Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Để quản lý xã hội, quản lý nhà nước, các Nhà nước luôn quan tâm xây dựng những quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo lợi ích của nhân dân, lợi ích của Nhà nước. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mà các chủ thể tự giác thực hiện một cách nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật. Pháp luật với ý nghĩa quan trọng của nó không chỉ dừng lại bằng các đạo luật mà vấn đề vô cùng quan trọng là “Pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân; trở thành phương thức quản lý xã hội, quản lý nhà nước; cơ sở cho sự tự quản xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội ” [89, tr.225].
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thực Hiện Pháp Luật Về Giáo Dục Và Đào Tạo Đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Tiểu luận nâng cao ý thức pháp luật và chất lượng xây dựng, thực hiện pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí, lợi ích của giai cấp thống trị, mang tính cưỡng chế buộc mọi người phải tuân theo nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền, bảo vệ và duy trì trật tự công cộng.
Cùng với nhà nước, pháp luật có nguồn gốc từ sự hình thành và phát triển của chế độ tư hữu, khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp, có sự xung đột, đối kháng về lợi ích giai cấp. Trong điều kiện đó, những quy phạm xã hội thể hiện ý chí chung của cộng đồng thị tộc, bộ lạc dùng để điều chỉnh hành vi, cách xử sự của các thành viên trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ trở nên không phù hợp với tính chất của các mối quan hệ xã hội mới. Nhu cầu cần có một hệ thống quy tắc xử sự mới mang tính cưỡng chế mạnh nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phù hợp, trước hết với ý chí, lợi ích của giai cấp thống trị; đồng thời duy trì trật tự công cộng đã dẫn đến việc nhà nước xây dựng pháp luật, thiết lập nên những quy phạm pháp luật làm công cụ quản lý, điều hành xã hội.
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về áp dụng pháp luật trong lĩnh vực đăng ký kết hôn. Áp dụng pháp luật là loạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể.
Cơ sở lý luận về cải cách thủ tục hành chính. Thủ tục hành chính là một trong các hình thức thủ tục pháp lý là thủ tục lập pháp, thủ tục hành pháp và thủ tục tư pháp, cũng như mọi hiện tượng có tính chất thủ tục khác, cụ thể là các hình thức thủ tục tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính. TTHC có các đặc điểm chung cơ bản: Là hình thức của các quy phạm vật chất phát sinh từ quy phạm vật chất nhưng lại là phương tiện đảm bảo thực hiện quy phạm vật chất. Tuy nhiên bản thân thủ tục hành chính là loại thủ tục riêng, có đặc điểm riêng, chứng tỏ nó là một hiện tượng pháp lý có tính chất độc lập tương đối, đó là các đặc điểm sau:
ádsdddddđsđâsdsadasdsadsads
I. MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết triển khai thực hiện đề tài
Việc nghiên cứu và xây dựng Đề tài là rất cần thiết nhằm đánh giá hiệu quả cũng nhườnhững tồn tại, hạn chế trong công tác đánh giá kết quả cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh. Từ đó nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tổng thể, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đánh giá kết quả cải cách hành chính của tỉnh một cách đồng bộ, toàn diện, tạo ra sự chuyển biến rõ nét, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao thứ hạng Chỉ số Cải cách hành chính của tỉnh, nâng cao hiệu quả, hiệu lực và chất lượng công tác quản lý hành chính nhà nước các cấp tỉnh Thái Bình, hướng tới nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, phục vụ người dân tốt hơn.
2. Mục tiêu của đề tài
Nghiên cứu thực trạng công tác cải cách hành chính và đánh giá kết quả cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh; phân tích, đánh giá ưu, nhược điểm từ đó đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác đánh giá kết quả cải cách hành chính một cách tổng thể, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Thông qua đó giúp cho các cấp, các ngành cải thiện hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, thực thi chính sách, cung ứng dịch vụ công, nâng cao hiệu quả cải cách hành chính trên cơ sở tăng điểm và nâng thứ hạng Chỉ số cải cách hành chính của tỉnh, góp phần xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
II. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1. Về cải cách hành chính
Hiện nay, công cuộc cải cách hành chính đang là tâm điểm trong các nỗ lực của Đảng và Nhà nước. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 ban hành kèm theo Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ với mục tiêu chung là: Tiếp tục xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân, trên cơ sở những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn 2021 - 2030. Cải cách hành chính nhà nước tập trung vào 6 nội dung, đó là: Cải cách thể chế; Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách chế độ công vụ; Cải cách tài chính công và hiện đại hóa hành chính (đến giai đoạn 2021 - 2030 là Xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số). Do đó, cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh Thái Bình
cần đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, bám sát tình hình thực tiễn. Các Sở, ban, ngành; ủy ban nhân dân các huyện, thành phố; Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn; cơ quan của Trung ương được tổ chức theo ngành dọc đóng trên địa bàn tỉnh nhận thức đầy đủ, xác định công tác cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá, thường xuyên. Xác định rõ trách nhiệm
Cơ sở lý luận về thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa. Theo nghĩa thông dụng nhất, hành chính là hoạt động quản lý, lãnh đạo. Đó là các hoạt động được thực hiện bởi các cơ quan hành chính Nhà nước; hay là những cơ quan thực hiện các hoạt động chấp hành, điều hành các mặt hoạt động của đời sống xã hội, các cơ quan chấp hành của quyền lực nhà nước, bộ máy Chính phủ; hoặc cũng có thể là những người có chức vụ lãnh đạo quảng lý trong cơ quan, đơn vị, xí nghiệp.
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Thực Hiện Pháp Luật Về Giáo Dục Và Đào Tạo Đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và theo dõi mà các bạn không nên bỏ qua. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Tiểu luận nâng cao ý thức pháp luật và chất lượng xây dựng, thực hiện pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành, thể hiện ý chí, lợi ích của giai cấp thống trị, mang tính cưỡng chế buộc mọi người phải tuân theo nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền, bảo vệ và duy trì trật tự công cộng.
Cùng với nhà nước, pháp luật có nguồn gốc từ sự hình thành và phát triển của chế độ tư hữu, khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp, có sự xung đột, đối kháng về lợi ích giai cấp. Trong điều kiện đó, những quy phạm xã hội thể hiện ý chí chung của cộng đồng thị tộc, bộ lạc dùng để điều chỉnh hành vi, cách xử sự của các thành viên trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ trở nên không phù hợp với tính chất của các mối quan hệ xã hội mới. Nhu cầu cần có một hệ thống quy tắc xử sự mới mang tính cưỡng chế mạnh nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phù hợp, trước hết với ý chí, lợi ích của giai cấp thống trị; đồng thời duy trì trật tự công cộng đã dẫn đến việc nhà nước xây dựng pháp luật, thiết lập nên những quy phạm pháp luật làm công cụ quản lý, điều hành xã hội.
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về áp dụng pháp luật trong lĩnh vực đăng ký kết hôn. Áp dụng pháp luật là loạt động thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hoá quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể.
Cơ sở lý luận về cải cách thủ tục hành chính. Thủ tục hành chính là một trong các hình thức thủ tục pháp lý là thủ tục lập pháp, thủ tục hành pháp và thủ tục tư pháp, cũng như mọi hiện tượng có tính chất thủ tục khác, cụ thể là các hình thức thủ tục tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính. TTHC có các đặc điểm chung cơ bản: Là hình thức của các quy phạm vật chất phát sinh từ quy phạm vật chất nhưng lại là phương tiện đảm bảo thực hiện quy phạm vật chất. Tuy nhiên bản thân thủ tục hành chính là loại thủ tục riêng, có đặc điểm riêng, chứng tỏ nó là một hiện tượng pháp lý có tính chất độc lập tương đối, đó là các đặc điểm sau:
ádsdddddđsđâsdsadasdsadsads
I. MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết triển khai thực hiện đề tài
Việc nghiên cứu và xây dựng Đề tài là rất cần thiết nhằm đánh giá hiệu quả cũng nhườnhững tồn tại, hạn chế trong công tác đánh giá kết quả cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh. Từ đó nghiên cứu, đề xuất các giải pháp tổng thể, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đánh giá kết quả cải cách hành chính của tỉnh một cách đồng bộ, toàn diện, tạo ra sự chuyển biến rõ nét, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao thứ hạng Chỉ số Cải cách hành chính của tỉnh, nâng cao hiệu quả, hiệu lực và chất lượng công tác quản lý hành chính nhà nước các cấp tỉnh Thái Bình, hướng tới nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, phục vụ người dân tốt hơn.
2. Mục tiêu của đề tài
Nghiên cứu thực trạng công tác cải cách hành chính và đánh giá kết quả cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh; phân tích, đánh giá ưu, nhược điểm từ đó đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác đánh giá kết quả cải cách hành chính một cách tổng thể, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Thông qua đó giúp cho các cấp, các ngành cải thiện hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, thực thi chính sách, cung ứng dịch vụ công, nâng cao hiệu quả cải cách hành chính trên cơ sở tăng điểm và nâng thứ hạng Chỉ số cải cách hành chính của tỉnh, góp phần xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
II. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1. Về cải cách hành chính
Hiện nay, công cuộc cải cách hành chính đang là tâm điểm trong các nỗ lực của Đảng và Nhà nước. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 ban hành kèm theo Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ với mục tiêu chung là: Tiếp tục xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân, trên cơ sở những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn 2021 - 2030. Cải cách hành chính nhà nước tập trung vào 6 nội dung, đó là: Cải cách thể chế; Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách chế độ công vụ; Cải cách tài chính công và hiện đại hóa hành chính (đến giai đoạn 2021 - 2030 là Xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số). Do đó, cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh Thái Bình
cần đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, bám sát tình hình thực tiễn. Các Sở, ban, ngành; ủy ban nhân dân các huyện, thành phố; Ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn; cơ quan của Trung ương được tổ chức theo ngành dọc đóng trên địa bàn tỉnh nhận thức đầy đủ, xác định công tác cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá, thường xuyên. Xác định rõ trách nhiệm
Cơ sở lý luận về thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa. Theo nghĩa thông dụng nhất, hành chính là hoạt động quản lý, lãnh đạo. Đó là các hoạt động được thực hiện bởi các cơ quan hành chính Nhà nước; hay là những cơ quan thực hiện các hoạt động chấp hành, điều hành các mặt hoạt động của đời sống xã hội, các cơ quan chấp hành của quyền lực nhà nước, bộ máy Chính phủ; hoặc cũng có thể là những người có chức vụ lãnh đạo quảng lý trong cơ quan, đơn vị, xí nghiệp.
