SlideShare a Scribd company logo
1 of 78
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐOÀN QUANG HUY
BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU,
THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐOÀN QUANG HUY
BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU,
THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG)
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Quốc Toản
Hà Nội - 2015
3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được sự động viên, giúp
đỡ của rất nhiều cá nhân và tập thể. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đến PGS.TS. Trịnh Quốc Toản người đã tận tâm hướng dẫn tôi thực hiện
quá trình nghiên cứu luận văn của mình.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các quý thầy cô giáo, người đã
đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm học
vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo,
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Cục Điều tra - Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, … đã tạo điều kiện tốt
nhất cho tôi trong quá trình học tập và viết luận văn này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2015
Học viên
Đoàn Quang Huy
4
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đoàn Quang Huy
5
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................7
CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TRẬT TỰ
QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ................................12
1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước và sự cần thiết của
quản lý Nhà nước về kinh tế.........................................................................12
1.1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước.................................. 12
1.1.2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế .....................................13
1.1.3. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý về kinh
tế..................................................................................................................17
1.1.4. Đối tượng, nội dung và công cụ quản lý nhà nước về kinh tế..............20
1.1.5. Các công cụ quản lý Nhà nước về kinh tế...........................................22
1.2. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế Nhà nước bằng chế tài hình sự là đòi
hỏi khách quan .............................................................................................28
1.3. Các dấu hiệu pháp lý chung và đường lối xử lý đối với các hành vi
xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế.......................................29
1.3.1. Khái niệm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ........................30
1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý của nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế .30
CHƯƠNG II :CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
VỀ CÁC HÀNH VI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ
NƯỚC VỀ KINH TẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2009 ĐẾN NĂM 2014.......................33
2.1. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng các pháp luật hình sự từ sau khi
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự
năm 1999 .....................................................................................................33
6
2.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước năm 1985..........................................33
2.1.2. Thời kỳ từ năm 1985 đến năm 1999 ...................................................38
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về các hành vi
xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế ở thành phố Đà Nẵng
từ năm 2009 đến năm 2014 ..........................................................................40
2.2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng........41
2.2.2. Tình hình xử lý các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến 2014 ......................................42
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định của Bộ luật Hình
sự bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế và nguyên nhân của nó..........53
2.3.1. Tồn tại và hạn chế ..............................................................................53
2.3.2. Nguyên nhân ......................................................................................57
CHƯƠNG III: NHU CẦU, QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CHẾ TÀI HÌNH SỰ
ĐỂ BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ................59
3.1. Nhu cầu và quan điểm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế
tài hình sự để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế .............................59
3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để
bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế. ..................................................59
3.1.2. Quan điểm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài hình sự
để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế...............................................61
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về các
hành vi xâm phạm trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế.................................63
3.3. Một số giải pháp khác tăng cường hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để
bảo vệ trật tự quản lý nhà nước về kinh tế:...................................................70
KẾT LUẬN.................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................76
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước sự hội nhập, phát triển sâu rộng của nền kinh tế đất nước ta với
nền kinh tế thế giới, đã mở ra cho đất nước những thời cơ, thuận lợi để phát
triển và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, hướng tới mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nền kinh tế đã có
sự chuyển đổi mạnh mẽ với các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển đa dạng,
phong phú. Bên cạnh đó, sự quản lý của Nhà nước về kinh tế ở tầm vĩ mô
nhằm ổn định nền kinh tế, tạo môi trường lành mạnh cho các quan hệ kinh tế
phát triển cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức do mặt trái của nền kinh tế thị
trường đem lại. Tính chất vi phạm, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý của
Nhà nước về kinh tế diễn biến phức tạp, với phương thức, thủ đoạn, tính chất
ngày càng tinh vi, sử dụng công nghệ cao, hình thành tổ chức xuyên quốc
gia…vv, đã và đang đe dọa gây mất ổn định nền kinh tế đất nước.
Pháp luật hình sự đóng vai trò hết sức quan trọng, là một trong những
công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước ta để đấu tranh, phòng ngừa tội phạm
nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng. Tuy nhiên,
hiện nay các quy định của pháp luật hình sự còn chưa được hoàn thiện, thực
tiễn áp dụng thì hiệu lực, hiệu quả và tính đồng bộ chưa cao, chưa đáp ứng
kịp thời với đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và yêu
cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
Thành phố Đà Nẵng với vị trí vùng kinh tế trung tâm, đầu mối giao
thông trọng yếu của khu vực Miền trung và Tây nguyên đã và đang có những
sự đổi thay, phát triển mạnh mẽ về kinh tế cùng với nền kinh tế đất nước. Tội
phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn cũng diễn biến phức tạp,
có chiều hướng gia tăng. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn, đây là cơ sở quan trọng để nghiên
8
cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự để bảo vệ trật tự quản lý
của Nhà nước về kinh tế.
Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về
kinh tế còn diễn biến phức tạp trong thời gian tới, đặt ra vấn đề cấp thiết cần
phải hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự để tạo hành lang pháp lý quan
trọng nhằm bảo vệ trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế. Xuất phát từ
những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng
pháp luật hình sự (trên cơ sở số liệu, thực tiễn địa bàn thành phố Đà
Nẵng).” làm luận văn Thạc sĩ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo vệ trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế bằng pháp luật
hình sự, theo tìm hiểu của cá nhân đã được một số tác giả nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau nhưng chủ yếu là dưới góc độ tội phạm học hoặc
Luật Hình sự, chưa có công trình hoặc Luận văn, Luận án nào nghiên cứu
dưới góc độ của chuyên ngành Luật Kinh tế, đây cũng chính là những khó
khăn và thuận lợi của tác giả khi chọn đề tài này làm Luận văn Thạc sĩ.
Về tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận văn được sắp xếp như sau:
- Hệ thống sách, Giáo trình quản lý của Nhà nước về kinh tế; Giáo
trình, Bình luận khoa học Luật Hình sự như: “Giáo trình quản lý Nhà nước về
kinh tế” của trường Đại học Kinh tế quốc dân do GS.TS Đỗ Hoàng Toàn và
PGS.TS Mai Văn Bưu chủ biên; Sách “Lịch sử Luật Hình sự Việt Nam” do
Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2002; “Giáo trình Luật Hình
sự Việt Nam” của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Sách “Bình luận
khoa học BLHS Việt Nam năm 1999” của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp
lý, Bộ Tư pháp; “Bình luận khoa học BLHS, phần các tội phạm”, tập VI, các
tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, của tác giả Đinh Văn Quế. Đề
cương giáo trình “Đặc điểm tội phạm học của tội phạm về trật tự quản lý kinh
9
tế, chức vụ và giải pháp phòng chống” của TS. Phạm Quang Phúc (Đào tạo
cao học - Chuyên ngành Tội phạm học và Điều tra tội phạm) năm 2005.
- Luận án Tiến sĩ “Tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi
hình sự hóa những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương; Luận án Tiến
sĩ của tác giả Bùi Minh Thanh: “Vi phạm pháp luật và đấu tranh chống vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay” (năm 2003);
Luận án Tiến sĩ của tác giả Mai Thế Bày: “Đấu tranh phòng chống các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” (năm 2006). Những công trình này nghiên
cứu về chính sách hình sự hoặc nghiên cứu các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế chủ yếu dưới góc độ Tội phạm học và Luật Hình sự.
- Các công trình nghiên cứu thể hiện qua những bài viết trên các Tạp
chí chuyên ngành, Hội thảo, các số chuyên đề như: Tài liệu hội thảo “Một số
kinh nghiệm rút ra qua công tác giải quyết án kinh tế - chức vụ ở cấp phúc
thẩm” Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (8/2012), “Một số vấn đề về hình sự
hóa, phi hình sự hóa các hành vi phạm pháp trên lĩnh vực kinh tế trong chính
sách hình sự hiện nay” của GS.TS Hồ Trọng Ngũ - UVTT Uỷ ban Quốc
phòng An ninh của Quốc hội; “Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế trước yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Ngọc Trí - Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Tạp chí Dân chủ và Pháp luật “Dự án Bộ luật
Hình sự (sửa đổi) nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới”…
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu nhận thức chung về quản lý của Nhà nước về
kinh tế và chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta về tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế qua các thời kỳ lịch sử; thực tiễn đấu tranh, xử lý
tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
10
Từ đó, Luận văn làm rõ những tồn tại, hạn chế và đề xuất, kiến nghị một số
giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự bảo vệ trật tự quản lý
của Nhà nước ta về kinh tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế, chính sách
hình sự về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế qua các thời kỳ lịch sử
lập pháp và thực trạng đấu tranh, xử lý tội phạm xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng trong 05 năm trở lại đây (từ năm 2009 đến 2014).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật,
những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong Chính sách hình sự
về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế nói riêng; sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh, …
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng
pháp luật hình sự.
Chương 2: Các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội xâm
phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế và thực tiễn áp dụng trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến năm 2014.
11
Chương 3: Nhu cầu, quan điểm và các giải pháp hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự để bảo vệ trật tự quản lý nhà nước về kinh
tế.
12
CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TRẬT TỰ
QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước và sự cần thiết của
quản lý Nhà nước về kinh tế
1.1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước
Trước hết có thể hiểu trật tự là tình trạng ổn định, có thứ bậc trên dưới,
trước sau... [19, tr.16]. Quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân
(hoặc vắn tắt là quản lý Nhà nước về kinh tế) là sự tác động có tổ chức và
bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có
hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có,
đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra, trong điều kiện hội
nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Quản lý kinh tế là nội dung cốt lõi của
quản lý xã hội nói chung và nó phải gắn chặt với các hoạt động quản lý khác
của xã hội. Quản lý nhà nước về kinh tế được thể hiện thông qua các chức
năng kinh tế và quản lý kinh tế của Nhà nước [25, tr.21]. Theo nghĩa rộng,
quản lý Nhà nước về kinh tế được thực hiện qua ba cơ quan hành pháp, lập
pháp và tư pháp của Nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước về kinh tế
được hiểu như hoạt động quản lý kinh tế có tính chất nhà nước nhằm điều
hành nền kinh tế, được điều hành bởi cơ quan hành hành pháp là Chính phủ
[18, tr.51].
Từ các khái niệm nêu trên, thấy rằng Nhà nước quản lý về kinh tế để
đảm bảo nền kinh tế, các quan hệ kinh tế phát triển ổn định theo đúng định
hướng và theo trật tự do Nhà nước đặt ra. Bản chất của quản lý Nhà nước về
kinh tế là đặc trưng thể chế chính trị của đất nước, sự đặc trưng này thể hiện
rõ tính giai cấp của Nhà nước. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đây là
mối quan hệ có tính biện chứng V.I. Lê-nin đã rút ra nguyên lý về mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị: "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.
13
Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế" [31, tr 311 –
312]. Từ đó cho thấy, đường lối, chính sách phải phản ánh được nhu cầu và
quy luật kinh tế; chỉ trong điều kiện đó, chính trị mới lãnh đạo, quản lý kinh
tế có hiệu quả, mới giữ được vai trò chính trị.
“Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế
hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường.
Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ động
điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị
trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường” [10]. Như vậy,
Nhà nước chỉ quản lý về kinh tế trên tầm vĩ mô, giải quyết những quan hệ vĩ
mô liên quan đến toàn bộ nền kinh tế, mà không can thiệp vào công việc nội
bộ của doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh.
Tóm lại, sự quản lý của Nhà nước về kinh tế đóng vai trò quan trọng,
quyết định sự tồn tại và phát triển của một quốc gia. Trong mỗi giai đoạn lịch
sử nhất định thì Nhà nước luôn có sự điều chỉnh, thay đổi về chính sách,
đường lối trong hoạt động quản lý về kinh tế nhằm đảm bảo phù hợp với khả
năng, điều kiện của đất nước và xu thế chung của thế giới. Bên cạnh đó để
đảm đảm bảo sự ổn định, có trật tự của nền kinh tế thì Nhà nước cũng đặt ra
những chế tài nghiêm khắc để trừng trị, răn đe những hành vi xâm phạm trật
tự quản lý về kinh tế. Tùy theo mức độ của hành vi xâm phạm thì sẽ có những
chế tài khác nhau. Đối với những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có
mức độ nguy hiểm cao thì pháp luật hình sự sẽ điều chỉnh và sẽ bị cho là tội
phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
1.1.2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế
Nhà nước cũng như pháp luật là những hiện tượng có tính lịch sử. Nó
chỉ ra đời và tồn tại trong những giai đoạn lịch sử xã hội nhất định. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất và năng xuất lao động xã hội làm xuất hiện chế
14
độ tư hữu và xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng không thể điều hòa
được, thì Nhà nước ra đời. Nhà nước đặt các quy tắc xử sự mới thể hiện ý chí
của giai cấp thống trị thay cho tập tục lạc hậu và thừa nhận các quy tắc tập
quán còn phù hợp để nâng lên thành luật để điều hành cá c quan hệ xã hội
[25, tr.10].
Nhà nước quản lý kinh tế là một xu hướng tất yếu của bất kỳ quốc gia
nào trên thế giới, vì đất nước muốn phát triển, muốn đi lên tất yếu là phải đi
từ kinh tế, phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu để phát triển đất nước, để
nền kinh tế đi đúng hướng và phát triển thì phải có sự quản lý của Nhà nước.
Sự cần thiết Nhà nước phải quản lý về kinh tế thể hiện ở những lý do sau:
Thứ nhất, Kinh tế là lĩnh vực hoạt động xã hội chứa đựng mâu thuẫn
giai cấp trực tiếp và sâu sắc nhất:
V.I.Lê-nin khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng
nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được, thì Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của Nhà nước chứng tỏ
rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được” [29, tr 9]. Giai
cấp được phân hoá và hình thành trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực này thì
mâu thuẫn luôn gay gắt vì đây là mối quan hệ có tính lợi ích và bóc lột, khi
mâu thuẫn này đến đỉnh điểm thì sẽ xảy ra sự đấu tranh bằng bạo lực, gây mất
ổn định kinh tế, xã hội và đất nước.
Nhà nước về bản chất “chỉ là một tổ chức thống trị của một giai cấp”
[30, tr 303 ] và “bất cứ Nhà nước nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này
trấn áp giai cấp khác” [31, tr 122]. Nhưng Nhà nước ta, với bản chất là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, vì vậy bảo vệ tính giai cấp của Nhà nước -
chính là bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân lao động, xóa bỏ sự áp bức, bóc
15
lột, Nhà nước phải can thiệp vào lĩnh vực kinh tế để giải quyết và điều hòa
các mâu thuẫn lợi ích về kinh tế giữa chủ - thợ, qua đó Nhà nước góp phần ổn
định nền kinh tế đất nước.
Thứ hai, Nhà nước quản lý về kinh tế là để khắc phục nhược điểm, kiểm
soát các quy luật và mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật cung cầu, quy luật giá trị,
quy luật lưu thông tiền tệ. Ba quy luật trên cơ bản điều chỉnh nền kinh tế thị
trường – dẫn đến lý thuyết kinh tế thị trường tự do. Thực tế chứng minh, kinh
tế thị trường luôn có những mặt trái tồn tại là: Luôn luôn có nguy cơ mất cân
đối cung - cầu tạo ra các cuộc khủng hoảng thừa hoặc khủng hoảng thiếu; vì
mục tiêu lợi nhuận và cạnh tranh, doanh nghiệp ít quan tâm đến lợi ích chung
của xã hội, lợi ích của cộng đồng (gây ô nhiễm, phá hoại môi trường, trốn
thuế, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng…); bản
chất kinh tế thị trường là làm giàu cho một bộ thiểu số trong xã hội chứ không
phải đa số trong xã hội vì vậy luôn tạo ra sự phân hóa về giàu – nghèo trong
xã hội.
Nhận thức được vấn đề trên, từ khi đất nước mở cửa và phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong các văn kiện Đại
hội đảng, Nhà nước ta đã nhấn mạnh vai trò và sự cần thiết của quản lý Nhà
nước về kinh tế thị trường là "Bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" [32, tr 78].
Thứ ba, Nhà nước quản lý về kinh tế nhằm hỗ trợ, đảm bảo, tạo điều
kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển đồng đều:
Nhà nước ta đảm bảo phát triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế
và các loại hình doanh nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh
bạch, trong đó: Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng
16
mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần
để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội
hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát
triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh
tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch.
Hoàn thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ tư, Nhà nước quản lý về kinh tế vì trong nền kinh tế quốc dân có
một phần kinh tế Nhà nước:
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã nhấn mạnh “Phải
tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô” [10]. Nhà
nước ta khẳng định vai trò quan trọng, chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong
nền kinh tế quốc dân, Nhà nước xây dựng trò của kinh tế Nhà nước để có
phương tiện và điều kiện để can thiệp một cách mạnh mẽ vào nền kinh tế.
Thông qua kinh tế Nhà nước, Nhà nước ta can thiệp và điều tiết nền kinh tế,
đảm bảo cho nền kinh tế, các quan hệ xã hội phát triển theo đúng định hướng,
trật tự Nhà nước đã đề ra.
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Song song với những ưu điểm vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế hay
còn gọi là mặt trái của cơ chế thị trường tác động tiêu cực đến bản chất xã hội
chủ nghĩa như xu hướng phân hóa giàu. Vì vậy, quản lý nhà nước về kinh tế
là một yêu cầu cần thiết khách quan, nhằm điều tiết các thành phần kinh tế và
17
thị trường hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đấu tranh khắc phục,
hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực xã hội [27].
1.1.3. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý về
kinh tế
1.1.3.1. Mục tiêu của Nhà nước về quản lý kinh tế
Mục tiêu chung mà Đảng và Nhà nước ta xác định trong chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội, giai đoạn 2010 – 2012 là “Phấn đấu đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã
hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được
nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”.
Tóm tại, mục tiêu chung, cuối cùng cần phấn đấu đạt được chính là “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh….” [14]
Qua đó thấy rằng quản lý Nhà nước về mục tiêu cũng gắn liền với mục
tiêu chung của kinh tế - xã hội đất nước theo định hướng của Đảng và Nhà
nước. Trong lĩnh vực quản lý kinh tế, Nhà nước đặt mục tiêu quan trọng nhất,
hàng đầu là mục tiêu “Đảm bảo ổn định nền kinh tế vĩ mô”, bên cạnh các mục
tiêu tăng trưởng và mục tiêu công bằng xã hội. Ba mục tiêu này là mục tiêu cơ
bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất nước trong nền kinh tế thế
giới.
1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong của quản lý Nhà
nước về kinh tế
Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương
hướng và giai đoạn tác động có chủ đích của Nhà nước tới nền kinh tế quốc
dân, là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà Nhà nước phải tiến hành trong
18
quá trình quản lý nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường, vận
hành bằng cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước thì chức năng quản
lý Nhà nước về kinh tế được xác định là chức năng quản lý kinh tế vĩ mô với
các nội dung cơ bản như sau:
- Chức năng định hướng, hướng dẫn phát triển kinh tế:
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, căn cứ vào
các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Đảng đã đề ra, Nhà nước định
hướng phát triển kinh tế. Thực hiện chức năng, định hướng của Nhà nước là:
Xác định có căn cứ khoa học những mục tiêu xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế quốc gia, phát triển các ngành và vùng lãnh thổ. Lập các quy hoạch,
kế hoạch đồng thời lựa chọn các biện pháp chủ yếu để đạt được các mục tiêu
đó trong thời gian nhất định. Nhà nước càng thực hiẹn tốt chức năng định
hướng càng tránh được rủi ro cho các doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong thời kỳ mới chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường, Nhà nước càng phải tăng
cường định hướng, hướng phát triển kinh tế, vì: Các doanh nhân tự chủ kinh
doanh nhưng chưa thể nắm được tình hình, xu hướng vận động của thị trường,
dễ gây thua lỗ, thất bại và đổ vỡ, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Nhà
nước phải định hướng nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo và mục tiêu kinh tế
- xã hội đã được Đảng và Nhà nước định ra. Nhà nước định hướng phát triển
kinh tế và hướng dẫn các nhà kinh doanh, các tổ chức kinh tế hoạt động đúng
định hướng nhằm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch mà Nhà nước
đã vạch ra.
- Chức năng tổ chức thực hiện nền kinh tế
Nhà nước có nhiệm vụ sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, trong đó
quan trọng và cấp thiết hơn cả là sắp xếp, củng cố lại các doanh nghiệp nhà
nước, tổ chức các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm tạo
nên cơ cấu kinh tế hợp lý. Nhà nước còn có trách nhiệm tổ chức lại hệ thống
quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế từ Trung ương
19
đến cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, đào tạo và đào tạo lại, sắp
xếp các cán bộ công chức quản lý Nhà nước và quản lý doanh nghiệp, thiết
lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức quốc tế.
- Chức năng Nhà nước điều chỉnh, điều tiết quan hệ thị trường
Trong khi điều hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà
nước vừa phải tuân thủ và vận dụng các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường định hướng, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường, vừa điều tiết,
chi phối thị trường hoạt động theo định hướng của Nhà nước, đảm bảo cho
kinh tế phát triển ổn định, công bằng và có hiệu quả. Để điều tiết, Nhà nước
sử dụng hàng loạt biện pháp bao gồm các chính sách, các đòn bẩy kinh tế, các
công cụ tài chính, thuế, tín dụng.
- Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập trật
tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng
vi phạm pháp luật, sai phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của
nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã
hội. Để bảo đảm tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản công, khắc phục khuyết tật
của kinh tế thị trường và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh Nhà nước phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm
soát.
Các chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trên chỉ có thể thực hiện tốt
khi có những giải pháp đồng bộ, không thể thực hiện rời rạc từng chức năng.
Nói đến chức năng tạo lập môi trường thuận lợi mà không chú ý đúng mức
đến chức năng tổ chức, sắp xếp lại cơ quan, bố trí hợp lý cán bộ và cải cách
hành chính thì không thể có môi trường thuận lợi. Cũng tương tự như vậy,
nếu Nhà nước không làm tốt chức năng điều tiết, kiểm tra thì không thể tạo
lập được môi trường lành mạnh và bình đẳng.
Đại hội X của Đảng tiếp tục xác định Nhà nước tập trung làm tốt các
20
chức năng: Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị
trường. Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các
công cụ kinh tế. Thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm
tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp.
Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý
kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ "chế độ chủ quản"; tách hệ thống cơ
quan hành chính công khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp; phát triển mạnh các
dịch vụ công cộng (giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục
thể thao). Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính và tiền tệ, bảo đảm tính ổn
định và sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia.
1.1.4. Đối tượng, nội dung và công cụ quản lý nhà nước về kinh tế
1.1.4.1. Đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế
* Dựa vào cấu trúc của nền kinh tế quốc dân gồm:
- Tài nguyên quốc gia: Là một đối tượng quản lý quan trọng nhưng tuỳ
vào mỗi quốc gia thì có sự quản lý khác nhau. Tài nguyên không chỉ dành cho
người đương thời mà còn cho đời sau nên cần coi quản lý tài nguyên như 1
nội dung về kinh tế.
- Dự trữ quốc gia gồm: Vật tư, nội, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, đó là 1
phần của tổng sản phẩm quốc dân được dùng để bảo hiểm đất nước trước các
rủi ro, do đó nhà nước cũng cần quản lý đối tượng này.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng gồm: Các công trình giao thông, hệ thống
thoát nước, phương tiện truyền dẫn ... do ngân sách quốc gia đầu tư và xây
dựng. Hệ thống này phục vụ nhiều cho kinh tế nên cần quản lý.
- Các doanh nghiệp: Quản lý Nhà nước về kinh tế chủ yếu là quản lý
doanh nghiệp, các tế bào của nền kinh tế, là nhân vật chính nên nó là 1 đối
tượng quản lý quan trọng.
21
* Xét cấu trúc của quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm:
- Quá trình đầu tư xây dựng kinh tế.
- Quá trình vận hành của nền kinh tế.
* Xét các mặt hoạt động của nền kinh tế bao gồm:
- Vấn đề quan hệ sản xuất được giải quyết tốt sẽ tạo ra sự phù hợp và
thích ứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất từ đó nền kinh tế sẽ
phát triển và ngược lại.
- Nhà nước thường quản lý các mặt sau đây: Quyền sở hữu của nhà
nước với các loại tài sản quốc gia, về sự cho phép tồn tại của các loại hình sở
hữu về tư liệu sản xuất, về loại hình doanh nghiệp.
- Vấn đề tổ chức sản xuất: Thì nhà nước quản lý về cơ cấu kinh tế và cơ
cấu vùng kinh tế.
+ Nhà nước quản lý về quy mô doanh nghiệp, phân công việc làm và
hợp tác trong nền kinh tế quốc dân, vấn đề phân bố địa lý của doanh nghiệp,
vấn đề quan hệ quốc tế của nền kinh tế.
- Vấn đề chất lượng sản phẩm, vệ sinh môi trường.
Chất lượng sản phẩm thì nhà nước lại quản lý ở 2 lĩnh vực chủng loại
sản phẩm và chất lượng sản phẩm.
- Vấn đề tiến bộ khoa học - công nghệ trong kinh tế: Nhà nước quản lý
các mặt như: thành tựu cụ thể của khoa học công nghệ trong và ngoài nước.
Đối tác mà các doanh nghiệp có quan hệ trong việc thực hiện các định hướng
tiến bộ khoa học công nghệ nói trên.
- Vấn đề tổ chức quản lý: Nội dung cơ bản là cơ cấu bộ máy quản trị
kinh doanh tại các doanh nghiệp, chế độ ghi chép hạch toán, thống kế, chế độ
22
thanh toán qua ngân hàng.
1.1.4.2. Nội dung quản lý Nhà nước về kinh tế
Việc quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm các nội dung cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế;
Thứ hai, xây dựng phương hướng, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Cụ thể là: Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Xây dựng hệ thống chính sách, tư tưởng chiến lược để chỉ
đạo việc thực hiện các mục tiêu đó.
Thứ ba, xây dựng pháp luật kinh tế: Hệ thống pháp luật kinh tế gồm rất
nhiều loại. Về tổng thể, hệ thống đó bao gồm hai loại chính sau:
- Hệ thống pháp luật theo chủ thể hoạt động kinh tế như Luật Doanh
nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại
v.v… Loại hình pháp luật này thực chất là Luật tổ chức các đơn vị kinh tế,
theo đó, sân chơi kinh tế được xác định trước các loại chủ thể tham gia cuộc
chơi do Nhà nước làm trọng tài.
- Hệ thống pháp luật theo khách thể như Luật Tài nguyên môi trường,
được Nhà nước đặt ra cho mọi thành viên trong xã hội, trong đó chủ yếu là
các doanh nhân, có tham gia vào việc sử dụng các yếu tố nhân tài, vật lực và
tác động vào môi trường thiên nhiên.
Thứ tư, tổ chức hệ thống các doanh nghiệp;
Thứ năm, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động kinh tế
của đất nước;
Thứ sáu, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các đơn vị kinh tế;
Thứ bảy, thực hiện và bảo vệ lợi ích của xã hội, của nhà nước và của
công dân;
1.1.5. Các công cụ quản lý Nhà nước về kinh tế
23
Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản
lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý
đề ra. Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương
tiện mà Nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý kinh tế của
Nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định. Thông qua các công cụ
quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của Nhà nước mà Nhà
nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các chủ thể, các thành
viên tham gia hoạt động trong nền kinh tế.
Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là một hệ thống bao gồm
nhiều loại, trong đó có công cụ quản lí thể hiện mục tiêu, ý đồ của Nhà nước,
có công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các chủ thể kinh tế, có công
cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các mối
quan hệ kinh tế, có công cụ vật chất thuần túy….“Nhà nước quản lý điều hành
nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên
cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường.” [10]
Thứ nhất, nhóm công cụ thể hiện ý đồ, mục tiêu quản lý của Nhà nước.
Xác định mục tiêu quản lý là việc khởi đầu quan trọng trong hoạt động
quản lý Nhà nước về kinh tế. Các mục tiêu chỉ ra phương hướng và các yêu
cầu về số lượng, chất lượng cho các hoạt động quản lý của Nhà nước nhằm
giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Các công cụ thể hiện ý đồ, mục
tiêu của quản lý có thể bao gồm:
- Đường lối phát triển kinh tế - xã hội: Đường lối phát triển kinh tế - xã
hội là khởi đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước do
Đảng cầm quyền của các quốc gia xây dựng và thực hiện, đó là việc xác định
trước một cái đích mà nền kinh tế cần đạt tới, để từ đó mới căn cứ vào thực
trạng hoàn cảnh của nền kinh tế mà tìm ra lối đi, cách đi, trình tự và thời hạn
tiến hành để đạt tới đích đã xác định. Ở nước ta, đường lối phát triển kinh tế
24
đất nước gắn liền với phát triển xã hội và do Đảng Cộng sản Việt Nam thực
hiện được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng qua các thời kỳ đại hội.
Đường lối phát triển kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với vận
mệnh của đất nước, nó được coi là công cụ hàng đầu của Nhà nước trong sự
nghiệp quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đường lối đúng sẽ đưa đất nước
đến phát triển, ổn định, giàu mạnh công bằng và văn minh. Đường lối sai sẽ
đưa đất nước đi lầm đường lạc lối, là tổn thất, là đổ vỡ, là suy thoái, là hậu
quả khôn lường về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội là một hệ thống các quan điểm cơ bản, các mục tiêu lớn và các giải
pháp chủ yếu được lựa chọn nhằm đạt được một bước đường lối phát triển
kinh tế đất nước trong một chặng thời gian đủ dài. Thực chất chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội là sự cụ thể hóa đường lối phát triển doanh nghiệp trong
mỗi chặng đường lịch sử của đất nước (thường là 10 năm, 15 năm, hoặc 20
năm) và cũng do Đảng cầm quyền chỉ đạo và xây dựng. Ở nước ta, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội do Đảng Cộng Sản Việt Nam xây dựng trong các
Đại hội Đảng toàn quốc, như chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2010, đến năm 2020.
- Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội: Quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội là việc đính hướng phát triển kinh tế dài hạn. Trong đó, xác định rõ qui
mô và giới hạn cho sự phát triển. Thực chất qui hoạch là xác định khung vĩ
mô về tổ chức không gian nhằm cung cấp những căn cứ khoa học cho các cơ
quan quản lý Nhà nước để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch,
các chương trình, dự án đầu tư bảo đảm cho nền kinh tế phát triển mạnh, bền
vững và có hiệu quả.
Thực chất của qui hoạch là cụ thể hóa chiến lược về không gian và thời
gian. Trên thực tế, công tác quản lý kinh tế của Nhà nước có các loại quy
25
hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch ngành, quy
hoạch địa phương….
- Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội: Kế hoạch là cụ thể hóa chiến
lược dài hạn, gồm có kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch hàng
năm. Thực chất, kế hoạch là một hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản
được xác định như: tốc độ phát triển nền kinh tế, cơ cấu kinh tế, các cân đối
lơn….các chỉ tiêu kế hoạch này bao quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực và
thành phần kinh tế.
Ở Việt Nam, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội được xem là công
cụ quan trọng trong quản lý nền kinh tế của Nhà nước.
- Chương trình phát triển kinh tế - xã hội: Chương trình phát triển kinh
tế - xã hội là tổ hợp các mục tiêu, các nhiệm vụ, các thủ tục, các bước phải
tiến hành, các nguồn lực và các yếu tố cần thiết để thực hiện một ý đồ lớn,
một mục tiêu nhất định đã được xác định trong một thời kỳ nhất định. Ví dụ:
chương trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, chương trình cải cách
nền hành chính quốc gia, chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý,
chương trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chương trình phát
triển kinh tế đối ngoại, chương trình phát triển công nghiệp, chương trình phát
triển kết cấu hạ tầng, chương trình phát triển khoa học công nghệ và bảo vệ
môi trường sinh thái, chương trình phát triển dịch vụ, chương trình phát triển
kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc, chương trình xóa đói
giảm nghèo….
- Chương trình là cơ sở quan trọng để tập trung những nguồn lực hạn
hẹp vào việc giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch
Nhà nước trong từng thời kì và cho phép khắc phục tình trạng tách rời giữa
các nhiệm vụ của kế hoạch đã được xác định để thực hiện kế hoạch Nhà nước
một cách có hiệu quả nhất.
26
