm cho đời sống của người nông dân không được cải
thiện.
2.1.2.2. Thủy lợi
Trong sản xuất nông nghiệp, ông cha ta đã đúc kết “nhất nước, nhì phân, tam cần,
tứ giống”. Gắn liền với nông nghiệp là thủy lợi. Từ khi tỉnh Quảng Ngãi được thành
lập, nhờ vào bộ máy chính quyền tương đối mạnh và ổn định, huy động được sức dân,
hệ thống thủy lợi ở Quảng Ngãi có sự phát triển đáng kể. Nhiều sông đào, hồ đập, kênh
dẫn nước được xây dựng từ nguồn đầu tư của nhà nước và sự đống góp của nhân dân
như kênh Vĩnh Lợi ở Mộ Đức, đập An Sơn ở Tư Nghĩa, đập Bầu Cá ở Sơn Tịnh…Đặc
biệt là hệ thống guồng xe lấy nước trên sông Trà Khúc và sông Vệ xây dựng bằng
nguồn nhân lực trong dân, nhưng sự chăm lo của nhà nước bằng các chính sách ưu đãi
về thuế, huy động nhân lực để bảo dưỡng, duy tu nên đã đáp ứng được nhu cầu cấp
nước cho một diện tích đồng ruộng đáng kể.
Một trong những kỳ tích trong công tác thủy lợi ở Quảng Ngãi là việc đặt các bờ
xe nước trên sông Trà Khúc và sông Vệ. Mỗi bờ xe nước có từ 3 đến 10 bánh rất lớn
xếp thành hàng, quay liên tục trên sông để tưới nước cho các cánh đồng hai bên bờ
29
sông Vệ và sông Trà Khúc. Chính ở làng Bồ Đề (huyện Mộ Đức) trên sông Vệ đã tìm
thấy những guồng nước đầu tiên ở Quảng Ngãi.
Dưới thời Nguyễn, các guồng xe nước ở Quảng Ngãi vẫn tiếp tục mở rộng phát
triển, thời Minh Mạng (1835) các guồng nước mới được lắp đặt trên sông Trà Khúc.
Để tạo điều kiện cho các guồng xe nước được dựng đặt, phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, các vua Nguyễn có chính sách ưu đãi như 1874 vua Tự Đức đã quy định
cho làng Bồ Đề được vay 500 quan kẽm để dựng đặt xe nước. Trước đó, năm 1870
quan bố chánh Quảng Ngãi là Nguyễn Thông dâng sớ tâu xin vua cho Bồ Đề, Năng
An và các làng lân cận được miễn thuế “biệt nạp” 80 quan đánh vào bờ xe nước. Sớ tâu
như sau: “Lại xét rằng hạt của thần thuế biệt nạp chỉ có ở thôn Đông Dương – xã Văn
Lâm, Long Phụng, thôn Phước Lộc – xã Bồ Đề, xã Năng An phải nộp thuế guồng nước
đồng viên hơn 80 quan. Song nghề nông không cần gì bằng nước, việc đắp đập khơi
ngòi là làm lợi cho dân dù tiêu tốn công quy triều đình cũng không tiêc, huống chi kẻ
tiểu nhân tự lo lấy mà lại theo bắt nộp thuế sao?” [?]Vua Tự Đức cho miễn thuế.
Từ xa xưa, người dân Quảng Ngãi đã biết đắp đập để ngăn mặn, giữ ngọt, đào kênh
lấy nước tưới cho đồng ruộng. Đào sông là việc trọng đại nên sông đào không nhiều,
nhưng việc đào kênh, đắp đập là việc vừa tầm của các làng xã, lại là việc bức bách của
vùng đồng bằng Quảng Ngãi có thế đất cao thấp khác nhau.
Kênh Vĩnh Lợi còn có tên gọi khác là Đồng Giang, chảy qua các xã Đồng Giang,
Hào Môn, Hải Châu, Vạn An, Tân Quan và Thái Bình, rồi rẽ vào phía đông sau lại đổ
vào sông Vệ. Lòng sông quanh co bể hẹp, lâu ngày bị lấp, hóa thành đất bằng, nhà
nông gặp nhiều khó khăn.
Năm Tân Mùi, niên hiệu Tự Đức (1871), nghị định theo lòng kinh cũ khai khẩn
dẫn nước vào tưới ruộng để giúp dân cày. Phái viên của triều đình hội đồng với tri phủ
Tư Nghĩa là Trần Dự đo khối đất, thuê nhân công, đang làm dở thì bị khiển trách bỏ
chức, công việc hầu phải xếp lại. Rồi quan Đại Tư không Thượng thư Bộ Công là
30
Nguyễn Văn Bính (người Bắc Ninh) tâu xin cho ông trở lại trông coi việc đào kinh cho
hoàn thành…đến năm Nhâm Thân (1872) thì hoàn thành, trên kênh có đặt xe nước [69,
tr. 238].
Một trong những công trình thủy lợi đáng chú ý được xây dựng tại Quảng Ngãi là
đập Ông Cá, sau gọi là đập Đinh Gia. Đập do trung phò họ Nguyễn chủ trì xây dựng
vào đời Lê Cảnh Hưng, tại làng Trà Bình Trại, huyện Bình Sơn (nay thuộc xã Tịnh
Trà, huyện Sơn Tịnh). Sau này ông Đinh Duy Tự (1807-1888) người làng Trà Bình
Trại, đã từng làm quan đời vua Thiệu Trị, giữ chức Cung trung giáo tập tại cung đình
Huế, lúc 50 tuổi (1856) ông về hưu tại quê nhà và chịu trách nhiệm đứng ra tổ chức
dân làng đắp lại đập này. Trong bài “Đinh Gia yển ký” tác giả Nguyễn Thông có chép:
“Cụ Đinh chịu trách nhiệm xem địa hình, thủy thổ mở ra một dòng kênh lớn vòng
quanh ba thôn Thạch Đông, Thạch Nội, Ngọc Trì. Dựa theo dấu vết của đập cũ của
ngài trung phò hầu mà tu sửa lại. Bên mé bờ đập đục đá để làm mương phóng thủy,
chảy xuống lại tổng Bình Trung và Bình Hạ. các cụ phụ lão đôn đốc con cháu đi đắp
đập này, chỉ trong vòng 4 tháng là xong. Từ thu sang đông mưa nguồn đột nhiên đổ về,
đập không hề bị sạt lở. Ruộng nương ba thôn được tắm đầy đủ.Những loại như hoa
sen, bèo, ốc, hến, cua đem lại cho dân trong vùng một nguồn lợi lớn” [69, tr. 240-241].
Trong công cuộc trị thủy và thủy lợi ở Quảng Ngãi, dù là những công trình của nhà
nước hay của huyện, của xã thì người dân bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng đầu
tiên. Nhà nước và nhân dân cùng hợp sức, trong đó nổi bật hơn hết là tính chủ động và
đoàn kết của nhân dân địa phương.Họ nhận thức được rằng việc xây dựng hệ thống
thủy lợi tốt thực sự mang lại lợi ích cho nghề nông, thuận lợi cho việc đi lại sản xuất,
buôn bán giữa các làng.Hơn thế nưa giao thương được thong suốt, góp phần đẩy mạnh
kinh tế nông nghiệp phát triển. Mùa màng tốt tươi, phố chợ sầm uất. Điều đó có tác
dụng không nhỏ đến tình hình kinh tế cũng như chính trị, xã hội của vùng đất này.
2.1.2.3. Canh tác
31
Quảng Ngãi là một tỉnh nhỏ ở miền Trung, điều kiện khí hậu, thời tiết, địa hình, kể
cả điều kiện sản xuất thô sơ, mà sản xuất ở Quảng Ngãi vẫn khó phát triển. Để có thể
sinh tồn, người dân Quảng Ngãi đã phải chịu đựng cảnh thiếu thốn, lao động hết sức
cực nhọc. Quanh năm, suốt tháng hết lúa đến khoai, hết khoai đến mía, hết mía đến
bắp, trừ những trường hợp bất khả kháng như lụt bão, hạn hán, không khi nào người
dân chịu để đất nghỉ. Do địa hình có đồng bằng, gò đồi xen kẽ nên nhiều khi trên cùng
một vùng mà nơi này gặt lúa, đầu kia cày ruộng, đằng trước phạt mía, đằng sau cuốc
đất. Nhà nông chăm lo trồng tỉa nhưng do đất xấu nên hàng năm thu hoạch không được
bao nhiêu, thường dùng khoai, đậu trộn lẫn vào cơm gạo mới đủ ăn.
Sản phẩm chính của nông nghiệp Quảng Ngãi trong thời kỳ này là lúa, mía và các
loại cây trồng khác như: mì, khoai lang, đậu phụng, dâu tằm,…
Ruộng thì có các loại: ruộng một vụ, hai vụ lúa, cũng có một ít ruộng ba vụ. Các
giống lúa trong thời kỳ này chủ yếu là ba trăng, trì trì, tàu núp, chiêm ngự, bát nguyệt.
Đây là những giống lúa địa phương có từ xa xưa, thích hợp với điều kiện tự nhiên của
nhiều vùng. Ngoài ra còn có các giống lúa như xâu chuỗi, lúa vung, lúa tiễn, lúa cự, lúa
cúc, lúa bông rinh. Các loại lúa này thường gieo trên các nương rẫy ở miền núi [71, tr.
306].
Tùy theo địa hình và nguồn nước tưới mà cây lúa ở đồng bằng thường cấy vào
nhiều vụ khác nhau trong năm. Thường thì tháng 2 gieo mạ cây lúa bát nguyệt, tháng 8
cấy lúa tàu núp, tháng 10 cấy lúa ba trăng, bông rinh, tháng 12 cấy lúa trì trì. Ở miền
núi, người Hrê biết trồng lúa nước, biết làm các đập bổi để lấy nước`tưới cho
lúa.Người Ca dong và người Cor làm nương rẫy là chủ yếu.Thường thì đầu tháng 6 dọn
nương, đốt rẫy chờ mưa giông tới trồng lúa, bắp [71, tr. 306].
Bên cạnh cây lúa, cây mía dân dần phát triển và trở thành cây trồng đặc chủng
truyền thống của Quảng Ngãi. Ngay từ thời nhà Nguyễn, triều đình có lệ hàng năm đặt
mua đường cát ở Quảng Ngãi. Điều đó cho thấy nghề trồng mía, làm đường ở Quảng
32
Ngãi thuộc loại bậc nhất trong nước thời bấy giờ. Chẳng hạn, năm 1822 Nguyễn Văn
Hưng trấn thủ Quảng Ngãi tâu: “Chúng ta đã mua được 100 tạ mật mía, giá mỗi tạ 2
quan, đựng vào 2515 chum, cho 13 chiếc thuyền chở ra kinh phụng nạp” [74: MM, 69,
tr. 226].
Nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển ở vùng bãi bồi ven các sông lớn như Trà Khúc,
Phước Giang, Sông Vệ. Từ tháng Giêng đến tháng 9, tháng nào cũng nuôi tằm được.
Tuy nhiên, vào mùa đông trời rét, lá dâu vàng rụng nên việc nuôi tằm thưa thớt. Năm
1833, tuần phủ Quảng Nam – Quảng Ngãi là Đỗ Khắc Thư tâu báo: “Nuôi tằm, ươm
thành tơ được hơn 100 cân, đem dâng”[55, tr. 889].
2.2. Thủ công nghiệp
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển
Nghề thủ công ở Quảng Ngãi đã hình thành, tồn tại và phát triển khá sớm. Dưới
thời vương quốc Chămpa, nghề khảm xà cừ đã khởi sắc. Lê Quý Đôn trong Phủ biên
tạp lục: “Tại các nước Chiêm Thành, Cao Miên, những cái bàn, cái hộp đã được khảm
xà cừ, người ta lại đem khảm thêm thủy tinh nhỏ hình vuông vào, làm cho sắc xanh và
sắc biết xà cừ lại nổi bật lên” [18, tr. 403].
Các nghề thủ công của người Việt ở Quảng Ngãi đã hình thành cùng lúc với sự di
cư của người Việt đến mảnh đất này, khoảng cuối thế kỷ XV dưới thời nhà Lê. Đến
thời chúa Nguyễn nghề thủ công càng phát triển, trong đó nghề dệt vải và dệt lụa ở
Quảng Ngãi đã có tiếng vang nhất định: “Về phủ Quảng Nghĩa thì có xã Long Phụng
thuộc huyện Mộ Hoa theo lệ phải nộp thuế lụa là 2 tấm 7 thước 5 tấc 8 phân và được
nộp tiền thay thế là 11 quan 2 tiền 3 đồng” [18, tr. 405]. Xã Thanh Hiếu thuộc huyện
Mộ Hoa, cũng theo tỷ lệ phải nộp 1170 tấn vải trắng để thay thế việc nộp sưu và bắt
lính [18, tr. 407]. Đặc biệt là nghề nấu rượu và nghề làm mật đỏ ở Quảng Ngãi thời kỳ
này rất phát triển. Phủ biên tạp lục chép: “Xã Thanh Hiếu thuộc huyện Mộ Hoa hằng
năm phải nộp cho Ty lệnh sử 5 chỉnh rượu; thôn Nghĩa Lập thuộc huyện Chương
33
Nghĩa hằng năm phải nộp 2.753 chỉnh, mật đỏ để khấu trừ các khoản tiền phải nộp và
730 chỉnh mật ấy để thế số thuế tô ruộng. Ngoài ra, thôn ấy còn phải nộp cho quan Cai
trường 20 chỉnh mật ong đỏ nữa”[18, tr.425-426].
Nghề thủ công ở Quảng Ngãi hầu hết đều có nguồn gốc từ những nông dân miền
Bắc di cư vào Nam trong các thế kỷ XV, XVI và một bộ phận nhỏ từ người Hoa truyền
vào như nghề làm kẹo gương, nghề làm nhang; người Chăm truyền lại như nghề đóng
thuyền, đan lưới. Từ vùng Thanh – Nghệ - Tĩnh, người dan vào khai phá mở rộng vùng
đất Quảng Ngãi mang theo một số nghề thủ công như nghề mộc, dệt chiếu, làm nón,
đan lát, đúc đồng, làm gốm, chế tác sừng… đã kết hợp và phát triển các nghề đã có từ
trước (thời văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chăm) trên vùng đất này, tạo nên các nghề
mang tính đặc thù của vùng đất xứ Quảng như gốm, đúc đồng, mía đường, mạch nha,
kẹo gương, chế tác đá, nuôi tằm, dệt vải, làm mắm, luyện sắt, sự kết hợp hài hòa và
quyện lẫn các nghề vào nhau mang tính chất đa tuyến này đã làm cho nghề thủ công ở
Quảng Ngãi trở nên phong phú, đa dạng, phù hợp với điều kiện yêu cầu ở địa phương,
làm giàu thêm đặc trưng bản sắc văn hóa một vùng kinh tế.
Làng nghề thủ công cổ truyền tiêu biểu đã tồn tại và phát triển trên đất Quảng Ngãi
hết sức đa dạng như: làng gốm (Mỹ Thiện, Bồ Đề, Thanh Hiếu, Chí Trung), xóm đan
(Tịnh Hà, Hành Đức), xóm chiếu (Thu Xà), làng đúc (Chú Tượng), xóm rèn (Tịnh Hà,
Tịnh Minh)…Cơ cấu của các làng nghề này được tổ chức khá chặt chẽ, các thành viên
trong làng đều được tôn trọng, nâng đỡ và bảo vệ quyền lợi, người ta truyền đạt cho
nhau những kinh nghiệm để làm ra sản phẩm được tốt hơn, ít có hiện tượng giấu nghề.
Hầu hết các làng nghề đều có một tổ nghề, người có công đầu tiên khai sinh nghề và
truyền lại cho các thế hệ sau. Các nghề đều có ngày giỗ tổ nghề hàng năm, việc cúng
giỗ đều thống nhất một ngày và tự bản thân gia đình hành nghề lo cúng.
2.2.2. Các làng nghề tiêu biểu
2.2.2.1. Nghề làm gốm
34
Trên vùng đất Quảng Ngãi, nghề gốm đã có từ lâu đời, sản phẩm của nó gắn liền
với sinh hoạt hàng ngày của con người thuở xa xưa. Vào thời tiền sử, cư dân văn hóa
Sa Huỳnh đã sản xuất đồ gốm với nhiều kiểu dáng đẹp, phong phú về loại hình, đường
nét hoa văn sắc sảo, họa tiết trang trí công phu, đa dạng, đạt trình độ cao cả về kỹ thuật
và tạo dáng. Đồ gốm sản xuất vào thời kỳ này bao gồm các loại: nồi, bát bồng, bình cổ
cao, vò gốm tang người chết, đồ minh khí…Vào giai đoạn văn hóa Chămpa, đồ gốm có
độ nung cao hơn, có loại nung thành sành, kỹ thuật tráng men nâu, men xanh ngọc,
men vàng khá phổ biến trên các đồ dùng sinh hoạt như chén, đĩa, nồi, vò.
Tuy nhiên, đến thế kỷ XVI, XVII nghề gốm ở Quảng Ngãi mới phát triển mạnh,
song song với quá trình định cư của người Việt từ Bắc vào. Theo Quảng Ngãi tỉnh chí
của Nguyễn Bá Trác, toàn tỉnh Quảng Ngãi có các lò gốm ở Mỹ Thiện (huyện Bình
Sơn), Đông Thành, Đại Lộc (huyện Sơn Tịnh), Thanh Hiếu, Chí Trung (huyện Đức
phổ), Bồ Đề (huyện Mộ Đức). Những làng gốm này sản xuất các loại đồ dùng như vò,
hũ, nồi, trả, vại, chậu với nhiều kiểu dáng đẹp [66, tr. 114].
Trong các làng gốm ở Quảng Ngãi thì làng gốm ở Mỹ Thiện có nghề làm đồ gốm
phát triển nhất.Nơi đây đã sản xuất được những đồ gốm có tráng men từ thế kỷ XIX.
Làng gốm Mỹ Thiện nay thuộc địa phận thị trấn Châu Ơ, huyện Bình Sơn, nằm trên
đường thiên lý Bắc – Nam (nay là Quốc lộ 1) cho nên việc buôn bán giao thương rất
thuận lợi. Mặt khác, làng gốm lại nằm ven sông Trà Bồng, sản phẩm xuất ra khỏi lò
được vận chuyển đi nơi khác rất dễ dàng bằng đường sông, xuôi dòng ra cửa Sa Cần,
hay ngược nguồn đến các làng miền núi. Xưa kia, gốm Mỹ Thiện (dân gian gọi là gốm
Châu Ổ) đã có mặt khắp nơi trong tỉnh, ở các tỉnh lân cận như Quảng Nam, Đà Nẵng,
bắc Bình Định, Tây Nguyên. Các sản phẩm vò, chum, chậu kiểng tráng men giả cổ Mỹ
Thiện đã có khá nhiều ở thị trường. Hàng năm, vào ngày mùng 9 tháng Giêng (Âm
lịch), khi bắt đầu khởi công hành nghề, cùng một lúc các lò tổ chức cúng tổ nghề theo
hình thức cúng riêng rẽ. Mỗi lò (gọi là khẩu lò) gồm các thợ lò và bạn lò đứng ra cúng
theo trình tự cúng thần, cúng cô hồn rồi đến cúng tổ nghề [82].
35
Sản phẩm gốm xuất lò có các loại: chum lớn loại 100 lít, ghè loại 60 lít, ché rượu
cần, chậu kiểng, thạp, hũ, bùng binh (hũ đựng tiền tiết kiệm), bình hoa, nồi, ấm chè, cối
tiêu…Ngoài gốm thông thường, làng gốm Mỹ Thiện còn sản xuất các loại gốm tráng
men. Men sử dụng để tráng có các loại men nâu đen, men vàng và men nâu sành.Men
được chế tạo từ đồng, chì, đá son. Các chất này thường được pha trộn, nếu muốn màu
vàng thì loại bỏ đồng, màu men nâu thì tăng hàm lượng chì.
2.2.2.2. Nghề đúc đồng
Giai thoại về chuông thần ở chùa Thiên Ấn có nói đến chiếc chuông lớn ở chùa này
xuất hiện vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826) hoặc có thể sớm hơn [76, tr. 93]. Bên cạnh
tính chất huyền thoại của câu chuyện, một sự thật hàm chứa trong đó mà ta có thể rút
ra: tác giả của chiếc chuông lớn nổi tiếng này không ai khác hơn là những người thợ
đúc, những nghệ nhân tài hoa của làng Chú Tượng, thuộc xã Đức Hiệp, huyện Mộ
Đức. Phần ghi chú về Quảng Ngãi trong tập L’
Annam en 1906 đẽ chép: “Ở làng này
