Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí công với đề tài: Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, cho các bạn làm luận văn tham khảo
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...
Luận văn: Đào tạo bồi dưỡng công chức cấp xã TP Rạch Giá, HOT
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………../…………. …../….
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN NHỰT
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ,
TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
TP. HỒ CHÍ MINH - 2017
2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………../…………. …../…..
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN NHỰT
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ,
TỈNH KIÊN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Đào Đăng Kiên
TP. HỒ CHÍ MINH - 2017
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Văn Nhựt
4. LỜI CÁM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài, tác giả luận
văn đã được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên của cá nhân và tổ chức. Xin được
nói lên lời tri ân sâu sắc của tác giả luận văn đến:
- Các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, các thầy cô giáo Khoa sau đại học
Học viện Hành chính đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập và nghiên cứu về quản lý công.
- Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những người luôn sát cánh giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
- Đặc biệt là sự quan tâm, hướng dẫn khoa học tận tình và trách nhiệm
của GVCC,TS. Đào Đăng Kiên đã hết lòng chỉ bảo và dành nhiều thời gian
quý báu để hướng dẫn, gúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Với những cố gắng của bản thân, song kinh nghiệm và khả năng còn
hạn chế nên luận văn “Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã trên địa bàn
thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang” khó tránh khỏi những thiếu sót và
khuyết điểm. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô, bạn
bè, đồng nghiệp và các độc giả đã giúp tôi có cơ hội hoàn thiện hơn nữa.
Xin chân thành cám ơn.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Văn Nhựt
5. DANH MỤC CÁC BIỂU MẪU
Biểu 2.1. Cơ cấu trình độ văn hoá;
Biểu 2.2. Cơ cấu trình độ chuyên môn;
Biểu 2.3. Cơ cấu trình độ ngoại ngữ;
Biểu 2.4. Cơ cấu trình độ tin học.
6. DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1. Bảng thống kê trình độ văn hoá;
Bảng 2.2. Bảng thống kê trình độ chuyên môn;
Bảng 2.3. Bảng thống kê trình độ lý luận chính trị;
Bảng 2.4. Bảng thống kê trình độ quản lý nhà nước;
Bảng 2.5. Bảng thống kê trình độ ngoại ngữ;
Bảng 2.6. Bảng thống kê trình độ tin học.
7. MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CÁM ƠN
DANH MỤC CÁC BIỂU MẪU
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.............................................................. 2
3. Tình hình nghiên cứu của đề tài.............................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn .............................................. 8
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................... 9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ ........................................................ 10
1.1. Những vấn đề chung về công chức cấp xã ................................. 10
1.1.1. Khái niệm công chức cấp xã ................................................ 10
1.1.2. Đặc điểm công chức cấp xã ................................................. 12
1.1.3. Vai trò của công chức cấp xã ................................................ 13
1.2. Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ......................................... 15
1.2.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ................. 15
1.2.2. Đặc điểm của đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ............ 16
1.2.3. Cơ sở pháp lý của việc đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã 17
1.3. Sơ lược kinh nghiệm một số nước về đào tạo, bồi dưỡng công
chức..................................................................................................... 23
1.3.1. Đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Singapore .......................... 23
1.3.2. Đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Nhật Bản ........................... 24
8. 1.3.3. Đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Hàn Quốc .......................... 25
1.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Indonesia .......................... 26
1.3.5. Đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Pháp .................................. 27
1.3.6. Đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Hoa Kỳ ............................. 28
1.3.7. Bài học kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã có
thể vận dụng ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang ....................... 29
Tiểu kết chương 1 .................................................................................. 31
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP
XÃ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG .. 32
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức
cấp xã trên địa bàn thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.......................... 32
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên ................................................................. 32
2.1.2. Về điều kiện kinh tế - xã hội ..................................................... 33
2.2. Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Rạch
Giá, tỉnh Kiên Giang........................................................................... 36
2.2.1. Đặc điểm công chức cấp xã ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên
Giang............................................................................................... 36
2.2.2. Kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở
thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang............................................. 45
2.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở thành phố Rạch Giá,
tỉnh Kiên Giang-ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân ........................... 50
Tiểu kết chương 2 .................................................................................. 58
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG
TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG .................... 59
3.1. Định hướng công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở
thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang ............................................... 58
9. 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã của thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang...................... 66
3.2.1. Hoàn thiện quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã 62
3.2.2. Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp
với đối tượng công chức cấp xã...................................................... 68
3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên ............................... 73
3.2.4. Hoàn thiện chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức
cấp xã ................................................................................................ 76
3.2.5. Hoàn thiện cơ chế đánh giá năng lực công chức cấp xã........ 78
Tiểu kết chương 3 .................................................................................. 80
KẾT LUẬN.............................................................................................. 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................... 83
10. 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là đơn vị hành chính cơ sở,
cấp gần dân nhất và là nơi diễn ra mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội của tầng lớp nhân dân. Cấp xã giữ một vai trò, vị trí hết sức quan trọng,
là nơi thực hiện nhiệm vụ của cấp trên giao, là cấp chính quyền trực tiếp chăm
lo đến đời sống nhân dân, thông qua hoạt động của nhà nước, nhân dân thể
hiện quyền làm chủ của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng, xuất phát từ vấn đề
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn phong phú nhằm bổ sung hoàn chỉnh lý luận,
đường lối, chính sách, pháp luật nói chung và cải cách nền hành chính nhà nước
nói riêng.
Đội ngũ công chức cấp xã là những chủ thể quản lý rất quan trọng
trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, là “bộ mặt” hành chính tại địa
phương. Công chức cấp xã là cánh tay nối dài của hệ thống chính trị, là cầu
nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, là người gần dân nhất, trực tiếp đưa
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân.
Công chức cấp xã là người thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân dân, mọi
hành động của công chức xã đều ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, niềm tin
của nhân dân đối với chính quyền địa phương.
Với vai trò to lớn như thế cho nên đội ngũ công chức cấp xã cần được
quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, trình độ lý luận chính trị để
có thể phục vụ Nhà nước và nhân dân được tốt hơn.
Thành phố Rạch Giá là trung tâm kinh tế, chính trị, hành chính, khoa
học-công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, du lịch và thương mại của tỉnh
Kiên Giang. Do đó, cấp ủy và chính quyền thành phố cũng rất quan tâm xây
dựng đội ngũ công chức cấp xã tinh thông về chuyên môn, nghiệp vụ, có đủ
năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
11. 2
Tuy nhiên, trong thời gian qua, đội ngũ công chức cấp xã ở thành phố
Rạch Giá nhìn chung còn hạn chế, bất cập nhiều mặt, phần lớn chưa được đào
tạo cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ và còn hạn chế về các kỹ năng quản lý
như: giao tiếp, nhận dạng và thực thi các văn bản qui phạm pháp luật, điều
hành, thanh kiểm tra và giám sát trong quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó nhận thức trong đội ngũ công chức không đồng đều,
thiếu tính chủ động sáng tạo, việc vận dụng các chủ trương chính sách của
cấp trên vào điều kiện cụ thể của từng địa phương chưa linh hoạt. Không ít
công chức cấp xã chưa nắm vững chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền được
giao, không nắm vững các quy định pháp luật, vì vậy thực hiện nhiệm vụ, giải
quyết công việc còn mang tính chủ quan, tùy tiện, thiếu tính hành chính, hách
dịch, gây phiền hà cho nhân dân, thậm chí có trường hợp nhũng nhiễu, có
những hành vi tạo cho người dân không hài lòng.
Ngoài ra, chế độ đãi ngộ về tiền lương và bảo hiểm đối với công chức
cấp xã cũng còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đảm bảo đời sống do thu nhập
thấp, làm cho đội ngũ công chức cấp xã thiếu an tâm công tác, chưa hết lòng,
hết sức và tận tâm cho công việc, phục vụ nhân dân.
Xuất phát từ yêu cầu trên và thực trạng đội ngũ công chức cấp xã trên
địa bàn thành phố Rạch Giá hiện nay, học viên lựa chọn đề tài “Đào tạo, bồi
dưỡng công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên
Giang” để làm luận văn tốt nghiệp cao học ngành Quản lý công, vừa có ý
nghĩa về lý luận và thực tiễn, góp một phần nhỏ vào việc xây dựng và phát
triển đội ngũ công chức cấp xã của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay có nhiều công trình, đề tài, giáo trình, bài báo nghiên cứu
của các nhà khoa học về đào tạo, bồi dưỡng công chức nói chung, công chức
cấp xã nói riêng như:
12. 3
- Nguyễn Thị Tuyết Nga (2003): “Một số biện pháp tăng cường công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước ở tỉnh Phú Yên, Luận văn
thạc sỹ hành chính công, Học viện Hành chính. Luận văn hệ thống khung lý
thuyết về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Các giải pháp và đề
xuất các nội dung về kỹ năng cho cán bộ, công chức cấp xã có tính phù hợp
trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay ở nước ta nói chung và tỉnh Phú
Yên nới riêng. Tuy nhiên, bồi dưỡng sẽ phù hợp hơn cho cán bộ, công chức
cấp xã, còn giải pháp về đào tạo do thời gian dài, rất khó bố trí cho cán bộ,
công chức đi học tập trung hàng mấy năm trở lên, công việc ở xã rất cấp bách
và trực tiếp, giải quyết hàng ngày nên đi học lâu rất khó bố trí.
- Lại Đức Vượng (2005): “Hoàn thiện hệ thống các cơ quan đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước”, Luận văn thạc sỹ Hành chính công,
Học viện Hành chính. Kết quả nghiên cứu của luận văn chủ yếu về tổ chức cơ
quan đào tạo, bồi dưỡng, mà ít bàn đến nội dung đào tạo, bồi dưỡng, nên có
khác biệt với luận văn mà tác giả đang nghiên cứu. Tuy nhiên, luận văn cũng
cho tác giả một cách tiếp cận đa dạng về đào tạo, bồi dưỡng và tổ chức các cơ
quan đào tạo, bồi dưỡng.
- Dương Thanh Tuấn (2006): “Những giải pháp chủ yếu trong việc tạo
nguồn cán bộ, công chức cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Trà Vinh”, Luận văn thạc
sỹ Hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia.