Cơ sở lý luận về giải thích pháp luật. • “Giải thích pháp luật được hiểu là việc làm sáng tỏ về mặt tư tưởng và nội dung của các quy phạm pháp luật; là nhằm xây dựng lại ý tưởng mà tác giả mong muốn truyền đạt qua các quy định của văn bản pháp luật đó” [11]
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam
Mẫu Tiểu Luận Hệ Thống Pháp Luật Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Nhà nước và pháp luật là hai yếu tố song hành không thể tách rời nhau. Pháp luật nhà nước xã hội chủ nghĩa là pháp luật được hình thành do sự phát triển của kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa. Pháp luật này hình thành chịu tác động của nhiều điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, dân cư,… do đó nó cũng có những đặc điểm riêng và thể hiện vai trò rõ rệt trong việc quản lý đất nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành luật với đề tài: Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
Tiểu Luận Bài Thi Học Kỳ Luật Hiến Pháp, ĐH Luật, 9 Điểm. Mục đích của tiểu luận này là xác định một số quan điểm lý luận về vị trí, vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN và những biểu hiện trong thực tiễn các vai trò của Toà án. Luận văn còn hướng đến phân tích một số yếu tố tác động trực tiếp đến vị trí, vai trò của Toà án nhằm xác định những nguyên nhân hạn chế. Qua đó đưa ra những phương hướng nâng cao vai trò của Toà án phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Kết quả của luận văn là đưa ra một số giải pháp hướng đến mục đích đảm bảo tính độc lập, dân chủ và công khai trong quá trình xét xử nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động xét xử - yếu tố tác động trực tiếp đến khả năng, hiệu quả thực hiện các vai trò của Toà án. Để hoạt động xét xử của Toà án có chất lượng, hiệu quả cao, đảm bảo công lý, công bằng, công khai, dân chủ, bình đẳng xã hội và bảo vệ quyền công dân, quyền con người.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành luật với đề tài: Vai trò của thực tiễn xét xử trong việc phát triển và hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Vai trò của thực tiễn xét xử trong việc phát triển và hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Tải khóa luận tốt nghiệp ngành Luật đất đai với đề tài: Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan nhà nước. Thực trạng và giải pháp. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân cấp huyện. HĐND là cơ quan nhà nƣớc mà tổ chức và hoạt động vừa mang tính chất cơ quan quyền lực nhà nƣớc, vừa mang tính đại diện cho cộng đồng dân cƣ nơi HĐND đƣợc bầu ra. HĐND đảm nhiệm vai trò là cơ quan đại diện cho nhân dân ở địa phƣơng, tham gia vào hoạt động quản lý Nhà nƣớc, quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phƣơng. HĐND cũng thay mặt nhân dân kiểm soát hoạt động của các cơ quan Nhà nƣớc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Tiểu Luận Hệ Thống Pháp Luật Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một bộ phận của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nó là tổng thể các quy định pháp luật quốc gia có sự liên kết, gắn bó chặt chẽ thống nhất, nội tại với nhau, được cấu trúc (phân định) thành những tập hợp bộ phận nhỏ hơn phù hợp với tính chất và đặc điểm của các quan hệ xã hội mà chúng điều chỉnh. Dựa trên đối tượng điều chính, phạm vi điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, hệ thống pháp luật được chia thành các ngành luật khác nhau. Về mặt hình thức, nó được quy định dưới dạng các văn bản pháp luật.
Luận Văn Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô Tỉnh Đắk Nông. Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống hóa các vấn đề lý luận về THADS; Làm rõ được đặc điểm, ý nghĩa, nội dung của cưỡng chế THADS và cơ sở của việc quy định biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự (BPCC THADS).
Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế. Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến hàng ngày trong đời sống xã hội, kinh tế, từ những hành vi nhỏ như vứt rác không đúng nơi, đúng chỗ, đến những hành vi có tính chất, mức độ lớn hơn như điều khiển môtô, xe máy đi vào đường một chiều, vượt đèn đỏ, hoặc những hành vi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh như tiến hành kinh doanh mà không đăng ký theo quy định của pháp luật, trốn thuế, thay đổi trụ sở của doanh nghiệp mà không thông báo, hay những hành vi trong lĩnh vực bảo vệ môi trường như vận chuyển và xử lý chất thải, các chất gây ô nhiễm môi trường không đúng theo quy định về bảo vệ môi trường; những hành vi trong lĩnh vực thương mại như xuất nhập khẩu hàng hóa không đúng giấy phép... Tóm lại, những hành vi vi phạm pháp luật trên thể hiện rất đa dạng, phong phú, ở hầu hết các lĩnh vực của quản lý nhà nước, song đều có chung một số đặc điểm sau:
Cơ sở lý luận phổ biến, giáo dục pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật luôn có ý nghĩa nhất định là đưa pháp luật vào cuộc sống, xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, làm cho đông đảo quần chúng nhân dân biết các văn bản pháp luật mà Nhà nước ban hành bằng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật.
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho. Tất cả những thứ này đƣợc coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ đƣợc
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự. Quản trị nhân sự là một hoạt động của quản trị doanh nghiệp, là quá trình tổ chức nguồn lao động cho doanh nghiệp, là phân bố sử dụng nguồn lao động một cách khoa học và có hiệu quả trên cơ sở phân tích công việc, bố trí lao động hợp lý, trên cơ sở xác định nhu cầu lao động để tiến hành tuyển dụng nhân sự, đào tạo và phát triển nhân sự, đánh giá nhân sự thông qua việc thực hiện.
More Related Content
Similar to Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.docx
Cơ sở lý luận về giải thích pháp luật. • “Giải thích pháp luật được hiểu là việc làm sáng tỏ về mặt tư tưởng và nội dung của các quy phạm pháp luật; là nhằm xây dựng lại ý tưởng mà tác giả mong muốn truyền đạt qua các quy định của văn bản pháp luật đó” [11]
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam
Mẫu Tiểu Luận Hệ Thống Pháp Luật Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Nhà nước và pháp luật là hai yếu tố song hành không thể tách rời nhau. Pháp luật nhà nước xã hội chủ nghĩa là pháp luật được hình thành do sự phát triển của kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa. Pháp luật này hình thành chịu tác động của nhiều điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, dân cư,… do đó nó cũng có những đặc điểm riêng và thể hiện vai trò rõ rệt trong việc quản lý đất nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành luật với đề tài: Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
Tiểu Luận Bài Thi Học Kỳ Luật Hiến Pháp, ĐH Luật, 9 Điểm. Mục đích của tiểu luận này là xác định một số quan điểm lý luận về vị trí, vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN và những biểu hiện trong thực tiễn các vai trò của Toà án. Luận văn còn hướng đến phân tích một số yếu tố tác động trực tiếp đến vị trí, vai trò của Toà án nhằm xác định những nguyên nhân hạn chế. Qua đó đưa ra những phương hướng nâng cao vai trò của Toà án phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Kết quả của luận văn là đưa ra một số giải pháp hướng đến mục đích đảm bảo tính độc lập, dân chủ và công khai trong quá trình xét xử nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động xét xử - yếu tố tác động trực tiếp đến khả năng, hiệu quả thực hiện các vai trò của Toà án. Để hoạt động xét xử của Toà án có chất lượng, hiệu quả cao, đảm bảo công lý, công bằng, công khai, dân chủ, bình đẳng xã hội và bảo vệ quyền công dân, quyền con người.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận án tiến sĩ ngành luật với đề tài: Vai trò của thực tiễn xét xử trong việc phát triển và hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, cho các bạn làm luận án tham khảo
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Vai trò của thực tiễn xét xử trong việc phát triển và hoàn thiện các quy định của Phần chung luật hình sự Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Tải khóa luận tốt nghiệp ngành Luật đất đai với đề tài: Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan nhà nước. Thực trạng và giải pháp. ZALO/TELEGRAM 0917 193 864
Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân cấp huyện. HĐND là cơ quan nhà nƣớc mà tổ chức và hoạt động vừa mang tính chất cơ quan quyền lực nhà nƣớc, vừa mang tính đại diện cho cộng đồng dân cƣ nơi HĐND đƣợc bầu ra. HĐND đảm nhiệm vai trò là cơ quan đại diện cho nhân dân ở địa phƣơng, tham gia vào hoạt động quản lý Nhà nƣớc, quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phƣơng. HĐND cũng thay mặt nhân dân kiểm soát hoạt động của các cơ quan Nhà nƣớc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Tiểu Luận Hệ Thống Pháp Luật Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một bộ phận của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nó là tổng thể các quy định pháp luật quốc gia có sự liên kết, gắn bó chặt chẽ thống nhất, nội tại với nhau, được cấu trúc (phân định) thành những tập hợp bộ phận nhỏ hơn phù hợp với tính chất và đặc điểm của các quan hệ xã hội mà chúng điều chỉnh. Dựa trên đối tượng điều chính, phạm vi điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, hệ thống pháp luật được chia thành các ngành luật khác nhau. Về mặt hình thức, nó được quy định dưới dạng các văn bản pháp luật.
Luận Văn Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô Tỉnh Đắk Nông. Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống hóa các vấn đề lý luận về THADS; Làm rõ được đặc điểm, ý nghĩa, nội dung của cưỡng chế THADS và cơ sở của việc quy định biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự (BPCC THADS).
Cơ sở lý luận về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế. Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến hàng ngày trong đời sống xã hội, kinh tế, từ những hành vi nhỏ như vứt rác không đúng nơi, đúng chỗ, đến những hành vi có tính chất, mức độ lớn hơn như điều khiển môtô, xe máy đi vào đường một chiều, vượt đèn đỏ, hoặc những hành vi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh như tiến hành kinh doanh mà không đăng ký theo quy định của pháp luật, trốn thuế, thay đổi trụ sở của doanh nghiệp mà không thông báo, hay những hành vi trong lĩnh vực bảo vệ môi trường như vận chuyển và xử lý chất thải, các chất gây ô nhiễm môi trường không đúng theo quy định về bảo vệ môi trường; những hành vi trong lĩnh vực thương mại như xuất nhập khẩu hàng hóa không đúng giấy phép... Tóm lại, những hành vi vi phạm pháp luật trên thể hiện rất đa dạng, phong phú, ở hầu hết các lĩnh vực của quản lý nhà nước, song đều có chung một số đặc điểm sau:
Cơ sở lý luận phổ biến, giáo dục pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật luôn có ý nghĩa nhất định là đưa pháp luật vào cuộc sống, xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, làm cho đông đảo quần chúng nhân dân biết các văn bản pháp luật mà Nhà nước ban hành bằng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật.
Cơ sở lý luận về quản trị hàng tồn kho. Tất cả những thứ này đƣợc coi là hàng tồn kho và chiếm một phần lớn trong tỷ lệ tài sản kinh doanh của doanh nghiệp, bởi vì doanh thu từ hàng tồn kho là một trong những nguồn cơ bản tạo ra doanh thu và những khoản thu nhập thêm sau này cho doanh nghiệp. Đó là những tài sản đã sẵn sàng để đem ra bán hoặc sẽ đƣợc
Cơ sở lý luận về công tác quản trị nhân sự. Quản trị nhân sự là một hoạt động của quản trị doanh nghiệp, là quá trình tổ chức nguồn lao động cho doanh nghiệp, là phân bố sử dụng nguồn lao động một cách khoa học và có hiệu quả trên cơ sở phân tích công việc, bố trí lao động hợp lý, trên cơ sở xác định nhu cầu lao động để tiến hành tuyển dụng nhân sự, đào tạo và phát triển nhân sự, đánh giá nhân sự thông qua việc thực hiện.