(tức Chú Tượng) người ta làm ra các đồ đồng khá to lớn, vì vậy quả chuông lớn ở chùa
Thiên Ấn cao gần 1m và đường kính 0.5m đã được đúc ở Chú Tượng” [71, tr. 382]
Sản phẩm của nghề đúc đồng ở Chú Tượng xưa rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã,
hình dạng. Thời ấy chưa có đồ gia dụng bằng nhôm hay đồ nhựa như sau này nên sản
phẩm đúc đồng ở đây đã cho ra các loại hàng phục vụ ăn uống, sinh hoạt như các loại
nồi (từ nồi 1 đến nồi 7), nồi bung, các loại muỗng (ăn cơm), bình rượu, khuôn bánh
thuẫn, mâm trệt, mâm quỳ (để dọn cơm, nhồi bột bánh), các loại thau chậu, ống nhổ
nước cốt trầu, ơi trầu. Về đồ thờ phổ biến có đèn thờ, lư hương, chuông chùa lớn và
chuông nhỏ tụng kinh, tượng phật…Về công cụ sản xuất thì có đúc khuôn làm ngói,
đúc hoa văn trang trí, khuy cho bàn, tủ…Về khí cụ nghệ thuật thì đúc chiêng, cồng
(cho vùng cao). Theo bài vè thợ đúc còn lưu truyền, có thể làng Chú Tượng xưa kia
còn đúc đạn, đúc súng,…là các loại vũ khí chiến đấu. Tùy theo tính chất của đồ dùng
và khiếu thẩm mỹ của từng nghệ nhân mà sản phẩm đúc Chú Tượng có nhiều hình
dạng và mẫu mã khác nhau như đèn thờ có các loại đèn lùn, đèn cao, lư hương thì có
36
thể tạo dáng và ngăn vạch thẳng quanh thân, cũng có thể đắp thêm hình long ly quy
phượng. Các sản phẩm đúc đồng ở Chú Tượng đã chứng tỏ người thợ ở đây có tay
nghề rất cao, tập trung nhất ở các loại chuông đồng.
Quy trình công nghệ của nghề đúc là quy trình thủ công, có thể nói tóm tắt với các
công đoạn chính là: nặn đất sét làm khuôn đúc, nấu chảy đồng, đổ vào khuôn rồi làm
nguội.
Chính nhu cầu của xã hội và trình độ tay nghề của nghệ nhân thời đó mà sản phẩm
đồ đồng Chú Tượng đã mang tính chất hàng hóa. Các sản phẩm của làng Chú Tượng
đã bán đi khắp trong và ngoài tỉnh.Các sản phẩm đúc như nồi, đặc biệt là chiêng, cồng
còn được đúc ra để bán lên miền ngược. Làng Chú Tượng gần sông Thoa và sông Vệ,
rất thuận tiện để giao thông xuôi ngược. Thung lũng sộng Vệ là một trong những cửa
ngõ chính trong tỉnh, có thể đi lại bằng đường sông lẫn đường bộ, để buôn bán giữa
người kinh và người Thượng. Điều này dẫn đến hệ quả, các sản phẩm đúc đồng ở làng
Chú Tượng hầu như có mặt ở mọi vùng trong tỉnh và cũng được khách buôn các tỉnh
lân cận mua về. Các nghệ nhân, thợ đúc làng Chú Tượng còn hành nghề đúc ở các tỉnh
bạn và kinh thành Huế.
Nghề đúc ở Quảng Ngãi có nguồn gốc lâu đời và hết sức phát triển, đã hình thành
các làng đúc chuyên nghiệp, tiêu biểu là làng Chú Tượng. Nghề đúc đồng đã đem lại
đời sống sung túc cho nhân dân làng Chú Tượng. Người dân làng Chú Tượng rất tự
hào về điều ày, nên đã có một bài vè dân gian, trong đó có câu: “Thợ đúc, thợ đúc,
trong nhà phú túc” [67, tr. 90].
2.2.2.3. Nghề dệt chiếu
Chiếu là loại đồ dùng sinh hoạt thông thường luôn gắn bó và không thể thiếu được
với con người và “Trong tất cả nhà cửa của Đàng Trong, dù nghèo nàn đến đâu đi nữa,
người ta cũng giữ ba cách ngồi.Cách thứ nhất, kém hơn cả là ngồi trên chiếu trải trên
đất phẳng và đó là cách ngồi của kẻ cùng cấp bậc. Cách thứ hai là ngồi trên thứ ty bố
37
hay dây da căng thẳng có trải chiếu nhỏ và mịn hơn dành cho người đáng quý hơn…”
[7, tr. 52].
Nghề dệt chiếu ở Quảng Ngãi có từ lâu đời. Nghề này đã theo chân những người
nông dân Thanh Hóa vào vùng đất xứ Quảng từ thế kỷ XV. Tuy nhiên, sự quần tụ để
hình thành làng sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng lại diễn ra vào khoảng
thời gian tiếp theo. Địa bàn có làng nghề dệt chiếu là vùng ven biển Quảng Ngãi, như
các làng Thu Xà, Phú Thọ (xã Nghĩa Hòa, Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa), Cổ Lũy (xã
Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh), các làng phía đông nằm ven biển các huyện Đức Phổ,
Bình Sơn. Nơi đâu có con người canh tác và làm được nguyên liệu cho nghề, đó là cây
cói. Cói là loại cây thảo, mọc ở vùng đất trũng thấp dọc ven biển, loại cây này có bộ rễ
phát triển mạnh, mọc um tùm, thân dài vươn cao. Khi cây cói có chiều cao từ 1 – 1,4m,
người ta bắt đầu thu hoạch đem về nhà chẻ ra phơi khô thành sợi. Nếu chiếu có nhiều
màu thì sợi cói phải trải qua công đoạn nhuộm với các màu xanh, đỏ, nâu, vàng…
Sau khi chuẩn bị xong nguyên liệu, người thợ còn tiến hành dựng khung dệt.
Khung dệt chiếu cấu tạo gồm các bộ phận: trục, con ngựa, trân, khổ. Sản phẩm chiếu
đa dạng, gồm các loại chiếu đơn, mỏng, dệt đơn giản; chiếu nhiều màu dệt công
phu.Tấm chiếu khi nhuộm phải lựa chọn các màu sắc hài hòa.Chiếu nhiều màu thường
dày, phải dệt bằng loại “khổ” khác. Chiếu đơn thường có kích thước từ 0,8-1,2m (chiều
ngang), chiếu đôi nhiều màu có kích thước từ 1,2-1,6m (chiều ngang) [67, tr. 70].
Để in hình lên chiếu, người thợ dùng khuôn in trổ, đúc bằng đồng chạm thủng, mô
tả các hình hoa lá, đường viền, hình con vật…
Ở làng chiếu Thu Xà, các sản phẩm vừa được bày bán tại Thu Xà, vừa được các
thương nhân thu mua và đem đi tiêu thụ ở nhiều nơi, nhất là các tỉnh phía nam, rất
được người tiêu dùng ưa chuộng.
2.2.2.4. Nghề làm kẹo gương
38
Trong dân gian Quảng Ngãi có câu: “Kẹo gương Thu Xà, Mạch nha Thi Phổ”. Đó
là những câu nói trong việc giới thiệu đặc sản quê hương của người Quảng Ngãi. Kẹo
gương có nguồn gốc từ Thu Xà: “Cách đây vài trăm năm, trên bước đường phiêu dạt,
mưu sinh một số Hoa kiều vùng Quảng Đông bị gió tấp vào Quảng Ngãi. Đường về cố
quốc thì muôn trùng cách trở và qua tìm hiểu thấy đây là xứ sở của mía đường, dân
hiền hòa, sẵn lòng cưu mang đùm bọc, lại thuận bề sông nước, họ bèn dựng nhà định
cư, làm kẹo gương lập nghiệp…” [75, tr. 52].
Thu Xà là nơi cư trú của người Minh Hương gốc Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải
Nam, Triều Châu vào định cư nơi đây vào khoảng cuối thế kỷ XVII, bước sang đầu thế
kỷ XVIII. Những người Quảng Đông định cư mang theo nghề làm kẹo gương. Theo
tiếng Quảng Đông, kẹo gương gọi là “pôly thừng”, có nghĩa là loại kẹo đẹp và trong
suốt như gương.
Nguyên liệu sản xuất kẹo gương là đường bạch hoặc đường kết tinh, bên cạnh đó
còn có các nguyên liệu phụ như mè, đậu phộng, mỡ heo, chanh, trứng gà.Dụng cụ chế
biến kẹo gương gồm xoong, chảo nấu, dao cắt và vá đánh cho đường thành kẹo.Quy
trình sản xuất của kẹo gương phải qua nhiều công đoạn.Người thợ cho đường vào
chảo, đổ nước đun sôi để đường hòa tan, rồi cho vào chảo nước trứng gà để vớt bỏ
những tạp chất trong đường và nấu cho đến khi nước đường chuyển thành màu trong
suốt thì ngừng lại.Người thợ múc cho vào thùng chứa lớn để nấu dần. Giai đoạn tiếp
theo là chế biến kẹo gương. Người thợ lấy một xoong đồng đổ nước đường vào, đun
vừa lửa, lấy vá sên đường trở thành chất đặc, trong giai đoạn này cho nước chanh vào.
Sau đó người thợ đổ đường sang chảo khác, ở chảo này mạch nha và mỡ heo được cho
vào, khuấy đều để khỏi bị sít cháy, khoảng chừng 2 giờ sau, bằng trực giác cảm nhận
thấy nước đường “tới”, người ta bê chảo ra khỏi lò. Bấy giờ người thợ đổ vào chảo
đậu phộng rang bóc vỏ sẵn. Mè được rải đều lên trên bàn gỗ hoặc tấm nhôm
dày.Đường từ xoong đổ ra, rồi trải đều lên bàn gỗ đã được rắc mè sẵn, người thợ dùng
dao xén thành miếng vuông vức.
39
Nếu không có nghề gia truyền thì về kỹ thuật chế biến, kẹo gương khó đạt chất
lượng cao. Chẳng hạn, kỹ thuật rang mè, đậu phộng sao cho vừa chín tới. Nhiệt độ để
đường chín tới thành kẹo phải xác định chính xác thì mới cho ra sản phẩm kẹo gương
hoàn hảo, đạt tiêu chuẩn: trắng, trong, giòn và thơm. Kẹo gương trên thị trường rất
được khách hàng mến mộ và ưu ái bởi giá cả phải chăng, kẹo hợp vệ sinh, tính thẩm
mỹ cao và thơm ngon.
2.2.2.5. Nghề làm đường muỗng
Quảng Ngãi là xứ sở của mía đường. Trồng mía và chế biến đường từ mía là một
bộ phận quan trọng của nghề nông gắn kết với tiểu thủ công nghiệp.Đường muỗng là
loại đường cô đặc từ nước ép ra từ cây mía (gọi là nấu đường) và cho kết tủa trong các
muỗng (hay muống) bằng đất nung hình chõ. Người địa phương có thói quen nhắc đến
những loại đường muỗng gắn liền với địa điểm sản xuất ra nó, ví dụ: đường Suối Bùn
(huyện Nghĩa Hành), đường Bình Mỹ (huyện Bình Sơn), đường Trà Bình (huyện Trà
Bồng), đường Thọ Lộc (huyện Sơn Tịnh),…
Ba khâu quan trọng của nghề làm đường muỗng là ép mía, nấu đường và ra
muỗng. Tương ứng với ba khâu là ba “bộ” dụng cụ: che, chảo và các thùng long, bộ
lọc, vợt, muỗng.
Quy trình làm đường muỗng truyền thống bao gồm các bước:
Ép mía: Mía được róc sạch, đưa vào che ép (qua 3 lần), bã đem phơi khô để làm
chất đốt, nước mía gọi là chè, dùng lường đưa nước mía vào chảo.
Thắng đường: Thắng đường là cô đặc nước mía thành đường sacoroza, chủ yếu
gồm hai giai đoạn và phần hậu kỳ.
Giai đoạn 1: Đun nước mía sôi lần thứ nhất trong chảo, bỏ một ít vôi vào lần thứ
nhất, vớt bọt. Khi sôi lên long nước “chè một”. Chè trong long dùng một chổi bằng rạ
40
đánh cho chạy vòng theo kim đồng hồ rồi để một thời gian cho đất, cáu lắng xuống
đáy. Nước mía lúc này gọi là “chè hai”.
Giai đoạn 2: Cho “chè hai” xuống lại chảo cô đặc thành mật. Khi mật dẻo và dỡ
gáo chè lên thấy ở đáy mật quánh và rơi xuống theo hình cánh dơi. Ăn thử thấy dính
rang là có thể đưa ra muỗng. Ở giai đoạn này, người ta thêm vôi, dầu phụng nhiều ít
tùy theo chất đất trồng mía, thời tiết, mía non hay đã đúng kỳ. Đường có “ra cát” (kết
tinh) hay không là tùy theo cách “xử lý kỹ thuật” ở giai đoạn này. Quá lửa, đường khét,
non lửa, “yếu cát”… Tất cả đều phụ thuộc vào kinh nghiệm của người nấu đường.
Ra muỗng: Mật đường đã được đưa ra muỗng, người thợ để cho đường mật nguội
dần và kết tủa; trong lúc đó thỉnh thoảng có những tác động phụ thúc đẩy quá trình kết
tủa, làm cho hạt tinh thể lớn, kết tinh đều. Khi đổ đường vào muỗng, người thợ đổ ở
hiệp thứ nhất không cho đường đầy muỗng. Hiệp sau người thợ mới làm cho muỗng
đường đầy lên mặt.
Hậu kỳ: Đường nguội đem về nhà úp mặt xuống nền đất và lắc đều để khối đường
rơi khỏi muỗng, khối đường rời khỏi muỗng xong ngửa nguyên muỗng đường đặt lên
một cái chum để rút mật vào chum. Để mật ra sạch, đường trắng, người ta đổ một lớp
bùn non lên mặt đường (có khi là chuối giã dập) để phần nước của đường hoặc của
chuối đẩy dần xuống dưới.
Khi đã rút hết mật (khoảng 7-10 ngày) người ta ra đường.Đem phơi đường nguyên
khối ngoài nắng rồi sau đó chặt thành từng khối nhỏ mà trong đó nhất thiết phải có hai
phần rời riêng mặt đường và đít muỗng. Mặt đường trắng hơn, người ta gọi là đường
trắng hay đường bạch, phần đít muỗng còn chứa nhiều mật, người ta gọi là đường đen.
2.2.2.6. Nghề làm mắm
Làm mắm là nghề nổi tiếng từ lâu ở vùng duyên hải miền Trung. Những cánh đồng
muối rộng mênh mông ở Sa Huỳnh, Tịnh Hòa, cá cơm, cá nục, cá trích xuất hiện nhiều
vào mùa gió nồm là nguyên liệu dồi dào của nghề mắm, là điều kiện khách quan dẫn
41
đến sự hình thành nhiều làng nghề làm mắm ở vùng duyên hải Quảng Ngãi. Quảng
Ngãi có nhiều làng nghề làm mắm, như Thạch Bi, Long Thành, long Trì, An Phổ, Kỳ
Tân, An Chuẩn, Phổ An, Cổ Lũy, Mỹ An, An Vĩnh, Kỳ Xuyên và Tuyết Diêm.
Nguyên liệu làm mắm là loại cá cơm được thu hoạch từ tháng Giêng, Hai, Ba (Âm
lịch). Đây là thời điểm cá cơm làm mắm có hương vị thơm ngon nhất. Riêng mắm nục
được làm từ tháng Ba đến tháng Tư, là thời vụ nục nổi nhiều, lúc này muối mắm sẽ
đem lại hương vị mặn mà. Ngoài hai loại cá chính để làm mắm nói trên , người dân
biển còn làm mắm ngừ, mắm mực, mắm kình, mắm nhum, mắm tôm. Mắm nhum
thường sản xuất ở Sa Huỳnh, lấy từ thân con nhum cầu gai vốn sống ở các khe đá gành
biển. Đời nhà Nguyễn, mắm nhum cung tiến vua nên còn gọi là mắm tiến: “Mắm nhum
sản vật ở các đảo ngoài biển, khoảng đời Minh Mạng dặt bộ mắm nhum 5 người, mỗi
năm phải nộp 12 cân mắm” [48, tr. 687].
Cách thức chung sản xuất nước mắm truyền thống là cá được đưa thẳng từ bến về
đến nhà, cá được trộn đều với muối theo tỷ lệ khoảng 3 chén cá 1 chén muối rồi chưa
trong những thùng gỗ lớn. Sau khoảng 4 – 6 tháng có thể rút nước mắm ra để dùng.
Cách thức chế biến mắm cái cũng gần tương tự như chế biến nước mắm, cá và muối
cũng trộn chung theo tỷ lệ trên, được chứa trong những thạp sành nhỏ. Khi thân cá đã
phân hủy (chín nẫu), hết mùi tanh của cá tươi là có thể dùng được. Từ xa xưa, món
mắm cái như là thức ăn chính của người dân xứ Quảng, nhất là mùa mưa gió, biển
động [83].
Ngoài những nghề trên, ở Quảng Ngãi có nhiều nghề như: nghề chế tác đá, chế tác
sừng, dệt, làm đường phổi, nấu đường phèn, nghề đan,…
Thủ công nghiệp nửa đầu thế kỷ XIX ở Việt Nam nói chung và ở Quảng Ngãi nói
riêng xuất hiện, phát triển là một thức tế khách quan, đáp ứng nhu cầu cuộc sống trong
khi chưa có nền sản xuất công nghiệp. Nhu cầu cuộc sống ngày càng tăng, đòi hỏi
những nhu yếu phẩm mới thì lập tức những ngành nghề mới nảy sinh. Song ở nước ta
42
lại tồn tại khá dai dẳng thủ công nghiệp gia đình, biến nó thành nền công nghệ thôn xã,
thủ công nghiệp làng quê. Do vậy, ở Quảng Ngãi cũng giống như các tỉnh thành trong
cả nước tiếng tăm của các nghề thủ công không vang xa. Một điều thuận lợi cho phần
lớn các nghề thủ công truyền thống ở Quảng Ngãi là tận dụng và khai thác các nguồn
nguyên liệu có sẵn trên mảnh đất Quảng Ngãi. Nghề làm đường, kẹo gắn liền với
những cánh đồng mía, nghề làm gốm gắn liền với nguyên liệu đất sét,…Mặc dù các
nghề thủ công này đã “góp phần nuôi sống phần đông dân chúng” [41, tr. 373] nhưng
thủ công nghiệp ở Quảng Ngãi thế kỷ XIX vẫn chỉ là những nghề phụ của nông dân.
Tuy là những nghề phụ nhưng nó đã góp phần nâng cao đời sống của nông dân ở các
làng quê trên vùng đất Quảng Ngãi.
2.3. Thương nghiệp
2.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thương nghiệp
*Giao thông vận tải
Để có một nền thương nghiệp phát triển nhân tố đầu tiên nghĩ đến là vấn đề giao
thông vận tải. Nó ví như mạch máu nóng trong cơ thể giúp điều tiết mọi hoạt động lưu
thông. Bên cạnh đó những nhân tố như: sản xuất hàng hóa, tiền tệ, đo lường cũng
không kém phần quan trọng thúc đẩy thương nghiệp phát triển.
Ở Quảng Ngãi đầu thế kỷ XIX sự trao đổi, vận chuyển hàng hóa chủ yếu bằng
đường bộ và đường thủy. Trục đường Thiên lý Bắc – Nam vẫn là trục đường chính
băng qua Quảng Ngãi với phương tiện đi lại là đi bộ, đi ngựa, võng cán. Đường Thiên
lý Bắc- Nam qua địa phận Quảng Ngãi dài khoảng 21.417 trượng 5 thước [69, tr. 291],
trong điều kiện bình thường (đi bộ) phải mất khoảng 6 ngày đường [71, tr. 444]. Năm
1870, quan Bố chánh Quảng Ngãi là Nguyễn Thông tâu xin cho trồng cây mù u ven
đường Thiên lý để cho bóng mát và lấy quả ép dầu thắp đèn, được vua Tự Đức chấp
thuận.
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)