- Phạm Cao Việt Linh (2007): “Hoàn thiện quản lý nhà nước về công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính ở thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Hành chính công, Học viện
Hành chính. Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trí về lý luận và thực tiễn
cao, hệ thống làm rõ khung lý thuyết về quản lý nhà nước về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức ở thành phố Hồ Chí Minh, phân tích thực trạng rõ
ràng, có tính cập nhật cả về lý luận và thực tiễn ở thành phố Hồ Chí Minh,
13. 4
Các giải pháp có tính đặc thù và khả thi. Luận văn có giá trị tham khảo cho
tác giả nghiên cứu bổ sung về lý luận và cách tiếp cận phân tích thực trạng.
Tuy nhiên, vị trí và không gian của thành phố Hồ Chí Minh khác biệt so với
thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang và thời gian nghiên cứu đã hơn 10 năm
nên cần phải nghiên cứu bổ sung lý luận và thực tiễn ở địa phương trong điều
kiện cải cách hành chính hiện nay.
- Phạm Hoa Mai (2009): “Đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính
tại Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn thạc sỹ Hành chính công, Học
viện Hành chính. Luận văn đã trình bài khung lý thuyết về đào tạo, bồi dưỡng
cấp quận ở thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu có ích nhằm gợi ý
cho tác giả nghiên cứu làm rõ trong luận văn của tác giả.
- PGS. TS Bùi Đức Kháng (2009): “Đổi mới phương thức và nâng cao
chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đáp ứng yêu cầu hội
nhập”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị-Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Vũ Xuân Khoan (2010): “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn khu vực đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2010 -
2015, Luận văn thạc sỹ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính. Nội
dung và kết quả nghiên cứu có tính khoa học và thực tiễn tương đối phù hợp
với hướng nghiên cứu của tác giả, giúp cho tác giả có cách tiếp cận phù hợp
cả về không gian và phương pháp tiếp cận về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã.
- Cao Trọng Tuệ (2014): “Quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã tại tỉnh Lâm Đồng”. Luận văn thạc sĩ Quản lý hành
chính công, Học viện Hành chính quốc gia.
- Hoàng Thị Hoài Thương (2016): “Tiêu chí và giải pháp đánh giá
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã”. Tạp chí quản lý nhà nước -
14. 5
Học viện Hành chính Quốc gia số 247.
- TS. Đào Đăng Kiên (2012): “Các giải pháp đổi mới chế độ, chính
sách tiền lương cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã”, Tạp chí khoa học
Chính trị số 5 - 2012, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Khu vực II.
Nội dung bài nghiên cứu cho biết các kết quả khảo sát chế độ tiền lương đối
với cán bộ, công chức cấp xã, những hạn chế, bất cập về chế độ đãi ngộ đối
với đội ngũ công chức cấp xã, nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động
đến chế độ tiền lương và các nhóm giải pháp nâng cao chế độ tiền lương cho
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Nội dung hữu ích cho nghiên cứu của tác
giả vì nâng cao năng lực trách nhiệm và tinh thần của cán bộ, công chức cần
phải kết hợp với chế độ đãi ngộ phù hợp cho cán bộ, công chức cấp xã, tạo
điều kiện cho cán bộ, công chức yên tâm thực thi nhiệm vụ, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của nhân dân trong tiến trình cải cách hành chính hiện nay ở
nước ta.
- PGS,TS. Nguyễn Thanh Tuấn (2014): “Xây dựng và hoàn thiện
chính quyền cấp xã theo tinh thần Hiến pháp năm 2013”. Tạp chí Tổ chức
Nhà nước - Cổng thông tin điện tử Bộ Nội vụ. Nội dung chính của bài nghiên
cứu cho biết cho đến nay, nhiều vấn đề quan trọng đang đặt ra trong phương
thức quản lý của chính quyền xã, như: thể chế quản lý một cách dân chủ và
hiệu lực, hiệu quả phù hợp với đặc điểm vùng miền, tộc người và phát huy
đúng mức vai trò của chính quyền cấp xã trong quản lý, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã. Đổi mới tổ chức và hoạt động
của Hội đồng nhân dân xã, đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân
dân xã, nâng cao năng lực tiến tới tiêu chuẩn hóa đội ngũ công chức xã và đổi
mới nội dung, phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng và công tác mặt trận,
các đoàn thể nhân dân tại xã.
Đánh giá năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
15. 6
được xác định bởi rất nhiều tiêu chí, là khâu quan trọng trong quá trình quản
lý cán bộ, công chức cấp xã nói riêng và cán bộ, công chức nói chung. Sau
khi phân tích thực trạng công tác đánh giá cán bộ, công chức cấp xã hiện nay,
tác giả hệ thống các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ công chức cấp xã,
với các tiêu chí về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực.
Ngoài ra, còn có các tiêu chí đặc thù đối với các chức danh công chức của
Hội đồng nhân dân dân như: Chủ tịch và phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, đối
với công chức của Uỷ ban nhân dân cấp xã như: Chủ tịch, phó chủ tịch, công
chức chuyên môn. Từ đó, tác giả đề xuất bốn nhóm giải pháp nâng cao chất
lượng công tác đánh giá công chức cấp xã: (1) Xây dựng hệ thống pháp luật
về đánh giá công chức cấp xã; (2) Vận dụng linh hoạt sự đánh giá công chức
cấp xã; (3) Cụ thể hóa và hoàn thiện nội dung tiêu chí đánh giá đối với công
chức cấp xã; (4) Lựa chọn phương pháp đánh giá thích hợp với từng loại hình
đánh giá. Nội dung bài báo rất có hữu ích cho tác giả nghiên cứu trong luận
văn của mình, gợi ý hướng nghiên cứu phù hợp với đề tài đang nghiên cứu
của tác giả.
Nhìn chung, các đề tài luận văn và các bài báo đăng trên các tạp chí
này đã đề cập đến công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức ở nhiều địa phương
khác nhau, nhưng chưa có công trình nghiên cứu về “Đào tạo, bồi dưỡng
công chức cấp xã ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang”. Do vậy, việc
nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết vừa có tính lý luận và thực tiễn tại thành
phố Rạch Giá, góp phần giúp cho chính quyền địa phương, chính quyền cấp
trên thấy được tầm quan trọng của việc có được một đội ngũ công chức chất
lượng cao của chính quyền cấp xã. Đồng thời, làm thay đổi nhận thức của
công chức cấp xã, đáp ứng kịp thời yêu cầu công việc trong quá trình đổi mới,
phục vụ nhân dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
16. 7
3.1. Mục đích
Trên cơ sở khung lý thuyết, phân tích, đánh giá thực trạng công tác
đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã và đề xuất các giải pháp hoàn thiện công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp xã ở thành phố Rạch Giá, tỉnh
Kiên Giang.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp lý về đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức
cấp xã ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác đào
tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở thành phố Rạch Giá, tỉnh
Kiên Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Nghiên cứu công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức
cấp xã từ năm 2010 đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2025.
- Về không gian: Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn thành phố
Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, đường lối chủ trương, nghị quyết của Đảng, Nhà nước
về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã và một số công trình nghiên
cứu có liên quan đến đề tài.
17. 8
- Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập thông tin :
+ Về thu thập thông tin thứ cấp: Tác giả nghiên cứu, tham khảo trong
các công trình đề tài, luận văn, các bài nghiên cứu khoa học và các báo cáo
tổng kết có liên quan đã công bố như: Giáo trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
công chức của Học viện Hành chính quốc gia, chương trình bồi dưỡng ngạch
của Bộ Nội vụ, luận văn thạc sỹ quản lý công ở Học viện Hành chính quốc
gia, các bài nghiên cứu trên các tạp chí Quản lý nhà nước và Tổ chức nhà
nước, các báo cáo tổng kết của Bộ Nội vụ và Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên
Giang liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
+ Về thu thập thông tin sơ cấp: Khảo sát thực tế ở thành phố Rạch
Giá, tỉnh Kiên Giang, có tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa
học về quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
- Phương pháp xử lý thông tin: Tác giả kết hợp phân tích định tính và
định lượng (chủ yếu bằng phần mềm Excel).
- Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp: thống kê, phân tích,
tổng hợp, so sánh, dự báo và báo cáo...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: trên cơ sở hệ thống hóa về lý luận và cơ sở pháp lý, luận
văn đã làm rõ được nội hàm của các khái niệm cơ bản về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức cấp xã nói riêng. Luận văn
có thể là tài liệu tham khảo có ích cho việc nghiên cứu, học tập hoặc cho
những ai quan tâm đến lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
- Về thực tiễn: Các kết luận cũng như các giải pháp được đề xuất
trong luận văn là căn cứ khoa học có thể có hữu ích cho các nhà quản lý để
hoàn thiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã hiện nay ở
nước ta.
18. 9
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về đào tạo, bồi dưỡng công chức
cấp xã.
Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
trên địa bàn thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác đào tạo, bồi
dưỡng công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
19. 10
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Khái quát về công chức cấp xã
1.1.1. Khái niệm công chức cấp xã
Công chức cấp xã bao gồm công chức phường, công chức xã, công
chức thị trấn.
Ở Việt Nam, khái niệm công chức cấp xã lần đầu tiên được sử dụng
trong Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công
chức (năm 1998) được ban hành ngày 29/4/2003, trước đó khái niệm công
chức cấp xã chưa được đề cập trong các văn bản pháp luật.
Pháp lệnh số 11/2003/PL-UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội
ngày 29/4/2003 sửa đổi, bổ sung một số điều Pháp lệnh cán bộ, công chức
(năm 1998) quy định “công chức cấp xã là những người được tuyển dụng,
giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp
xã” [19,tr.1].
Cụ thể hóa văn bản này, Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003
của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn thì: công chức cấp
xã là công dân Việt Nam được tuyển giữ một chức chuyên môn, nghiệp vụ
thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước. Theo Nghị định 114, công chức cấp xã gồm 7 chức danh cụ thể:
Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy); Chỉ huy
trưởng quân sự; Văn phòng - Thống kê; Địa chính - Xây dựng; Tài chính - Kế
toán; Tư pháp - Hộ tịch; Văn hóa - Xã hội. Mỗi chức danh được giao có
nhiệm vụ, trách nhiệm cụ thể góp phần cùng bộ máy chính quyền địa phương
giải quyết những công việc liên quan trong mối quan hệ với nhân dân địa
phương.