Cơ sở lý luận về công tác lưu trữ. Công tác lưu trữ ra đời là do đòi hỏi khách quan đối với việc bảo quản và tổ chức sử dụng tài liệu. Nhà nước ta luôn coi công tác này, đây là một ngành hoạt động trong công tác quản lý nhà nước đồng thời là một mắt xích không thể thiếu được trong bộ máy quản lý của mình. Ngày nay, những yêu cầu mới của công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội, công tác lưu trữ cần được xem xét từ những yêu cầu bảo đảm thông tin cho hoạt động quản lý, bởi thông tin trong tài liệu lưu trữ là loại thông tin có tính dự báo cao, dạng thông tin cấp một, đã được thực tiễn kiểm nghiệm, có độ tin cậy cao do nguồn gốc hình thành, do đặc trưng pháp lý, tính chất làm bằng chứng lịch sử của tài liệu lưu trữ quy định.
Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh các công ty buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Cơ sở lý luận về động lực làm việc của người lao động. Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía cạnh.Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực.Nguồn nhân lực nằm trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực con người và các nguồn lực khác.Thứ hai, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể nguồn nhân lực của từng cá nhân con người. Với tư cách là một nguồn nhân lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định. (Thư viện Học liệu Mở Việt Nam , 2012)
Cơ sở lý luận về thể chế quản lý nhà nước đối với tài sản công trong các doanh nghiệp nhà nước. Ngày 20/04/1995 Quốc hội Khóa IX đã thông qua Luật DNNN năm 1995 để quy định cụ thể việc thành lập và quản lý phần vốn của nhà nước đầu tư trong các DNNN, mà trước đó mới chỉ được điều chỉnh bởi các Nghị định và hướng dẫn của Chính phủ. Theo đó, tại Điều 1 Luật DNNN 1995 quan niệm: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”.Các DNNN được tổ chức theo mô hình quản lý riêng, không giống như mô hình quản lý của các doanh nghiệp tư nhân.
Cơ sở lý luận về an toàn vệ sinh lao động và pháp luật điều chỉnh an toàn vệ sinh lao động. Trong hoạt động sản xuất thì vì những lý do khách quan và chủ quan có thể dẫn đến tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Do đó, yêu cầu về ATLĐ và VSLĐ trong lao động được đặt lên hàng đầu. Hiện nay,, An toàn, vệ sinh lao động là những quy định của luật lao động bao gồm những quy phạm pháp luật về việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động, đồng thời duy trì tốt khả năng làm việc lâu dài của người lao động.
Cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay. Trong các giao dịch dân sự, chủ thể có quyền luôn quan tâm đến khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của chủ thể có nghĩa vụ. Do đó, các quy định giao dịch bảo đảm hay biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự ra đời trước hết là nhằm hướng đến mục tiêu bảo vệ chủ thể có quyền trong quan hệ giao dịch dân sự.
Cơ sở lý luận về bảo vệ quyền của lao động nữ và pháp luật về bảo vệ quyền của lao động nữ. NLĐ dù là nam hay nữ đều được pháp luật ở mỗi quốc gia bảo vệ dưới góc độ quyền công dân và được pháp luật quốc tế công nhận và đảm bảo. Ủy ban Quyền con người của Liên Hợp quốc đã có sự phân chia nhóm quyền con người trong lĩnh vực lao động thuộc nhóm quyền dân sự và dưới góc độ pháp luật lao động “Quyền của người lao động phải được bảo đảm như quyền con người” [9].
Cơ sở lý luận về hoạt động ban hành văn bản hành chính tại ủy ban nhân dân quận. Văn bản hành chính dùng để truyền đạt thông tin trong hoạt động quản lý nhà nước như : công bố hoặc thông báo về một chủ trương, quyết định hay nội dung và kết quả hoạt động của một cơ quan, tổ chức; ghi chép lại các ý kiến và kết luận trong các hội nghị ; thông tin giao dịch chính giữa các cơ quan, tổ chức với nhau hoặc giữa tổ chức và công nhân. Văn bản hành chính đưa ra các quyết định quản lý quy phạm, do đó không dùng để thay thế cho văn bản QPPL [21, tr 36]
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của viện kiểm sát nhân dân. Tin báo, tố giác về tội phạm là nguồn thông tin quan trọng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở, căn cứ để tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Quy định về tin báo, tố giác về tội phạm góp phần tăng cường trách nhiệm của người dân, cơ quan, tổ chức trong xã hội đối với việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời góp phần tạo sự rõ ràng và minh bạch cho các chủ thể này có thể tố cáo hành vi phạm tội hoặc thông tin về hành vi phạm tội của người khác đến cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động xử lý tin báo, tố giác về tội phạm là một hoạt động quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, qua đó CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có căn cứ không khởi tố vụ án hình sự hoặc khởi tố vụ án hình sự và tiến hành điều tra.
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí. Luật Báo chí nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi, bổ sung và thông qua năm 1999 không tập trung giải thích rõ nội hàm của báo chí mà chỉ liệt kê các loại hình báo chí: Báo chí nói trong luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài.
Cơ sở lý luận về cơ chế “một cửa” của ủy ban nhân dân quận. Kinh nghiệm và thực tiễn của nhiều nước trên thế giới trong quá trình vận hành và tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” đã chỉ ra rằng đây là một cơ chế hữu hiệu để nâng cao tính hiệu quả của nền hành chính và giảm thiểu thời gian cho người dân và tổ chức khi đến giải quyết thủ tục hành chính với cơ quan công quyền tại một địa điểm. Một số quốc gia thiết lập và tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” trong cung cấp dịch vụ công tại cấp chính quyền trung ương, một số nước thì đặt theo đơn vị hành chính các cấp của chính quyền trung ương, một số nước thì đặt theo đơn vị hành chính các cấp chính quyền địa phương. Các quốc gia cũng đều chú trọng việc thiếp lập cơ chế theo dõi, đánh giá tính hiệu quả của việc tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” và xây dựng các công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công.
Cơ sở lý luận về chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở. Với quy định của pháp luật, đất đai được chia ra làm nhiều loại khác nhau: theo Luật Đất đai năm 1993, đất đai của Việt Nam được chia ra làm sáu loại, bao gồm: đất nông nghiệp, đất chuyên dùng, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chưa sử dụng. Sự phân chia này dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau, vừa căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, vừa căn cứ vào địa bàn sử dụng đất đã dẫn đến sự đan xen chồng chéo giữa các loại đất, không có sự tách bạch về mặt pháp lý gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai. Để khắc phục những hạn chế này, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất thực hiện các quyền của mình trong việc sử dụng đất. Luật Đất đai 2003 và hiện nay là Luật Đất đai 2013 đã chia đất đai làm ba loại với tiêu chí phân loại duy nhất đó là căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu gồm các nhóm: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng.
Cơ sở lí luận về quản lí thu bảo hiểm xã hội bắt buộc tại bảo hiểm xã hội cấp huyện. Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại. Tuy nhiên, bảo hiểm thực sự xuất hiện từ khi nào thì người ta vẫn chưa có được câu trả lời chính xác. ý tưởng về bảo hiểm được coi là đã xuất hiện từ khá lâu, khi mà người xưa đã nhận ra lợi ích của việc xây dựng một kho thóc lúa dự trữ chung phòng khi mất mùa, chiến tranh…Mặc dù bảo hiểm đã có nguồn gốc và lịch sử phát triển từ rất lâu, do tính đặc thù của loại hình dịch vụ này, cho đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất về bảo hiểm. Theo các chuyên gia bảo hiểm, một khái niệm đầy đủ và thích hợp cho bảo hiểm phải bao gồm việc hình thành một quỹ tiền tệ (quỹ bảo hiểm), sự hoán chuyển rủiro và phải bao gồm cả sự kết hợp số đông các đối tượng riêng lẻ, độc lập chịu cùng một rủi ro như nhau tạo thành một nhóm tương tác.
Cơ Sở Lý Thuyết Về Phân Tích Tình Hình Tài Chính. Báo cáo tài chính là các chứng từ cần thiết trong kinh doanh. Các nhà quản lý sử dụng chúng để đánh giá năng lực thực hiện và xác định các lĩnh vực cần thiết phải được can thiệp. Các cổ đông sử dụng chúng để theo dõi tình hình vốn đầu tư của mình đang được quản lý như thế nào. Các nhà đầu tư bên ngoài dùng chúng để xác định cơ hội đầu tư. Còn người cho vay và nhà cung ứng lại thường xuyên kiểm tra báo cáo tài chính để xác định khả năng thanh toán của những công ty mà họ đang giao dịch.
Cơ sở lý thuyết về tài sản ngắn hạn, sử dụng tài sản ngắn hạn và quản lý tài sản ngắn hạn tại doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn được đánh giá rất quan trọng trong kinh doanh bởi nó sẽ được sử dụng rất thương xuyên, sử dụng hàng ngày để chi trả cho các chi phí phát sinh khác trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó cũng là thước đo dùng để phản ánh các giá trị hiện có và tình hình biến động về kinh tế của doanh nghiệp tăng hau giảm.
Cơ sở lý luận và thực tiễn về thị trường và phát triển thị trường. Chúng ta biết rằng hàng hóa sản xuất ra là để bán. Chúng được bán ở thị trường. Theo cách hiểu cổ điển, thị trường là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán, nơi mà các người mua và bán đến với nhau để mua bán các sản phẩm và dịch vụ. Thị trường thể hiện đặc tính riêng của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Không thể coi thị trường chỉ là các chợ, các cửa hàng…mặc dù nơi đó có mua bán hàng hóa. [2_trang 16]
Cơ Sở Lý Luận Về Chất Lượng Tiệc Buffet. Đầu tiên để tiếp cận một cách cụ thể về khái niệm chất lượng dịch vụ thì chúng ta cũng cần biết đôi chút về “dịch vụ” là gì. Theo đó thì dịch vụ là những hoạt động hoặc là chuỗi hoạt động mà thông thường ít hoặc nhiều chúng ta không thể sờ thấy về mặt tự nhiên được, nhưng không nhất thiết, xảy ra sự tác động qua lại giữa một bên là khách hàng và một bên là người cung cấp dịch vụ và / hoặc tiềm lực về mặt vật lý của sản phẩm và / hoặc hệ thống người cung cấp mà nó được cung cấp như là những giải pháp cho vấn đề của người tiêu dùng (Gronroos, 1990).
Cơ sở lý luận pháp luật nhà nước về công tác thanh niên. Liên hợp quốc định nghĩa thanh niên là nhóm người từ 15 đến 24 tuổi chủ yếu dựa trên cơ sở phân biệt các đặc điểm về tâm sinh lý và hoàn cảnh xã hội so với các nhóm lứa tuổi khác. Song, Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em lại xác định trẻ em đến dưới 18 tuổi.
More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍 (20)
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
https://dienlanhbachkhoa.net.vn
Hotline/Zalo: 0338580000
Địa chỉ: Số 108 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptxCNGTRC3
Cháy, nổ trong công nghiệp không chỉ gây ra thiệt hại về kinh tế, con người mà còn gây ra bất ổn, mất an ninh quốc gia và trật tự xã hội. Vì vậy phòng chông cháy nổ không chỉ là nhiệm vụ mà còn là trách nhiệm của cơ sở sản xuất, của mổi công dân và của toàn thể xã hội. Để hạn chế các vụ tai nạn do cháy, nổ xảy ra thì chúng ta cần phải đi tìm hiểu nguyên nhân gây ra các vụ cháy nố là như thế nào cũng như phải hiểu rõ các kiến thức cơ bản về nó từ đó chúng ta mới đi tìm ra được các biện pháp hữu hiệu nhất để phòng chống và sử lý sự cố cháy nổ.
