Đây là phần trích dẫn từ cuốn sách Blitzscaling (Tăng trưởng thần tốc) của Reid Hoffman. REID HOFFMAN là một doanh nhân và nhà đầu tư. Năm 1998, ông là thành viên hội đồng sáng lập và phó giám đốc điều hành PayPal. Năm 2003, ông đồng sáng lập LinkedIn, một dịch vụ mạng nghề nghiệp quy mô lớn. Reid Hoffman là nhà đầu tư thiên thần của Facebook và Zynga. Ông gia nhập quỹ đầu tư mạo hiểm Greylock Partners vào năm 2009. Ông hiện đang nắm giữ vị trí trong ban điều hành ở Airbnb, Microsoft và các công ty start-up đang ở giai đoạn đầu, cùng với các công ty phi lợi nhuận toàn cầu.
1. 7 MÔ HÌNH KINH DOANH
TRONG NỀN KINH TẾ SỐ
Tác giả: Reid Hoffman, Founder của LinkedIn
Biên dịch: Huỳnh Hữu Tài và nhóm WeTransform
Đây là phần trích dẫn từ cuốn sách Blitzscaling (Tăng trưởng thần
tốc) của Reid Hoffman. REID HOFFMAN là một doanh nhân
và nhà đầu tư. Năm 1998, ông là thành viên hội đồng sáng lập và
phó giám đốc điều hành PayPal. Năm 2003, ông đồng sáng lập
LinkedIn, một dịch vụ mạng nghề nghiệp quy mô lớn. Reid
Hoffman là nhà đầu tư thiên thần của Facebook và Zynga. Ông
gia nhập quỹ đầu tư mạo hiểm Greylock Partners vào năm 2009.
Ông hiện đang nắm giữ vị trí trong ban điều hành ở Airbnb,
Microsoft và các công ty start-up đang ở giai đoạn đầu, cùng với
các công ty phi lợi nhuận toàn cầu.
2. MÔ HÌNH KINH DOANH #1: PHẦN MỀM THAY VÌ SẢN
PHẨM VẬT LÝ
Google và Facebook là các doanh nghiệp phần mềm lớn tập trung
vào phần mềm điện tử hơn là sản phẩm vật lý. Các doanh nghiệp
dựa vào phần mềm có thời gian phục vụ thị trường toàn cầu dễ
dàng hơn, từ đó họ có thể đạt được quy mô thị trường lớn hơn. So
với sản phẩm vật lý, phần mềm cũng dễ di chuyển đây đó hơn, vì
thế doanh nghiệp kinh doanh phần mềm cũng có thể dễ dàng khai
thác những kỹ thuật phân phối như lan truyền, và khả năng kết
nối cao độ của họ mang lại nhiều cơ hội để tận dụng hiệu ứng
mạng. Các doanh nghiệp phần mềm có xu hướng sở hữu tỷ suất
lợi nhuận gộp cao vì chi phí biến đổi của họ thấp.
Phần mềm cũng giúp doanh nghiệp thiết kế mô hình kinh
doanh nhằm vượt qua được những điểm giới hạn tăng tưởng dễ
dàng hơn. Bạn có thể lặp lại việc sản xuất ra các sản phẩm phần
mềm một cách nhanh chóng hơn (nhiều công ty trên Internet đều
cho ra phần mềm mới mỗi ngày) so với các sản phẩm vật chất,
điều này giúp họ có được sản phẩm/thị trường phù hợp nhanh hơn
và dễ dàng hơn. Và với các doanh nghiệp phần mềm, như
WhatsApp, có thể cần ít nhân viên hơn so với các công ty làm ra
sản phẩm vật lý.
Trở lại năm 1990, người theo trường phái vị lai George
Gilder thể hiện sự kiên định khi viết trong cuốn sách Microcosm:
“Sự kiện chính của thế kỷ 20 là sự kiện vật chất bị lật đổ. Trong
công nghệ, kinh tế, chính trị ở các quốc gia, sự giàu có dưới dạng
tài nguyên vật chất đang dần suy giảm về giá trị và ý nghĩa. Trong
mọi hoàn cảnh, dùng sức mạnh của trí tuệ sẽ tốt hơn dùng vũ lực”.