20. 11
Theo Pháp lệnh Cán bộ, Công chức, công chức xã được hiểu là những
người được tuyển dụng và giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ
thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước.
Để nâng cao vị thế, vai trò của công chức cấp xã, Quốc hội đã ban
hành Luật Cán bộ, Công chức (năm 2008), đây là cơ sở pháp lý xác định rõ
ràng, cụ thể hơn chức năng và nhiệm vụ công chức cấp xã.
Tại Khoản 3, Điều 4 của Luật Cán bộ, Công chức (năm 2008) quy
định: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy xã, người đứng
đầu tổ chức chính trị-xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Tại Khoản 3, Điều 61 của Luật Cán bộ, Công chức (năm 2008) quy
định công chức cấp xã có các chức danh như sau: Trưởng công an; Chỉ huy
trưởng quân sự; Văn phòng - Thống kê; Địa chính - Xây dựng - Đô thị - Môi
trường (đối với phường, thị trấn) hoặc Địa chính - Nông nghiệp - Xây dựng
và Môi trường (đối với xã); Tài chính - Kế toán; Tư pháp - hộ tịch; Văn hóa -
Xã hội. Các chức danh của công chức cấp xã được Luật Cán bộ, Công chức
quy định rõ ràng cụ thể, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của công chức xã trong
bộ máy chính quyền địa phương, được thể hiện đầy đủ hơn so với Nghị định
114/2003/NĐ-CP của Chính phủ.
Theo Luật Cán bộ, Công chức (năm 2008), công chức cấp xã được
hiểu là những người được tuyển dụng và giao giữ một chức danh chuyên
môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
21. 12
Công chức cấp xã có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp xã quản
lý nhà nước về lĩnh vực công tác và thực hiện những nhiệm vụ khác do Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao. Mỗi một chức danh công chức cấp xã có
những nhiệm vụ và phải đạt một số tiêu chuẩn nhất định do pháp luật quy
định về tuổi đời về trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị... Vì vậy, công
chức cấp xã sau khi được tuyển dụng phải được tham gia các khóa đào tạo,
bồi dưỡng về trình độ lý luận chính trị và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ của mình để có thể đáp ứng yêu cầu của công việc
chuyên môn.
1.1.2. Đặc điểm công chức cấp xã
Có thể nói trong đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước ta hiện nay
đội ngũ công chức cấp xã thực sự là công bộc, là đầy tớ của nhân dân. Vì đây
là lực lượng tiếp xúc với nhân dân nhiều nhất và giải quyết thỏa đáng tâm tư,
nguyện vọng và bức xúc của nhân dân. So với đội ngũ cán bộ, công chức nói
chung, đội ngũ công chức cấp xã có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Công chức cấp xã phần lớn là những người được sinh ra và lớn lên ở
địa phương, là những người cùng sinh sống, có quan hệ tình cảm với bà con
nhân dân tại địa phương. Do đó, họ có thể nắm bắt, hiểu rõ đặc điểm, tình
hình địa phương cũng như mối quan hệ tình làng, nghĩa xóm của nhân dân địa
phương từ đó có thể xem xét những vụ việc chuyên môn cụ thể do người dân
địa phương đưa ra và tư vấn cho cán bộ lãnh đạo ở địa phương giải quyết vụ
việc hợp tình, hợp lý phù hợp với quy định của pháp luật.
- Công chức cấp xã là cầu nối giữa chính quyền địa phương và nhân
dân tốt nhất, vì họ trực tiếp xem xét công việc và trình lãnh đạo giải quyết
những công việc đó. Chính vì vậy họ luôn phải giải quyết hài hòa mối quan
hệ giữa nhà nước và nhân dân địa phương. Tuy nhiên, do trình độ còn hạn chế
cùng với tính cục bộ trong mối quan hệ thân tộc, tình làng nghĩa xóm... nên
22. 13
công chức cấp xã đôi khi còn thể hiện sự thiên vị trong việc đề xuất hướng
giải quyết vụ việc.
- Công chức cấp xã đa phần là cán bộ dự nguồn, chưa được đào tạo
qua trường, lớp (đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa) mà chủ yếu là học hỏi kinh
nghiệm từ những người đi trước, nghề dạy nghề, do đó trong hoạt động đôi
khi còn bộc lộ nhiều hạn chế. Do đồng lương thấp, công chức cấp xã sau khi
công tác một thời gian thường xin nghỉ, chuyển sang công việc khác có thu
nhập cao hơn làm cho đội ngũ công chức cấp xã không ổn định, luôn biến
động. Chính điều này đã phần nào ảnh hưởng đến công việc chuyên môn,
đồng thời ảnh hưởng đến việc đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở địa
phương.
- Công chức cấp xã ngoài việc có thu nhập từ lương công chức, họ còn
làm kinh tế khác, có như thế mới đảm bảo được cuộc sống của bản thân và gia
đình. Do vậy, nhìn ở một khía cạnh nào đó, có thể thấy được rằng công chức
cấp xã không thể toàn tâm, toàn ý cho công việc chuyên môn của mình. Việc
này phần nào cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của
chính quyền cấp xã, vì vậy nhà nước cần quan tâm, có chính sách, chế độ đãi
ngộ đối với công chức xã nhiều hơn.
1.1.3. Vai trò của công chức cấp xã
- Công chức cấp xã là những người làm việc trong bộ máy chính
quyền ở địa phương, là cánh tay nối dài của hệ thông chính trị, là người gần
dân nhất, trực tiếp đưa đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước đến với nhân dân. Với vai trò to lớn như thế, việc đào tạo, bồi dưỡng
công chức xã luôn luôn là vấn đề quan trọng đối với bất kỳ bộ máy chính
quyền địa phương nào. Nếu đội ngũ công chức cấp xã có kiến thức cơ bản về
lĩnh vực chuyên môn, cũng như nắm rõ những quy định, chính sách, pháp luật
của Nhà nước thì mới có thể tuyên truyền, chuyển tải đến người dân địa
23. 14
phương, giúp họ hiểu những yêu cầu của Nhà nước đối với từng vấn đề cụ
thể; từ đó người dân địa phương sẽ chấp hành tốt những quy định của pháp
luật, đảm bảo được trật tự quản lý xã hội cũng như đảm bảo được tính pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
- Công chức cấp xã là người trực tiếp xem xét công việc ở địa phương
và tư vấn cho cán bộ lãnh đạo giải quyết công việc theo đúng quy định của
pháp luật. Do đó họ phải là người nắm bắt rõ nhất tình hình kinh tế, văn hóa,
xã hội ở địa phương và cung cấp những thông tin trên cho cán bộ lãnh đạo.
Trên cơ sở đó, những người làm công tác quản lý có thể ban hành các văn bản
điều chỉnh kịp thời những vấn đề xảy ra ở địa phương, đồng thời có hướng
động viên, khuyến khích những công chức xã cố gắng học tập, nâng cao trình
độ làm tốt nhiệm vụ của mình. Có như thế, thì bộ máy chính quyền ở địa
phương có thể hoạt động tốt, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa ngày càng vững mạnh.
- Công chức cấp xã là người thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân
dân. Công chức tốt hay không tốt đều có ảnh hưởng đến tâm tư tình cảm của
nhân dân đến bộ máy chính quyền địa phương. Vì vậy, trước hết công chức
cấp xã phải là người tạo cho người dân một niềm tin sâu sắc đối với hoạt động
của Đảng và Nhà nước trong từng lĩnh vực cụ thể bằng hành động gương mẫu
cụ thể của chính bản thân mình. Từ đó, họ không chỉ đảm bảo cho pháp luật
được thực hiện nghiêm minh tại địa phương, mà họ còn có thể làm tốt công
tác dân vận, vận động nhân dân tuân thủ, chấp hành tốt quy định của pháp luật
cũng như những quy định của chính quyền địa phương. Đây cũng là một vai
trò hết sức quan trọng của đội ngũ công chức cấp xã, vì họ vừa là công bộc
của nhân dân, vừa là đại diện cho quyền lực nhà nước trong từng lĩnh vực
nhất định.
Như vậy, đội ngũ công chức cấp xã có vai trò cực kỳ quan trọng trong
24. 15
bộ máy chính quyền địa phương; do vậy cần phải quan tâm hơn nữa việc đào
tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã. Thực tiễn đã cho thấy đội ngũ công chức
cấp xã có ảnh hưởng lớn đến sự phát triên kinh tế - xã hội ở địa phương. Địa
phương nào có đội ngũ công chức vững mạnh, có bản lĩnh chính trị vững
vàng có trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức tốt thì địa phương đó luôn có
sự phát triển về kinh tế, chính trị, an ninh, trật tự và ngược lại, nơi nào có đội
ngũ công chức yếu, không xem xét giải quyết thấu đáo những băn khoăn, thắc
mắc của người dân thì nơi đó bao giờ cũng có những bất ổn về chính trị, an
ninh trật tự, tình trạng vi phạm pháp luật thường xuyên diễn ra. Như Bác Hồ
từng nhắc nhở rằng muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc
kém, nếu không có đội ngũ cán bộ, công chức tốt thì dù có đường lối chính
sách đúng cũng khó có thể biến thành hiện thực được.
1.2. Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
1.2.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
Trong hoạt động của bất kỳ bộ máy nhà nước nào, muốn nâng cao
năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước thì cần phải tăng cường công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức cấp xã nói
riêng. Đây là hoạt động vô cùng quan trọng của Nhà nước vì đội ngũ cán bộ,
công chức mạnh thì tất yếu bộ máy nhà nước sẽ hoạt động đạt hiệu quả cao.