Mục tiêu:
- Nêu rõ các nguy cơ xảy ra cháy, nổ trong công nghiệp và đời sống; nguyên nhân và các biện pháp đề phòng phòng;
- Sử dụng được vật liệu và phương tiện vào việc phòng cháy, chữa cháy;
- Thực hiện được việc cấp cứa khẩn cấp khi tai nạn xảy ra;
- Rèn luyện tính kỷ luật, kiên trì, cẩn thận, nghiêm túc, chủ động và tích cực sáng tạo trong học tập.
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfLngHu10
Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC VÀ TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
A. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức: Trang bị cho sinh viên những tri thức cơ bản về triết học nói chung,
những điều kiện ra đời của triết học Mác - Lênin. Đồng thời, giúp sinh viên nhận thức được
thực chất cuộc cách mạng trong triết học do
C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện và các giai đoạn hình thành, phát triển triết học Mác - Lênin;
vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong thời đại ngày nay.
2. Về kỹ năng: Giúp sinh viên biết vận dụng tri thức đã học làm cơ sở cho việc nhận
thức những nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin; biết đấu tranh chống lại những luận
điểm sai trái phủ nhận sự hình thành, phát triển triết học Mác - Lênin.
3. Về tư tưởng: Giúp sinh viên củng cố niềm tin vào bản chất khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng.
B. NỘI DUNG
I- TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Khái lược về triết học
a) Nguồn gốc của triết học
Là một loại hình nhận thức đặc thù của con người, triết học ra đời ở cả phương Đông và
phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công
nguyên) tại các trung tâm văn minh lớn của nhân loại thời cổ đại. Ý thức triết học xuất hiện
không ngẫu nhiên, mà có nguồn gốc thực tế từ tồn tại xã hội với một trình độ nhất định của
sự phát triển văn minh, văn hóa và khoa học. Con người, với kỳ vọng được đáp ứng nhu
cầu về nhận thức và hoạt động thực tiễn của mình đã sáng tạo ra những luận thuyết chung
nhất, có tính hệ thống, phản ánh thế giới xung quanh và thế giới của chính con người. Triết
học là dạng tri thức lý luận xuất hiện sớm nhất trong lịch sử các loại hình lý luận của nhân
loại.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học có nguồn gốc nhận thức và nguồn
gốc xã hội.
* Nguồn gốc nhận thức
Nhận thức thế giới là một nhu cầu tự nhiên, khách quan của con người. Về mặt lịch
sử, tư duy huyền thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là loại hình triết lý đầu tiên mà con
người dùng để giải thích thế giới bí ẩn xung quanh. Người nguyên thủy kết nối những hiểu
biết rời rạc, mơ hồ, phi lôgích... của mình trong các quan niệm đầy xúc cảm và hoang
tưởng thành những huyền thoại để giải thích mọi hiện tượng. Đỉnh cao của tư duy huyền
thoại và tín ngưỡng nguyên thủy là kho tàng những câu chuyện thần thoại và những tôn
9
giáo sơ khai như Tô tem giáo, Bái vật giáo, Saman giáo. Thời kỳ triết học ra đời cũng là
thời kỳ suy giảm và thu hẹp phạm vi của các loại hình tư duy huyền thoại và tôn giáo
nguyên thủy. Triết học chính là hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng
nhân loại thay thế được cho tư duy huyền thoại và tôn giáo.
Trong quá trình sống và cải biến thế giới, từng bước con người có kinh nghiệm và có
tri thức về thế giới. Ban đầu là những tri thức cụ thể, riêng lẻ, cảm tính. Cùng với sự tiến
bộ của sản xuất và đời sống, nhận thức của con người dần dần đạt đến trình độ cao hơn
trong việc giải thích thế giới một cách hệ thống
Để xem full tài liệu Xin vui long liên hệ page để được hỗ trợ
:
https://www.facebook.com/garmentspace/
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
HOẶC
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
https://www.facebook.com/thuvienluanvan01
tai lieu tong hop, thu vien luan van, luan van tong hop, do an chuyen nganh
Cơ sở lý luận của vấn đề thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.docx
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1. Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật
Để quản lý xã hội, quản lý nhà nước, các Nhà nước luôn quan tâm xây dựng những
quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đảm bảo lợi ích của nhân dân,
lợi ích của Nhà nước. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi mà các chủ thể tự giác thực
hiện một cách nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật. Pháp luật với ý nghĩa quan
trọng của nó không chỉ dừng lại bằng các đạo luật mà vấn đề vô cùng quan trọng là “Pháp
luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân; trở thành phương thức quản lý xã hội, quản
lý nhà nước; cơ sở cho sự tự quản xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội ” [89, tr.225].
Với ý nghĩa thiết thực đó, vấn đề thực hiện pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng
trong toàn bộ các hoạt động pháp luật đó là: xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật, bảo
vệ pháp luật.
1.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là hoạt động tiếp nối sau khi văn bản pháp luật được ban hành
nhằm làm cho các qui định của pháp luật đi vào cuộc sống và trở thành qui tắc xử sự của
các chủ thể pháp luật.
Hiện nay đang có những định nghĩa khác nhau về thực hiện pháp luật.
Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật
của Khoa Nhà nước và Pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, thực
hiện pháp luật được hiểu là “ quá trình hoạt động có mục đích làm cho những qui định
của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực
tế của các chủ thể pháp luật” [40, tr.270].
Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật của
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thì: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ
thể pháp luật ” [24, tr.369].
Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội
thì: “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định
của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể
pháp luật ”[22, tr. 463].
Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Học viện Hành chính
Quốc gia thì: “Thực hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình làm cho những quy tắc của
pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [39, tr.344].
Chúng ta thấy rằng, các định nghĩa trên đều có quan niệm tương đối đồng nhất về
những nội dung cơ bản, đó là: Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm thực
hiện những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật là hoạt động thực tế, hợp pháp của
các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong
cuộc sống. Tuy nhiên, cũng có sự khác nhau trong các định nghĩa trên. Có định nghĩa nêu
thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động, các định nghĩa khác lại chỉ nêu thực hiện
pháp luật là hiện tượng, quá trình .
Theo chúng tôi, hiện tượng, quá trình hay quá trình hoạt động đều là những phạm
trù có nội hàm riêng của nó nhưng có cùng mục đích là thực hiện những quy định của
pháp luật, làm cho những quy định ấy trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các
chủ thể pháp luật, đáp ứng yêu cầu đặt ra của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội. Tuy nhiên, hoạt động thực hiện pháp luật không chỉ là những hành vi đơn lẻ, độc
lập, cắt khúc mà nó luôn luôn là một quá trình. Vì vậy, về khái niệm thực hiện pháp luật
chúng tôi đồng ý với nội dung cơ bản trong các định nghĩa nêu trên và sắp xếp lại như
sau:
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các qui định của
pháp luật trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật và được
thực hiện trong thực tế cuộc sống
1.1.2. Hình thức thực hiện pháp luật
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Các qui phạm pháp luật rất phong phú, đồng thời chúng cũng xác định quyền,
nghĩa vụ thực hiện đối với các chủ thể khác nhau, vì thế hình thức thực hiện chúng cũng
rất đa dạng. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, theo tài liệu học tập
và nghiên cứu môn học Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (tập1) của Khoa Nhà
nước và pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Lý luận
chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội
và Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội đều cho
rằng có bốn hình thức thực hiện pháp luật nhằm mục đích chuyển tải các qui phạm pháp
luật vào cuộc sống thực tiễn, đó là:
Tuân theo (tuân thủ) pháp luật (xử sự thụ động) là một hình thức thực hiện pháp
luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp
luật ngăn cấm. Những qui phạm pháp luật cấm trong luật hình sự, luật hành chính...
được thực hiện dưới hình thức này. Ví dụ: Một công dân kiềm chế không thực hiện những
hành vi mà Luật Hình sự ngăn cấm, tức là công dân đó đã tuân thủ các quy định của Luật
Hình sự.
Thi hành (chấp hành) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Những
qui phạm pháp luật bắt buộc (những quy định nghĩa vụ phải thực hiện những hành vi tích
cực nhất định) được thực hiện ở hình thức này. Ví dụ: Công dân chấp hành tốt nghĩa vụ
bảo vệ Tổ quốc với hành động dũng cảm và tinh thần hy sinh quên mình.
Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép).
Hình thức này khác với hình thức tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ chủ thể
có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của
mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện. Ví dụ: Pháp luật qui định công dân có quyền
khiếu nại và tố cáo. Một công dân biết một người nào đó có hành vi vi phạm pháp luật,
nhưng công dân ấy có thể tố cáo (hoặc không tố cáo) với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Như vậy công dân đó đã sử dụng (hoặc không sử dụng) pháp luật (quyền được tố
cáo).
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước thông
qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể
pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ
pháp luật cụ thể. Trong trường hợp này các chủ thể thực hiện pháp luật thực hiện các qui
định của pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ: Nhà nước qui định cá nhân, tổ
chức kinh doanh những ngành, nghề mà theo qui định của pháp luật phải nộp thuế thì phải
có nghĩa vụ nộp thuế. Nếu cá nhân, tổ chức kinh doanh đó không thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế của mình, thì Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có
thẩm quyền sẽ áp dụng pháp luật, ra quyết định cưỡng chế bắt buộc cá nhân, tổ chức đó
phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình.
Như vậy, thì thực hiện pháp luật được thực hiện thông qua bốn hình thức: tuân
theo pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Tuy nhiên,
hình thức áp dụng pháp luật có sự khác biệt với các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành
pháp luật và sử dụng pháp luật. Sự khác biệt này thể hiện ở chỗ, nếu như tuân thủ pháp
luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể thực hiện
pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn luôn có sự tham gia
của Nhà nước, thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền.
1.1.3. Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật
Một yêu cầu quan trọng đặt ra đối với việc xây dựng pháp luật của Nhà nước ta là
pháp luật phải là cơ sở của việc tổ chức và hoạt động của Nhà nước, pháp luật phải là
công cụ gìn giữ trật tự, kỷ cương xã hội, pháp luật là phương tiện xử sự của mọi công
dân. Đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhu cầu
khách quan của xã hội phải được phản ánh thông qua hệ thống pháp luật.
Quản lý xã hội bằng pháp luật nhưng vấn đề cơ bản không chỉ Nhà nước xây dựng
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ, mà điều quan trọng hơn cả là pháp luật của
Nhà nước phải được mọi thành viên trong xã hội tôn trọng và chấp hành một cách nghiêm
chỉnh và triệt để, pháp luật phải đi vào cuộc sống, phải biến thành hành động của mọi
công dân, mọi tổ chức trong xã hội.
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ cũng chưa đủ vì “pháp luật ở trạng
thái đó vẫn là trạng thái “tĩnh” nó có thể tác động đến trật tự pháp luật, thúc đẩy quá trình
phát triển của các quan hệ xã hội nhưng mức độ rất hạn chế và chủ yếu mới chỉ là thông
qua ý thức pháp luật của công dân ở một bộ phận không đáng kể” [89, tr.225]. Pháp luật
chỉ có thể phát huy hết tác dụng khi nó được tổ chức thực hiện tốt trong đời sống xã hội,
khi các qui định của pháp luật trở thành những hành vi, cách xử sự thực tế của các cá
nhân, tập thể trong cuộc sống hằng ngày.