More Related Content

Similar to Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)

trieu dai nha hue to1lop10a5.pptx
trieu dai nha hue to1lop10a5.pptxtrieu dai nha hue to1lop10a5.pptx
trieu dai nha hue to1lop10a5.pptxWinSun6
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.ssuser499fca
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.ssuser499fca
 
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviiiChính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviiihttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Giáo Án Lịch Sử Hải Dương
Giáo Án Lịch Sử Hải Dương Giáo Án Lịch Sử Hải Dương
Giáo Án Lịch Sử Hải Dương nataliej4
 
Lịch sử hành chính nhà nước việt nam
Lịch sử hành chính nhà nước việt namLịch sử hành chính nhà nước việt nam
Lịch sử hành chính nhà nước việt namjackjohn45
 
Nguyennhanvn matnuoc.vn
Nguyennhanvn matnuoc.vnNguyennhanvn matnuoc.vn
Nguyennhanvn matnuoc.vnthao72
 
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX nataliej4
 

Similar to Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885) (20)

Luận văn: Chủ trương Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nước
Luận văn: Chủ trương Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nướcLuận văn: Chủ trương Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nước
Luận văn: Chủ trương Duy Tân về kinh tế của các sĩ phu yêu nước
 
Luận văn: Tình hình kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế k...
Luận văn: Tình hình kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế k...Luận văn: Tình hình kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế k...
Luận văn: Tình hình kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế k...
 
TƯ TƯỞNG NHÂN SINH CỦA MINH MẠNG - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
TƯ TƯỞNG NHÂN SINH CỦA MINH MẠNG  - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149 TƯ TƯỞNG NHÂN SINH CỦA MINH MẠNG  - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
TƯ TƯỞNG NHÂN SINH CỦA MINH MẠNG - TẢI FREE ZALO: 093 457 3149
 
Luận văn: Tư tưởng nhân sinh của Minh Mạng, HAY, 9đ
Luận văn: Tư tưởng nhân sinh của Minh Mạng, HAY, 9đLuận văn: Tư tưởng nhân sinh của Minh Mạng, HAY, 9đ
Luận văn: Tư tưởng nhân sinh của Minh Mạng, HAY, 9đ
 
Thời kì Tokugawa (1603-1868) và phát triển của lịch sử Nhật Bản
Thời kì Tokugawa (1603-1868) và phát triển của lịch sử Nhật BảnThời kì Tokugawa (1603-1868) và phát triển của lịch sử Nhật Bản
Thời kì Tokugawa (1603-1868) và phát triển của lịch sử Nhật Bản
 
Thời kì Tokugawa (1603-1868) và vai trò phát triển Nhật Bản, 9đ
Thời kì Tokugawa (1603-1868) và vai trò phát triển Nhật Bản, 9đThời kì Tokugawa (1603-1868) và vai trò phát triển Nhật Bản, 9đ
Thời kì Tokugawa (1603-1868) và vai trò phát triển Nhật Bản, 9đ
 
Luận văn: Thương nghiệp vùng Thuận Quảng thời chúa Nguyễn (1558 - 1774)
Luận văn: Thương nghiệp vùng Thuận Quảng thời chúa Nguyễn (1558 - 1774)Luận văn: Thương nghiệp vùng Thuận Quảng thời chúa Nguyễn (1558 - 1774)
Luận văn: Thương nghiệp vùng Thuận Quảng thời chúa Nguyễn (1558 - 1774)
 
trieu dai nha hue to1lop10a5.pptx
trieu dai nha hue to1lop10a5.pptxtrieu dai nha hue to1lop10a5.pptx
trieu dai nha hue to1lop10a5.pptx
 
Luận văn thạc sĩ Triết học Tư tưởng nhân sinh của minh mạng.doc
Luận văn thạc sĩ Triết học Tư tưởng nhân sinh của minh mạng.docLuận văn thạc sĩ Triết học Tư tưởng nhân sinh của minh mạng.doc
Luận văn thạc sĩ Triết học Tư tưởng nhân sinh của minh mạng.doc
 
Bảo vệ vùng biển miền trung dưới triều Nguyễn 1802 - 1885, HAY
Bảo vệ vùng biển miền trung dưới triều Nguyễn 1802 - 1885, HAYBảo vệ vùng biển miền trung dưới triều Nguyễn 1802 - 1885, HAY
Bảo vệ vùng biển miền trung dưới triều Nguyễn 1802 - 1885, HAY
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.
 
Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.Khóa luận sư phạm lịch sử.
Khóa luận sư phạm lịch sử.
 
CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN DUY TIÊN TỈNH HÀ NAM (1996 - 2015) - TẢI FR...
CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN DUY TIÊN TỈNH HÀ NAM (1996 - 2015) - TẢI FR...CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN DUY TIÊN TỈNH HÀ NAM (1996 - 2015) - TẢI FR...
CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN DUY TIÊN TỈNH HÀ NAM (1996 - 2015) - TẢI FR...
 
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviiiChính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
 
Giáo Án Lịch Sử Hải Dương
Giáo Án Lịch Sử Hải Dương Giáo Án Lịch Sử Hải Dương
Giáo Án Lịch Sử Hải Dương
 
Lịch sử hành chính nhà nước việt nam
Lịch sử hành chính nhà nước việt namLịch sử hành chính nhà nước việt nam
Lịch sử hành chính nhà nước việt nam
 
Nguyennhanvn matnuoc.vn
Nguyennhanvn matnuoc.vnNguyennhanvn matnuoc.vn
Nguyennhanvn matnuoc.vn
 
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
Tư tưởng chính trị - xã hội của nho sĩ duy tân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX
 
Tài Nguyên Du Lịch Nhân Văn Trên Tuyến Đà Nẵng Quảng Trị
Tài Nguyên Du Lịch Nhân Văn Trên Tuyến Đà Nẵng Quảng TrịTài Nguyên Du Lịch Nhân Văn Trên Tuyến Đà Nẵng Quảng Trị
Tài Nguyên Du Lịch Nhân Văn Trên Tuyến Đà Nẵng Quảng Trị
 
Luận án: Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam, HAY
Luận án: Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam, HAYLuận án: Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam, HAY
Luận án: Văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam, HAY
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 

Luận văn: Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)

  • 1. 1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã giành được quyền cai trị đất nước. Sau nhiều thế kỷ phân ly, đến đây nền thống nhất đất nước được khôi phục. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một lãnh thổ trải dài từ Lạng Sơn đến Cà Mau được xác lập. Đối với lịch sử dân tộc, sự kiện này có ý nghĩa vô cùng to lớn. Tuy vậy, nền thống trị của nhà Nguyễn đứng trước nhiều thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của vương triều. Quản lý một đất nước rộng lớn trong điều kiện giao thông kém phát triển, thông tin liên lạc lạc hậu, lòng dân, nhân tâm sĩ phu Bắc Hà không yên, một nền hành chính còn nhiều khác biệt sau hàng thế kỷ đầy biến động, kinh tế chậm phát triển, nguy cơ ngoại xâm… là những khó khăn và thách thách thức đặt ra cho nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX. Đứng trước những khó khăn, thách đố đó, triều đình nhà Nguyễn đã thực thi những chính sách cai trị về tất cả các mặt của đời sống xã hội để ổn định tình hình và phát triển đất nước. Nước Việt Nam có sự chuyển biến dưới thời nhà Nguyễn, không chỉ ở tầm vĩ mô mà còn ở các địa phương cụ thể. Trong bối cảnh đó, Quảng Ngãi thuộc vùng “tả trực” của Kinh đô Huế. Dưới thời Nguyễn, cũng như các tỉnh khác trong cả nước, tỉnh Quảng Ngãi cũng có sự chuyển biến về kinh tế - xã hội. Với vị trí và điều kiện cụ thể của địa phương, tình hình Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn cũng có nét khác với các tỉnh cùng khu vực. Việc tìm hiểu kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885) sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn khái quát về tình hình kinh tế, xã hội, đời sống của nhân dân nơi đây. Thông qua đó, góp phần tìm hiểu đầy đủ hơn về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam dưới Triều Nguyễn trong thế kỷ XIX, rút ra được những bài học kinh nghiệm giúp cho tỉnh Quảng Ngãi có thể kế thừa trong công cuộc xây dựng, phát triển hiện nay.
  • 2. 2 Với những lý do trên chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. 2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài nhằm khôi phục lại bức tranh kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn trong điều kiện đất nước có nhiều biến động và thách thức. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích các yếu tố tác động đến tình hình kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn. Đồng thời làm rõ tình hình và đặc điểm kinh tế - xã hội dưới triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1885. Từ đó rút ra những bài học quý báu để phát triển tỉnh Quảng Ngãi hiện nay. 3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Nghiên cứu về tình hình kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802- 1885) đã có một số công trình được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Thông qua một số công trình nghiên cứu đó giúp chúng tôi có thể tra cứu và giải quyết được vấn đề đặt ra trong luận văn. Liên quan đến tình hình kinh tế, xã hội ở Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn được ghi chép rải rác trong các thư tịch cổ. Mặc dù chỉ là một phần ít ỏi nhưng đây là tư liệu gốc rất có giá trị như: Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Mục lục châu bản triều Gia Long, Mục lục châu bản triều Minh Mạng … Nghiên cứu về tình hình kinh tế và xã hội triều Nguyễn có cuốn “Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn” của tác giả Nguyễn Thế Anh xuất bản vào năm 1971. Tác phẩm đã để cập đến tình hình kinh tế - xã hội trong đó có một số sự kiện ít ỏi về Quảng Ngãi. Nghiên cứu về tình hình ruộng đất, năm 1979 tác giả Vũ Huy Phúc đã cho ra đời tác phẩm “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX”,
  • 3. 3 năm 1996 có cuốn “Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn” của tác giả Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (chủ biên), cuốn sách “Chế độ ruộng đất ở Việt Nam” của tác giả Trương Hữu Quýnh ra đời năm 1999. Những tác phẩm trên đây cũng đã đề c ập đến ruộng đất ở Quảng Ngãi thời Nguyễn. Tác phẩm “Nghề thủ công truyền thống ở Quảng Ngãi” của Nguyễn Ngọc Trạch (chủ biên, 2005) đã phần nào đề cập đến hoạt động kinh tế thủ công nghiệp ở Quảng Ngãi. Năm 2008 Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã biên soạn cuốn “Địa chí Quảng Ngãi”, là công trình nghiên cứu tổng quan về Quảng Ngãi từ thời cổ đại đến hiện đại, trong đó có đề cập về kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn. Năm 2010 tác giả Nguyễn Đình Đầu với tác phẩm “Nghiên cứu về địa bạ triều Nguyễn – Quảng Ngãi” đã trình bày cụ thể vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn. Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Thu Hương năm 2011 đã viết về “Phố cảng Thu Xà (Quảng Ngãi) từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX” và Khóa luận tốt nghiệp Đại học của Dương Thị Thu Hương năm 2011 có đề cập đến “Hoạt động kinh tế của người Hoa ở Quảng Ngãi từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XX” cũng đề cấp đến hoạt động kinh tế thương nghiệp ở Quảng Ngãi. Vấn đề xã hội Quảng Ngãi thế kỷ XIX đã được đề cập trong các tác phẩm “Tìm hiểu các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (1885- 1945)” của Bùi Định xuất bản năm 1985. Cuốn “Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX” của Nguyễn Phan Quang xuất bản năm 1986 đã đề cập đến các vấn đề kinh tế, xã hội ở miền núi Quảng Ngãi và cuộc đấu tranh quyết liệt của đồng bào thiểu số chống lại nhà Nguyễn. Hội thảo khoa học” Lê Trung Đình và phong trào Cần vương ở Quảng Ngãi” (1997) và luận án Tiến sĩ “Phong trào yêu nước chống Pháp ở Quảng Ngãi từ năm 1885 đến năm 1930” của Trương Công Huỳnh Kỳ (2001) đã đề cập đến các vấn đề xã hội và cuộc đấu tranh của nhân dân Quảng Ngãi trong việc hưởng ứng dụ Cần Vương (1885).
  • 4. 4 Có thể khẳng định rằng, với các công trình nghiên cứu trên đây, vấn đề kinh tế, xã hội Quảng Ngãi đã được các nhà nghiên cứu giải quyết với những thành quả đáng trân trọng. Đây chính là cơ sở để tác giả luận văn có thể kế thừa và phát triển, hoàn thành được mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn đề ra. 4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình kinh tế - xã hội ở Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885). 4.2.Phạm vi nghiên cứu Không gian nghiên cứu của đề tài là tỉnh Quảng Ngãi. Thời gian từ năm 1802 đến năm 1885. Nội dung nghiên cứu là kinh tế - xã hội Quảng Ngãi. 5. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5.1. Nguồn tư liệu Để thực hiện luận văn, chúng tôi dựa vào các nguồn tư liệu sau: Các thư tịch cổ, công trình sử học do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đã được dịch và xuất bản như: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,Mục lục châu bản triều Nguyễn… Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội triều Nguyễn nói chung và Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn nói riêng lưu trữ tại Thư viện Tổng hợp Thừa Thiên Huế, Thư viện Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi, Trung tâm học liệu Đại học Huế... Các bài viết được đăng trên các tạp chí Cẩm Thành, tạp chí Xưa và nay… Đó là những nguồn tư liệu quan trọng giúp phục dựng lại bức tranh lịch sử về kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn từ năm 1802 đến 1885. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở nguồn tư liệu thu thập được, trong quá trình nghiên cứu, để hoàn thành luận văn, ngoài vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở phương pháp luận, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp lịch sử, phương
  • 5. 5 pháp logic, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp liên ngành. 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Luận văn sẽ có một số đóng góp sau: Luận văn sẽ hệ thống hóa các nguồn tư liệu liên quan, cung cấp những thông tin về tình hình kinh tế, xã hội ở Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1885. Luận văn góp phần khôi phục bức tranh kinh tế - xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885) có tính hệ thống, rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc đề ra các chính sách phát triển kinh tế - xã hội để tạo nên sự phát triển bền vững Ngãi hiện nay. 7. BỐ CỤC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận văn gồm 3 chương. Chương 1. Khái quát về vùng đất Quảng Ngãi Chương 2.Kinh tế Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885) Chương 3. Xã hội Quảng Ngãi dưới triều Nguyễn (1802-1885)
  • 6. 6 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT QUẢNG NGÃI 1.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên và xã hội Quảng Ngãi 1.1.1. Đặc điểm tự nhiên 1.1.1.1.Địa hình Quảng Ngãi thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, có tọa độ địa lý 140 32’ – 150 25’ vĩ Bắc, 1080 06’ – 1090 04’ kinh Đông, lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt nhìn ra biển Đông; phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp tỉnh Bình Định; phía tây và tây bắc giáp tỉnh Quảng Nam và tỉnh Kon Tum; phía đông giáp biển Đông. Tỉnh Quảng Ngãi có diện tích tự nhiên 5.131,5 km2 . Quảng Ngãi có đường bờ biển dài gồm 130 km với 5 cửa biển chính: Sa Cần, Sa Kỳ, Cửa Đại, Mỹ Á và Sa Huỳnh [71,tr.31]. Với đặc điểm chung là núi lớn chạy sát biển và có tính chuyển tiếp từ địa hình đồng bằng ven biển phía đông đến địa hình đồi núi cao ở phía tây nên ở đây được chia thành bốn vùng có tính chất và đặc trưng khác nhau rõ rệt, bao gồm vùng núi, vùng trung du, vùng đồng bằng và vùng bãi cát ven biển. Vùng rừng núi: Quảng Ngãi là một trong những tỉnh có nhiều rừng núi cao trùng điệp, với diện tích 391.192 ha, chiếm 2/3 diện tích đất đai toàn tỉnh. Núi cao tạo thành hình vòng cung, hai đầu nhô ra sát biển, ôm chặt lấy đồng bằng. Các núi cao có thể kể đến như núi Cà Đam (1413m), núi Đá Vách (1115m), núi U Bò (1100m), núi Cao Muôn (1085m). Bên cạnh đó, các huyện đồng bằng nơi nào cũng có núi cao thấp khác nhau [36, tr. 24]. Núi rừng Quảng Ngãi có nguồn tài nguyên phong phú về lâm thổ sản với nhiều loại gỗ quý như lim, sao vát, chò, trắc, huỳnh đàng, kiền kiền, gõ. Ngoài gỗ, rừng Quảng Ngãi còn có nhiều loại cây thuốc như sa nhân, hà thủ ô, thiên niên kiện, ngũ gia bì, sâm; các loại cây có sợi, cây có dầu trầm hương, cây lấy nhựa và các loại cây lấy nấm. Đồng thời đây còn là nơi sinh sống của nhiều loại thú quý, hàng trăm loại chim quý và là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên khoáng sản, bao gồm các loại: sắt,
  • 7. 7 nhôm, mica, cao lanh, thạch anh, đá vôi. Trong đó hàm lượng sắt chiếm tỷ lệ khá cao trong các cồn đất Trà Lâm, Thanh Trà (Bình Sơn), Thiết Trường (Mộ Đức), vì thế trước đây một số nơi trong tỉnh người dân xây dựng các lò để luyện sắt như: Lò Thổi, Gò Đình (Bình Sơn), Lò Thổ (Mộ Đức) và các làng ở Trà Bồng. Cao lanh khá nhiều ở Sơn Tịnh, Sơn Hà, Bình Sơn, Tư Nghĩa. Đá vôi san hô có nhiều ở đảo Lý Sơn, là nguyên liệu phụ gia cần thiết để chế biến đường muỗng, đường phèn, đường cát trắng. Vùng trung du: Hầu như đất đai được phát triển trên nền đá ong latêrit hóa. Đất bazan phong hóa, đất cát, đất ruộng thung lũng thấp. Đất ở đây thường bị bào mòn từ cao xuống thấp, có nhiều gò đồi, lắm sỏi đá. Do đó, vùng này thường là đất xám, đất bạc màu, đất đen nên rất thích hợp với các loại cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày như chè, mì, khoai lang, đậu, mía, lúa. Vùng đồng bằng Quảng Ngãi: Đồng bằng Quảng Ngãi nhỏ hẹp nhưng khá đa dạng về hình thái. Diện tích khoảng 160.678 ha, trong đó chỉ có 13.672 ha được bồi đắp phù sa thường xuyên bởi bốn hệ thống sông chính là sông Trà Bồng, sông Trà Khúc, Sông Vệ và sông Trà Câu. Càng đi về phía nam, đồng bằng càng hẹp lại, chỉ còn là một rẻo dọc bờ biển. Địa hình bề mặt đồng bằng Quảng Ngãi khá bằng phẳng, nghiêng thoải về phía đông, độ cao từ 2 – 30m [71, tr.62]. Đất ở đây thích hợp với các loại cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, đặc biệt là cây mía. Đồng thời đây còn là nơi chứa nước ngầm lớn nhất phục vụ nhu cầu đời sống, sản xuất của phần lớn cư dân Quảng Ngãi. Vùng bãi cát ven biển: nhỏ hẹp với diện tích khoảng 2446,8 ha. Địa hình vùng bãi cát ven biển Quảng Ngãi có đặc điểm chung giống như các khu vực khác ở miền Trung, là sự hiện diện của các dải cát cao song song với đường bờ giữ vai trò như đê cát chắn sóng tự nhiên, bảo vệ phần đá phía sau các cồn cát. Ngoài ra, vùng cát Quảng Ngãi còn có kiểu địa hình thấp rất đặc trưng, đó là dạng địa hình đầm lầy bị bồi lấp. Đất vùng này thích hợp với các loại cây khoai lang, mì, dừa, rừng phi lao có tác dụng làm đai phòng hộ chống cát bay, bồi lấn.
  • 8. 8 Biển Quảng Ngãi dài hơn 130 km, nằm trong vùng nước sâu trũng của biển Đông, do đó có điều kiện phát triển mạnh. Hơn nữa, vùng biển Quảng Ngãi còn chịu ảnh hưởng mạnh của các hướng gió mùa và các hiện tượng nhiễu động thời tiết cực đoan như bão, áp thấp nhiệt đới, giông lốc nên việc đánh bắt xa bờ gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, vùng biển Quảng Ngãi là nơi có nhiều loại hải sản như cá, mực, tôm, cua, hải sâm, rau câu… Bờ biển Quảng Ngãi có những cửa biển thuận lợi cho tàu thuyền cập bến như cửa Sa Cần, cửa Sa Kỳ, cửa Cổ Lũy, cửa Lỡ, cửa Mỹ Á, cửa Sa Huỳnh. 1.1.1.2. Khí hậu Cũng như cả nước, Quảng Ngãi nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa. Một năm được chia làm hai mùa: mùa khô và mùa mưa. Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8. Trong mùa khô số giờ nắng bình quân là 6,4 giờ/ngày, đỉnh điểm là 9,9 giờ/ngày. Có năm nắng kéo dài liên tục từ tháng 3 – 4 tháng, gây ra hạn hán làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.Trong mùa khô thường có những trận mưa giông và gió nồm làm diệu bớt sự oi bức của mùa hè và làm cho cây cối tốt tươi [36, tr. 33]. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng Giêng năm sau. Hằng năm, ngày mưa từ 121 ngày đến 126 ngày, số ngày mưa tập trung nhiều nhất vào tháng 10, tháng 11 [36, tr. 32]. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 25,30 C.Vào thời điểm nóng nhất của các tháng 6, 7, 8 nhiệt độ lên đến 400 C. Độ ẩm hằng năm là 83,9%. Quảng Ngãi có những hướng gió theo mùa như sau: từ tháng 3 đến tháng 9 thường xuyên có gió Đông Nam và Tây Nam. Từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau có gió Đông Bắc. Nhiều năm cường độ gió mạnh thành bão [36, tr.33].
  • 9. 9 Nhìn chung, khí hậu Quảng Ngãi có nhiều thuận lợi cho cây trồng và hoạt động của các nghề thủ công. Tháng nắng trong năm thuận lợi cho nghề làm gốm, nghề chế biến đường, kẹo, mạch nha…trong việc phơi nắng nguyên liệu, chế biến sản phẩm. Tuy nhiên, do độ ẩm cao nên dễ sinh sâu bệnh cho lúa, hoa màu và cây trái. Đồng thời những năm nắng hạn kéo dài gây tình trạng thiếu nước tưới cho cây trồng, mưa lũ mùa giông thường gây lụt lội, ngập úng. 1.1.1.3. Thủy văn Trên địa bàn Quảng Ngãi, sông suối phân bố tương đối đều. Các sông có một số đặc điểm như: bắt nguồn từ phía đông dãy Trường Sơn và đổ ra biển, sông chảy trên hai địa hình (đồi núi phức tạp và đồng bằng hẹp), sông ngắn và độ dốc lòng sông lớn bao gồm 4 sông chính: sông Trà Bồng, sông Trà Khúc, sông Vệ và sông Trà Câu. Sông Trà Bồng: Nằm ở phía Bắc tỉnh, bắt nguồn từ dãy núi phía tây của huyện Trà Bồng, chảy qua huyện Bình Sơn đổ ra cửa biển Sa Cần. Sông dài khoảng 45 km, hướng chảy cơ bản từ tây sang đông. Phần lớn chảy qua địa hình rừng núi, phần còn lại chảy vào vùng đồng bằng xen đồi trọc và bãi cát. Phía thượng nguồn của sông Trà Bồng có nhiều phụ lưu như: suối Nún, suối Cà Đú, nhánh suối Sâu, nhánh suối Bí…[71, tr.65]. Sông Trà Khúc: Nằm gần giữa tỉnh, đây là sông có lượng nước dồi dào nhất so với các sông khác trong toàn tỉnh. Sông Trà Khúc dài khoảng 135 km, được hợp lưu bởi 4 con sông lớn là sông Rhe, sông Xà Lộ, sông Rinh, sông Tang chảy xuống hướng Đông qua ranh giới các huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Thành phố Quảng Ngãi và đổ ra cửa biển Cổ Lũy. Sông Trà Khúc có lưu vực khoảng 3240 km2 , trên bề mặt lưu vực sông có khoảng nửa diện tích kể từ nguồn là rừng già, còn lại là rừng thưa, vùng hạ lưu là đất canh tác và đồng bằng trồng lúa, mía chiếm diện tích khá lớn.
  • 10. 10 Sông Vệ: Dài khoảng 90 km, phát nguyên từ vùng rừng núi phía tây của huyện Ba Tơ, chảy theo hướng tây nam – Đông Bắc qua các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa, Mộ Đức đổ ra biển Đông tại cửa biển Cổ Lũy và cửa Đại Lợi. Sông Vệ có một chi lưu đáng kể nhất là sông Thoa, cung cấp lượng nước khá lớn cho đại bộ phận đồng lúa Mộ Đức. Sông Trà Câu: dài khoảng 32 km, bắt nguồn từ rừng núi Ba Trang (huyện Ba Tơ) chảy xuyên qua huyện Đức Phổ để ra cửa biển Mỹ Á. Đây là con sông nhỏ nhất trong số các con sông nói trên, nước ở đây cũng thường xuyên cũng cạn kiệt vào mùa khô. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên và đặc điểm địa hình cùng nguồn tài nguyên thiên nhiên đã tạo cho Quảng Ngãi có nhiều khả năng để phát triển kinh tế - xã hội. 1.1.2. Đặc điểm xã hội 1.1.2.1.Dân cư Quảng Ngãi Nhìn chung dân cư trong tỉnh phân bố không đồng đều, vùng trung châu và ven biển đông đúc, còn miền núi dân cư thưa thớt. Trên địa bàn Quảng Ngãi có 4 dân tộc anh em sinh sống, bao gồm Kinh, Hrê, Cor và Ca Dong (một nhánh của dân tộc Xơ Đăng) [71, tr.145]. Có thể nói, người Kinh hiện diện ở Quảng Ngãi bắt đầu từ thế kỷ XV trở đi, đa số là những người nông dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng Thanh – Nghệ di cư vào khẩn hoang đất đai, lập thành làng mạc. Dưới thời các chúa Nguyễn, một số người Hoa từ vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam (Trung Quốc) đến sinh sống ở Thu Xà, cửa biển Sa Cần, Sa Huỳnh và một số điểm ở trung du. Người Hoa đóng vai trò tương đối quan trọng trong sự phát triển kinh tế ở vùng đất Quảng Ngãi thời Nguyễn. Nhưng trải qua các cuộc chiến tranh, người Hoa phần nhiều đã phân tán đi nơi khác, phần hòa nhập vào cộng đồng người Việt, không còn các cộng đồng làng xã đặc thù.
  • 11. 11 Ở miền núi, dân cư có sự ổn định hơn. Miền núi Quảng Ngãi là địa bàn cư trú của dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong sinh sống; là là cư dân lâu đời, sống theo từng khu vực và có sự đan xen nhất định, có sự giao lưu buôn bán với nhau và với người Việt ở miền xuôi lên buôn bán, khai khẩn. 1.1.2.2.Thành phần dân tộc * Dân tộc Kinh Tộc danh chính thức gọi là Việt, nhưng để phân biệt với các dân tộc thiểu số thì người Việt thường được gọi là người Kinh. Cư dân người Việt có mặt đầu tiên ở Qảng Ngãi vào thế kỷ XV. Năm 1402, qua cuộc xung đột giữa phong kiến Đại Việt và Chămpa, vua Chămpa nhượng hai châu Chiêm Động và Cổ Lũy Động cho nhà Hồ. Sau đó Hồ Quý Ly đổi đặt thành 4 châu Thăng, Hoa (Quảng Nam) và Tư, Nghĩa (Quảng Ngãi). Năm 1472 cuộc chinh phạt Chămpa của vua Lê Thánh Tông, vùng đất từ nam đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông nằm trong sự quản lý của Đại Việt và đặt thành đạo thừa tuyên Quảng Nam, gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn. Nhà Lê chiêu mộ dân chúng vào khai khẩn đất hoang và đồng thời khuyến khích quân lính ở lại mở mang đồn điền, phát vãng những tù nhân lưu đày vào đây. Đây được xem là những nguồn nhân lực chủ yếu khai phá vùng đất mới. Vùng cư trú của người Kinh tập trung chủ yếu ở đồng bằng và các thị trấn, thị tứ ở miền núi Quảng Ngãi, một số sinh sống đan xen với người dân tộc thiểu số ở miền núi. *Dân tộc Hrê Hrê là tộc người có số dân đứng thứ hai trong tỉnh sau dân tộc Kinh. Họ cư trú chủ yếu ở các huyện: Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Hà, Sơn Tây, Minh Long, Ba Tơ, Nghĩa Hành và Tư Nghĩa.
  • 12. 12 Hrê là tộc danh chính thức của dân tộc này. Dưới triều Nguyễn và Pháp thuộc, người Hrê được gọi bằng những phiếm danh, có ý nghĩa khinh miệt như: “Mọi Đá Vách”, “Mọi Thạch Bích”, “Mọi Sơn Phòng”, “Thượng Ba Tơ”… Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 được thống nhất chung tên gọi dân tộc Hrê. Trong xã hội của người Hrê, làng là đơn vị cư trú, đồng thời là cộng đồng tự quản với những thiết chế sinh hoạt đã định hình từ lâu. Mỗi làng đều có chủ làng (Krăng plây), là người lớn tuổi, có nhiều kinh nghiệm, có uy tín, gia đình thuộc loại giàu có trong làng.Chủ làng là người cùng với thầy cúng (Pơ dâu) tổ chức các lễ cúng của làng. Cá nhân chủ làng đứng ra chịu trách nhiệm tổ chức bắt máng nước, làm đường, rào làng, hướng dẫn việc sản xuất, giải quyết các vụ xử phạt… Xã hội truyền thống của người Hrê có sự phân hóa giàu nghèo, do chênh lệch về ruộng đất, về lao động và về thu nhập giữa các hộ gia đình. Trong xã hội có 4 tầng lớp người: người giàu (Proong), người đủ ăn có chút ít dư thừa (Lắp ká), người thiếu ăn, kinh tế khó khăn (Pa), người đi ở vì nơ, nô lệ vì nợ (Hapoong, dik) [71, tr. 148]. Nguồn kinh tế đem lại thu nhập quan trọng nhất cho đời sống của người Hrê là nông nghiệp trồng lúa nước. Nghề thủ công cũng góp phần bổ sung quan trọng trong đời sống kinh tế tự cung tự cấp, bao gồm nghề dệt, đan lát, chăn nuôi gia súc, gia cầm… * Dân tộc Cor Dân tộc Cor là dân tộc có số dân đông thứ 3 trong tỉnh và là dân tộc có số dân đông thứ 2 trong các dân tộc thiểu sô sau dân tộc Hrê. Địa bàn cư trú của dân tộc Cor ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà của tỉnh Quảng Ngãi và một số ít của huyện Trà My tỉnh Quảng Nam. Xưa kia, người ta gọi người Cor là người Cua, người Trầu. Tên tự gọi của dân tộc Cor, là tộc danh chính thức.
  • 13. 13 Đặc trưng sinh hoạt kinh tế của người Cor là lấy kinh tế nương rẫy làm nguồn thu nhập chính. Ngoài ra, vùng người Cor còn nổi tiếng về giống trầu không và quế. * Dân tộc Ca Dong Ca Dong là tộc người có số dân đứng thứ 4 trong tỉnh. Địa bàn cư trú của người Ca Dong phân bố ở các huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi), Sa Thầy , Kon Plong (Kon Tum), Trà My (Quảng Nam). Kinh tế của tộc người Ca Dong chủ yếu là nông nghiệp rẫy canh tác theo kiểu luân canh luân khoảnh, trồng trọt vụ đầu tiên đến vụ thứ hai hoặc vụ ba rồi bỏ hoang khoảng 1 đến 2 năm mới canh tác lại. Từ sau năm 1975, chính quyền địa phương đã vận động họ chuyển dần tập quán canh tác sang làm ruộng nước. Địa bàn cư trú chủ yếu của người Ca Dong nằm giáp giới với vùng Tây Nguyên, có nhiều đường bộ liên thông nên thường có các cuộc trao đổi hàng hóa với miền xuôi. Người Ca Dong mua các loại chiêng, ché, vải mặc, nồi đồng,… buôn bán trao đổi bằng nguồn quế, loại cây nguyên liệu có giá trị thương phẩm cao. Ngoài ra, các sản phẩm chăn nuôi như trâu, bò…được buôn bán trao đổi cho các cư dân vùng Tây Nguyên để đổi lấy chiêng, ché. Trong xã hội người Ca Dong có sự phân chia giàu nghèo dựa trên lượng gạo thu hoạch, chiêng, ché, trâu, bò…Trong làng có 3 loại người: người giàu, người đủ ăn và người nghèo, nhưng chưa thấy có sự bóc lột nhau [71, tr.155]. 1.2. Tổ chức hành chính Quảng Ngãi dưới thời Nguyễn Quảng Ngãi là Cổ Lũy động thuộc châu Amaravati. Năm 1400 nhà Hồ thay triều Trần, tháng 7 năm 1402 đánh lấy đất Chiêm động và Cổ lũy động. Năm 1407, nhà Minh (Trung Quốc) đem quân xâm lược và thống trị nước ta.Nhân cơ hội này, Chiêm thành đem quân chiếm đất Chiêm động và Cổ Lũy động.
  • 14. 14 Để củng cố vùng đất phía Nam, xây dựng đất nước thống nhất, năm Hồng Đức thứ 2 (năm 1471), vua Lê Thánh Tông cùng các tướng Lê Huy Cát, Hoàng Nhân Thiêm, Lê Thế, Nguyễn Đức Trung đem quân thu phục các đất Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và thành Đồ Bàn (thuộc tỉnh Bình Định ngày nay), sau đó thiết lập đạo Thừa tuyên Quảng Nam là đơn vị hành chính (như cấp tỉnh ngày nay) thứ 13 của cả nước. Thừa tuyên Quảng Nam thống lĩnh 3 phủ: Thăng Hoa (Quảng Nam), Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Hoài Nhân (Bình Định) gồm 9 huyện. Trong đó phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện: Bình Dương, Nghĩa Giang và Mộ Hoa. Năm 1602, đời Lê Hoằng Định thứ 3, Nguyễn Hoàng cải đổi tên các đơn vị lãnh thổ, hành chính đã được đặt từ trước ở hai trấn Thuận – Quảng. Trấn Quảng Nam đổi thành dinh Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa (thuộc dinh Quảng Nam) đổi thành phủ Quảng Nghĩa.Tên Quảng Nghĩa ra đời từ đó. Năm 1771, phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ. Năm 1776, nhà Tây Sơn đổi phủ Quảng Nghĩa thành phủ Hoà Nghĩa. Năm 1805, Gia Long đổi phủ Hòa Nghĩa thành phủ Tư Nghĩa, đồng thời đặt ra dinh Quảng Nghĩa, đặt các chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục. Năm 1808, Gia Long lại đổi dinh Quảng Nghĩa thành trấn Quảng Nghĩa và đến năm 1810 đổi chức Lưu thủ thành Trấn thủ. Năm 1832, Minh Mạng bãi bỏ các trấn, dinh, chia cả nước thành 31 tỉnh. Trấn Quảng Nghĩa đổi thành tỉnh Quảng Nghĩa, Quảng Nghĩa trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh từ đó. Nhưng đến năm 1934, Minh Mạng lại cải tên Quảng Nghĩa thành tỉnh “Nam trực”.Năm Thiệu Trị thứ 7 (năm 1847), đặt chức Tuần phủ Quảng Nghĩa và đặt chức Tổng đốc Nam – Nghĩa. Tỉnh Quảng Nghĩa dưới thời Nguyễn gồm 1 phủ Tư Nghĩa và 3 huyện: Bình Sơn, Chương Nghĩa, Mộ Đức và 4 nguồn Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long và Ba Tơ.
  • 15. 15 Năm 1858, thực dân Pháp nổ sung xâm lược nước ta. Với các điều ước Quý Mùi (năm 1883), Giáp Thân (năm 1884), triều đình Huế thừa nhận sự đô hộ của thực dân Pháp trên cả nước. Sau đó, cùng với các địa phương khác, tỉnh Quảng Nghĩa cũng bị Pháp đô hộ. Tên tỉnh được đổi thành tỉnh Quảng Ngãi. 1.3.Tình hình kinh tế - xã hội Quảng Ngãi từ thế kỷ XV đến năm 1802 Năm 1471, triều đình nhà Lê cho thiết lập đạo thừa tuyên Quảng Nam, đạo thừa tuyên thứ 13 của Đại Việt, bao gồm vùng đất nam đèo Hải Vân của châu Hóa cùng 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa thời nhà Hồ và kinh đô Chà Bàn của vương quốc Chămpa. Đạo thừa tuyên Quảng Nam thống lĩnh 3 phủ: Thăng Hoa (Quảng Nam), Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Hoài Nhân (Bình Định). Phủ Tư Nghĩa gồm 3 huyện là Bình Dương, Nghĩa Giang và Mộ Hoa. Thực hiện chỉ dụ và được sự khuyến khích của triều đình, dân cư các vùng Sơn Nam Hạ, Thanh Hóa, Nghệ An đi vào vùng đất Nam – Ngãi – Bình cùng sống với người Chăm, cấy cày ở những vùng đồng bằng, khai thác tài nguyên phong phú trên rừng, dưới biển. Vùng đất thừa tuyên Quảng Nam từ đó vĩnh viễn trở thành một bộ phận lãnh thổ của quốc gia Đại Việt. Thế kỷ XVI, thừa tuyên Quảng Nam trong đó có vùng đất Quảng Ngãi, tình hình kinh tế - xã hội đi vào ổn định, kinh tế không ngừng phát triển, diện tích khai hoang được mở rộng, sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, các nghề thủ công phát triển, thu hút ngày càng nhiều di dân từ các vùng Hoan, Ái (Thanh Hóa, Nghệ An) vào lập nghiệp, sinh tụ lâu dài. Từ khi Nguyễn Hoàng trấn thủ vùng Thuận – Quảng, ông ra sức xây dựng vùng này thành một khu vực kinh tế trù phú với nhiều chính sách về điền địa, thuế khóa, giao thương nội địa và ngoại thương, thu phục được nhân tâm, tạo được uy thế lâu dài. Năm 1602, Nguyễn Hoàng cải tổ các đơn vị hành chính – lãnh thổ ở hai trấn Thuận
  • 16. 16 Quảng, theo đó trấn Quảng Nam đổi thành dinh Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa (thuộc dinh Quảng Nam) đổi thành phủ Quảng Nghĩa. Từ sau khi dinh Quảng Nam được thành lập (bao gồm các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn), vùng đất phủ Quảng Nghĩa nói riêng, dinh Quảng Nam nói chung, tiếp tục phát triển trong một thời gian dài về sau dinh Quảng Nam không còn là miền biên trấn vì các chúa Nguyễn đã mở rộng lãnh thổ xa dần vào phía Nam. Trong thời gian đó, miền đất Quảng Nam trong đó có Quảng Ngãi, diễn ra một quá trình xen lẫn chuyển dịch và ổn định cư dân. Lớp cư dân đến từ trước tiếp tục dựng làng, lập ấp, ổn định đời sống và phát triển sản xuất. Lớp người đến sau (gồm một số lớn là tù binh và cư dân Đàng Ngoài bị chúa Nguyễn bắt đem về trong các cuộc tấn công ra phía bắc sông Gianh, một số khác là di dân tự do, đào tẩu…) khai phá những vùng đất còn hoang hóa, lập thêm làng ấp mới. Ở Quảng Ngãi, số cư dân mới đến này định cư rải rác cả 3 huyện nhưng nhiều nhất là huyện Mộ Hoa (nay là 2 huyện Mộ Đức và Đức Phổ) ở phía nam. Ngoài ra, còn có một bộ phận người Hoa (Minh Hương) từ Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Hải Nam đến sinh sống và lập một số khu dân cư mua bán lâm thổ sản, làm một số nghề thủ, công mỹ nghệ mà họ mang từ cố hương đến, thu mua hàng xuất khẩu. Một bộ phận khác của cư dân Đàng Ngoài đến định cư từ trấn Thuận – Hóa (Thừa Thiên – Huế) và các phủ Điện Bàn, Thăng Hoa (phía bắc dinh Quảng Nam) những giai đoạn trước, lúc này có sự dịch chuyển vào Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Cũng trong thời gian này, biển Đông và các đảo ven bờ trong đó có đảo Lý Sơn (Cù Lao Ré, nay là huyện đảo Lý Sơn) xa hơn là Hoàng Sa, Trường Sa (Bắc Hải) cũng thu hút sự quan tâm của các chúa Nguyễn với việc hình thành các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để tuần phòng và khai thác hải sản. Lúc bấy giờ, Hoàng Sa lệ thuộc vào sự quản lý của phủ Quảng Nghĩa. Hàng năm, chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa gồm 60 người, là các dân binh lấy từ ngư dân 2 xã An Vĩnh và An Hải thuộc huyện Bình Sơn (nay thuộc
  • 17. 17 huyện Lý Sơn) đi thuyền đến Hoàng Sa để tuần phòng và khai thác đồi mồi, ba ba, hải sâm, san hô. Nhiều thư tịch Việt Nam, Trung Hoa và nhất là những ghi chép của các nhà hàng hải phương Tây còn để lại đã góp phần khẳng định từ lâu, Hoàng Sa đã là một phần lãnh thổ Việt Nam, thuộc địa phận Quảng Ngãi [71, tr.169]. Lúc bấy giờ dinh Quảng Nam là vùng đất phồn thịnh nhờ vào sự phát triển nông nghiệp trên những cánh đồng tương đối rộng và có điều kiện khí hậu phần nào thuận lợi hơn vùng Bắc Trung Bộ. Tài nguyên rừng (sa nhân, cánh kiến, trầm hương, kỳ nam, gỗ quý…), tài nguyên biển (trai ngọc, đồi mồi, cá, mực…) được khai thác phục vụ xuất khẩu qua các cảng biển như Hội An (Quảng Nam), Thu Xà (Quảng Nghĩa). Các nghề thủ công nghiệp cũng khá phát đạt, gồm cả những nghề do cư dân Việt phía Bắc mang theo trong quá trình di dân (dệt chiếu, đan nón, làm gốm…), nghề của người Chăm (đóng thuyền, đan lưới…), nghề của một bộ phận người Hoa Minh Hương đến định cư (kẹo gương, làm nhang…). Thế nhưng đến giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, sự phát triển kinh tế - xã hội ở Đàng Trong đã dần dần tích tụ những mâu thuẫn nội tại với việc hình thành lớp người giàu, có quyền lực, chiếm hữu nhiều đất đai, bên kia là đại đa số nông dân nghèo khó, ruộng đất khai khẩn được bằng mồ hôi, nước mắt và cả xương máu dần dần rơi vào tay điền chủ, quan lại. Mối quan hệ chung lưng đấu cật giữa những người có của đi kinh dinh với số đông người lao động đã phai nhạt dần theo năm tháng. Đồng thời, nhiều mâu thuẫn giữa kẻ giàu với kẻ nghèo, người chiếm hữu và người bị chiếm hữu ngày càng trở nên gay gắt. Thêm vào đó do đặc điểm xã hội Đàng Trong, bộ máy cai trị về đại thể mang hình thức quân quản nên những người giàu có, nhiều ruộng đất, cũng đồng thời là tầng lớp tướng lĩnh hoặc quan lại xuất thân từ tướng lĩnh. Quá trình chiếm hữu ruộng đất của tầng lớp trên được hỗ trợ bằng các chính sách, chủ trương của nhà nước phong kiến mà trong đó, ngày càng nặng nề hơn là sự nghiệt ngã của chính sách sưu dịch, thuế khóa. Bên cạnh đó, sự quản lý chặt chẽ của các chúa Nguyễn đối với việc khai thác các nguồn tài
  • 18. 18 nguyên nhằm phục vụ xuất khẩu, mua sắm vũ khí và các mặt hàng xa xỉ khác đã làm cho tầng lớp thương nhân không thể hình thành, cho dù đã có một lực lượng khá đông đảo những người mua bán nhỏ lẻ, thu mua nông thổ sản, lâm sản, hải sản đã nhóm thành các “nậu” ở khắp vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi lúc bấy giờ. Bao trùm lên tất cả, chi phối tất cả các quan hệ phức tạp trên đây là mâu thuẫn giữa tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài và các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nếu như ở giai đoạn đầu mối quan hệ này đã gián tiếp thúc đẩy quá trình Nam tiến cũng như sự thịnh vượng của đất Thuận Quảng thì càng về sau, khi các chúa Nguyễn đã công khai ý đồ cát cứ, thì ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển đất nước ngày càng trầm trọng. Những cuộc chiến tranh triền miên giữa hai bờ sông Gianh, việc huy động một lực lượng lớn nhân tài, vật lực để đào hào, đắp lũy, mua sắm vũ khí, huy động tráng đinh bỏ ruộng vườn tham gia quân đội đã làm cho nền kinh tế Đàng Trong nói chung và Quảng Ngãi nói riêng rơi vào khủng hoảng. Người dân vốn đã khổ cực vì sưu cao thuế nặng, lại thêm nạn dịch binh, thiên tai, mất mùa…làm cho bội phần khốn đốn. Cuộc khởi nghĩa của anh em nhà Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ) từ vùng rừng núi Tây Sơn Thượng Đạo, nổ ra vào năm 1771, và nhanh chóng trở thành một phong trào nông dân rộng lớn. Từ Quy Nhơn, Quảng Ngãi phong trào này lan ra khắp đất Quảng Nam, rồi cả nước, cuốn cả tập đoàn phong kiến của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong và tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài, đánh bại cả quân Thanh xâm lược ở phía Bắc và quân Xiêm gây rối ở phía Nam. Ngay sau khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, ở miền Tây Quảng Ngãi, các ông Đa Phát Rang (chủ động Cao Muôn), Đa Phát Canh (chủ động Thạch Bích), Đinh Thung (chủ động Cà Đam) đã hô hào đồng bào các dân tộc ít người nổi dậy hưởng ứng cuộc khởi nghĩa, thiết lập 3 căn cứ kháng chiến ở vùng cao. Từ đây, phong trào nhanh lan xuống vùng thấp với việc hình thành các căn cứ: Sa Lang (tây nam Đức Phổ), Vực Liêm (tây Đức Phổ, Mộ Đức), Tây Giang (vùng giáp ranh Nghĩa Hành, Minh Long), Tuyền Tung (vùng giáp ranh Bình Sơn, Trà Bồng). Ngoài ra, quân Tây Sơn còn có các
  • 19. 19 chốt điểm hoạt động quan trọng ở Bến Thóc (huyện Mộ Đức), Lò Thổi (Tuyền Tung), Thiết Trường (huyện Mộ Đức), Trà Câu (huyện Đức Phổ) và đặc biệt là vùng rừng núi Cà Ty (nay thuộc xã Tịnh Trà, huyện Sơn Tịnh), tiếp giáp với xã Bình Chương, huyện Bình Sơn, nơi quân Tây Sơn xuất quân tiến đánh quân chúa Nguyễn tại dinh Quảng Nam (1773) và cũng là nơi Nguyễn Huệ tổ chức cuộc hội tụ quan trọng gồm các văn thần, mưu sĩ, tướng lĩnh cùng các đạo kỵ binh hùng mạnh trước giờ xuất quân đánh lấy Phú Xuân vào năm 1786. Từ khắp nơi trong phủ Quảng Nghĩa, nhiều bậc hiền tài đã hướng về nghĩa quân Tây Sơn, quy tụ dưới ngọn cờ anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Nhiều người trong số đó đã trở thành các yếu nhân của phong trào nông dân Tây Sơn, lập chiến công xuất sắc trong việc xóa sổ các tập đoàn phong kiến Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài, đánh bại quân xâm lược Mãn Thanh năm 1789, như: Thái phó Trần Quang Diệu (người làng Tú Sơn, xã Đứ Lân, huyện Mộ Đức); Đô đốc Nguyễn Văn Huấn và Đại tư mã Nguyễn Văn Danh (là hai anh em ruột, người làng Văn Hà, xã Đức Phong, huyện Mộ Đức); Đô Đốc Huỳnh Văn Thuận (người làng Dương Quang, xã Đức Thắng, huyện Mộ Đức); Đô đốc Trương Đăng Đồ (người làng Mỹ Khê, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh); … Cùng với nhân dân phủ Quy Nhơn (nay là tỉnh Bình Định), nhân dân phủ Quảng Nghĩa (nay là tỉnh Quảng Ngãi) đã có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp của nhà Tây Sơn và phong trào nông dân Tây Sơn. Trong lời Hịch truyền quan lại, quân dân của các phủ Quảng Nghĩa, Quy Nhơn đề ngày 10-9 năm Quang Trung thứ 5 (27-8- 1792), Quang Trung – Nguyễn Huệ đã khẳng định: “Tất cả các ngươi, lớn nhỏ từ hơn hai chục năm nay, đều luôn luôn chịu ân đức của nhà Tây Sơn ta. Sự thật, trong mấy chục năm qua, trẫm đã chiến thắng cả trong Nam, ngoài Bắc. Trẫm nhận rằng có được những chiến thắng ấy chính là nhờ có sự phù trợ hết lòng của nhân dân hai phủ. Hai phủ cũng đã tiến cử lên trẫm nhiều người trung dung, hiền tài để giúp triều đình” [32, tr.101].
  • 20. 20 Năm 1776, dưới thời Tây Sơn, phủ Quảng Nghĩa được đổi tên là phủ Hòa Nghĩa, kéo dài từ phía nam sông Bến Ván (Bản Tân) đến đèo Bình Đê và đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của vua Thái Đức – Nguyễn Nhạc. Triều Tây Sơn chỉ tồn tại ngắn ngủi, nhưng đã thực thi nhiều chính sách tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước, trong đó có phủ Hòa Nghĩa (Quảng Ngãi). Từ sau khi vua Quang Trung – Nguyễn Huệ qua đời (1792), nhà Tây Sơn nhanh chóng rơi vào khủng hoảng. Những mâu thuẫn xã hội tạm thời lắng dịu do ảnh hưởng và thanh thế của phong trào Tây Sơn trong buổi đầu dấy nghiệp cũng như tài năng, đức độ của Nguyễn Huệ, đến lúc này đã bộc lộ trở lại và ngày càng trở nên gay gắt hơn. Thêm vào đó, những lục đục trong nội bộ vương triều, do những tham vọng cát cứ, thâu tóm quyền lực của một số công thần, sự bất tài, nhu nhược của Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc, Đông Định vương Nguyễn Lữ, người kế vị Quang Trung là Quang Toản, và nhất là sự phản kích liên tục của tập đoàn Nguyễn Ánh từ phía Nam khiến nhà Tây Sơn trở nên suy yếu. Năm 1801, triều Tây Sơn sụp đổ. Nguyễn Ánh lên ngôi vua (1802), thiết lập vương triều Nguyễn, xây dựng và củng cố quyền lực trên toàn cõi đất nước. Tiểu kết Quảng Ngãi là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng không chỉ về mặt quân sự mà cả về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa. Trên mảnh đất núi Ấn – sông Trà mà thiên nhiên không mấy ưu đãi này, các thế hệ kế tiếp nhau sinh sống, đã lập nên những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể mang đậm sắc thái địa phương, un đúc nên những con người lao động cần cù, sáng tạo, đánh giặc giỏi, thông minh, nhân hậu, thời nào cũng xuất hiện những nhà quân sự tài ba, những bậc anh hung hào kiệt như sách Đại Nam nhất thống chí chép: “Đất bạc, dân chăm, tính tằn tiện, không xa hoa, người quân tử thích việc nghĩa, giữ khí tiết…Địa thế tuy hẹp mà khí mạch tốt, nên đời nào cũng có
  • 21. 21 người làm đến quan to chức trọng, bước đường thanh thản, trọn được danh vọng…” [48, tr. 356-357]. Vào thế kỷ XV – XVI, địa giới và dân cư Quảng Ngãi được dần ổn định. Đến thế kỷ XIX, trải qua thời Gia Long, Minh Mạng, các vị vua đầu triều Nguyễn đã cố gắng tổ chức bộ máy hành chính các cấp nối liền giữa triều đình và các cấp cơ sở tạo thành một hệ thống tương đối chặt chẽ. Quảng Ngãi cũng như các miền đất khác, nhà Nguyễn đã thiết lập ở đây một bộ máy hành chính các cấp một cách hoàn chỉnh, tập trung, góp phần vào công cuộc ổn định kinh tế - xã hội nơi đây.
  • 22. 22 CHƯƠNG 2. KINH TẾ QUẢNG NGÃI DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802-1885) 2.1. Nông nghiệp 2.1.1. Tình hình ruộng đất Vào thế kỷ XIX, ở Việt Nam, nông nghiệp là hoạt động chính và cung cấp tài nguyên chính yếu. Dưới thời nông nghiệp cực thịnh, phần ruộng đất là quan trọng hơn cả. Dân gian trông cậy vào đó để sinh tồn và phát triển. Triều đình nhờ đó thu thuế để nuôi quân và điều hành việc nước. Ở Quảng Ngãi nửa đầu thế kỷ XIX vẫn tồn tại hai loại hình sở hữu ruộng đất chủ yếu là công điền, công thổ (sở hữu nhà nước) và tư điền, tư thổ (sở hữu tư nhân). Công điền công thổ lại chia ra hai loại: quan điền, quan thổ và công điền, công thổ. Quan điền, quan thổ là những loại ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và do quan chức quản lý như tịch điền, quan xá thổ, quân trại thổ, quan trại điền, quan đồn điền, quan tiêu viên…Đối với mỗi loại ruộng đất đó, quan chức quản lý theo những quy chế mà triều đình đã định riêng cho mỗi loại. Tựu trung về mặt sử dụng, thường chia làm hai phần: phần công dụng như quan xá thổ và phần dân dụng như quan trại điền. Phần công dụng thì ít mà phần dân dụng thì nhiều.Song dân dụng thì phải đóng thuế, thuế này cao hơn thuế các loại công điền công thổ hay tư điền tư thổ [15, tr.10]. * Quan điền, quan trại Đây là loại ruộng ngụ lộc, thưởng lộc, chế lộc, quan điền, quan điền trang, quan đồn điền, quan trại… Loại quan điền, quan trại phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền Trung từ Nghệ An trở vào, tuy nhiên số lượng không nhiều. Ở Quảng Ngãi, loại này có tồn tại nhưng chiếm
  • 23. 23 tỷ lệ ít, theo địa bạ Quảng Ngãi lập năm Gia Long thứ 12 (1813) toàn diện tích thực canh ở Quảng Ngãi là 48.446 mẫu, trong đó quan điền chiếm 587 mẫu, quan thổ 6 mẫu [15, tr. 91-92]. Năm 1822, Minh Mạng cho chuyển dần quan điền quan trại thành ruộng công làng xã và đến giữa thế kỷ XIX cơ bản quan điền, quan trại không còn tồn tại nữa. * Đồn điền Đồn điền là một hình thức khai hoang vốn xuất hiện từ thời Trần, nhà Lê phát triển thêm một bước và tiếp tục duy trì cho đến nhà Nguyễn. Trước năm 1802 trong quá trình xây dựng lực lượng của mình, nhằm đốc thúc binh lính và nhân dân khai khẩn đất hoang, Gia Long đã sáng lập ra các loại đồn điền mới. Tinh thần đó được tiếp tục dưới thời Nguyễn vào thế kỷ XIX. Kể từ 1802, các loại đồn điền vẫn duy trì khắp trên toàn quốc, kể cả Nam Kỳ, Trực Kỳ, Bắc Kỳ. Ở miền Trung, năm 1804 các loại đồn điền do binh lính canh tác được mở thêm nhiều ở toàn hạt Quảng Ngãi trên cơ sở các liên cơ binh lính địa phương. Công điền, công thổ là những loại ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và để cho xã thôn quản lý theo quy định của triều đình như cách chia ra khẩu phần và thời gian phân chia lại. Vào đầu thế kỷ XIX, một tình trạng chung là ruộng đất công làng xã bị thu hẹp dần. Năm 1852 khi được vua Tự Đức hỏi về ruộng công, ruộng tư ở các tỉnh, Thượng thư bộ Hộ là Hà Duy Phiên tâu: “Thừa Thiên, Quảng Trị ruộng công nhiều hơn ruộng tư. Quảng Bình thì ruộng công, ruộng tư bằng nhau.Còn các hạt khác thì ruộng tư nhiều mà ruộng công ít, tỉnh Bình Định lại càng ít hơn” [59, tr.238]. Theo địa bạ Quảng Ngãi thì ruộng đất công làng xã chỉ có 7.406 mẫu trong tổng số 48.446 mẫu diện tích thực canh, chiếm tỉ lệ 15,29% [15, tr. 91-92].
  • 24. 24 Ruộng đất công ở đây chiếm đa số một phần là do kết quả của công cuộc khai hoang mở đất lập làng từ các thế kỷ trước. Tuy nhiên, tỷ lệ phân bố ruộng đất công trong tỉnh cũng không đồng đều cho các huyện và các xã thôn, cụ thể là huyện Bình Sơn trong tổng số diện tích ruộng thực canh 19.948 mẫu thì công quan điền thổ chỉ chiếm hơn 2.765 mẫu (13,86%), tương tự huyện Chương Nghĩa công quan điền thổ là 1.502 mẫu trong tổng số 11.624 mẫu, chiếm tỷ lệ 12,92% và huyện Mộ Hoa công quan điền thổ là 3.138 mẫu trong tổng số 16.873 mẫu (18,6%) [15, tr. 92-93]. Theo Nguyễn Đình Đầu, trong 230 làng còn địa bạ ở Quảng Ngãi thì có 60 làng có dưới 100 mẫu ruộng đất và 20 làng có trên 500 mẫu ruộng đất. Còn 150 làng ở giữa, có từ 100 đến 500 mẫu ruộng đất. Tiêu biểu như ở xã Đại Nham (Tổng Hạ, huyện Chương Nghĩa) có 6 mẫu và xã Vạn Phước Tứ (Tổng Thượng, huyện Mộ Hoa) có 1.532 mẫu, tức cách nhau tới 251 lần. Những làng theo nghề đánh cá hay làm mắm muối tất nhiên sẽ có ít ruộng đất. Những làng ở ven biển hay gần rừng, có nhiều đất hoang nhàn mà ít ruộng đất canh tác [15, tr. 94]. Nhà Nguyễn đã có nhiều biện pháp nhằm bảo vệ ruộng đất công làng xã thành cơ sở kinh tế phù hợp với chế độ đương thời. Để gia tăng diện tích, nhà Nguyễn không ngần ngại sung công ruộng đất tư, ruộng đất bỏ hoang, không thể cày cấy được làm công điền. Các vua Nguyễn, nhất là vua Tự Đức đã đánh thuế ruộng công nhẹ hơn ruộng tư và cùng với các chính sách tô thuế của nhà nước ở Quảng Ngãi cũng góp phần củng cố công điền. Xưa kia, tuyệt đại đa số dân ta sống theo nghề nông, tức phải có ruộng đất. Quảng Ngãi tương đối không có nhiều ruộng đất nhưng sự phân bố giữa các cá nhân không đến nỗi quá chênh lệch. Chế độ công điền, công thổ cũng là một định chế giúp cho người không có sản nghiệp được chia khẩu phần ruộng đất để làm ăn và cư ngụ. Tiêu biểu hơn cả là Tổng Trung của huyện Mộ Hoa có tỷ lệ ruộng công khá cao, cụ thể là ở một số xã thôn:
  • 25. 25 Tên xã thôn Diện tích công điền Diện tích tư điền Thôn Đông Ngạn Xã Lộ Bôi Xã Miên Trường Xã Nga Dân 56 mẫu 231 mẫu 224 mẫu 146 mẫu 12 mẫu 331 mẫu 224 mẫu 149 mẫu [15, tr. 98]. Tư điền, tư thổ là loại ruộng đất không thuộc sở hữu nhà nước, mà thuộc tư nhân vừa sở hữu vừa quản lý, tự do mua đi bán lại, song phải khai báo để lập sổ địa bạ hay điền bạ. Tư nhân có thể là cá nhân, là tộc họ, tập thể hay làng xã (bổn thôn điền, bổn thôn xã). Bước sang thế kỷ XIX, ruộng tư có xu hướng phát triển và ngày càng có địa vị thống trị. Ở một số địa phương, ruộng đất công chỉ là một con số nhỏ bé. Điều này có nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhà nước là chủ sở hữu ruộng đất hoang trong nước và do nhu cầu của xã hội về lương thực nên các triều đại phong kiến cho đến các địa chủ phong kiến đứng ra khai hoang. Số ruộng khai hoang được phần lớn trở thành tư điền. Hơn nữa, bọn quan lại chiếm đoạt ruộng đất công làng xã biến thành ruộng tư. Đầu thế kỷ XIX, sở hữu tư nhân về ruộng đất ở Quảng Ngãi chiếm vị trí bao trùm. Theo ghi chép địa bạ của Nguyễn Đình Đầu, ruộng tư ở Quảng Ngãi là 41.040 mẫu, chiếm tỷ lệ 84,71% [14, tr. 91]. Trong đó, huyện Bình Sơn là 17.182 mẫu chiếm tỷ lệ 86,14%, huyện Chương Nghĩa là 10.122 mẫu chiếm tỷ lệ 87,08% và huyện Mộ Hoa là 13.734 mẫu chiếm tỷ lệ 81,4% [15, tr. 92-93] . Tuy nhiên, cũng giống như ruộng đất công, sự phân bố ruộng đất tư giữa các huyện, xã, thôn ở Quảng Ngãi không giống nhau. Những nơi có diện tích ruộng tư lớn: huyện Bình Sơn có Tổng Trung ruộng tư 9.925 mẫu (87,44%), thuộc Hà Bạc là 1.724 mẫu (90,27%); huyện Chương Nghĩa có Tổng Hạ ruộng tư 749 mẫu (96,65%), thuộc Đồn Điền là 2.256 mẫu (96,25%) và Tổng Hạ thuộc huyện Mộ Hoa là 1.588 mẫu (98,52%).
  • 26. 26 Tư hữu là xu hướng phát triển mang tính tất yếu của lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XIX và Quảng Ngãi không nằm ngoài quy luật đó. Bên cạnh những nơi có tỷ lệ ruộng đất công ít ỏi tồn tại ở các vùng trong tỉnh còn có những nơi không còn ruộng đất công, cụ thể như ở Nội Phủ (huyện Bình Sơn) toàn bộ diện tích ruộng đất là 65 mẫu đều là tư điền [15, tr. 187]; tương tự thuộc Hà Bạc, thuộc Hoa Châu của huyện Chương Nghĩa ruộng đất tư chiếm tuyệt đại đa số [15, tr. 187] và huyện Mộ Hoa có thuộc Đồn Điền, ruộng đất tư là 521 mẫu chiếm tỷ lệ 100% [15, tr. 264]. Nhìn chung, tư hữu hóa ruộng đất là xu thế phát triển của chế độ ruộng đất ở Quảng Ngãi thế kỷ XIX. Phân hóa và tập trung ruộng đất, dù ở nơi này hay nơi khác trong tỉnh đã đạt trình độ khá cao. Đó là kết quả của chính sách khai hoang cũng như quá trình thâu tóm ruộng đất của giới cầm quyền. 2.1.2. Nông nghiệp 2.1.2.1. Khai hoang Cũng giống như các triều đại phong kiến khác, từ khi nhà Nguyễn lên cầm quyền đã luôn chú trọng đến công tác khai khẩn ruộng đất bỏ hoang.Suốt trong thời gian 1802 – 1885 vấn đề khai hoang thường xuyên được triều đình đưa ra bàn bạc với những hình thức và biện pháp cụ thể.Mục đích chủ yếu của chính sách khai hoang dưới triều Nguyễn là nhằm giải quyết nạn nông dân lưu tán, nguồn gốc của những cuộc khởi nghĩa nông dân.Đồng thời nó còn bao hàm cả ý nghĩa về mặt quân sự.Thế kỷ XIX, nạn nông dân xiêu tán ngày càng trở nên phổ biến.Chính vì vậy mà ruộng đất bỏ hoang ngày càng nhiều.Bên cạnh đó, bọn quan lại, cường hào lại cướp đoạt ruộng đất của nông dân, khiến cho họ không có tư liệu để sản xuất nên nạn đói thường xuyên xảy ra, đe dọa cuộc sống của người nông dân.Để giảm bớt phần nào mâu thuẫn giữa triều đình với nhân dân, mà chủ yếu là nông dân buộc nhà nước phong kiến phải tìm mọi cách để mở rộng diện tích đất canh tác. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838) dụ rằng:
  • 27. 27 Nay Nam, Nghĩa, Bình, Trị bốn tỉnh đã đệ trù sách về, ta xem kỹ thì bọn Lê Văn Giảng 26 tên, từ các tỉnh giải về Thừa Thiên tha xiềng cùm cho lên sở khai khẩn ở Tả Trạch. Nguyên mở mang làm ruộng, đó là gia ân cho được an toàn sinh mạng, nếu còn nhác nhớn, thì trọng trị, nếu trốn tránh bắt được thì xử tử không tha [74: MM, 56, tr. 153]. Vấn đề khai hoang giữ một vị trí quan trọng trong chính sách nông nghiệp của nhà Nguyễn. Đứng về mặt quyền lợi bản thân, nhà nước phong kiến đẩy mạnh hoạt động khai hoang là nhằm thỏa mãn nhu cầu xa xỉ của triều đình. Hơn nữa, triều đình không thể làm ngơ trước hiện tượng nông dân bị cướp đoạt ruộng đất, bị nạn đói luôn luôn đe dọa.Vì thế mà nhà nước phải tích cực khai khẩn ruộng đất bỏ hoang để mở rộng diện tích canh tác. Mặt khác để tăng thêm nguồn thu nhập cho nhà nước, tập trung ruộng đất vào tay mình cũng như giải quyết những vấn đề xã hội, an ninh, quốc phòng. Để khuyến khích nhân dân tự động khai hoang đạt kết quả tốt, nhà Nguyễn đã có nhiều hình thức thưởng phạt đối với những người khai hoang và cai mộ. Lệ thưởng phạt cho người khai hoang rất lớn. Năm 1841, vua Thiệu Trị định lệ thưởng 20 quan tiền cho ai mộ được 5 suất đinh, khai khẩn được 50 mẫu ruộng đất trở lên, thưởng 40 quan tiền cho ai mộ được 10 suất đinh, khai khẩn được 100 mẫu ruộng đất hoang trở lên, thưởng 60 quan tiền cho ai mộ được 15 suất đinh, khai khẩn được 150 mẫu ruộng đất hoang trở lên [58, tr. 180]. Cùng với khai hoang, việc phục hóa tận dụng những vùng đất ven sông, đồi núi chưa canh tác trồng trọt đã được thực hiện một cách rộng khắp trong cả nước và ở Quảng Ngãi là một ví dụ. Tháng 5 năm Minh Mạng thứ 12 (1831) nhà vua định lệ xét phủ, huyện khuyên dân trồng cây suốt trong cả nước, bên đường, bên bờ, bên sông, bờ khe, rừng núi, phàm nơi nào bỏ hoang, cho phép ai mà khai khẩn trước, hạn trong ba năm coi số nhiều hay ít, công siêng hay nhác tâu lên nhà vua. Nếu
  • 28. 28 đã đến ba năm mà đất còn bỏ hoang nhiều thời hạn tham nghỉ phạt, để phân biệt kẻ siêng người nhác [52, tr. 200]. Thế kỷ XIX công cuộc khẩn hoang của triều Nguyễn phát triển khá mạnh so với các thế kỷ trước.Theo thống kê của Bộ Hộ thì số công tư điền thổ năm Gia Long thứ 18 (1819) ở Quảng Ngãi hơn 60.000 mẫu [53, tr. 1001]. Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí được viết vào thời Tự Đức thì số điền thổ toàn quốc là 4.617.343 mẫu ruộng đất công tư. Trong đó ở Quảng Ngãi có hơn 50.934 mẫu, các thành quả kể trên cũng là một thành công lớn của sự kết hợp giữa nhà nước và nhân dân. Tuy nhiên, đến thời Tự Đức chính quyền phong kiến đã có những biểu hiện thoái hóa, nhân dân lại nổi lên chống đối triều đình, nạn nông dân lưu tán lại xảy ra nên số lượng ruộng đất bỏ hoang lại nhiều thêm. Tình hình đó đã làm cho đời sống của người nông dân không được cải thiện. 2.1.2.2. Thủy lợi Trong sản xuất nông nghiệp, ông cha ta đã đúc kết “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Gắn liền với nông nghiệp là thủy lợi. Từ khi tỉnh Quảng Ngãi được thành lập, nhờ vào bộ máy chính quyền tương đối mạnh và ổn định, huy động được sức dân, hệ thống thủy lợi ở Quảng Ngãi có sự phát triển đáng kể. Nhiều sông đào, hồ đập, kênh dẫn nước được xây dựng từ nguồn đầu tư của nhà nước và sự đống góp của nhân dân như kênh Vĩnh Lợi ở Mộ Đức, đập An Sơn ở Tư Nghĩa, đập Bầu Cá ở Sơn Tịnh…Đặc biệt là hệ thống guồng xe lấy nước trên sông Trà Khúc và sông Vệ xây dựng bằng nguồn nhân lực trong dân, nhưng sự chăm lo của nhà nước bằng các chính sách ưu đãi về thuế, huy động nhân lực để bảo dưỡng, duy tu nên đã đáp ứng được nhu cầu cấp nước cho một diện tích đồng ruộng đáng kể. Một trong những kỳ tích trong công tác thủy lợi ở Quảng Ngãi là việc đặt các bờ xe nước trên sông Trà Khúc và sông Vệ. Mỗi bờ xe nước có từ 3 đến 10 bánh rất lớn xếp thành hàng, quay liên tục trên sông để tưới nước cho các cánh đồng hai bên bờ
  • 29. 29 sông Vệ và sông Trà Khúc. Chính ở làng Bồ Đề (huyện Mộ Đức) trên sông Vệ đã tìm thấy những guồng nước đầu tiên ở Quảng Ngãi. Dưới thời Nguyễn, các guồng xe nước ở Quảng Ngãi vẫn tiếp tục mở rộng phát triển, thời Minh Mạng (1835) các guồng nước mới được lắp đặt trên sông Trà Khúc. Để tạo điều kiện cho các guồng xe nước được dựng đặt, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, các vua Nguyễn có chính sách ưu đãi như 1874 vua Tự Đức đã quy định cho làng Bồ Đề được vay 500 quan kẽm để dựng đặt xe nước. Trước đó, năm 1870 quan bố chánh Quảng Ngãi là Nguyễn Thông dâng sớ tâu xin vua cho Bồ Đề, Năng An và các làng lân cận được miễn thuế “biệt nạp” 80 quan đánh vào bờ xe nước. Sớ tâu như sau: “Lại xét rằng hạt của thần thuế biệt nạp chỉ có ở thôn Đông Dương – xã Văn Lâm, Long Phụng, thôn Phước Lộc – xã Bồ Đề, xã Năng An phải nộp thuế guồng nước đồng viên hơn 80 quan. Song nghề nông không cần gì bằng nước, việc đắp đập khơi ngòi là làm lợi cho dân dù tiêu tốn công quy triều đình cũng không tiêc, huống chi kẻ tiểu nhân tự lo lấy mà lại theo bắt nộp thuế sao?” [?]Vua Tự Đức cho miễn thuế. Từ xa xưa, người dân Quảng Ngãi đã biết đắp đập để ngăn mặn, giữ ngọt, đào kênh lấy nước tưới cho đồng ruộng. Đào sông là việc trọng đại nên sông đào không nhiều, nhưng việc đào kênh, đắp đập là việc vừa tầm của các làng xã, lại là việc bức bách của vùng đồng bằng Quảng Ngãi có thế đất cao thấp khác nhau. Kênh Vĩnh Lợi còn có tên gọi khác là Đồng Giang, chảy qua các xã Đồng Giang, Hào Môn, Hải Châu, Vạn An, Tân Quan và Thái Bình, rồi rẽ vào phía đông sau lại đổ vào sông Vệ. Lòng sông quanh co bể hẹp, lâu ngày bị lấp, hóa thành đất bằng, nhà nông gặp nhiều khó khăn. Năm Tân Mùi, niên hiệu Tự Đức (1871), nghị định theo lòng kinh cũ khai khẩn dẫn nước vào tưới ruộng để giúp dân cày. Phái viên của triều đình hội đồng với tri phủ Tư Nghĩa là Trần Dự đo khối đất, thuê nhân công, đang làm dở thì bị khiển trách bỏ chức, công việc hầu phải xếp lại. Rồi quan Đại Tư không Thượng thư Bộ Công là
  • 30. 30 Nguyễn Văn Bính (người Bắc Ninh) tâu xin cho ông trở lại trông coi việc đào kinh cho hoàn thành…đến năm Nhâm Thân (1872) thì hoàn thành, trên kênh có đặt xe nước [69, tr. 238]. Một trong những công trình thủy lợi đáng chú ý được xây dựng tại Quảng Ngãi là đập Ông Cá, sau gọi là đập Đinh Gia. Đập do trung phò họ Nguyễn chủ trì xây dựng vào đời Lê Cảnh Hưng, tại làng Trà Bình Trại, huyện Bình Sơn (nay thuộc xã Tịnh Trà, huyện Sơn Tịnh). Sau này ông Đinh Duy Tự (1807-1888) người làng Trà Bình Trại, đã từng làm quan đời vua Thiệu Trị, giữ chức Cung trung giáo tập tại cung đình Huế, lúc 50 tuổi (1856) ông về hưu tại quê nhà và chịu trách nhiệm đứng ra tổ chức dân làng đắp lại đập này. Trong bài “Đinh Gia yển ký” tác giả Nguyễn Thông có chép: “Cụ Đinh chịu trách nhiệm xem địa hình, thủy thổ mở ra một dòng kênh lớn vòng quanh ba thôn Thạch Đông, Thạch Nội, Ngọc Trì. Dựa theo dấu vết của đập cũ của ngài trung phò hầu mà tu sửa lại. Bên mé bờ đập đục đá để làm mương phóng thủy, chảy xuống lại tổng Bình Trung và Bình Hạ. các cụ phụ lão đôn đốc con cháu đi đắp đập này, chỉ trong vòng 4 tháng là xong. Từ thu sang đông mưa nguồn đột nhiên đổ về, đập không hề bị sạt lở. Ruộng nương ba thôn được tắm đầy đủ.Những loại như hoa sen, bèo, ốc, hến, cua đem lại cho dân trong vùng một nguồn lợi lớn” [69, tr. 240-241]. Trong công cuộc trị thủy và thủy lợi ở Quảng Ngãi, dù là những công trình của nhà nước hay của huyện, của xã thì người dân bao giờ cũng đóng vai trò quan trọng đầu tiên. Nhà nước và nhân dân cùng hợp sức, trong đó nổi bật hơn hết là tính chủ động và đoàn kết của nhân dân địa phương.Họ nhận thức được rằng việc xây dựng hệ thống thủy lợi tốt thực sự mang lại lợi ích cho nghề nông, thuận lợi cho việc đi lại sản xuất, buôn bán giữa các làng.Hơn thế nưa giao thương được thong suốt, góp phần đẩy mạnh kinh tế nông nghiệp phát triển. Mùa màng tốt tươi, phố chợ sầm uất. Điều đó có tác dụng không nhỏ đến tình hình kinh tế cũng như chính trị, xã hội của vùng đất này. 2.1.2.3. Canh tác
  • 31. 31 Quảng Ngãi là một tỉnh nhỏ ở miền Trung, điều kiện khí hậu, thời tiết, địa hình, kể cả điều kiện sản xuất thô sơ, mà sản xuất ở Quảng Ngãi vẫn khó phát triển. Để có thể sinh tồn, người dân Quảng Ngãi đã phải chịu đựng cảnh thiếu thốn, lao động hết sức cực nhọc. Quanh năm, suốt tháng hết lúa đến khoai, hết khoai đến mía, hết mía đến bắp, trừ những trường hợp bất khả kháng như lụt bão, hạn hán, không khi nào người dân chịu để đất nghỉ. Do địa hình có đồng bằng, gò đồi xen kẽ nên nhiều khi trên cùng một vùng mà nơi này gặt lúa, đầu kia cày ruộng, đằng trước phạt mía, đằng sau cuốc đất. Nhà nông chăm lo trồng tỉa nhưng do đất xấu nên hàng năm thu hoạch không được bao nhiêu, thường dùng khoai, đậu trộn lẫn vào cơm gạo mới đủ ăn. Sản phẩm chính của nông nghiệp Quảng Ngãi trong thời kỳ này là lúa, mía và các loại cây trồng khác như: mì, khoai lang, đậu phụng, dâu tằm,… Ruộng thì có các loại: ruộng một vụ, hai vụ lúa, cũng có một ít ruộng ba vụ. Các giống lúa trong thời kỳ này chủ yếu là ba trăng, trì trì, tàu núp, chiêm ngự, bát nguyệt. Đây là những giống lúa địa phương có từ xa xưa, thích hợp với điều kiện tự nhiên của nhiều vùng. Ngoài ra còn có các giống lúa như xâu chuỗi, lúa vung, lúa tiễn, lúa cự, lúa cúc, lúa bông rinh. Các loại lúa này thường gieo trên các nương rẫy ở miền núi [71, tr. 306]. Tùy theo địa hình và nguồn nước tưới mà cây lúa ở đồng bằng thường cấy vào nhiều vụ khác nhau trong năm. Thường thì tháng 2 gieo mạ cây lúa bát nguyệt, tháng 8 cấy lúa tàu núp, tháng 10 cấy lúa ba trăng, bông rinh, tháng 12 cấy lúa trì trì. Ở miền núi, người Hrê biết trồng lúa nước, biết làm các đập bổi để lấy nước`tưới cho lúa.Người Ca dong và người Cor làm nương rẫy là chủ yếu.Thường thì đầu tháng 6 dọn nương, đốt rẫy chờ mưa giông tới trồng lúa, bắp [71, tr. 306]. Bên cạnh cây lúa, cây mía dân dần phát triển và trở thành cây trồng đặc chủng truyền thống của Quảng Ngãi. Ngay từ thời nhà Nguyễn, triều đình có lệ hàng năm đặt mua đường cát ở Quảng Ngãi. Điều đó cho thấy nghề trồng mía, làm đường ở Quảng
  • 32. 32 Ngãi thuộc loại bậc nhất trong nước thời bấy giờ. Chẳng hạn, năm 1822 Nguyễn Văn Hưng trấn thủ Quảng Ngãi tâu: “Chúng ta đã mua được 100 tạ mật mía, giá mỗi tạ 2 quan, đựng vào 2515 chum, cho 13 chiếc thuyền chở ra kinh phụng nạp” [74: MM, 69, tr. 226]. Nghề trồng dâu nuôi tằm phát triển ở vùng bãi bồi ven các sông lớn như Trà Khúc, Phước Giang, Sông Vệ. Từ tháng Giêng đến tháng 9, tháng nào cũng nuôi tằm được. Tuy nhiên, vào mùa đông trời rét, lá dâu vàng rụng nên việc nuôi tằm thưa thớt. Năm 1833, tuần phủ Quảng Nam – Quảng Ngãi là Đỗ Khắc Thư tâu báo: “Nuôi tằm, ươm thành tơ được hơn 100 cân, đem dâng”[55, tr. 889]. 2.2. Thủ công nghiệp 2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển Nghề thủ công ở Quảng Ngãi đã hình thành, tồn tại và phát triển khá sớm. Dưới thời vương quốc Chămpa, nghề khảm xà cừ đã khởi sắc. Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục: “Tại các nước Chiêm Thành, Cao Miên, những cái bàn, cái hộp đã được khảm xà cừ, người ta lại đem khảm thêm thủy tinh nhỏ hình vuông vào, làm cho sắc xanh và sắc biết xà cừ lại nổi bật lên” [18, tr. 403]. Các nghề thủ công của người Việt ở Quảng Ngãi đã hình thành cùng lúc với sự di cư của người Việt đến mảnh đất này, khoảng cuối thế kỷ XV dưới thời nhà Lê. Đến thời chúa Nguyễn nghề thủ công càng phát triển, trong đó nghề dệt vải và dệt lụa ở Quảng Ngãi đã có tiếng vang nhất định: “Về phủ Quảng Nghĩa thì có xã Long Phụng thuộc huyện Mộ Hoa theo lệ phải nộp thuế lụa là 2 tấm 7 thước 5 tấc 8 phân và được nộp tiền thay thế là 11 quan 2 tiền 3 đồng” [18, tr. 405]. Xã Thanh Hiếu thuộc huyện Mộ Hoa, cũng theo tỷ lệ phải nộp 1170 tấn vải trắng để thay thế việc nộp sưu và bắt lính [18, tr. 407]. Đặc biệt là nghề nấu rượu và nghề làm mật đỏ ở Quảng Ngãi thời kỳ này rất phát triển. Phủ biên tạp lục chép: “Xã Thanh Hiếu thuộc huyện Mộ Hoa hằng năm phải nộp cho Ty lệnh sử 5 chỉnh rượu; thôn Nghĩa Lập thuộc huyện Chương
  • 33. 33 Nghĩa hằng năm phải nộp 2.753 chỉnh, mật đỏ để khấu trừ các khoản tiền phải nộp và 730 chỉnh mật ấy để thế số thuế tô ruộng. Ngoài ra, thôn ấy còn phải nộp cho quan Cai trường 20 chỉnh mật ong đỏ nữa”[18, tr.425-426]. Nghề thủ công ở Quảng Ngãi hầu hết đều có nguồn gốc từ những nông dân miền Bắc di cư vào Nam trong các thế kỷ XV, XVI và một bộ phận nhỏ từ người Hoa truyền vào như nghề làm kẹo gương, nghề làm nhang; người Chăm truyền lại như nghề đóng thuyền, đan lưới. Từ vùng Thanh – Nghệ - Tĩnh, người dan vào khai phá mở rộng vùng đất Quảng Ngãi mang theo một số nghề thủ công như nghề mộc, dệt chiếu, làm nón, đan lát, đúc đồng, làm gốm, chế tác sừng… đã kết hợp và phát triển các nghề đã có từ trước (thời văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chăm) trên vùng đất này, tạo nên các nghề mang tính đặc thù của vùng đất xứ Quảng như gốm, đúc đồng, mía đường, mạch nha, kẹo gương, chế tác đá, nuôi tằm, dệt vải, làm mắm, luyện sắt, sự kết hợp hài hòa và quyện lẫn các nghề vào nhau mang tính chất đa tuyến này đã làm cho nghề thủ công ở Quảng Ngãi trở nên phong phú, đa dạng, phù hợp với điều kiện yêu cầu ở địa phương, làm giàu thêm đặc trưng bản sắc văn hóa một vùng kinh tế. Làng nghề thủ công cổ truyền tiêu biểu đã tồn tại và phát triển trên đất Quảng Ngãi hết sức đa dạng như: làng gốm (Mỹ Thiện, Bồ Đề, Thanh Hiếu, Chí Trung), xóm đan (Tịnh Hà, Hành Đức), xóm chiếu (Thu Xà), làng đúc (Chú Tượng), xóm rèn (Tịnh Hà, Tịnh Minh)…Cơ cấu của các làng nghề này được tổ chức khá chặt chẽ, các thành viên trong làng đều được tôn trọng, nâng đỡ và bảo vệ quyền lợi, người ta truyền đạt cho nhau những kinh nghiệm để làm ra sản phẩm được tốt hơn, ít có hiện tượng giấu nghề. Hầu hết các làng nghề đều có một tổ nghề, người có công đầu tiên khai sinh nghề và truyền lại cho các thế hệ sau. Các nghề đều có ngày giỗ tổ nghề hàng năm, việc cúng giỗ đều thống nhất một ngày và tự bản thân gia đình hành nghề lo cúng. 2.2.2. Các làng nghề tiêu biểu 2.2.2.1. Nghề làm gốm
  • 34. 34 Trên vùng đất Quảng Ngãi, nghề gốm đã có từ lâu đời, sản phẩm của nó gắn liền với sinh hoạt hàng ngày của con người thuở xa xưa. Vào thời tiền sử, cư dân văn hóa Sa Huỳnh đã sản xuất đồ gốm với nhiều kiểu dáng đẹp, phong phú về loại hình, đường nét hoa văn sắc sảo, họa tiết trang trí công phu, đa dạng, đạt trình độ cao cả về kỹ thuật và tạo dáng. Đồ gốm sản xuất vào thời kỳ này bao gồm các loại: nồi, bát bồng, bình cổ cao, vò gốm tang người chết, đồ minh khí…Vào giai đoạn văn hóa Chămpa, đồ gốm có độ nung cao hơn, có loại nung thành sành, kỹ thuật tráng men nâu, men xanh ngọc, men vàng khá phổ biến trên các đồ dùng sinh hoạt như chén, đĩa, nồi, vò. Tuy nhiên, đến thế kỷ XVI, XVII nghề gốm ở Quảng Ngãi mới phát triển mạnh, song song với quá trình định cư của người Việt từ Bắc vào. Theo Quảng Ngãi tỉnh chí của Nguyễn Bá Trác, toàn tỉnh Quảng Ngãi có các lò gốm ở Mỹ Thiện (huyện Bình Sơn), Đông Thành, Đại Lộc (huyện Sơn Tịnh), Thanh Hiếu, Chí Trung (huyện Đức phổ), Bồ Đề (huyện Mộ Đức). Những làng gốm này sản xuất các loại đồ dùng như vò, hũ, nồi, trả, vại, chậu với nhiều kiểu dáng đẹp [66, tr. 114]. Trong các làng gốm ở Quảng Ngãi thì làng gốm ở Mỹ Thiện có nghề làm đồ gốm phát triển nhất.Nơi đây đã sản xuất được những đồ gốm có tráng men từ thế kỷ XIX. Làng gốm Mỹ Thiện nay thuộc địa phận thị trấn Châu Ơ, huyện Bình Sơn, nằm trên đường thiên lý Bắc – Nam (nay là Quốc lộ 1) cho nên việc buôn bán giao thương rất thuận lợi. Mặt khác, làng gốm lại nằm ven sông Trà Bồng, sản phẩm xuất ra khỏi lò được vận chuyển đi nơi khác rất dễ dàng bằng đường sông, xuôi dòng ra cửa Sa Cần, hay ngược nguồn đến các làng miền núi. Xưa kia, gốm Mỹ Thiện (dân gian gọi là gốm Châu Ổ) đã có mặt khắp nơi trong tỉnh, ở các tỉnh lân cận như Quảng Nam, Đà Nẵng, bắc Bình Định, Tây Nguyên. Các sản phẩm vò, chum, chậu kiểng tráng men giả cổ Mỹ Thiện đã có khá nhiều ở thị trường. Hàng năm, vào ngày mùng 9 tháng Giêng (Âm lịch), khi bắt đầu khởi công hành nghề, cùng một lúc các lò tổ chức cúng tổ nghề theo hình thức cúng riêng rẽ. Mỗi lò (gọi là khẩu lò) gồm các thợ lò và bạn lò đứng ra cúng theo trình tự cúng thần, cúng cô hồn rồi đến cúng tổ nghề [82].
  • 35. 35 Sản phẩm gốm xuất lò có các loại: chum lớn loại 100 lít, ghè loại 60 lít, ché rượu cần, chậu kiểng, thạp, hũ, bùng binh (hũ đựng tiền tiết kiệm), bình hoa, nồi, ấm chè, cối tiêu…Ngoài gốm thông thường, làng gốm Mỹ Thiện còn sản xuất các loại gốm tráng men. Men sử dụng để tráng có các loại men nâu đen, men vàng và men nâu sành.Men được chế tạo từ đồng, chì, đá son. Các chất này thường được pha trộn, nếu muốn màu vàng thì loại bỏ đồng, màu men nâu thì tăng hàm lượng chì. 2.2.2.2. Nghề đúc đồng Giai thoại về chuông thần ở chùa Thiên Ấn có nói đến chiếc chuông lớn ở chùa này xuất hiện vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826) hoặc có thể sớm hơn [76, tr. 93]. Bên cạnh tính chất huyền thoại của câu chuyện, một sự thật hàm chứa trong đó mà ta có thể rút ra: tác giả của chiếc chuông lớn nổi tiếng này không ai khác hơn là những người thợ đúc, những nghệ nhân tài hoa của làng Chú Tượng, thuộc xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức. Phần ghi chú về Quảng Ngãi trong tập L’ Annam en 1906 đẽ chép: “Ở làng này (tức Chú Tượng) người ta làm ra các đồ đồng khá to lớn, vì vậy quả chuông lớn ở chùa Thiên Ấn cao gần 1m và đường kính 0.5m đã được đúc ở Chú Tượng” [71, tr. 382] Sản phẩm của nghề đúc đồng ở Chú Tượng xưa rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã, hình dạng. Thời ấy chưa có đồ gia dụng bằng nhôm hay đồ nhựa như sau này nên sản phẩm đúc đồng ở đây đã cho ra các loại hàng phục vụ ăn uống, sinh hoạt như các loại nồi (từ nồi 1 đến nồi 7), nồi bung, các loại muỗng (ăn cơm), bình rượu, khuôn bánh thuẫn, mâm trệt, mâm quỳ (để dọn cơm, nhồi bột bánh), các loại thau chậu, ống nhổ nước cốt trầu, ơi trầu. Về đồ thờ phổ biến có đèn thờ, lư hương, chuông chùa lớn và chuông nhỏ tụng kinh, tượng phật…Về công cụ sản xuất thì có đúc khuôn làm ngói, đúc hoa văn trang trí, khuy cho bàn, tủ…Về khí cụ nghệ thuật thì đúc chiêng, cồng (cho vùng cao). Theo bài vè thợ đúc còn lưu truyền, có thể làng Chú Tượng xưa kia còn đúc đạn, đúc súng,…là các loại vũ khí chiến đấu. Tùy theo tính chất của đồ dùng và khiếu thẩm mỹ của từng nghệ nhân mà sản phẩm đúc Chú Tượng có nhiều hình dạng và mẫu mã khác nhau như đèn thờ có các loại đèn lùn, đèn cao, lư hương thì có
  • 36. 36 thể tạo dáng và ngăn vạch thẳng quanh thân, cũng có thể đắp thêm hình long ly quy phượng. Các sản phẩm đúc đồng ở Chú Tượng đã chứng tỏ người thợ ở đây có tay nghề rất cao, tập trung nhất ở các loại chuông đồng. Quy trình công nghệ của nghề đúc là quy trình thủ công, có thể nói tóm tắt với các công đoạn chính là: nặn đất sét làm khuôn đúc, nấu chảy đồng, đổ vào khuôn rồi làm nguội. Chính nhu cầu của xã hội và trình độ tay nghề của nghệ nhân thời đó mà sản phẩm đồ đồng Chú Tượng đã mang tính chất hàng hóa. Các sản phẩm của làng Chú Tượng đã bán đi khắp trong và ngoài tỉnh.Các sản phẩm đúc như nồi, đặc biệt là chiêng, cồng còn được đúc ra để bán lên miền ngược. Làng Chú Tượng gần sông Thoa và sông Vệ, rất thuận tiện để giao thông xuôi ngược. Thung lũng sộng Vệ là một trong những cửa ngõ chính trong tỉnh, có thể đi lại bằng đường sông lẫn đường bộ, để buôn bán giữa người kinh và người Thượng. Điều này dẫn đến hệ quả, các sản phẩm đúc đồng ở làng Chú Tượng hầu như có mặt ở mọi vùng trong tỉnh và cũng được khách buôn các tỉnh lân cận mua về. Các nghệ nhân, thợ đúc làng Chú Tượng còn hành nghề đúc ở các tỉnh bạn và kinh thành Huế. Nghề đúc ở Quảng Ngãi có nguồn gốc lâu đời và hết sức phát triển, đã hình thành các làng đúc chuyên nghiệp, tiêu biểu là làng Chú Tượng. Nghề đúc đồng đã đem lại đời sống sung túc cho nhân dân làng Chú Tượng. Người dân làng Chú Tượng rất tự hào về điều ày, nên đã có một bài vè dân gian, trong đó có câu: “Thợ đúc, thợ đúc, trong nhà phú túc” [67, tr. 90]. 2.2.2.3. Nghề dệt chiếu Chiếu là loại đồ dùng sinh hoạt thông thường luôn gắn bó và không thể thiếu được với con người và “Trong tất cả nhà cửa của Đàng Trong, dù nghèo nàn đến đâu đi nữa, người ta cũng giữ ba cách ngồi.Cách thứ nhất, kém hơn cả là ngồi trên chiếu trải trên đất phẳng và đó là cách ngồi của kẻ cùng cấp bậc. Cách thứ hai là ngồi trên thứ ty bố
  • 37. 37 hay dây da căng thẳng có trải chiếu nhỏ và mịn hơn dành cho người đáng quý hơn…” [7, tr. 52]. Nghề dệt chiếu ở Quảng Ngãi có từ lâu đời. Nghề này đã theo chân những người nông dân Thanh Hóa vào vùng đất xứ Quảng từ thế kỷ XV. Tuy nhiên, sự quần tụ để hình thành làng sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng lại diễn ra vào khoảng thời gian tiếp theo. Địa bàn có làng nghề dệt chiếu là vùng ven biển Quảng Ngãi, như các làng Thu Xà, Phú Thọ (xã Nghĩa Hòa, Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa), Cổ Lũy (xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh), các làng phía đông nằm ven biển các huyện Đức Phổ, Bình Sơn. Nơi đâu có con người canh tác và làm được nguyên liệu cho nghề, đó là cây cói. Cói là loại cây thảo, mọc ở vùng đất trũng thấp dọc ven biển, loại cây này có bộ rễ phát triển mạnh, mọc um tùm, thân dài vươn cao. Khi cây cói có chiều cao từ 1 – 1,4m, người ta bắt đầu thu hoạch đem về nhà chẻ ra phơi khô thành sợi. Nếu chiếu có nhiều màu thì sợi cói phải trải qua công đoạn nhuộm với các màu xanh, đỏ, nâu, vàng… Sau khi chuẩn bị xong nguyên liệu, người thợ còn tiến hành dựng khung dệt. Khung dệt chiếu cấu tạo gồm các bộ phận: trục, con ngựa, trân, khổ. Sản phẩm chiếu đa dạng, gồm các loại chiếu đơn, mỏng, dệt đơn giản; chiếu nhiều màu dệt công phu.Tấm chiếu khi nhuộm phải lựa chọn các màu sắc hài hòa.Chiếu nhiều màu thường dày, phải dệt bằng loại “khổ” khác. Chiếu đơn thường có kích thước từ 0,8-1,2m (chiều ngang), chiếu đôi nhiều màu có kích thước từ 1,2-1,6m (chiều ngang) [67, tr. 70]. Để in hình lên chiếu, người thợ dùng khuôn in trổ, đúc bằng đồng chạm thủng, mô tả các hình hoa lá, đường viền, hình con vật… Ở làng chiếu Thu Xà, các sản phẩm vừa được bày bán tại Thu Xà, vừa được các thương nhân thu mua và đem đi tiêu thụ ở nhiều nơi, nhất là các tỉnh phía nam, rất được người tiêu dùng ưa chuộng. 2.2.2.4. Nghề làm kẹo gương
  • 38. 38 Trong dân gian Quảng Ngãi có câu: “Kẹo gương Thu Xà, Mạch nha Thi Phổ”. Đó là những câu nói trong việc giới thiệu đặc sản quê hương của người Quảng Ngãi. Kẹo gương có nguồn gốc từ Thu Xà: “Cách đây vài trăm năm, trên bước đường phiêu dạt, mưu sinh một số Hoa kiều vùng Quảng Đông bị gió tấp vào Quảng Ngãi. Đường về cố quốc thì muôn trùng cách trở và qua tìm hiểu thấy đây là xứ sở của mía đường, dân hiền hòa, sẵn lòng cưu mang đùm bọc, lại thuận bề sông nước, họ bèn dựng nhà định cư, làm kẹo gương lập nghiệp…” [75, tr. 52]. Thu Xà là nơi cư trú của người Minh Hương gốc Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam, Triều Châu vào định cư nơi đây vào khoảng cuối thế kỷ XVII, bước sang đầu thế kỷ XVIII. Những người Quảng Đông định cư mang theo nghề làm kẹo gương. Theo tiếng Quảng Đông, kẹo gương gọi là “pôly thừng”, có nghĩa là loại kẹo đẹp và trong suốt như gương. Nguyên liệu sản xuất kẹo gương là đường bạch hoặc đường kết tinh, bên cạnh đó còn có các nguyên liệu phụ như mè, đậu phộng, mỡ heo, chanh, trứng gà.Dụng cụ chế biến kẹo gương gồm xoong, chảo nấu, dao cắt và vá đánh cho đường thành kẹo.Quy trình sản xuất của kẹo gương phải qua nhiều công đoạn.Người thợ cho đường vào chảo, đổ nước đun sôi để đường hòa tan, rồi cho vào chảo nước trứng gà để vớt bỏ những tạp chất trong đường và nấu cho đến khi nước đường chuyển thành màu trong suốt thì ngừng lại.Người thợ múc cho vào thùng chứa lớn để nấu dần. Giai đoạn tiếp theo là chế biến kẹo gương. Người thợ lấy một xoong đồng đổ nước đường vào, đun vừa lửa, lấy vá sên đường trở thành chất đặc, trong giai đoạn này cho nước chanh vào. Sau đó người thợ đổ đường sang chảo khác, ở chảo này mạch nha và mỡ heo được cho vào, khuấy đều để khỏi bị sít cháy, khoảng chừng 2 giờ sau, bằng trực giác cảm nhận thấy nước đường “tới”, người ta bê chảo ra khỏi lò. Bấy giờ người thợ đổ vào chảo đậu phộng rang bóc vỏ sẵn. Mè được rải đều lên trên bàn gỗ hoặc tấm nhôm dày.Đường từ xoong đổ ra, rồi trải đều lên bàn gỗ đã được rắc mè sẵn, người thợ dùng dao xén thành miếng vuông vức.
  • 39. 39 Nếu không có nghề gia truyền thì về kỹ thuật chế biến, kẹo gương khó đạt chất lượng cao. Chẳng hạn, kỹ thuật rang mè, đậu phộng sao cho vừa chín tới. Nhiệt độ để đường chín tới thành kẹo phải xác định chính xác thì mới cho ra sản phẩm kẹo gương hoàn hảo, đạt tiêu chuẩn: trắng, trong, giòn và thơm. Kẹo gương trên thị trường rất được khách hàng mến mộ và ưu ái bởi giá cả phải chăng, kẹo hợp vệ sinh, tính thẩm mỹ cao và thơm ngon. 2.2.2.5. Nghề làm đường muỗng Quảng Ngãi là xứ sở của mía đường. Trồng mía và chế biến đường từ mía là một bộ phận quan trọng của nghề nông gắn kết với tiểu thủ công nghiệp.Đường muỗng là loại đường cô đặc từ nước ép ra từ cây mía (gọi là nấu đường) và cho kết tủa trong các muỗng (hay muống) bằng đất nung hình chõ. Người địa phương có thói quen nhắc đến những loại đường muỗng gắn liền với địa điểm sản xuất ra nó, ví dụ: đường Suối Bùn (huyện Nghĩa Hành), đường Bình Mỹ (huyện Bình Sơn), đường Trà Bình (huyện Trà Bồng), đường Thọ Lộc (huyện Sơn Tịnh),… Ba khâu quan trọng của nghề làm đường muỗng là ép mía, nấu đường và ra muỗng. Tương ứng với ba khâu là ba “bộ” dụng cụ: che, chảo và các thùng long, bộ lọc, vợt, muỗng. Quy trình làm đường muỗng truyền thống bao gồm các bước: Ép mía: Mía được róc sạch, đưa vào che ép (qua 3 lần), bã đem phơi khô để làm chất đốt, nước mía gọi là chè, dùng lường đưa nước mía vào chảo. Thắng đường: Thắng đường là cô đặc nước mía thành đường sacoroza, chủ yếu gồm hai giai đoạn và phần hậu kỳ. Giai đoạn 1: Đun nước mía sôi lần thứ nhất trong chảo, bỏ một ít vôi vào lần thứ nhất, vớt bọt. Khi sôi lên long nước “chè một”. Chè trong long dùng một chổi bằng rạ
  • 40. 40 đánh cho chạy vòng theo kim đồng hồ rồi để một thời gian cho đất, cáu lắng xuống đáy. Nước mía lúc này gọi là “chè hai”. Giai đoạn 2: Cho “chè hai” xuống lại chảo cô đặc thành mật. Khi mật dẻo và dỡ gáo chè lên thấy ở đáy mật quánh và rơi xuống theo hình cánh dơi. Ăn thử thấy dính rang là có thể đưa ra muỗng. Ở giai đoạn này, người ta thêm vôi, dầu phụng nhiều ít tùy theo chất đất trồng mía, thời tiết, mía non hay đã đúng kỳ. Đường có “ra cát” (kết tinh) hay không là tùy theo cách “xử lý kỹ thuật” ở giai đoạn này. Quá lửa, đường khét, non lửa, “yếu cát”… Tất cả đều phụ thuộc vào kinh nghiệm của người nấu đường. Ra muỗng: Mật đường đã được đưa ra muỗng, người thợ để cho đường mật nguội dần và kết tủa; trong lúc đó thỉnh thoảng có những tác động phụ thúc đẩy quá trình kết tủa, làm cho hạt tinh thể lớn, kết tinh đều. Khi đổ đường vào muỗng, người thợ đổ ở hiệp thứ nhất không cho đường đầy muỗng. Hiệp sau người thợ mới làm cho muỗng đường đầy lên mặt. Hậu kỳ: Đường nguội đem về nhà úp mặt xuống nền đất và lắc đều để khối đường rơi khỏi muỗng, khối đường rời khỏi muỗng xong ngửa nguyên muỗng đường đặt lên một cái chum để rút mật vào chum. Để mật ra sạch, đường trắng, người ta đổ một lớp bùn non lên mặt đường (có khi là chuối giã dập) để phần nước của đường hoặc của chuối đẩy dần xuống dưới. Khi đã rút hết mật (khoảng 7-10 ngày) người ta ra đường.Đem phơi đường nguyên khối ngoài nắng rồi sau đó chặt thành từng khối nhỏ mà trong đó nhất thiết phải có hai phần rời riêng mặt đường và đít muỗng. Mặt đường trắng hơn, người ta gọi là đường trắng hay đường bạch, phần đít muỗng còn chứa nhiều mật, người ta gọi là đường đen. 2.2.2.6. Nghề làm mắm Làm mắm là nghề nổi tiếng từ lâu ở vùng duyên hải miền Trung. Những cánh đồng muối rộng mênh mông ở Sa Huỳnh, Tịnh Hòa, cá cơm, cá nục, cá trích xuất hiện nhiều vào mùa gió nồm là nguyên liệu dồi dào của nghề mắm, là điều kiện khách quan dẫn
  • 41. 41 đến sự hình thành nhiều làng nghề làm mắm ở vùng duyên hải Quảng Ngãi. Quảng Ngãi có nhiều làng nghề làm mắm, như Thạch Bi, Long Thành, long Trì, An Phổ, Kỳ Tân, An Chuẩn, Phổ An, Cổ Lũy, Mỹ An, An Vĩnh, Kỳ Xuyên và Tuyết Diêm. Nguyên liệu làm mắm là loại cá cơm được thu hoạch từ tháng Giêng, Hai, Ba (Âm lịch). Đây là thời điểm cá cơm làm mắm có hương vị thơm ngon nhất. Riêng mắm nục được làm từ tháng Ba đến tháng Tư, là thời vụ nục nổi nhiều, lúc này muối mắm sẽ đem lại hương vị mặn mà. Ngoài hai loại cá chính để làm mắm nói trên , người dân biển còn làm mắm ngừ, mắm mực, mắm kình, mắm nhum, mắm tôm. Mắm nhum thường sản xuất ở Sa Huỳnh, lấy từ thân con nhum cầu gai vốn sống ở các khe đá gành biển. Đời nhà Nguyễn, mắm nhum cung tiến vua nên còn gọi là mắm tiến: “Mắm nhum sản vật ở các đảo ngoài biển, khoảng đời Minh Mạng dặt bộ mắm nhum 5 người, mỗi năm phải nộp 12 cân mắm” [48, tr. 687]. Cách thức chung sản xuất nước mắm truyền thống là cá được đưa thẳng từ bến về đến nhà, cá được trộn đều với muối theo tỷ lệ khoảng 3 chén cá 1 chén muối rồi chưa trong những thùng gỗ lớn. Sau khoảng 4 – 6 tháng có thể rút nước mắm ra để dùng. Cách thức chế biến mắm cái cũng gần tương tự như chế biến nước mắm, cá và muối cũng trộn chung theo tỷ lệ trên, được chứa trong những thạp sành nhỏ. Khi thân cá đã phân hủy (chín nẫu), hết mùi tanh của cá tươi là có thể dùng được. Từ xa xưa, món mắm cái như là thức ăn chính của người dân xứ Quảng, nhất là mùa mưa gió, biển động [83]. Ngoài những nghề trên, ở Quảng Ngãi có nhiều nghề như: nghề chế tác đá, chế tác sừng, dệt, làm đường phổi, nấu đường phèn, nghề đan,… Thủ công nghiệp nửa đầu thế kỷ XIX ở Việt Nam nói chung và ở Quảng Ngãi nói riêng xuất hiện, phát triển là một thức tế khách quan, đáp ứng nhu cầu cuộc sống trong khi chưa có nền sản xuất công nghiệp. Nhu cầu cuộc sống ngày càng tăng, đòi hỏi những nhu yếu phẩm mới thì lập tức những ngành nghề mới nảy sinh. Song ở nước ta
  • 42. 42 lại tồn tại khá dai dẳng thủ công nghiệp gia đình, biến nó thành nền công nghệ thôn xã, thủ công nghiệp làng quê. Do vậy, ở Quảng Ngãi cũng giống như các tỉnh thành trong cả nước tiếng tăm của các nghề thủ công không vang xa. Một điều thuận lợi cho phần lớn các nghề thủ công truyền thống ở Quảng Ngãi là tận dụng và khai thác các nguồn nguyên liệu có sẵn trên mảnh đất Quảng Ngãi. Nghề làm đường, kẹo gắn liền với những cánh đồng mía, nghề làm gốm gắn liền với nguyên liệu đất sét,…Mặc dù các nghề thủ công này đã “góp phần nuôi sống phần đông dân chúng” [41, tr. 373] nhưng thủ công nghiệp ở Quảng Ngãi thế kỷ XIX vẫn chỉ là những nghề phụ của nông dân. Tuy là những nghề phụ nhưng nó đã góp phần nâng cao đời sống của nông dân ở các làng quê trên vùng đất Quảng Ngãi. 2.3. Thương nghiệp 2.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thương nghiệp *Giao thông vận tải Để có một nền thương nghiệp phát triển nhân tố đầu tiên nghĩ đến là vấn đề giao thông vận tải. Nó ví như mạch máu nóng trong cơ thể giúp điều tiết mọi hoạt động lưu thông. Bên cạnh đó những nhân tố như: sản xuất hàng hóa, tiền tệ, đo lường cũng không kém phần quan trọng thúc đẩy thương nghiệp phát triển. Ở Quảng Ngãi đầu thế kỷ XIX sự trao đổi, vận chuyển hàng hóa chủ yếu bằng đường bộ và đường thủy. Trục đường Thiên lý Bắc – Nam vẫn là trục đường chính băng qua Quảng Ngãi với phương tiện đi lại là đi bộ, đi ngựa, võng cán. Đường Thiên lý Bắc- Nam qua địa phận Quảng Ngãi dài khoảng 21.417 trượng 5 thước [69, tr. 291], trong điều kiện bình thường (đi bộ) phải mất khoảng 6 ngày đường [71, tr. 444]. Năm 1870, quan Bố chánh Quảng Ngãi là Nguyễn Thông tâu xin cho trồng cây mù u ven đường Thiên lý để cho bóng mát và lấy quả ép dầu thắp đèn, được vua Tự Đức chấp thuận.