“Đào tạo” và “bồi dưỡng” là các thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến
trong các văn bản quy phạm pháp luật, cũng như trong các tài liệu nghiên cứu
ở nước ta, tuy nhiên về cách tiếp cận cũng theo nhiều cách khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn
quốc gia năm 2005: “đào tạo làm cho trở thành người có năng lực theo những
tiêu chuẩn nhất định”, “bồi dưỡng là làm cho năng lực hoặc phẩm chất tăng
thêm”.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam của Viện Từ điển học và
25. 16
Bách khoa toàn thư Việt Nam, thuật ngữ “đào tạo, bồi dưỡng” được giải thích
là “quá trình tác động đến một con người làm cho người đó lĩnh hội và nắm
vững những trí thức, kỹ năng, kỹ xảo,... một cách có hệ thống để chuẩn bị cho
người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một phân công lao động
nhất định, góp phần mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền
văn minh của loài người”.
Tại Điều 5, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 5/3/2010 của Chính
phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giải thích: đào tạo là quá trình
truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của
từng cấp học, bậc học” và “bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng
cao kiến thức, kỹ năng làm việc” [11, tr.1].
Từ các cách tiếp cận trên có thể hiểu: đào tạo là quá trình trang bị
những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp thích hợp để người được đào tạo có thể
đảm nhận một công việc nhất định và bồi dưỡng là quá trình nâng cao kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp trên cơ sở của mặt bằng kiến thức đã được đào tạo
trước đó.
Tóm lại, đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã là một hoạt động vô
cùng quan trọng và không thể thiếu trong chiến lược cán bộ của nước ta hiện
nay. Thực tiển cho thấy, việc đào tạo bồi dưỡng công chức cấp xã cần được
thực hiện thường xuyên, liên tục, vì tình hình kinh tế-xã hội cũng như quan
điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước luôn thay đổi theo từng
giai đoạn thời kỳ lịch sử nhất định. Nếu những kiến thức mới ấy không được
đào tạo bồi dưỡng kịp thời sẽ dẫn đến việc công chức cấp xã làm việc không
phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước sẽ làm mất lòng tin của nhân dân với Nhà nước và Nhà nước cũng
không thể tạo ra một xã hội ổn định.
1.2.2. Đặc điểm của đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
26. 17
Khi đánh giá về vai trò, tầm quan trọng của cán bộ, công tác cán bộ,
Đảng ta đã khẳng định, cán bộ và công tác cán bộ giữ vai trò quyết định đến
sự thành bại của toàn bộ sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước. Do vậy, bất
kỳ cán bộ, công chức nào làm việc trong bộ máy nhà nước cũng phải trải qua
quá trình rèn luyện, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, phẩm chất đạo đức.
So với quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, đào
tạo bồi dưỡng công chức cấp xã có những đặc điểm sau:
- Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là công chức cấp xã.
Công chức cấp xã là những người gần dân nhất, liên hệ trực tiếp với
nhân dân và tham mưu cho lãnh đạo chính quyền địa phương giải quyết
những công việc có liên quan trực tiếp với nhân dân địa phương. Do vậy, việc
đào tạo, bồi dưỡng cần trang bị cho công chức cấp xã những kiến thức chuyên
môn, những kỹ năng nhất định để giải quyết công việc và giao tiếp với nhân
dân.
Do trình độ công chức cấp xã không cao, không đồng đều, việc tiếp
thu nhận thức có thể còn chậm hơn so với các đối tượng khác.
- Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã.
Phương pháp giảng dạy công chức cấp xã cần hợp lý, giới thiệu những
kiến thức cơ bản, cụ thể, không trừu tượng, lồng ghép các bài tập tình huống
để người học có thể tiếp thu một cách nhanh nhất và vận dụng vào điều kiện
thực tế ở địa phương một cách dễ dàng. Cuối khóa học, cần tổ chức cho người
học đi tham quan nghiên cứu thực tế một mô hình hoạt động cụ thể để người
học có thể học hỏi kinh nghiệm và vận dụng vào thực tiễn ở địa phương.
- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã.
Nội dung đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã cần dựa trên tiêu chuẩn
của từng chức danh công chức cấp xã để xây dựng nội dung, chương trình cho
phù hợp. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cần thiết thực, phù hợp với yêu cầu
27. 18
từng loại công chức, từng chức danh cụ thể, chú trọng cả phẩm chất đạo đức
và năng lực chuyên môn nghiệp vụ, cả lý luận và thực tiễn. Đặc biệt chú trọng
bồi dưỡng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiến thức pháp
luật và các kiến thức chuyên ngành khác. Theo Quyết định 04/QĐ-BNV của
Bộ Nội vụ ban hành ngày 16/01/2004 quy định cụ thể về tiêu chuẩn của từng
chức danh công chức cấp xã [30, tr.4]; theo đó:
+ Công chức tài chính - Kế toán: đào tạo trình độ trung cấp tài chính -
kế toán trở lên.
+ Công chức tư pháp - hộ tịch: đào tạo trình độ trung cấp luật trở lên.
+ Công chức địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường: đào
tạo trình độ trung cấp địa chính, xây dựng, quản lý đô thị, kỹ thuật môi
trường, nông nghiệp và phát triển nông thôn trở lên.
+ Công chức văn phòng - thống kê: đào tạo trình độ trung cấp văn thư
- lưu trữ, hành chính, thống kê hoặc luật trở lên.
+ Công chức văn hóa - xã hội: đào tạo trình độ trung cấp văn hóa nghệ
thuật (chuyên ngành) hoặc quản lý văn hóa thông tin hoặc lao động -
thươngbinh - xã hội trở lên.
+ Công chức trưởng công an: đào tạo trình độ tương đương trung cấp
chuyên ngành công an trở lên.
+ Công chức chỉ huy trưởng quân sự: đào tạo trình độ tương đương
trung cấp về quân sự của sĩ quan dự bị cấp phân đội trở lên.
- Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã.
Bất kỳ cơ quan, đơn vị nào khi sử dụng cán bộ, công chức cũng xây
dựng cho cơ quan, đơn vị mình một kế hoạch quy hoạch sử dụng cán bộ, công
chức trong tương lai và trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức phù hợp với quy hoạch đã đề ra. Thông qua việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ tạo ra một nguồn
28. 19
nhân lực vững mạnh, phục vụ cho hoạt động của cơ quan đơn vị. Nếu đào tạo,
bồi dường không theo quy trình ấy sẽ tạo ra sự lãng phí rất lớn. Việc đào tạo,
bồi dưỡng công chức cấp xã cũng phải thực hiện theo quy trình này.
Nhưng thực tế hiện nay, ở một số địa phương việc đào tạo, bồi dưỡng
công chức không diễn ra theo quy trình nhất định mà thường được thực hiện
do ý thức tự giác của công chức: muốn được đào tạo để chuẩn hóa chức danh,
để được nâng lương... dẫn đến tình trạng đào tạo không đúng chuyên ngành,
có bằng cấp nhưng kiến thức để phục vụ cho hoạt động chuyên môn lại thiếu,
kiến thức sau khi đào tạo không sử dụng được, gây lãng phí về thời gian cũng
như kinh phí của cá nhân công chức đồng thời ảnh hưởng lớn đến công việc
chung của chính quyền địa phương.
- Mô hình đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã.
Công chức cấp xã là những người thực hiện những công việc chuyên
môn, nghiệp vụ trong bộ máy chính quyền địa phương, khi đi học sẽ không có
người thay thế thực hiện những công việc chuyên môn đó. Do vậy, phương
thức, mô hình đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã cần kết hợp hình thức đào
tạo chính quy với các hình thức đào tạo khác như là vừa học, vừa làm học từ
xa... Về thời gian học, cũng cần linh hoạt hơn, tạo điều kiện cho công chức
cấp xã có thể tham gia học tập một cách đầy đủ, thường xuyên nhất. Đối với
từng công chức có điều kiện có thể học vào ban ngày, các ngày làm việc. Tuy
nhiên, đối với những công chức cấp xã không có điều kiện có thể được bố trí
học ban đêm hoặc học vào các ngày nghỉ trong tuần.
Do vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã cần dựa trên kế
hoạch, phù hợp với từng chức danh cụ thể, cần tạo điều kiện thuận lợi để công
chức cấp xã có thể tham gia học tập một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, chính
quyền địa phương có thể tạo điều kiện cho công chức cấp xã được học tập
kinh nghiệm của các địa phương khác, kết hợp với việc đào tạo qua thực tế
29. 20
công tác và qua các hoạt động phong trào của các đoàn hội và của tổ chức
quần chúng.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, cũng như nâng cao ý thức
của công chức cấp xã trong việc học tập nâng cao trình độ cần có chế độ
khuyến khích, cũng như bắt buộc công chức tự nghiên cứu, tự tìm hiểu kiến
thức mới thông qua hệ thống thông tin như báo, đài, sách tham khảo... nhằm
nâng cao khả năng làm việc.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã cần tổ chức kiểm
tra sát hạch, đánh giá chất lượng công chức cấp xã theo định kỳ hàng quý hay
hàng năm, từ đó có kế hoạch bố trí sử dụng công chức cấp xã một cách hợp
lý, cũng như xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian tiếp theo.
1.2.3. Cơ sở pháp lý của việc đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã
Cán bộ, công chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng đóng vai
trò quan trọng trong hoạt động công vụ, trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy
nhà nước. Với vai trò quan trọng ấy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải nâng cao
việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức đặc biệt là công chức cấp
xã nhằm trang bị cho đội ngũ này những kiến thức cơ bản để phục vụ cho
công việc chuyên môn của mình góp phần xây dựng bộ máy hành chính nhà
nước ở địa phương ngày càng hoàn thiện đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế,
yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước cũng như đáp ứng yêu cầu
cơ bản của người dân ngày càng tốt hơn.
Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã là để phục vụ cho chính quyền,
nhân dân địa phương đáp ứng yêu cầu ngày càng đổi mới về kinh tế - xã hội,
về cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước nói chung và ở địa phương nói
riêng, đồng thời nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở. Trên cơ sở
những kiến thức chuyên môn, những kỹ năng mới đã được tiếp thu thông qua
hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã sẽ áp dụng vào công việc thực
30. 21
tế mà mình đảm nhận để xem xét, trình lãnh đạo giải quyết những nhu cầu,
yêu cầu chính đáng, hợp pháp của nhân dân địa phương theo đúng chính sách,
pháp luật do nhà nước ban hành. Do vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, nhất là công chức cấp xã là vấn đề cần thiết trong giai đoạn hiện
nay.
Trên cơ sở nghị quyết, các văn kiện của Đảng, các tổ chức, cơ quan từ
Trung ương tới địa phương đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng; cụ thể
như sau:
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 số 17-NQ/TW ngày 18/3/2002 của
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng
hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
- Luật Cán bộ, Công chức được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008
quy định về cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức cấp xã; trong
đó còn có những điều khoản quy định về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức.
- Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
7/1/2004 phê duyệt định hướng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn đến năm 2010.
- Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
15/2/2006 phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn
2006 - 2010.
- Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về
chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
- Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 Thủ tưởng Chính phủ
phê duyệt đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.
31. 22
- Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 5/3/2010 của Chính phủ về đào
tạo, bồi dưỡng công chức.
- Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8/11/2011 của Chính phủ về
Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020.
- Quyết định số 04/QĐ-BNV ngày 06/01/2004 của Bộ Nội vụ về việc
ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã phường, thị
trấn.
- Chương trình hành động số 02-CTr/TU, ngày 26-10-2010 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Kiên Giang về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức giai đoạn 2010-2015 và định hướng đến năm 2020; Kế hoạch số
47-KH/TU, ngày 13-9-2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kiên giang về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016-2020.
- Kế hoạch số 135-KH-UBND, ngày 2-12-2016 của Uỷ ban nhân dân
tỉnh Kiên Giang về đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công chức, viên chức các cấp
giai đoạn 2016-2020 và định hướng đến năm 2025.
- Kế hoạch số 12-KH/TU, ngày 01-7-2011 của Ban Thường vụ Thành
uỷ thành phố Rạch Giá về đào tạo, chuẩn hóa cán bộ, công chức hai cấp
nhiệm kỳ X (2010-2015).
- Kế hoạch số 29-KH/TU, ngày 8-12-2016 của Ban Thường vụ Thành
uỷ thành phố Rạch Giá về đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công chức, viên chức
các cấp giai đoạn 2015-2020 và định hướng đến năm 2025.
Những quy định của pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức nói chung, công chức cấp xã nói riêng đã tạo cơ sở pháp lý cao cho các
cơ quan nhà nước, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong hoạt động đào tạo, bồi
dưỡng để trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, phương pháp làm
việc đối với từng đối tượng công chức phù hợp với vị trí chức danh, vị trí việc
làm của từng công chức. Mặt khác, cũng từ những quy định của pháp luật đã
32. 23
xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước; quy định quyền của công
chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng; không những thế việc đào tạo, bồi dưỡng
để nâng cao trình độ còn là trách nhiệm, nghĩa vụ của công chức.
1.3. Sơ lược kinh nghiệm một số nước về đào tạo, bồi dưỡng công
chức
1.3.1. Đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Singapore
Quá trình đào tạo, bồi dưỡng toàn diện công chức tại Singapore gồm
năm công đoạn chính như sau:
- Giới thiệu: Giới thiệu về tổ chức cho các nhân viên mới trong vòng
từ một đến tám tháng khi nhân viên đó mới nhận việc làm. Công đoạn này
được tiến hành không chỉ đối với người mới được tuyển, mà cả cho những
người mới chuyển công tác từ nơi khác sang.
- Cơ bản: Đào tạo người công chức làm việc một cách thích hợp với
công tác của mình. Công đoạn này được tiến hành đối với người được tuyển
dụng trong năm đầu tiên công tác.
- Mở rộng: Tạo điều kiện cho người công chức vượt ra khỏi công việc
của mình, có thể làm những công việc liên quan khi cần đến.
- Tiếp tục: Đào tạo này không chỉ liên quan tới công việc hiện tại của
người công chức, mà nâng cao khả năng làm việc của người đó trong tương
lai.
Năm công đoạn này có liên quan chặt chẽ tới cuộc đời chức nghiệp
của công chức, liên quan đến chỉ định người công chức vào công việc, chứ
không liên quan tới thâm niên công tác. Việc đào tạo được tổ chức theo các
hình thức chính quy hay tại chức (vừa học, vừa làm). Tùy theo yêu cầu của
từng loại đối tượng, có thể có những phần hợp nhất giữa một vài công đoạn,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của cá nhân người công chức. Để làm được như vậy,
Singapore đã và đang tiến hành xác lập kế hoạch phát triển và phương hướng
33. 24
đào tạo, bồi dưỡng cho từng công chức mới vào làm việc.
Bên cạnh đó, Singapore còn rất chú trọng vào việc cử sinh viên đi học
tập tại các nước có nền hành chính hiện đại trên thế giới như Anh, Hoa Kỳ.
Đồng thời, những người học tập xuất sắc tại các trường phổ thông và đại học
được khuyến khích và cấp học bổng học lên cao để sau này phục vụ Nhà
nước.
Về kinh phí đào tạo: Từ năm 1979, Singapore đã xây dựng “Quỷ phát
triển kỹ năng nhằm khuyến khích đào tạo những người đang làm việc và đào
tạo lại những nhân viên dôi ra. Theo đó, mỗi tổ chức sử dụng nhân công đều
phải đóng góp 2% lương tháng cho từng nhân viên có thu nhập từ 1.000 đôla
Singapore trở xuống. Nếu người công chức được đi đào tạo, một phần kinh
phí sẽ do Quỹ này cấp, phần còn lại do nền công vụ trả.
Các cơ sở đào tạo của Singapore bao gồm Học viện Công vụ và Viện
Quản lý Singapore:
- Học viện Công vụ (CSC) được thành lập từ năm 1996, hiện nay bao
gồm Viện Phát triển chính sách, Viện Hành chính công và Quản lý. Ngoài ra
còn thành lập thêm Tổ chức tư vấn công vụ làm công tác tư vấn về chính sách
và thực thi công tác đào tạo, tư vấn về các chương trình giảng dạy. Đây cũng
là đầu mối liên hệ giữa Singapore với các nước về trao đổi kinh nghiệm và
phương thức cải cách khu vực công.
- Viện Quản lý Singapore là nơi tổ chức nhiều chương trình ngắn hạn
để sinh viên tự lựa chọn theo yêu cầu của cá nhân. Các hoạt động này bao
gồm từ cập nhật những kiến thức và lý luận mới về quản lý, cho tới các khóa
học ngắn hạn, tại chức mở tại các công ty theo yêu cầu đặt hàng.
1.3.2. Đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Nhật Bản
Đào tạo bồi dưỡng công chức của Nhật Bản chú trọng nhiều hơn vào
việc tạo điều kiện cho công chức tích luỹ kinh nghiệm. Nếu chỉ dựa vào bằng
34. 25
cấp và kiến thức được học trong nhà trường thì chưa đủ để công chức hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Thực tiễn cho thấy giữa người có bằng cấp cao như bằng
thạc sĩ nhưng không có kinh nghiệm công tác do học thẳng cao học sau tốt
nghiệp đại học và người chỉ có bằng đại học nhưng đã có kinh nghiệm công
tác ở vị trí cần tuyển thì ở Nhật Bản thông thường người có kinh nghiệm sẽ
được chọn. Bởi lẽ sau khi được tuyển dụng, tổ chức có thể tạo điều kiện cho
họ đi học thêm sau. Còn người không có kinh nghiệm dù bằng cấp cao đến
đâu cũng phải tốn thời gian để thích nghi với công việc. Vì vậy, bên cạnh yếu
tố trình độ đào tạo; kinh nghiệm cũng đóng vai trò quyết định đến khả năng
thực thi công vụ của công chức. Nhưng phải làm sao để công chức giàu kinh
nghiệm thật sự. Nếu một người suốt đời chỉ làm công việc ở một vị trí, họ có
thể trở nên thành thạo với công việc đó và được “xem” là có kinh nghiệm.
Nhưng kinh nghiệm của họ chỉ giới hạn chỉ trong công việc đó mà
thôi. Khi có sự biến động trong cơ cấu nhân sự như khi được giao nhiệm vụ
khác hoặc ngay cả khi nhiệm vụ cũ phát sinh những vấn đề mới chưa từng
xảy ra trước đó, họ cũng không có cách giải quyết. Trường hợp này, không
thể được xem là người dầy dạn kinh nghiệm trong công tác.
Ở Nhật Bản để tích luỹ kinh nghiệm, mỗi công chức đều phải trải qua
nhiều giai đoạn làm việc và phải làm ở nhiều cơ quan, nhiều địa phương,
nhiều vị trí công tác khác nhau. Chính nhờ công tác qua nhiều vị trí đảm
nhận, nhiều công việc nên công chức sẽ có khả năng thích ứng cao với mọi vị
trí và điều kiện công tác, có khả năng thực thi công vụ cao, có khả năng tạo
nên sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các bộ phận trong guồng máy nhà
nước.
1.3.3. Đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Hàn Quốc
Ở Hàn Quốc, công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức hướng đến mục
tiêu, trước hết giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, đồng thời đẩy
35. 26
mạnh đào tạo căn bản, toàn diện, nâng cao kiến thức chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp, phong cách làm việc của mỗi công chức.
Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, bên cạnh chú trọng
nâng cao chất lượng các khóa đào tạo dài hạn 9 tháng, Hàn Quốc đẩy mạnh
các khóa bồi dưỡng ngắn hạn nhằm giúp công chức cập nhật kịp thời những
kiến thức và thông tin mới, nâng cao năng lực làm việc và khả năng cạnh
tranh quốc tế.
Nhà nước quy định tất cả công chức của nền công vụ Hàn Quốc phải
thông qua đào tạo cơ bản về ngạch, bậc, chương trình đào tạo đặc biệt trước
khi bổ nhiệm hoặc thăng chức.
Tính ra cứ 5 năm, mỗi công chức ít nhất phải ba lần học tập tại hệ
thống các trường đào tạo, bồi dưỡng công chức mới được xem xét nâng
ngạch, nâng bậc. Luật công chức quy định bắt buộc mọi công chức có nghĩa
vụ học tập, học suốt đời.