Trong đời sống xã hội có rất nhiều lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi Nhà nước phải xây
dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã
hội đó. Thực tiễn cho thấy có rất nhiều văn bản pháp luật phát huy tác dụng tốt, đem lại
hiệu quả thiết thực trong công tác quản lý, nhưng vẫn còn không ít văn bản pháp luật chưa
phát huy được hiệu lực thi hành, không mang lại hiệu quả như mong muốn. Mặt tồn tại
đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do chưa tổ chức tốt việc thực hiện
pháp luật. “Khi giữa hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật có một khoảng
cách lớn, tức là pháp luật được ban hành với khối lượng lớn mà ít đi vào cuộc sống, thì
sẽ dẫn đến tình trạng pháp luật bị coi thường, không hiệu quả
” [89, tr.226]. Vì vậy, thực hiện pháp luật có vai trò to lớn trong việc chuyển văn bản
pháp luật của Nhà nước được thực thi trong đời sống thực tiễn.
Để Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thì phải có phương thức thực hiện tốt
các hoạt động về pháp luật từ khâu xây dựng pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thực
hiện pháp luật, kiểm tra, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật.
Để pháp luật phát huy hiệu lực, đạt hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã
hội, thì Nhà nước ngoài việc tạo lập môi trường chính trị-xã hội thuận lợi, nâng cao trình
độ pháp lý cho cán bộ và nhân dân, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đòi hỏi
phải xác lập cơ chế thực hiện pháp luật một cách có hiệu quả.
Như vậy có thể khẳng định rằng, thực hiện pháp luật có vị trí và tầm quan trọng
đặc biệt trong toàn bộ các hoạt động về pháp luật. Thực hiện pháp luật là hoạt động đưa
pháp luật vào cuộc sống, biến những qui phạm pháp luật thành những hành vi, xử sự thực
tế, hợp pháp của cá nhân, tập thể trong thực tiễn xã hội. Nếu không có tổ chức tốt
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
việc thực hiện pháp luật thì ý chí của Nhà nước sẽ không đi vào đời sống thực tiễn, pháp
luật sẽ không phát huy được hiệu lực, sẽ không đạt hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ
xã hội.
Vị trí, vai trò của thực hiện pháp luật không chỉ thể hiện trong toàn bộ các hoạt
động về pháp luật (xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật bảo vệ pháp luật) mà nó còn
là “một mặt quan trọng của nền pháp chế ” [22, tr.515]. Kết quả của việc tổ chức thực
hiện pháp luật là một trong những tiêu chuẩn để xác định tính chất của nền pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Bởi vì pháp chế là một phạm trù thể hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi đối
với các chủ thể pháp luật phải tôn trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong đời sống xã
hội. Sự thực hiện pháp luật là trung tâm của pháp chế.
Xét trong mối quan hệ giữa pháp luật và thực hiện pháp luật, Lênin cho rằng dù
pháp luật có tốt đến đâu thì đó cũng chỉ là khả năng quản lý, khả năng đấu tranh. Để biến
khả năng đó thành hiện thực cuộc sống nhất thiết phải biết sử dụng khả năng đó như là
phương tiện tổ chức quần chúng thì mới thắng được trật tự xã hội cũ cũng như mọi biểu
hiện vô chính phủ.
Pháp luật Xô - viết rất tốt vì những pháp luật này đã đem lại cho mọi
người cái khả năng đấu tranh chống bệnh quan liêu và lề mề....Thế nhưng có
ai sử dụng khả năng đó không? Hầu như không có một ai ! Không những nông
dân, chính cả một số rất lớn đảng viên cộng sản cũng không biết dùng pháp
luật Xô - viết để đấu tranh chống bệnh lề mề và bệnh quan liêu... [56, tr.214].
Thật vậy, nếu như không có sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, triệt để, chính xác của các chủ thể pháp luật thì sẽ không có pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân là một trong những điều kiện đảm bảo sự thành công của sự nghiệp
đổi mới, bởi vì việc yêu cầu tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, việc thực
hiện nghiêm chỉnh những qui định Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan nhà nước,
7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
các tổ chức và mọi công dân là yêu cầu bắt buộc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
Nhận thức vấn đề này, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định: “Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công
dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật” [26, tr.132]. Quan điểm, tư tưởng trên
của Đảng ta đã được thể chế hoá trong Hiến pháp năm 1992 và được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 năm 2001 của Quốc hội. Điều 12 Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) qui định:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và
pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật [52, tr.17].
1.2. cơ sở lý luận của Vấn đề Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
1.2.1. Khái niệm pháp luật về giáo dục và đào tạo
Theo Đại từ điển tiếng Việt (1998) của Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam
thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. “Giáo dục là tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh
thần, thể chất của con người, để họ dần dần có được những phẩm chất và năng lực như
yêu cầu đề ra” [19, tr.734]; “Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở lên người có hiểu biết,
có nghề nghiệp” [19, tr 593]
Năm 1866, trong "Chỉ thị về các vấn đề gửi tới các đại biểu Ban Chấp hành
Trung ương lâm thời", Các Mác đã viết:
Chúng tôi hiểu giáo dục là gồm ba việc sau đây: Một là: trí dục. Hai là:
thể dục - giống như những điều người ta dạy ở các trường thể dục và trong
luyện tập quân sự. Ba là: dạy kỹ thuật bách khoa, việc dạy kỹ thuật bách khoa
này làm cho các em biết những nguyên tắc cơ bản của tất cả mọi quá
8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
trình sản xuất, đồng thời làm cho trẻ em và thiếu niên có được những kỹ năng
sử dụng những công cụ đơn giản nhất của tất cả các ngành sản xuất [43, tr.22-
23].
Từ thế kỷ XX, sự biến đổi về kinh tế - xã hội và sự phát triển mau lẹ về khoa học
kỹ thuật, khái niệm giáo dục được nhận thức ngày một sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Trong
sách "Giáo dục học" của Ilina, nhà giáo dục học Xô - viết, khái niệm giáo dục được định
nghĩa như sau: “... giáo dục là một quá trình truyền thụ kinh nghiệm lịch sử - xã hội cho
các thế hệ mới nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống xã hội và bước vào lao động
sản xuất” [42, tr.6].
ở nước ta, cố giáo sư Hà Thế Ngữ đã nêu ra một định nghĩa như sau: “Giáo dục là
quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham
gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất, bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh
hội những kinh nghiệm lịch sử-xã hội của loài người ” [69, tr. 32].
Trong luận văn thạc sĩ Luật của Lê Thị Kim Dung (năm 2004) có nêu:
Giáo dục là hoạt động có mục đích, có chương trình, tác dộng vào con
người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm truyền thụ tri thức
và kinh nghiệm, rèn luyện kỷ năng và lối sống, chuẩn bị cho đối tượng của
giáo dục tham gia lao động, đi vào đời sống xã hội và nâng cao chất lượng
cuộc sống. Giáo dục là hoạt động tất yếu của phát triển xã hội loài người, là
một bộ phận cơ bản của quá trình tái sản xuất mở rộng lao động xã hội. Theo
khái niệm rộng, giáo dục bao gồm cả đào tạo, cung cấp các nguồn nhân lực
cần thiết cho từng lĩnh vực kinh tế-xã hội [21, tr.7].
Trên cơ sở đó, trong luận văn này giáo dục và đào tạo được hiểu như sau: Giáo
dục và đào tạo là hoạt động có mục đích, có chương trình nhằm trang bị cho con người
những tri thức, kinh nghiệm lịch sử - xã hội cần thiết và những kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp nhất định để chuẩn bị tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất.
Bác Hồ kính yêu của chúng ta lúc sinh thời là người rất quan tâm về giáo dục, Bác
chỉ ra rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập , muốn cho dân mạnh nước giàu mọi người Việt
Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến
9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà mà trước hết phải biết đọc,
biết viết chữ quốc ngữ ” [45, tr.3]. Bác cũng chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi cảnh
yếu hèn đó là con đường phát triển giáo dục: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu
”. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập
(tháng 9/1945), Bác đã viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc
Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục thể hiện qua câu nói bất hủ của Người: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi
ích trăm năm trồng người ”. Tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác
giáo dục luôn toả sáng tính cách mạng, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Cả cuộc đời
cách mạng, Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là: “Làm sao cho nước ta
được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành ”.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp phát triển
nền giáo dục của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hệ thống mạng lưới trường lớp đã
được phủ kín khắp các bản làng, thôn xóm trong cả nước, để thực hiện mục tiêu xoá mù
chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, rồi phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, tiến tới phổ
cập trung học cơ sở, phổ cập trung học phổ thông...Vấn đề phát triển sự nghiệp giáo dục
và đào tạo đã và đang được toàn xã hội quan tâm. Đảng và Nhà nước ta đang tập trung và
ưu tiên hơn trong việc đầu tư đối với các vùng khó khăn và thu được một số kết quả, thể
hiện tính ưu việt của chế độ ta trong giáo dục.
Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu
tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là đưa đất nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân
dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại “con đường công nghiệp hoá-hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút
ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước
nhảy vọt...” [26, tr.159]. Để đạt được các mục tiêu nói trên, giáo dục-đào tạo và
10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
khoa học-công nghệ có vai trò quyết định, là nhu cầu bức thiết của đất nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 xác định mục tiêu, giải pháp và các bước
đi theo phương châm đa dạng hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, xây dựng một nền
giáo dục có tính chất thực tiễn và hiệu quả, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng,
đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới,
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện mục
tiêu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010.
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là phát triển kinh tế đi đôi với thúc
đẩy tiến bộ xã hội. Ngay từ đầu thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đổi mới
tư duy và cách làm giáo dục, đề ra những chủ trương chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc
dân từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Từ quan điểm, đường lối của Đảng về giáo dục và đào tạo, Nhà
nước ta đã thể chế hóa thành các văn bản pháp luật để tổ chức thực hiện trong thực tế,
như Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua vào tháng 12/1998; Nghị định số
43/2000/NĐ-CP ngày 30/8/2000 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Giáo dục; Nghị quyết số 40/2000/QH10 về đổi mới chương trình
giáo dục phổ thông và Nghị quyết 41/2000/QH10 về thực hiện phổ cập giáo dục trung
học cơ sở của Quốc hội khóa X thông qua ngày 09/12/2000...
Trước tình hình đó, Nhà nước có trách nhiệm tổ chức và quản lý nền giáo dục
nước nhà, bảo đảm những điều kiện cần thiết cho các hoạt động giáo dục và đào tạo, đáp
ứng cho yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phục vụ mục tiêu phát triển lâu dài của xã
hội và một phần phúc lợi của nhân dân. Muốn làm được điều đó, Nhà nước phải quan
tâm hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật để bảo đảm sự nghiệp giáo dục-đào tạo
phát triển một cách vững chắc, có chất lượng và hiệu quả, đáp ứng nhu cầu về con người
và nguồn nhân lực cho đất nước, ngăn chặn và đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong
giáo dục-đào tạo, xây dựng một nền giáo dục quốc dân lành mạnh, hiện đại.