Chỉ hơn hai mươi năm sau đó, năm 2011, nhà đầu tư mạo
hiểm (và là đồng sáng lập Netscape) Marc Andreessen đã xác
nhận luận điểm của Gilder trong bài báo “Why software is eating
3. the world” (tạm dịch: Tại sao phần mềm đang nuốt chửng thế
giới) của mình đăng trên tờ Wall Street Journal . Andreessen chỉ
ra rằng nhà sách lớn nhất thế gới (Amazon), nhà cung cấp dịch vụ
xem phim trực tuyến (Netflix), nhà tuyển dụng (LinkedIn), và các
công ty âm nhạc (Apple/Spotify/Pandora) đều là những công ty
phần mềm, và ngay cả những công ty trung thành với phong cách
“nền kinh tế cũ” như Walmart và FedEx cũng sử dụng phần mềm
(thay vì “sản phẩm vật lý”) để quản lý việc kinh doanh của họ.
Dù vậy – hoặc có lẽ lý do là vì – phần mềm đang phát triển
mạnh ưu thế của mình nên sức mạnh của nó cũng giúp các doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm vật lý có thể dễ dàng mở rộng hơn.
Doanh nghiệp bán lẻ Amazon phụ thuộc nhiều vào vật chất – chỉ
cần nghĩ đến tất cả những hộp đóng hàng của Amazon đang chất
đống trong thùng rác nhà bạn! Khởi nguồn Amazon thuê Ingram
Book Company làm dịch vụ logistic, nhưng khi phát triển thì họ
đầu tư mạnh vào hệ thống quản lý hàng hóa và nhà kho để biến
giới hạn về cơ sở hạ tầng từ một điểm giới hạn sự tăng tưởng trở
thành một yếu tố tăng trưởng. Về mặt bán lẻ, các công ty trả tiền
để Amazon giúp họ quản lý hàng tồn kho và logistic, trong khi hệ
thống máy tính khổng lồ mà Amazon xây dựng để vận hành việc
kinh doanh bán lẻ của chính mình lại có thể trở thành doanh
nghiệp AWS (một doanh nghiệp có lợi nhuận cao và hoạt động
nhờ vào phần mềm!).
MÔ HÌNH KINH DOANH #2: CÁC NỀN TẢNG KẾT NỐI
(PLATFORM)
Nền kinh tế nền tảng có trước cả thời đại Kết Nối, và thậm chí
trước cả thời đại Công nghiệp. Những khu vực theo đường lối
thương mại như Cộng hòa Venice cung cấp một hệ sinh thái rộng
mở chào đón các nhà buôn, hoàn thiện quy định về tiền tệ, luật
pháp, và các mức thuế để thu nhận giá trị từ nền tảng. Các nền
4. tảng công nghệ như Microsoft Windows đã chứng minh sức mạnh
của việc trở thành nền tảng được các doanh nghiệp chọn lựa để
xây dựng lại khi World Wide Web hãy còn là một tia sáng le lói
trong mắt Tim Bernes-Lee (Sir Bernes-Lee đã viết kế hoạch đề
xuất cho hệ thống siêu văn bản toàn cầu vào năm 1989). Nhưng
dù giá trị của các nền tảng đã được chứng minh trong kỷ nguyên
tiền-Internet, thì thời đại Kết nối đã khiến chúng trở nên quyền
năng hơn và có giá trị to lớn hơn.
Không bị giới hạn về vị trí địa lý như Cộng hòa Venice, các
nền tảng dựa trên phần mềm ngày nay có thể được phân bố trên
toàn thế giới gần như là ngay lập tức. Và vì các giao dịch trên nền
tảng hiện giờ được thực hiện thông qua các giao diện lập trình
ứng dụng (API) chứ không phải là các cuộc đàm phán trực tiếp,
nên các giao dịch có thể tiến hành nhanh chóng, liền mạch và với
khối lượng đáng kinh ngạc mà không cần sự can thiệp của con
người.