Mỗi công chức đều được động viên, khuyến khích tham gia một hình
thức đào tạo nhân cách để phát triển toàn diện, nâng cao ý thức trách nhiệm
về nhiệm vụ với tư cách là một thành viên của hệ thống công vụ. Hình thức
đào tạo nhân cách đặc biệt quan trọng đối với cán bộ lãnh đạo, để nâng cao
khả năng quản lý và lãnh đạo.
1.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Indonesia
Nội dung đào tạo công chức ở Indonesia gồm hai phần chính:
- Đào tạo tiền công vụ: Dành cho tất cả những người sẽ vào làm công
chức nhằm giúp họ hiểu rõ loại hình công việc họ sẽ làm và cách thức làm
việc. Đây là loại hình đào tạo bắt buộc và học viên phải qua một kỳ kiểm tra
cuối khóa. Chỉ khi nào đạt kiểm tra mới được nhận chính thức làm công chức
sau một năm làm việc tại cơ quan.
- Đào tạo qua công việc (tại chức): Nhằm nâng cao kiến thức và nâng
36. 27
cao năng lực của công chức thực thi công việc của mình một cách có hiệu lực,
hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, đây cũng được xem là điều kiện để đề bạt lên các
chức danh quản lý cao hơn.
1.3.5. Đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Pháp
Pháp là một trong những nước có kinh nghiệm về đào tạo, bồi dưỡng
công chức. Việc đào tạo, bồi dưỡng công chức được thực hiện theo hai hình thức:
- Đào tạo ban đầu: Công chức sau khi thi đỗ trong các kỳ thi tuyển,
trước khi được bổ nhiệm chính thức, được gửi đến các trường đào tạo, đi thực
tập một năm. Các trường cung cấp những môn học nhằm hoàn thiện kiến thức
cho công chức. Kiến thức về thực hành dành cho những người đã có bằng cấp
và kiến thức về lý thuyết dành cho những người đã có kinh nghiệm nghề
nghiệp. Nội dung học có tính chất luân phiên giữa lý thuyết và thực hành.
Việc học tập sẽ giúp cho người học làm quen với công việc sau này họ đảm
đương.
- Nâng cao trình độ cho công chức đương nhiệm:
+ Đào tạo liên tục để công chức phù hợp với nghề nghiệp khi thăng
cấp, biệt phái, chuyển công tác,... Chương trình đào tạo được tiến hành trong
thời gian một tuần, hai tuần hoặc thực tập dài hạn nhưng được chia thành
nhiều lần nhằm không làm gián đoạn công việc tại chức của công chức.
+ Đào tạo bắt buộc do yêu cầu của cơ quan quản lý nhằm hoàn thiện
kiến thức của công chức.
Ở Pháp, các trường hành chính đều là trường quốc gia, giữa các
trường chỉ khác nhau về mức độ đào tạo. Trong đó, Trường Hành chính Quốc
gia (HNA - được thành lập từ năm 1946) là một trong những trường danh
tiếng về lĩnh vực đào tạo quản lý hành chính - chủ yếu đào tạo, bồi dưỡng
công chức cho các cơ quan trung ương, những công chức giữ cương vị quản
lý và lãnh đạo. Ngoài ra, Pháp còn có Học viện quốc tế hành chính để đào tạo
37. 28
công chức hành chính cho các nước trên thế giới.
Nội dung, chương trình đào tạo công chức của Pháp được biên soạn
thống nhất dùng cho tất cả các trường.
Các giáo sư giảng dạy trong các trường hành chính đều có học vị cao
và đã kinh qua công tác thực tế quản lý như: Giám đốc, tỉnh trưởng, các chức
vụ quản lý ở các bộ, cơ quan trung ương. Các môn thực hành cũng do những
công chức cao cấp có uy tín và giàu kinh nghiệm huớng dẫn nhằm làm cho
người học có được hiểu biết thực tế và năng lực thực hành.
Phương pháp đào tạo công chức luôn luôn được cải tiến nên đã đạt
hiệu quả rõ rệt, nhất là phương pháp đào tạo theo tình huống và đào tạo theo
phương pháp nhập vai. Đến nay, Pháp đã nâng yêu cầu các học viên sau khi
đào tạo phải chịu trách nhiệm về các tư vấn của mình đối với cơ quan nhà
nước nhà trường có thể giao các đề tài của cơ quan nhà nước cho học viên
nghiên cứu và đề xuất giải pháp. Điều đó đặt ra yêu cầu ở học viên rất cao,
nhưng cũng là phương pháp đào tạo công chức tiên tiến và chuyên nghiệp.
1.3.6. Đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Hoa Kỳ
Ở Hoa Kỳ có bốn loại hình đào tạo, bồi dưỡng công chức:
- Các cơ quan tự đào tạo, bồi dưỡng: Công tác đào tạo, bồi dưỡng
công chức do cơ quan tự tổ chức, giáo trình do các cơ quan tự biên soạn.
- Đào tạo chính quy: Do Hội đồng Công chức chịu trách nhiệm tổ
chức đào tạo công chức cho các ngành thuộc Chính phủ.
- Đào tạo tại chức: Do Hội đồng Công chức hoặc các ngành thuộc
Chính phủ hợp tác với các trường đại học thực hiện. Công chức ngoài thời
gian làm việc sẽ đến các trường đại học nghiên cứu các giáo trình có liên quan
đến công việc ngề nghiệp của mình. Thời gian đào tạo là 6 tháng.
- Bồi dưỡng tại chức: Công chức vừa làm việc, vừa học tập các kiến
thức nghiệp vụ để nâng cao trình độ chuyên môn.
38. 29
Học viện Công chức hành chính liên bang là nơi chuyên bồi dưỡng,
đào tạo công chức hành chính cao cấp của các ngành thuộc Chính phủ và
chính quyền các bang.
Thời gian bồi dưỡng, đào tạo công chức mỗi kỳ là 8 tuần. Mỗi năm tổ
chức 5 kỳ. Các ngành thuộc Chính phủ tổ chức các lớp bồi dưỡng, đào tạo
cho công chức hành chính trung cấp.
Một điểm nổi bật trong công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Hoa
Kỳ là áp dụng hình thức “chế độ bổ túc hợp tác” đối với việc đào tạo, bồi
dưỡng công chức. Hình thức này quy định việc tiến hành đào tạo, bồi dưõng
các chức vị, mỗi chức vị do hai người đảm nhiệm, một người làm việc, người
kia đến trường đại học 6 tháng, cứ như thế thay phiên nhau.
Trong thời gian bổ túc, có trừ một số phần trăm tiền lương. Chế độ bổ
túc hợp tác này đã đạt được nhiều hiệu quả. Kết hợp sử dụng công chức với
nhiều loại hình thức đào tạo: đào tạo chính qui kết hợp với đào tạo tại chức và
hình thức bồi dưỡng, hợp tác đào tạo công chức
1.3.7. Bài học kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã có
thể vận dụng ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu về kinh nghiệm đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ công chức các nước trên thế giới, có thể thấy rằng ở tất cả các quốc gia,
cán bộ, công chức đều được đào tạo bồi dưỡng theo yêu cầu của từng loại
công việc mà Nhà nước cần. Bài học có thể rút ra như sau:
Thứ nhất, việc đào tạo bồi dưỡng được thực hiện theo từng lĩnh vực,
chuyên ngành cụ thể chứ không đào tạo mang tính chất cào bằng và đào tạo,
bồi dưỡng công chức của các nước trên thế giới bao giờ cũng được thực hiện
trên cơ sở kế hoạch, quy hoạch cụ thể.
Thứ hai, chương trình và nội dung đào tạo, bồi dưỡng là yêu cầu bắt
buộc và được sử dụng chung cho mọi đối tượng công chức theo ngạch, bậc và
39. 30
chức danh. Trên cơ sở chương trình khung của Chính phủ, các Bộ, ngành và
chính quyền địa phương được bổ sung, cập nhật cho sát với thực tiễn ở Bộ,
ngành và địa phương trong từng giai đoạn.
Thứ ba, công chức được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên và có bổ
sung nội dung, cập nhật kiến thức trong từng giai đoạn cụ thể, theo hướng bổ
sung hàng năm khi đã tích lũy đủ kiến thức theo ngạch, bậc trong bộ máy.
Phương pháp giảng dạy theo hướng đổi mới hạn chế tính lý thuyết, tăng
cường nghiên cứu và phân tích tình huống và lấy người học làm trung tâm,
tạo cơ hội gợi mở cho học viên tự nghiên cứu, nâng cao lý luận và rèn luyện
các kỹ năng, năng cao nâng lực của các kỹ năng mềm trong công tác giả
quyết công việc hàng ngày và trực tiếp cho người dân.
Thứ tư, Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng được trang bị cơ sở vật chất, các
phương tiện, máy móc, thiết bị giảng dạy hiện đại, đảm bảo cung cấp đầy đủ
các tài liệu, giáo trình, sách chuyên khảo và các công trình khoa học đã công
bố làm tài liệu tham khảo cho người học.
Có thể nói rằng kinh nghiệm của một số nước vừa nêu trên, có thể rút
ra những bài học quí giá đối với Việt Nam nói chung và thành phố Rạch Giá,
tỉnh Kiên Giang nói riêng trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
đặc biệt là công chức cấp xã trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, hội nhập quốc tế ngày nay.
40. 31
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1, luận văn tập trung trình bày cơ sở lý luận và pháp lý
về đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã; hệ thống làm rõ khung lý thuyết bao
gồm: những vấn đề chung về công chức cấp xã; đào tạo, bồi dưỡng công chức
cấp xã; cơ sở pháp lý của việc đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã; kinh
nghiệm một số nước về đào tạo, bồi dưỡng công chức và bài học có thể áp
dụng cho thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Khung lý thuyết trong Chương 1 là cơ sở cho việc phân tích, đánh giá
thực trạng đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Rạch
Giá, tỉnh Kiên Giang trong chương 2.
41. 32
Chương 2:
THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng
công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên
Thành phố ạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang được thành lập theo Nghị
định số 97/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 07 năm 2005 của Chính phủ. Thành
phố Rạch Giá ở vị trí trung tâm của tỉnh Kiên Giang, phía Tây Bắc giáp huyện
Hòn Đất, phía Đông Bắc giáp huyện Tân Hiệp, phía Đông Nam giáp huyện
Châu Thành, phía Tây Nam giáp Biển Tây.
Thành phố Rạch Giá là trung tâm hành chính, kinh tế, văn hóa, chính
trị của tỉnh Kiên Giang và là một trong các trung tâm kinh tế, chính trị của
vùng đồng bằng sông Cửu Long; Phía Tây Bắc là Khu công nghiệp Kiên
Lương, Khu kinh tế cửa khẩu Hà Tiên, về phía Đông - Đông Nam là vùng lúa
cao sản Tân Hiệp - Giồng Riềng - Gò Quao và Khu công nghiệp, cảng cá Tắc
Cậu, phía Tây là vùng biển đảo Phú Quốc, Kiên Hải; thành phố cũng là đầu
mối giao thông, giao lưu của tỉnh và của vùng. Quốc lộ 80, Quốc lộ 61, đường
hành lang ven biển đi qua thành phố; sân bay Rạch Giá nối Kiên Giang với
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Cần Thơ, đảo Phú Quốc, kết nối Nam
Bộ và cả nước, hệ thống đường thủy đi Phú Quốc (bằng tàu cao tốc) và đi Cà
Mau, Kiên Lương… có hai bến xe cấp Vùng là Bến xe Kiên Giang (khánh
thành tháng 05 năm 2012) và bến xe Rạch Giá có các tuyến đi Thành phố Hồ
Chí Minh, Cần Thơ, Long Xuyên, Cà Mau, Đà Lạt, Bà Rịa - Vũng Tàu và các
huyện, thị xã trong toàn tỉnh.
Địa hình: Toàn bộ thành phố nằm trong khu vực đồng bằng, địa hình
bằng phẳng có độ cao trung bình từ 0,22m - 0,4m (so với mặt nước biển),
42. 33
thấp dần về phía Tây Nam. Đây là lợi thế về phát triển diện tích đất cho sản
xuất và xây dựng, nhưng cũng dễ bị nhiễm mặn và thường bị úng ngập về
mùa mưa lũ.
Khí hậu: Thành phố Rạch Giá nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa,
nóng ẩm quanh năm, hình thành hai mùa khô và mùa mưa. Mùa mưa kéo dài
từ tháng 04 đến tháng 11, mưa nhiều nhất vào tháng 08 và mưa ít nhất vào
tháng 02, lượng mưa trung bình hằng năm 1.600 - 2.000mm. Nhiệt độ trung
bình hằng năm từ 27,00 - 27,50
C, số giờ nắng trong năm 2.400 giờ.
Tài nguyên nước và mặt nước: Nước mặt của thành phố Rạch Giá từ
các nguồn: Kênh Cái Sắn: Chiều rộng 50m, chiều dài 60km, lưu lượng mùa
kiệt 13,10 m3
/giờ (tại Rạch Sỏi), lưu lượng mùa mưa 100m3
/giờ; Kênh Rạch
Giá - Long Xuyên: Chiều rộng 50m, chiều dài 65km, lưu lượng kiệt
22,3m3
/giây, lưu lượng mùa mưa 125m3
/giây; Nguồn nước ngầm: Nguồn
nước ngầm bị hạn chế, thường bị nhiễm mặn, từ năm 1975 ạch Giá có khoan
21 giếng khoan để lấy nước ngầm với chiều sâu từ 80 - 125 m, công suất khai
thác 60 - 90m3
/giờ, xử lý và cấp nước sản xuất, sinh hoạt cho thành phố.
Thành phố Rạch Giá tiếp giáp vùng biển Tây với chiều dài 14,5 km và
diện tích mặt biển 63.290 km2
, vùng biển đảo rộng, kín gió là ngư trường lớn
trong khu vực với nguồn tài nguyên thủy sản, thủy sinh dồi dào thuận lợi cho
việc nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản, cho phát triển du lịch và dịch vụ nghề
cá, dịch vụ du lịch - thương mại.
2.1.2. Về điều kiện kinh tế - xã hội
Thành phố Rạch Giá được công nhận là đô thị loại II năm 2014 và
được thành lập thành phố năm 2005, sau 10 năm xây dựng và phát triển,
thành phố đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội
và xây dựng hạ tầng đô thị, diện mạo thành phố ngày một khang trang và hiện
đại.
43. 34
Chiến lược phát triển hệ thống đô thị ven biển và xây dựng hành lang
kinh tế ven biển vịnh Thái Lan, Chương trình nâng cấp đô thị quốc gia Việt
Nam giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2020; Chiến lược phát triển vùng kinh tế
trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 và tầm nhìn đến
năm 2050 của Chính phủ và Quy hoạch xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu
Long đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050; chủ trương phát triển kinh tế-
xã hội, bảo vệ an ninh chủ quyền lãnh thổ, vùng biển của Quốc gia đã được
xác định tại Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang
thời kỳ đến 2020, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố
Rạch Giá giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân giai đoạn 2010-2015 đạt
15,1%, tăng 0,85% so nhiệm kỳ trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ từ 69,52% năm 2010 lên 78,46% năm
2015, giảm công nghiệp - xây dựng từ 17,74% năm 2010 còn 13,45%, nông
nghiệp từ 12,74% năm 2010 còn 8,09%. Thu nhập bình quân đầu người năm
2015 đạt 69,51 triệu đồng (tương đương 3.278 USD), gấp 2,3 lần so năm
2010. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 25.244 tỷ đồng và tăng 3,15 lần.
- Ngành dịch vụ: Được xác định là ngành chủ lực và thế mạnh, đóng
góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu
GDP của thành phố. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội
hằng năm đạt 19.739 tỷ đồng và tăng bình quân 23%/năm, tăng 2,28 lần so
với năm 2010. Hệ thống chợ, siêu thị được đầu tư xây dựng, nâng cấp và khai
thác có hiệu quả, cơ bản đáp ứng nhu cầu mua, bán của nhân dân, giữ vai trò
là đầu mối giao thương hàng hóa với các nơi trong và ngoài tỉnh, trong đó
riêng hệ thống siêu thị có Co.op Mart Rạch Sỏi và Rạch Giá, Metro, City
Mart. Các loại hình dịch vụ phát triển mạnh về số lượng, quy mô và nâng cao
chất lượng phục vụ, bình quân hằng năm thu hút 1,4 triệu lượt khách du lịch.
44. 35
- Công nghiệp - xây dựng: Giá trị sản xuất bình quân hằng năm giai
đoạn 2010-2015 đạt 3.700 tỷ đồng, tăng bình quân 8,5%/năm, tăng 1,18 lần so
năm 2010. Các ngành đạt mức tăng trưởng khá như: Công nghiệp chế biến
nông-thủy sản; cơ khí; đóng, sửa tàu thuyền; sản xuất nước mắm; công nghiệp
chế biến hàng tiêu dùng; thủ công mỹ nghệ. Bằng nhiều nguồn vốn đã tập
trung đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm và hệ thống điện trung thế,
hạ thế và giao thông liên tỉnh, giao thông trong nội ô Thành phố.
- Nông nghiệp: Sản lượng lúa bình quân hằng năm đạt 72 ngàn tấn, giá
trị sản xuất đất nông nghiệp đạt 76,11 triệu đồng/ha/năm. Giá trị sản xuất
nông nghiệp bình quân hằng năm 416,8 tỷ đồng, tăng 5%/năm. Giá trị sản
xuất thủy - hải sản bình quân hằng năm 3.457 tỷ đồng, tăng 7,39%/năm; sản
lượng khai thác hải sản bình quân đạt 198,56 ngàn tấn/năm, tăng 1,26 lần;
tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản bình quân hằng năm đạt 796 tấn, tăng 1,68
lần so với năm 2010. Tập trung lãnh đạo chỉ đạo tổ chức thực hiện Chương
trình xây dựng nông thôn mới, đến năm 2015 xã Phi Thông được công nhận
xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, tăng 1,16 lần so với nhiệm kỳ trước.
Quan tâm củng cố kiện toàn, nâng lên chất lượng hoạt động kinh tế tập thể;
hợp tác nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả; liên doanh, liên kết với các
doanh nghiệp để bao tiêu các mặt hàng nông, hải sản.
- Tổng thu ngân sách 5 năm được 2.845 tỷ đồng, đạt 115% chỉ tiêu
tỉnh giao, tăng 2,2 lần, bình quân tăng 15%/năm. Chi ngân sách 5 năm 2.427
tỷ đồng, tăng 2,7 lần so, bình quân tăng 17%/năm.
- Công tác quản lý đô thị được tăng cường, đi đôi với thực hiện tốt
công tác lập, điều chỉnh quy hoạch và quản lý xây dựng theo quy hoạch. Tập
trung nguồn lực đầu tư cho phát triển đô thị, có chuyển biến trên nhiều mặt,
một số khu đô thị, khu dân cư mới được hình thành theo hướng văn minh,
45. 36
hiện đại, qua đó góp phần tạo vẻ mỹ quan đô thị, thành phố ngày càng xanh-
sạch-đẹp.
- Tập trung lãnh đạo thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, chăm lo
gia đình chính sách. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 1,5% năm 2010 còn 0,6% năm
2015; tỷ lệ hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia đạt 100%, sử dụng nước
sạch và hợp vệ sinh đạt 98,14%. Thực hiện tốt việc cấp, hỗ trợ thẻ bảo hiểm y
tế cho gia đình chính sách, đối tượng bảo trợ xã hội, trẻ em dưới 6 tuổi; tỷ lệ
lao động qua đào tạo đạt 54,62%; bình quân hằng năm giới thiệu và giải quyết
việc làm cho trên 6.400 lượt lao động, trong đó giải quyết việc làm 4.180 lao động.
Trong tình hình hiện nay, thành phố Rạch Giá đặt ra yêu cầu phải đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đặc biệt là công chức cấp xã nhằm đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng bền vững đáp
ứng tình hình thực tế ở địa phương.
2.2. Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã trên địa bàn thành phố
Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
2.2.1. Đặc điểm công chức cấp xã ở thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên
Giang
Từ khi Luật Cán bộ, Công chức ra đời năm 2008 và có hiệu lực thi
hành vào năm 2010, đây chính là cơ sở pháp lý vững chắc cho công chức cấp
xã hoạt động, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho
các địa phương xây dựng, củng cố việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức
cấp xã theo tiêu chuẩn chức danh đã được quy định. Thực hiện quy định của
pháp luật về số lượng các chức danh, chế độ chính sách đối với công chức ở
xã, phường thị trấn, Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang ban hành Quyết định số
16/2010/QĐ-UBND về số lượng công chức cụ thể ở địa phương như sau:
Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
1. Trưởng Công an;
46. 37
2. Chỉ huy trưởng Quân sự;
3. Văn phòng - Thống kê - Kế hoạch;
4. Địa chính - Xây dựng - Đô thị và Môi trường (đối với phường, thị
trấn) hoặc Địa chính - Nông nghiệp - Xây dựng và Môi trường (đối với xã);
5. Tài chính - Kế toán;
6. Tư pháp - Hộ tịch;
7. Văn hóa - Xã hội.
Số lượng cán bộ, công chức
Số lượng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn được bố trí theo loại
đơn vị hành chính cấp xã, cụ thể như sau:
1. Xã, phường, thị trấn loại 1: không quá 25 người;
2. Xã, phường, thị trấn loại 2: không quá 23 người;
3. Xã, phường, thị trấn loại 3: không quá 21 người.
- Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ của địa phương và trình độ, năng lực của
cán bộ, công chức mà bố trí cán bộ kiêm nhiệm và bố trí những chức danh
công chức tăng thêm người đảm nhiệm, đảm bảo các lĩnh vực công tác và
nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp xã đều có người phụ trách và chịu trách
nhiệm. Đối với cán bộ cấp xã bố trí tối đa không quá 12 cán bộ (phường
không quá 10 cán bộ). Riêng chức danh Văn hóa - Xã hội được bố trí ít nhất
02 người để bảo đảm có công chức chuyên trách theo dõi về Lao động -
Thương binh và Xã hội, chức danh Địa chính - Xây dựng - Đô thị và Môi
trường (đối với phường, thị trấn) hoặc Địa chính - Nông nghiệp - Xây dựng
và Môi trường (đối với xã) được bố trí 02 người để đảm bảo có công chức
chuyên trách theo dõi về Nông nghiệp, Xây dựng nông thôn mới. Số công
chức còn lại ưu tiên bố trí thêm cho các chức danh Tư pháp - Hộ tịch, Văn
phòng - Thống kê, Tài chính - Kế toán.
- Những chức danh công chức có từ 02 người đảm nhiệm trở lên, khi
47. 38
ghi hồ sơ lý lịch và sổ bảo hiểm xã hội cần thống nhất theo đúng tên gọi của
các chức danh công chức đã quy định tại Luật Cán bộ, công chức và Nghị
định số 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ.
Với cách bố trí số lượng công chức như vậy, Ủy ban nhân dân tỉnh
Kiên Giang đã tạo điều kiện cho chính quyền địa phương giải quyết côngviệc
chuyên môn thuận lợi.
Thành phố Rạch Giá hiện nay có 11 phường và 01 xã, với đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã là 225 người, gồm cán bộ chuyên trách 124 người, công
chức cấp xã 131 người.
Theo thời gian, số lượng công chức cấp xã có sự phát triển nhanh đáp
ứng được nhu cầu giải quyết công việc chuyên môn hằng ngày của chính
quyền cấp xã. Tuy nhiên, so với số lượng phường, xã ở thành phố Rạch Giá
hiện nay, số lượng công chức như vậy là còn thiếu, một số phường, xã chưa
đáp ứng đủ số lượng công chức theo quy định, một số chức danh chỉ có một
công chức đảm nhận. Trong số 131 công chức xã có 58 người là nữ, đạt tỷ lệ
44,27 %.
Về độ tuổi:
+ Trên 45 tuổi: 20 người, tỉ lệ 15,26%.
+ Dưới 45 tuổi tuổi: 111 người, tỉ lệ 84,73%.
Với cơ cấu độ tuổi của đội ngũ công chức cấp xã ở thành phố Rạch
Giá như vậy là phù hợp, đội ngũ công chức trẻ khá đông, với khả năng tiếp
thu nhanh tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ, kinh nghiệm, sự hiểu biết đáp ứng được nhu cầu công việc chuyên môn ở
địa phương.
48. 39
Về trình độ văn hóa:
Bảng 2.1. Bảng thống kê trình độ văn hóa
Trình độ văn hóa Số lượng (người) Tỷ lệ %
Tốt nghiệp trung học phổ thông 131 100 %
Chưa tốt nghiệp trung học phổ thông 0 0 %
(Nguồn : Phòng Nội vụ thành phố Rạch Giá)
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu trình độ văn hóa
(Nguồn : Phòng Nội vụ thành phố Rạch Giá)
Về trình độ văn hóa của đội ngũ công chức cấp xã ở thành phố Rạch
Giá ngày càng được củng cố phù hợp quy định của Bộ Nội vụ về tiêu chuẩn
của công chức cấp xã.
Đối chiếu với Quyết định 04/QĐ-BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày
16/01/2004, số lượng công chức đạt tiêu chuẩn hiện nay có 131 người chiếm
tỷ lệ 100%.
Như vậy trình độ văn hóa công chức cấp xã ngày càng được nâng cao
đáp ứng được yêu cầu công việc chuyên môn và quy định của Bộ Nội vụ.
0
20
40
60
80
100
120
140
Số lượng Tỉ lệ %
Tốt nghiệp trung học phổ
thông
Chưa tốt nghiệp trung
học phổ thông
49. 40
Về trình độ chuyên môn:
Bảng 2.2. Bảng thống kê trình độ chuyên môn (2015)
Trình độ chuyên môn Số lượng (người) Tỷ lệ %
Đại học 31 23,66 %
Cao đẳng 13 9,92 %
Trung cấp 15 11,45 %
Đang học chuyên môn 72 54,96 %
(Nguồn Phòng Nội vụ thành phố Rạch Giá)
Biểu 2.2. Cơ cấu trình độ chuyên môn
(Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Rạch Giá)
Theo số liệu thống kê như trên, hiện nay số lượng công chức đạt
chuẩn là 59 người, chiếm tỷ lệ 45,03 % (Theo quy định của Bộ Nội vụ, công
chức cấp xã phải có trình độ chuyên môn đạt từ trung cấp trở lên). Như vậy,
theo thời gian trình độ chuyên môn của công chức cấp xã ngày càng được
nâng cao đáp ứng được yêu cầu công việc. Trong số công chức đạt chuẩn có
có 31 người có trình độ đại học chiếm 23,66%, đối với chính quyền cấp xã
0
10
20
30
40
50
60
70
80
Số lượng Tỉ lệ %
Đại học
Cao đẳng
Trung cấp
Đang học chuyên môn
50. 41
đây là nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, góp phần tham gia giải
quyết công việc một cách nhanh chóng, chính xác phù hợp chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Hiện nay còn 72 công chức
chưa đạt chuẩn, so với tổng số công chức cấp xã ở thành phố Rạch Giá, đây là
số lượng không nhỏ, tuy nhiên, những công chức này đa số là công chức trẻ
nên cũng đang được quan tâm đưa đi đào tạo chuyên môn góp phần tăng
cường chất lượng đội ngũ công chức xã.
Về trình độ lý luận chính trị:
Bảng 2.3. Bảng thống kê trình độ lý luận chính trị
Trình độ lý luận chính trị Số lượng (người) Tỷ lệ %
Cao cấp 2 1,52%
Trung cấp 49 37,40%
Sơ cấp 7 5,34%
Còn lại 73 55,72%
(Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Rạch Giá)
Theo quy định của Bộ Nội vụ, trình độ lý luận chính trị của công chức
cấp xã từ phải đạt chuẩn từ trung cấp trở lên. Theo số liệu thống kê cho thấy,
số người đạt chuẩn là 51 người đạt tỷ lệ: 38,93%.Như vậy, trình độ lý luận
chính trị của công chức xã được nâng cao, nhưng không nhiều, hiện nay chỉ
có 5,34% số lượng công chức cấp xã được bồi dưỡng lý luận chính trị, còn 73
công chức chưa đạt chuẩn chiếm tỷ lệ 55,72%, chiếm gần phân nửa tổng số
công chức cấp xã, đây là con số rất lớn, có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động
của chính quyền cấp xã. Do vậy, trong thời gian tới, Nhà nước, chính quyền
cấp xã, cần quan tâm tạo điều kiện cho những người này được đào tạo trình
độ lý luận chính trị cho phù hợp với yêu cầu của Nhà nước cũng như có đủ
khả năng thực hiện công việc chuyên môn hoàn thành nhiệm vụ của mình.
51. 42
Về trình độ quản lý nhà nước:
Bảng 2.4. Bảng thống kê trình độ quản lý nhà nước
Trình độ quản lý nhà nước Số lượng (người) Tỷ lệ %
Đã qua bồi dưỡng 86 65,64%
Chưa qua bồi dưỡng 45 34,36 %
(Nguồn : Phòng Nội vụ thành phố Rạch Giá)
Như vậy, trình độ quản lý nhà nước của công chức cấp xã cũng được
nâng cao, hiện nay có 86 công chức đạt chuẩn chiếm tỷ lệ 56,64%. Tuy nhiên,
hiện nay còn 45 công chức chưa đạt chuẩn chiếm tỷ lệ 34,36%, đây là con số
rất lớn, những công chức này chưa thể đáp ứng được yêu cầu về kiến thức
quản lý nhà nước. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền, chính quyền địa
phương cần quan tâm bồi dưỡng để có thể đáp ứng yêu cầu chung do Bộ Nội
vụ đặt ra.
Về trình độ ngoại ngữ:
Bảng 2.5. Bảng thống kê trình độ ngoại ngữ
Trình độ ngoại ngữ
Số lượng
(người)
Tỷ lệ %
Sử dụng được 55 41,98%
Không sử dụng được 76 58,02%
(Nguồn: Phòng Nội vụ thành phố Rạch Giá)
Biểu 2.5. Cơ cấu trình độ ngoại ngữ
Sử dụng được