11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Có thể khái quát rằng: Pháp luật về giáo dục và đào tạo là hệ thống các qui phạm
pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ
xã hội về giáo dục và đào tạo, bảo đảm phát triển vững chắc sự nghiệp giáo dục và đào
tạo, thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
1.2.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là thực hiện pháp luật về một lĩnh vực
trong xã hội mà cụ thể, đó là giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào tạo có vai trò rất quan
trọng trong việc tạo ra những con người Việt Nam phát triển toàn diện, những người lao
động có đạo đức, có tri thức, có khả năng thích ứng nhanh chóng với sự phát triển như vũ
bão của khoa học công nghệ, có đủ sức mạnh để cạnh tranh trong quá trình phân công lao
động quốc tế. Phát triển giáo dục và đào tạo là biện pháp tốt nhất để phát huy và làm
trường tồn những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc và làm phong phú thêm những tinh
hoa văn hoá của nhân loại.
Giáo dục và đào tạo là một trong ba lĩnh vực then chốt cần đột phá để làm chuyển
biến tình hình kinh tế-xã hội, tạo bước chuyển mạnh để phát triển nguồn nhân lực. Đại
hội Đảng lần thứ IX khẳng định: Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động
lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện phát huy
nguồn lực con người-yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững. Trên cơ sở đó, Đại hội IX chủ trương giải quyết dứt điểm những vấn đề bức xúc
trong giáo dục-đào tạo, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục-đào
tạo; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, tiếp tục nâng cao chất lưọng giáo dục
toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp, công tác quản
lý giáo dục và đào tạo; chăm lo phát triển giáo dục mần non; củng cố thành tựu xoá mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đẩy nhanh tiến độ phổ cập trung học cơ sở; coi trọng
và đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp và phân luồng sau trung học cơ sở, tăng nhanh tỉ lệ
lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội; mở rộng hợp lý qui mô và làm
chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả giáo dục đại
12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
học; đẩy mạnh xã hội hoá, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo, tạo điều
kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên, học tập suốt đời, xây dựng
một xã hội học tập.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về giáo dục và đào tạo nêu trên đã được
thể chế hóa trong pháp luật về giáo dục-đào tạo và để đi vào cuộc sống, được thực hiện
trên thực tế phải làm tốt công tác thực hiện pháp luật. Vì thực hiện pháp luật về giáo dục
và đào tạo là thực hiện pháp luật trong một lĩnh vực cụ thể-lĩnh vực giáo dục và đào tạo
cho nên khái niệm thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo cũng có đầy đủ các nội dung
cơ bản của khái niệm thực hiện pháp luật nói chung; đồng thời phải nêu được những
phương hướng, mục tiêu cụ thể của giáo dục và đào tạo theo đường lối, chủ trương của
Đảng về giáo dục-đào tạo. Trên cơ sở đó, có thể nêu khái niệm thực hiện pháp luật về
giáo dục và đào tạo như sau:
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích
làm cho các qui phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
trong thực hiện pháp luật, phòng ngừa và xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật để
phát triển vững chắc sự nghiệp giáo dục và đào tạo, thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
1.2.2.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo có những đặc điểm chung của vấn đề
thực hiện pháp luật nói chung, ngoài ra nó còn có những đặc điểm mang tính chất đặc thù.
Những đặc điểm đặc thù của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo được qui định bởi
vị trí, vai trò của nó trong đời sống xã hội
- Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo vừa mang tính quyền lực Nhà nước
vừa mang tính xã hội rộng lớn. Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là quá trình
hoạt động có mục đích làm cho những qui phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo đi vào
cuộc sống. Các qui phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo là những qui tắc xử sự chung
13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ về giáo dục và
đào tạo phát triển theo định hướng nhất định.
Các qui phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo là những qui tắc xử sự của mọi
công dân, của các nhà chức trách có thẩm quyền, là những qui định về nội dung chương
trình, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động, về bộ máy quản lý nhà nước, là những
qui định về địa vị pháp lý của các chủ thể khác...trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Do
đó nó có tính bắt buộc thực hiện đối với mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, bảo đảm
tính quyền lực của Nhà nứơc được thực thi trong đời sống thực tiễn.
Lĩnh vực giáo dục và đào tạo có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội. Pháp
luật về giáo dục và đào tạo có tác dụng điều chỉnh mọi hành vi của các chủ thể và bắt
buộc các chủ thể có trách nhiệm thực hiện nó. Do đó,pháp luật về giáo dục và đào tạo còn
mang tính xã hội rộng lớn.
- Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc xuyên suốt của thực hiện pháp luật về
giáo dục và đào tạo. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính
trị-xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên
nhà nước, nhân viên của các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực
hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Vì lẽ đó nên việc tổ chức và
hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, tổ chức và hoạt động của
các đơn vị, cơ sở giáo dục phải tuân theo những qui định của pháp luật. Mọi công dân xử
sự với nhau theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, phải tôn trọng pháp luật một cách
triệt để, phải xử sự đúng theo yêu cầu của pháp luật nói chung và pháp luật về giáo dục
và đào tạo nói riêng. Nguyên tắc này còn đòi hỏi mọi công dân có trách nhiệm tham gia
vào quản lý các công việc của Nhà nước bằng các hình thức kiểm tra, giám sát hoạt động
của các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan quản lý về giáo dục và đào tạo, cũng như các
cơ sở giáo dục và đào tạo khác.
- Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo có phạm vi rộng lớn và chủ thể thực
hiện rất đa dạng và phong phú. Mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội đều quan tâm đến
giáo dục và đào tạo và chịu sự tác động của pháp luật về giáo dục và đào tạo. Mặt khác
những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo đều nhằm phục vụ lợi ích
14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thiết thân của công dân, vì thế, nói chung, pháp luật về giáo dục và đào tạo được các chủ thể
pháp luật tự giác thực hiện. Bên cạnh đó, nó cũng được các cấp, các ngành, mọi tổ chức tích
cực, chủ động tham gia chỉ đạo, quản lý, điều hành làm cho giáo dục và đào tạo phát triển
theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá. Có thể nói phạm vi tác động của pháp luật
về giáo dục và đào tạo rất rộng lớn, tác động đến mọi thành viên trong xã hội từ cá nhân đến
các tổ chức, từ thành thị đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa trong cả nước.
- Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là hoạt động tích cực để thực hiện
mục tiêu của giáo dục và đào tạo. Để phát triển xã hội, các quốc gia đều có các chiến
lược phát triển giáo dục của mình và để thực hiện được chiến lược ấy, mỗi Nhà nước đều
đặt ra những qui định của pháp luật. Trong những yêu cầu đặt ra trong xây dựng pháp luật
về giáo dục và đào tạo, vấn đề trọng tâm là đề ra các biện pháp nhằm thực hiện yêu cầu
đó. Vì vậy, việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là nhằm thực hiện các mục
tiêu mà giáo dục và đào tạo đặt ra, đó là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
của công dân, đáp ứng nhu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa nhà
trường, gia đình và xã hội, trong đó các cơ quan quản lý nhà nước, đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục là lực lượng nòng cốt trong thực hiện pháp luật về giáo dục và
đào tạo. Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý có vai
trò đặc biệt quan trọng, làm nòng cốt để nâng cao chất lượng giáo dục. Do đó, Đảng và
Nhà nước ta đã quan tâm và xây dựng được một đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục đông đảo, phần lớn có đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn. Tuy nhiên,
so với yêu cầu của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ mới đòi hỏi phải có sự quan tâm
nhiều hơn nữa để đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tránh được những hạn chế
và bất cập, vươn lên thực hiện tốt nhiệm vụ của ngành, thực sự làm nòng cốt trong việc
thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.
1.2.3. Hình thức và nội dung thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
1.2.3.1.Hình thức thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực của đời sống xã hội. Hình thức của thực hiện
pháp luật về giáo dục và đào tạo cũng có những nét chung của các hình thức thực hiện
pháp luật, đó là:
Tuân theo (tuân thủ) pháp luật về giáo dục và đào tạo là hình thức thực hiện pháp
luật về giáo dục và đào tạo, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành
những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Ví dụ: Điều 63a Luật Giáo dục năm 1998 (sửa
đổi, bổ sung năm 2005) qui định: “Nhà giáo không được có hành vi ảnh hưởng xấu đến
phẩm chất và nghề nghiệp của nhà giáo; xúc phạm danh dự, phẩm chất, xâm phạm đến
thân thể của người học; gian lận trong tuyển sinh, thi cử và cố ý đánh giá sai kết quả học
tập và rèn luyện của người học...” [53, tr.43]. Như vậy đối với nhà giáo phải có trách
nhiệm tuân thủ những qui định trên là đã tuân thủ pháp luật về giáo dục và đào tạo.
Thi hành (chấp hành) pháp luật về giáo dục và đào tạo là một hình thức thực hiện
pháp luật về giáo dục và đào tạo, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp
lý của mình bằng hành động tích cực. Ví dụ: Điều 74 Luật Giáo dục năm 1998 qui định:
Người học có các nhiệm vụ sau đây:
1. Thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình kế hoạch
giáo dục của nhà trường, cơ sở giáo dục khác;
2. Kính trọng nhà giáo, cán bộ quản lý, công nhân, nhân viên của nhà
trường, cơ sở giáo dục khác, tuân thủ pháp luật của nhà nước; thực hiện nội
qui, điều lệ nhà trường;
3. Tham gia lao động và hoạt động xã hội phù hợp với lứa tuổi, sức
khoẻ và năng lực;
4. Giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà trường, cơ sở giáo dục khác;
5. Góp phần xây dựng, bảo vệ phát huy truyền thống của nhà trường,
cơ sở giáo dục khác [53, tr.46].
Người học có trách nhiệm thi hành những qui định này một cách tích cực là đã
chấp hành pháp luật về giáo dục và đào tạo.
16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Sử dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo là một hình thức thực hiện pháp luật về
giáo dục và đào tạo, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình. Ví
dụ: Khoản 3 Điều 64 Luật Giáo dục năm 1998 qui định về quyền của nhà giáo: “Được
hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở giáo dục và nghiên
cứu khác với điều kiện đảm thực hiện đầy đủ chương trình, kế hoạch do nhà trường giao
cho” [53, tr.43].
Các nhà giáo khi đảm bảo thực hiện đầy đủ chương trình, kế hoạch do nhà trường
giao cho có thể tham gia hoặc không tham gia hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa
học tại các trường, cơ sở giáo dục và nghiên cứu khác.
áp dụng pháp luật về giáo dục và đào tạo là một hình thức thực hiện pháp luật về
giáo dục và đào tạo, trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan hoặc nhà chức trách tổ
chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những qui định của pháp luật, hoặc tự mình căn
cứ vào những qui định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Trong trường hợp này các chủ thể pháp luật
thực hiện các qui định của pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ: Điều 104 Luật
Giáo dục năm 1998 qui định việc phong tặng nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú: “Nhà
giáo, cán bộ quản lý giáo dục, cán bộ nghiên cứu giáo dục có đủ tiêu chuẩn theo qui định
của pháp luật thì được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu
tú” [53, tr.55].
Khi nhà giáo có đủ tiêu chuẩn trên, Nhà nước có trách nhiệm áp dụng pháp luật
theo những nội dung qui định này để phong tặng các danh hiệu cho nhà giáo.
1.2.3.2. Nội dung thực hiện pháp luật về giáo dục- đào tạo
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là hoạt động có mục đích nhằm thực hiện
các qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo, đưa các qui phạm pháp luật này vào thực
tiễn cuộc sống, biến nó thành những hành vi xử sự thực tế góp phần phát huy tính tích cực,
chủ động trong thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Pháp luât về giáo dục và đào tạo
được thực hiện trong đời sống xã hội thông qua các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành
pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Các qui phạm pháp luật về giáo dục và
đào tạo của nước ta hiện nay được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật (Hiến
17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
pháp 1992, Luật, Nghị quyết, Nghị định, Chỉ thị, Thông tư, Quyết định...) của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, với nội dung rất rộng, liên quan đến tất cả các mặt của lĩnh vực
giáo dục và đào tạo. Tuy vậy có thể khái quát nội dung của pháp luật về giáo dục và đào
tạo bao gồm ba vấn đề chủ yếu : Các tổ chức giáo dục và đào tạo; hoạt động giáo dục và
đào tạo; quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo.
Như vậy, nội dung thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo cũng bao gồm 3 nội
dung cơ bản là: Thực hiện qui định của pháp luật về các tổ chức giáo dục và đào tạo; thực
hiện các qui định của pháp luật về hoạt động giáo dục và đào tạo; thực hiện các qui định
của pháp luật về quản lý nhà nước đối với giáo dục và đào tạo.
a) Thực hiện qui định của pháp luật về các tổ chức giáo dục và đào tạo
Thực hiện qui định của pháp luật về các tổ chức giáo dục và đào tạo là thực hiện
các qui định của pháp luật về tổ chức hệ thống giáo dục- đào tạo, phát triển các cấp học,
bậc học trong toàn quốc. Hệ thống giáo dục quốc dân nước ta cho đến nay đã bao gồm đủ
các cấp học, bậc học, ngành học và phương thức giáo dục, đó là:
1/ Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo;
2/ Giáo dục phổ thông có hai bậc học là bậc tiểu học và bậc trung học; bậc trung
học có hai cấp học là cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông;
3/ Giáo dục nghề nghiệp có trung học chuyên nghiệp và dạy nghề;
4/ Giáo dục đại học đào tạo hai trình độ là trình độ cao đẳng và trình độ đại học;
giáo dục sau đại học đào tạo hai trình độ là trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
Ngoài hệ thống các trường công lập còn có hệ thống các trường ngoài công lập
bao gồm các trường bán công, dân lập và tư thục từ mầm non đến đại học.
Phương thức giáo dục gồm giáo dục chính qui và giáo dục không chính qui. Bên
cạnh hệ thống các trường lớp chính qui, ở các địa phương đều phát triển hệ thống các
trung tâm, cơ sở giáo dục không chính qui thực hiện nhiệm vụ giáo dục thường xuyên
cho mọi người, đáp ứng nhu cầu được học, được đào tạo một cách đa dạng từ xoá mù
chữ, nâng cao trình độ kiến thức cho đến học nghề, học tin học và ngoại ngữ.
b) Thực hiện qui định của pháp luật đối với hoạt động giáo dục và đào tạo
18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Thực hiện các qui định của pháp luật về hoạt động giáo dục và đào tạo là quá trình
vận động của các chủ thể pháp luật giáo dục và đào tạo trong việc thực hiện các qui định,
các yêu cầu của pháp luật về tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác
theo mục tiêu chương trình của các cấp học, các hệ đào tạo; quản lý người dạy người học;
tuyển sinh, cấp bằng tốt nghiệp; quản lý các nguồn lực, trang thiết bị phục vụ cho giáo
dục và đào tạo v.v..
Nội dung hoạt động giáo dục và đào tạo đã được xác định trong Luật Giáo dục.
Nội dung này bao gồm những qui định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của các nhà trường
thể hiện ở Điều 53 Luật Giáo dục năm 1998.
c) Thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo
Thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là quá trình hoạt
động của các chủ thể trong việc thực hiện các qui định của pháp luật bao gồm: Xây dựng
và chỉ đạo thực hiện chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục; ban
hành và tổ chức thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật về giáo dục; ban hành Điều lệ
nhà trường; ban hành qui định về tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục khác; qui
định mục tiêu, chương trình nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn cơ sở vật
chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa, giáo
trình; qui chế thi cử và cấp bằng; tổ chức bộ máy quản lý giáo dục; tổ chức, chỉ đạo việc
đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; huy động, quản lý, sử
dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục; tổ chức, quản lý công tác nghiên
cứu khoa học, công nghệ trong ngành giáo dục; tổ chức, quản lý công tác quan hệ quốc
tế về giáo dục; qui định việc tặng các danh hiệu vinh dự cho những người có nhiều công
lao đối với sự nghiệp giáo dục; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục;
giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục.
Những nội dung về quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo nói trên được qui định
tại Điều 86 Luật Giáo dục năm1998.
19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Để thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, Luật Giáo dục
xác định các chủ thể quản lý và những nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể đó tại Điều
87 Luật Giáo dục năm 1998:
1/ Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục.
Chính phủ trình Quốc hội trước khi quyết định những chủ trương lớn có ảnh hưởng
đến quyền và nghĩa vụ học tập của công dân trong phạm vi cả nước, những chủ trương về
cải cách nội dung chương trình của cả một bậc học, cấp học; hàng năm báo cáo Quốc hội
về hoạt động giáo dục và thực hiện ngân sách giáo dục;
2/ Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý
nhà nước về giáo dục;
3/ Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm quản lý
nhà nước về giáo dục theo qui định của Chính phủ. Chính phủ qui định cụ thể trách nhiệm
của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Giáo
dục và Đào tạo để thực hiện việc thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục;
4/ Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục ở địa phương
theo qui định của Chính phủ [53, tr.51].
1.2.4. Chủ thể và yêu cầu của thực hiện pháp luật về giáo dục- đào tạo
1.2.4.1. Chủ thể thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo.
Căn cứ vào các hình thức thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, chúng ta xác
định được các chủ thể thực hiện pháp luật là các cá nhân hoặc tổ chức.
Tại Điều 1 Luật Giáo dục qui định phạm vi điều chỉnh như sau: "Luật Giáo dục
qui định về hệ thống giáo dục quốc dân; nhà trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống
giáo dục quốc dân, của cơ quan hành chính nhà nước, của tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị- xã hội, của lực lượng vũ trang nhân dân; tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo
dục" [44, tr.1].
Mọi công dân đều là chủ thể cuả thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo. Thật
vậy, trẻ em từ 3 tháng đến 36 tháng tuổi được vào nhà trẻ, từ 37 tháng đến 6 tuổi được
vào mẫu giáo; học sinh tiểu học từ 6 đến 11 tuổi; học sinh trung học cơ sở từ 11 đến 14
tuổi; học sinh trung học phổ thông từ 15 tuổi đến 19 tuổi...
20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nhà nước ta chủ trương xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập, một nền
giáo dục cho mọi người, học tập suốt đời. Với cách thức tổ chức và phương thức học tập
đó đã tạo điều kiện cho mọi công dân có thể tham gia học tập tuỳ theo điều kiện, hoàn
cảnh, lứa tuổi... của mỗi người. Cho nên đối với cá nhân là chủ thể của thực hiện pháp
luật về giáo dục và đào tạo rất đa dạng và đông đảo chiếm tuyệt đại bộ phận trong xã hội.
Trong thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, một loại chủ thể là các cá nhân không
thể thiếu đó là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp, đây được xem là lực
lượng nòng cốt, đóng vai trò chủ lực, có trách nhiệm thường xuyên tiếp cận, phổ biến,
giáo dục và thực hiện những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo.
Chủ thể của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo còn có các tổ chức rất đa
dạng và phong phú. Trước hết phải nói đến các tổ chức Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lãnh đạo sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Do đó
tổ chức Đảng phải gương mẫu thực hiện và thông qua tổ chức của mình, giáo dục đảng
viên tự giác thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo một cách nghiêm túc và triệt để.
Các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội nghề nghiệp … có trách
nhiệm thực hiện những qui pháp luật về giáo dục và đào tạo. Chủ thể có tầm quan trọng
đặc biệt trong việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là Nhà nước; thông qua các
cơ quan nhà nước, các qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo được hướng dẫn và
tổ chức thực hiện một cách đầy đủ và nghiêm túc. Các chủ thể thực hiện pháp luật về giáo
dục và đào tạo không thể thiếu đó là các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào
tạo, các cơ sở đào tạo, trường học được xem là các chủ thể nòng cốt, chủ đạo trong việc
đưa pháp luật về giáo dục và đào tạo đi vào cuộc sống.
Để đảm bảo thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, các chủ thể cần nắm vững
nội dung, tư tưởng, ý nghĩa của những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo, tuỳ
thuộc điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng cụ thể mà có những hình thức thực hiện phù hợp,
đảm bảo những yêu cầu của pháp luật được thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ,
góp phần đưa sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà phát triển đúng theo quan điểm,
chủ trương của Đảng và Nhà nước.
1.2.4.2. Yêu cầu của thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng, tiếp tục quán triệt các quan
điểm chỉ đạo về giáo dục và đào tạo theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 2 (khoá
VIII), nổ lực phấn đấu làm cho giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu cả về 4 yêu cầu:
đầu tư tài chính, đầu tư cán bộ, chính sách ưu tiên, tổ chức quản lý, tập trung phát triển
sự nghiệp giáo dục và đào tạo mạnh hơn, khẩn trương và hiệu quả hơn theo định hướng
chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, đưa nền giáo dục và đào tạo nước nhà hoạt động bảo
đảm chất lượng toàn diện, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng đầy đủ và kịp thời yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện những tư tưởng chỉ đạo trên, cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về giáo dục và đào tạo, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho các hoạt động giáo
dục và đào tạo. Điều quan trọng là việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo được
thực hiện một cách nghiêm túc và đạt hiệu quả cao, cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Nhận thức đúng đắn và thống nhất nội dung quan điểm của Đảng và những qui
định của pháp luật về giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả nước.
Đây là yêu cầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trước hết nó đòi hỏi tất cả các quan hệ
xã hội quan trọng nói chung phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Nhà nước phải xây dựng
và hoàn thiện các văn bản pháp luật tạo ra sự thống nhất của hệ thống pháp luật, trong đó có
pháp luật về giáo dục và đào tạo. Từ cơ sở có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ thì
việc nhận thức đúng đắn và thống nhất những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo
phải được thực hiện trên phạm vi cả nước, nghĩa là ở bất cứ nơi đâu, mọi cá nhân, mọi tổ
chức phải nhận thức đúng về tư tưỏng, nội dung và ý nghĩa của pháp luật về giáo dục và đào
tạo để làm cơ sở cho việc thực hiện trong thực tiễn.
Hiến pháp và luật là những văn bản do Quốc hội ban hành, thể hiện một cách tập
trung ý chí và những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Hiến pháp và các luật là những văn bản qui phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao,
là cơ sở của hệ thống pháp luật, do đó các văn bản khác phải tuân thủ nghiêm túc những
qui định của Hiến pháp và luật trong phạm vi cả nước.
- Việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo phải chính xác và triệt để.
22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Pháp luật về giáo dục và đào tạo là cơ sở để thực hiện trong thực tế nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Khi một văn bản pháp luật
được ban hành đúng thẩm quyền và trình tự thủ tục, có nội dung hợp pháp, phù hợp với
thực tế thì nó có hiệu lực trong thực tiễn. Khi văn bản pháp luật có hiệu lực thi hành thì
nó được thực hiện một cách chính xác, triệt để đúng với nội dung, tinh thần của văn bản.
Trong quá trình thực hiện pháp luật không coi nhẹ một văn bản hay một qui định pháp
luật nào. Để đảm bảo tính chính xác, triệt để trong việc thực hiện pháp luật về giáo dục
và đào tạo đòi hỏi các chủ thửatong mọi hoạt động của mình phải dựa trên cơ sở những
qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo.
- Phải phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, hợp tình các vi phạm pháp luật về
giáo dục và đào tạo ngay từ khi mới phát sinh. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều có ảnh
hưởng không tốt đến quá trình thực hiện những qui định của pháp luật để điều chỉnh các
quan hệ xã hội trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo, cho nên cần phải phát hiện và xử lý kịp
thời mọi hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo. Những khiếu nại, tố cáo các
vấn đề có liên quan đến giáo dục và đào tạo phải được các cấp có thẩm quyền xem xét và
giải quyết nhanh chóng, đúng đắn trong thời hạn theo pháp luật qui định.
- Việc thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo phải được kiểm tra, thanh tra
và giám sátmột cách thường xuyên.
Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát là một hoạt động phải được tiến hành thường
xuyên nhằm đánh giá việc thực hiện những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo;
xem xét các biện pháp hoạt động của các cấp, các ngành, cũng như phát hiện những hạn
chế để từng bước củng cố bộ máy quản lý, hoàn thiện hệ thống pháp luật, phương pháp
hoạt động để nâng cao hiệu quả trong hoạt động thực hiện pháp luật về giáo dục và đào
tạo. Thông qua công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát giúp phát hiện những thiếu sót, yếu
kém về tổ chức và hoạt động, những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật
về giáo dục và đào tạo, từ đó đề xuất những biện pháp khắc phục kịp thời. Hoạt động
kiểm tra, thanh tra, giám sát còn giúp cho việc phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện và xử lý
những biểu hiện vi phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo.
23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.3. Vai trò của vấn đề thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo
1.3.1. Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo góp phần tích cực đưa pháp
luật vào đời sống thực tiễn, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển đúng
quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước
Thực hiện pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính pháp lý. Quá trình hoạt động
thực hiện pháp luật được diễn ra đồng thời và tiếp nối với quá trình xây dựng và hoàn thiện
pháp luật của Nhà nước. Xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai dạng hoạt động
khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt
động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm ban hành pháp luật và không ngừng
hoàn thiện pháp luật. Thực hiện pháp luật là trách nhiệm của mọi tổ chức (kể cả cơ quan nhà
nước) và mọi công dân Việt Nam và các tổ chức, công dân nước ngoài làm việc, sinh sống
trên đất nước Việt Nam. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và trách nhiệm thực hiện
pháp luật mang tính nguyên tắc do Hiến pháp qui định.
Quản lý xã hội bằng pháp luật đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng và ban hành pháp
luật. Nếu pháp luật ban hành nhiều nhưng ít đi vào cuộc sống, hiệu quả điều chỉnh của
các qui phạm pháp luật không cao, chứng tỏ rằng quản lý nhà nước kém hiệu quả. Vì vậy,
xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là đòi hỏi khách quan của việc quản lý nhà
nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Để quản lý lĩnh vực giáo dục và đào tạo, Nhà nước phải xây dựng, ban hành và từng
bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục và đào tạo, làm căn cứ pháp lý, tạo môi
trường thuận lợi cho các hoạt động của lĩnh vực này. Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào
tạo là tích cực đưa pháp luật ấy vào cuộc sống thực tiễn góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo
dục và đào tạo nước nhà phát triển đúng với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước
ta. Muốn vậy cần phải nắm vững tính chất nền giáo dục nước ta: “Nền giáo dục Việt Nam là
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học và hiện đại. Lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” [53, tr.1]; đồng thời nắm vững mục tiêu
của giáo dục “...là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng
24. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [53, tr.1].
1.3.2. Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo góp phần ngăn ngừa và hạn
chế các vi phạm pháp luật, giải quyết kịp thời những vi phạm pháp luật, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Yêu cầu đầu tiên của việc thực hiện pháp luật là sự nhận thức đúng đắn những qui
định của pháp luật cả về tư tưởng, nội dung và ý nghĩa, từ đó nâng cao ý thức và chủ động
đề ra các biện pháp hữu hiệu để thực hiện tốt pháp luật. Khi ý thức pháp luật của các chủ
thể được nâng cao và việc thực hiện trở thành tự giác thì sẽ góp phần ngăn ngừa và hạn
chế các vi phạm pháp luật.
Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều có ảnh hưởng không tốt tới quá trình điều chỉnh
của pháp luật, làm tổn hại đến pháp chế. Do vậy, Nhà nước cần có những biện pháp nhanh
chóng và hữu hiệu để xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Pháp
luật là cơ sở để củng cố và tăng cường pháp chế, không thể có cơ sở vững chắc để củng
cố nền pháp chế nếu không chú ý đến những biện pháp đảm bảo cho các cơ quan có trách
nhiệm xây dựng pháp luật có đủ khả năng và điều kiện để hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Tổ chức và thực hiện pháp luật là một mặt quan trọng của nền pháp chế. Kết quả của việc
tổ chức và thực hiện pháp luật là một trong những tiêu chuẩn để xác định tính chất của
nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là muốn củng cố và tăng cường
pháp chế thì phải bảo đảm cho các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền tổ chức và thực hiện
pháp luật một cách có hiệu quả. Pháp luật về giáo dục và đào tạo là một bộ phận của pháp
luật nói chung nên nó cũng đòi hỏi các chủ thể cần có nhận thức một cách đúng đắn, đầy
đủ tư tưởng, nội dung và ý nghĩa, chủ động đề ra biện pháp và tự giác trong thực hiện. Có
như vậy sẽ hạn chế và ngăn ngừa các vi phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo. Thực hiện
pháp luật về giáo dục và đào tạo một cách nghiêm chỉnh và triệt để của các chủ thể là góp
phần ngăn ngừa và hạn chế những vi phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo. Thực hiện
pháp luật về giáo dục và đào tạo còn góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời qua thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo sẽ phát hiện được những sai sót
để điều chỉnh hoặc xử lý kịp thời.
25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Pháp luật về giáo dục và đào tạo là một bộ phận của pháp luật nói chung, thực hiện
pháp luật về giáo dục và đào tạo góp phần làm cho hoạt động giáo dục và đào tạo có nền
nếp, thống nhất và phát triển vững chắc, thực hiện được mục tiêu của giáo dục - đào tạo
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
1.3.3. Thông qua thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo góp phần phổ
biến, giáo dục pháp luật, xây dựng thói quen, ý thức của công dân sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật
Giáo dục pháp luật có vị trí, ý nghĩa rất quan trọng. Vai trò của pháp luật bắt nguồn
từ giá trị xã hội của pháp luật, từ sự hiểu biết và thực hiện nghiêm túc tốt của các chủ thể
pháp luật. Nếu pháp luật là công cụ rất quan trọng để Nhà nước quản lý đất nước, quản
lý xã hội, là phương tiện để công dân thực thi nghĩa vụ và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình thì giáo dục pháp luật giúp cho Nhà nước (các cơ quan nhà nước, cán bộ
công chức) và công dân biết sử dụng phương tiện đó. Phổ biến, giáo dục pháp luật có ý
nghĩa trực tiếp trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Bởi lẽ “những tri thức pháp lý đúng đắn sẽ định hướng cho hành
vi hợp pháp, là những yếu tố quan trọng trong việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng
cường pháp chế, phát huy dân chủ, mở rộng quyền tự do công dân” [18, tr.17-18].
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật về giáo dục và đào tạo là một khâu trong qui
trình tổ chức thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo, có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc đưa pháp luật về giáo dục và đào tạo vào cuộc sống. Hình thức phổ biến, giáo
dục pháp luật được thể hiện thông qua phương tiện thông tin đại chúng, giảng dạy pháp
luật ở các nhà trường, thông qua các hoạt động xét xử, hoà giải...
Thực hiện pháp luật và phổ biến, giáo dục pháp luật về giáo dục và đào tạo có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Pháp luật về giáo dục và đào tạo được thực hiện có hiệu
quả thì cần phải có cách thức tổ chức thực hiện hữu hiệu để đưa pháp luật ấy vào cuộc
sống. Ngược lại, tổ chức thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo nghiêm túc, đầy đủ
là một trong những hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật hữu hiệu.
26. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và dân chủ hoá đời
sống xã hội, thì việc phổ biến, giáo dục pháp luật về giáo dục và đào tạo không chỉ dừng
lại ở mức cung cấp, phổ biến các thông tin pháp luật cho mọi đối tượng, “giáo dục pháp
luật còn phải đáp ứng các nhu cầu hiểu biết đa dạng của từng người dân” [18, tr.136].
Nhu cầu hiểu biết pháp luật một cách cụ thể và thiết thực để bảo vệ lợi ích hợp pháp và
giao dịch xã hội đang là đòi hỏi cấp thiết của từng cá nhân, gia đình và tập thể.
Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là một biện pháp lớn
bao gồm nhiều mặt hoạt động nhằm đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện
nghiêm chỉnh trong thực tiễn. Cần tăng cường công tác giải thích pháp luật về giáo dục
và đào tạo để làm sáng tỏ nội dung và ý nghĩa của các qui định pháp luật làm cơ sở cho
việc phổ biến và giáo dục pháp luật đạt kết quả. Đẩy mạnh công tác phổ biến và giáo dục
pháp luật về giáo dục và đào tạo nhằm làm cho nhân dân hiểu biết pháp luật từ đó nâng
cao ý thức pháp luật của nhân dân, xây dựng thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật.
Kết luận chương 1
Thực hiện pháp luật là toàn bộ những hành vi (hành động hoặc không hành động),
những phương thức xử sự của các chủ thể pháp luật nhằm thực hiện những qui định của
pháp luật. Thực hiện pháp luật có vị trí, vai trò và ý nghĩa quan trọng trong toàn bộ các
hoạt động về pháp luật, là quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống, khắc phục tình trạng
không chấp hành pháp luật, hạn chế và ngăn ngừa những vi phạm pháp luật.
Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích làm
cho các quy phạm pháp luật về giáo dục và đào tạo đi vào cuộc sống thực tiễn. Thực hiện
pháp luật về giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò, ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã
hội, là hoạt động tích cực của các chủ thể, góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục-đào tạo
nước nhà phát triển theo đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm thực
hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, đáp
ứng nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
27. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Pháp luật về giáo dục và đào tạo có những đặc điểm riêng mang tính đặc thù. Để
pháp luật về giáo dục và đào tạo được bảo đảm thực hiện trong đời sống xã hội, phát huy
được tác dụng, đòi hỏi các chủ thể thực hiện phải nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò và
ý nghĩa thiết thực của nó, từ đó chủ động có các biện pháp thích hợp để tổ chức thực hiện
tốt những qui định của pháp luật về giáo dục và đào tạo. Làm được như vậy là tích cực
góp phần vào việc phát triển vững chắc sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta.