MỤC TIÊU: Nhằm nâng cao ý thức cảnh giác cho cả nhân viên y tế cũng như người bệnh về bệnh xoắn tinh hoàn và đưa ra những những kiến nghị nhằm hạn chế bớt việc cắt bỏ tinh hoàn.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu sâu về xoắn tinh hoàn những vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ cũng như các yếu tố thuận lợi của bệnh. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm tìm ra các yếu tố nguy cơ có liên quan đến xoắn tinh hoàn .
Mặc dù có nhiều nghiên cứu sâu về xoắn tinh hoàn những vẫn chưa có nhiều nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ cũng như các yếu tố thuận lợi của bệnh. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm tìm ra các yếu tố nguy cơ có liên quan đến xoắn tinh hoàn .
Luận văn Nghiên cứu đặc điểm chẩn đoán và đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật xoắn tinh hoàn tại Bệnh viện Việt Đức.Xoắn tinh hoàn hay còn gọi là xoắn thừng tinh hoàn là hiện tượng thừng tinh xoắn quanh trục của nó làm cắt đứt nguồn cung cấp máu cho tinh hoàn dẫn đến hậu quả là tinh hoàn thiếu máu và hoại tử. Xoắn tinh hoàn được mô tả lần đầu tiên năm 1840 bởi Delasiauve, xoắn thừng tinh sơ sinh được Taylor mô tả lần đầu tiên năm 1897. Bệnh lý này được chú ý rộng rãi khi Rigby và Howard xuất bản cuốn sách đầu tiên về xoắn tinh hoàn năm 1907. Năm 1952 Dean Moheet ở Dallas là người đầu tiên phẫu thuật tháo xoắn và cố định tinh hoàn
Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi u tuyến giáp lành tính tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.U tuyến giáp được hiệp hội tuyến giáp Hoa Kỳ định nghĩa, là một tổn thương khu trú, riêng biệt trong tuyến giáp, tổn thương đó khác biệt so với nhu mô tuyến giáp xung quanh về mặt hình ảnh học. Đây là bệnh lý thường gặp trên lâm sàng, các nghiên cứu dịch tễ học tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới cho thấy u tuyến giáp có thể sờ được khoảng 5% ở phụ nữ và 1% ở nam giới qua thăm khám lâm sàng. Khi siêu âm tỷ lệ phát hiện u tuyến giáp lên tới 19% – 68% số cá thể được chọn ngẫu nhiên, và tần suất cao hơn ở phụ nữ và người già [1]. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Đỗ Thanh Bình (2008) tỷ lệ sờ thấy trên lâm sàng là 5,7%, phát hiện trên siêu âm là 10,4%, đa số gặp ở phụ nữ [2].Phần lớn u tuyến giáp là lành tính, tỷ lệ ác tính chỉ khoảng 4% – 7%
Luận văn Nghiên cứu đặc điểm chẩn đoán và đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật xoắn tinh hoàn tại Bệnh viện Việt Đức.Xoắn tinh hoàn hay còn gọi là xoắn thừng tinh hoàn là hiện tượng thừng tinh xoắn quanh trục của nó làm cắt đứt nguồn cung cấp máu cho tinh hoàn dẫn đến hậu quả là tinh hoàn thiếu máu và hoại tử. Xoắn tinh hoàn được mô tả lần đầu tiên năm 1840 bởi Delasiauve, xoắn thừng tinh sơ sinh được Taylor mô tả lần đầu tiên năm 1897. Bệnh lý này được chú ý rộng rãi khi Rigby và Howard xuất bản cuốn sách đầu tiên về xoắn tinh hoàn năm 1907. Năm 1952 Dean Moheet ở Dallas là người đầu tiên phẫu thuật tháo xoắn và cố định tinh hoàn
Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi u tuyến giáp lành tính tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.U tuyến giáp được hiệp hội tuyến giáp Hoa Kỳ định nghĩa, là một tổn thương khu trú, riêng biệt trong tuyến giáp, tổn thương đó khác biệt so với nhu mô tuyến giáp xung quanh về mặt hình ảnh học. Đây là bệnh lý thường gặp trên lâm sàng, các nghiên cứu dịch tễ học tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới cho thấy u tuyến giáp có thể sờ được khoảng 5% ở phụ nữ và 1% ở nam giới qua thăm khám lâm sàng. Khi siêu âm tỷ lệ phát hiện u tuyến giáp lên tới 19% – 68% số cá thể được chọn ngẫu nhiên, và tần suất cao hơn ở phụ nữ và người già [1]. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Đỗ Thanh Bình (2008) tỷ lệ sờ thấy trên lâm sàng là 5,7%, phát hiện trên siêu âm là 10,4%, đa số gặp ở phụ nữ [2].Phần lớn u tuyến giáp là lành tính, tỷ lệ ác tính chỉ khoảng 4% – 7%
Luận văn Đối chiếu đặc điểm lâm sàng, kết quả mô bệnh học u nhú thanh quản người lớn và kết quả điều trị bằng phương pháp nội soi vi phẫu.U nhú thanh quản là u lành tính, do sự quá sản của lớp biểu mô, mô liên kết và mạch máu, với đặc trưng là có xu hướng lan rộng và dễ tái phát sau khi phẫu thuật [14].
Bệnh có thể gặp ở bất kỳ tuổi nào, khó xác định được tần suất của u nhú thanh quản, bệnh có thể gặp đều khắp các nước trên thế giới, không phân biệt chủng tộc, màu da, tần suất bệnh u nhú trẻ em là 4,3/100.000 dân và bệnh u nhú ở thanh quản người lớn là 1,8/100.000 dân [12, 33].
U nhú thanh quản ở người lớn thường có bệnh cảnh khác với trẻ em, u thường phát triển có tính chất khu trú, ít gây bít t ắc đường thở nhưng không có xu hướng thoái triển và có thể bị ung thư hóa. Bệnh thường khởi phát bằng triệu chứng khàn tiếng kéo dài sau đó là khó thở xuất hiện rất muộn sau một thời gian dài
Luận án Nghiên cứu mô bệnh học và chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt. Ung thư tuyến tiền liệt là một bệnh hay gặp ở nam giới trên 50 tuổi, gây tử vong đứng hàng thứ 2 sau ung thư phổi ở các nước Châu Âu và Mỹ [122], [165]. Tại Mỹ, tỷ lệ tử vong vào những năm 70 và 80 là 0,7% đối với đàn ông da trắng, 1,6% đối với đàn ông Mỹ gốc Phi, tỷ lệ này tăng hàng năm khoảng 3,1% tính đến năm 1995. Tại Châu Âu, con số tử vong năm 1994 tại Hà Lan: 33/100.000 người, tại Thuỵ Điển: 28/100.000 người
Luận văn Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng-cận lâm sàng và kết quả của liệu pháp điều trị sớm theo mục tiêu ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn.Sốc nhiễm khuẩn là một bệnh lý nặng thường gặp, diễn biến phức tạp, thường tiến triển đến suy đa tạng và là nguyên nhân gây tử vong cao hàng đầu trong các khoa Hồi sức cấp cứu. Ở Pháp, Annane và cộng sự phân tích số liệu từ 22 bệnh viện trong 8 năm, từ 1993 đến 2000 thấy rằng: tỷ lệ bị sốc nhiễm khuẩn là 8,2% số bệnh nhân vào khoa Hồi sức cấp cứu và tỷ lệ này ngày càng tăng từ 7,0% năm 1993 đến 9,7% năm 2000, trong đó tỷ lệ tử vong rất cao chiếm 60,1% và có giảm từ 62,1% năm 1993 đến 55,9% năm 2000, nhưng vẫn còn cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ tử vong ở các bệnh nhân không bị sốc nhiễm khuẩn
Đánh giá kết quả phẫu thuật sỏi túi mật ở người cao tuổi tại bệnh viện Bạch Mai.Sỏi túi mật là bệnh lý khá phổ biến trên thế giới đặc biệt ở các nước Âu-Mỹ, tỷ lệ sỏi túi mật ở Mỹ là 10% [1], [2], [3]. Ở Việt Nam bệnh lý sỏi chủ yếu ở đường mật và sỏi trong gan. Trong vài thập kỷ trở lại đây cùng với sự phát triển của siêu âm chẩn đoán, và sự thay đổi trong khẩu phần ăn (tăng chất béo, protein..), tỷ lệ sỏi túi mật cũng như các bệnh lý túi mật được chẩn đoán và điều trị có chiều hướng tăng cao
LUẬN ÁN NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG, HÌNH ẢNH SIÊU ÂM VÀ HÌNH THÁI MÔ BỆNH HỌC CỦA POLYP TÚI MẬT.Polyp túi mật là tổn thương nhô ra từ niêm mạc vào lòng túi mật, chiếm khoảng 5% trong dân số và thay đổi từ 1,3 đến 6,9% [19], [32], [39], [52], [78].
Bản chất của polyp có thể là u hoặc dạng u: trong các tổn thương u thì u tuyến chiếm vào khoảng 5%; trong dạng u thì polyp cholesterol gặp nhiều nhất, tỷ lệ từ 50 – 90% [20], [27], [33], [125].
Triệu chứng lâm sàng có giúp gì cho chẩn đoán polyp túi mật hay không? nhiều nghiên cứu trên thế giới [19], [120], [124] cho biết polyp túi mật có triệu chứng thường không đặc trưng, nghèo nàn: triệu chứng đau bụng theo Li [67] là 72,2%, Akyurec [19] 59%; đầy bụng chậm tiêu theo Sugiyama [121] là 28%; triệu chứng sốt theo Ito [52] là 1%. Trong nước [1], [10], chưa có công bố nào mô tả rõ về cơn đau do polyp gây ra, hầu như trong thực hành lâm sàng khó có thể xác định được triệu chứng và diễn tiến đau bụng như thế nào là của polyp túi mật. Vì vậy, chúng tôi nghiên cứu mục tiêu này nhằm xác định polyp túi mật có hay không có triệu chứng
Luận văn Hiệu quả điều trị nang giả tụy sau viêm tụy cấp bằng phương pháp dẫn lưu qua da.Nang giả tụy là biến chứng muộn của viêm tụy cấp thể hiện bằng sự tụ dịch bất thường ở vùng quanh tụy, với một vách xơ do viêm mạn. Các nang giả tụy có kích thước <6cm có khả năng tự khỏi nhờ điều trị bảo tồn với tỷ lệ tự khỏi vào khoảng 20-70%[1] ,[2]. Đối với nang giả tụy kích thước nang >6cm, có triệu chứng hoặc nhiễm trùng thì có chỉ định can thiệp điều trị
Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi cắt gần hoàn toàn tuyến giáp điều trị bệnh Basedow.Bệnh Basedow (Grave’s disease) là bệnh cường chức năng tuyến giáp kết hợp với bướu phì đại lan tỏa do kháng thể kích thích trực tiếp thụ cảm thể tiếp nhận TSH gây tăng nồng độ hocmon tuyến giáp trong máu. Chẩn đoán chủ yếu dựa vào bướu giáp lan tỏa, mắt lồi, nhịp tim nhanh và tăng nồng độ hocmon tuyến giáp
Luận án Nghiên cứu chỉ định và đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi điều trị triệt căn ung thư trực tràng thấp.Ung thư trực tràng là một trong những bệnh thường gặp và chiếm một tỷ lệ đáng kể trong bệnh lý ung thư Đại trực tràng. Tỷ lệ mắc bệnh này có xu hướng ngày càng tăng [17], [24], [45], [108]. Tại các nước Âu Mỹ, ung thư Đại trực tràng đứng hàng đầu trong ung thư đường tiêu hoá và có tỷ lệ tử vong cao. Năm 2011, tại Mỹ có 141.000 trường hợp mắc mới ung thư trực tràng và 49.380 ca tử vong [79]. Ở châu Á hàng năm số người bị ung thư Đại trực tràng tăng lên từ 3 – 5%. Tại Việt Nam, theo thống kê của Viện Ung Thư Trung Ương (Hà Nội) tỷ lệ mắc ung thư Đại trực tràng năm 1992 là 5,1/100.000 dân và đến năm 1994 tăng lên 7,5/100.000 dân [50]. Ở các nước phát triển bệnh ung thư Đại trực tràng đứng hàng thứ ba trong các nguyên nhân gây tử vong do ung thư, tuy nhiên ung thư Đại trực tràng vẫn được coi là bệnh có tiên lượng tốt hơn các ung thư khác nói chung
Luận văn NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH CÒN ỐNG ĐỘNG MẠCH BẰNG IBUPROFEN ĐƯỜNG UỐNG VÀ TIẾN TRIỂN CỦA BỆNH Ở TRẺ ĐẺ NON TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG.Còn ống động mạch (CÔĐM) chiếm 10% các bệnh tim bẩm sinh, ước tính khoảng 1 trong 2000 đến 5000 trẻ sơ sinh với tỷ lệ nữ gặp nhiều hơn nam từ 2 – 3 lần. Tỷ lệ CÔĐM cao hơn ở trẻ đẻ non và trẻ sơ sinh bị rubella bẩm sinh. Đây là một bệnh lý đặc biệt hay gặp do sự chưa trưởng thành về mặt cấu trúc giải phẫu hệ thống tim mạch
NGHIÊN CỨU CHỈ SỐ CD64 TRÊN NGƯỜI BỆNH NHIỄM TRÙNG HUYẾT TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY.Theo tổ chức Y tế thế giới, nhiễm trùng y tế xảy ra ở khắp nơi bất kể là nước phát triển hay đang phát triển đều chịu tác động nghiêm trọng. Một trong những nguyên nhân gây bệnh nhiễm trùng huyết (NTH) có thể là do nhiễm trùng bệnh viện
Luận văn Nghiên cứu vô sinh do tắc vòi tử cung được phẫu thuật nội soi tại Bệnh Viện Phụ Sản Trung Ương từ 01/2010 đến 06/2010.Vô sinh không chỉ đơn thuần là một bệnh lý phụ khoa của y học mà còn là một vấn đề lớn về mặt xã hội học. Tỉ lệ vô sinh ngày càng tăng không chỉ là mối lo ngại cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình mà cho toàn xã hội.
Theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới năm 1985 trên thế giới có khoảng hơn 80 triệu người vô sinh. Tỉ lệ các cặp vợ chồng bị vô sinh trên thế giới chiếm khoảng 10 -18%, tỉ lệ này ở Hoa Kì là 15% [32]. Ở Việt Nam theo điều tra dân số năm 1982 tỉ lệ vô sinh là 13 % [24].
Khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất được nâng cao, tỉ lệ sinh đẻ được hạn chế thì nhu cầu cấp bách của các cặp vợ chồng vô sinh càng trở lên bức thiết, càng đòi hỏi vai trò trách nhiệm cao của người thầy thuốc sản phụ khoa. Cũng theo Tổ chức y tế thế giới công tác kế hoạch hóa gia đình bao gồm không chỉ là khống chế và kiểm soát sự gia tăng dân số mà còn phải tạo điều kiện cho những người không may bị vô sinh được quyền sinh sản. Quyền này được đưa vào chính sách hành động ở tất cả các quốc gia trên toàn cầu
Similar to Dac diem benh nhan xoan tinh hoan tai benh vien viet duc (20)
Vô sinh không có tinh trùng là tình trạng vô sinh do nguyên nhân tại người chồng không có tinh trùng (vô tinh) trong tinh dịch. Nghĩa là tinh dịch xuất ra chỉ có thành phần tinh tương chứ không có tinh trùng.
Khoảng 15% các cặp vợ chồng không có thai trong vòng 1 năm và phải cần tới sự trợ giúp y tế. Theo thống kê khoảng 1/8 các cặp vợ chồng gặp khó khăn khi mong con đầu lòng và 1/6 các cặp vợ chồng gặp khó khăn khi mong những đứa con tiếp theo. Khoảng 3% số phụ nữ mong muốn mà không hề có con, trong khi đó khoảng 6% phụ nữ đã có con rồi nhưng không có được số con như họ mong muốn. Vô sinh ảnh hưởng đến cả nam và nữ.
U phì đại lành tính tuyến tiền liệt là sự phát triển lành tính của tuyến tiền liệt, gây ra những biến loạn cơ năng và thực thể ở vùng cổ bàng quang, đặc biệt là làm cản trở dòng tiểu đi ra từ bàng quang
Hướng Dẫn Chẩn Đoán Và Điều Trị Ung Thư Tiền Liệt Tuyếnbacsyvuive
Ung thư tuyến tiền liệt (UTTTL) là vấn đề sức khỏe quan trọng trên phạm vi toàn cầu vì xuất độ (a) và tử suất
(b) cao, chất lượng sống của bệnh nhân bị sút giảm và gánh nặng chi phí điều trị chăm sóc nhiều. Đây là bệnh lý
ác tính thường gặp ở nam giới cao tuổi với đỉnh cao xuất độ và tử vong trong khoảng 70 tuổi nhưng do diễn tiến
chậm và liên tục với nhiều mức độ ác tính khác nhau nên bệnh có tầm ảnh hưởng đến khoảng tuổi rộng hơn [4].
Guidelines Điều Trị Nhiễm Khuẩn Tiết Niệubacsyvuive
Nhiễm khuẩn đường tiết niệu là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ
biến nhất với một gánh nặng tài chính đáng kể cho xã hội, với ước tính tỷ lệ
tổng thể mắc bệnh 18/1000 người mỗi năm. Hiện trạng, với tỷ lệ tăng của sức
đề kháng kháng sinh đáng báo động trên toàn thế giới đặc biệt là trong khu
vực châu Á - Thái Bình Dương, việc điều trị nhiễm khuẩn đường tiết niệu
đang gây khó khăn cho các bác sĩ lâm sàng. Tại Việt Nam, theo nghiên cứu
SMART năm 2011 thực hiện trên các vi khuẩn E. coli NKĐTN cho thấy tỷ lệ
tiết ESBL lên đến 54%. Tình trạng này đang có xu hướng diễn biến phức tạp
và lan ra cộng đồng.
Hướng Dẫn Chẩn Đoán Và Điều Trị Hội Chứng Bàng Quang Tăng Hoạtbacsyvuive
Bàng quang tăng hoạt (BQTH - overactive bladder) - còn gọi là Hội Chứng Bàng Quang Tăng Hoạt (Overactive Bladder Syndrome) - là một hội chứng bao gồm 4 nhóm triệu chứng:Tiểu gấp, Tiểu lắc nhắc (nhiều lần), Tiểu đêm, và có hay không có kèm theo Són tiểu.
Hướng Dẫn Chẩn Đoán Và Điều Trị Hội Chứng Bàng Quang Tăng Hoạt
Dac diem benh nhan xoan tinh hoan tai benh vien viet duc
1. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỮNG BỆNH NHÂN XOẮN TINH HOÀN TẠI BỆNH
VIỆN VIỆT ĐỨC: NGHIÊN CỨU HỒI CỨU TỪ 2005- 2010
Nguyễn Hoài Bắc, Hoàng Long, Trần Quốc Hoà, Vũ Nguyễn Khải Ca
Tóm tắt:
MỤC TIÊU: Nhằm nâng cao ý thức cảnh giác cho cả nhân viên y tế cũng như
người bệnh về bệnh xoắn tinh hoàn và đưa ra những những kiến nghị nhằm hạn
chế bớt việc cắt bỏ tinh hoàn.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP: Nghiên cứu hồi cứu mô tả trên những
bệnh nhân được chẩn đoán xác định là xoắn tinh hoàn tại bệnh viện Việt Đức từ
năm 2005 đến năm 2010.
KẾT QUẢ: Tổng số 63 bệnh án đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn của nghiên cứu
đã được đưa vào phân tích. Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là 22 (5-47)
tuổi, trong đó nhóm tuổi từ 16-25 chiếm 66,7%. Hầu hết các bệnh nhân (81%)
đến khám bệnh muộn sau 24 giờ. 25,4% (16/63) bệnh nhân tự điều trị ở nhà,
17,5% (11/63) các trường hợp tìm đến các phòng khám tư nhân. Số vòng xoắn
trung bình của thừng tinh là 380 ± 169,36 độ.
KẾT LUẬN: Xoắn tinh hoàn không phải là một bệnh lí cấp cứu hiếm gặp ở
người lớn. Đến khám bệnh muộn, chẩn đoán nhầm, và thừng tinh bị xoắn nhiều
vòng là đặc điểm chủ yếu của xoắn tinh hoàn ở độ tuổi này. Cần phải chẩn đoán
phân biệt xoắn tinh hoàn với các bệnh lí đau bìu cấp khác ở bất kì lứa tuổi nào.
Cần có một chiến dịch truyền thông sâu rộng nhằm nâng cao ý thức cảnh giác
và hiểu biết về bệnh cho cả người bệnh và nhân viên y tế, đặc biệt là các nhân
viên y tế tại cộng đồng.
2. Summary:
CHARACTERISTICS OF PATIENTS WITH TESTICULAR TORSION AT
VIET DUC UNIVERSITY HOSPITAL: A RETROSPECTIVE RIVIEW
FROM 2005 TO 2010
OBJECTIVES: To raise awareness of patients and primary care general
practitioners about testicular torsion and recommendations on diagnosis to
reduce the risk of orchiectomy.
PATIENTS AND METHODS: A retrospective review of medical records of
patients who underwent scrotal exploration for testicular torsion at Viet Duc
university hospital from 2005 to 2010 was performed
RESULTS: Data for 63 eligible medical records of patients with testicular
torsion was available for analysis. The median age of the patients was 22 years
(range from 5 to 47) in which the 16-25 group accounted for 66,7%. 81% of
patients presented at hospital late after 24 hour from onset of symptoms. 25,4%
(16/63) of patient were not seeking any medical help, and the number of patient
presented at private clinicals accounted for 17,5% (11/63). The mean degree of
twisting was 380 ± 169,36 degrees.
CONCLUTIONS: Testicular torsion is not uncommon in adults. Delay in
presentation, misdiagnosis, and multiple turn- twisted cord are predominent
characteristics of testicular torsion at this age group. Testicular torsion must be
included in the differential diagnosis of acute scrotum at any age. There must be
an extensive communicative strategy on the potential risks of testicular torsion
for patients and primary care physicians.
3. I. Đặt vấn đề
Xoắn tinh hoàn hay còn gọi là xoắn thừng tinh hoàn là hiện tượng thừng
tinh xoắn quanh trục của nó làm cắt đứt nguồn cung cấp máu cho tinh hoàn dẫn
đến hậu quả cuối cùng là tinh hoàn thiếu máu và hoại tử. Tuy bệnh hiếm nhưng
xoắn tinh hoàn được coi là một cấp cứu trong tiết niệu với tỉ lệ mắc hàng năm
vào khoảng 4.5/1000 nam giới dưới 25 tuổi [1].
Mặc dù xoắn tinh hoàn vẫn được coi là một bệnh lí cấp cứu thường gặp ở
trẻ em, nhưng trên thực tế bệnh có thể xuất hiện ở bất kì lứa tuổi nào. Theo ước
tính khoảng 39% xoắn tinh hoàn xảy ra ở tuổi trưởng thành [2]. Gần đây có một
số báo cáo cho thấy xoắn tinh hoàn có thể xảy ra ở những người lớn tuổi, 59
tuổi [3] và người già, 68 tuổi [4].
Kết quả điều trị bảo tồn tinh hoàn ở nhóm tuổi trưởng thành thay đổi theo
từng tác giả. Một số tác giả cho rằng tỉ lệ bảo tồn tinh hoàn sau khi xoắn ở
người trưởng thành cao hơn ở trẻ em và vị thành niên nhưng một số tác giả khác
lại cho ý kiến ngược lại [5]. Theo Cummings (2002), xoắn tinh hoàn ở người
trưởng thành thường bị chẩn đoán nhầm hoặc chậm trễ do người bệnh đến khám
muộn và số vòng xoắn thường nhiều hơn ở trẻ em nên tỉ lệ bảo tồn tinh hoàn
thấp hơn ở trẻ em rất nhiều [5]. Trong nghiên cứu của Phạm Văn Hảo (2010)
bệnh viện Bình Dân, tỉ lệ bảo tồn tinh hoàn ở người lớn là 24.5% (12/49 bệnh
nhân) [6].
Bệnh viện Việt Đức là một trung tâm ngoại khoa lớn trong cả nước, đối
tượng đến khám chủ yếu là người trưởng thành. Theo một nghiên cứu trước đây
của cùng nhóm tác giả cho thấy tỉ lệ bảo tồn tinh hoàn sau xoắn chỉ đặt 15,9 %
(10/63 bệnh nhân). Tỉ lệ này thấp hơn nhiều so với các tác giả trong và ngoài
nước [6, 7].
Đứng trước thực tế này, nhằm góp phần nâng cao ý thức cảnh giác cho cả
người bệnh và thầy thuốc tại cộng đồng, chúng tôi tiền hành tìm hiểu các đặc
4. điểm của những bệnh nhân xoắn tinh hoàn đã được điều trị tại bệnh viện Việt
Đức thông qua việc tổng kết các hồ sơ bệnh án từ năm 2005 đến năm 2010, để
từ đó đưa ra các khuyến cáo góp phần hạn chế bớt các tỉ lệ cắt bỏ tinh hoàn do
xoắn.
5. II. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu hồ sơ bệnh án của những bệnh
nhân được chẩn đoán xác định là xoắn tinh hoàn và được điều trị bằng phẫu
thuật tháo xoắn hoặc cắt bỏ tinh hoàn tại bệnh viện Việt Đức từ tháng 1 năm
2005 đến tháng 12 năm 2010.
Chúng tôi loại trừ ra khỏi nghiên cứu này những bệnh nhân không có
chẩn đoán xác định xoắn bằng phẫu thuật, những bệnh nhân xoắn tinh hoàn tạm
thời, những bệnh nhân xoắn mấu phụ tinh hoàn hoặc mào tinh hoàn và xoắn tinh
hoàn ở trẻ em nhũ nhi.
Các số liệu liên quan đến tuổi của bệnh nhân, nơi khám chữa bệnh (KCB)
ban đầu, thời gian đến khám bệnh, các triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng khi
bệnh nhân đến khám bệnh, bên bị bệnh, các yếu tố thuận lợi của xoắn tinh hoàn
và số độ xoắn của thừng tinh. Dùng phương pháp thống kê y học, chúng tôi xác
định tỉ lệ phần trăm theo nhóm tuổi của người bệnh, nơi KCB ban đầu, bên bị
bệnh, các triệu chứng của bệnh. Ngoài ra, giá trị trung bình của tuổi người bệnh,
thời gian đến khám bệnh và số độ xoắn của thừng tinh cũng được tính và phân
tích. Số liệu được xử lí bằng phần mềm SPSS 13.0
6. III- Kết quả nghiên cứu
1- Tuổi của các bệnh nhân
Từ năm 2005 đến năm 2010 chúng tôi đã lựa chọn được 63 bệnh án của
những bệnh nhân xoắn tinh hoàn được điều trị tại khoa Tiết niệu bệnh viện Việt
Đức. Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 22 tuổi. Người nhỏ
tuổi nhất là 5 tuổi còn người cao tuổi nhất là 47 tuổi. Hay gặp nhất là những
người trong độ tuổi từ 16- 25 chiếm 66,7% (42/63 bệnh nhân), Biểu đồ 1.
Biểu đổ 1: Sự phân bố bệnh nhân theo nhóm tuổi khác nhau
2- Thời gian đến khám bệnh
Thời gian đến khám bệnh là khoảng thời gian được tính từ lúc xuất hiện
triệu chứng đau cho tới khi bệnh nhân đến khám tại bệnh viện Việt Đức. Hầu
hết các bệnh nhân đến khám muộn với thời gian trung bình là 145,27 giờ, người
đến sớm nhất là 3 giờ sau xoắn và người đến muộn nhất là 600 giờ. Trong đó
chỉ có 7,9% đến khám bệnh trước 6 giờ, 11,1% đến khám trong vòng 7-24 giờ,
còn lại phần lớn là đến khám bệnh sau 24 giờ.
7. Biểu đồ 2: Phân bố thời gian đến khám bệnh theo các nhóm
3- Nơi khám chữa bệnh ban đầu
Bảng 1: Tỉ lệ phần trăm theo các tuyến khám chữa bệnh ban đầu.
Nơi KCB ban đầu Số bệnh nhân Tỉ lệ %
Tuyến trung ương 13 20,6
Tuyến tỉnh 9 14,3
Tuyến huyện 14 22,2
Phòng khám tư nhân 11 17,5
Tự điều trị ở nhà 16 25,4
Tổng số 63 100
Nơi khám chữa bệnh ban đầu là tuyến đầu tiền bệnh nhân đến khám.
Bảng 1 cho thấy 25,4% (16/63) bệnh nhân tự điều trị ở nhà, 17,5% (11/63) các
trường hợp lại tìm đến các phòng khám tư nhân, 23/63 bệnh nhân đã tìm đến
tuyến y tế cơ sở như tuyến huyện và tuyến tỉnh và 13/63 bệnh nhân tìm đến các
bệnh viện tuyến trung ương như BV Việt Đức, BV Bạch Mai hay BV trung
ương quân đội 108.
4- Đặc điểm lâm sàng và siêu âm
8. Sưng và đau cấp tính đột ngột ở tinh hoàn là hai triệu chứng gặp ở 100%
các trường hợp bệnh nhân. Tương tự như vậy các dấu hiệu lâm sàng như tăng
kích thước tinh hoàn và mật độ tinh hoàn cứng chắc cũng gặp ở 100% các
trường hợp. Ngược lại sốt lại không phải là một dấu hiệu phổ biến ở những
bệnh nhân này, chỉ 20,6% (13/63) bệnh nhân có sốt nhẹ.
Trong số 63 bệnh nhân xoắn tinh hoàn, siêu âm Doppler mầu có dòng
chảy chẩn đoán đúng là 94% (59/63), chẩn đoán sai là 6,3% (4/63).
5- Các yếu tố nguyên nhân
Bảng 2: Các yếu tố nguyên nhân cho xoắn tinh hoàn
Các yếu tố nguyên nhân Số lượng bệnh nhân Tỉ lệ %
Không rõ 51 81
Nhiều đợt sưng đau tinh hoàn 7 11,1
Sau phẫu thuật nội soi 1 1,6
Sau quan hệ tình dục 1 1,6
Sau tai nạn sinh hoạt 3 4,7
Tổng số 63 100
Hầu hết các trường hợp (81%) bệnh xảy ra không rõ nguyên nhân, một số
ít xảy ra sau chấn thương (4,7%), sau quan hệ tình dục (1,6%) hay sau phẫu
thuật nội soi ổ bụng (1,6%). Có 11,1% các trường hợp có tiền sử có nhiều đợt
đau tinh hoàn cấp sau đó tự khỏi.
6- Phân bố bên bị bệnh
Đa phần bệnh xảy ra ở bên trái chiếm 63,5% (40/63), bên phải chiếm
36,5% (23/63) bệnh nhân.
9. Biểu đồ3 : Sự phân bố bên tinh hoàn bị bệnh
7- Số độ xoắn của thừng tinh
Trong nghiên cứu này số độ xoắn của thừng tinh tương đối lớn; trung
bình 380 ± 169,36 độ. Thấp nhất là 180 độ cao nhất là 720 độ.
Hình ảnh xoắn tinh hoàn ở một bệnh nhân 16 tuổi. (A) Trước tháo xoắn, (B)
Sau tháo xoắn.
10. IV- Bàn luận
1- Tuổi của bệnh nhân
Từ năm 2005 đến năm 2010 chúng tôi đã lựa chọn được 63 bệnh án của
những bệnh nhân xoắn tinh hoàn đủ tiêu chuẩn để phân tích, tuổi trung bình của
nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 22 tuổi. Do đặc điểm phân tuyến điều trị của hệ
thống y tế nên hầu hết các bệnh nhân dưới 16 tuổi lại có xu hướng đến khám
bệnh tại các bệnh viện chuyên khoa nhi nên chúng tôi thấy tỉ lệ dưới 16 tuổi chỉ
chiếm 12,7%, còn các bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên lại có xu hướng đến các bệnh
viện dành cho người lớn, trong đó nhóm tuổi từ 16-25 chiếm phần lớn 67,7%
(42/63). Kết quả này tuy không phản ánh một cách trung thực về độ tuổi mắc
bệnh, nhưng nó cũng phần nào cho thấy xoắn tinh hoàn cũng không phải là
bệnh lí hiếm ở độ tuổi trưởng thành. Điều này phù hợp với nhận xét của các tác
giả khác là xoắn tinh hoàn xảy ra nhiều ở độ tuổi dưới 25[8].
2- Ý thức cảnh giác của người bệnh và hiểu biết của nhân viên y tế cơ sở đối với
bệnh xoắn tinh hoàn.
Nơi KCB ban đầu thường phản ánh trực tiếp thái độ của người bệnh đối
với một bệnh nào đó. Nếu một bệnh được cho là quan trọng thì người bệnh
thường tìm đến các cơ sở y tế tuyến trung ương để khám, còn một bệnh nào
được cho là đơn giản thì họ thường đến các cơ sở y tế tuyến địa phương hoặc tự
điều trị tại nhà. Kết quả trong nghiên cứu này ghi nhận gần ¼ số người đến
khám (25,4%) không qua tuyến điều trị nào mà tự mua thuốc về nhà điều trị và
17,5% (11/63) bệnh nhân tìm đến các phòng khám tư nhân. Điều này một phần
là do tâm lí ngại ngần không đi khám bệnh do bệnh xảy ra ở vùng “nhậy cảm”,
một phần khác là do nhận thức về bệnh và mức độ nguy hiểm của nó đối sức
khỏe sinh sản của họ còn nhiều hạn chế. Việc người bệnh tự mua thuốc điều trị
hay điều trị tại các phòng khám tư nhân sẽ dẫn đến việc chẩn đoán và điều trị
bệnh muộn và kết cục cắt tinh hoàn là điều không thể tránh khỏi.
11. Khi xét đến hiểu biết của nhân viên y tế nói chung về bệnh chúng tôi thấy trong
số 54% (34/63) bệnh nhân có ý thức tìm đến cơ sở y tế tuyến cơ sở như phòng
khám tư nhân, bệnh viện tuyến huyện và bệnh viện tuyến tỉnh thì chỉ có 5 trong
số 34 bệnh nhân được chẩn đoán đúng là xoắn tinh hoàn, còn lại được chẩn
đoán là viêm tinh hoàn, viêm đại tràng. Một thực tế đáng chú ý là ngay cả 13
bệnh nhân tìm đến các bệnh viện tuyến trung ương như bệnh viện Việt Đức,
Bạch Mai và 108 thì vẫn có 5 bệnh nhân bị chẩn đoán nhầm là viêm tinh hoàn.
Điều có thể do nhân viên y tế đã không nghĩ đến chẩn đoán xoắn tinh hoàn ở lứa
tuổi này vì quan niệm trước đây cho rằng xoắn tinh hoàn xảy ra chủ yếu ở trẻ
em. Sự thiếu cảnh giác này đã dẫn chẩn đoán nhầm bệnh hoặc nếu có chẩn đoán
đúng thì cũng rất muộn, hậu quả là tinh hoàn thiếu máu và hoại tử. Các yếu tố
như tự dùng thuốc ở nhà, chậm trễ đến khám bệnh, chẩn đoán nhầm, hay chẩn
đoán muộn là những nguyên nhân dẫn đến việc phải cắt bỏ tinh hoàn trong
nghiên cứu của chúng tôi.
Cùng với nơi KCB ban đầu, thời gian đến khám bệnh cũng phần nào
phản ánh phần nào thái độ và nhận thức về bệnh của người bệnh và nhân viên y
tế tuyến cơ sở. Thời gian đến khám bệnh trung bình của chúng tôi 145,12 giờ.
Thời gian này tương đương với thời gian mà Phạm Văn Hảo đã thông báo tại
bệnh viện Bình Dân 141, 26 (giờ) [6], nhưng dài hơn thời gian được thông báo
của các tác giả khác (28,9 giờ) rất nhiều [9]. Thời gian của chúng tôi dài hơn
một phần do nhận thức của người bệnh về mức độ nguy hiểm của bệnh còn hạn
chế và ngại ngần không đến khám bệnh tại các cơ sở y tế, nhưng một phần cũng
do hiểu biết của nhân viên y tế cấp cơ sở về bệnh không đầy đủ nên đã không
chuyển bệnh nhân đến những tuyến điều trị chuyên khoa kịp thời. Thời gian đến
khám bệnh càng kéo dài đồng nghĩa với việc thiếu máu tinh hoàn càng lâu. Các
nghiên cứu trên động vật cho thấy: nhồi máu tinh hoàn bắt đầu xuất hiện ngay
trong 2 giờ đầu thiếu máu. Thiếu máu không hồi phục xảy ra sau 6 giờ kể từ khi
xoắn và nhồi máu hoàn toàn xảy ra sau 24 giờ sau xoắn [10]. Thời gian vàng để
12. bảo tồn các tinh hoàn bị xoắn là 4-6 giờ kể từ khi có triệu chứng. Theo kết quả
nghiên cứu của Whitaker, tỉ lệ bảo tồn tinh hoàn sẽ giảm từ 80% nếu bệnh nhân
đến sớm trước 5 giờ xuống 20% nếu bệnh nhân đến muộn sau 10 giờ và sau 24
giờ thì tinh hoàn không còn khả năng sống sót [11].
3- Các yếu tố nguyên nhân xoắn tinh hoàn
Phần lớn các trường hợp không rõ nguyên nhân, có 3 trường hợp xảy ra
xoắn tinh hoàn sau các tai nạn sinh hoạt như đá bóng và ngã xe. Theo y văn thế
giới khoảng 5%- 8% các trường hợp xoắn tinh hoàn xảy ra sau các chấn thương
bìu [12]. Chấn thương làm co bóp đột ngột của cơ bìu xung quanh thừng tinh
theo kiểu xoắn vặn và kết quả dẫn đến quay và xoắn tinh hoàn.
Đặc biệt trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, có một trường hợp xảy
ra xoắn tinh hoàn ngay sau phẫu thuật nội soi viêm ruột thừa. Bệnh chỉ được
phát hiện vào ngày thứ 5 sau khi xoắn nên đã phải cắt bỏ tinh hoàn. Xoắn tinh
hoàn sau các phẫu thuật nội soi là một trong các biến chứng hiếm gặp của loại
phẫu thuật này. Mincheff và cộng sự (2002) cũng đã thông báo một trường hợp
xoắn tinh hoàn xảy ra sau phẫu thuận nội soi điều trị thoát vị bẹn [13].
Cũng trong nghiên cứu này chúng tôi gặp một trường hợp xoắn tinh hoàn
xảy ra sau hoạt động tinh dục 30 phút. Hoạt động tình dục được nhắc đến như
một yếu tố thuận lợi thúc đẩy xoắn tinh hoàn xảy ra từ lâu trong y văn [14]. Có
lẽ hoạt động tình dục làm tăng hoạt động co bóp của hệ thống cơ bìu bao phủ
quanh thừng tinh và tinh hoàn cùng với hệ thống đường dẫn tinh nên đã dẫn đến
hiên tượng xoắn vặn thừng tinh và tinh hoàn trên một cơ địa có các bất thường
về giải phẫu các bộ phận cố định tinh hoàn trong bìu như bất thường hình “con
lắc chuông” của hệ thống mạc bìu.
4- Số lượng độ xoắn của tinh hoàn.
13. Số lượng độ xoắn của thừng tinh có một ý nghĩa lớn liên quan đến tỉ lệ
bảo tồn tinh hoàn. So sánh với trẻ em, ở người trưởng thành do phản xạ co cơ
bìu mạnh hơn nên số độ xoắn cũng lớn hơn [5]. Kết quả của chúng tôi cho thấy
số độ xoắn trung bình của thừng tinh là 380 ± 169,36 độ. Do vậy ở người trưởng
thành, ngoài yếu tố đến khám bệnh muộn thì ngay bản thân số lượng vòng xoắn
của thừng tinh cũng là một trong các yếu tố nguy cơ tăng khả cắt bỏ tinh hoàn.
Điều này cho thấy mức độ cấp thiết đòi hỏi người thầy thuốc phải có thái độ
tích cực và ý thức cao về bệnh để chẩn đoán nhanh nhanh và điều trị kịp thời
mới có thể cứu vớt được tinh hoàn.
Kết luận
Xoắn tinh hoàn không phải là một bệnh lí cấp cứu hiếm gặp ở người lớn.
Đến khám bệnh muộn, chẩn đoán nhầm, và thừng tinh bị xoắn nhiều vòng là
đặc điểm chủ yếu của xoắn tinh hoàn ở độ tuổi này. Cần phải chẩn đoán phân
biệt xoắn tinh hoàn với các bệnh lí đau bìu cấp khác ở bất kì lứa tuổi nào. Cần
có một chiến dịch truyền thông sâu rộng nhằm nâng cao ý thức cảnh giác và
hiểu biết về bệnh cho cả người bệnh và nhân viên y tế, đặc biệt là các nhân viên
y tế tại cộng đồng.
14. Tài liệu tham khảo
1. Mansbach, J.M., P. Forbes, and C. Peters, Testicular torsion and risk factors for
orchiectomy. Arch Pediatr Adolesc Med, 2005. 159(12): p. 1167-71.
2. Witherington, R. and T.S. Jarrell, Torsion of the spermatic cord in adults. J Urol,
1990. 143(1): p. 62-3.
3. Londergan, T.A., Testicular torsion in a 59-year-old man. J Urol, 1995. 154(4): p.
1480.
4. Davol, P. and J. Simmons, Testicular torsion in a 68-year-old man. Urology, 2005.
66(1): p. 195.
5. Cummings, J.M., et al., Adult testicular torsion. J Urol, 2002. 167(5): p. 2109-10.
6. Phạm Văn Hảo and N.T. Như., Thấy gì qua các trường hợp xoắn tinh hoàn điều trị
tại khoa Nam học bệnh viện Bình Dân. Y học Việt Nam, 2010. tháng 11, số 2(375):
p. 178-180.
7. Lee, L.M., J.E. Wright, and M.G. McLoughlin, Testicular torsion in the adult. J Urol,
1983. 130(1): p. 93-4.
8. Cuckow, P.M. and J.D. Frank, Torsion of the testis. BJU Int, 2000. 86(3): p. 349-53.
9. Sessions, A.E., et al., Testicular torsion: direction, degree, duration and
disinformation. J Urol, 2003. 169(2): p. 663-5.
10. Sidhu, P.S., Clinical and imaging features of testicular torsion: role of ultrasound. Clin
Radiol, 1999. 54(6): p. 343-52.
11. Whitaker, R.H., Diagnoses not to be missed. Torsion of the testis. Br J Hosp Med,
1982. 27(1): p. 66-9.
12. Bhatt, S. and V.S. Dogra, Role of US in testicular and scrotal trauma. Radiographics,
2008. 28(6): p. 1617-29.
13. Mincheff, T., B. Bannister, and P. Zubel, Focal testicular infarction from laparoscopic
inguinal hernia repair. JSLS, 2002. 6(3): p. 211-3.
14. Noske, H.D., et al., Historical milestones regarding torsion of the scrotal organs. J
Urol, 1998. 159(1): p. 13-6.