Thứ hai, nhóm công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các chủ
thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế.
Pháp luật là công cụ chủ yếu để nhà nước quản lý về kinh tế. Nhà nước
ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý của mình đối với xã hội nói
chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng, chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp
luật. Điều 8 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 khẳng định:
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý
xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ”.
Pháp luật về kinh tế được hiểu là hệ thống văn bản có tính quy phạm
pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành để thể hiện ý chí,
quyền lực của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ trong nền kinh tế.
Hệ thống văn bản pháp luật trong quản lý Nhà nước về kinh tế có hai
loại văn bản: Văn bản qui phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp
luật. Văn bản quy phạm pháp luật gồm: (1) Văn bản do Quốc hội và Ủy ban
thường vụ Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, nghị quyết, pháp lệnh, (2) Văn
bản do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác ở Trung ương ban hành để
thi hành Việt Nam quy phạm pháp luật của Quốc hội và Ủy ban thường vụ
Quốc hội ban hành: Lệnh, quyết định, chỉ thị, nghị quyết, thông tư, (3) Văn
bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp ban hành để thi hành các
quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và của cơ
quan Nhà nước cấp trên. Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật trong quản lý
Nhà nước về kinh tế là những quy phạm pháp luật được ban hành để giải
quyết các nhiệm vụ cụ thể đối với đối tượng cụ thể như các quyết định bổ,
miễn nhiệm, đề bạt, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật, điều động công tác đối
với cán bộ công chức Nhà nước…
27
Thứ ba, nhóm công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước
trong viêc điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế.
Công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong việc điều
chỉnh các hoạt động của nền kinh tế, đó là chính sách kinh tế. Chính sách kinh
tế là một hệ thống phức tạp gồm nhiều loại:
- Chính sách phát triển các thành phần kinh tế.
- Chính sách tài chính với các công cụ chủ yếu: Chi tiêu của Chính phủ
và thuế.
- Chính sách tiền tệ với các công cụ chủ yếu: Kiểm soát mức cung tiền
và lãi suất.
- Chính sách thu nhập với các công cụ chủ yếu: Giá cả và tiền lương
- Chính sách ngoại thương với công cụ chủ yếu: Thuế nhập khẩu, hạn
ngạch, trợ cấp xuất khẩu, tỉ giá hối đoái, cán cân thương mại, cán cân thanh
toán quốc tế…
Thứ tư, nhóm công cụ vật chất làm động lực tác động vào đối tượng
quản lý.
Công cụ vật chất được dùng làm áp lực, hoặc động lực tác động vào đối
tượng quản lý của Nhà nước có thể bao gồm:
- Đất đai, rừng, núi, sông hồ, các nguồn nước, thềm lục địa….
- Tài nguyên trong lòng đất.
- Dự trữ quốc gia, bảo hiểm quốc gia.
- Vốn và tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp.
- Các loại quỹ chuyên dùng vào công tác quản lý của Nhà nước.
Thứ năm, nhóm công cụ để sử dụng các công cụ nói trên.
Chủ thể sử dụng các công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế đã trình
bày ở trên là các cơ quan quản lý của Nhà nước về kinh tế. Đó là các cơ quan
28
hành chính Nhà nước, các công sở và các phương tiện kinh tế - kỹ thuật được
sử dụng trong hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước.
1.2. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế Nhà nước bằng chế tài hình sự là đòi
hỏi khách quan
Quản lý hoạt động kinh tế nhằm mục đích sản xuất nhiều hàng hóa, tạo
điều kiện phát triển xã hội, đồng thời điều chỉnh các hoạt động kinh tế theo
trật tự của giai cấp thống trị là đòi hỏi khách quan của bất kỳ Nhà nước nào.
Vai trò bảo vệ trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước bằng các chế tài hình sự
được thể hiện qua cách qui định tội phạm và hình phạt áp dụng đối với người
có hành vi xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế. Đó cũng là một trong những
nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với bất kỳ Nhà nước nào bởi chính sự tồn tại,
phát triển của hệ thống những quan hệ xã hội trong lĩnh vực này có ý nghĩa
góp phần quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế đất nước.
Do tính chất và đặc điểm của các hành vi xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế luôn bị chi phối bởi, biến động bởi chính sách kinh tế theo từng thời
kỳ lịch sử của Nhà nước, nên trong giai đoạn đất nước mở cửa nền kinh tế,
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì, tình hình vi phạm trong lĩnh
vực kinh tế nói chung, và các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói
riêng đang tiếp tục diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Các hành
vi này xảy ra phổ biến, nghiêm trọng trên các lĩnh vực, các ngành, nhất là
những ngành và lĩnh vực kinh tế trọng điểm như Ngân hàng, tài chính, quản
lý đất đai, chứng khoán….Thực tế đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự
quản lý kinh tế của đất nước, là rào cản tới sự ổn định, phát triển của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chế tài hình sự Hình sự là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc
quản lý xã hội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức
29
và của công dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, để quản lý Nhà nước về kinh tế có hiệu quả, đảm bảo sự phát
triển ổn định nền kinh tế thì biện pháp bảo vệ hữu hiệu nhất đó chính là bằng
pháp luật hình sự.
1.3. Các dấu hiệu pháp lý chung và đường lối xử lý đối với các hành vi
xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế
Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra từ Đại hội VI
đến nay từng bước trở thành hiện thực. Nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu đã được xác lập là
điều kiện để từng bước xoá bỏ nền kinh tế tập trung, bao cấp không còn phù
hợp nữa. Các quan hệ kinh tế và quản lý kinh tế thay đổi. Muốn cho nền kinh
tế phát triển, thì điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là đường lối đúng đắn
của Đảng phải được thể chế hoá bằng pháp luật. Hiến pháp năm 1992 được
sửa đổi tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X cùng với việc sửa đổi, bổ sung
nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến việc đổi mới quản lý kinh tế đã có
tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển. Các quy định của Bộ luật Hình sự năm
1985 về các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cũng không còn phù
hợp, đòi hỏi phải thay đổi mới thúc đẩy kinh tế phát triển. Bộ luật Hình sự
năm 1999 ra đời là một yêu cầu cấp thiết, đáp ứng yêu cầu trên.
Do tính chất và đặc điểm của các hành vi xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế luôn luôn bị chi phối bởi những chính sách kinh tế của Đảng và Nhà
nước trong từng giai đoạn dài ngắn khác nhau, có hành vi hôm trước là tội
phạm nhưng hôm sau không còn là tội phạm nữa, thậm chí còn được coi là
công trạng. Vì vậy, Bộ luật Hình sự chỉ quy định những dấu hiệu đặc trưng
của tội phạm còn hành vi cụ thể xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế nào, do
30
ai quy định lại phải căn cứ vào các văn bản của Nhà nước thuộc lĩnh vực quản
lý kinh tế mới xác định được [12].
1.3.1. Khái niệm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Trên thế giới quan niệm về tội phạm kinh tế thường được hiểu rất rộng,
bao gồm các tội phạm liên quan đến tài sản (số đối tượng là tài sản), các tội
phạm liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực thương mại
và thậm chí trong lĩnh vực môi trường.
Trong khoa học Luật Hình sự Việt Nam, tội phạm kinh tế được hiểu
theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, tội phạm kinh tế được hiểu
theo nghĩa trên và được quy định không chỉ trong các chương các tội phạm về
kinh tế mà cả trong các chương khác của Bộ luật Hình sự. Còn theo nghĩa
hẹp, các tội phạm được quy định ở Chương VII Bộ luật Hình sự 1985 và
Chương XI Bộ luật Hình sự 1999 chỉ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, còn các tội phạm khác xâm
phạm sở hữu, tội phạm về môi trường…đã được quy định ở các chương riêng
khác. Như vậy, khách thể loại của tội phạm này chỉ là các quan hệ xã hội thể
hiện trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước ta. [1, tr.178, 179]
Như vậy, khái niệm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được
hiểu như sau: Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội xâm hại nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại hoặc đe doạ
gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của các tổ chức, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân thông qua hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về
quản lý nền kinh tế [28, tr.275].
1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý của nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế
1.3.2.1.Khách thể của tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
31
Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế xâm phạm đến các quan
hệ xã hội bảo đảm cho sự ổn định và phát triển nền kinh tế quốc dân. Đó là
chế độ quản lý, điều hành toàn bộ nền kinh tế của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích của nhà nước, của các tổ chức kinh tế,
quyền và lợi ích, tính mạng, sức khoẻ của người tiêu dùng,… được thể chế
hoá trong những quy định pháp luật của Nhà nước.
1.3.2.2. Mặt khách quan của tội phạm xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế
Mặt khách quan của các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
được thể hiện ở các hành vi cố ý vi phạm các quy định của Nhà nước về quản
lý kinh tế ở các mức độ khác nhau với mục đích vụ lợi. Hành vi phạm tội
được thực hiện có thể là hành động hoặc không hành động và đã gây ra hoặc
đe doạ gây ra thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân hoặc cho từng ngành, lĩnh
vực nhất định. Hậu quả có thể ở những mức độ rất khác nhau (ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) như: Làm rối
loạn thị trường, mất cân đối cung cầu, làm ảnh hưởng xấu đến nền sản xuất
hàng hoá trên đất nước; thậm chí có những tội phạm còn làm cho người tiêu
dùng thiệt hại không những cả về vật chất, sức khoẻ mà có khi còn nguy hiểm
đến tính mạng…. Đối với một số tội, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt
buộc trong cấu thành tội phạm.
1.3.2.3. Chủ thể của tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Chủ thể của các tội phạm này có thể là bất kỳ người nào có năng lực
trách nhiệm hình sự. Trong một số tội, chủ thể phải là người có chức vụ,
quyền hạn nhất định trong các cơ quan, tổ chức kinh tế (chủ thể đặc biệt).
1.3.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế
32
Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được thực hiện do lỗi cố ý trực
tiếp hoặc gián tiếp. Khi thực hiện hành vi, người phạm tội đều ý thức được
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm
và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc với ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Mục đích và động cơ phạm tội chủ yếu là vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.
1.3.2.5. Đường lối xử lý đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý
của Nhà nước về kinh tế
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, các
quy định trong Chương XVI Bộ luật Hình sự đã có sự phân định rõ mức độ
nào thì coi là tội phạm và mức độ nào chưa phải là tội phạm, đồng thời để
phân loại tội phạm thành tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng và quy định hình phạt phù hợp với từng hành
vi vi phạm cụ thể.
Đối với một số tội phạm gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
như tội buôn lậu; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lượng thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 153, Điều 157); tội làm, tàng trữ,
vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (Điều 180), mức
cao nhất của khung hình phạt quy định đến chung thân, tử hình.
Mặt khác, các tội này thường nhằm mục đích vụ lợi nên đối với người
phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng, để tạo điều kiện và giáo dục họ trở thành
người tốt, hình phạt chính chỉ áp dụng là phạt tiền, phạt cải tạo không giam
giữ hoặc tù có thời hạn.
Đối với những trường hợp phạm tội nghiêm trọng, tuỳ theo hậu quả và
mức độ thu lợi bất chính mà người phạm tội có thể bị áp dụng các hình phạt
bổ sung như: Phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. [28, tr.249 -
250]
33
CHƯƠNG II :CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
VỀ CÁC HÀNH VI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ
NƯỚC VỀ KINH TẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2009 ĐẾN NĂM 2014
2.1. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng các pháp luật hình sự từ sau khi
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình
sự năm 1999
2.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước năm 1985
2.1.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân
non trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất
nước vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, lại bị Pháp, Nhật vơ vét, bị chiến tranh và
thiên tai tàn phá. Ở miền Bắc, khoảng 200.000 quân Tưởng Giới Thạch mượn
danh nghĩa Đồng Minh vào tước vũ khí quân Nhật, với dã tâm là giúp bọn
phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân để lập một chính phủ
phản động làm tay sai cho chúng. Ở miền Nam, quân đội Pháp được quân
Anh yểm trợ xâm lược chiếm Sài Gòn, rồi sau đó đánh rộng ra các tỉnh ở
Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Trong tình hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn, đã là
diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm và "Đảng ta xác định giữ
vững chính quyền là nhiệm vụ hàng đầu" [16, tr. 468.]. Chính vì vậy, ngay từ
khi mới hình thành, pháp luật hình sự của chính quyền nhân dân đã tập trung
phục vụ thực hiện các nhiệm vụ đó Nhà nước đã ban hành một số sắc lệnh
quan trọng làm cơ sở pháp lý cho công tác phòng ngừa, đấu tranh chống các
hành vi nguy hiểm về kinh tế như: Để đấu tranh chống giặc đói, Nhà nước ta đã
ban hành Sắc lệnh sè: 7-SL ngày 5-9-1945 cấm đầu cơ, tích trữ thóc, gạo và
34
tiếp theo đó ban hành Sắc lệnh số 45-SL ngày 9-10-1945: "Cho đến khi có lệnh
mới, khắp toàn cõi Việt Nam cấm hẳn việc xuất cảng ra ngoại quốc thóc, gạo,
ngô, đỗ hoặc các chế phẩm thuộc về ngò cốc. Ai trái với Sắc lệnh này sẽ bị
phạt theo quân luật và tài sản sẽ bị tịch thu [2, tr 145].
Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 68-SL ngày 18-6-1949 về việc
cấm phá hoại các công trình thủy nông, Sắc lệnh số 61-SL ngày 1-5-1950 về
việc tiết kiệm thóc gạo; Sắc lệnh số 180-SL ngày 20-12-1950 về việc phá hoại
tiền tệ, phá hoại giá trị bạc Việt Nam; Sắc lệnh số 56, ký ngày 7-11-1945, uỷ
nhiệm cho Bộ Quốc dân kinh tế (Nha kỹ nghệ) và Bộ Tuyên truyền kiểm soát
việc sản xuất, nhập cảng và phân phối giấy, bìa trong cả nước, Sắc lệnh số 57,
ký ngày 10-11-1945, nghiêm cấm sản xuất, tàng trữ, tiêu thụ, mua bán rượu
được chế từ ngũ cốc và mức phạt khi phạm các điều trên; Sắc lệnh số 109 -
SL, ngày 23-9-1949, bổ sung về việc truy tố hành vi vi phạm thể lệ mậu dịch
với vùng địch tạm chiếm.
Ngoài ra, các chế tài hình sự còn góp phần răn đe nhằm bảo đảm thực
hiện các loại thuế phục vụ kháng chiến như thuế nông nghiệp, thuế doanh
nghiệp, thuế lợi tức doanh nghiệp, thuế hàng hóa, thuế buôn chuyến, thuế sát
sinh, thuế kinh doanh nghệ thuật, thuế thổ trạch. Mặt khác, để làm nên thắng
lợi của cuộc cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của bọn
địa chủ, phong kiến, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 89-SL ngày 22-5-
1950 về việc trừng trị đối với những kẻ dùng thủ đoạn man trá hoặc đầu cơ, bóc
lột để cho vay [15, tr 54-59].
2.1.1.2. Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền
Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay
sai thống trị. Tình hình đó đã hình thành ở nước ta "hai khu vực có chế độ
chính trị và xã hội khác nhau" [9, tr.505]. Ở miền Bắc, tiến hành cách mạng
35
xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng
cả nước; ở miền Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất
nước nhà. Pháp luật hình sự trong thời kỳ này phải phục vụ thực hiện thắng
lợi hai chiến lược cách mạng đó.
Sau khi chúng ta thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960 – 1965)
và nhất là từ khi đế quốc Mỹ gây ra chiến tranh phá hoại ở miền Bắc nước ta,
công tác tổ chức quản lý kinh tế, việc xây dựng và thi hành các chế độ, thể lệ
về quản lý kinh tế có phần bị buông lỏng; công tác giáo dục và phát động
quần chúng đông đảo tham gia bảo vệ của công làm chưa tốt. Việc trừng trị
những hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa cũng thiếu nghiêm minh
và kịp thời. Những hiện tượng tiêu cực như tham ô, trộm cắp, lãng phí tài sản
của Nhà nước và của hợp tác xã chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả.
Chính vì vậy, ngày 21-10-1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua
Pháp lệnh Trừng trị các hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa. Pháp lệnh
đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tài sản xã hội chủ nghĩa, trong đó
nêu ra hai bộ phận cấu thành của tài sản xã hội chủ nghĩa là: Tài sản của Nhà
nước – tức là của toàn dân - và tài sản của hợp tác xã, các tổ chức hợp pháp
khác của nhân dân – tức là tài sản của tập thể. Trong Pháp lệnh này, 16 loại
hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa đã được quy định cụ thể với các
chế tài hình sự rõ ràng. Đặc biệt, Pháp lệnh đã phân biệt rõ ba hành vi: Tội
Cướp tài sản xã hội chủ nghĩa, tội Cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa, tội
Cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. [15, tr 60-72]
2.1.1.3. Thời kỳ từ năm 1976 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất
năm 1985
36
Với Đại thắng mùa Xuân năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải
phóng, nước nhà được thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng cả nước bước
vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thời gian từ năm 1978 đến những năm 1980, 1981, tình hình
đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép diễn biến phức tạp, gây
rối loạn thị trường, ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch nhà nước và đời sống
của nhân dân. Đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực trên thị trường là
một yêu cầu cấp bách nhằm thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa trên mặt trận
phân phối lưu thông, góp phần ổn định giá cả, thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời
sống của nhân dân. Pháp lệnh Trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng
giả, kinh doanh trái phép được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 30-6-1982
là để đáp ứng yêu cầu trên và nguyện vọng của nhân dân.
Ngoài ra, Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam ngày 27-5-1976,
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành
Quyết định số 29/QĐ/76 về việc trừng trị các tên tư sản mại bản phạm tội
lũng đoạn, đầu cơ, tích trữ, phá rối thị trường. Quyết định này đã quy định đối
tượng xét xử của Tòa án nhân dân đặc biệt là: "Những tên tư sản mại bản,
trước đây câu kết với Mỹ ngụy, phục vụ chiến tranh xâm lược của chúng, làm
giàu trên xương máu của nhân dân, hoặc dùa vào thế lực của chúng để đầu cơ
tích trữ, độc quyền, lũng đoạn trong một ngành hay nhiều ngành, ở một địa
phương hay nhiều địa phương; những tên tư sản mại bản hiện nay vẫn tiếp tục
đầu cơ tích trữ, lũng đoạn kinh tế, phá rối thị trường, gây khó khăn cho việc
phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân; những tên tư sản mại bản vẫn
che giấu, tiếp tay cho bọn phản cách mạng hiện hành".
2.1.1.4. Chính sách hình sự về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế trong Bộ luật Hình sự được pháp điển hóa năm 1985
37
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, V,
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã giành được những thành tựu
quan trọng trên một số lĩnh vực, cải biến được một phần cơ cấu của nền
kinh tế – xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều
khó khăn và khuyết điểm như chủ quan duy ý chí, duy trì quá lâu mô hình
kinh tế quan liêu, bao cấp nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn
định một cách cơ bản tình hình kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Pháp
chế xã hội chủ nghĩa chậm được tăng cường; pháp luật, kỷ cương bị buông
lỏng. Mặt khác, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể
hiện được toàn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta.
Chính vì vậy, việc ban hành Bộ luật Hình sự là vấn đề có tính tất yếu khách
quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 27-6-1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, đã thông qua Bộ luật Hình sự, có
hiệu lực từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 1985).
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV và lần thứ V của
Đảng đều khẳng định đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Để góp phần phục vụ nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa, Bộ luật Hình sự năm 1985 đã dành toàn bộ Chương VII quy định
các tội phạm về kinh tế. Ngoài những tội phạm trước đây đã được quy định
trong Sắc lệnh số 163-SL ngày 17-11-1950 hạn chế việc giết thịt trâu bò,
Pháp lệnh Trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái
phép ngày 30-6-1982... Bộ luật Hình sự năm 1985 đã quy định một số tội
phạm mới như: Tội Cố ý làm trái những nguyên tắc chính sách, chế độ quản
lý kinh tế của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng, tội Lập quỹ trái phép, tội
38
Lưu hành sản phẩm kém phẩm chất, tội vi phạm những nguyên tắc, chính
sách, chế độ về phân phối, tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất
đai... Việc quy định những tội này là để đáp ứng yêu cầu của tình hình xây
dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ đó. [15, tr 74-82]
2.1.2. Thời kỳ từ năm 1985 đến năm 1999
Tuy được ban hành vào năm 1985, nhưng dự án Bộ luật Hình sự đã
được bắt đầu xây dựng từ đầu những năm 80 và một trong những đặc trưng
của pháp luật hình sự thời kỳ này là phản ánh yêu cầu bảo vệ nền kinh tế hành
chính bao cấp chủ yếu dựa trên hai hình thức sở hữu: Nhà nước và tập thể
theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Từ năm 1986, sự nghiệp đổi mới do
Đại hội VI của Đảng ta đề xướng và lãnh đạo đã được tiến hành ở nước ta.
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
tình hình tội phạm có những diễn biến phức tạp theo chiều hướng mới và yêu
cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng được đặt ra theo tinh thần mới.
Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta cũng phải điều chỉnh kịp thời
nhằm phát huy có hiệu quả hơn pháp luật hình sự như là một công cụ hết sức
cần thiết trong giai đoạn cách mạng mới. Chỉ trong thời gian 7 năm, từ khi
ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến năm 1992, Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phải ba lần tiến hành sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật Hình sự năm 1985: Lần thứ nhất vào ngày 28-12-1989, lần
thứ hai vào ngày 12-8-1991, lần thứ ba vào ngày 22-12-1992. Cả 3 lần sửa
đổi, bổ sung này tuy có đề cập nhiều điều của Bộ luật (lần thứ nhất: 27 điều;
lần thứ hai: 26 điều; lần thứ ba: 20 điều), nhưng nhìn chung, việc sửa đổi, bổ
sung chủ yếu nhằm bảo đảm cho chặt chẽ hơn các quy định liên quan đến việc
định tội và hình phạt.
Nhìn chung, cả ba Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình
sự năm 1985 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
39
qua vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 đều tự hạn
chế trong khuôn khổ, phạm vi của Bộ luật Hình sự năm 1985.
Trong các năm 1994, 1995, 1996, việc tổng kết, đánh giá 10 năm thi hành
Bộ luật Hình sự năm 1985 được các ngành hữu quan tích cực thực hiện. Đến
cuối năm 1996, một dự án sửa đổi, bổ sung cơ bản toàn diện Bộ luật Hình sự
năm 1985 đã được hoàn thành. Việc trình các cơ quan Nhà nước xem xét,
thông qua đòi hỏi phải có thời gian, trong khi đó, tình hình tội phạm diễn biến
phức tạp. Theo tinh thần này, ngày 10-5-1997, Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật Hình sự. Nội dung chủ yếu của lần sửa đổi, bổ sung này có thay thế
các điều thuộc "Phần các tội phạm" của Bộ luật Hình sự năm 1985 như: Cụm
từ "Điều 96a" tại Khoản 1, Điều 168 (Tội Kinh doanh trái phép) và tại
Khoản 2, Điều 169 (Tội Trốn thuế) được thay bằng cụm từ "185b, 185c, 185d
và 185đ".
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra yêu cầu một mặt phải xây dựng
một khung pháp luật hoàn chỉnh nhằm khuyến khích, phát huy mạnh mẽ các
yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, mặt khác, phải định rõ những điều
nghiêm cấm với các chế tài nghiêm khắc không chỉ về hành chính, dân sự mà
cả về hình sự nhằm phòng ngừa, ngăn chặn từ đầu và xử lý nghiêm minh
những mặt trái, tiêu cực của cơ chế đó. Trong khi đó thì Bộ luật Hình sự hiện
hành ra đời năm 1985, trong điều kiện của nền kinh tế hiện vật, kế hoạch hóa,
tập trung, bao cấp, chưa có nhiệm vụ và chưa thể quy định những tội danh cần
được xử lý nghiêm khắc về mặt hình sự của nền kinh tế thị trường. Từ thực
tiễn hơn 10 năm thi hành Bộ luật Hình sự, các cơ quan Tòa án, Kiểm sát,
Công an, Tư pháp từ Trung ương đến địa phương đã kiến nghị bổ sung vào
Bộ luật Hình sự nhiều tội phạm mới xuất hiện trong nền kinh tế thị trường mà
nếu không được ngăn chặn kịp thời thì có thể gây ra nhiều hệ quả rất nguy hại
cho xã hội, nhất là nếu không được ngăn chặn ngay từ đầu, để lâu ngày thành
40
thói quen, nếp sống thì hậu quả thật khó lường, ví dụ như, các tội phạm có
tính chất chụp giật, lừa đảo, bất chấp, chà đạp lên pháp luật, kể cả những điều
cấm của pháp luật trong các lĩnh vực tín dụng, ngân hàng, quảng cáo, đấu
thầu, phá sản, bảo vệ môi trường, v.v. nhằm khuyến khích những người làm
ăn đứng đắn, mong muốn theo pháp luật, có ý thức năng động, tích cực và yên
tâm đi vào những lĩnh vực, môi trường mới, dám chấp nhận khó khăn, rủi ro
để làm lợi cho mình và cho xã hội.
Đồng thời, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, có quyền tự do
kinh doanh, không hạn chế quy mô, mức độ, đòi hỏi phải xem xét, rà soát lại
một cách toàn diện các tội phạm về kinh tế, về sở hữu để có những sửa đổi, bổ
sung thích hợp cả về dấu hiệu pháp lý cũng như chính sách xử lý nhằm đáp
ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới.
Về vấn đề này, nhiều ý kiến đề nghị quy định một chương chung về các tội
xâm phạm sở hữu mà không quy định hai chương riêng biệt về các tội xâm
phạm sở hữu như Bộ luật Hình sự hiện hành. Các ý kiến cũng đề nghị sửa đổi
dấu hiệu pháp lý cũng như hình phạt của các tội đầu cơ, tội buôn bán hàng
cấm, tội làm hàng giả, tội trốn thuế, v.v…
Ngoài ra, nhiều tội phạm gắn liền với nền kinh tế hiện vật, tập trung,
bao cấp, hơn mười năm nay đã không còn tồn tại, cần được loại bỏ khỏi Bộ
luật Hình sự. Trong số đó, phải kể đến tội cản trở việc thực hiện các quy định
của Nhà nước về cải tạo xã hội chủ nghĩa (Điều 164), tội chiếm đoạt tem,
phiếu; tội làm hoặc lưu hành tem phiếu, giấy tờ giả dùng vào việc phân phối
(Điều 172), tội sản xuất hoặc buôn bán rượu, thuốc lá trái phép (Điều 183), tội
lạm sát gia súc (Điều 184), v.v.. [17]
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về các hành vi
xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế ở thành phố Đà Nẵng
từ năm 2009 đến năm 2014
41
2.2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Ngày 06/11/1996 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua
Nghị quyết cho phép tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam
và thành phố Đà Nẵng, từ ngày 01/01/1997 thành phố Đà Nẵng trở thành
thành phố trực thuộc Trung ương.
Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của đất nước, có vị trí trọng yếu cả về
kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh; là đầu mối giao thông quan trọng về
đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, cửa ngõ chính ra
Biển Đông của các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và các nước tiểu vùng Mê
Kông. Đà Nẵng hiện nay có 8 quận, huyện với tổng diện tích là 1285,4 km².
Theo kết quả điều tra năm 2009 thì dân số thành phố là 887.435 người. Năm
2013, dân số thành phố là 992.800 người. Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
trên địa bàn năm 2012 là 46.368,6 tỷ đồng. Trong ba năm liền từ 2008-2010,
Đà Nẵng có chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) đứng đầu cả nước. Tuy nhiên
năm 2012, PCI của Đà Nẵng tụt xuống thứ 12/63 tỉnh, thành phố. Năm 2013
và 2014 Đà Nẵng đã trở lại vị trí số 1 trên bảng xếp hạng. Trong những năm
gần đây, Đà Nẵng đã tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi
trường, nâng cao an sinh xã hội và được coi là "thành phố đáng sống" của
Việt Nam.
Với vị thế là trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung – Tây Nguyên,
Đà Nẵng là nơi hội tụ các công ty lớn của các ngành dệt may, sản xuất hàng
tiêu dùng, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng…Ngành Công nghiệp của thành phố Đà Nẵng đạt tốc độ
tăng trưởng bình quân 20% /năm. Thành phố đang đề ra mục tiêu trở thành
một trong những địa phương đi đầu trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện
đại hóa của Việt Nam, trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.
42
Đà Nẵng là một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế
khá cao trong cả nước, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1997
- 2010 (theo giá cố định 1994) đạt 11,30%/năm so với mức bình quân
7,27%/năm của cả nước. Qua các năm, giá trị sản xuất công nghiệp, nông -
lâm - thủy sản, tổng mức bán hàng hóa và dịch vụ xã hội đều có xu hướng
tăng lên. Điều quan trọng là mức tăng trưởng này khá phù hợp với sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của thành phố theo hướng giảm tỉ trọng ngành nông
nghiệp, tăng dần tỉ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.
Những vận động nội lực đã khiến Đà Nẵng ngày càng mở rộng tầm vóc
của mình. Bắt đầu từ kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là cơ sở về hạ
tầng giao thông, tiến hành chỉnh trang đô thị, xây dựng một môi trường mới
hiểu theo nghĩa rộng, tạo điều kiện cho công cuộc phát triển mới. Khai thác
tốt những lợi thế sẵn có, trong những năm qua Đà Nẵng đã có những biến đổi
rõ rệt về nhịp độ và khí thế phát triển. [8]
Tóm lại, đặc điểm về điều kiện vị trí địa lý, kinh tế, xã hội cho thấy
thành phố Đà Nẵng là địa bàn phát triển mạnh về công nghiệp, kinh tế biển và
dịch vụ du lịch. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển nhanh, mạnh về kinh tế - xã
hội thì hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cũng phát triển theo chiều
hướng gia tăng, phức tạp hơn. Tìm hiểu vấn đề này có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong việc ngăn chặn các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế xảy
ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
2.2.2. Tình hình xử lý các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến 2014
2.2.2.1. Kết quả về việc xử lý hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Theo số liệu thống kê, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong 05 năm
trở lại đây, Cơ quan điều tra đã khởi tố 33 vụ/55 bị can; Viện Kiểm sát đã truy
43
tố: 26 vụ /42 bị can và Tòa án nhân dân đã xét xử 24 vụ/39 bị cáo, trong đó cơ
cấu các loại hành vi thể hiện như sau:
Số
TT
Hành vi
Điều
luật
Khởi tố
(Vụ/bị can)
Truy tố
(Vụ/bị can)
Xét xử
(Vụ/bị can)
1.
Hành vi vận chuyển trái
phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới
154 01/01 01/01 01/01
2.
Hành vi sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán
hàng cấm
155 09/17 08/14 08/14
3.
Hành vi sản xuất, buôn
bán hàng giả
156 03/03 02/02 02/02
4.
Hành vi sản xuất, buôn
bán hàng giả là lương
thực, thực phẩm, thuốc
chữa bệnh, thuốc phòng
bệnh
157 01/02 01/02 01/02
5.
Hành vi kinh doanh trái
phép
159 04/06 03/05 02/04
6. Hành vi trốn thuế 161 02/04 01/02 0/0
7.
Hành vi lừa dối khách
hàng
162 01/04 01/04 01/04
8.
Hành vi cố ý làm trái quy
định của Nhà nước về
quản lý kinh tế gây hậu
quả nghiêm trọng
165 02/03 01/01 01/01
9.
Hành vi vi phạm các quy
định về nghiên cứu, thăm
172 01/01 01/01 01/01
44
dò, khai thác tài nguyên
10.
Hành vi vi phạm các quy
định về khai thác và bảo
vệ rừng
175 03/03 02/02 02/02
11.
Hành vi vi phạm quy định
về cho vay trong hoạt
động của các tổ chức tín
dụng
179 0/1 0/1 0/1
12.
Hành vi làm, tàng trữ, vận
chuyển, lưu hành tiền giả,
ngân phiếu giả, công trái
giả
180 06/10 04/06 04/06
13. TỔNG CỘNG 33 /55 26/42 24/39
(Nguồn: Số liệu phòng Thống kê tội phạm và công nghệ thông tin, Viện KSND
thành phố Đà Nẵng) [36].
Diễn biến các vụ vi phạm theo từng năm theo số liệu Viện Kiểm sát hai
cấp thành phố Đà Nẵng đã truy tố như sau:
- Năm 2009: 04 vụ/07 bị can;
- Năm 2010: 02 vụ/04 bị can;
- Năm 2011: 06 vụ/11 bị can;
- Năm 2012: 04 vụ/07 bị can;
- Năm 2013: 04 vụ/07 bị can;
- Năm 2014: 06 vụ/ 06 bị can.
Tổng cộng: 26 vụ/ 42 bị can [34]
Qua thống kê, phân tích số liệu về tình hình trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng trong vòng 05 năm trở lại đây thì các hành vi xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế đã bị xử lý có số lượng không nhiều, trung bình mỗi năm từ 02 đến 06
45
vụ án, chiếm tỷ trọng nhỏ và không đáng kể so với các loại hành vi nguy hiểm
khác xảy ra trên địa bàn, nhìn chung đã được kiềm chế, không có xu hướng
tăng (qua các năm thì số vụ không có dấu hiệu tăng đột biến). Tính chất, mức
độ hành vi vi phạm đơn giản, số lượng người vi phạm ít, không hình thành
đường dây có quy mô, tổ chức lớn; tang vật thu giữ không nhiều…. Như vậy,
sự ổn định của loại hành vi này phần nào đã phản ánh được sự ổn định kinh tế
vĩ mô, sự phát triển kinh tế của thành phố Đà Nẵng, cũng như tinh thần, hiệu
quả trong công tác ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm trật tự kinh tế của
các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Đà Nẵng.
Tuy nhiên, việc xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn vẫn tiềm
ẩn ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó tập trung ở
hoạt động ngân hàng, buôn bán, vận chuyển hàng cấm, hàng giả, trốn thuế,
hàng lậu và gian lận thương mại, kinh doanh trái phép, trốn thuế…vv. Đây là
những dạng hành vi điển hình xảy ra trên địa bàn trong những năm qua. Đặc
biệt, thời gian qua, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng quá trình đô thị hóa, giải
tỏa, đền bù và tái định cư, chỉnh trang đô thị diễn ra trên diện rộng; giá đất đai
liên tục tăng, tạo ra tình trạng sốt giá đất…..đã có tác động không nhỏ đến
tình hình vi phạm, nhất là liên quan đến lĩnh vực đất đai, trong đó xuất hiện
các đối tượng câu kết với các cán bộ tín dụng ngân hàng, nâng khống, thẩm
định giá trị tài sản thế chấp cao hơn giá trị thực tế; sau đó sử dụng vốn vay sai
mục đích, nhiều vụ gian lận tín dụng lớn gây thiệt hại nghiêm trọng.
2.2.2.2. Một số dạng hành vi và một số vụ án điển hình như sau
- Về hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng, xảy ra các dạng hành vi cụ thể như sau:
+ Không tiến hành kiểm đếm tiền mặt tồn quỹ cuối ngày của các phòng
giao dịch, thể hiện rõ việc thiếu trách nhiệm của các nhân viên ngân hàng như
46
kiểm soát viên, nhân viên ngân quỹ xảy ra tại Phòng Giao dịch Sơn Trà, Ngân
hàng SHB Chi nhánh Đà Nẵng:
Nguyễn Thị Ngoan (SN 1984, trú Xóm 3, xã Xuân Hòa, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An) là nhân viên hợp đồng (theo hợp đồng lao động không
xác định thời hạn số 010/2011/HĐLĐ-SHB ngày 04/01/2011) SHB chi nhánh
Đà Nẵng và được điều động làm nhân viên ngân quỹ tại Phòng Giao dịch Sơn
Trà. Trong thời gian làm việc tại Phòng Giao dịch Sơn Trà, Ngoan thấy nhân
viên Kiểm soát tại Phòng Giao dịch Sơn Trà (Đặng Thị Hoàng Anh) và các
nhân viên kiểm ngân tại Tổ Ngân quỹ SHB chi nhánh Đà Nẵng (Phùng Thị
Thu Hằng, Nguyễn Thị Thu Sương, Lê Thị Hồng Đức) không trực tiếp kiểm
đếm tiền mặt tồn quỹ thực tế cuối ngày, nên Ngoan đã lợi dụng sơ hở chiếm
đoạt tiền tồn quỹ cuối ngày của Phòng Giao dịch Sơn Trà số tiền 785.500.200
đồng (Tám trăm bảy mươi lăm triệu hai trăm nghìn đồng).
Hành vi thiếu trách nhiệm trong hoạt động của các nhân viên ngân hàng
SHB chi nhánh Đà Nẵng Đặng Thị Hoàng Anh, Phùng Thị Thu Hằng,
Nguyễn Thị Thu Sương, Lê Thị Hồng Đức đã không thực hiện đúng nhiệm vụ
được giao, vi phạm Điều 18, Điều 21 Quy chế số 297 ngày 04/11/2009 của
Ngân hàng SHB về giao nhận, bảo quản, vận chuyển tiền mặt, giấy tờ có giá
và vi phạm quy trình ngân quỹ của Ngân hàng SHB số 909 ngày 01/12/2009
tạo sơ hở để Nguyễn Thị Ngoan lợi dụng lấy tiền, gây thiệt hại cho SHB Chi
nhánh Đà Nẵng 785.000.200đ.
+ Không thực hiện đúng quy trình thẩm định tài sản đảm bảo tiền vay,
tạo sở hở để các đối tượng chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng trên địa bàn TP
Đà Nẵng, điển hình như sau:
Vụ cán bộ tín dụng Ngân hàng Công thương Việt Nam - Chi nhánh Liên
Chiểu, TP. Đà Nẵng đã không làm hết trách nhiệm trong việc thẩm định hồ sơ
vay vốn để Phạm Quang Tuấn cùng một số người khác chiếm đoạt của ngân
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY
Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY

More Related Content

What's hot

Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tri thức truyền thống - Gửi miễ...
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tri thức truyền thống - Gửi miễ...Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tri thức truyền thống - Gửi miễ...
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tri thức truyền thống - Gửi miễ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Pháp luật quốc tế trong hợp tác đấu tranh, phòng chống tội phạm công nghệ cao...
Pháp luật quốc tế trong hợp tác đấu tranh, phòng chống tội phạm công nghệ cao...Pháp luật quốc tế trong hợp tác đấu tranh, phòng chống tội phạm công nghệ cao...
Pháp luật quốc tế trong hợp tác đấu tranh, phòng chống tội phạm công nghệ cao...Man_Ebook
 
Đề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
Đề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịchĐề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
Đề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịchDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tri thức truyền thống - Gửi miễ...
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tri thức truyền thống - Gửi miễ...Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tri thức truyền thống - Gửi miễ...
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với tri thức truyền thống - Gửi miễ...
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về quyền sử dụng đất nông nghiệp, HAY
Luận văn: Pháp luật về quyền sử dụng đất nông nghiệp, HAYLuận văn: Pháp luật về quyền sử dụng đất nông nghiệp, HAY
Luận văn: Pháp luật về quyền sử dụng đất nông nghiệp, HAY
 
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOTĐề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOTĐề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAYLuận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
 
Pháp luật quốc tế trong hợp tác đấu tranh, phòng chống tội phạm công nghệ cao...
Pháp luật quốc tế trong hợp tác đấu tranh, phòng chống tội phạm công nghệ cao...Pháp luật quốc tế trong hợp tác đấu tranh, phòng chống tội phạm công nghệ cao...
Pháp luật quốc tế trong hợp tác đấu tranh, phòng chống tội phạm công nghệ cao...
 
BÀI MẪU Khóa luận ngành xã hội học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận ngành xã hội học, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Khóa luận ngành xã hội học, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Khóa luận ngành xã hội học, HAY, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOTLuận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ, 9 ĐIỂM
Luận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ, 9 ĐIỂMLuận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ, 9 ĐIỂM
Luận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAYLuận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
Luận văn: Trách nhiệm hình sự về tội phạm về chức vụ, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
Đề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịchĐề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
Đề tài: Pháp luật về dịch vụ môi giới bất động sản trên sàn giao dịch
 
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt NamLuận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOTLuận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mạiLuận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
 

Similar to Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY

Luận văn: Ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân - Gửi miễn p...
Luận văn: Ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân - Gửi miễn p...Luận văn: Ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân - Gửi miễn p...
Luận văn: Ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdfHoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 

Similar to Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY (20)

Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư phápLuận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
 
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOTLuận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Phòng, chống buôn bán người ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quản lý của UBND tỉnh về xử lý vi phạm hành chính, 9đ
Luận văn: Quản lý của UBND tỉnh về xử lý vi phạm hành chính, 9đLuận văn: Quản lý của UBND tỉnh về xử lý vi phạm hành chính, 9đ
Luận văn: Quản lý của UBND tỉnh về xử lý vi phạm hành chính, 9đ
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Tội vu khống theo pháp luật hình sự Việt Nam, HAY, 9đ
 
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ, HOT
Đề tài: Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ, HOTĐề tài: Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ, HOT
Đề tài: Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ, HOT
 
Luận văn: Ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân - Gửi miễn p...
Luận văn: Ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân - Gửi miễn p...Luận văn: Ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân - Gửi miễn p...
Luận văn: Ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng pháp luật
Luận văn: Giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng pháp luậtLuận văn: Giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng pháp luật
Luận văn: Giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng pháp luật
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdfHoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.pdf
 
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đLuận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
Luận văn: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, 9đ
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàNguyen Thi Trang Nhung
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docxasdnguyendinhdang
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnKabala
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnKabala
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf4pdx29gsr9
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emTrangNhung96
 

Recently uploaded (20)

Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 

Luận văn: Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng luật hình sự, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN QUANG HUY BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU, THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN QUANG HUY BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ (TRÊN CƠ SỞ SỐ LIỆU, THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG) Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Quốc Toản Hà Nội - 2015
  • 3. 3 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ của rất nhiều cá nhân và tập thể. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trịnh Quốc Toản người đã tận tâm hướng dẫn tôi thực hiện quá trình nghiên cứu luận văn của mình. Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các quý thầy cô giáo, người đã đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm học vừa qua. Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Cục Điều tra - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, … đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và viết luận văn này. Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình. Đà Nẵng, tháng 5 năm 2015 Học viên Đoàn Quang Huy
  • 4. 4 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đoàn Quang Huy
  • 5. 5 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................7 CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ................................12 1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước và sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế.........................................................................12 1.1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước.................................. 12 1.1.2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế .....................................13 1.1.3. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý về kinh tế..................................................................................................................17 1.1.4. Đối tượng, nội dung và công cụ quản lý nhà nước về kinh tế..............20 1.1.5. Các công cụ quản lý Nhà nước về kinh tế...........................................22 1.2. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế Nhà nước bằng chế tài hình sự là đòi hỏi khách quan .............................................................................................28 1.3. Các dấu hiệu pháp lý chung và đường lối xử lý đối với các hành vi xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế.......................................29 1.3.1. Khái niệm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ........................30 1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý của nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế .30 CHƯƠNG II :CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC HÀNH VI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2009 ĐẾN NĂM 2014.......................33 2.1. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng các pháp luật hình sự từ sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 .....................................................................................................33
  • 6. 6 2.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước năm 1985..........................................33 2.1.2. Thời kỳ từ năm 1985 đến năm 1999 ...................................................38 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về các hành vi xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến năm 2014 ..........................................................................40 2.2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng........41 2.2.2. Tình hình xử lý các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến 2014 ......................................42 2.3. Những tồn tại, hạn chế trong áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế và nguyên nhân của nó..........53 2.3.1. Tồn tại và hạn chế ..............................................................................53 2.3.2. Nguyên nhân ......................................................................................57 CHƯƠNG III: NHU CẦU, QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CHẾ TÀI HÌNH SỰ ĐỂ BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ................59 3.1. Nhu cầu và quan điểm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế .............................59 3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế. ..................................................59 3.1.2. Quan điểm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để bảo vệ trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế...............................................61 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về các hành vi xâm phạm trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế.................................63 3.3. Một số giải pháp khác tăng cường hiệu quả áp dụng chế tài hình sự để bảo vệ trật tự quản lý nhà nước về kinh tế:...................................................70 KẾT LUẬN.................................................................................................. 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................76
  • 7. 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trước sự hội nhập, phát triển sâu rộng của nền kinh tế đất nước ta với nền kinh tế thế giới, đã mở ra cho đất nước những thời cơ, thuận lợi để phát triển và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nền kinh tế đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ với các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển đa dạng, phong phú. Bên cạnh đó, sự quản lý của Nhà nước về kinh tế ở tầm vĩ mô nhằm ổn định nền kinh tế, tạo môi trường lành mạnh cho các quan hệ kinh tế phát triển cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức do mặt trái của nền kinh tế thị trường đem lại. Tính chất vi phạm, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế diễn biến phức tạp, với phương thức, thủ đoạn, tính chất ngày càng tinh vi, sử dụng công nghệ cao, hình thành tổ chức xuyên quốc gia…vv, đã và đang đe dọa gây mất ổn định nền kinh tế đất nước. Pháp luật hình sự đóng vai trò hết sức quan trọng, là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước ta để đấu tranh, phòng ngừa tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay các quy định của pháp luật hình sự còn chưa được hoàn thiện, thực tiễn áp dụng thì hiệu lực, hiệu quả và tính đồng bộ chưa cao, chưa đáp ứng kịp thời với đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế và yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp. Thành phố Đà Nẵng với vị trí vùng kinh tế trung tâm, đầu mối giao thông trọng yếu của khu vực Miền trung và Tây nguyên đã và đang có những sự đổi thay, phát triển mạnh mẽ về kinh tế cùng với nền kinh tế đất nước. Tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn cũng diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn, đây là cơ sở quan trọng để nghiên
  • 8. 8 cứu, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự để bảo vệ trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế. Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế còn diễn biến phức tạp trong thời gian tới, đặt ra vấn đề cấp thiết cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự để tạo hành lang pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng pháp luật hình sự (trên cơ sở số liệu, thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng).” làm luận văn Thạc sĩ. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Vấn đề bảo vệ trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế bằng pháp luật hình sự, theo tìm hiểu của cá nhân đã được một số tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng chủ yếu là dưới góc độ tội phạm học hoặc Luật Hình sự, chưa có công trình hoặc Luận văn, Luận án nào nghiên cứu dưới góc độ của chuyên ngành Luật Kinh tế, đây cũng chính là những khó khăn và thuận lợi của tác giả khi chọn đề tài này làm Luận văn Thạc sĩ. Về tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận văn được sắp xếp như sau: - Hệ thống sách, Giáo trình quản lý của Nhà nước về kinh tế; Giáo trình, Bình luận khoa học Luật Hình sự như: “Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế” của trường Đại học Kinh tế quốc dân do GS.TS Đỗ Hoàng Toàn và PGS.TS Mai Văn Bưu chủ biên; Sách “Lịch sử Luật Hình sự Việt Nam” do Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2002; “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam” của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Sách “Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999” của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp; “Bình luận khoa học BLHS, phần các tội phạm”, tập VI, các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, của tác giả Đinh Văn Quế. Đề cương giáo trình “Đặc điểm tội phạm học của tội phạm về trật tự quản lý kinh
  • 9. 9 tế, chức vụ và giải pháp phòng chống” của TS. Phạm Quang Phúc (Đào tạo cao học - Chuyên ngành Tội phạm học và Điều tra tội phạm) năm 2005. - Luận án Tiến sĩ “Tội phạm hóa, phi tội phạm hóa; hình sự hóa, phi hình sự hóa những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương; Luận án Tiến sĩ của tác giả Bùi Minh Thanh: “Vi phạm pháp luật và đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay” (năm 2003); Luận án Tiến sĩ của tác giả Mai Thế Bày: “Đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế” (năm 2006). Những công trình này nghiên cứu về chính sách hình sự hoặc nghiên cứu các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế chủ yếu dưới góc độ Tội phạm học và Luật Hình sự. - Các công trình nghiên cứu thể hiện qua những bài viết trên các Tạp chí chuyên ngành, Hội thảo, các số chuyên đề như: Tài liệu hội thảo “Một số kinh nghiệm rút ra qua công tác giải quyết án kinh tế - chức vụ ở cấp phúc thẩm” Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (8/2012), “Một số vấn đề về hình sự hóa, phi hình sự hóa các hành vi phạm pháp trên lĩnh vực kinh tế trong chính sách hình sự hiện nay” của GS.TS Hồ Trọng Ngũ - UVTT Uỷ ban Quốc phòng An ninh của Quốc hội; “Hoàn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trước yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Ngọc Trí - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Tạp chí Dân chủ và Pháp luật “Dự án Bộ luật Hình sự (sửa đổi) nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”… 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu nhận thức chung về quản lý của Nhà nước về kinh tế và chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế qua các thời kỳ lịch sử; thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
  • 10. 10 Từ đó, Luận văn làm rõ những tồn tại, hạn chế và đề xuất, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự bảo vệ trật tự quản lý của Nhà nước ta về kinh tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về trật tự quản lý Nhà nước về kinh tế, chính sách hình sự về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế qua các thời kỳ lịch sử lập pháp và thực trạng đấu tranh, xử lý tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong 05 năm trở lại đây (từ năm 2009 đến 2014). 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong Chính sách hình sự về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng; sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh, … 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng pháp luật hình sự. Chương 2: Các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến năm 2014.
  • 11. 11 Chương 3: Nhu cầu, quan điểm và các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự để bảo vệ trật tự quản lý nhà nước về kinh tế.
  • 12. 12 CHƯƠNG I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước và sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế 1.1.1. Khái niệm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước Trước hết có thể hiểu trật tự là tình trạng ổn định, có thứ bậc trên dưới, trước sau... [19, tr.16]. Quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân (hoặc vắn tắt là quản lý Nhà nước về kinh tế) là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Quản lý kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý xã hội nói chung và nó phải gắn chặt với các hoạt động quản lý khác của xã hội. Quản lý nhà nước về kinh tế được thể hiện thông qua các chức năng kinh tế và quản lý kinh tế của Nhà nước [25, tr.21]. Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước về kinh tế được thực hiện qua ba cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp của Nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý kinh tế có tính chất nhà nước nhằm điều hành nền kinh tế, được điều hành bởi cơ quan hành hành pháp là Chính phủ [18, tr.51]. Từ các khái niệm nêu trên, thấy rằng Nhà nước quản lý về kinh tế để đảm bảo nền kinh tế, các quan hệ kinh tế phát triển ổn định theo đúng định hướng và theo trật tự do Nhà nước đặt ra. Bản chất của quản lý Nhà nước về kinh tế là đặc trưng thể chế chính trị của đất nước, sự đặc trưng này thể hiện rõ tính giai cấp của Nhà nước. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đây là mối quan hệ có tính biện chứng V.I. Lê-nin đã rút ra nguyên lý về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị: "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.
  • 13. 13 Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế" [31, tr 311 – 312]. Từ đó cho thấy, đường lối, chính sách phải phản ánh được nhu cầu và quy luật kinh tế; chỉ trong điều kiện đó, chính trị mới lãnh đạo, quản lý kinh tế có hiệu quả, mới giữ được vai trò chính trị. “Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường” [10]. Như vậy, Nhà nước chỉ quản lý về kinh tế trên tầm vĩ mô, giải quyết những quan hệ vĩ mô liên quan đến toàn bộ nền kinh tế, mà không can thiệp vào công việc nội bộ của doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh. Tóm lại, sự quản lý của Nhà nước về kinh tế đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của một quốc gia. Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định thì Nhà nước luôn có sự điều chỉnh, thay đổi về chính sách, đường lối trong hoạt động quản lý về kinh tế nhằm đảm bảo phù hợp với khả năng, điều kiện của đất nước và xu thế chung của thế giới. Bên cạnh đó để đảm đảm bảo sự ổn định, có trật tự của nền kinh tế thì Nhà nước cũng đặt ra những chế tài nghiêm khắc để trừng trị, răn đe những hành vi xâm phạm trật tự quản lý về kinh tế. Tùy theo mức độ của hành vi xâm phạm thì sẽ có những chế tài khác nhau. Đối với những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có mức độ nguy hiểm cao thì pháp luật hình sự sẽ điều chỉnh và sẽ bị cho là tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. 1.1.2. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế Nhà nước cũng như pháp luật là những hiện tượng có tính lịch sử. Nó chỉ ra đời và tồn tại trong những giai đoạn lịch sử xã hội nhất định. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và năng xuất lao động xã hội làm xuất hiện chế
  • 14. 14 độ tư hữu và xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng không thể điều hòa được, thì Nhà nước ra đời. Nhà nước đặt các quy tắc xử sự mới thể hiện ý chí của giai cấp thống trị thay cho tập tục lạc hậu và thừa nhận các quy tắc tập quán còn phù hợp để nâng lên thành luật để điều hành cá c quan hệ xã hội [25, tr.10]. Nhà nước quản lý kinh tế là một xu hướng tất yếu của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, vì đất nước muốn phát triển, muốn đi lên tất yếu là phải đi từ kinh tế, phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu để phát triển đất nước, để nền kinh tế đi đúng hướng và phát triển thì phải có sự quản lý của Nhà nước. Sự cần thiết Nhà nước phải quản lý về kinh tế thể hiện ở những lý do sau: Thứ nhất, Kinh tế là lĩnh vực hoạt động xã hội chứa đựng mâu thuẫn giai cấp trực tiếp và sâu sắc nhất: V.I.Lê-nin khẳng định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của Nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được” [29, tr 9]. Giai cấp được phân hoá và hình thành trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực này thì mâu thuẫn luôn gay gắt vì đây là mối quan hệ có tính lợi ích và bóc lột, khi mâu thuẫn này đến đỉnh điểm thì sẽ xảy ra sự đấu tranh bằng bạo lực, gây mất ổn định kinh tế, xã hội và đất nước. Nhà nước về bản chất “chỉ là một tổ chức thống trị của một giai cấp” [30, tr 303 ] và “bất cứ Nhà nước nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp khác” [31, tr 122]. Nhưng Nhà nước ta, với bản chất là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vì vậy bảo vệ tính giai cấp của Nhà nước - chính là bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân lao động, xóa bỏ sự áp bức, bóc
  • 15. 15 lột, Nhà nước phải can thiệp vào lĩnh vực kinh tế để giải quyết và điều hòa các mâu thuẫn lợi ích về kinh tế giữa chủ - thợ, qua đó Nhà nước góp phần ổn định nền kinh tế đất nước. Thứ hai, Nhà nước quản lý về kinh tế là để khắc phục nhược điểm, kiểm soát các quy luật và mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường: Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ. Ba quy luật trên cơ bản điều chỉnh nền kinh tế thị trường – dẫn đến lý thuyết kinh tế thị trường tự do. Thực tế chứng minh, kinh tế thị trường luôn có những mặt trái tồn tại là: Luôn luôn có nguy cơ mất cân đối cung - cầu tạo ra các cuộc khủng hoảng thừa hoặc khủng hoảng thiếu; vì mục tiêu lợi nhuận và cạnh tranh, doanh nghiệp ít quan tâm đến lợi ích chung của xã hội, lợi ích của cộng đồng (gây ô nhiễm, phá hoại môi trường, trốn thuế, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng…); bản chất kinh tế thị trường là làm giàu cho một bộ thiểu số trong xã hội chứ không phải đa số trong xã hội vì vậy luôn tạo ra sự phân hóa về giàu – nghèo trong xã hội. Nhận thức được vấn đề trên, từ khi đất nước mở cửa và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong các văn kiện Đại hội đảng, Nhà nước ta đã nhấn mạnh vai trò và sự cần thiết của quản lý Nhà nước về kinh tế thị trường là "Bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" [32, tr 78]. Thứ ba, Nhà nước quản lý về kinh tế nhằm hỗ trợ, đảm bảo, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển đồng đều: Nhà nước ta đảm bảo phát triển nhanh, hài hoà các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, trong đó: Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng
  • 16. 16 mà nòng cốt là hợp tác xã. Khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển theo quy hoạch. Hoàn thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Thứ tư, Nhà nước quản lý về kinh tế vì trong nền kinh tế quốc dân có một phần kinh tế Nhà nước: Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã nhấn mạnh “Phải tăng cường tiềm lực và nâng cao hiệu quả của kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô” [10]. Nhà nước ta khẳng định vai trò quan trọng, chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân, Nhà nước xây dựng trò của kinh tế Nhà nước để có phương tiện và điều kiện để can thiệp một cách mạnh mẽ vào nền kinh tế. Thông qua kinh tế Nhà nước, Nhà nước ta can thiệp và điều tiết nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế, các quan hệ xã hội phát triển theo đúng định hướng, trật tự Nhà nước đã đề ra. Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Song song với những ưu điểm vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế hay còn gọi là mặt trái của cơ chế thị trường tác động tiêu cực đến bản chất xã hội chủ nghĩa như xu hướng phân hóa giàu. Vì vậy, quản lý nhà nước về kinh tế là một yêu cầu cần thiết khách quan, nhằm điều tiết các thành phần kinh tế và
  • 17. 17 thị trường hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực xã hội [27]. 1.1.3. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý về kinh tế 1.1.3.1. Mục tiêu của Nhà nước về quản lý kinh tế Mục tiêu chung mà Đảng và Nhà nước ta xác định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, giai đoạn 2010 – 2012 là “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”. Tóm tại, mục tiêu chung, cuối cùng cần phấn đấu đạt được chính là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh….” [14] Qua đó thấy rằng quản lý Nhà nước về mục tiêu cũng gắn liền với mục tiêu chung của kinh tế - xã hội đất nước theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Trong lĩnh vực quản lý kinh tế, Nhà nước đặt mục tiêu quan trọng nhất, hàng đầu là mục tiêu “Đảm bảo ổn định nền kinh tế vĩ mô”, bên cạnh các mục tiêu tăng trưởng và mục tiêu công bằng xã hội. Ba mục tiêu này là mục tiêu cơ bản để đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất nước trong nền kinh tế thế giới. 1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong của quản lý Nhà nước về kinh tế Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng và giai đoạn tác động có chủ đích của Nhà nước tới nền kinh tế quốc dân, là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà Nhà nước phải tiến hành trong
  • 18. 18 quá trình quản lý nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường, vận hành bằng cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước thì chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế được xác định là chức năng quản lý kinh tế vĩ mô với các nội dung cơ bản như sau: - Chức năng định hướng, hướng dẫn phát triển kinh tế: Trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, căn cứ vào các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Đảng đã đề ra, Nhà nước định hướng phát triển kinh tế. Thực hiện chức năng, định hướng của Nhà nước là: Xác định có căn cứ khoa học những mục tiêu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế quốc gia, phát triển các ngành và vùng lãnh thổ. Lập các quy hoạch, kế hoạch đồng thời lựa chọn các biện pháp chủ yếu để đạt được các mục tiêu đó trong thời gian nhất định. Nhà nước càng thực hiẹn tốt chức năng định hướng càng tránh được rủi ro cho các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong thời kỳ mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường, Nhà nước càng phải tăng cường định hướng, hướng phát triển kinh tế, vì: Các doanh nhân tự chủ kinh doanh nhưng chưa thể nắm được tình hình, xu hướng vận động của thị trường, dễ gây thua lỗ, thất bại và đổ vỡ, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Nhà nước phải định hướng nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo và mục tiêu kinh tế - xã hội đã được Đảng và Nhà nước định ra. Nhà nước định hướng phát triển kinh tế và hướng dẫn các nhà kinh doanh, các tổ chức kinh tế hoạt động đúng định hướng nhằm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch mà Nhà nước đã vạch ra. - Chức năng tổ chức thực hiện nền kinh tế Nhà nước có nhiệm vụ sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, trong đó quan trọng và cấp thiết hơn cả là sắp xếp, củng cố lại các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm tạo nên cơ cấu kinh tế hợp lý. Nhà nước còn có trách nhiệm tổ chức lại hệ thống quản lý, sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế từ Trung ương
  • 19. 19 đến cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, đào tạo và đào tạo lại, sắp xếp các cán bộ công chức quản lý Nhà nước và quản lý doanh nghiệp, thiết lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức quốc tế. - Chức năng Nhà nước điều chỉnh, điều tiết quan hệ thị trường Trong khi điều hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước vừa phải tuân thủ và vận dụng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường định hướng, phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường, vừa điều tiết, chi phối thị trường hoạt động theo định hướng của Nhà nước, đảm bảo cho kinh tế phát triển ổn định, công bằng và có hiệu quả. Để điều tiết, Nhà nước sử dụng hàng loạt biện pháp bao gồm các chính sách, các đòn bẩy kinh tế, các công cụ tài chính, thuế, tín dụng. - Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật, sai phạm chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và từng bước thực hiện công bằng xã hội. Để bảo đảm tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản công, khắc phục khuyết tật của kinh tế thị trường và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động sản xuất kinh doanh Nhà nước phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát. Các chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trên chỉ có thể thực hiện tốt khi có những giải pháp đồng bộ, không thể thực hiện rời rạc từng chức năng. Nói đến chức năng tạo lập môi trường thuận lợi mà không chú ý đúng mức đến chức năng tổ chức, sắp xếp lại cơ quan, bố trí hợp lý cán bộ và cải cách hành chính thì không thể có môi trường thuận lợi. Cũng tương tự như vậy, nếu Nhà nước không làm tốt chức năng điều tiết, kiểm tra thì không thể tạo lập được môi trường lành mạnh và bình đẳng. Đại hội X của Đảng tiếp tục xác định Nhà nước tập trung làm tốt các
  • 20. 20 chức năng: Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế. Thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tách chức năng quản lý hành chính của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ "chế độ chủ quản"; tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp; phát triển mạnh các dịch vụ công cộng (giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục thể thao). Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính và tiền tệ, bảo đảm tính ổn định và sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia. 1.1.4. Đối tượng, nội dung và công cụ quản lý nhà nước về kinh tế 1.1.4.1. Đối tượng quản lý nhà nước về kinh tế * Dựa vào cấu trúc của nền kinh tế quốc dân gồm: - Tài nguyên quốc gia: Là một đối tượng quản lý quan trọng nhưng tuỳ vào mỗi quốc gia thì có sự quản lý khác nhau. Tài nguyên không chỉ dành cho người đương thời mà còn cho đời sau nên cần coi quản lý tài nguyên như 1 nội dung về kinh tế. - Dự trữ quốc gia gồm: Vật tư, nội, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, đó là 1 phần của tổng sản phẩm quốc dân được dùng để bảo hiểm đất nước trước các rủi ro, do đó nhà nước cũng cần quản lý đối tượng này. - Hệ thống kết cấu hạ tầng gồm: Các công trình giao thông, hệ thống thoát nước, phương tiện truyền dẫn ... do ngân sách quốc gia đầu tư và xây dựng. Hệ thống này phục vụ nhiều cho kinh tế nên cần quản lý. - Các doanh nghiệp: Quản lý Nhà nước về kinh tế chủ yếu là quản lý doanh nghiệp, các tế bào của nền kinh tế, là nhân vật chính nên nó là 1 đối tượng quản lý quan trọng.
  • 21. 21 * Xét cấu trúc của quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm: - Quá trình đầu tư xây dựng kinh tế. - Quá trình vận hành của nền kinh tế. * Xét các mặt hoạt động của nền kinh tế bao gồm: - Vấn đề quan hệ sản xuất được giải quyết tốt sẽ tạo ra sự phù hợp và thích ứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất từ đó nền kinh tế sẽ phát triển và ngược lại. - Nhà nước thường quản lý các mặt sau đây: Quyền sở hữu của nhà nước với các loại tài sản quốc gia, về sự cho phép tồn tại của các loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, về loại hình doanh nghiệp. - Vấn đề tổ chức sản xuất: Thì nhà nước quản lý về cơ cấu kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. + Nhà nước quản lý về quy mô doanh nghiệp, phân công việc làm và hợp tác trong nền kinh tế quốc dân, vấn đề phân bố địa lý của doanh nghiệp, vấn đề quan hệ quốc tế của nền kinh tế. - Vấn đề chất lượng sản phẩm, vệ sinh môi trường. Chất lượng sản phẩm thì nhà nước lại quản lý ở 2 lĩnh vực chủng loại sản phẩm và chất lượng sản phẩm. - Vấn đề tiến bộ khoa học - công nghệ trong kinh tế: Nhà nước quản lý các mặt như: thành tựu cụ thể của khoa học công nghệ trong và ngoài nước. Đối tác mà các doanh nghiệp có quan hệ trong việc thực hiện các định hướng tiến bộ khoa học công nghệ nói trên. - Vấn đề tổ chức quản lý: Nội dung cơ bản là cơ cấu bộ máy quản trị kinh doanh tại các doanh nghiệp, chế độ ghi chép hạch toán, thống kế, chế độ
  • 22. 22 thanh toán qua ngân hàng. 1.1.4.2. Nội dung quản lý Nhà nước về kinh tế Việc quản lý nhà nước về kinh tế bao gồm các nội dung cơ bản sau đây: Thứ nhất, tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế; Thứ hai, xây dựng phương hướng, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cụ thể là: Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xây dựng hệ thống chính sách, tư tưởng chiến lược để chỉ đạo việc thực hiện các mục tiêu đó. Thứ ba, xây dựng pháp luật kinh tế: Hệ thống pháp luật kinh tế gồm rất nhiều loại. Về tổng thể, hệ thống đó bao gồm hai loại chính sau: - Hệ thống pháp luật theo chủ thể hoạt động kinh tế như Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại v.v… Loại hình pháp luật này thực chất là Luật tổ chức các đơn vị kinh tế, theo đó, sân chơi kinh tế được xác định trước các loại chủ thể tham gia cuộc chơi do Nhà nước làm trọng tài. - Hệ thống pháp luật theo khách thể như Luật Tài nguyên môi trường, được Nhà nước đặt ra cho mọi thành viên trong xã hội, trong đó chủ yếu là các doanh nhân, có tham gia vào việc sử dụng các yếu tố nhân tài, vật lực và tác động vào môi trường thiên nhiên. Thứ tư, tổ chức hệ thống các doanh nghiệp; Thứ năm, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động kinh tế của đất nước; Thứ sáu, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các đơn vị kinh tế; Thứ bảy, thực hiện và bảo vệ lợi ích của xã hội, của nhà nước và của công dân; 1.1.5. Các công cụ quản lý Nhà nước về kinh tế
  • 23. 23 Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đề ra. Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện mà Nhà nước sử dụng để thực hiện các chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định. Thông qua các công cụ quản lý với tư cách là vật truyền dẫn tác động quản lý của Nhà nước mà Nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình đến các chủ thể, các thành viên tham gia hoạt động trong nền kinh tế. Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều loại, trong đó có công cụ quản lí thể hiện mục tiêu, ý đồ của Nhà nước, có công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các chủ thể kinh tế, có công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, có công cụ vật chất thuần túy….“Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường.” [10] Thứ nhất, nhóm công cụ thể hiện ý đồ, mục tiêu quản lý của Nhà nước. Xác định mục tiêu quản lý là việc khởi đầu quan trọng trong hoạt động quản lý Nhà nước về kinh tế. Các mục tiêu chỉ ra phương hướng và các yêu cầu về số lượng, chất lượng cho các hoạt động quản lý của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Các công cụ thể hiện ý đồ, mục tiêu của quản lý có thể bao gồm: - Đường lối phát triển kinh tế - xã hội: Đường lối phát triển kinh tế - xã hội là khởi đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước do Đảng cầm quyền của các quốc gia xây dựng và thực hiện, đó là việc xác định trước một cái đích mà nền kinh tế cần đạt tới, để từ đó mới căn cứ vào thực trạng hoàn cảnh của nền kinh tế mà tìm ra lối đi, cách đi, trình tự và thời hạn tiến hành để đạt tới đích đã xác định. Ở nước ta, đường lối phát triển kinh tế
  • 24. 24 đất nước gắn liền với phát triển xã hội và do Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng qua các thời kỳ đại hội. Đường lối phát triển kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với vận mệnh của đất nước, nó được coi là công cụ hàng đầu của Nhà nước trong sự nghiệp quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Đường lối đúng sẽ đưa đất nước đến phát triển, ổn định, giàu mạnh công bằng và văn minh. Đường lối sai sẽ đưa đất nước đi lầm đường lạc lối, là tổn thất, là đổ vỡ, là suy thoái, là hậu quả khôn lường về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. - Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là một hệ thống các quan điểm cơ bản, các mục tiêu lớn và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn nhằm đạt được một bước đường lối phát triển kinh tế đất nước trong một chặng thời gian đủ dài. Thực chất chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là sự cụ thể hóa đường lối phát triển doanh nghiệp trong mỗi chặng đường lịch sử của đất nước (thường là 10 năm, 15 năm, hoặc 20 năm) và cũng do Đảng cầm quyền chỉ đạo và xây dựng. Ở nước ta, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội do Đảng Cộng Sản Việt Nam xây dựng trong các Đại hội Đảng toàn quốc, như chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, đến năm 2020. - Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội: Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội là việc đính hướng phát triển kinh tế dài hạn. Trong đó, xác định rõ qui mô và giới hạn cho sự phát triển. Thực chất qui hoạch là xác định khung vĩ mô về tổ chức không gian nhằm cung cấp những căn cứ khoa học cho các cơ quan quản lý Nhà nước để chỉ đạo vĩ mô nền kinh tế thông qua các kế hoạch, các chương trình, dự án đầu tư bảo đảm cho nền kinh tế phát triển mạnh, bền vững và có hiệu quả. Thực chất của qui hoạch là cụ thể hóa chiến lược về không gian và thời gian. Trên thực tế, công tác quản lý kinh tế của Nhà nước có các loại quy
  • 25. 25 hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch ngành, quy hoạch địa phương…. - Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội: Kế hoạch là cụ thể hóa chiến lược dài hạn, gồm có kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn, kế hoạch hàng năm. Thực chất, kế hoạch là một hệ thống các mục tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản được xác định như: tốc độ phát triển nền kinh tế, cơ cấu kinh tế, các cân đối lơn….các chỉ tiêu kế hoạch này bao quát các ngành, các vùng, các lĩnh vực và thành phần kinh tế. Ở Việt Nam, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội được xem là công cụ quan trọng trong quản lý nền kinh tế của Nhà nước. - Chương trình phát triển kinh tế - xã hội: Chương trình phát triển kinh tế - xã hội là tổ hợp các mục tiêu, các nhiệm vụ, các thủ tục, các bước phải tiến hành, các nguồn lực và các yếu tố cần thiết để thực hiện một ý đồ lớn, một mục tiêu nhất định đã được xác định trong một thời kỳ nhất định. Ví dụ: chương trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, chương trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chương trình phát triển kinh tế đối ngoại, chương trình phát triển công nghiệp, chương trình phát triển kết cấu hạ tầng, chương trình phát triển khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường sinh thái, chương trình phát triển dịch vụ, chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc, chương trình xóa đói giảm nghèo…. - Chương trình là cơ sở quan trọng để tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào việc giải quyết có hiệu quả những nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch Nhà nước trong từng thời kì và cho phép khắc phục tình trạng tách rời giữa các nhiệm vụ của kế hoạch đã được xác định để thực hiện kế hoạch Nhà nước một cách có hiệu quả nhất.
  • 26. 26 Thứ hai, nhóm công cụ thể hiện chuẩn mực xử sự hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động trong nền kinh tế. Pháp luật là công cụ chủ yếu để nhà nước quản lý về kinh tế. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý của mình đối với xã hội nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng, chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp luật. Điều 8 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Pháp luật về kinh tế được hiểu là hệ thống văn bản có tính quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành để thể hiện ý chí, quyền lực của Nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ trong nền kinh tế. Hệ thống văn bản pháp luật trong quản lý Nhà nước về kinh tế có hai loại văn bản: Văn bản qui phạm pháp luật và văn bản áp dụng quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật gồm: (1) Văn bản do Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, nghị quyết, pháp lệnh, (2) Văn bản do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác ở Trung ương ban hành để thi hành Việt Nam quy phạm pháp luật của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: Lệnh, quyết định, chỉ thị, nghị quyết, thông tư, (3) Văn bản do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp ban hành để thi hành các quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và của cơ quan Nhà nước cấp trên. Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật trong quản lý Nhà nước về kinh tế là những quy phạm pháp luật được ban hành để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể đối với đối tượng cụ thể như các quyết định bổ, miễn nhiệm, đề bạt, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật, điều động công tác đối với cán bộ công chức Nhà nước…
  • 27. 27 Thứ ba, nhóm công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong viêc điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế. Công cụ thể hiện tư tưởng, quan điểm của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động của nền kinh tế, đó là chính sách kinh tế. Chính sách kinh tế là một hệ thống phức tạp gồm nhiều loại: - Chính sách phát triển các thành phần kinh tế. - Chính sách tài chính với các công cụ chủ yếu: Chi tiêu của Chính phủ và thuế. - Chính sách tiền tệ với các công cụ chủ yếu: Kiểm soát mức cung tiền và lãi suất. - Chính sách thu nhập với các công cụ chủ yếu: Giá cả và tiền lương - Chính sách ngoại thương với công cụ chủ yếu: Thuế nhập khẩu, hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu, tỉ giá hối đoái, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế… Thứ tư, nhóm công cụ vật chất làm động lực tác động vào đối tượng quản lý. Công cụ vật chất được dùng làm áp lực, hoặc động lực tác động vào đối tượng quản lý của Nhà nước có thể bao gồm: - Đất đai, rừng, núi, sông hồ, các nguồn nước, thềm lục địa…. - Tài nguyên trong lòng đất. - Dự trữ quốc gia, bảo hiểm quốc gia. - Vốn và tài sản của Nhà nước trong các doanh nghiệp. - Các loại quỹ chuyên dùng vào công tác quản lý của Nhà nước. Thứ năm, nhóm công cụ để sử dụng các công cụ nói trên. Chủ thể sử dụng các công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế đã trình bày ở trên là các cơ quan quản lý của Nhà nước về kinh tế. Đó là các cơ quan
  • 28. 28 hành chính Nhà nước, các công sở và các phương tiện kinh tế - kỹ thuật được sử dụng trong hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước. 1.2. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế Nhà nước bằng chế tài hình sự là đòi hỏi khách quan Quản lý hoạt động kinh tế nhằm mục đích sản xuất nhiều hàng hóa, tạo điều kiện phát triển xã hội, đồng thời điều chỉnh các hoạt động kinh tế theo trật tự của giai cấp thống trị là đòi hỏi khách quan của bất kỳ Nhà nước nào. Vai trò bảo vệ trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước bằng các chế tài hình sự được thể hiện qua cách qui định tội phạm và hình phạt áp dụng đối với người có hành vi xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế. Đó cũng là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với bất kỳ Nhà nước nào bởi chính sự tồn tại, phát triển của hệ thống những quan hệ xã hội trong lĩnh vực này có ý nghĩa góp phần quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế đất nước. Do tính chất và đặc điểm của các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế luôn bị chi phối bởi, biến động bởi chính sách kinh tế theo từng thời kỳ lịch sử của Nhà nước, nên trong giai đoạn đất nước mở cửa nền kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì, tình hình vi phạm trong lĩnh vực kinh tế nói chung, và các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nói riêng đang tiếp tục diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Các hành vi này xảy ra phổ biến, nghiêm trọng trên các lĩnh vực, các ngành, nhất là những ngành và lĩnh vực kinh tế trọng điểm như Ngân hàng, tài chính, quản lý đất đai, chứng khoán….Thực tế đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến trật tự quản lý kinh tế của đất nước, là rào cản tới sự ổn định, phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chế tài hình sự Hình sự là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc quản lý xã hội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức
  • 29. 29 và của công dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, để quản lý Nhà nước về kinh tế có hiệu quả, đảm bảo sự phát triển ổn định nền kinh tế thì biện pháp bảo vệ hữu hiệu nhất đó chính là bằng pháp luật hình sự. 1.3. Các dấu hiệu pháp lý chung và đường lối xử lý đối với các hành vi xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra từ Đại hội VI đến nay từng bước trở thành hiện thực. Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu đã được xác lập là điều kiện để từng bước xoá bỏ nền kinh tế tập trung, bao cấp không còn phù hợp nữa. Các quan hệ kinh tế và quản lý kinh tế thay đổi. Muốn cho nền kinh tế phát triển, thì điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là đường lối đúng đắn của Đảng phải được thể chế hoá bằng pháp luật. Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X cùng với việc sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến việc đổi mới quản lý kinh tế đã có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển. Các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985 về các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cũng không còn phù hợp, đòi hỏi phải thay đổi mới thúc đẩy kinh tế phát triển. Bộ luật Hình sự năm 1999 ra đời là một yêu cầu cấp thiết, đáp ứng yêu cầu trên. Do tính chất và đặc điểm của các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế luôn luôn bị chi phối bởi những chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn dài ngắn khác nhau, có hành vi hôm trước là tội phạm nhưng hôm sau không còn là tội phạm nữa, thậm chí còn được coi là công trạng. Vì vậy, Bộ luật Hình sự chỉ quy định những dấu hiệu đặc trưng của tội phạm còn hành vi cụ thể xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế nào, do
  • 30. 30 ai quy định lại phải căn cứ vào các văn bản của Nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế mới xác định được [12]. 1.3.1. Khái niệm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế Trên thế giới quan niệm về tội phạm kinh tế thường được hiểu rất rộng, bao gồm các tội phạm liên quan đến tài sản (số đối tượng là tài sản), các tội phạm liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực thương mại và thậm chí trong lĩnh vực môi trường. Trong khoa học Luật Hình sự Việt Nam, tội phạm kinh tế được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, tội phạm kinh tế được hiểu theo nghĩa trên và được quy định không chỉ trong các chương các tội phạm về kinh tế mà cả trong các chương khác của Bộ luật Hình sự. Còn theo nghĩa hẹp, các tội phạm được quy định ở Chương VII Bộ luật Hình sự 1985 và Chương XI Bộ luật Hình sự 1999 chỉ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, còn các tội phạm khác xâm phạm sở hữu, tội phạm về môi trường…đã được quy định ở các chương riêng khác. Như vậy, khách thể loại của tội phạm này chỉ là các quan hệ xã hội thể hiện trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước ta. [1, tr.178, 179] Như vậy, khái niệm tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được hiểu như sau: Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, của các tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về quản lý nền kinh tế [28, tr.275]. 1.3.2. Các dấu hiệu pháp lý của nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế 1.3.2.1.Khách thể của tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
  • 31. 31 Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế xâm phạm đến các quan hệ xã hội bảo đảm cho sự ổn định và phát triển nền kinh tế quốc dân. Đó là chế độ quản lý, điều hành toàn bộ nền kinh tế của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích của nhà nước, của các tổ chức kinh tế, quyền và lợi ích, tính mạng, sức khoẻ của người tiêu dùng,… được thể chế hoá trong những quy định pháp luật của Nhà nước. 1.3.2.2. Mặt khách quan của tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế Mặt khách quan của các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được thể hiện ở các hành vi cố ý vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế ở các mức độ khác nhau với mục đích vụ lợi. Hành vi phạm tội được thực hiện có thể là hành động hoặc không hành động và đã gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân hoặc cho từng ngành, lĩnh vực nhất định. Hậu quả có thể ở những mức độ rất khác nhau (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) như: Làm rối loạn thị trường, mất cân đối cung cầu, làm ảnh hưởng xấu đến nền sản xuất hàng hoá trên đất nước; thậm chí có những tội phạm còn làm cho người tiêu dùng thiệt hại không những cả về vật chất, sức khoẻ mà có khi còn nguy hiểm đến tính mạng…. Đối với một số tội, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. 1.3.2.3. Chủ thể của tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế Chủ thể của các tội phạm này có thể là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Trong một số tội, chủ thể phải là người có chức vụ, quyền hạn nhất định trong các cơ quan, tổ chức kinh tế (chủ thể đặc biệt). 1.3.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
  • 32. 32 Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp. Khi thực hiện hành vi, người phạm tội đều ý thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc với ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Mục đích và động cơ phạm tội chủ yếu là vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. 1.3.2.5. Đường lối xử lý đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, các quy định trong Chương XVI Bộ luật Hình sự đã có sự phân định rõ mức độ nào thì coi là tội phạm và mức độ nào chưa phải là tội phạm, đồng thời để phân loại tội phạm thành tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng và quy định hình phạt phù hợp với từng hành vi vi phạm cụ thể. Đối với một số tội phạm gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như tội buôn lậu; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lượng thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 153, Điều 157); tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (Điều 180), mức cao nhất của khung hình phạt quy định đến chung thân, tử hình. Mặt khác, các tội này thường nhằm mục đích vụ lợi nên đối với người phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng, để tạo điều kiện và giáo dục họ trở thành người tốt, hình phạt chính chỉ áp dụng là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn. Đối với những trường hợp phạm tội nghiêm trọng, tuỳ theo hậu quả và mức độ thu lợi bất chính mà người phạm tội có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung như: Phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. [28, tr.249 - 250]
  • 33. 33 CHƯƠNG II :CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC HÀNH VI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 2009 ĐẾN NĂM 2014 2.1. Bảo vệ trật tự quản lý kinh tế bằng các pháp luật hình sự từ sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 2.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến trước năm 1985 2.1.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954 Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất nước vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, lại bị Pháp, Nhật vơ vét, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá. Ở miền Bắc, khoảng 200.000 quân Tưởng Giới Thạch mượn danh nghĩa Đồng Minh vào tước vũ khí quân Nhật, với dã tâm là giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Ở miền Nam, quân đội Pháp được quân Anh yểm trợ xâm lược chiếm Sài Gòn, rồi sau đó đánh rộng ra các tỉnh ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Trong tình hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn, đã là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm và "Đảng ta xác định giữ vững chính quyền là nhiệm vụ hàng đầu" [16, tr. 468.]. Chính vì vậy, ngay từ khi mới hình thành, pháp luật hình sự của chính quyền nhân dân đã tập trung phục vụ thực hiện các nhiệm vụ đó Nhà nước đã ban hành một số sắc lệnh quan trọng làm cơ sở pháp lý cho công tác phòng ngừa, đấu tranh chống các hành vi nguy hiểm về kinh tế như: Để đấu tranh chống giặc đói, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh sè: 7-SL ngày 5-9-1945 cấm đầu cơ, tích trữ thóc, gạo và
  • 34. 34 tiếp theo đó ban hành Sắc lệnh số 45-SL ngày 9-10-1945: "Cho đến khi có lệnh mới, khắp toàn cõi Việt Nam cấm hẳn việc xuất cảng ra ngoại quốc thóc, gạo, ngô, đỗ hoặc các chế phẩm thuộc về ngò cốc. Ai trái với Sắc lệnh này sẽ bị phạt theo quân luật và tài sản sẽ bị tịch thu [2, tr 145]. Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 68-SL ngày 18-6-1949 về việc cấm phá hoại các công trình thủy nông, Sắc lệnh số 61-SL ngày 1-5-1950 về việc tiết kiệm thóc gạo; Sắc lệnh số 180-SL ngày 20-12-1950 về việc phá hoại tiền tệ, phá hoại giá trị bạc Việt Nam; Sắc lệnh số 56, ký ngày 7-11-1945, uỷ nhiệm cho Bộ Quốc dân kinh tế (Nha kỹ nghệ) và Bộ Tuyên truyền kiểm soát việc sản xuất, nhập cảng và phân phối giấy, bìa trong cả nước, Sắc lệnh số 57, ký ngày 10-11-1945, nghiêm cấm sản xuất, tàng trữ, tiêu thụ, mua bán rượu được chế từ ngũ cốc và mức phạt khi phạm các điều trên; Sắc lệnh số 109 - SL, ngày 23-9-1949, bổ sung về việc truy tố hành vi vi phạm thể lệ mậu dịch với vùng địch tạm chiếm. Ngoài ra, các chế tài hình sự còn góp phần răn đe nhằm bảo đảm thực hiện các loại thuế phục vụ kháng chiến như thuế nông nghiệp, thuế doanh nghiệp, thuế lợi tức doanh nghiệp, thuế hàng hóa, thuế buôn chuyến, thuế sát sinh, thuế kinh doanh nghệ thuật, thuế thổ trạch. Mặt khác, để làm nên thắng lợi của cuộc cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của bọn địa chủ, phong kiến, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 89-SL ngày 22-5- 1950 về việc trừng trị đối với những kẻ dùng thủ đoạn man trá hoặc đầu cơ, bóc lột để cho vay [15, tr 54-59]. 2.1.1.2. Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975 Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Tình hình đó đã hình thành ở nước ta "hai khu vực có chế độ chính trị và xã hội khác nhau" [9, tr.505]. Ở miền Bắc, tiến hành cách mạng
  • 35. 35 xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở miền Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Pháp luật hình sự trong thời kỳ này phải phục vụ thực hiện thắng lợi hai chiến lược cách mạng đó. Sau khi chúng ta thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960 – 1965) và nhất là từ khi đế quốc Mỹ gây ra chiến tranh phá hoại ở miền Bắc nước ta, công tác tổ chức quản lý kinh tế, việc xây dựng và thi hành các chế độ, thể lệ về quản lý kinh tế có phần bị buông lỏng; công tác giáo dục và phát động quần chúng đông đảo tham gia bảo vệ của công làm chưa tốt. Việc trừng trị những hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa cũng thiếu nghiêm minh và kịp thời. Những hiện tượng tiêu cực như tham ô, trộm cắp, lãng phí tài sản của Nhà nước và của hợp tác xã chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả. Chính vì vậy, ngày 21-10-1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Trừng trị các hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa. Pháp lệnh đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tài sản xã hội chủ nghĩa, trong đó nêu ra hai bộ phận cấu thành của tài sản xã hội chủ nghĩa là: Tài sản của Nhà nước – tức là của toàn dân - và tài sản của hợp tác xã, các tổ chức hợp pháp khác của nhân dân – tức là tài sản của tập thể. Trong Pháp lệnh này, 16 loại hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa đã được quy định cụ thể với các chế tài hình sự rõ ràng. Đặc biệt, Pháp lệnh đã phân biệt rõ ba hành vi: Tội Cướp tài sản xã hội chủ nghĩa, tội Cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa, tội Cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. [15, tr 60-72] 2.1.1.3. Thời kỳ từ năm 1976 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất năm 1985
  • 36. 36 Với Đại thắng mùa Xuân năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nước nhà được thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng cả nước bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời gian từ năm 1978 đến những năm 1980, 1981, tình hình đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép diễn biến phức tạp, gây rối loạn thị trường, ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch nhà nước và đời sống của nhân dân. Đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực trên thị trường là một yêu cầu cấp bách nhằm thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa trên mặt trận phân phối lưu thông, góp phần ổn định giá cả, thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống của nhân dân. Pháp lệnh Trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 30-6-1982 là để đáp ứng yêu cầu trên và nguyện vọng của nhân dân. Ngoài ra, Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam ngày 27-5-1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Quyết định số 29/QĐ/76 về việc trừng trị các tên tư sản mại bản phạm tội lũng đoạn, đầu cơ, tích trữ, phá rối thị trường. Quyết định này đã quy định đối tượng xét xử của Tòa án nhân dân đặc biệt là: "Những tên tư sản mại bản, trước đây câu kết với Mỹ ngụy, phục vụ chiến tranh xâm lược của chúng, làm giàu trên xương máu của nhân dân, hoặc dùa vào thế lực của chúng để đầu cơ tích trữ, độc quyền, lũng đoạn trong một ngành hay nhiều ngành, ở một địa phương hay nhiều địa phương; những tên tư sản mại bản hiện nay vẫn tiếp tục đầu cơ tích trữ, lũng đoạn kinh tế, phá rối thị trường, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân; những tên tư sản mại bản vẫn che giấu, tiếp tay cho bọn phản cách mạng hiện hành". 2.1.1.4. Chính sách hình sự về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong Bộ luật Hình sự được pháp điển hóa năm 1985
  • 37. 37 Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, V, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã giành được những thành tựu quan trọng trên một số lĩnh vực, cải biến được một phần cơ cấu của nền kinh tế – xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều khó khăn và khuyết điểm như chủ quan duy ý chí, duy trì quá lâu mô hình kinh tế quan liêu, bao cấp nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ bản tình hình kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Pháp chế xã hội chủ nghĩa chậm được tăng cường; pháp luật, kỷ cương bị buông lỏng. Mặt khác, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, việc ban hành Bộ luật Hình sự là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 27-6-1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, đã thông qua Bộ luật Hình sự, có hiệu lực từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 1985). Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV và lần thứ V của Đảng đều khẳng định đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để góp phần phục vụ nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, Bộ luật Hình sự năm 1985 đã dành toàn bộ Chương VII quy định các tội phạm về kinh tế. Ngoài những tội phạm trước đây đã được quy định trong Sắc lệnh số 163-SL ngày 17-11-1950 hạn chế việc giết thịt trâu bò, Pháp lệnh Trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 30-6-1982... Bộ luật Hình sự năm 1985 đã quy định một số tội phạm mới như: Tội Cố ý làm trái những nguyên tắc chính sách, chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng, tội Lập quỹ trái phép, tội
  • 38. 38 Lưu hành sản phẩm kém phẩm chất, tội vi phạm những nguyên tắc, chính sách, chế độ về phân phối, tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai... Việc quy định những tội này là để đáp ứng yêu cầu của tình hình xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ đó. [15, tr 74-82] 2.1.2. Thời kỳ từ năm 1985 đến năm 1999 Tuy được ban hành vào năm 1985, nhưng dự án Bộ luật Hình sự đã được bắt đầu xây dựng từ đầu những năm 80 và một trong những đặc trưng của pháp luật hình sự thời kỳ này là phản ánh yêu cầu bảo vệ nền kinh tế hành chính bao cấp chủ yếu dựa trên hai hình thức sở hữu: Nhà nước và tập thể theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp. Từ năm 1986, sự nghiệp đổi mới do Đại hội VI của Đảng ta đề xướng và lãnh đạo đã được tiến hành ở nước ta. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tình hình tội phạm có những diễn biến phức tạp theo chiều hướng mới và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng được đặt ra theo tinh thần mới. Chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta cũng phải điều chỉnh kịp thời nhằm phát huy có hiệu quả hơn pháp luật hình sự như là một công cụ hết sức cần thiết trong giai đoạn cách mạng mới. Chỉ trong thời gian 7 năm, từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến năm 1992, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phải ba lần tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1985: Lần thứ nhất vào ngày 28-12-1989, lần thứ hai vào ngày 12-8-1991, lần thứ ba vào ngày 22-12-1992. Cả 3 lần sửa đổi, bổ sung này tuy có đề cập nhiều điều của Bộ luật (lần thứ nhất: 27 điều; lần thứ hai: 26 điều; lần thứ ba: 20 điều), nhưng nhìn chung, việc sửa đổi, bổ sung chủ yếu nhằm bảo đảm cho chặt chẽ hơn các quy định liên quan đến việc định tội và hình phạt. Nhìn chung, cả ba Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1985 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
  • 39. 39 qua vào các ngày 28-12-1989, ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 đều tự hạn chế trong khuôn khổ, phạm vi của Bộ luật Hình sự năm 1985. Trong các năm 1994, 1995, 1996, việc tổng kết, đánh giá 10 năm thi hành Bộ luật Hình sự năm 1985 được các ngành hữu quan tích cực thực hiện. Đến cuối năm 1996, một dự án sửa đổi, bổ sung cơ bản toàn diện Bộ luật Hình sự năm 1985 đã được hoàn thành. Việc trình các cơ quan Nhà nước xem xét, thông qua đòi hỏi phải có thời gian, trong khi đó, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Theo tinh thần này, ngày 10-5-1997, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự. Nội dung chủ yếu của lần sửa đổi, bổ sung này có thay thế các điều thuộc "Phần các tội phạm" của Bộ luật Hình sự năm 1985 như: Cụm từ "Điều 96a" tại Khoản 1, Điều 168 (Tội Kinh doanh trái phép) và tại Khoản 2, Điều 169 (Tội Trốn thuế) được thay bằng cụm từ "185b, 185c, 185d và 185đ". Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra yêu cầu một mặt phải xây dựng một khung pháp luật hoàn chỉnh nhằm khuyến khích, phát huy mạnh mẽ các yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, mặt khác, phải định rõ những điều nghiêm cấm với các chế tài nghiêm khắc không chỉ về hành chính, dân sự mà cả về hình sự nhằm phòng ngừa, ngăn chặn từ đầu và xử lý nghiêm minh những mặt trái, tiêu cực của cơ chế đó. Trong khi đó thì Bộ luật Hình sự hiện hành ra đời năm 1985, trong điều kiện của nền kinh tế hiện vật, kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp, chưa có nhiệm vụ và chưa thể quy định những tội danh cần được xử lý nghiêm khắc về mặt hình sự của nền kinh tế thị trường. Từ thực tiễn hơn 10 năm thi hành Bộ luật Hình sự, các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an, Tư pháp từ Trung ương đến địa phương đã kiến nghị bổ sung vào Bộ luật Hình sự nhiều tội phạm mới xuất hiện trong nền kinh tế thị trường mà nếu không được ngăn chặn kịp thời thì có thể gây ra nhiều hệ quả rất nguy hại cho xã hội, nhất là nếu không được ngăn chặn ngay từ đầu, để lâu ngày thành
  • 40. 40 thói quen, nếp sống thì hậu quả thật khó lường, ví dụ như, các tội phạm có tính chất chụp giật, lừa đảo, bất chấp, chà đạp lên pháp luật, kể cả những điều cấm của pháp luật trong các lĩnh vực tín dụng, ngân hàng, quảng cáo, đấu thầu, phá sản, bảo vệ môi trường, v.v. nhằm khuyến khích những người làm ăn đứng đắn, mong muốn theo pháp luật, có ý thức năng động, tích cực và yên tâm đi vào những lĩnh vực, môi trường mới, dám chấp nhận khó khăn, rủi ro để làm lợi cho mình và cho xã hội. Đồng thời, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, có quyền tự do kinh doanh, không hạn chế quy mô, mức độ, đòi hỏi phải xem xét, rà soát lại một cách toàn diện các tội phạm về kinh tế, về sở hữu để có những sửa đổi, bổ sung thích hợp cả về dấu hiệu pháp lý cũng như chính sách xử lý nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới. Về vấn đề này, nhiều ý kiến đề nghị quy định một chương chung về các tội xâm phạm sở hữu mà không quy định hai chương riêng biệt về các tội xâm phạm sở hữu như Bộ luật Hình sự hiện hành. Các ý kiến cũng đề nghị sửa đổi dấu hiệu pháp lý cũng như hình phạt của các tội đầu cơ, tội buôn bán hàng cấm, tội làm hàng giả, tội trốn thuế, v.v… Ngoài ra, nhiều tội phạm gắn liền với nền kinh tế hiện vật, tập trung, bao cấp, hơn mười năm nay đã không còn tồn tại, cần được loại bỏ khỏi Bộ luật Hình sự. Trong số đó, phải kể đến tội cản trở việc thực hiện các quy định của Nhà nước về cải tạo xã hội chủ nghĩa (Điều 164), tội chiếm đoạt tem, phiếu; tội làm hoặc lưu hành tem phiếu, giấy tờ giả dùng vào việc phân phối (Điều 172), tội sản xuất hoặc buôn bán rượu, thuốc lá trái phép (Điều 183), tội lạm sát gia súc (Điều 184), v.v.. [17] 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về các hành vi xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về kinh tế ở thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến năm 2014
  • 41. 41 2.2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng Ngày 06/11/1996 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua Nghị quyết cho phép tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, từ ngày 01/01/1997 thành phố Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của đất nước, có vị trí trọng yếu cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh; là đầu mối giao thông quan trọng về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, cửa ngõ chính ra Biển Đông của các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và các nước tiểu vùng Mê Kông. Đà Nẵng hiện nay có 8 quận, huyện với tổng diện tích là 1285,4 km². Theo kết quả điều tra năm 2009 thì dân số thành phố là 887.435 người. Năm 2013, dân số thành phố là 992.800 người. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trên địa bàn năm 2012 là 46.368,6 tỷ đồng. Trong ba năm liền từ 2008-2010, Đà Nẵng có chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) đứng đầu cả nước. Tuy nhiên năm 2012, PCI của Đà Nẵng tụt xuống thứ 12/63 tỉnh, thành phố. Năm 2013 và 2014 Đà Nẵng đã trở lại vị trí số 1 trên bảng xếp hạng. Trong những năm gần đây, Đà Nẵng đã tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và được coi là "thành phố đáng sống" của Việt Nam. Với vị thế là trung tâm kinh tế của khu vực miền Trung – Tây Nguyên, Đà Nẵng là nơi hội tụ các công ty lớn của các ngành dệt may, sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng…Ngành Công nghiệp của thành phố Đà Nẵng đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 20% /năm. Thành phố đang đề ra mục tiêu trở thành một trong những địa phương đi đầu trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt Nam, trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.
  • 42. 42 Đà Nẵng là một trong những địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong cả nước, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1997 - 2010 (theo giá cố định 1994) đạt 11,30%/năm so với mức bình quân 7,27%/năm của cả nước. Qua các năm, giá trị sản xuất công nghiệp, nông - lâm - thủy sản, tổng mức bán hàng hóa và dịch vụ xã hội đều có xu hướng tăng lên. Điều quan trọng là mức tăng trưởng này khá phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố theo hướng giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp, tăng dần tỉ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Những vận động nội lực đã khiến Đà Nẵng ngày càng mở rộng tầm vóc của mình. Bắt đầu từ kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là cơ sở về hạ tầng giao thông, tiến hành chỉnh trang đô thị, xây dựng một môi trường mới hiểu theo nghĩa rộng, tạo điều kiện cho công cuộc phát triển mới. Khai thác tốt những lợi thế sẵn có, trong những năm qua Đà Nẵng đã có những biến đổi rõ rệt về nhịp độ và khí thế phát triển. [8] Tóm lại, đặc điểm về điều kiện vị trí địa lý, kinh tế, xã hội cho thấy thành phố Đà Nẵng là địa bàn phát triển mạnh về công nghiệp, kinh tế biển và dịch vụ du lịch. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển nhanh, mạnh về kinh tế - xã hội thì hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế cũng phát triển theo chiều hướng gia tăng, phức tạp hơn. Tìm hiểu vấn đề này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc ngăn chặn các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 2.2.2. Tình hình xử lý các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2009 đến 2014 2.2.2.1. Kết quả về việc xử lý hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế Theo số liệu thống kê, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong 05 năm trở lại đây, Cơ quan điều tra đã khởi tố 33 vụ/55 bị can; Viện Kiểm sát đã truy
  • 43. 43 tố: 26 vụ /42 bị can và Tòa án nhân dân đã xét xử 24 vụ/39 bị cáo, trong đó cơ cấu các loại hành vi thể hiện như sau: Số TT Hành vi Điều luật Khởi tố (Vụ/bị can) Truy tố (Vụ/bị can) Xét xử (Vụ/bị can) 1. Hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới 154 01/01 01/01 01/01 2. Hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm 155 09/17 08/14 08/14 3. Hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả 156 03/03 02/02 02/02 4. Hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh 157 01/02 01/02 01/02 5. Hành vi kinh doanh trái phép 159 04/06 03/05 02/04 6. Hành vi trốn thuế 161 02/04 01/02 0/0 7. Hành vi lừa dối khách hàng 162 01/04 01/04 01/04 8. Hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng 165 02/03 01/01 01/01 9. Hành vi vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm 172 01/01 01/01 01/01
  • 44. 44 dò, khai thác tài nguyên 10. Hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng 175 03/03 02/02 02/02 11. Hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng 179 0/1 0/1 0/1 12. Hành vi làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả 180 06/10 04/06 04/06 13. TỔNG CỘNG 33 /55 26/42 24/39 (Nguồn: Số liệu phòng Thống kê tội phạm và công nghệ thông tin, Viện KSND thành phố Đà Nẵng) [36]. Diễn biến các vụ vi phạm theo từng năm theo số liệu Viện Kiểm sát hai cấp thành phố Đà Nẵng đã truy tố như sau: - Năm 2009: 04 vụ/07 bị can; - Năm 2010: 02 vụ/04 bị can; - Năm 2011: 06 vụ/11 bị can; - Năm 2012: 04 vụ/07 bị can; - Năm 2013: 04 vụ/07 bị can; - Năm 2014: 06 vụ/ 06 bị can. Tổng cộng: 26 vụ/ 42 bị can [34] Qua thống kê, phân tích số liệu về tình hình trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong vòng 05 năm trở lại đây thì các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế đã bị xử lý có số lượng không nhiều, trung bình mỗi năm từ 02 đến 06
  • 45. 45 vụ án, chiếm tỷ trọng nhỏ và không đáng kể so với các loại hành vi nguy hiểm khác xảy ra trên địa bàn, nhìn chung đã được kiềm chế, không có xu hướng tăng (qua các năm thì số vụ không có dấu hiệu tăng đột biến). Tính chất, mức độ hành vi vi phạm đơn giản, số lượng người vi phạm ít, không hình thành đường dây có quy mô, tổ chức lớn; tang vật thu giữ không nhiều…. Như vậy, sự ổn định của loại hành vi này phần nào đã phản ánh được sự ổn định kinh tế vĩ mô, sự phát triển kinh tế của thành phố Đà Nẵng, cũng như tinh thần, hiệu quả trong công tác ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm trật tự kinh tế của các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, việc xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn vẫn tiềm ẩn ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó tập trung ở hoạt động ngân hàng, buôn bán, vận chuyển hàng cấm, hàng giả, trốn thuế, hàng lậu và gian lận thương mại, kinh doanh trái phép, trốn thuế…vv. Đây là những dạng hành vi điển hình xảy ra trên địa bàn trong những năm qua. Đặc biệt, thời gian qua, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng quá trình đô thị hóa, giải tỏa, đền bù và tái định cư, chỉnh trang đô thị diễn ra trên diện rộng; giá đất đai liên tục tăng, tạo ra tình trạng sốt giá đất…..đã có tác động không nhỏ đến tình hình vi phạm, nhất là liên quan đến lĩnh vực đất đai, trong đó xuất hiện các đối tượng câu kết với các cán bộ tín dụng ngân hàng, nâng khống, thẩm định giá trị tài sản thế chấp cao hơn giá trị thực tế; sau đó sử dụng vốn vay sai mục đích, nhiều vụ gian lận tín dụng lớn gây thiệt hại nghiêm trọng. 2.2.2.2. Một số dạng hành vi và một số vụ án điển hình như sau - Về hành vi vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, xảy ra các dạng hành vi cụ thể như sau: + Không tiến hành kiểm đếm tiền mặt tồn quỹ cuối ngày của các phòng giao dịch, thể hiện rõ việc thiếu trách nhiệm của các nhân viên ngân hàng như
  • 46. 46 kiểm soát viên, nhân viên ngân quỹ xảy ra tại Phòng Giao dịch Sơn Trà, Ngân hàng SHB Chi nhánh Đà Nẵng: Nguyễn Thị Ngoan (SN 1984, trú Xóm 3, xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) là nhân viên hợp đồng (theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn số 010/2011/HĐLĐ-SHB ngày 04/01/2011) SHB chi nhánh Đà Nẵng và được điều động làm nhân viên ngân quỹ tại Phòng Giao dịch Sơn Trà. Trong thời gian làm việc tại Phòng Giao dịch Sơn Trà, Ngoan thấy nhân viên Kiểm soát tại Phòng Giao dịch Sơn Trà (Đặng Thị Hoàng Anh) và các nhân viên kiểm ngân tại Tổ Ngân quỹ SHB chi nhánh Đà Nẵng (Phùng Thị Thu Hằng, Nguyễn Thị Thu Sương, Lê Thị Hồng Đức) không trực tiếp kiểm đếm tiền mặt tồn quỹ thực tế cuối ngày, nên Ngoan đã lợi dụng sơ hở chiếm đoạt tiền tồn quỹ cuối ngày của Phòng Giao dịch Sơn Trà số tiền 785.500.200 đồng (Tám trăm bảy mươi lăm triệu hai trăm nghìn đồng). Hành vi thiếu trách nhiệm trong hoạt động của các nhân viên ngân hàng SHB chi nhánh Đà Nẵng Đặng Thị Hoàng Anh, Phùng Thị Thu Hằng, Nguyễn Thị Thu Sương, Lê Thị Hồng Đức đã không thực hiện đúng nhiệm vụ được giao, vi phạm Điều 18, Điều 21 Quy chế số 297 ngày 04/11/2009 của Ngân hàng SHB về giao nhận, bảo quản, vận chuyển tiền mặt, giấy tờ có giá và vi phạm quy trình ngân quỹ của Ngân hàng SHB số 909 ngày 01/12/2009 tạo sơ hở để Nguyễn Thị Ngoan lợi dụng lấy tiền, gây thiệt hại cho SHB Chi nhánh Đà Nẵng 785.000.200đ. + Không thực hiện đúng quy trình thẩm định tài sản đảm bảo tiền vay, tạo sở hở để các đối tượng chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng trên địa bàn TP Đà Nẵng, điển hình như sau: Vụ cán bộ tín dụng Ngân hàng Công thương Việt Nam - Chi nhánh Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng đã không làm hết trách nhiệm trong việc thẩm định hồ sơ vay vốn để Phạm Quang Tuấn cùng một số người khác chiếm đoạt của ngân