Nếu một nền tảng đạt được quy mô và trở thành tiêu chuẩn
thực tế trong ngành của nó, thì hiệu ứng mạng với khả năng tương
hợp và tiêu chuẩn (kết hợp giữa khả năng sản xuất nhanh chóng
và tối ưu hóa nền tảng) tạo ra lợi thế cạnh tranh đáng kể và lâu dài
mà gần như không thể bị phá vỡ. Sự thống trị này cho phép các
nhà lãnh đạo thị trường “đánh thuế” tất cả những người tham gia
muốn sử dụng nền tảng này, cũng giống như tiền thuế đã được áp
đặt tại Cộng hòa Venice xưa kia. Ví dụ, cửa hàng iTunes lấy 30%
số tiền thu được mỗi khi một bài hát, một bộ phim, một cuốn sách,
hoặc một ứng dụng được bán ra trên nền tảng. Lợi nhuận của các
nền tảng này có thể có tỷ suất lợi nhuận gộp cực kỳ cao, mang về
tiền để rồi đầu tư tiếp vào nền tảng làm cho nó tốt hơn nữa. Nền
tảng bán hàng của Amazon, biểu đồ xã hội của Facebook, và dĩ
nhiên, hệ sinh thái iOS của Apple là những ví dụ minh họa cho
sức mạnh của nền tảng.
5. MÔ HÌNH KINH DOANH #3: MIỄN PHÍ HOẶC
FREEMIUM
“Miễn phí” có một quyền năng đáng kinh ngạc mà không có giá
cả nào so sánh được. Nhà kinh tế học hành vi, Công tước Dan
Ariely, đã viết về sức mạnh của sự miễn phí trong cuốn sách xuất
sắc của ông, Predictably Irrational, mô tả một thí nghiệm mà
trong đó ông đưa cho những người tham gia thí nghiệm ấy chọn
lựa giữa một viên chocolate kẹo mềm Lindt truffle giá 15 xu và
một viên Hershey’s Kiss giá chỉ 1 xu. Gần ¾ người tham gia thí
nghiệm chọn viên kẹo mềm hảo hạng hơn là viên Kiss rẻ tiền.
Nhưng khi Ariely thay đổi giá cho viên kẹo mềm giá 14 xu và
viên Kiss miễn phí – chêch lệch mức giá giống nhau – thì hơn 2/3
người tham gia thí nghiệp chọn viên Kiss thấp kém (nhưng miễn
phí).
Sức mạnh tuyệt vời của sự miễn phí giúp nó trở thành công
cụ hữu ích để phân phối và lan truyền. Nó cũng giữ vai trò quan
trọng trong việc khởi động hiệu ứng mạng bằng cách giúp sản
phẩm đạt được số lượng lớn người dùng cần phải có để những
hiệu ứng ấy có thể hoạt động. Ở LinkedIn, chúng tôi nhận ra rằng
cần phải miễn phí cho những tài khoản cơ bản nếu chúng tôi muốn
sở hữu một triệu người dùng mà chúng tôi giả định họ là số lượng
đại diện quan trọng.
Đôi khi bạn có thể đưa ra một sản phẩm miễn phí và vẫn
thu được lợi nhuận; trong mô hình kinh doanh theo đường lối
quảng cáo, một lượng người dùng đủ lớn có thể có giá trị ngay cả
khi họ chẳng bao giờ trả tiền cho dịch vụ của bạn. Ví dụ, Facebook
chưa bao giờ tính phí người dùng một xu, nhưng họ vẫn mang lại
lợi nhuận gộp cao bằng cách bán quảng cáo. Nhưng thỉnh thoảng
một sản phẩm không thể trở thành mô hình quảng cáo, giống như
trường hợp nhiều dịch vụ dành cho sinh viên và người làm giáo
6. dục. Không có lãi từ bên thứ ba, vấn đề với việc cung cấp sản
phẩm miễn phí cho người dùng chính là bạn không thể bù đắp
doanh số bị thiếu hụt bằng cách “tăng số lượng”.
Đây là lúc sự đổi mới sáng tạo về việc thu phí để nâng cấp
xuất hiện. Nhà đầu tư mạo hiểm Fred Wilson đặt ra thuật ngữ trên
trong một bài blog đăng vào năm 2006 (dựa trên đề xuất của Jarid
Lukin), nhưng mô hình kinh doanh tự nó đã đi trước thuật ngữ
này, nguồn gốc của nó là mô hình shareware (phần mềm chia sẻ)
để bán phần mềm vào những năm 1980. Sản phẩm miễn phí là
công cụ để khai phá và thu được lượng lớn người dùng, trong khi
phiên bản phần mềm có thu phí cho phép các doanh nghiệp thu
được giá trị từ những người dùng đã thấy rõ giá trị của phần mềm
đó đối với họ. Dropbox là một ví dụ hàng đầu về doanh nghiệp
thu phí để nâng cấp thành công – bằng cách tặng miễn phí 2 GB
lưu trữ, Dropbox thu hút lượng lớn người dùng để làm cơ sở, một
tỷ lệ thích hợp những người dùng này sẽ quyết định trả tiền để
cho được giá trị và không gian lưu trữ tăng thêm tiện lợi hơn.
MÔ HÌNH KINH DOANH #4: SÀN GIAO DỊCH
(MARKETPLACE)
Các marketplace đại diện cho một trong những kiểu mẫu mô hình
kinh doanh thành công nhất với Google và eBay của kỷ nguyên
dot-com, ngày nay là Alibaba và Airbnb, chúng là những ví dụ
điển hình về các công ty có tầm quan trọng, sở hữu giá trị theo
đuổi kiểu mẫu này. Một lý do mà marketplace có sức mạnh như
vậy là vì chúng khai thác hiệu ứng mạng hai chiều. Trong khi rất
khó để tạo dựng được một marketplace thành công từ “khởi đầu
lạnh”, khi đó marketplace đầu tiên xoay sở để có được tính thanh
khoản – là khả năng người mua và người bán tìm được đối tác để
thực hiện giao dịch một cách nhanh chóng và hiệu quả – trở nên
rất thu hút với cả hai phía của thị trường. Khi người mua và người
7. bán cùng tham gia, thị trường càng trở nên thu hút hơn đối với cả
đôi bên, điều đó kích hoạt một vòng lặp phản hồi tích cực khiến
cho bất kỳ công ty mới gia nhập thị trường nào cũng rất khó chiếm
được thị phần.
Marketplace cũng mang đến những lợi thế quan trọng trong
bối cảnh hiệu ứng mạng rõ rệt này. Bằng cách tạo ra một thị
trường có tính thanh khoản, nơi mà người mua và người bán đều
tham gia, lực lượng năng động đến từ phía cung và cầu giúp cho
việc định giá giao dịch tốt hơn so với bất kỳ người nào có thể làm.
Giá cả trên marketplace càng hiệu quả, giá trị tạo ra càng nhiều,
bởi điều đó có nghĩa là nhiều giao dịch hơn có thể tạo ra giá trị
thực. Ngược lại, ở các marketplace có tính thanh khoản yếu,
người bán thường xuyên định giá sai sản phẩm của họ, dẫn đến
doanh thu ít hơn và giá trị tạo ra thấp hơn giá trị tối ưu.
Ví dụ hay nhất về lợi ích của việc định giá thị trường hiệu
quả là marketplace quảng cáo AdWords của Google. AdWords
cho phép bất cứ ai đấu giá từ khóa mục tiêu với bất kỳ số lượng
nào, vì vậy kể cả doanh nghiệp nhỏ nhất cũng có thể tham gia.
Ngược lại với thị trường quảng cáo truyền thống, ở đấy các khách
hàng lớn tốn hàng triệu đô la cho các công ty quảng cáo thực hiện
mẩu quảng cáo 30 giây trên truyền hình trong suốt chương trình
như giải đấu Super Bowl. Hệ thống của Google cũng đo lường
chất lượng quảng cáo; quảng cáo ưu tiên nhắm mục tiêu vào đối
tượng của nó để tạo ra các nhấp chuột được trả tiền nhiều nhất.
Hiệu quả thu được là người tiêu dùng sẽ thấy những mẩu quảng
cáo phù hợp hiệu quả nhất, mà không cần tốn phí trung gian cho
Don Drapper và trả tiền bữa trưa đắt tiền để bàn công việc với đối
tác. Google cũng tăng tỷ suất lợi nhuận gộp của họ, bởi vì không
giống như quảng cáo thương mại trên truyền hình, không gian
quảng cáo dựa trên việc tìm kiếm thực sự không có giới hạn và
Google không tốn bất kỳ chi phí gì.
8. Mặc dù các thị trường, kể cả thị trường địa phương, luôn là
mô hình kinh doanh quyền lực, nhưng những thay đổi ngày càng
rộng mở trong thời đại Kết nối đã khiến marketplace có giá trị
hơn bao giờ hết. Nhưng không giống như một khu chợ địa phương
bị giới hạn về quy mô – hãy nghĩ đến ngôi chợ thời trang cũ kỹ
nằm ở trung tâm một thành phố đông đúc – marketplace trực
tuyến khai thác thị trường cả thế giới. Và bằng cách kết nối người
mua với người bán thay vì giữ hàng tồn hoặc quản lý logistic (và
do đó làm việc với thế giới phần mềm nhiều hơn là với thế giới
vật chất), các marketplace trực tuyến tránh được những giới hạn
kiềm hãm tăng trưởng đến từ yếu tố con người hoặc từ khả năng
mở rộng cơ sở hạ tầng.
MÔ HÌNH KINH DOANH #5: ĐĂNG KÝ THÀNH VIÊN
Khi Salesforce.com lần đầu tiên ra mắt sản phẩm quản lý mối
quan hệ theo yêu cầu của khách hàng, đã có rất nhiều câu hỏi về
tính pháp lý đặt ra cho mô hình phần-mềm-như-một-dịch-vụ
(SaaS) mới này. Bán phần mềm bằng cách đăng ký, giao phần
mềm qua Internet, là cách mà các nhà cung cấp phần mềm cho
doanh nghiệp thường làm. Mô hình trước đây bán quyền sử dụng
phần mềm vĩnh viễn tại chỗ (on-premise software) và tính phí bảo
trì mắc tiền hơn so với đăng ký quyền sử dụng hàng tháng hoặc
hàng năm. Mô hình hỗ trợ theo yêu cầu cá nhân cũng có khác biệt;
bán và hỗ trợ phần mềm tại chỗ đòi hỏi có nhân viên bán hàng và
kỹ sư bán hàng cài đặt cho khu triển khai thí điểm, trong khi mô
hình SaaS mới này chỉ yêu cầu nhân viên hỗ trợ và sẵn sàng 24/7
ở trung tâm dữ liệu.
Dĩ nhiên, SaaS cuối cùng đã trở thành mô hình kinh doanh
chiếm ưu thế cho phần mềm doanh nghiệp. Bất lợi về dòng tiền
và yêu cầu nhân viên làm việc theo ca trở thành mối quan tâm thật
sự, nhưng chủ yếu là đối với các công ty đang kinh doanh trong
9. thị trường. Doanh nghiệp SaaS mới như Salesforce.com và
Workday đã được thiết kế và xây dựng theo một mô hình mới,
cho phép họ có ưu thế lớn hơn những công ty hiện tại đang cố
gắng chuyển đổi việc kinh doanh phần mềm tại chỗ thành phần
mềm đăng ký sử dụng.
Các dịch vụ đăng ký thuê bao dựa trên Internet trở nên
thành công vì mô hình bán hàng và giao hàng cung cấp một thị
trường có quy mô lớn hơn và phân phối tốt hơn so với phần mềm
đóng gói truyền thống. Do cần có chi phí phụ và phí hoạt động
mở rộng để hỗ trợ phần mềm tại chỗ, nên giấy phép phần mềm
doanh nghiệp truyền thống chỉ nằm trong phạm vi sáu đến bảy số
để mô hình có thể hoạt động. Điều này có nghĩa là công ty bán
phần mềm chỉ tập trung vào nhu cầu của những khách hàng lớn
nhất.
Ngược lại, Salesforce.com và các công ty cung cấp SaaS
khác có thể bán bản quyền phần mềm với bất kỳ số lượng nào,
không chỉ cho các công ty thuộc danh sách Fortune 500, mà còn
bán cho thị trường trung cấp và các doanh nghiệp quy mô vừa và
nhỏ, mở rộng đáng kể thị trường tiềm năng của họ. Giao hàng qua
Internet và tự phục vụ cho phép thực hiện các hình thức phân phối
mới vốn không thể triển khai được trong thế giới phần mềm đóng
gói, chẳng hạn như Dropbox đã khuyến khích mọi người lan
truyền sản phẩm của họ để nhận được dung lượng miễn phí bổ
sung khi giới thiệu thêm khách hàng mới.
Không phải mô hình đăng ký qua Internet chỉ giới hạn trong
phần mềm doanh nghiệp. Những công ty chiếm ưu thế trong cả
âm nhạc (Spotify, Pandora) lẫn video (Netflix, Hulu, Amazon)
cũng có mức phí phát sinh thấp hơn và phân phối lớn hơn bằng
cách sử dụng mô hình kinh doanh đăng ký thành viên.
Một lợi ích khác khó thấy hơn của mô hình này là khi doanh
nghiệp kinh doanh theo hình thức đăng ký thành viên đạt tới quy
10. mô lớn, dòng doanh thu có thể dự đoán được đã giúp doanh
nghiệp hăng hái hơn trong việc đầu tư dài hạn, bởi vì họ không
cần duy trì số dư tiền mặt lớn để đối phó với các biến động ngắn
hạn trong doanh nghiệp. Sức mạnh hỏa lực tài chính này có thể là
lợi thế cạnh tranh chính. Ví dụ, vào năm 2017, Netflix đã công bố
kế hoạch đầu tư 6 tỷ đô la vào nội dung gốc cho dịch vụ streaming
(dịch vụ truyền dữ liệu tới máy tính và các thiết bị di động thông
qua Internet), khai thác mô hình đăng ký trực tiếp của mình để đạt
doanh thu nhiều hơn cả mạng truyền hình “cổ điển”, vốn phải dựa
vào nguồn doanh thu ít ỏi đến từ nhà cung cấp truyền hình cáp và
bán quảng cáo.
MÔ HÌNH KINH DOANH #6: SẢN PHẨM KỸ THUẬT SỐ
Một trong những kiểu mẫu mới xuất hiện thông qua việc xây dựng
trên nền tảng và dịch vụ mới là các doanh nghiệp bán sản phẩm
kỹ thuật số. Nằm ở điểm giao nhau giữa kiểu mẫu “phần mềm
thay vì sản phẩm vật lý” và kiểu mẫu nền tảng, sản phẩm kỹ thuật
số là sản phẩm phi vật chất, chúng được cho là không có giá trị
nội tại, nhưng vẫn là một việc kinh doanh có khả năng sinh lợi và
mở rộng. Ví dụ, dịch vụ nhắn tin LINE có doanh thu đáng kể từ
việc bán sticker – những hình ảnh có thể chèn vào văn bản trong
tin nhắn điện thoại thông minh. Trong năm 2014, năm hoạt động
đầu tiên, việc kinh doanh nhãn dán của LINE mang lại 75 triệu đô
la doanh thu. Con số này tăng lên 270 triệu đô la vào năm 2015,
chiếm ¼ tổng doanh thu của LINE. Không tệ chút nào đối với một
sản phẩm phi vật chất không có giá trị nội tại!
Sản phẩm kỹ thuật số cũng trở thành một mô hình kinh
doanh chủ yếu trong ngành công nghiệp trò chơi điện tử, việc mua
bán các vật phẩm trong trò chơi giúp người chơi có ưu thế hơn
khi chơi hoặc quảng cáo cho dòng trạng thái của họ. Doanh thu
11. toàn thị trường từ mua hàng trong ứng dụng được dự đoán sẽ vượt
số lượt tải ứng-dụng-phải-trả-tiền trong năm 2017.
Bên cạnh việc có được những lợi thế khi kinh doanh sản
phẩm dựa vào phần mềm, các công ty kinh doanh sản phẩm kỹ
thuật số có xu hướng đạt gần như 100% tỷ suất lợi nhuận gộp, bởi
vì chúng thuần túy xuất thân từ kỹ thuật số và thường không cần
có thêm cơ sở hạ tầng hay chi phí hoạt động hỗ trợ.
MÔ HÌNH KINH DOANH #7: TIN TỨC CẬP NHẬT (FEEDS)
Một trong những kiểu mẫu bị đánh giá thấp và không được xem
trọng là tin tức cập nhật (news feed). Hiệu ứng mạng mạnh mẽ
của Facebook giúp nó trở nên thu hút trong mắt người dùng,
nhưng sự đổi mới trong phần tin tức cập nhật mới thật sự khiến
Facebook trở thành doanh nghiệp tầm cỡ thế giới. Nhưng
Facebook không phải là câu chuyện thành công duy nhất về mô
hình trung tâm tin tức. Các công ty như Twitter, Instagram, và
Slack cũng đã xây dựng thị trường trị giá hàng tỷ đô la theo mô
hình tin tức cập nhật như vậy.
Sức mạnh của tin tức cập nhật đến từ khả năng gia tăng kết
nối từ người dùng, điều này lại tiếp tục ảnh hưởng đến doanh thu
quảng cáo và giữ chân người dùng lâu dài. Như Facebook cho
thấy, tin tức cập nhật được tài trợ là cách hiệu quả nhất để kiếm
tiền từ “con mắt” Internet. Chỉ có AdWords của Google mới vượt
qua được sức thống trị của mục News Feed của Facebook trong
thị trường quảng cáo trực tuyến, và AdWords bắt đầu với lợi thế
đáng kể có sẵn từ việc theo dõi ý định của người dùng hơn là
mong muốn được người dùng yêu thích. Ví dụ, bao nhiêu người
vào Facebook với ý định mua sắm? Ma thuật của mô hình tin tức
cập nhật chính là khả năng của nó trong việc kiếm tiền từ những
người đang buồn chán muốn theo dõi xem bạn bè họ đang làm gì.
12. Dĩ nhiên, sử dụng hiệu quả mô hình tin tức cập nhật đòi hỏi
nhiều công nghệ tinh vi. Facebook không phải chỉ chèn các quảng
cáo một cách ngẫu nhiên. Họ biết bạn thích điều gì còn hơn cả
bản thân bạn biết, dựa trên những thứ mà bạn thường nhấp chuột
vào, bấm like, hoặc tương tác với điều gì đó. Nó có thể gợi ý cho
bạn những mẩu quảng cáo dựa vào thói quen cá nhân và bối cảnh
những gì xảy ra trên phần tin tức cập nhật của bạn. Khả năng
nhắm trúng đích giải thích vì sao Facebook thành công trong việc
kiếm tiền từ mô hình này, trong khi các sản phẩm khác cũng dựa
trên tin tức cập nhật (như RSS) lại thất bại.
Mô hình này mạnh mẽ đến nỗi khiến Twitter, với sản phẩm
chủ yếu là một đoạn news feed (tin tức) dài, vẫn là một công ty
Internet quan trọng mặc dù họ mới thay đổi sản phẩm trong vòng
một thập niên (không tính việc tăng từ 140 ký tự lên đến 280 ký
tự). Twitter là một doanh nghiệp phát triển quy mô lớn dựa vào
sức mạnh của đổi mới sáng tạo mô hình kinh doanh, chứ không
phải dựa vào việc đổi mới sáng tạo sản phẩm hay công nghệ.
Tìm hiểu thêm các cuốn sách, bài viết, ebook, quiz… từ
WeTransform tại địa chỉ: http://wetransform.vn/
Hoặc quét mã QR: