SlideShare a Scribd company logo
1 of 21
quan khoa su
Thứ sáu, ngày 16 tháng ba năm 2012
VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN VÀ TRÁCH NHIỆM MẤT NƯỚC
VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN VÀ TRÁCH NHIỆM MẤT NƯỚC
Đàm Thị Uyên
Vƣơng triều Nguyễn – một vƣơng triều cuối cùng trong lịch sử chế độ
phong kiến ViệtNamtồn tại trong một khoảng thời gian không dài nhƣng đã để lại
nhiều dấu ấn phức tạp, đặt ra hàng loạt vấn đề khó giải đáp. Từ trƣớc đến nay đã có
11 hội thảo khoa học lớn nhỏ, từ cấp quốc tế, quốc gia và địa phƣơng bàn về chúa
Nguyễn và vƣơng triều Nguyễn. Nhiều nhà nghiên cứu đã đổ bao công sức và thời
gian để tìm tòi, phát hiện, có đƣợc đánh giá chân thực, khách quan về vƣơng triều
này. Tầm quan trọng và tính phức tạp của vấn đề triều Nguyễn nói chung và trách
nhiệm của triều Nguyễn trong việc để mất nƣớc nói riêng cũng đƣợc phản ánh sâu
sắc trong học tập và giảng dạy lịch sử ViệtNam.
Có thể nói, vƣơng triều Nguyễn và những chính sách, hành động của nó đã chịu rất
nhiều phán xét. Bởi lẽ, ra đời, tồn tại và diệt vong trong khoảng thời gian có nhiều
bƣớc ngoặt trong lịch sử ViệtNam. Bƣớc ngoặt của sự kết thúc vƣơng triều Tây
Sơn nhiều tiến bộ, triều đại có khuynh hƣớng mở ra nhiều vận hội cho sự phát triển
dân tộc. Bƣớc ngoặt của một dân tộc tự chủ, đƣợc sống trên một đất nƣớc độc lập
sang một thời kỳ bi thảm của lịch sử mất nƣớc, của thân phận nô lệ. Bƣớc ngoặt
của một kỷ nguyên mới, đất nƣớc độc lập, tự do năm 1945. Dƣới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đạp tan ách nô dịch của chủ nghĩa thực
dân, phát xít và lật đổ sự trị vì của cái “xác chết” đƣợc ƣớp bởi thực dân Pháp và
thế lực phản động. Hơn nữa thời kì đất nƣớc độc lập dƣới sự thống trị của triều
Nguyễn cũng đan xen những cái tiến bộ và hạn chế, những mảng đen trắng không
rõ ràng.
Triều Nguyễn đƣợc thành lập sau khi đánh bại triều Tây Sơn, trong hoàn cảnh đất
nƣớc và thế giới có nhiều biến đổi. Với tƣ cách là một nhà nƣớc độc lập, làm chủ
một vùng lãnh thổ từ ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau, nhà Nguyễn trong nửa
đầu thế kỉ XIX đã thiết lập một hệ thống cai trị từ trung ƣơng đến địa phƣơng với
các chính sách đối nội, đối ngoại…theo nguyên tắc tập trung mọi quyền hành vào
tay Hoàng đế và củng cố quyền lực của vƣơng triều.
Vào nửa đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn ra sức phục hồi nền kinh tế trên cơ sở coi
trọng ruộng đất và sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên trong giai đoạn suy tàn của chế
độ phong kiến, nhiều chính sách của nhà Nguyễn không còn ý nghĩa tích cực, làm
cho nền kinh tế vốn đã trì trệ lại càng thêm bế tắc, đời sống nhân dân lâm vào tình
trạng khốn cùng. Mâu thuẫn xã hội dƣới thời Nguyễn ngày càng gay gắt dẫn đến
sự bình nổ của hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân rộng lớn, làm cho tình hình xã
hội ngày càng rối ren, phức tạp.
Nhà Nguyễn thi hành chính sách độc tôn Nho giáo, hạn chế Phật giáo và cấm đoán
Thiên Chúa giáo nhƣng đời sống văn hóa tƣ tƣởng ở nƣớc ta đầu thế kỉ XIX vẫn
phát triển phong phú và đa dạng. Nhiều lĩnh vực nhƣ văn học, nghệ thuật, khoa
học, giáo dục…đạt đƣợc những thành tựu quan trọng.
Căn cứ theo những chính sách nội trị và ngoại giao của nhà Nguyễn và kết quả của
nó trong 50 năm đầu thế kỉ XIX, chúng ta đánh giá, nhận xét một cách tổng quát về
vƣơng triều Nguyễn và trách nhiệm của nó với tƣ cách là ngƣời thống trị đất nƣớc
đã để nƣớc ta mất nƣớc.
Tuy không đánh giá vƣơng triều Nguyễn quá cứng nhắc, thiếu công tâm theo
phƣơng diện đấu tranh đấu tranh giai cấp mà phủ nhận sạch trơn những điểm tốt,
song cũng không nên đánh giá thiên lệch, đề cao vƣợt tầm, sai với hiện thực. Vì
vậy đánh giá vấn đề lịch sử trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để
ViệtNammất nƣớc giúp hình thành nên một thế giới quan khoa học đúng đắn. Cụ
thể là: phải khẳng định công lao của vƣơng triều Nguyễn trong việc mở mang bờ
cõi, thống nhất đất nƣớc, phát triển giáo dục, văn hóa. Nhƣng triều Nguyễn phải
chịu trách nhiệm hoàn toàn để cho tên tuổi đất nƣớc một lần nữa, sau hàng ngàn
năm độc lập, bị quân cƣớp nƣớc xóa khỏi bản đồ thế giới. Hay nhƣ, việc Pháp đánh
ViệtNamlà một tất yếu khách quan… Chúng ta có quyền nhìn nhận việc mất nƣớc
từ nhiều góc độ khác nhau, nhƣng nhìn từ góc độ nào thì nhà Nguyễn cũng phải
chịu trách nhiệm về thảm họa mất nƣớc.
B. NỘI DUNG
Thế kỉ XIX là thế kỉ đầy biến động trong lịch sử ViệtNamnói riêng và lịch sử các
nƣớc phƣơng Đông nói chung. Các nƣớc phƣơng Tây, cái nôi của chủ nghĩa tƣ
bản, vƣơn lên rồi bành trƣớng sang phƣơng Đông bằng sức mạnh của đại bác và
cây thánh giá. Quan hệ tiếp xúc Đông – Tây chuyển từ thƣơng mại tự do sang đối
địch. Từ chỗ tôn trọng chủ quyền, thiết lập mối quan hệ buôn bán, các nƣớc tƣ bản
châu Âu do “cơn đói” của cái bụng đế quốc chủ nghĩa, đã bắt đầu thực hiện chính
sách “ngoại giao pháo hạm”, sử dụng vũ lực để từng bƣớc thực hiện ý đồ thực dân.
Nguy cơ sinh tử, tồn vong của các quốc gia dân tộc đƣợc đặt ra một cách bức thiết.
Trong bối cảnh trên, ý thức đƣợc hiểm họa mất nƣớc Nhật Bản và Xiêm đã chọn
con đƣờng canh tân đất nƣớc để tự cứu mình. Trong khi đó ViệtNamdƣới vƣơng
triều phong kiến cuối cùng, nhà Nguyễn đã làm những gì khi mới tái lập sự thống
trị cho đến giữa thế kỉ XIX ? Có phải việc thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta là tất
yếu và triều đình Nguyễn để mất nƣớc vào tay Pháp là tất yếu hay không ?
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ TRƢỚC CUỘC ĐỐI ĐẦU VỚI CUỘC XÂM LĂNG
CỦA TƢ BẢN PHƢƠNG TÂY
I.1 Nhà Nguyễn được thiết lập
Triều Nguyễn đƣợc thiết lập sau khi đánh bại vƣơng triều Tây Sơn, trong hoàn
cảnh đất nƣớc và thế giới có nhiều biến đổi. Lãnh thổ của nƣớc Việt ta đƣợc hoàn
toàn thống nhất, liền một dải từ ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau. Khác với các
vƣơng triều trƣớc, nhà Nguyễn ra đời sau một cuộc chiến tranh giữa hai lực lƣợng
đại diện cho hai giai cấp đối lập, khi mà chế độ phong kiến ViệtNambƣớc vào
khủng hoảng và suy tàn
Thông thƣờng trong lịch sử chế độ phong kiến VIệtNam,1 triều đại mới ra đời
trong các trƣờng hợp sau:
+Sau một cuộc chiến tranh để tiêu diệt tập đoàn phong kiến cát cứ (nhà Đinh, nhà
Tây Sơn)
+Thay thế một vƣơng triều khác khi vƣơng triều đổ nát (Nhà Trần)
+Kháng chiến chống giặc ngoại xâm thắng lợi (nhà Lê)
àNền thống trị của nhà Nguyễn đƣợc xác lập từ năm 1802 đứng trƣớc một loạt
thách thức, là điều bất thƣờng trong lịch sử Việt Nam: sự thắng thế của Nguyễn
Ánh trƣớc Tây Sơn là sự thắng thế của những nhân tố bảo thủ đối với những yếu tố
tiến bộ
Sau thời gian dài chiến tranh liên miên, nền kinh tế đất nƣớc trở nên tiêu điều,
chính trị rối loạn, công việc trƣớc tiên của Gia Long và các vua đầu thời Nguyễn là
bắt tay xây dựng và củng cố nền thống trị trên nền tảng của ý thực hệ Nho giáo,
một ý thức hệ tuy đã lỗi thời nhƣng vẫn chƣa có cơ sở kinh tế và xã hội để vƣợt
qua quĩ đạo đó. Hệ thống chính quyền nhà nƣớc thời Nguyễn là sự thừa hƣởng và
kết hợp những thành quả xây dựng chính quyền của nhà Lê cũng nhƣ của các triều
đình Minh, Thanh ở Trung Quốc có cải biến ít nhiều, đạt trình độ tƣơng đối hoàn
chỉnh, giải quyết hạn chế của đời trƣớc, nâng cao quyền lực chuyên chế của nhà
vua. Tuy nhiên, nó không thể tạo điều kiện để vƣợt qua các công thức đã trở thành
xơ cứng của một chế độ quân chủ chuyên chế quan liêu phƣơng Đông.
I.2 Nhà Nguyễn cai trị đất nước
Tình hình ruộng đất và nông nghiệp: Điểm nổi bật của tình hình ruộng đất ở nửa
đầu thế kỉ XIX là ruộng đất công làng xã trong toàn quốc bị thu hẹp rất nhiều, sở
hữu tƣ nhân về ruộng đất chiếm đại bộ phận. Năm 1852 trong 31 tỉnh thành của cả
nƣớc chỉ có hai tỉnh ruộng công nhiều hơn ruộng tƣ, một tỉnh ruộng công và ruộng
tƣ bằng nhau, còn lại 28 tỉnh ruộng tƣ nhiều hơn ruộng công.
Tình hình trên đƣa đến hậu quả là nguồn tài chính của nhà nƣớc thu từ tô thuế bị
giảm sút rất nhiều; nông dân không có ruộng phải rời bỏ quê hƣơng đi phiêu tán,
mất ổn định xã hội. Do đó nhà Nguyễn phải ban hành nhiều chính sách về ruộng
đất.
Chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn: Tiến hành lập địa bạ nhằm quản lí chặt chẽ
ruộng đất: Năm 1803 bắt đầu thực hiện ở một số trấn Đàng Ngoài, 1810 thực hiện
ở khu vực Đàng Trong. Đến năm 1836 cả nƣớc có 17.604 đơn vị làng xã có địa bạ.
Chính sách quân điền: Năm 1804 Gia Long ban hành điều lệ quân điền, về sau
đƣợc Minh Mạng bổ sung thêm. Theo lệ quân điền của nhà Nguyễn thì ruộng đất
công của làng xã cứ 3 năm chia lại một lần, từ quan nhất phẩm cho đến mọi hạng
dân thƣờng (cụ thể là quan nhất phẩm đƣợc 15 phần, đến cửu phẩm 8 phần, lính từ
8 đến 9 phần, dân đinh 5 phần rƣỡi, ngƣời mồ côi, đàn bà góa 3 phần). So với lệ
quân điền ở thời Hồng Đức, nhà Nguyễn đã bỏ chế độ cấp lộc điền cho quan lại và
gộp chung vào chế độ quân điền. Điều này làm cho số lƣợng ruộng đất cấp cho các
hạng dân càng bị thu hẹp, càng bị lệ thuộc vào ruộng đất của quan lại, địa chủ mà
họ phải lĩnh thêm.
Chế độ quân điền của nhà Nguyễn thể hiện sự ƣu đãi đối với quan lịa và binh lính
– chỗ dựa của chế độ quan chủ vƣơng triều Nguyễn. Ngoài ruộng khẩu phần binh
lính còn hƣởng thêm ruộng phụ cấp, gọi là lƣơng điền.
à Chính sách quân điền tuy có đƣợc điều chỉnh nhiều lần, nhƣng kết quả vẫn không
tác dụng đáng kể. Đến thời Minh Mạng có thí điểm ở Bình Định theo lệ sung công
một nửa ruộng tƣ, đem chia cho dân theo phép quân điền, đến năm 1839 hoàn
thành với kết quả “những ruộng công màu mỡ thì bị cƣờng hào chiếm, còn thừa
chỗ nào thì hƣơng lí bao chiếm, dân chỉ đƣợc phần xƣơng xẩu mà thôi”. Chính
sách bảo vệ công điền của nhà Nguyễn không nằm ngoại lối mòn của các triều đại
phong kiến trƣớc, khi ruộng đất công chỉ còn khoảng 20% diện tích ruộng đất cả
nƣớc. Chính sách quân điền thực tế chỉ là giải pháp mang ý nghĩa tƣợng trƣng.
Điều này chứng tỏ nhà Nguyễn hoàn toàn bất lực trong việc giải quyết tình hình
ruộng đất ở nửa đầu thế kỉ XIX.
- Chính sách khai khẩn đất hoang, phục hóa: Các vua Nguyễn rất quan tâm việc
khai hoang phục hóa. Ở nửa đầu XIX, nhà Nguyễn đã ban hành 46 quyết định về
khẩn hoang ruộng đất. Công việc khai hoang đƣợc thực hiện bằng nhiều biện pháp
dƣới nhiều hình thức phong phú:
Tuy có nhiều cố gắng giải quyết các vấn đề nông nghiệp nhƣ chính sách khai
hoang, quân điền song nhà Nguyễn vẫn không thể giải quyết đƣợc những mâu
thuẫn đang đƣợc đặt ra cho nông nghiệp ViệtNam. Nông dân phải chịu cảnh khốn
cùng với tô cao thuế nặng, phu phen tạp dịch triền miên, hứng chịu nhiều tai họa từ
thiên nhiên lẫn quan lại, cƣờng hào.
Tình hình thủ công nghiệp: Giống các triều đại trƣớc, thủ công nghiệp Nhà nƣớc
thời Nguyễn chiếm một vị trí rất quan trọng: nó chế tạo tất cả những đồ dùng cho
hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền…Chính vì vậy,
nhà Nguyễn cũng tập trung xây dựng hệ thống các xƣởng thủ công Nhà nƣớc, nhất
là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập xƣởng đúc tiền
Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long. Nhà Nguyễn cũng lập các Ti trông coi các
ngành thủ công. Ví dụ nhƣ ti Vũ khố chế tạo quản lý nhiều ngành thủ công khác
nhau, gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha
lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng…Phần lớn nhân lực trong các
xƣởng thủ công Nhà nƣớc là do triều đình trƣng dụng thợ khéo trong các ngành
nhƣ khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa…tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều
đình. Vì vậy ngƣời thợ luôn tìm cách trốn tránh dù chính phủ áp dụng những biện
pháp trừng phạt nặng nề để ngăn chặn. Ví dụ, thợ khéo ít dám trổ tài vì tài nghệ
không có lợi mà là tai họa. Họ chỉ dám làm những thứ nhỏ để bán cho dễ, những
ngƣời nào chế tạo đồ tốt cũng phải mạo danh là hàng ngoại quốc để vua quan đừng
để ý. Đầu Thế kỷ XIX có ngƣời chế đƣợc men sứ tốt hơn của Trung Quốc nhƣng
phải bỏ trốn vì sợ bị trƣng dụng làm cho triều đình.
Trong nghề đóng tàu, năm 1820 sĩ quan ngƣời Mỹ John White đã nhận xét: “Ngƣời
ViệtNamquả là những ngƣời đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ
với một kỹ thuật hết sức chính xác”. Ngoài các thuyền gỗ, ngƣời thợ thủ công
ViệtNamcòn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng. Ngoài ra họ đã sáng chế đƣợc
nhiều máy móc tiên tiến và có chất lƣợng vào thời đó, ví dụ các máy cƣa xẻ gỗ,
máy tƣới ruộng… và cả máy hơi nƣớc.
Thời Nguyễn các nghề thủ công trong nhân dân rất phát triển, số lƣợng ngƣời tham
gia nghề thủ công tăng lên. Các nghề làm gốm, sành sứ, dệt vải lụa, làm giấy, làm
đƣờng phổ biến ở nhiều địa phƣơng trong cả nƣớc.
Đặc điểm của các nghề thủ công trong giai đoạn này là vẫn gắn liền với nghề nông,
phƣơng thức sản xuất trong các làng nghề thủ công không có gì thay đổi so với
trƣớc. Nhà nƣớc nắm độc quyền bao mua một số sản phẩm và đánh nhiều thứ thuế
đối với ngƣời thợ thủ công.
Tình hình thƣơng mại: Việc thống nhất đất nƣớc vào đầu thế kỷ XIX là một điều
kiện thuận lợi cho thƣơng nghiệp phục hồi và tái phát triển sau một thời gian dài
suy thoái. Ngoài ra, Gia Long và các vua nhà Nguyễn cũng cho sửa sang đƣờng sá,
xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của ngƣời dân đƣợc tiện
lợi. Tuy nhiên, thƣơng mại của ViệtNamrất kém cỏi, họ buôn lẻ hàng hóa của
ngƣời Hoa để bán lại kiếm lời. Sự tổ chức thƣơng mại của ngƣời Việt sơ sài, trong
phạm vi gia đình. Nếu có những hội buôn lớn thì cũng chỉ là những phƣờng họp
vài thƣơng gia hùn vốn với nhau để kinh doanh rồi chia tiền ngay. Họ không liên
kết lại thành những hội buôn làm ăn lâu dài. Nhiều ngƣời ViệtNamcho vay lãi trở
nên phát tài nhƣng họ dùng tiền của để mua ruộng đất chứ không đầu tƣ kinh
doanh, khuếch trƣơng thƣơng mại hay công nghệ. Do đó mà thƣơng nghiệp không
mạnh đƣợc, một phần lớn cũng bởi tâm lý của ngƣời dân.
à Dù có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc giao lƣu, buôn bán trong nƣớc phát
triển, song do chủ trƣơng nhất quán của các vua nhà Nguyễn là “trọng nông ức
thƣơng” cho nên Nhà nƣớc đặt ra nhiều chính sách thuế khóa và thể lệ kiểm soát
ngặt nghèo, phiền phức (nhƣ gạo từ Nam Định chở vào Nghệ An phải qua 9 lần
nộp thuế), việc buôn bán trong nƣớc không thể phồn thịnh đƣợc.
Nhà Nguyễn thi hành chính sách độc quyền và hết sức dè dặt với các tàu buôn
phƣơng Tây. Bắt nguồn từ chính sách “bế quan tỏa cảng”, “đóng cửa” không buôn
bán với các nƣớc phƣơng Tây nên Nhà Nguyễn từ chối quan hệ buôn bán chính
thức với các nƣớc này. Nhiều lần phái đoàn của các nƣớc Anh, Pháp, Mỹ đến xin
đặt quan hệ buôn bán đều bị nhà vua khƣớc từ. Nhà nƣớc nắm độc quyền ngoại
thƣơng, đã tổ chức buôn bán với các nƣớc Xingapo, Inđônêxia, Trung Quốc và các
nƣớc khác ở Đông Nam Á. Cùng với sự sa sút của kinh tế thƣơng nghiệp, các đô
thị ngày càng suy thoái. Ở Thăng Long vốn nổi tiếng với 36 phố phƣờng sầm uất,
cũng nhanh chóng bị nông thôn hóa. Phố Hiến, Thanh Hà, Hội An không còn khả
năng phục hồi.
à Tóm lại, vào đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn ra sức ra sức phục hồi nền kinh tế trên
cơ sở coi trọng ruộng đất và sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên trong giai đoạn suy
tàn của chế độ phong kiến, nhiều chính sách của nhà Nguyễn đã không còn có ý
nghĩa tích cực. Hơn nữa do tƣ tƣởng thủ cựu nhƣ quan điểm tứ dân, chính sách
trọng nông ức thƣơng, chính sách bế quan tỏa cảng làm cho nền kinh tế đất nƣớc
vốn đã trì trệ lại càng thêm bế tắc.
Trong bối cảnh nền kinh tế bế tắc, đời sống nhân dân khốn cùng, nhà Nguyễn
chẳng những đã bất lực không cải thiện đƣợc tình hình, trái lại, bộ máy chính
quyền ngày càng quan liêu, tha hóa. Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, làm bùng
lên làn sóng đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp xã hội ở khắp mọi miền đất nƣớc
chống lại chế độ thống trị của nhà Nguyễn. Tình hình kinh tế nông, công thƣơng
nghiệp suy đốn, đình trệ dƣới triều Nguyễn đã đẩy các tầng lớp nhân dân lao động
mà đại bộ phần là nông dân vào cảnh sống hết sức khổ cực. Những nguyên nhân
dẫn đến thực cảnh này là:
- Nạn chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giai cấp địa chủ làm cho ngƣời nông
dân thiếu ruộng đất để cày cấy, sinh sống. Mặc dù nhà nƣớc có nhiều chính sách để
bảo vệ công điền nhƣng thực tế họ đã bất lực.
- Nông dân, thợ thủ công, thƣơng nhân, dân nghèo thành thị, các dân tộc thiểu số
phải gánh chịu chế độ tô thuế phức tạp, phiền nhiễu của nhà nƣớc (thuế ruộng, thuế
thân, thuế biệt nạp…) và thực hiện chế độ lao dịch nặng nề của nhà nƣớc. Mỗi năm
phải chịu 60 ngày sai dịch đi phục dịch cho nhà nƣớc xây dựng kinh đô, dinh thự,
thành lũy, sửa chữa đƣờng giao thông, đê điều…
- Hiện tƣợng bão, lụt, vỡ đê, hạn hán, đói kém, dịch bệnh xảy ra liên tục dẫn đến
tình trạng nhân dân phải rời bỏ quê hƣơng, bản quán đi phiêu tán. Thiên tai, dịch
bệnh thƣờng xuyên xảy ra. Trong vòng 56 năm (1802 – 1858) ở Bắc Kì có 32 năm
bị lụt lội, vỡ đê. Năm 1810 riêng 4 trấn ở đồng bằng Bắc Bộ có 358 xã thôn bị
phiêu tán vì lũ lụt, đói kém. Dƣới thời Minh Mạng hiện tƣợng đói kém vẫn diễn ra
thƣờng xuyên, có những trận đói khủng khiếp nhƣ trận đói năm 1824 “gạo đắt, một
phƣơng giá gạo trên hai quan tiền, dân có nhiều ngƣời chết đói”.
- Tệ nạn tham nhũng của bọn quan lại thừa hành và cƣờng hào áp bức thực sự là
nỗi khổ, là tai họa khủng khiếp của nhân dân. Quan coi dân nhƣ kẻ thù, dân sợ
quan nhƣ cọp, ngày đục tháng khoét của dân cho đầy túi riêng. Năm 1828, viên
quan Bắc thành là Nguyễn Công Trứ dâng sớ về việc quan tham: “Cái hại quan lại
một hai phần, cái hại hào cƣờng đến tám chín phần. Nó làm cho con ngƣời ta thành
mồ côi, vợ ngƣời ta thành góa bụa…cứ công nhiên không kiêng sợ gì”.
Thực trạng xã hội Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XIX cho thấy tình trạng chấp chiếm,
tập trung ruộng đất nghiêm trọng vào giai cấp địa chủ, chính sách tô thuế phức tạp,
phiền nhiễu, chính sách lao dịch nặng nề của nhà nƣớc, nạn cƣờng hào hoành hành
ở noong thôn, thiên tai, dịch bệnh, đói kém xảy ra triền miên, chính là những
nguyên nhân dẫn đến các cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân lao động chống
lại triều Nguyễn.
Trong hơn 50 năm đầu của thế kỉ XIX, xã hội ViệtNamhầu nhƣ nằm trong tình
trạng đối đầu giữa nhà Nguyễn với các tầng lớp nhân dân bị trị. Các cuộc khởi
nghĩa lớn nhỏ đã diễn ra lúc ở Bắc, khi ởNamthu hút đông đảo tầng lớp nhân dân.
Giai đoạn này có đến gần 400 cuộc nổi dậy khởi nghĩa chống lại triều đình
Nguyễn.
Phong trào đấu tranh của nhân dân chống triều Nguyễn ở nửa đầu thế kỉ XIX diễn
ra ngay từ đầu khi vƣơng triều Nguyễn mới đƣợc thành lập. Các cuộc nổi dậy, khởi
nghĩa nông dân thƣờng xảy ra vào cuối mỗi triều đại, khi vƣơng triều đã suy vi, đổ
nát, không thi hành nhiều chính sách tiến bộ cho nhân dân. Ngƣợc lại, dƣới triều
Nguyễn, phong trào đấu tranh của nhân dân nổ ra ngay cả khi vƣơng quyền này
còn non trẻ, mới thành lập.
Phong trào diễn ra liên tục suốt nửa đầu thế kỉ XIX sang cả nửa cuối thế kỉ này mà
không hề bị gián đoạn nhƣ phong trào ở những thế kỉ trƣớc. Trong khoảng 50 năm
nửa đầu thế kỉ XIX thì bất kể ai muốn tổ chức khởi nghĩa chống lại triều đình cho
dù là quan hay dân, là ngƣời sang hay hèn, ngƣời hay chữ hoặc không hay chữ đều
đƣợc quần chúng nhiệt liệt hƣởng ứng.
Phong trào đã lôi cuốn các tầng lớp nhân dân bị trị, từ nông dân, thợ thủ công, nho
sĩ, quan lại cấp thấp, binh lính, các dân tộc ít ngƣời trên khắp các vùng đồng bằng,
miền núi, cả miền Bắc, miền Trung và miềnNam. Các dân tộc thiểu số miền ngƣợc
trong một số cuộc nổi dậy đã sát sánh chiến đấu với nghĩa quân nông dân ở miền
xuôi. Một điểm mới chƣa từng có là sự có mặt của binh lính triều định trong phong
trào đấu tranh của nhân dân.
Về mặt số lƣợng, chƣa có một vƣơng triều nào trong lịch sử phong kiến
ViệtNamlại có nhiều khởi nghĩa đến vậy. Vào nửa đầu thế kỉ XIX, dƣới triều
Nguyễn đã có tới gần 400 cuộc khởi nghĩa.
Nhà Nguyễn đã bất lực, không có đƣợc những chính sách bình ổn xã hội, làm cho
xã hội ViệtNamtrở nên rối ren, phức tạp. Xã hội ViệtNamđang lên cơn sốt trầm
trọng” nhƣ lời sử gia nƣớc ngoài nhận định. Thực trạng ấy khiến cho ViệtNamtrở
thành miếng mồi béo bở cho tƣ bản phƣơng Tây xâm lƣợc và thôn tính
Tƣ tƣởng, tôn giáo, tín ngƣỡng: Để củng cố bệ đỡ tƣ tƣởng cho chính quyền
chuyên chế, nhà Nguyễn thi hành chính sách độc tôn Nho giáo, phục hồi Nho giáo
vốn đã bị suy đồi trong những thế kỉ trƣớc. Đối với nhà Nguyễn, Nho giáo là
khuôn vàng thƣớc ngọc, những gì trái với khuôn vàng thƣớc ngọc ấy đều là xấu,
đều sai trái, đều là tà đạo, chỉ có Nho giáo là chính đạo.
Nhà Nguyễn đã tìm mọi cách hạn chế Phật giáo và các tín ngƣỡng dân gian khác
nhƣng Phật giáo và các tín ngƣỡng khác vẫn tiếp tục phát triển. Tục thờ cúng tổ
tiên và tôn thờ các anh hùng dân tộc, những ngƣời có công với làng, với nƣớc trở
thành phổ biến trong toàn xã hội. Đình, chùa, đền đƣợc tôn tạo hoặc xây dựng mới
ở khắp mọi nơi.
Đối với Thiên Chúa giáo, thời Gia Long ông lâm vào một tình thế nƣớc đôi: một
mặt chịu ơn giáo sĩ và ân nhân Pháp, do vậy ông ban thƣởng hậu và sử dụng một
số ngƣời làm quan lại, cố vấn trong triều; mặt khác lai lo ngại sự phát triển của
Thiên chúa giáo sẽ ảnh hƣởng xấu đến đạo đức và thuần phong mĩ tục cổ truyền,
sau nữa là mất ổn định chính trị và dẫn đến nguy cơ mất nƣớc.
Để đối phó với tình hình trên, Gia Long đã chủ trƣơng giữ nguyên hiện trạng Thiên
chúa giáo chứ không khuyến khích phát triển. Trong chiếu ban hành đầu năm
1804, vua Gia Long tuyên bố: “dân các tổng xã nào có nhà thờ Gia Tô đổ nát thì
phải đừa đơn trình quan trấn mới đƣợc tu bổ, dựng nhà thờ mới thì cấm”. Gia
Long từng căn dặn Minh Mạng: “Hãy biết ơn ngƣời Pháp, nhƣng đừng bao giờ để
họ đặt chân vào triều đình của con”. Dƣới thời Minh Mạng (1820 – 1840) ý đồ
xâm lƣợc của Pháp càng lộ rõ. Nhiều giáo sĩ đã báo cáo cho Chính phủ Pháp nhiều
tin tình bào quan trọng, một số giáo sĩ theo tàu chiến Pháp thâm nhập vào
ViệtNam. Minh Mạng, rồi Thiệu Trị đến Tự Đức đã ra một loạt chỉ dụ cấm đạo.
Việc cấm đạo Thiên Chúa, giết giáo dân và giáo sĩ còn tạo cớ cho thực dân Pháp
thực hiện âm mƣu xâm lƣợc vũ trang ở nƣớc ta.
Bƣớc sang thế kỉ XIX, tình hình thế giới và trong nƣớc có nhiều biến đổi, triều
Nguyễn tuy đã cố gắng nhất định, nhƣng trong thực tế chỉ chăm lo củng cố địa vị
cai trị của dòng họ, không bắt kịp với xu thế phát triển và tiến bộ của thời đại, làm
cho đất nƣớc ngày càng lún sâu vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, mất dần khả năng
bảo vệ nền độc lập dân tộc trƣớc cuộc tấn công xâm lƣợc của thực dân Pháp. Nguy
cơ xâm lƣợc của thực dân Pháp đối với Việt Nam ở thế kỉ XIX là kết quả tất yếu
của quá trình phát triển tƣ bản chủ nghĩa ở các nƣớc phƣơng Tây và trở thành mối
đe dọa lớn đối với nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, nguy cơ xâm lƣợc
đó không phải là tất yếu đƣa đến mất nƣớc vào tay Pháp. Dân tộc ViệtNammất
nƣớc vào tay tƣ bản Pháp ở cuối XIX, trách nhiệm đó thuộc về triều Nguyễn.
I.3 Nguy cơ bị xâm lược và mất nước của Việt Nam dưới triều Nguyễn
Do những vấn đề nội trị rối loạn, bất lực trong việc ổn định xã hội, chính sách
ngoại giao mù quáng, chính sách tôn giao sai lầm…ViệtNamgiữa thế kỉ XIX đối
mặt với nguy cơ bị chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây xâm lƣợc.
Không phải duy nhất ViệtNam, vấn đề đôi phó với nguy cơ bị xâm lƣợc là vấn đề
phổ biến của mọi quốc gia phƣơng Đông. Từ nửa sau thế kỉ XIX, các nƣớc tƣ bản
phƣơng Tây tiến dần lên trở thành những nƣớc đế quốc chủ nghĩa, càng ráo riết
chạy đua tìm kiếm thị trƣờng ở các nƣớc phƣơng Đông.
II. CÁC QUAN ĐIỂM ĐÁNH GIÁ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NGUYỄN
TRONG VIỆC ĐỂ VIỆTNAMRƠI VÀOTAYPHÁP CUỐI THẾ KỈ XIX
Các quan điểm đánh giá, phán xét trách nhiệm của nhà Nguyễn từ trƣớc đến nay
chƣa bao giờ hết và cũng chƣa có cùng tiếng nói chung. Theo tiến trình lịch sử ở
các giai đoạn lịch sử khác nhau, các quan điểm đánh giá lại khác nhau phụ thuộc
từng góc độ quan sát, nhãn quan, lập trƣờng của mỗi ngƣời. Có thể khảo sát qua
một số quan điểm đánh giá trách nhiệm nhà Nguyễn trong việc để mất nƣớc vào
cuối thế kỉ XIX nhƣ sau:
Trần Trọng Kim trong “Việt Nam sử lƣợc” khi trình bày về các vua đầu triều
Nguyễn nhƣ Thế Tổ, Thánh Tổ, Hiển Tổ, Dực Tông, đều nêu nguyên nhân mất
nƣớc là do chính sách bài ngoại, ngăn trở việc buôn bán cám đạo không nhìn thấy
sự thay đổi, tiến bộ của bên ngoài: “Khƣ khƣ giữ lấy thói cổ, hễ ai nói đến sự gì
hơi mới một tý thì bác bỏ đi, nhƣ thế thì làm sao mà không hỏng việc”. Trần Trọng
Kim cho rằng: “Âu cũng vì thời đại biến đổi mà ngƣời mình không biến đổi, cho
nên nƣớc mình mới thành ra sự suy đồi”, “đã hay rằng vua có trách nhiệm vua,
quan có trách nhiệm quan, vua Dực Tông không tránh khỏi cái lỗi với nƣớc nhà,
nhƣng mà xét cho xác lý thì cái lỗi của đình thần lúc bấy giờ cũng không nhỏ”.
Quan điểm của Trần Trọng Kim cho thấy rằng việc tìm ra nguyên nhân thực dân
Pháp xâm lƣợc nƣớc ta và việc mất nƣớc không ngoài những lí do mà thực dân
Pháp đã viện cớ, nêu trách nhiệm của vua quan, Trần Trọng Kim vừa có tính lên
án, lại vừa biện hộ.
Quan điểm của Phan Bội Châu: đứng trên quan điểm sử học tiến bộ đầu thế kỉ XX
đã đánh giá việc mất nƣớc. Qua tác phẩm ViệtNamvong quốc sử, ông hết lời ca
ngợi những ngƣời yêu nƣớc, đồng thời phê phán gay gắt kẻ phản bội, bán nƣớc đầu
hàng. Ông phân tích, vào đầu thời Gia Long vua tôi còn hòa thuận với chính giáo,
không thiếu xót nên thực dân Pháp không thể xâm lƣợc. Sang đầu thời Tự Đức,
ViệtNamlà nƣớc yếu hèn, thực dân Pháp có thời cơ xâm lƣợc. Ông chỉ rõ, những
chính sách liên kết với Pháp gây lực lƣợng để độc quyền chính trị dẫn đến họa mất
nƣớc sau này. Từ việc vạch trần ý đồ của Nguyễn Ánh dựa vào ngoại lang đánh
Tây Sơn rồi phụ thuộc và Pháp, Phan Bội Châu kết luận mất nƣớc thuộc về trách
nhiệm và bản chất của vua tôi nhà Nguyễn gây ra. Ông vạch tội nhà Nguyễn theo 4
tội lớn: 1- Ngoại giao hẹp hòi; 2- Nội trị lƣu lạc; 3- Dân trí bế tắc; 4- Vua tôi trên
dƣới đều tự tƣ, tự lợi.
Các sử gia phƣơng Tây đầu thế kỉ XX đều cho rằng chính sách đối ngoại lỗi thời
và thái độ của nhà Nguyễn là một trong những nguyên nhân bùng nổ cuộc xâm
lƣợc của thực dân Pháp và thất bại của ViệtNam. Họ phân tích chính sách cấm đạo
đã dập tắt hy vọng của ngƣời Pháp. Cuối đời Minh Mạng sau khi tham khảo kinh
nghiệm từ Trung Quốc, Minh Mạng tìm cách thay đổi và đặt quan hệ với ngƣời
châu Âu. Vua Minh Mạng tự nhận thấy sai lầm trong chính sách tự cô lập của mình
gây ra những hậu quả nguy hiểm, nhƣng lúc đó quá muộn, suy nghĩ đổi mới chƣa
kịp thực hiện thì ông qua đời. Thiệu Trị là ông vua đƣợc đánh giá kém hơn vua
cha, thực hiện chính sách cấm đạo hà khắc. Đến thời Tự Đức, mâu thuẫn giữa
ViệtNamvà Pháp cùng các nƣớc phƣơng Tây khác lên đến đỉnh cao. Vua Tự Đức
tìm cách ngăn chặn ảnh hƣởng của phƣơng Tây vào ViệtNamdựa theo kinh nghiệm
của Trung Quốc. Giới sử học phƣơng Tây đều đã phân tích chính sách đối ngoại
lỗi thời của kinh thành Huế là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của
ViệtNam. Chính sách đối ngoại lỗi thời đƣợc thể hiện trong đƣờng lối cứng nhắc
của nhà Nguyễn, không biết tậ dụng khó khăn của nƣớc Pháp để đƣa ra những
chính sách khôn khéo, kịp thời cứu nguy cho dân tộc. Chính giới Pháp chƣa đặt ra
quyết tâm đƣờng lối xâm lƣợc ViệtNammà mới chỉ nằm trong ý đồ cá nhân của
một số tên thực dân đã từng hoạt động ở Viễn Đông vào giai đoạn đầu cuộc chiến.
uan điểm của sử gia Sài Gòn: Trong Việt Sử tân biên, Phạm Văn Sơn cho rằng:
Việt Nam mất vào tay thực dân Pháp là một tất yếu lịch sử, hoặc ít ra cũng do trình
độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với ngƣời Pháp: “Nhà Nguyễn mất nƣớc với
Tây phƣơng chỉ là vì văn minh nông nghiệp của Á Đông hết sức lạc hậu, yếu hèn,
mà văn minh khoa học cùng cơ giới của phƣơng Tây lại quá mạnh mà thôi”.
Ngƣợc lại, các nhà sử học miền Bắc Việt Namtrong giai đoạn 1954-1975 có xu
hƣớng quy trách nhiệm hoàn toàn cho các vua Nguyễn đối với việc mất nƣớc.
Trƣớc năm 1975, đã có những ý kiến đánh giá phê phán nhà Nguyễn rất gay gắt
ở miền Bắc. Ngay từ năm 1961, ngay trƣớc khi cho ấn hành tập đầu tiên của
bộ Đại Nam thực lục, Viện Sử học miền Bắc đã viết nhận định: “Những sự kiện
lịch sử xảy ra trong khoảng thời gian từ Nguyễn Hoàng đến Đồng Khánh [15581888], những công việc mà các vua [chúa] nhà Nguyễn đã làm trong khoảng thời
gian 330 năm ấy, … tự chúng tố cáo tội ác của nhà Nguyễn trƣớc lịch sử của dân
tộc chúng ta”. “Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn
làm công việc biên soạn Đại Nam thực lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn
cho triều đại nhà Nguyễn …” và ”Nhƣng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi
các sự thật của lịch sử. Dƣới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử … vẫn phơi bày
cho mọi ngƣời biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những chúng đã
cõng rắn cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt
Nam trong một đời sống tối tăm đầy áp bức”.
Sách Lịch sử Việt Nam do Viện Khoa học Xã hội của Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, bản năm 1971 cũng cho rằng ”triều Nguyễn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn
về tội ác trời không dung, đất không tha, để cho tên tuổi đất nƣớc một lần nữa, sau
hàng ngàn năm độc lập, bị quân cƣớp nƣớc xóa khỏi bản đồ Thế giới”. “Triều
Nguyễn là vƣơng triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến
tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lƣợc của ngƣời nƣớc ngoài. Gia Long lên
làm vua lập ra triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông
dân … Triều Nguyễn là vƣơng triều tối phản động … Bản chất cực kỳ phản động
của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả
thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những ngƣời
thuộc phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em …”; “Chính quyền nhà Nguyễn hoàn
toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế
lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai
cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819) đến Minh
Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883) đều rất sợ nhân
dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì kiếp nhƣợc trƣớc phong
trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời
vào Huế“.
Ngoài ra còn các nhận định trong các tiểu mục khác nhƣ ”Tăng cƣờng bộ máy đàn
áp”, “Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát”, “Chế độ áp bức bóc lột nặng nề”, “Chính
sách kinh tế lạc hậu và phản động”, “Chính sách đối ngoại mù quáng”, v.v… và
trong tập II của bộ Lịch sử Việt Nam xuất bản vào năm 1985, các tác giả thuộc Uỷ
ban Khoa học Xã hội còn dùng những từ ngữ nhƣ: “triều đình nhà Nguyễn thối nát
và hèn mạt”, “Vƣơng triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn”, “cực kỳ ngu xuẩn”, “tên
chúa phong kiến bán nƣớc số 1 là Nguyễn Ánh… Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực
ngoại bang giúp hắn thỏa mãn sự phục thù giai cấp“.
GS Nguyễn Phan Quang có ý kiến nhƣ sau: Mất nƣớc không phải là tất yếu…
Triều Nguyễn thua Pháp vì lúng túng về đƣờng lối chính trị dẫn đến lúng túng về
quân sự, tuy quân lực không yếu mà tự phải thua. Sự lúng túng còn thể hiện trong
nỗi lo sợ trƣớc luồng tƣ tƣởng mới đang tràn vào. Lo sợ, nhƣng không có giải pháp
hữu hiệu, đành thu mình đóng kín. Càng lúng túng hơn khi nhà Nguyễn đồng thời
phải đối phó với những mâu thuẫn nội bộ rất nghiêm trọng, mà những mâu thuẫn
này lại bị sự chi phối rất mạnh của các áp lực từ bên ngoài. Riêng đối với đạo Giatô thì triều Nguyễn đã từ lúng túng đi đến bế tắc, không đủ sức chuyển đổi tƣ duy
để có biện pháp thích hợp.
Nguyễn Quang Trung Tiến cho rằng: Nhà Nguyễn chú trọng tới việc giữ chủ
quyền đất nƣớc, trong đó có việc cấm đạo.
“Những chính sách cực đoan của nhà Nguyễn với Thiên chúa giáo không hề xuất
phát từ đầu óc kỳ thị tôn giáo thuần túy, mà chính xuất phát từ nhận thức giữa
Thiên chúa giáo với phƣơng Tây là dấu nối nhƣ một thể đồng nhất. Vì thế, trong
cách nhìn của triều Nguyễn, ngăn cấm Thiên chúa giáo là ngăn chặn phƣơng
Tây hiện diện tại Việt Nam, chứ không phải ngăn cấm một tôn giáo đơn thuần. Tuy
nhiên, cách làm của nhà Nguyễn đã phản tác dụng, gây phá vỡ khối đại đoàn kết
toàn dân, tạo vết hằn lịch sử đau thƣơng giữa lƣơng và giáo, đồng thời khiến
phƣơng Tây có lý do nổ súng xâm lƣợc và lợi dụng đồng bào có đạo trong suốt
thời gian thống trị.”
Giáo sƣ Phan Huy Lê thì cho rằng: Kết luận trƣớc đây cho rằng Tự Đức bạc nhƣợc
đầu hàng, phản bội dân tộc là chƣa thỏa đáng, chƣa khách quan. Ông và triều
Nguyễn đã tìm mọi cách bảo vệ đất nƣớc và cũng là bảo vệ vƣơng triều đến cùng,
nhƣng do năng lực và nhãn quan chính trị nên không đề ra đƣợc đối sách đúng để
giành thắng lợi trƣớc một thế lực xâm lƣợc hoàn toàn mới, mà lịch sử trƣớc đây
chƣa để lại kinh nghiệm.
Trong cả khu vực Đông Nam Á và Đông Á, tất cả các quốc gia đều mất nƣớc, hoặc
thành thuộc địa, hoặc thành nửa thuộc địa. Chỉ riêng Nhật Bản và Thái Lan giữ
đƣợc độc lập…Nhật Bản thời Minh Trị thực hiện cuộc cải cách lớn, nhƣng tình
hình kinh tế xã hội của Nhật có khác các nƣớc phƣơng Đông, bắt đầu từ thế kỷ
XVII khi đóng cửa với bên ngoài nhƣng bên trong phát triển kinh tế rất mạnh, tạo
lập những tiền đề cho cuộc cải cách. Thái Lan thì có cách ứng xử rất khôn ngoan,
tận dụng đƣợc vị thế vùng đệm nằm giữa 2 thế lực đế quốc rất mạnh, Anh ở phía
Ấn Độ, Pháp ở phía Đông Dƣơng, lợi dụng đƣợc mâu thuẫn và cạnh tranh gay gắt
này để duy trì thế độc lập tƣơng đối…không thể phủ nhận trách nhiệm của triều
Nguyễn là nhà nƣớc quản lý đất nƣớc, nhƣng lúc phân tích nguyên nhân mất nƣớc
thì phải hết sức khách quan, toàn diện, đặt trong bối cảnh lịch sử mới của khu
vực và thế giới, không nên quy kết một cách giản đơn.
Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì: “Vƣơng triều Nguyễn tuy không bán
nƣớc nhƣng đã để mất nƣớc (cho đến năm 1945). Tất nhiên, đây là khó khăn chung
của các nƣớc nhƣợc tiểu mà triều đình nhà Nguyễn không thể vƣợt qua đƣợc thời
đại trong tình hình Đông – Tây bấy giờ. Nhƣợc điểm này chính là lý do mà một số
ngƣời đã nêu ra để báng bổ vƣơng triều ấy một cách nặng lời nếu không nói là quá
đáng. Chủ yếu là do nhận thức phiến diện và thái độ cực đoan của một giai đoạn
lịch sử.”
Riêng với Tự Đức và các triều thần, nhiều sách vở từng gọi họ là “bạc nhƣợc” dƣới
góc độ khác, từ nguyên nhân bế tắc trong cải cách:
“Suốt hơn 20 năm kể từ khi ký Hiệp ƣớc Nhâm Tuất (1862), triều Nguyễn đã
không thể giải quyết mâu thuẫn giữacải cách mới có thể chống Pháp thành công và
muốn chống Pháp thành công thì phải cải cách; vì thế, triều Nguyễn đã để mất dần
lãnh thổ và phải lần lƣợt ký kết nhiều hiệp ƣớc bất bình đẳng với thực dân
Pháp. Sự bế tắc này dễ làm ngƣời ta liên tƣởng vua Tự Đức và triều đình Huế đã
theo đuổi một đƣờng lối chống Pháp nhu nhƣợc, thỏa hiệp, cuối cùng chấp nhận
đầu hàng giặc.
“Hai hiệp ƣớc Harmand (25-8-1883) và Patenôtre (6-6-1884) do triều Nguyễn ký
kết với Pháp diễn ra sau ngày vua Tự Đức mất, nhƣng đó là kết quả khó tránh khỏi
của một kế sách dùng dằng, bế tắc của ngƣời tiền nhiệm.”.
Theo nhà sử học Dƣơng Trung Quốc: “Kết cục của triều Nguyễn có thể gọi là sự
đầu hàng để mất nƣớc. Nhƣng đừng quá lời coi đó là sự bán nƣớc vì không thể
không nói đến gần 20 năm phản kháng chống xâm lƣợc không chỉ của dân chúng
mà cả triều đình. Những cuộc chiến đấu dũng mãnh của quan quân triều đình cùng
nhân dân trên cửa biển Sơn Trà, trên thành Điện Hải, của quân dân Nam Bộ trên
chiến lũy Kỳ Hoà, trên cổng thành Cửa Bắc Hà Nội với cái chết anh hùng của hai
vị Tổng đốc thành Hà Nội là Nguyễn Tri Phƣơng và Hoàng Diệu là bằng chứng…”
Giáo sƣ sử học Nguyễn Khắc Thuần khẳng định trách nhiệm của nhà Nguyễn đối
với việc mất nƣớc, bất luận nhìn từ góc độ nào: “Việc Pháp đánh Việt Nam là một
tất yếu khách quan; việc nhà Nguyễn để mất nƣớc có phải là tất yếu khách quan
hay không, đó là một dấu hỏi lớn, là chủ đề của nhiều hội thảo khoa học của nhiều
thế hệ nhà sử học. Thực tế cho thấy không phải nhà Nguyễn buông súng từ đầu và
không phải các hoàng đế nhà Nguyễn đều bạc nhƣợc. Chúng ta có quyền nhìn nhận
việc mất nƣớc từ nhiều góc độ khác nhau, nhƣng nhìn từ góc độ nào thì nhà
Nguyễn cũng phải chịu trách nhiệm về thảm họa mất nƣớc”
Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì “Đọc “Lời giới thiệu” trong bản dịch bộ
“Đại Nam thực lục” và học các chƣơng mục lịch sử chính thống với những lời lẽ
nhƣ vừa nêu, độc giả và học sinh sinh viên trong cả nƣớc chắc hẳn đều phải phẫn
nộ và căm thù các vua chúa nhà Nguyễn đến tận xƣơng tủy! Có một điều ghi rõ
trong “Lời nhà xuất bản” ở tập II của bộ “Lịch sử Việt Nam” là sách này đã đƣợc
“viết theo đề cƣơng” và “tƣ tƣởng chỉ đạo” từ trên xuống. Nghĩa là các tác giả đã
viết theo quan điểm lập trƣờng của lãnh đạo chứ không phải viết theo tƣ duy sử
học của cá nhân…”.
Dù vậy, cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng, vào ngay thời điểm đang chỉ đạo việc biên
soạn bộ sách lịch sử do Ủy ban Khoa học Xã hội chủ trì đả phá quyết liệt các chúa
Nguyễn và triều Nguyễn cũng nhắc nhở những ngƣời tham gia biên soạn bộ sử ấy
rằng, rồi “đến lúc nào đó” phải đánh giá lại chính những quan điểm của bộ sử này
về các chúa Nguyễn và triều Nguyễn.
GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nhận định, thời kỳ các
chúa Nguyễn và vƣơng triều Nguyễn từthế kỷ XVI cho đến thế kỷ XIX là một thời
kỳ lịch sử đã trải qua những cách nhìn nhận và đánh giá hết sức khác nhau, có
những lúc gần nhƣ đảo ngƣợc lại. Triều Nguyễn đƣợc đặt trong “khung” lý thuyết
hình thái Kinh tế xã hội là triều đại suy vong, lâm vào khủng hoảng nặng nề, và
chịu nhiều phán xét không công bằng.
Theo ông Nguyễn Đắc Xuân (Hội sử học Thừa Thiên – Huế), nhận định sai về nhà
Nguyễn còn có 4 xu hƣớng: con cháu nhà Lê - Trịnh viết về nhà Nguyễn có những
điểm sai; thực dân Pháp, Thiên chúa giáo và những ngƣời nghiên cứu nhà Tây Sơn,
thích Tây Sơn đều có những đánh giá sai về nhà Nguyễn.
Quan điểm phê phán nhà Nguyễn chi phối xã hội miền Bắc (từ năm 1954) và miền
Nam (từ sau năm 1975) trong một thời gian dài nên nhiều di tích có liên quan bị
hủy hoại, xoá bỏ các hình thức ghi nhận nhƣ tên đƣờng phố, trƣờng học, các công
trình công cộng tại các đô thị, thậm chí ngay cả với những “ông vua chống Pháp”
nhƣ Duy Tân cũng bị bãi bỏ. Một thời gian dài quần thể di tích cố đô Huế bị bỏ
mặc để trở thành phế tích sau những đổ nát của chiến tranh và lụt lội…Chỉ trong
hai thập niên gần đây (1987-2008), nhiều cuộc hội thảo khoa học và nhiều công
trình nghiên cứu đã dần dần đem lại một cái nhìn dễ chịu hơn chứ không còn gay
gắt nhƣ trƣớc đối với vƣơng triều này.
Quyển Đại cƣơng Lịch sử Việt Nam tập II do Đinh Xuân Lâm biên soạn ngày nay
(bản năm 2007) cũng vẫn cho rằng ”triều Nguyễn thành lập là sự thắng thế của tập
đoàn phong kiến tối phản động trong nƣớc có tƣ bản nƣớc ngoài ủng hộ”. Đinh
Xuân Lâm cũng cho rằng nhà Nguyễn ”là 1 nhà nƣớc quân chủ chuyên chế tuyệt
đối, tập trung cao độ với 1 chế độ chính trị lạc hậu, phản động“. ”Mọi chính
sách chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội triều Nguyễn ban hành đều nhằm mục đích
duy nhất là bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn”… và
các biện pháp khai hoang hay mộ dân lập ấp đều ”xuất phát từ lợi ích của giai
cấp thống trị”.
“Để duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi, phong kiến nhà
Nguyễn ra sức củng cố trật tự bằng mọi cách.” “Đối nội, chúng ra sức đàn
áp khủng bố các phong trào của quần chúng” và ”Đối ngoại, chúng ra sức đẩy
mạnh thủ đoạn xâm lƣợc đối với các nƣớc láng giềng nhƣ Cao Miên, Lào làm cho
quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối
với các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây thì chúng thi hành ngày một thêm gắt gao chính
sách bế quan toả cảng và cấm đạo, giết đạo…”
“Với những chính sách phản động nói trên, nƣớc ViệtNamđã suy yếu về mọi mặt
và trở thành miếng mồi ngon đối với các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây”.
Lý giải về thái độ đánh giá trên, giáo sƣ Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam cho rằng: ”nguyên do sâu xa của vấn đề này là do bối cảnh chính trị
của đất nƣớc (Việt Nam) thời bấy giờ và cách vận dụng phƣơng pháp luận sử học
của các nhà nghiên cứu”… “Khuynh hƣớng này phát triển ở miền Bắc (Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa) trong thời gian từ 1954 phản ánh trên một số luận văn trên tạp
chí Văn sử địa, Đại học sƣ phạm, Nghiên cứu lịch sửvà biểu thị tập trong những bộ
lịch sử, lịch sử văn học, lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam…”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cũng có ý kiến tƣơng tự, cho rằng do chiến
tranh Đông Dƣơng và chiến tranh Việt Nammà các nhà biên soạn sách đã có thái
độ khắt khe với nhà Nguyễn. Theo Nguyễn Đình Đầu, việc dùng những khái niệm
nhƣ đấu tranh giai cấp, giai cấp địa chủ, giai cấp nông dân, giai cấp phong kiến, tập
đoàn thống trị, chiến tranh Cách mạng, tƣớc đoạt tƣ liệu sản xuất, bóc lột sức lao
động… lên xã hội nông nghiệp phƣơng Đông trong sách Lịch sử Việt Nam do
Viện Khoa học Xã hội của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà biên soạn là gƣợng ép.
Nhà sử học Dƣơng Trung Quốc thì tin là bởi ”Bối cảnh chính trị của cuộc cách
mạng “phản đế- phản phong” cùng lập trƣờng đấu tranh giai cấp và cải tạo xã hội
chủ nghĩa đã kéo dài sự đánh giá một sắc màu tiêu cực về nhà Nguyễn…”. Ông
cũng cho rằng ”Sử học là một khoa học, nhƣng nó cũng không thể không mang
màu sắc chính trị.”và ”Trong nhận thức ấy, xin đừng trách nền sử học một thời đã
từng lên án nhà Nguyễn với những đánh giá mà ngày nay ta thấy thiếu sự công
bằng.”
Giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng là ngƣời sớm nhất đƣa ra một đánh giá sáng sủa hơn
trên tờ “Sông Hƣơng” (Huế) vào năm 1987″Tôi không thích nhà làm sử cứ theo ý
chủ quan của mình, và từ chỗ đứng của thời đại mình mà chửi tràn chửi lấp toàn bộ
nhà Nguyễn cho sƣớng miệng và ra vẻ có lập trƣờng. Có thời nhà Nguyễn chúng ta
mới có một Việt Namhoàn chỉnh nhƣ ngày nay”.
Theo giáo sƣ Phan Huy Lê, ”cần thiết phải khẳng định công lao của các chúa
Nguyễn và vƣơng triều Nguyễn trong việc mở mang bờ cõi, thống nhất đất nƣớc,
phát triển giáo dục, văn hóa. Những gì đƣợc coi là “tội” của các vua chúa Nguyễn
cũng phải đƣợc xem xét lại cho thật công bằng”. Phan Huy Lê cũng đặt câu hỏi
“việc Nguyễn Ánh “diệt” Nguyễn Lữ, Nguyễn Nhạc, Quang Toản có phải là phản
tiến bộ hay không, khi mà những chính quyền này đã suy yếu và mất lòng
dân?” Giáo sƣ cũng cho rằng ”sau Cách mạng tháng Tám-1945 cho đến 1975,
trong thời kỳ chiến tranh, công việc nghiên cứu nói chung có bị hạn chế, số lƣợng
công trình nghiên cứu không nhiều. Và cơ bản nhất là đã xuất hiện một khuynh
hƣớng phê phán gay gắt cácchúa Nguyễn, đặc biệt là vƣơng triều Nguyễn: chia cắt
đất nƣớc, cầu viện ngoại bang, đầu hàng thực dân xâm lƣợc… Thời kỳ nhà Nguyễn
bị đánh giá là thời kỳ chuyên chế phản động nhất trong lịch sử phong kiến Việt
Nam. Khuynh hƣớng đó gần nhƣ trở thành quan điểm chính thống trong biên
soạn sách giáo khoa đại học và phổ thông.”và giai đoạn này ”là thời kỳ mà nền sử
học Mácxít đang hình thành nên sự ấu trĩ, giáo điều, công thức buổi đầu là không
tránh khỏi. Không chỉ nhà Nguyễn mà nhà Mạc, nhà Hồ cũng chịu cái nhìn thiếu
khách quan, công bằng tƣơng tự…”
Các nhà sử học tham gia hội thảo quốc gia về “Chúa Nguyễn và vƣơng triều
Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX” năm 2008 đều
nhận thấy ”sự phê phán, lên án đến mức độ gần nhƣ phủ định mọi thành tựu của
thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn trƣớc đây là quá bất công, thiếu khách
quan, nhất là khi đƣa vào nội dung sách giáo khoa phổ thông để phổ cập trong lớp
trẻ và xã hội… các nhà sử học dĩ nhiên có trách nhiệm của mình trong vận dụng
phƣơng pháp luận sử học chƣa đƣợc khách quan, trung thực.”
III. ĐÁNH GIÁ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NGUYỄN TRONG VIỆC MẤT
NƢỚC VÀO CUỐI THẾ KỈ XIX
“Lịch sử diễn ra một lần còn nhận thức lịch sử là một quá trình”. Sự đánh giá các
chúa Nguyễn và Vƣơng triều Nguyễn ở thời đại này do vậy, là sự chín muồi của
một quá trình nhận thức, để chuyển từ nhận thức của giới sử học tới nhận thức của
xã hội. Nó không thể tách rời với quá trình đổi mới của đất nƣớc, cũng có nghĩa là
sự đổi mới trong tƣ duy lãnh đạo của Đảng cầm quyền, bắt đầu từ đổi mới tƣ duy
kinh tế với một khẩu hiệu hành động: “Dám nhìn thằng vào sự thật, nói đúng sự
thật”.
Sử học là một khoa học, nhƣng nó cũng không thể không mang màu sắc chính trị.
Thời đại nào, ở đâu và ai cầm bút viết sử cũng vậy. Chỉ có điều chính trị biết phục
tùng quy luật, căn cứ vào tính chân thực trong nhận thức quá khứ, đó sẽ là nền
chính trị bền vững và trƣờng tồn, cho dù đạt tới tiêu chí đó không dễ dàng. Và
ngƣợc lại, nếu bất chấp quy luật, duy ý chí thì chỉ có thể đạt đựoc những mục tiêu
trƣớc mắt nhƣng sẽ không bền vững. Sử học bao giờ cũng là sự phản chiếu nền
chính trị đƣơng thời.
Rõ ràng, nhận thức lịch sử cũng thay đổi cùng thời gian, mà động cơ hay động lực
thay đổi chính là do đời sống đƣơng đại đòi hỏi. Suốt thời nƣớc ta bị Pháp đô hộ,
thì Quốc sử quán của nhà Nguyễn vẫn tiếp tục viết Đại Namthực lục để ghi nhận
và
bảo
vệ
chế
độ
của
mình.
Còn sử gia ngƣời Pháp (mà đôi khi ta gọi là sử gia thƣc dân) đƣơng nhiên nhìn
nhận sự cai trị của ngƣời Pháp là một công cuộc khai sáng văn minh. Những ngƣời
viết sử yêu nƣớc từ cụ Phan Bội Châu (ViệtNam phong quốc sử) đến Nguyễn Ái
Quốc (Diễn ca Lịch sử nƣớc ta) đều coi đó là vũ khí tuyên truyền và tập hợp lực
lƣợng cách mạng, lên án đế quốc và phong kiến. Nhà giáo dạy sử nổi tiếng là Trần
Trọng Kim trong “Việt Nam sử lƣợc” nhắc đến những điểm sáng trong sách của
ông nhƣ “đề cao vai trò của Quang Trung và nhà Tây Sơn” vào thời điểm nhà
Nguyễn tuy không còn là một triều đại tự chủ nhƣng vẫn hiện diện trong bộ máy
cai trị thuộc địa. Nhƣng rồi chúng ta cũng biết rằng, trong vòng xoáy của những
biến cố chính trị, chính tác giả cuốn sách có giá trị này cũng lựa chọn một thế đứng
cho mình…
Chính vì thế phải thấy sự nhận thức lịch sử phản ảnh trong chủ đề đánh giá các
chúa Nguyễn và Vƣơng triều Nguyễn cũng phản ảnh đời sống chính trị của đất
nƣớc. Nó vừa là kết quả nhận thức lịch sử, trƣớc hết của giới sử học, vừa là những
thay đổi trong nhận thức của toàn xã hội, bắt nguồn từ nhu cầu của chính đời sống
hiện tại, của một thời đại lịch sử mới- hội nhập để phát triển.
Quan điểm cá nhân phủ định ý kiến cho rằng việc nƣớc ta rơi vào tay Pháp cuối thế
kỉ XIX là do trình độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với kẻ thù xâm lƣợc, “văn
minh nông nghiệp Á Đông hết sức lạc hậu, yếu hèn” mà văn minh khoa học, cơ
giới của phƣơng Tây lại quá mạnh. Nếu coi thừa nhận nhƣ thế thì sẽ không có
trách nhiệm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc bảo vệ đất nƣớc, vì lý do có tính
định mệnh, bất khả kháng. Nói nhƣ vậy là việc mất nƣớc là tất yếu, kẻ yếu phải
thua kẻ mạnh, ngƣời văn minh phải chiến thắng ngƣời lạc hậu.
Không ít những nhà sử học đều nhìn nhận việc mất nƣớc là tất yếu khách quan.
Điều này có rất nhiều cơ sở, nhƣ học thuyết Đac Uyn, chủ nghĩa chiến tranh kỹ
thuật, mạnh thắng yếu thua. Các sử gia phƣơng Tây và một số sử gia trong nƣớc
đều biện bạch cho việc mất nƣớc bởi lý do nhƣ trên, rằng với sức mạnh của súng
ống, tàu to đạn lớn ƣu trội, thực dân Pháp đã dễ dàng thôn tính đƣợc Việt Nam.
Trong chiến tranh, nguyên nhân quyết định thắng thua là ở sức mạnh tổng hợp của
một quốc gia trong đó yếu tố con ngƣời là yếu tố quyết định. Song các sử gia
phƣơng Tây lại cho rằng yếu tố kỹ thuật, súng đạn là yếu tố quyết định. Nếu áp
dụng ở chiến trƣờng phƣơng Tây thì kỹ thuật là yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất
khi dựa theo lối đánh dàn quân, song qui luật mạnh đƣợc yếu thua ấy về kỹ thuật,
vũ khí lại không đúng ở chiến trƣờng ViệtNam. Nhƣ thời hiện đại, khi phải đƣơng
đầu với hai kẻ thù hùng mạnh, hai cƣờng quốc thế giới Pháp (1945 – 1954) , rùi
Mỹ (1954 – 1975) nhƣng nhân dân Việt Nam “yếu” hơn vẫn giành chiến thắng vẻ
vang. Bởi đó là sức mạnh tổng hợp vật chất và tinh thần, sức mạnh từ cuộc chiến
tranh nhân dân với lối đánh du kích.
Triều Nguyễn là vƣơng triều cuối cùng trong lịch sử chế độ phong kiến ViệtNam,
phải gánh trách nhiệm của dân tộc để đối phó với sự xâm lƣợc của thực dân Pháp.
Cuộc đối đầu của nhà Nguyễn với thực dân Pháp khắc hẳn với các cuộc đối mặt
với việc xâm lƣợc của ngoại bang các thế kỉ trƣớc. Dù sao các cuộc kháng chiến
trƣớc đây diễn ra trong bối cảnh lịch sử thời chế độ phong kiến đang lên, giai cấp
phong kiến còn giữ vai trò tiến bộ, đóng vai trò quan trọng đối với quá trình xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kẻ thù xâm lƣợc, dù sao cùng một trình độ phát triển với
nƣớc ta, tất cả đều là ngƣời phƣơng Đông. Thời Nguyễn khác, giai cấp phong kiến
ViệtNamđã dần dần mất vai trò lịch sử. Kẻ thù mới hơn, trình độ kinh tế – kỹ thuật
cao hơn một bậc.
Nguyên nhân mất nƣớc có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nó rộng hơn trách
nhiệm mất nƣớc, là cơ sở cho đánh giá trách nhiệm mất nƣớc. Nguyên nhân mất
nƣớc của chủ thể nhà Nguyễn là: Bảo thủ, trì trệ, duy trì quan hệ sản xuất cũ, lạc
hậu, chặn đứng mọi quan hệ sản xuất mới. Lúc không chiến tranh nhà Nguyễn
không thức thời áp dung những biện pháp cải tổ đất nƣớc khiến thế nƣớc ngày
càng suy vi, không đủ sức đối phó với kẻ xâm lƣợc. Khi có biến, với tƣ cách là
ngƣời lãnh đạo tổ chức cuộc kháng chiến đã thiếu đƣờng lối đúng đắn, không đƣa
đƣợc đƣờng lối chiến lƣợc phù hợp, lấy tƣ tƣởng chủ hòa là chính nên đã thất bại.
Giáo sƣ Trần Văn Giàu đƣa ra 10 nguyên nhân mất nƣớc của ViệtNam
1. Tình trạng phân liệt, phân tranh, nội chiến kéo dài từ thế kỉ XVI – XVIII làm
suy thoái ý thức dân tộc và tƣ tƣởng truyền thống yêu nƣớc. Thực trạng phân
tranh lâu dài, dữ dội làm cho long dân ViệtNamchia lìa, tính chất dân tộc
mai một
2. Sau khi chiến thắng Gia Long trả thù tàn bạo Tây Sơn, thu vén toàn bộ
quyền lực vào tay mình, chuyên quyền độc đoán. Đất nƣớc thống nhất
nhƣng mất đi lòng dân.
3. Mắc bệnh di căn là cầu viện nƣớc ngoài
4. Triều đình không dự kiến về cuộc chiến tranh xâm lƣợc phƣơng Tây, không
sẵn sang chuẩn bị bảo vệ nền độc lập dân tộc
5. Khi Pháp tấn công luôn ở thế thủ
6. Triều Nguyễn bỏ qua nhiều thời cơ tốt để cứu vãn nền độc lập dân tộc
7. Ngoan cố, thủ cựu, cự tuyệt đƣờng lối canh tân đổi mới đất nƣớc
8. Nội bộ triều đình Huế có một bộ phận thức thời nhƣng là thiểu sổ yếu ớt
9. Nhà Nguyễn kí nhiều hiệp ƣớc cầu hòa không có lối thoát
10.10. Quá tin vào lƣơng tâm hảo hữu của nƣớc Pháp
Để làm rõ đƣợc trách nhiệm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc để mất nƣớc vào
cuối thế kỉ XIX, phải thấy đƣợc việc mất nƣớc là một quá trình từ không tất yếu
cuối cùng đã chuyển thành tất yếu, có nghĩa là buổi đầu tƣ bản Pháp nổ súng xâm
lƣợc, khả năng đánh bại chúng dƣới lá cờ của triều đình không phải là không có
mà do những chính sách sai lầm của triều đình đã làm cho các khả năng đề kháng
và chiến thắng của quân dân ta ngày càng tiêu mòn, kẻ địch lấn lƣớt từ bƣớc này
tới bƣớc khác để cuối cùng nuốt gọn nƣớc ta. Biểu hiện là trong thời kỳ đầu tấn
công xâm lƣợc nƣớc ta thực dân Pháp đã vấp phải sức chiến đấu ngoan cƣờng của
quân dân ta dƣới lá cờ của triều đình, tình hình chúng có lúc vô cùng nguy ngập và
đã tính đến chuyện rút quân về nƣớc để tránh bị tiêu diệt tại chỗ. Thế nhƣng chính
trong quá trình chiến đấu chống ngoại xâm của dân tộc đã ngày càng bộc lộ sự bất
lực và phản động của triều Nguyễn chỉ sau một thời kỳ ngắn lãnh đạo nhân dân để
chiến đấu. Không ngoài mục đích giữ vững ngai vàng của dòng họ triều Nguyễn đã
nhanh chóng trƣợt dài trên con đƣờng nội bộ, cầu hòa để có thể đối phó với phong
trào đấu tranh của nhân dân cả nƣớc ngày càng phát triển.
Nhận định tình hình nƣớc ta khi Pháp phát động chiến tranh xâm lƣợc, có thể
khẳng định chế độ phong kiến ở Việt Nam đang ngày càng suy yếu, lực lƣợng vật
chất và tinh thần của nhân dân ta bị sự thông trị của nhà Nguyễn hủy hoại, chỉ có
thể cứu vãn nguy cơ mất nƣớc nếu nhà cầm quyền sớm biết mở đƣờng cho xã hội
tiến lên theo hƣớng mới, tăng cƣờng lực lƣợng vật chất và tinh thần cho nhân dân
để có đủ khả năng bảo vệ đất nƣớc.
Thực dân Pháp dựa trên những ƣu thế của mình cộng với một đối thủ suy yếu đã có
thể vƣợt qua không ít và không nhỏ những khó khăn của chúng để cuối cùng nuốt
gọn ViệtNam. Trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để mất nƣớc vào tay thực
dân Pháp cuối thế kỉ XIX là điều tất yếu, hiển nhiên, không thể tranh cãi. Thực tế
đau xót này, chính sử gia ngƣời Pháp Charles Grosselin đã xác nhận “những vị
Hoàng đế An Nam phải chịu trách nhiệm về sự đổ và xuống dốc của đất nƣớc họ.
Dân xứ này, quan lại, binh lính xứng đáng có quyền đƣợc những ngƣời cầm đầu có
giá trị hơn thế. Chính quyền họ quá mù quáng vì không dự liệu, không chuẩn bị gì
hết”.
Tóm lại, có thể khẳng định rằng Việt Nam từ những năm đầu của thế kỉ XIX đã bị
đặt vào tình trạng khủng hoảng vai trò lãnh đạo, triều Nguyễn bằng những chính
sách phản động đã tự thủ tiêu vai trò lãnh đạo của mình, đối lập sâu sắc với nhân
dân, ngày càng lún sâu vào con đƣờng nhƣợng bộ, cầu hòa và cuối cùng câu kết
với kẻ thù dân tộc trong việc đàn áp, bóc lột nhân dân cả nƣớc. ViệtNammất nƣớc,
dân tộc bị nô lệ, đó là trách nhiệm, là tội lớn của triều Nguyễn trƣớc dân tộc và
trƣớc lịch sử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Cảnh Minh (cb), Đào Tố Uyên, Võ Xuân Đàn, Giáo trình Lịch sử Việt
Nam, tập III, Nxb Đại học sƣ phạm, Hà Nội, 2008.
2. Vũ Huy Phúc, Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn, ĐạiNamthực lục chính biên, Hà Nội, 1963.
4. Trƣơng Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Lịch sử Việt Nam từ
nguyên thủy đến 1858, Nxb Giáo dục Hà Nội, 2008 (tái bản lần thứ 11).
5. Nguyễn Phan Quang, Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986.
6. Phạm Văn Sơn. Việt Sử Tân Biên – Quyển V (Saigon, 1962).
7. Nhiều tác giả, Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, NXB Văn hoá Sài Gòn
8. Những vấn đề Lịch sử triều Nguyễn-Tạp chí Xƣa và Nay & NXB Văn Hóa Sài
Gòn
(nguồn: Khoa lịch sử, Đại học sƣ phạm Thái Nguyên)
Đƣợc đăng bởi quan khoa su vào lúc 00:57
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên TwitterChia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng một Nhận xét
Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ
Đăng ký: Đăng Nhận xét (Atom)
Lưu trữ Blog
▼ 2012 (133)
o ► tháng năm (27)
o ► tháng tƣ (44)
o ▼ tháng ba (51)
 chiến khu Tức Dụp (An Giang)




































Lịch sử Việt Nam 1975 - 2010
Lịch sử Việt Nam 1954 - 1975
Lịch sử Việt Nam 1945 - 1954
. Những bí mật về chiến tranh Việt Nam (Daniel Ell...
chiến tranh Việt Nam 1954 - 1975
Chiến xa trên thế giới
bàn luận về nhà Nguyễn
Tƣ liệu về Nguyễn Trƣờng Tộ - nhà cải cách lớn của...
Tƣ liệu về Nguyễn Trƣờng Tộ - nhà cải cách lớn của...
tƣ liệu về Duy tân Việt Nam thế kỷ XIX - XX
Cách mạng Pháp (1789 - 1794)
tài liệu về chiến thắng Điện Biên Phủ (1954)
lịch sử quan hệ quốc tế 1760 - 2000
Đại Cách mạng Pháp (1789)
Các hiệp ƣớc Pháp - Việt (1787 - 1884) (tiếng Pháp...
Cách mạng tháng Mƣời Nga 1917
tƣ liệu Việt Nam hiện đại (1954 - 1975)
Hồ Chí Minh hoàn thiện đƣờng lối chính trị và tổ c...
Tân thƣ và phong trào Duy tân ở Nhật Bản, Trung Qu...
Chiến tranh lạnh
NHÀ NƢỚC LÊ - TRỊNH VỚI VIỆC LẬP THƢƠNG IẾM
CỦA T...
CÁC HÓA THÂN CỦA THẦN VISHNU: TỪ THẦN THOẠI
ẤN ĐỘ ...
NHỮNG BƢỚC THĂNG TRẦM TRONG QUAN HỆ
INDONESIA - VI...
NHỮNG VẤN ĐỀ CỞ BẢN CỦA TÔN GIÁO
NHỮNG CẢN TRỞ TRÊN TIẾN TRÌNH THỐNG NHẤT
HAI MIỀN ...
VƢƠNG TRIỀU NGUYỄN VÀ TRÁCH NHIỆM MẤT
NƢỚC
Quốc hiệu Việt Nam thời Quang Trung
tài liệu quan hệ quốc tế
tài liệu về ngoại giao Việt Nam (Biển Đông)
Kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao ...
tƣ liệu về Nhật Bản
Chiếc BÁNH CHƢNG góp công Đại Phá Quân Thanh
Ban bố lệnh cấm, trừ bỏ tệ nạn (Tại cửa ô Quan Chƣ...
Chuyện hai vua Thái Tông
Phùng Khắc Khoan tặng thơ sứ thần Nhật Bản
Cô Hầu trong sự nghiệp Tây Sơn
 Lƣu Khánh Đàm (989-1058): ngƣời xƣớng xuất việc dờ...
 Lê Đức Thọ và Henry Kissinger: cuộc đối đầu lịch s...
 Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố vấn Vĩnh Thụy
 Nhận định của giới sử học phƣơng Tây về cuộc tổng ...
 Hội thề Đông Quan năm 1427
 Ninh Bình: Ba bến đò lịch sử
 Khám phá "Vạn Lý Trƣờng Thành" Việt Nam
 Huyền thoại và giai thoại xung quanh Lý Công Uẩn -...
 Con đƣờng huyền thoại
 Hình ảnh Rồng trong lịch sử Việt
 CHÍNH SÁCH NG CỦA VƢƠNG TRIỀU TÂY SƠN
 Việt Nam thời Tây Sơn - Lịch sử nội chiến 1771 - 1...
 Nhật ký hội nghị Geneve (1954) - Phan Anh
 tƣ liêu về Nguyễn Trƣờng Tộ - nhà canh tân lớn của...
► tháng hai (7)
► tháng một (4)


o
o

► 2011 (166)
Giới thiệu bản thân
quan khoa su
Thái minh quân, lớp CSU1091 trƣờng ĐH Sài Gòn
Xem hồ sơ hoàn chỉnh của tôi
Mẫu Picture Window. Cung cấp bởi Blogger.

More Related Content

What's hot

Bai 5 chau phi va my la tinh tk xix xx (1)
Bai 5  chau phi va my la tinh tk xix  xx  (1)Bai 5  chau phi va my la tinh tk xix  xx  (1)
Bai 5 chau phi va my la tinh tk xix xx (1)
Duc Võ
 

What's hot (8)

Bai 5 chau phi va my la tinh tk xix xx (1)
Bai 5  chau phi va my la tinh tk xix  xx  (1)Bai 5  chau phi va my la tinh tk xix  xx  (1)
Bai 5 chau phi va my la tinh tk xix xx (1)
 
Giáo án lịch sử 11 bài 17-19-20-21-22
Giáo án lịch sử 11 bài 17-19-20-21-22Giáo án lịch sử 11 bài 17-19-20-21-22
Giáo án lịch sử 11 bài 17-19-20-21-22
 
Caicach ruongdat-02
Caicach ruongdat-02Caicach ruongdat-02
Caicach ruongdat-02
 
BÀI 20: CHIẾN SỰ LAN RỘNG RA CẢ NƯỚC. CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN TA TỪ 18...
BÀI 20: CHIẾN SỰ LAN RỘNG RA CẢ NƯỚC. CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA  NHÂN DÂN TA TỪ 18...BÀI 20: CHIẾN SỰ LAN RỘNG RA CẢ NƯỚC. CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA  NHÂN DÂN TA TỪ 18...
BÀI 20: CHIẾN SỰ LAN RỘNG RA CẢ NƯỚC. CUỘC KHÁNG CHIẾN CỦA NHÂN DÂN TA TỪ 18...
 
BÀI 19 NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến t...
BÀI 19  NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC  (Từ năm 1858 đến t...BÀI 19  NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC  (Từ năm 1858 đến t...
BÀI 19 NHÂN DÂN VIỆT NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (Từ năm 1858 đến t...
 
Giáo án lịch sử bài 17-19-20-21-22
Giáo án lịch sử bài 17-19-20-21-22Giáo án lịch sử bài 17-19-20-21-22
Giáo án lịch sử bài 17-19-20-21-22
 
Lich su the gioi
Lich su the gioiLich su the gioi
Lich su the gioi
 
Nhóm 3 - Công nghiệp hóa (1750 - 2000)
Nhóm 3 - Công nghiệp hóa (1750 - 2000)Nhóm 3 - Công nghiệp hóa (1750 - 2000)
Nhóm 3 - Công nghiệp hóa (1750 - 2000)
 

Similar to Nguyennhanvn matnuoc.vn

Chuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 1.pdf
Chuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 1.pdfChuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 1.pdf
Chuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 1.pdf
TranLy59
 
Giáo án Lịch sử Lớp 11 - Phần Lịch sử thế giới (Mới nhất, đầy đủ)
Giáo án Lịch sử Lớp 11 - Phần Lịch sử thế giới (Mới nhất, đầy đủ)Giáo án Lịch sử Lớp 11 - Phần Lịch sử thế giới (Mới nhất, đầy đủ)
Giáo án Lịch sử Lớp 11 - Phần Lịch sử thế giới (Mới nhất, đầy đủ)
Mikayla Reilly
 
Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng
Bài thu hoạch lớp cảm tình đảngBài thu hoạch lớp cảm tình đảng
Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng
quachduong_khang
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tạp chí Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tạp chí Việt NamTư tưởng Hồ Chí Minh - Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tạp chí Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tạp chí Việt Nam
doankhanhvy091
 
cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng MR
cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng MRcương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng MR
cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng MR
Joseph Hung
 
Nam kỳ lục tỉnh đất nước và con người lâm văn bé
Nam kỳ lục tỉnh đất nước và con người   lâm văn béNam kỳ lục tỉnh đất nước và con người   lâm văn bé
Nam kỳ lục tỉnh đất nước và con người lâm văn bé
Kelsi Luist
 

Similar to Nguyennhanvn matnuoc.vn (20)

Lịch sử văn học việt nam tập 3
Lịch sử văn học việt nam   tập 3Lịch sử văn học việt nam   tập 3
Lịch sử văn học việt nam tập 3
 
Thi
ThiThi
Thi
 
Chuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 1.pdf
Chuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 1.pdfChuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 1.pdf
Chuong trinh GTLSD (khong chuyen) Chương 1.pdf
 
Giáo án Lịch sử Lớp 11 - Phần Lịch sử thế giới (Mới nhất, đầy đủ)
Giáo án Lịch sử Lớp 11 - Phần Lịch sử thế giới (Mới nhất, đầy đủ)Giáo án Lịch sử Lớp 11 - Phần Lịch sử thế giới (Mới nhất, đầy đủ)
Giáo án Lịch sử Lớp 11 - Phần Lịch sử thế giới (Mới nhất, đầy đủ)
 
CHƯƠNG 1.pptx.pdf
CHƯƠNG 1.pptx.pdfCHƯƠNG 1.pptx.pdf
CHƯƠNG 1.pptx.pdf
 
Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng
Bài thu hoạch lớp cảm tình đảngBài thu hoạch lớp cảm tình đảng
Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng
 
trieu dai nha hue to1lop10a5.pptx
trieu dai nha hue to1lop10a5.pptxtrieu dai nha hue to1lop10a5.pptx
trieu dai nha hue to1lop10a5.pptx
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tạp chí Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tạp chí Việt NamTư tưởng Hồ Chí Minh - Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tạp chí Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tạp chí Việt Nam
 
Việt nam sử lược
Việt nam sử lượcViệt nam sử lược
Việt nam sử lược
 
Việt Nam sử lược
Việt Nam sử lược Việt Nam sử lược
Việt Nam sử lược
 
cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng MR
cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng MRcương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng MR
cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng MR
 
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNGCHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG
 
Đề Cương môn Đường lối Đảng Cộng Sản Việt Nam - Share Tài Liệu TNUT
Đề Cương môn Đường lối Đảng Cộng Sản Việt Nam - Share Tài Liệu TNUTĐề Cương môn Đường lối Đảng Cộng Sản Việt Nam - Share Tài Liệu TNUT
Đề Cương môn Đường lối Đảng Cộng Sản Việt Nam - Share Tài Liệu TNUT
 
1a
1a1a
1a
 
Bộ câu hỏi về phong trào yêu nước ở VN
Bộ câu hỏi về phong trào yêu nước ở VNBộ câu hỏi về phong trào yêu nước ở VN
Bộ câu hỏi về phong trào yêu nước ở VN
 
Nam kỳ lục tỉnh đất nước và con người lâm văn bé
Nam kỳ lục tỉnh đất nước và con người   lâm văn béNam kỳ lục tỉnh đất nước và con người   lâm văn bé
Nam kỳ lục tỉnh đất nước và con người lâm văn bé
 
Lịch Sử Nhà Nước Và Pháp Luật Thế Giới
Lịch Sử Nhà Nước Và Pháp Luật Thế Giới Lịch Sử Nhà Nước Và Pháp Luật Thế Giới
Lịch Sử Nhà Nước Và Pháp Luật Thế Giới
 
Nhóm 1 tuần 1 - lịch sử đcs việt nam
Nhóm 1  tuần 1 - lịch sử đcs việt namNhóm 1  tuần 1 - lịch sử đcs việt nam
Nhóm 1 tuần 1 - lịch sử đcs việt nam
 
Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng no...
Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng no...Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng no...
Hoàn cảnh lịch sử, chủ trương và biện pháp để bảo vệ chính quyền cách mạng no...
 
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.ppt
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.pptsự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.ppt
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.ppt
 

Recently uploaded

Recently uploaded (17)

Quản lý thu bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp tại BHXH quận Thanh Xuân
Quản lý thu bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp tại BHXH quận Thanh XuânQuản lý thu bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp tại BHXH quận Thanh Xuân
Quản lý thu bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp tại BHXH quận Thanh Xuân
 
CÁC YẾU TỐ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA DU KHÁCH ĐỐI VỚI ...
CÁC YẾU TỐ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA DU KHÁCH ĐỐI VỚI ...CÁC YẾU TỐ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA DU KHÁCH ĐỐI VỚI ...
CÁC YẾU TỐ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA DU KHÁCH ĐỐI VỚI ...
 
TÌNH HÌNH Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TÌNH HÌNH Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘITÌNH HÌNH Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TÌNH HÌNH Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
 
ĐẦU TƯ, NÂNG CẤP THIẾT BỊ SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH, TRUYỀN DẪN PHÁT SÓNG ĐỂ CHUY...
ĐẦU TƯ, NÂNG CẤP THIẾT BỊ SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH, TRUYỀN DẪN PHÁT SÓNG ĐỂ CHUY...ĐẦU TƯ, NÂNG CẤP THIẾT BỊ SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH, TRUYỀN DẪN PHÁT SÓNG ĐỂ CHUY...
ĐẦU TƯ, NÂNG CẤP THIẾT BỊ SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH, TRUYỀN DẪN PHÁT SÓNG ĐỂ CHUY...
 
Chất lượng dịch vụ và sự thỏa mãn của khách hàng đối với dịch vụ vẩn chuyển h...
Chất lượng dịch vụ và sự thỏa mãn của khách hàng đối với dịch vụ vẩn chuyển h...Chất lượng dịch vụ và sự thỏa mãn của khách hàng đối với dịch vụ vẩn chuyển h...
Chất lượng dịch vụ và sự thỏa mãn của khách hàng đối với dịch vụ vẩn chuyển h...
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành...Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành...
 
Luận văn 2024 Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - Nghiên c...
Luận văn 2024 Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - Nghiên c...Luận văn 2024 Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - Nghiên c...
Luận văn 2024 Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - Nghiên c...
 
Luận văn 2024 Thu hút khách du lịch quốc tế Nghiên cứu cho trường hợp của Việ...
Luận văn 2024 Thu hút khách du lịch quốc tế Nghiên cứu cho trường hợp của Việ...Luận văn 2024 Thu hút khách du lịch quốc tế Nghiên cứu cho trường hợp của Việ...
Luận văn 2024 Thu hút khách du lịch quốc tế Nghiên cứu cho trường hợp của Việ...
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang t...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang t...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang t...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế trang t...
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác quản trị nhân lực t...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác quản trị nhân lực t...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác quản trị nhân lực t...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác quản trị nhân lực t...
 
Nghiên cứu về sự hài lòng và gắn kết của tiếp viên hàng không đối với hãng hà...
Nghiên cứu về sự hài lòng và gắn kết của tiếp viên hàng không đối với hãng hà...Nghiên cứu về sự hài lòng và gắn kết của tiếp viên hàng không đối với hãng hà...
Nghiên cứu về sự hài lòng và gắn kết của tiếp viên hàng không đối với hãng hà...
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Tanaka Pr...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Tanaka Pr...Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Tanaka Pr...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Tanaka Pr...
 
Luận văn 2024 Trả lương cho lao động gián tiếp tại Công ty Cổ phần Xi măng VI...
Luận văn 2024 Trả lương cho lao động gián tiếp tại Công ty Cổ phần Xi măng VI...Luận văn 2024 Trả lương cho lao động gián tiếp tại Công ty Cổ phần Xi măng VI...
Luận văn 2024 Trả lương cho lao động gián tiếp tại Công ty Cổ phần Xi măng VI...
 
Statistics for Business and Economics.docx
Statistics for Business and Economics.docxStatistics for Business and Economics.docx
Statistics for Business and Economics.docx
 
Luận văn 2024 Xây dựng chiến lược nguồn nhân lực của Công ty Cổ phần xây dựng...
Luận văn 2024 Xây dựng chiến lược nguồn nhân lực của Công ty Cổ phần xây dựng...Luận văn 2024 Xây dựng chiến lược nguồn nhân lực của Công ty Cổ phần xây dựng...
Luận văn 2024 Xây dựng chiến lược nguồn nhân lực của Công ty Cổ phần xây dựng...
 
Hướng dẫn viết dàn ý của luận văn tốt nghiệp
Hướng dẫn viết dàn ý của luận văn tốt nghiệpHướng dẫn viết dàn ý của luận văn tốt nghiệp
Hướng dẫn viết dàn ý của luận văn tốt nghiệp
 
TIỂU LUẬN THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM Y TẾ TOÀN DÂN HIỆN NAY
TIỂU LUẬN THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM Y TẾ TOÀN DÂN HIỆN NAYTIỂU LUẬN THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM Y TẾ TOÀN DÂN HIỆN NAY
TIỂU LUẬN THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM Y TẾ TOÀN DÂN HIỆN NAY
 

Nguyennhanvn matnuoc.vn

  • 1. quan khoa su Thứ sáu, ngày 16 tháng ba năm 2012 VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN VÀ TRÁCH NHIỆM MẤT NƯỚC VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN VÀ TRÁCH NHIỆM MẤT NƯỚC Đàm Thị Uyên Vƣơng triều Nguyễn – một vƣơng triều cuối cùng trong lịch sử chế độ phong kiến ViệtNamtồn tại trong một khoảng thời gian không dài nhƣng đã để lại nhiều dấu ấn phức tạp, đặt ra hàng loạt vấn đề khó giải đáp. Từ trƣớc đến nay đã có 11 hội thảo khoa học lớn nhỏ, từ cấp quốc tế, quốc gia và địa phƣơng bàn về chúa Nguyễn và vƣơng triều Nguyễn. Nhiều nhà nghiên cứu đã đổ bao công sức và thời gian để tìm tòi, phát hiện, có đƣợc đánh giá chân thực, khách quan về vƣơng triều này. Tầm quan trọng và tính phức tạp của vấn đề triều Nguyễn nói chung và trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để mất nƣớc nói riêng cũng đƣợc phản ánh sâu sắc trong học tập và giảng dạy lịch sử ViệtNam. Có thể nói, vƣơng triều Nguyễn và những chính sách, hành động của nó đã chịu rất nhiều phán xét. Bởi lẽ, ra đời, tồn tại và diệt vong trong khoảng thời gian có nhiều bƣớc ngoặt trong lịch sử ViệtNam. Bƣớc ngoặt của sự kết thúc vƣơng triều Tây Sơn nhiều tiến bộ, triều đại có khuynh hƣớng mở ra nhiều vận hội cho sự phát triển dân tộc. Bƣớc ngoặt của một dân tộc tự chủ, đƣợc sống trên một đất nƣớc độc lập sang một thời kỳ bi thảm của lịch sử mất nƣớc, của thân phận nô lệ. Bƣớc ngoặt của một kỷ nguyên mới, đất nƣớc độc lập, tự do năm 1945. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã đạp tan ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, phát xít và lật đổ sự trị vì của cái “xác chết” đƣợc ƣớp bởi thực dân Pháp và thế lực phản động. Hơn nữa thời kì đất nƣớc độc lập dƣới sự thống trị của triều Nguyễn cũng đan xen những cái tiến bộ và hạn chế, những mảng đen trắng không rõ ràng. Triều Nguyễn đƣợc thành lập sau khi đánh bại triều Tây Sơn, trong hoàn cảnh đất nƣớc và thế giới có nhiều biến đổi. Với tƣ cách là một nhà nƣớc độc lập, làm chủ một vùng lãnh thổ từ ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau, nhà Nguyễn trong nửa đầu thế kỉ XIX đã thiết lập một hệ thống cai trị từ trung ƣơng đến địa phƣơng với các chính sách đối nội, đối ngoại…theo nguyên tắc tập trung mọi quyền hành vào tay Hoàng đế và củng cố quyền lực của vƣơng triều. Vào nửa đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn ra sức phục hồi nền kinh tế trên cơ sở coi trọng ruộng đất và sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên trong giai đoạn suy tàn của chế độ phong kiến, nhiều chính sách của nhà Nguyễn không còn ý nghĩa tích cực, làm cho nền kinh tế vốn đã trì trệ lại càng thêm bế tắc, đời sống nhân dân lâm vào tình trạng khốn cùng. Mâu thuẫn xã hội dƣới thời Nguyễn ngày càng gay gắt dẫn đến
  • 2. sự bình nổ của hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân rộng lớn, làm cho tình hình xã hội ngày càng rối ren, phức tạp. Nhà Nguyễn thi hành chính sách độc tôn Nho giáo, hạn chế Phật giáo và cấm đoán Thiên Chúa giáo nhƣng đời sống văn hóa tƣ tƣởng ở nƣớc ta đầu thế kỉ XIX vẫn phát triển phong phú và đa dạng. Nhiều lĩnh vực nhƣ văn học, nghệ thuật, khoa học, giáo dục…đạt đƣợc những thành tựu quan trọng. Căn cứ theo những chính sách nội trị và ngoại giao của nhà Nguyễn và kết quả của nó trong 50 năm đầu thế kỉ XIX, chúng ta đánh giá, nhận xét một cách tổng quát về vƣơng triều Nguyễn và trách nhiệm của nó với tƣ cách là ngƣời thống trị đất nƣớc đã để nƣớc ta mất nƣớc. Tuy không đánh giá vƣơng triều Nguyễn quá cứng nhắc, thiếu công tâm theo phƣơng diện đấu tranh đấu tranh giai cấp mà phủ nhận sạch trơn những điểm tốt, song cũng không nên đánh giá thiên lệch, đề cao vƣợt tầm, sai với hiện thực. Vì vậy đánh giá vấn đề lịch sử trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để ViệtNammất nƣớc giúp hình thành nên một thế giới quan khoa học đúng đắn. Cụ thể là: phải khẳng định công lao của vƣơng triều Nguyễn trong việc mở mang bờ cõi, thống nhất đất nƣớc, phát triển giáo dục, văn hóa. Nhƣng triều Nguyễn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn để cho tên tuổi đất nƣớc một lần nữa, sau hàng ngàn năm độc lập, bị quân cƣớp nƣớc xóa khỏi bản đồ thế giới. Hay nhƣ, việc Pháp đánh ViệtNamlà một tất yếu khách quan… Chúng ta có quyền nhìn nhận việc mất nƣớc từ nhiều góc độ khác nhau, nhƣng nhìn từ góc độ nào thì nhà Nguyễn cũng phải chịu trách nhiệm về thảm họa mất nƣớc. B. NỘI DUNG Thế kỉ XIX là thế kỉ đầy biến động trong lịch sử ViệtNamnói riêng và lịch sử các nƣớc phƣơng Đông nói chung. Các nƣớc phƣơng Tây, cái nôi của chủ nghĩa tƣ bản, vƣơn lên rồi bành trƣớng sang phƣơng Đông bằng sức mạnh của đại bác và cây thánh giá. Quan hệ tiếp xúc Đông – Tây chuyển từ thƣơng mại tự do sang đối địch. Từ chỗ tôn trọng chủ quyền, thiết lập mối quan hệ buôn bán, các nƣớc tƣ bản châu Âu do “cơn đói” của cái bụng đế quốc chủ nghĩa, đã bắt đầu thực hiện chính sách “ngoại giao pháo hạm”, sử dụng vũ lực để từng bƣớc thực hiện ý đồ thực dân. Nguy cơ sinh tử, tồn vong của các quốc gia dân tộc đƣợc đặt ra một cách bức thiết. Trong bối cảnh trên, ý thức đƣợc hiểm họa mất nƣớc Nhật Bản và Xiêm đã chọn con đƣờng canh tân đất nƣớc để tự cứu mình. Trong khi đó ViệtNamdƣới vƣơng triều phong kiến cuối cùng, nhà Nguyễn đã làm những gì khi mới tái lập sự thống trị cho đến giữa thế kỉ XIX ? Có phải việc thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta là tất yếu và triều đình Nguyễn để mất nƣớc vào tay Pháp là tất yếu hay không ? I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ TRƢỚC CUỘC ĐỐI ĐẦU VỚI CUỘC XÂM LĂNG CỦA TƢ BẢN PHƢƠNG TÂY I.1 Nhà Nguyễn được thiết lập
  • 3. Triều Nguyễn đƣợc thiết lập sau khi đánh bại vƣơng triều Tây Sơn, trong hoàn cảnh đất nƣớc và thế giới có nhiều biến đổi. Lãnh thổ của nƣớc Việt ta đƣợc hoàn toàn thống nhất, liền một dải từ ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau. Khác với các vƣơng triều trƣớc, nhà Nguyễn ra đời sau một cuộc chiến tranh giữa hai lực lƣợng đại diện cho hai giai cấp đối lập, khi mà chế độ phong kiến ViệtNambƣớc vào khủng hoảng và suy tàn Thông thƣờng trong lịch sử chế độ phong kiến VIệtNam,1 triều đại mới ra đời trong các trƣờng hợp sau: +Sau một cuộc chiến tranh để tiêu diệt tập đoàn phong kiến cát cứ (nhà Đinh, nhà Tây Sơn) +Thay thế một vƣơng triều khác khi vƣơng triều đổ nát (Nhà Trần) +Kháng chiến chống giặc ngoại xâm thắng lợi (nhà Lê) àNền thống trị của nhà Nguyễn đƣợc xác lập từ năm 1802 đứng trƣớc một loạt thách thức, là điều bất thƣờng trong lịch sử Việt Nam: sự thắng thế của Nguyễn Ánh trƣớc Tây Sơn là sự thắng thế của những nhân tố bảo thủ đối với những yếu tố tiến bộ Sau thời gian dài chiến tranh liên miên, nền kinh tế đất nƣớc trở nên tiêu điều, chính trị rối loạn, công việc trƣớc tiên của Gia Long và các vua đầu thời Nguyễn là bắt tay xây dựng và củng cố nền thống trị trên nền tảng của ý thực hệ Nho giáo, một ý thức hệ tuy đã lỗi thời nhƣng vẫn chƣa có cơ sở kinh tế và xã hội để vƣợt qua quĩ đạo đó. Hệ thống chính quyền nhà nƣớc thời Nguyễn là sự thừa hƣởng và kết hợp những thành quả xây dựng chính quyền của nhà Lê cũng nhƣ của các triều đình Minh, Thanh ở Trung Quốc có cải biến ít nhiều, đạt trình độ tƣơng đối hoàn chỉnh, giải quyết hạn chế của đời trƣớc, nâng cao quyền lực chuyên chế của nhà vua. Tuy nhiên, nó không thể tạo điều kiện để vƣợt qua các công thức đã trở thành xơ cứng của một chế độ quân chủ chuyên chế quan liêu phƣơng Đông. I.2 Nhà Nguyễn cai trị đất nước Tình hình ruộng đất và nông nghiệp: Điểm nổi bật của tình hình ruộng đất ở nửa đầu thế kỉ XIX là ruộng đất công làng xã trong toàn quốc bị thu hẹp rất nhiều, sở hữu tƣ nhân về ruộng đất chiếm đại bộ phận. Năm 1852 trong 31 tỉnh thành của cả nƣớc chỉ có hai tỉnh ruộng công nhiều hơn ruộng tƣ, một tỉnh ruộng công và ruộng tƣ bằng nhau, còn lại 28 tỉnh ruộng tƣ nhiều hơn ruộng công. Tình hình trên đƣa đến hậu quả là nguồn tài chính của nhà nƣớc thu từ tô thuế bị giảm sút rất nhiều; nông dân không có ruộng phải rời bỏ quê hƣơng đi phiêu tán, mất ổn định xã hội. Do đó nhà Nguyễn phải ban hành nhiều chính sách về ruộng đất. Chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn: Tiến hành lập địa bạ nhằm quản lí chặt chẽ ruộng đất: Năm 1803 bắt đầu thực hiện ở một số trấn Đàng Ngoài, 1810 thực hiện ở khu vực Đàng Trong. Đến năm 1836 cả nƣớc có 17.604 đơn vị làng xã có địa bạ.
  • 4. Chính sách quân điền: Năm 1804 Gia Long ban hành điều lệ quân điền, về sau đƣợc Minh Mạng bổ sung thêm. Theo lệ quân điền của nhà Nguyễn thì ruộng đất công của làng xã cứ 3 năm chia lại một lần, từ quan nhất phẩm cho đến mọi hạng dân thƣờng (cụ thể là quan nhất phẩm đƣợc 15 phần, đến cửu phẩm 8 phần, lính từ 8 đến 9 phần, dân đinh 5 phần rƣỡi, ngƣời mồ côi, đàn bà góa 3 phần). So với lệ quân điền ở thời Hồng Đức, nhà Nguyễn đã bỏ chế độ cấp lộc điền cho quan lại và gộp chung vào chế độ quân điền. Điều này làm cho số lƣợng ruộng đất cấp cho các hạng dân càng bị thu hẹp, càng bị lệ thuộc vào ruộng đất của quan lại, địa chủ mà họ phải lĩnh thêm. Chế độ quân điền của nhà Nguyễn thể hiện sự ƣu đãi đối với quan lịa và binh lính – chỗ dựa của chế độ quan chủ vƣơng triều Nguyễn. Ngoài ruộng khẩu phần binh lính còn hƣởng thêm ruộng phụ cấp, gọi là lƣơng điền. à Chính sách quân điền tuy có đƣợc điều chỉnh nhiều lần, nhƣng kết quả vẫn không tác dụng đáng kể. Đến thời Minh Mạng có thí điểm ở Bình Định theo lệ sung công một nửa ruộng tƣ, đem chia cho dân theo phép quân điền, đến năm 1839 hoàn thành với kết quả “những ruộng công màu mỡ thì bị cƣờng hào chiếm, còn thừa chỗ nào thì hƣơng lí bao chiếm, dân chỉ đƣợc phần xƣơng xẩu mà thôi”. Chính sách bảo vệ công điền của nhà Nguyễn không nằm ngoại lối mòn của các triều đại phong kiến trƣớc, khi ruộng đất công chỉ còn khoảng 20% diện tích ruộng đất cả nƣớc. Chính sách quân điền thực tế chỉ là giải pháp mang ý nghĩa tƣợng trƣng. Điều này chứng tỏ nhà Nguyễn hoàn toàn bất lực trong việc giải quyết tình hình ruộng đất ở nửa đầu thế kỉ XIX. - Chính sách khai khẩn đất hoang, phục hóa: Các vua Nguyễn rất quan tâm việc khai hoang phục hóa. Ở nửa đầu XIX, nhà Nguyễn đã ban hành 46 quyết định về khẩn hoang ruộng đất. Công việc khai hoang đƣợc thực hiện bằng nhiều biện pháp dƣới nhiều hình thức phong phú: Tuy có nhiều cố gắng giải quyết các vấn đề nông nghiệp nhƣ chính sách khai hoang, quân điền song nhà Nguyễn vẫn không thể giải quyết đƣợc những mâu thuẫn đang đƣợc đặt ra cho nông nghiệp ViệtNam. Nông dân phải chịu cảnh khốn cùng với tô cao thuế nặng, phu phen tạp dịch triền miên, hứng chịu nhiều tai họa từ thiên nhiên lẫn quan lại, cƣờng hào. Tình hình thủ công nghiệp: Giống các triều đại trƣớc, thủ công nghiệp Nhà nƣớc thời Nguyễn chiếm một vị trí rất quan trọng: nó chế tạo tất cả những đồ dùng cho hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền…Chính vì vậy, nhà Nguyễn cũng tập trung xây dựng hệ thống các xƣởng thủ công Nhà nƣớc, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập xƣởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long. Nhà Nguyễn cũng lập các Ti trông coi các ngành thủ công. Ví dụ nhƣ ti Vũ khố chế tạo quản lý nhiều ngành thủ công khác nhau, gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng…Phần lớn nhân lực trong các
  • 5. xƣởng thủ công Nhà nƣớc là do triều đình trƣng dụng thợ khéo trong các ngành nhƣ khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa…tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều đình. Vì vậy ngƣời thợ luôn tìm cách trốn tránh dù chính phủ áp dụng những biện pháp trừng phạt nặng nề để ngăn chặn. Ví dụ, thợ khéo ít dám trổ tài vì tài nghệ không có lợi mà là tai họa. Họ chỉ dám làm những thứ nhỏ để bán cho dễ, những ngƣời nào chế tạo đồ tốt cũng phải mạo danh là hàng ngoại quốc để vua quan đừng để ý. Đầu Thế kỷ XIX có ngƣời chế đƣợc men sứ tốt hơn của Trung Quốc nhƣng phải bỏ trốn vì sợ bị trƣng dụng làm cho triều đình. Trong nghề đóng tàu, năm 1820 sĩ quan ngƣời Mỹ John White đã nhận xét: “Ngƣời ViệtNamquả là những ngƣời đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác”. Ngoài các thuyền gỗ, ngƣời thợ thủ công ViệtNamcòn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng. Ngoài ra họ đã sáng chế đƣợc nhiều máy móc tiên tiến và có chất lƣợng vào thời đó, ví dụ các máy cƣa xẻ gỗ, máy tƣới ruộng… và cả máy hơi nƣớc. Thời Nguyễn các nghề thủ công trong nhân dân rất phát triển, số lƣợng ngƣời tham gia nghề thủ công tăng lên. Các nghề làm gốm, sành sứ, dệt vải lụa, làm giấy, làm đƣờng phổ biến ở nhiều địa phƣơng trong cả nƣớc. Đặc điểm của các nghề thủ công trong giai đoạn này là vẫn gắn liền với nghề nông, phƣơng thức sản xuất trong các làng nghề thủ công không có gì thay đổi so với trƣớc. Nhà nƣớc nắm độc quyền bao mua một số sản phẩm và đánh nhiều thứ thuế đối với ngƣời thợ thủ công. Tình hình thƣơng mại: Việc thống nhất đất nƣớc vào đầu thế kỷ XIX là một điều kiện thuận lợi cho thƣơng nghiệp phục hồi và tái phát triển sau một thời gian dài suy thoái. Ngoài ra, Gia Long và các vua nhà Nguyễn cũng cho sửa sang đƣờng sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của ngƣời dân đƣợc tiện lợi. Tuy nhiên, thƣơng mại của ViệtNamrất kém cỏi, họ buôn lẻ hàng hóa của ngƣời Hoa để bán lại kiếm lời. Sự tổ chức thƣơng mại của ngƣời Việt sơ sài, trong phạm vi gia đình. Nếu có những hội buôn lớn thì cũng chỉ là những phƣờng họp vài thƣơng gia hùn vốn với nhau để kinh doanh rồi chia tiền ngay. Họ không liên kết lại thành những hội buôn làm ăn lâu dài. Nhiều ngƣời ViệtNamcho vay lãi trở nên phát tài nhƣng họ dùng tiền của để mua ruộng đất chứ không đầu tƣ kinh doanh, khuếch trƣơng thƣơng mại hay công nghệ. Do đó mà thƣơng nghiệp không mạnh đƣợc, một phần lớn cũng bởi tâm lý của ngƣời dân. à Dù có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc giao lƣu, buôn bán trong nƣớc phát triển, song do chủ trƣơng nhất quán của các vua nhà Nguyễn là “trọng nông ức thƣơng” cho nên Nhà nƣớc đặt ra nhiều chính sách thuế khóa và thể lệ kiểm soát ngặt nghèo, phiền phức (nhƣ gạo từ Nam Định chở vào Nghệ An phải qua 9 lần nộp thuế), việc buôn bán trong nƣớc không thể phồn thịnh đƣợc. Nhà Nguyễn thi hành chính sách độc quyền và hết sức dè dặt với các tàu buôn phƣơng Tây. Bắt nguồn từ chính sách “bế quan tỏa cảng”, “đóng cửa” không buôn
  • 6. bán với các nƣớc phƣơng Tây nên Nhà Nguyễn từ chối quan hệ buôn bán chính thức với các nƣớc này. Nhiều lần phái đoàn của các nƣớc Anh, Pháp, Mỹ đến xin đặt quan hệ buôn bán đều bị nhà vua khƣớc từ. Nhà nƣớc nắm độc quyền ngoại thƣơng, đã tổ chức buôn bán với các nƣớc Xingapo, Inđônêxia, Trung Quốc và các nƣớc khác ở Đông Nam Á. Cùng với sự sa sút của kinh tế thƣơng nghiệp, các đô thị ngày càng suy thoái. Ở Thăng Long vốn nổi tiếng với 36 phố phƣờng sầm uất, cũng nhanh chóng bị nông thôn hóa. Phố Hiến, Thanh Hà, Hội An không còn khả năng phục hồi. à Tóm lại, vào đầu thế kỉ XIX, nhà Nguyễn ra sức ra sức phục hồi nền kinh tế trên cơ sở coi trọng ruộng đất và sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên trong giai đoạn suy tàn của chế độ phong kiến, nhiều chính sách của nhà Nguyễn đã không còn có ý nghĩa tích cực. Hơn nữa do tƣ tƣởng thủ cựu nhƣ quan điểm tứ dân, chính sách trọng nông ức thƣơng, chính sách bế quan tỏa cảng làm cho nền kinh tế đất nƣớc vốn đã trì trệ lại càng thêm bế tắc. Trong bối cảnh nền kinh tế bế tắc, đời sống nhân dân khốn cùng, nhà Nguyễn chẳng những đã bất lực không cải thiện đƣợc tình hình, trái lại, bộ máy chính quyền ngày càng quan liêu, tha hóa. Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, làm bùng lên làn sóng đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp xã hội ở khắp mọi miền đất nƣớc chống lại chế độ thống trị của nhà Nguyễn. Tình hình kinh tế nông, công thƣơng nghiệp suy đốn, đình trệ dƣới triều Nguyễn đã đẩy các tầng lớp nhân dân lao động mà đại bộ phần là nông dân vào cảnh sống hết sức khổ cực. Những nguyên nhân dẫn đến thực cảnh này là: - Nạn chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giai cấp địa chủ làm cho ngƣời nông dân thiếu ruộng đất để cày cấy, sinh sống. Mặc dù nhà nƣớc có nhiều chính sách để bảo vệ công điền nhƣng thực tế họ đã bất lực. - Nông dân, thợ thủ công, thƣơng nhân, dân nghèo thành thị, các dân tộc thiểu số phải gánh chịu chế độ tô thuế phức tạp, phiền nhiễu của nhà nƣớc (thuế ruộng, thuế thân, thuế biệt nạp…) và thực hiện chế độ lao dịch nặng nề của nhà nƣớc. Mỗi năm phải chịu 60 ngày sai dịch đi phục dịch cho nhà nƣớc xây dựng kinh đô, dinh thự, thành lũy, sửa chữa đƣờng giao thông, đê điều… - Hiện tƣợng bão, lụt, vỡ đê, hạn hán, đói kém, dịch bệnh xảy ra liên tục dẫn đến tình trạng nhân dân phải rời bỏ quê hƣơng, bản quán đi phiêu tán. Thiên tai, dịch bệnh thƣờng xuyên xảy ra. Trong vòng 56 năm (1802 – 1858) ở Bắc Kì có 32 năm bị lụt lội, vỡ đê. Năm 1810 riêng 4 trấn ở đồng bằng Bắc Bộ có 358 xã thôn bị phiêu tán vì lũ lụt, đói kém. Dƣới thời Minh Mạng hiện tƣợng đói kém vẫn diễn ra thƣờng xuyên, có những trận đói khủng khiếp nhƣ trận đói năm 1824 “gạo đắt, một phƣơng giá gạo trên hai quan tiền, dân có nhiều ngƣời chết đói”. - Tệ nạn tham nhũng của bọn quan lại thừa hành và cƣờng hào áp bức thực sự là nỗi khổ, là tai họa khủng khiếp của nhân dân. Quan coi dân nhƣ kẻ thù, dân sợ quan nhƣ cọp, ngày đục tháng khoét của dân cho đầy túi riêng. Năm 1828, viên
  • 7. quan Bắc thành là Nguyễn Công Trứ dâng sớ về việc quan tham: “Cái hại quan lại một hai phần, cái hại hào cƣờng đến tám chín phần. Nó làm cho con ngƣời ta thành mồ côi, vợ ngƣời ta thành góa bụa…cứ công nhiên không kiêng sợ gì”. Thực trạng xã hội Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XIX cho thấy tình trạng chấp chiếm, tập trung ruộng đất nghiêm trọng vào giai cấp địa chủ, chính sách tô thuế phức tạp, phiền nhiễu, chính sách lao dịch nặng nề của nhà nƣớc, nạn cƣờng hào hoành hành ở noong thôn, thiên tai, dịch bệnh, đói kém xảy ra triền miên, chính là những nguyên nhân dẫn đến các cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân lao động chống lại triều Nguyễn. Trong hơn 50 năm đầu của thế kỉ XIX, xã hội ViệtNamhầu nhƣ nằm trong tình trạng đối đầu giữa nhà Nguyễn với các tầng lớp nhân dân bị trị. Các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ đã diễn ra lúc ở Bắc, khi ởNamthu hút đông đảo tầng lớp nhân dân. Giai đoạn này có đến gần 400 cuộc nổi dậy khởi nghĩa chống lại triều đình Nguyễn. Phong trào đấu tranh của nhân dân chống triều Nguyễn ở nửa đầu thế kỉ XIX diễn ra ngay từ đầu khi vƣơng triều Nguyễn mới đƣợc thành lập. Các cuộc nổi dậy, khởi nghĩa nông dân thƣờng xảy ra vào cuối mỗi triều đại, khi vƣơng triều đã suy vi, đổ nát, không thi hành nhiều chính sách tiến bộ cho nhân dân. Ngƣợc lại, dƣới triều Nguyễn, phong trào đấu tranh của nhân dân nổ ra ngay cả khi vƣơng quyền này còn non trẻ, mới thành lập. Phong trào diễn ra liên tục suốt nửa đầu thế kỉ XIX sang cả nửa cuối thế kỉ này mà không hề bị gián đoạn nhƣ phong trào ở những thế kỉ trƣớc. Trong khoảng 50 năm nửa đầu thế kỉ XIX thì bất kể ai muốn tổ chức khởi nghĩa chống lại triều đình cho dù là quan hay dân, là ngƣời sang hay hèn, ngƣời hay chữ hoặc không hay chữ đều đƣợc quần chúng nhiệt liệt hƣởng ứng. Phong trào đã lôi cuốn các tầng lớp nhân dân bị trị, từ nông dân, thợ thủ công, nho sĩ, quan lại cấp thấp, binh lính, các dân tộc ít ngƣời trên khắp các vùng đồng bằng, miền núi, cả miền Bắc, miền Trung và miềnNam. Các dân tộc thiểu số miền ngƣợc trong một số cuộc nổi dậy đã sát sánh chiến đấu với nghĩa quân nông dân ở miền xuôi. Một điểm mới chƣa từng có là sự có mặt của binh lính triều định trong phong trào đấu tranh của nhân dân. Về mặt số lƣợng, chƣa có một vƣơng triều nào trong lịch sử phong kiến ViệtNamlại có nhiều khởi nghĩa đến vậy. Vào nửa đầu thế kỉ XIX, dƣới triều Nguyễn đã có tới gần 400 cuộc khởi nghĩa. Nhà Nguyễn đã bất lực, không có đƣợc những chính sách bình ổn xã hội, làm cho xã hội ViệtNamtrở nên rối ren, phức tạp. Xã hội ViệtNamđang lên cơn sốt trầm trọng” nhƣ lời sử gia nƣớc ngoài nhận định. Thực trạng ấy khiến cho ViệtNamtrở thành miếng mồi béo bở cho tƣ bản phƣơng Tây xâm lƣợc và thôn tính Tƣ tƣởng, tôn giáo, tín ngƣỡng: Để củng cố bệ đỡ tƣ tƣởng cho chính quyền chuyên chế, nhà Nguyễn thi hành chính sách độc tôn Nho giáo, phục hồi Nho giáo
  • 8. vốn đã bị suy đồi trong những thế kỉ trƣớc. Đối với nhà Nguyễn, Nho giáo là khuôn vàng thƣớc ngọc, những gì trái với khuôn vàng thƣớc ngọc ấy đều là xấu, đều sai trái, đều là tà đạo, chỉ có Nho giáo là chính đạo. Nhà Nguyễn đã tìm mọi cách hạn chế Phật giáo và các tín ngƣỡng dân gian khác nhƣng Phật giáo và các tín ngƣỡng khác vẫn tiếp tục phát triển. Tục thờ cúng tổ tiên và tôn thờ các anh hùng dân tộc, những ngƣời có công với làng, với nƣớc trở thành phổ biến trong toàn xã hội. Đình, chùa, đền đƣợc tôn tạo hoặc xây dựng mới ở khắp mọi nơi. Đối với Thiên Chúa giáo, thời Gia Long ông lâm vào một tình thế nƣớc đôi: một mặt chịu ơn giáo sĩ và ân nhân Pháp, do vậy ông ban thƣởng hậu và sử dụng một số ngƣời làm quan lại, cố vấn trong triều; mặt khác lai lo ngại sự phát triển của Thiên chúa giáo sẽ ảnh hƣởng xấu đến đạo đức và thuần phong mĩ tục cổ truyền, sau nữa là mất ổn định chính trị và dẫn đến nguy cơ mất nƣớc. Để đối phó với tình hình trên, Gia Long đã chủ trƣơng giữ nguyên hiện trạng Thiên chúa giáo chứ không khuyến khích phát triển. Trong chiếu ban hành đầu năm 1804, vua Gia Long tuyên bố: “dân các tổng xã nào có nhà thờ Gia Tô đổ nát thì phải đừa đơn trình quan trấn mới đƣợc tu bổ, dựng nhà thờ mới thì cấm”. Gia Long từng căn dặn Minh Mạng: “Hãy biết ơn ngƣời Pháp, nhƣng đừng bao giờ để họ đặt chân vào triều đình của con”. Dƣới thời Minh Mạng (1820 – 1840) ý đồ xâm lƣợc của Pháp càng lộ rõ. Nhiều giáo sĩ đã báo cáo cho Chính phủ Pháp nhiều tin tình bào quan trọng, một số giáo sĩ theo tàu chiến Pháp thâm nhập vào ViệtNam. Minh Mạng, rồi Thiệu Trị đến Tự Đức đã ra một loạt chỉ dụ cấm đạo. Việc cấm đạo Thiên Chúa, giết giáo dân và giáo sĩ còn tạo cớ cho thực dân Pháp thực hiện âm mƣu xâm lƣợc vũ trang ở nƣớc ta. Bƣớc sang thế kỉ XIX, tình hình thế giới và trong nƣớc có nhiều biến đổi, triều Nguyễn tuy đã cố gắng nhất định, nhƣng trong thực tế chỉ chăm lo củng cố địa vị cai trị của dòng họ, không bắt kịp với xu thế phát triển và tiến bộ của thời đại, làm cho đất nƣớc ngày càng lún sâu vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, mất dần khả năng bảo vệ nền độc lập dân tộc trƣớc cuộc tấn công xâm lƣợc của thực dân Pháp. Nguy cơ xâm lƣợc của thực dân Pháp đối với Việt Nam ở thế kỉ XIX là kết quả tất yếu của quá trình phát triển tƣ bản chủ nghĩa ở các nƣớc phƣơng Tây và trở thành mối đe dọa lớn đối với nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, nguy cơ xâm lƣợc đó không phải là tất yếu đƣa đến mất nƣớc vào tay Pháp. Dân tộc ViệtNammất nƣớc vào tay tƣ bản Pháp ở cuối XIX, trách nhiệm đó thuộc về triều Nguyễn. I.3 Nguy cơ bị xâm lược và mất nước của Việt Nam dưới triều Nguyễn Do những vấn đề nội trị rối loạn, bất lực trong việc ổn định xã hội, chính sách ngoại giao mù quáng, chính sách tôn giao sai lầm…ViệtNamgiữa thế kỉ XIX đối mặt với nguy cơ bị chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây xâm lƣợc. Không phải duy nhất ViệtNam, vấn đề đôi phó với nguy cơ bị xâm lƣợc là vấn đề phổ biến của mọi quốc gia phƣơng Đông. Từ nửa sau thế kỉ XIX, các nƣớc tƣ bản
  • 9. phƣơng Tây tiến dần lên trở thành những nƣớc đế quốc chủ nghĩa, càng ráo riết chạy đua tìm kiếm thị trƣờng ở các nƣớc phƣơng Đông. II. CÁC QUAN ĐIỂM ĐÁNH GIÁ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NGUYỄN TRONG VIỆC ĐỂ VIỆTNAMRƠI VÀOTAYPHÁP CUỐI THẾ KỈ XIX Các quan điểm đánh giá, phán xét trách nhiệm của nhà Nguyễn từ trƣớc đến nay chƣa bao giờ hết và cũng chƣa có cùng tiếng nói chung. Theo tiến trình lịch sử ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, các quan điểm đánh giá lại khác nhau phụ thuộc từng góc độ quan sát, nhãn quan, lập trƣờng của mỗi ngƣời. Có thể khảo sát qua một số quan điểm đánh giá trách nhiệm nhà Nguyễn trong việc để mất nƣớc vào cuối thế kỉ XIX nhƣ sau: Trần Trọng Kim trong “Việt Nam sử lƣợc” khi trình bày về các vua đầu triều Nguyễn nhƣ Thế Tổ, Thánh Tổ, Hiển Tổ, Dực Tông, đều nêu nguyên nhân mất nƣớc là do chính sách bài ngoại, ngăn trở việc buôn bán cám đạo không nhìn thấy sự thay đổi, tiến bộ của bên ngoài: “Khƣ khƣ giữ lấy thói cổ, hễ ai nói đến sự gì hơi mới một tý thì bác bỏ đi, nhƣ thế thì làm sao mà không hỏng việc”. Trần Trọng Kim cho rằng: “Âu cũng vì thời đại biến đổi mà ngƣời mình không biến đổi, cho nên nƣớc mình mới thành ra sự suy đồi”, “đã hay rằng vua có trách nhiệm vua, quan có trách nhiệm quan, vua Dực Tông không tránh khỏi cái lỗi với nƣớc nhà, nhƣng mà xét cho xác lý thì cái lỗi của đình thần lúc bấy giờ cũng không nhỏ”. Quan điểm của Trần Trọng Kim cho thấy rằng việc tìm ra nguyên nhân thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta và việc mất nƣớc không ngoài những lí do mà thực dân Pháp đã viện cớ, nêu trách nhiệm của vua quan, Trần Trọng Kim vừa có tính lên án, lại vừa biện hộ. Quan điểm của Phan Bội Châu: đứng trên quan điểm sử học tiến bộ đầu thế kỉ XX đã đánh giá việc mất nƣớc. Qua tác phẩm ViệtNamvong quốc sử, ông hết lời ca ngợi những ngƣời yêu nƣớc, đồng thời phê phán gay gắt kẻ phản bội, bán nƣớc đầu hàng. Ông phân tích, vào đầu thời Gia Long vua tôi còn hòa thuận với chính giáo, không thiếu xót nên thực dân Pháp không thể xâm lƣợc. Sang đầu thời Tự Đức, ViệtNamlà nƣớc yếu hèn, thực dân Pháp có thời cơ xâm lƣợc. Ông chỉ rõ, những chính sách liên kết với Pháp gây lực lƣợng để độc quyền chính trị dẫn đến họa mất nƣớc sau này. Từ việc vạch trần ý đồ của Nguyễn Ánh dựa vào ngoại lang đánh Tây Sơn rồi phụ thuộc và Pháp, Phan Bội Châu kết luận mất nƣớc thuộc về trách nhiệm và bản chất của vua tôi nhà Nguyễn gây ra. Ông vạch tội nhà Nguyễn theo 4 tội lớn: 1- Ngoại giao hẹp hòi; 2- Nội trị lƣu lạc; 3- Dân trí bế tắc; 4- Vua tôi trên dƣới đều tự tƣ, tự lợi. Các sử gia phƣơng Tây đầu thế kỉ XX đều cho rằng chính sách đối ngoại lỗi thời và thái độ của nhà Nguyễn là một trong những nguyên nhân bùng nổ cuộc xâm lƣợc của thực dân Pháp và thất bại của ViệtNam. Họ phân tích chính sách cấm đạo đã dập tắt hy vọng của ngƣời Pháp. Cuối đời Minh Mạng sau khi tham khảo kinh nghiệm từ Trung Quốc, Minh Mạng tìm cách thay đổi và đặt quan hệ với ngƣời
  • 10. châu Âu. Vua Minh Mạng tự nhận thấy sai lầm trong chính sách tự cô lập của mình gây ra những hậu quả nguy hiểm, nhƣng lúc đó quá muộn, suy nghĩ đổi mới chƣa kịp thực hiện thì ông qua đời. Thiệu Trị là ông vua đƣợc đánh giá kém hơn vua cha, thực hiện chính sách cấm đạo hà khắc. Đến thời Tự Đức, mâu thuẫn giữa ViệtNamvà Pháp cùng các nƣớc phƣơng Tây khác lên đến đỉnh cao. Vua Tự Đức tìm cách ngăn chặn ảnh hƣởng của phƣơng Tây vào ViệtNamdựa theo kinh nghiệm của Trung Quốc. Giới sử học phƣơng Tây đều đã phân tích chính sách đối ngoại lỗi thời của kinh thành Huế là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của ViệtNam. Chính sách đối ngoại lỗi thời đƣợc thể hiện trong đƣờng lối cứng nhắc của nhà Nguyễn, không biết tậ dụng khó khăn của nƣớc Pháp để đƣa ra những chính sách khôn khéo, kịp thời cứu nguy cho dân tộc. Chính giới Pháp chƣa đặt ra quyết tâm đƣờng lối xâm lƣợc ViệtNammà mới chỉ nằm trong ý đồ cá nhân của một số tên thực dân đã từng hoạt động ở Viễn Đông vào giai đoạn đầu cuộc chiến. uan điểm của sử gia Sài Gòn: Trong Việt Sử tân biên, Phạm Văn Sơn cho rằng: Việt Nam mất vào tay thực dân Pháp là một tất yếu lịch sử, hoặc ít ra cũng do trình độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với ngƣời Pháp: “Nhà Nguyễn mất nƣớc với Tây phƣơng chỉ là vì văn minh nông nghiệp của Á Đông hết sức lạc hậu, yếu hèn, mà văn minh khoa học cùng cơ giới của phƣơng Tây lại quá mạnh mà thôi”. Ngƣợc lại, các nhà sử học miền Bắc Việt Namtrong giai đoạn 1954-1975 có xu hƣớng quy trách nhiệm hoàn toàn cho các vua Nguyễn đối với việc mất nƣớc. Trƣớc năm 1975, đã có những ý kiến đánh giá phê phán nhà Nguyễn rất gay gắt ở miền Bắc. Ngay từ năm 1961, ngay trƣớc khi cho ấn hành tập đầu tiên của bộ Đại Nam thực lục, Viện Sử học miền Bắc đã viết nhận định: “Những sự kiện lịch sử xảy ra trong khoảng thời gian từ Nguyễn Hoàng đến Đồng Khánh [15581888], những công việc mà các vua [chúa] nhà Nguyễn đã làm trong khoảng thời gian 330 năm ấy, … tự chúng tố cáo tội ác của nhà Nguyễn trƣớc lịch sử của dân tộc chúng ta”. “Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn làm công việc biên soạn Đại Nam thực lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn …” và ”Nhƣng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật của lịch sử. Dƣới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử … vẫn phơi bày cho mọi ngƣời biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những chúng đã cõng rắn cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt Nam trong một đời sống tối tăm đầy áp bức”. Sách Lịch sử Việt Nam do Viện Khoa học Xã hội của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bản năm 1971 cũng cho rằng ”triều Nguyễn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tội ác trời không dung, đất không tha, để cho tên tuổi đất nƣớc một lần nữa, sau hàng ngàn năm độc lập, bị quân cƣớp nƣớc xóa khỏi bản đồ Thế giới”. “Triều Nguyễn là vƣơng triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lƣợc của ngƣời nƣớc ngoài. Gia Long lên làm vua lập ra triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông
  • 11. dân … Triều Nguyễn là vƣơng triều tối phản động … Bản chất cực kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn Ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những ngƣời thuộc phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em …”; “Chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819) đến Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì kiếp nhƣợc trƣớc phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế“. Ngoài ra còn các nhận định trong các tiểu mục khác nhƣ ”Tăng cƣờng bộ máy đàn áp”, “Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát”, “Chế độ áp bức bóc lột nặng nề”, “Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động”, “Chính sách đối ngoại mù quáng”, v.v… và trong tập II của bộ Lịch sử Việt Nam xuất bản vào năm 1985, các tác giả thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội còn dùng những từ ngữ nhƣ: “triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt”, “Vƣơng triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn”, “cực kỳ ngu xuẩn”, “tên chúa phong kiến bán nƣớc số 1 là Nguyễn Ánh… Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực ngoại bang giúp hắn thỏa mãn sự phục thù giai cấp“. GS Nguyễn Phan Quang có ý kiến nhƣ sau: Mất nƣớc không phải là tất yếu… Triều Nguyễn thua Pháp vì lúng túng về đƣờng lối chính trị dẫn đến lúng túng về quân sự, tuy quân lực không yếu mà tự phải thua. Sự lúng túng còn thể hiện trong nỗi lo sợ trƣớc luồng tƣ tƣởng mới đang tràn vào. Lo sợ, nhƣng không có giải pháp hữu hiệu, đành thu mình đóng kín. Càng lúng túng hơn khi nhà Nguyễn đồng thời phải đối phó với những mâu thuẫn nội bộ rất nghiêm trọng, mà những mâu thuẫn này lại bị sự chi phối rất mạnh của các áp lực từ bên ngoài. Riêng đối với đạo Giatô thì triều Nguyễn đã từ lúng túng đi đến bế tắc, không đủ sức chuyển đổi tƣ duy để có biện pháp thích hợp. Nguyễn Quang Trung Tiến cho rằng: Nhà Nguyễn chú trọng tới việc giữ chủ quyền đất nƣớc, trong đó có việc cấm đạo. “Những chính sách cực đoan của nhà Nguyễn với Thiên chúa giáo không hề xuất phát từ đầu óc kỳ thị tôn giáo thuần túy, mà chính xuất phát từ nhận thức giữa Thiên chúa giáo với phƣơng Tây là dấu nối nhƣ một thể đồng nhất. Vì thế, trong cách nhìn của triều Nguyễn, ngăn cấm Thiên chúa giáo là ngăn chặn phƣơng Tây hiện diện tại Việt Nam, chứ không phải ngăn cấm một tôn giáo đơn thuần. Tuy nhiên, cách làm của nhà Nguyễn đã phản tác dụng, gây phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân, tạo vết hằn lịch sử đau thƣơng giữa lƣơng và giáo, đồng thời khiến phƣơng Tây có lý do nổ súng xâm lƣợc và lợi dụng đồng bào có đạo trong suốt thời gian thống trị.”
  • 12. Giáo sƣ Phan Huy Lê thì cho rằng: Kết luận trƣớc đây cho rằng Tự Đức bạc nhƣợc đầu hàng, phản bội dân tộc là chƣa thỏa đáng, chƣa khách quan. Ông và triều Nguyễn đã tìm mọi cách bảo vệ đất nƣớc và cũng là bảo vệ vƣơng triều đến cùng, nhƣng do năng lực và nhãn quan chính trị nên không đề ra đƣợc đối sách đúng để giành thắng lợi trƣớc một thế lực xâm lƣợc hoàn toàn mới, mà lịch sử trƣớc đây chƣa để lại kinh nghiệm. Trong cả khu vực Đông Nam Á và Đông Á, tất cả các quốc gia đều mất nƣớc, hoặc thành thuộc địa, hoặc thành nửa thuộc địa. Chỉ riêng Nhật Bản và Thái Lan giữ đƣợc độc lập…Nhật Bản thời Minh Trị thực hiện cuộc cải cách lớn, nhƣng tình hình kinh tế xã hội của Nhật có khác các nƣớc phƣơng Đông, bắt đầu từ thế kỷ XVII khi đóng cửa với bên ngoài nhƣng bên trong phát triển kinh tế rất mạnh, tạo lập những tiền đề cho cuộc cải cách. Thái Lan thì có cách ứng xử rất khôn ngoan, tận dụng đƣợc vị thế vùng đệm nằm giữa 2 thế lực đế quốc rất mạnh, Anh ở phía Ấn Độ, Pháp ở phía Đông Dƣơng, lợi dụng đƣợc mâu thuẫn và cạnh tranh gay gắt này để duy trì thế độc lập tƣơng đối…không thể phủ nhận trách nhiệm của triều Nguyễn là nhà nƣớc quản lý đất nƣớc, nhƣng lúc phân tích nguyên nhân mất nƣớc thì phải hết sức khách quan, toàn diện, đặt trong bối cảnh lịch sử mới của khu vực và thế giới, không nên quy kết một cách giản đơn. Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì: “Vƣơng triều Nguyễn tuy không bán nƣớc nhƣng đã để mất nƣớc (cho đến năm 1945). Tất nhiên, đây là khó khăn chung của các nƣớc nhƣợc tiểu mà triều đình nhà Nguyễn không thể vƣợt qua đƣợc thời đại trong tình hình Đông – Tây bấy giờ. Nhƣợc điểm này chính là lý do mà một số ngƣời đã nêu ra để báng bổ vƣơng triều ấy một cách nặng lời nếu không nói là quá đáng. Chủ yếu là do nhận thức phiến diện và thái độ cực đoan của một giai đoạn lịch sử.” Riêng với Tự Đức và các triều thần, nhiều sách vở từng gọi họ là “bạc nhƣợc” dƣới góc độ khác, từ nguyên nhân bế tắc trong cải cách: “Suốt hơn 20 năm kể từ khi ký Hiệp ƣớc Nhâm Tuất (1862), triều Nguyễn đã không thể giải quyết mâu thuẫn giữacải cách mới có thể chống Pháp thành công và muốn chống Pháp thành công thì phải cải cách; vì thế, triều Nguyễn đã để mất dần lãnh thổ và phải lần lƣợt ký kết nhiều hiệp ƣớc bất bình đẳng với thực dân Pháp. Sự bế tắc này dễ làm ngƣời ta liên tƣởng vua Tự Đức và triều đình Huế đã theo đuổi một đƣờng lối chống Pháp nhu nhƣợc, thỏa hiệp, cuối cùng chấp nhận đầu hàng giặc. “Hai hiệp ƣớc Harmand (25-8-1883) và Patenôtre (6-6-1884) do triều Nguyễn ký kết với Pháp diễn ra sau ngày vua Tự Đức mất, nhƣng đó là kết quả khó tránh khỏi của một kế sách dùng dằng, bế tắc của ngƣời tiền nhiệm.”. Theo nhà sử học Dƣơng Trung Quốc: “Kết cục của triều Nguyễn có thể gọi là sự đầu hàng để mất nƣớc. Nhƣng đừng quá lời coi đó là sự bán nƣớc vì không thể không nói đến gần 20 năm phản kháng chống xâm lƣợc không chỉ của dân chúng
  • 13. mà cả triều đình. Những cuộc chiến đấu dũng mãnh của quan quân triều đình cùng nhân dân trên cửa biển Sơn Trà, trên thành Điện Hải, của quân dân Nam Bộ trên chiến lũy Kỳ Hoà, trên cổng thành Cửa Bắc Hà Nội với cái chết anh hùng của hai vị Tổng đốc thành Hà Nội là Nguyễn Tri Phƣơng và Hoàng Diệu là bằng chứng…” Giáo sƣ sử học Nguyễn Khắc Thuần khẳng định trách nhiệm của nhà Nguyễn đối với việc mất nƣớc, bất luận nhìn từ góc độ nào: “Việc Pháp đánh Việt Nam là một tất yếu khách quan; việc nhà Nguyễn để mất nƣớc có phải là tất yếu khách quan hay không, đó là một dấu hỏi lớn, là chủ đề của nhiều hội thảo khoa học của nhiều thế hệ nhà sử học. Thực tế cho thấy không phải nhà Nguyễn buông súng từ đầu và không phải các hoàng đế nhà Nguyễn đều bạc nhƣợc. Chúng ta có quyền nhìn nhận việc mất nƣớc từ nhiều góc độ khác nhau, nhƣng nhìn từ góc độ nào thì nhà Nguyễn cũng phải chịu trách nhiệm về thảm họa mất nƣớc” Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì “Đọc “Lời giới thiệu” trong bản dịch bộ “Đại Nam thực lục” và học các chƣơng mục lịch sử chính thống với những lời lẽ nhƣ vừa nêu, độc giả và học sinh sinh viên trong cả nƣớc chắc hẳn đều phải phẫn nộ và căm thù các vua chúa nhà Nguyễn đến tận xƣơng tủy! Có một điều ghi rõ trong “Lời nhà xuất bản” ở tập II của bộ “Lịch sử Việt Nam” là sách này đã đƣợc “viết theo đề cƣơng” và “tƣ tƣởng chỉ đạo” từ trên xuống. Nghĩa là các tác giả đã viết theo quan điểm lập trƣờng của lãnh đạo chứ không phải viết theo tƣ duy sử học của cá nhân…”. Dù vậy, cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng, vào ngay thời điểm đang chỉ đạo việc biên soạn bộ sách lịch sử do Ủy ban Khoa học Xã hội chủ trì đả phá quyết liệt các chúa Nguyễn và triều Nguyễn cũng nhắc nhở những ngƣời tham gia biên soạn bộ sử ấy rằng, rồi “đến lúc nào đó” phải đánh giá lại chính những quan điểm của bộ sử này về các chúa Nguyễn và triều Nguyễn. GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nhận định, thời kỳ các chúa Nguyễn và vƣơng triều Nguyễn từthế kỷ XVI cho đến thế kỷ XIX là một thời kỳ lịch sử đã trải qua những cách nhìn nhận và đánh giá hết sức khác nhau, có những lúc gần nhƣ đảo ngƣợc lại. Triều Nguyễn đƣợc đặt trong “khung” lý thuyết hình thái Kinh tế xã hội là triều đại suy vong, lâm vào khủng hoảng nặng nề, và chịu nhiều phán xét không công bằng. Theo ông Nguyễn Đắc Xuân (Hội sử học Thừa Thiên – Huế), nhận định sai về nhà Nguyễn còn có 4 xu hƣớng: con cháu nhà Lê - Trịnh viết về nhà Nguyễn có những điểm sai; thực dân Pháp, Thiên chúa giáo và những ngƣời nghiên cứu nhà Tây Sơn, thích Tây Sơn đều có những đánh giá sai về nhà Nguyễn. Quan điểm phê phán nhà Nguyễn chi phối xã hội miền Bắc (từ năm 1954) và miền Nam (từ sau năm 1975) trong một thời gian dài nên nhiều di tích có liên quan bị hủy hoại, xoá bỏ các hình thức ghi nhận nhƣ tên đƣờng phố, trƣờng học, các công trình công cộng tại các đô thị, thậm chí ngay cả với những “ông vua chống Pháp” nhƣ Duy Tân cũng bị bãi bỏ. Một thời gian dài quần thể di tích cố đô Huế bị bỏ
  • 14. mặc để trở thành phế tích sau những đổ nát của chiến tranh và lụt lội…Chỉ trong hai thập niên gần đây (1987-2008), nhiều cuộc hội thảo khoa học và nhiều công trình nghiên cứu đã dần dần đem lại một cái nhìn dễ chịu hơn chứ không còn gay gắt nhƣ trƣớc đối với vƣơng triều này. Quyển Đại cƣơng Lịch sử Việt Nam tập II do Đinh Xuân Lâm biên soạn ngày nay (bản năm 2007) cũng vẫn cho rằng ”triều Nguyễn thành lập là sự thắng thế của tập đoàn phong kiến tối phản động trong nƣớc có tƣ bản nƣớc ngoài ủng hộ”. Đinh Xuân Lâm cũng cho rằng nhà Nguyễn ”là 1 nhà nƣớc quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao độ với 1 chế độ chính trị lạc hậu, phản động“. ”Mọi chính sách chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội triều Nguyễn ban hành đều nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn”… và các biện pháp khai hoang hay mộ dân lập ấp đều ”xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị”. “Để duy trì chế độ xã hội thối nát nhằm bảo vệ đặc quyền đặc lợi, phong kiến nhà Nguyễn ra sức củng cố trật tự bằng mọi cách.” “Đối nội, chúng ra sức đàn áp khủng bố các phong trào của quần chúng” và ”Đối ngoại, chúng ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lƣợc đối với các nƣớc láng giềng nhƣ Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối với các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây thì chúng thi hành ngày một thêm gắt gao chính sách bế quan toả cảng và cấm đạo, giết đạo…” “Với những chính sách phản động nói trên, nƣớc ViệtNamđã suy yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây”. Lý giải về thái độ đánh giá trên, giáo sƣ Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho rằng: ”nguyên do sâu xa của vấn đề này là do bối cảnh chính trị của đất nƣớc (Việt Nam) thời bấy giờ và cách vận dụng phƣơng pháp luận sử học của các nhà nghiên cứu”… “Khuynh hƣớng này phát triển ở miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) trong thời gian từ 1954 phản ánh trên một số luận văn trên tạp chí Văn sử địa, Đại học sƣ phạm, Nghiên cứu lịch sửvà biểu thị tập trong những bộ lịch sử, lịch sử văn học, lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam…”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cũng có ý kiến tƣơng tự, cho rằng do chiến tranh Đông Dƣơng và chiến tranh Việt Nammà các nhà biên soạn sách đã có thái độ khắt khe với nhà Nguyễn. Theo Nguyễn Đình Đầu, việc dùng những khái niệm nhƣ đấu tranh giai cấp, giai cấp địa chủ, giai cấp nông dân, giai cấp phong kiến, tập đoàn thống trị, chiến tranh Cách mạng, tƣớc đoạt tƣ liệu sản xuất, bóc lột sức lao động… lên xã hội nông nghiệp phƣơng Đông trong sách Lịch sử Việt Nam do Viện Khoa học Xã hội của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà biên soạn là gƣợng ép. Nhà sử học Dƣơng Trung Quốc thì tin là bởi ”Bối cảnh chính trị của cuộc cách mạng “phản đế- phản phong” cùng lập trƣờng đấu tranh giai cấp và cải tạo xã hội chủ nghĩa đã kéo dài sự đánh giá một sắc màu tiêu cực về nhà Nguyễn…”. Ông cũng cho rằng ”Sử học là một khoa học, nhƣng nó cũng không thể không mang
  • 15. màu sắc chính trị.”và ”Trong nhận thức ấy, xin đừng trách nền sử học một thời đã từng lên án nhà Nguyễn với những đánh giá mà ngày nay ta thấy thiếu sự công bằng.” Giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng là ngƣời sớm nhất đƣa ra một đánh giá sáng sủa hơn trên tờ “Sông Hƣơng” (Huế) vào năm 1987″Tôi không thích nhà làm sử cứ theo ý chủ quan của mình, và từ chỗ đứng của thời đại mình mà chửi tràn chửi lấp toàn bộ nhà Nguyễn cho sƣớng miệng và ra vẻ có lập trƣờng. Có thời nhà Nguyễn chúng ta mới có một Việt Namhoàn chỉnh nhƣ ngày nay”. Theo giáo sƣ Phan Huy Lê, ”cần thiết phải khẳng định công lao của các chúa Nguyễn và vƣơng triều Nguyễn trong việc mở mang bờ cõi, thống nhất đất nƣớc, phát triển giáo dục, văn hóa. Những gì đƣợc coi là “tội” của các vua chúa Nguyễn cũng phải đƣợc xem xét lại cho thật công bằng”. Phan Huy Lê cũng đặt câu hỏi “việc Nguyễn Ánh “diệt” Nguyễn Lữ, Nguyễn Nhạc, Quang Toản có phải là phản tiến bộ hay không, khi mà những chính quyền này đã suy yếu và mất lòng dân?” Giáo sƣ cũng cho rằng ”sau Cách mạng tháng Tám-1945 cho đến 1975, trong thời kỳ chiến tranh, công việc nghiên cứu nói chung có bị hạn chế, số lƣợng công trình nghiên cứu không nhiều. Và cơ bản nhất là đã xuất hiện một khuynh hƣớng phê phán gay gắt cácchúa Nguyễn, đặc biệt là vƣơng triều Nguyễn: chia cắt đất nƣớc, cầu viện ngoại bang, đầu hàng thực dân xâm lƣợc… Thời kỳ nhà Nguyễn bị đánh giá là thời kỳ chuyên chế phản động nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Khuynh hƣớng đó gần nhƣ trở thành quan điểm chính thống trong biên soạn sách giáo khoa đại học và phổ thông.”và giai đoạn này ”là thời kỳ mà nền sử học Mácxít đang hình thành nên sự ấu trĩ, giáo điều, công thức buổi đầu là không tránh khỏi. Không chỉ nhà Nguyễn mà nhà Mạc, nhà Hồ cũng chịu cái nhìn thiếu khách quan, công bằng tƣơng tự…” Các nhà sử học tham gia hội thảo quốc gia về “Chúa Nguyễn và vƣơng triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX” năm 2008 đều nhận thấy ”sự phê phán, lên án đến mức độ gần nhƣ phủ định mọi thành tựu của thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn trƣớc đây là quá bất công, thiếu khách quan, nhất là khi đƣa vào nội dung sách giáo khoa phổ thông để phổ cập trong lớp trẻ và xã hội… các nhà sử học dĩ nhiên có trách nhiệm của mình trong vận dụng phƣơng pháp luận sử học chƣa đƣợc khách quan, trung thực.” III. ĐÁNH GIÁ TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NGUYỄN TRONG VIỆC MẤT NƢỚC VÀO CUỐI THẾ KỈ XIX “Lịch sử diễn ra một lần còn nhận thức lịch sử là một quá trình”. Sự đánh giá các chúa Nguyễn và Vƣơng triều Nguyễn ở thời đại này do vậy, là sự chín muồi của một quá trình nhận thức, để chuyển từ nhận thức của giới sử học tới nhận thức của xã hội. Nó không thể tách rời với quá trình đổi mới của đất nƣớc, cũng có nghĩa là sự đổi mới trong tƣ duy lãnh đạo của Đảng cầm quyền, bắt đầu từ đổi mới tƣ duy
  • 16. kinh tế với một khẩu hiệu hành động: “Dám nhìn thằng vào sự thật, nói đúng sự thật”. Sử học là một khoa học, nhƣng nó cũng không thể không mang màu sắc chính trị. Thời đại nào, ở đâu và ai cầm bút viết sử cũng vậy. Chỉ có điều chính trị biết phục tùng quy luật, căn cứ vào tính chân thực trong nhận thức quá khứ, đó sẽ là nền chính trị bền vững và trƣờng tồn, cho dù đạt tới tiêu chí đó không dễ dàng. Và ngƣợc lại, nếu bất chấp quy luật, duy ý chí thì chỉ có thể đạt đựoc những mục tiêu trƣớc mắt nhƣng sẽ không bền vững. Sử học bao giờ cũng là sự phản chiếu nền chính trị đƣơng thời. Rõ ràng, nhận thức lịch sử cũng thay đổi cùng thời gian, mà động cơ hay động lực thay đổi chính là do đời sống đƣơng đại đòi hỏi. Suốt thời nƣớc ta bị Pháp đô hộ, thì Quốc sử quán của nhà Nguyễn vẫn tiếp tục viết Đại Namthực lục để ghi nhận và bảo vệ chế độ của mình. Còn sử gia ngƣời Pháp (mà đôi khi ta gọi là sử gia thƣc dân) đƣơng nhiên nhìn nhận sự cai trị của ngƣời Pháp là một công cuộc khai sáng văn minh. Những ngƣời viết sử yêu nƣớc từ cụ Phan Bội Châu (ViệtNam phong quốc sử) đến Nguyễn Ái Quốc (Diễn ca Lịch sử nƣớc ta) đều coi đó là vũ khí tuyên truyền và tập hợp lực lƣợng cách mạng, lên án đế quốc và phong kiến. Nhà giáo dạy sử nổi tiếng là Trần Trọng Kim trong “Việt Nam sử lƣợc” nhắc đến những điểm sáng trong sách của ông nhƣ “đề cao vai trò của Quang Trung và nhà Tây Sơn” vào thời điểm nhà Nguyễn tuy không còn là một triều đại tự chủ nhƣng vẫn hiện diện trong bộ máy cai trị thuộc địa. Nhƣng rồi chúng ta cũng biết rằng, trong vòng xoáy của những biến cố chính trị, chính tác giả cuốn sách có giá trị này cũng lựa chọn một thế đứng cho mình… Chính vì thế phải thấy sự nhận thức lịch sử phản ảnh trong chủ đề đánh giá các chúa Nguyễn và Vƣơng triều Nguyễn cũng phản ảnh đời sống chính trị của đất nƣớc. Nó vừa là kết quả nhận thức lịch sử, trƣớc hết của giới sử học, vừa là những thay đổi trong nhận thức của toàn xã hội, bắt nguồn từ nhu cầu của chính đời sống hiện tại, của một thời đại lịch sử mới- hội nhập để phát triển. Quan điểm cá nhân phủ định ý kiến cho rằng việc nƣớc ta rơi vào tay Pháp cuối thế kỉ XIX là do trình độ dân trí Việt Nam quá thấp kém so với kẻ thù xâm lƣợc, “văn minh nông nghiệp Á Đông hết sức lạc hậu, yếu hèn” mà văn minh khoa học, cơ giới của phƣơng Tây lại quá mạnh. Nếu coi thừa nhận nhƣ thế thì sẽ không có trách nhiệm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc bảo vệ đất nƣớc, vì lý do có tính định mệnh, bất khả kháng. Nói nhƣ vậy là việc mất nƣớc là tất yếu, kẻ yếu phải thua kẻ mạnh, ngƣời văn minh phải chiến thắng ngƣời lạc hậu. Không ít những nhà sử học đều nhìn nhận việc mất nƣớc là tất yếu khách quan. Điều này có rất nhiều cơ sở, nhƣ học thuyết Đac Uyn, chủ nghĩa chiến tranh kỹ thuật, mạnh thắng yếu thua. Các sử gia phƣơng Tây và một số sử gia trong nƣớc
  • 17. đều biện bạch cho việc mất nƣớc bởi lý do nhƣ trên, rằng với sức mạnh của súng ống, tàu to đạn lớn ƣu trội, thực dân Pháp đã dễ dàng thôn tính đƣợc Việt Nam. Trong chiến tranh, nguyên nhân quyết định thắng thua là ở sức mạnh tổng hợp của một quốc gia trong đó yếu tố con ngƣời là yếu tố quyết định. Song các sử gia phƣơng Tây lại cho rằng yếu tố kỹ thuật, súng đạn là yếu tố quyết định. Nếu áp dụng ở chiến trƣờng phƣơng Tây thì kỹ thuật là yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất khi dựa theo lối đánh dàn quân, song qui luật mạnh đƣợc yếu thua ấy về kỹ thuật, vũ khí lại không đúng ở chiến trƣờng ViệtNam. Nhƣ thời hiện đại, khi phải đƣơng đầu với hai kẻ thù hùng mạnh, hai cƣờng quốc thế giới Pháp (1945 – 1954) , rùi Mỹ (1954 – 1975) nhƣng nhân dân Việt Nam “yếu” hơn vẫn giành chiến thắng vẻ vang. Bởi đó là sức mạnh tổng hợp vật chất và tinh thần, sức mạnh từ cuộc chiến tranh nhân dân với lối đánh du kích. Triều Nguyễn là vƣơng triều cuối cùng trong lịch sử chế độ phong kiến ViệtNam, phải gánh trách nhiệm của dân tộc để đối phó với sự xâm lƣợc của thực dân Pháp. Cuộc đối đầu của nhà Nguyễn với thực dân Pháp khắc hẳn với các cuộc đối mặt với việc xâm lƣợc của ngoại bang các thế kỉ trƣớc. Dù sao các cuộc kháng chiến trƣớc đây diễn ra trong bối cảnh lịch sử thời chế độ phong kiến đang lên, giai cấp phong kiến còn giữ vai trò tiến bộ, đóng vai trò quan trọng đối với quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kẻ thù xâm lƣợc, dù sao cùng một trình độ phát triển với nƣớc ta, tất cả đều là ngƣời phƣơng Đông. Thời Nguyễn khác, giai cấp phong kiến ViệtNamđã dần dần mất vai trò lịch sử. Kẻ thù mới hơn, trình độ kinh tế – kỹ thuật cao hơn một bậc. Nguyên nhân mất nƣớc có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nó rộng hơn trách nhiệm mất nƣớc, là cơ sở cho đánh giá trách nhiệm mất nƣớc. Nguyên nhân mất nƣớc của chủ thể nhà Nguyễn là: Bảo thủ, trì trệ, duy trì quan hệ sản xuất cũ, lạc hậu, chặn đứng mọi quan hệ sản xuất mới. Lúc không chiến tranh nhà Nguyễn không thức thời áp dung những biện pháp cải tổ đất nƣớc khiến thế nƣớc ngày càng suy vi, không đủ sức đối phó với kẻ xâm lƣợc. Khi có biến, với tƣ cách là ngƣời lãnh đạo tổ chức cuộc kháng chiến đã thiếu đƣờng lối đúng đắn, không đƣa đƣợc đƣờng lối chiến lƣợc phù hợp, lấy tƣ tƣởng chủ hòa là chính nên đã thất bại. Giáo sƣ Trần Văn Giàu đƣa ra 10 nguyên nhân mất nƣớc của ViệtNam 1. Tình trạng phân liệt, phân tranh, nội chiến kéo dài từ thế kỉ XVI – XVIII làm suy thoái ý thức dân tộc và tƣ tƣởng truyền thống yêu nƣớc. Thực trạng phân tranh lâu dài, dữ dội làm cho long dân ViệtNamchia lìa, tính chất dân tộc mai một 2. Sau khi chiến thắng Gia Long trả thù tàn bạo Tây Sơn, thu vén toàn bộ quyền lực vào tay mình, chuyên quyền độc đoán. Đất nƣớc thống nhất nhƣng mất đi lòng dân. 3. Mắc bệnh di căn là cầu viện nƣớc ngoài
  • 18. 4. Triều đình không dự kiến về cuộc chiến tranh xâm lƣợc phƣơng Tây, không sẵn sang chuẩn bị bảo vệ nền độc lập dân tộc 5. Khi Pháp tấn công luôn ở thế thủ 6. Triều Nguyễn bỏ qua nhiều thời cơ tốt để cứu vãn nền độc lập dân tộc 7. Ngoan cố, thủ cựu, cự tuyệt đƣờng lối canh tân đổi mới đất nƣớc 8. Nội bộ triều đình Huế có một bộ phận thức thời nhƣng là thiểu sổ yếu ớt 9. Nhà Nguyễn kí nhiều hiệp ƣớc cầu hòa không có lối thoát 10.10. Quá tin vào lƣơng tâm hảo hữu của nƣớc Pháp Để làm rõ đƣợc trách nhiệm chủ quan của nhà Nguyễn trong việc để mất nƣớc vào cuối thế kỉ XIX, phải thấy đƣợc việc mất nƣớc là một quá trình từ không tất yếu cuối cùng đã chuyển thành tất yếu, có nghĩa là buổi đầu tƣ bản Pháp nổ súng xâm lƣợc, khả năng đánh bại chúng dƣới lá cờ của triều đình không phải là không có mà do những chính sách sai lầm của triều đình đã làm cho các khả năng đề kháng và chiến thắng của quân dân ta ngày càng tiêu mòn, kẻ địch lấn lƣớt từ bƣớc này tới bƣớc khác để cuối cùng nuốt gọn nƣớc ta. Biểu hiện là trong thời kỳ đầu tấn công xâm lƣợc nƣớc ta thực dân Pháp đã vấp phải sức chiến đấu ngoan cƣờng của quân dân ta dƣới lá cờ của triều đình, tình hình chúng có lúc vô cùng nguy ngập và đã tính đến chuyện rút quân về nƣớc để tránh bị tiêu diệt tại chỗ. Thế nhƣng chính trong quá trình chiến đấu chống ngoại xâm của dân tộc đã ngày càng bộc lộ sự bất lực và phản động của triều Nguyễn chỉ sau một thời kỳ ngắn lãnh đạo nhân dân để chiến đấu. Không ngoài mục đích giữ vững ngai vàng của dòng họ triều Nguyễn đã nhanh chóng trƣợt dài trên con đƣờng nội bộ, cầu hòa để có thể đối phó với phong trào đấu tranh của nhân dân cả nƣớc ngày càng phát triển. Nhận định tình hình nƣớc ta khi Pháp phát động chiến tranh xâm lƣợc, có thể khẳng định chế độ phong kiến ở Việt Nam đang ngày càng suy yếu, lực lƣợng vật chất và tinh thần của nhân dân ta bị sự thông trị của nhà Nguyễn hủy hoại, chỉ có thể cứu vãn nguy cơ mất nƣớc nếu nhà cầm quyền sớm biết mở đƣờng cho xã hội tiến lên theo hƣớng mới, tăng cƣờng lực lƣợng vật chất và tinh thần cho nhân dân để có đủ khả năng bảo vệ đất nƣớc. Thực dân Pháp dựa trên những ƣu thế của mình cộng với một đối thủ suy yếu đã có thể vƣợt qua không ít và không nhỏ những khó khăn của chúng để cuối cùng nuốt gọn ViệtNam. Trách nhiệm của triều Nguyễn trong việc để mất nƣớc vào tay thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX là điều tất yếu, hiển nhiên, không thể tranh cãi. Thực tế đau xót này, chính sử gia ngƣời Pháp Charles Grosselin đã xác nhận “những vị Hoàng đế An Nam phải chịu trách nhiệm về sự đổ và xuống dốc của đất nƣớc họ. Dân xứ này, quan lại, binh lính xứng đáng có quyền đƣợc những ngƣời cầm đầu có giá trị hơn thế. Chính quyền họ quá mù quáng vì không dự liệu, không chuẩn bị gì hết”.
  • 19. Tóm lại, có thể khẳng định rằng Việt Nam từ những năm đầu của thế kỉ XIX đã bị đặt vào tình trạng khủng hoảng vai trò lãnh đạo, triều Nguyễn bằng những chính sách phản động đã tự thủ tiêu vai trò lãnh đạo của mình, đối lập sâu sắc với nhân dân, ngày càng lún sâu vào con đƣờng nhƣợng bộ, cầu hòa và cuối cùng câu kết với kẻ thù dân tộc trong việc đàn áp, bóc lột nhân dân cả nƣớc. ViệtNammất nƣớc, dân tộc bị nô lệ, đó là trách nhiệm, là tội lớn của triều Nguyễn trƣớc dân tộc và trƣớc lịch sử. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Cảnh Minh (cb), Đào Tố Uyên, Võ Xuân Đàn, Giáo trình Lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Đại học sƣ phạm, Hà Nội, 2008. 2. Vũ Huy Phúc, Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979. 3. Quốc sử quán triều Nguyễn, ĐạiNamthực lục chính biên, Hà Nội, 1963. 4. Trƣơng Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Lịch sử Việt Nam từ nguyên thủy đến 1858, Nxb Giáo dục Hà Nội, 2008 (tái bản lần thứ 11). 5. Nguyễn Phan Quang, Phong trào nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986. 6. Phạm Văn Sơn. Việt Sử Tân Biên – Quyển V (Saigon, 1962). 7. Nhiều tác giả, Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, NXB Văn hoá Sài Gòn 8. Những vấn đề Lịch sử triều Nguyễn-Tạp chí Xƣa và Nay & NXB Văn Hóa Sài Gòn (nguồn: Khoa lịch sử, Đại học sƣ phạm Thái Nguyên) Đƣợc đăng bởi quan khoa su vào lúc 00:57 Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên TwitterChia sẻ lên Facebook 0 nhận xét: Đăng một Nhận xét Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ Đăng ký: Đăng Nhận xét (Atom) Lưu trữ Blog ▼ 2012 (133) o ► tháng năm (27) o ► tháng tƣ (44) o ▼ tháng ba (51)  chiến khu Tức Dụp (An Giang)
  • 20.                                    Lịch sử Việt Nam 1975 - 2010 Lịch sử Việt Nam 1954 - 1975 Lịch sử Việt Nam 1945 - 1954 . Những bí mật về chiến tranh Việt Nam (Daniel Ell... chiến tranh Việt Nam 1954 - 1975 Chiến xa trên thế giới bàn luận về nhà Nguyễn Tƣ liệu về Nguyễn Trƣờng Tộ - nhà cải cách lớn của... Tƣ liệu về Nguyễn Trƣờng Tộ - nhà cải cách lớn của... tƣ liệu về Duy tân Việt Nam thế kỷ XIX - XX Cách mạng Pháp (1789 - 1794) tài liệu về chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) lịch sử quan hệ quốc tế 1760 - 2000 Đại Cách mạng Pháp (1789) Các hiệp ƣớc Pháp - Việt (1787 - 1884) (tiếng Pháp... Cách mạng tháng Mƣời Nga 1917 tƣ liệu Việt Nam hiện đại (1954 - 1975) Hồ Chí Minh hoàn thiện đƣờng lối chính trị và tổ c... Tân thƣ và phong trào Duy tân ở Nhật Bản, Trung Qu... Chiến tranh lạnh NHÀ NƢỚC LÊ - TRỊNH VỚI VIỆC LẬP THƢƠNG IẾM CỦA T... CÁC HÓA THÂN CỦA THẦN VISHNU: TỪ THẦN THOẠI ẤN ĐỘ ... NHỮNG BƢỚC THĂNG TRẦM TRONG QUAN HỆ INDONESIA - VI... NHỮNG VẤN ĐỀ CỞ BẢN CỦA TÔN GIÁO NHỮNG CẢN TRỞ TRÊN TIẾN TRÌNH THỐNG NHẤT HAI MIỀN ... VƢƠNG TRIỀU NGUYỄN VÀ TRÁCH NHIỆM MẤT NƢỚC Quốc hiệu Việt Nam thời Quang Trung tài liệu quan hệ quốc tế tài liệu về ngoại giao Việt Nam (Biển Đông) Kết hợp đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao ... tƣ liệu về Nhật Bản Chiếc BÁNH CHƢNG góp công Đại Phá Quân Thanh Ban bố lệnh cấm, trừ bỏ tệ nạn (Tại cửa ô Quan Chƣ... Chuyện hai vua Thái Tông Phùng Khắc Khoan tặng thơ sứ thần Nhật Bản
  • 21. Cô Hầu trong sự nghiệp Tây Sơn  Lƣu Khánh Đàm (989-1058): ngƣời xƣớng xuất việc dờ...  Lê Đức Thọ và Henry Kissinger: cuộc đối đầu lịch s...  Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố vấn Vĩnh Thụy  Nhận định của giới sử học phƣơng Tây về cuộc tổng ...  Hội thề Đông Quan năm 1427  Ninh Bình: Ba bến đò lịch sử  Khám phá "Vạn Lý Trƣờng Thành" Việt Nam  Huyền thoại và giai thoại xung quanh Lý Công Uẩn -...  Con đƣờng huyền thoại  Hình ảnh Rồng trong lịch sử Việt  CHÍNH SÁCH NG CỦA VƢƠNG TRIỀU TÂY SƠN  Việt Nam thời Tây Sơn - Lịch sử nội chiến 1771 - 1...  Nhật ký hội nghị Geneve (1954) - Phan Anh  tƣ liêu về Nguyễn Trƣờng Tộ - nhà canh tân lớn của... ► tháng hai (7) ► tháng một (4)  o o ► 2011 (166) Giới thiệu bản thân quan khoa su Thái minh quân, lớp CSU1091 trƣờng ĐH Sài Gòn Xem hồ sơ hoàn chỉnh của tôi Mẫu Picture Window. Cung cấp bởi Blogger.