2. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008
Hội Nghị Ngoại Khoa Và Phẫu Thuật Toàn Quốc Năm 2008 262
Conclusion: Endoscopic transthoracic sympathectomy is an efficent, safe, cosmetic and minimally invasive
surgical method for hyperhidrosis.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ra nhiều mồ hôi là một tình trạng tiết mồ
hôi quá mức ở các nơi trên cơ thể, hay gặp nhất
là ở bàn tay, bàn chân, nách, mặt…Là bệnh do
cường hệ thần kinh giao cảm, chủ yếu gặp ở
những người trẻ. Theo các thống kê bệnh có thể
chiếm đến 1% dân số(5). Nó không gây nguy
hiểm đến tính mạng nhưng gây rất nhiều khó
khăn, phiền hà trong làm việc và sinh hoạt hàng
ngày. Đặc biệt ra nhiều mồ hôi tay sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến chức năng cầm nắm, viết và tâm lý.
Những năm gần đây, phẫu thuật nội soi là
phương pháp điều trị đang được ưa chuộng vì
tính ưu việt: an toàn, hiệu quả và thẩm mỹ.
Phương pháp này đã thay thế hoàn toàn cho
phương pháp mở ngực kinh điển hay các thủ
thuật diệt hạch bằng tiêm cồn hay nước sôi qua
thành ngực trong điều trị bệnh ra nhiều mồ
hôi(7,8).
Phẫu thuật cắt đốt hạch thần kinh giao cảm
ngực qua nội soi đã được áp dụng từ đầu
những năm 80 của thế kỹ XX. Trên thế giới, có
những báo cáo tới 3000‐4000 trường hợp với
kết quả đạt được khô tay rất cao tới 98‐100%.
Tại Việt Nam, Văn Tần thông báo tại Bệnh
viện Bình Dân đã mổ hàng nghìn trường hợp
với việc cải tiến về tư thế bệnh nhân và cách
đốt để giảm ra mồ hôi bù trừ(7,8).
Tại bệnh viện đa khoa tỉnh Daklak, từ tháng
7 năm 2005 chúng tôi đã mổ nội soi ngực, một lỗ
vào với troca 5mm, cắt đốt hạch thần kinh giao
cảm ngực II, III hai bên, cho 38 trường hợp ra
nhiều mồ hôi tay, với mục tiêu:
Ứng dụng kỹ thuật nội soi ngực và những cải
tiến về tư thế và cách đốt tại bệnh viện tuyến tỉnh.
Đánh giá kết quả sớm sau mổ của phương pháp
cắt đốt hạch thần kinh giao cảm qua nội soi ngực
trong bệnh ra nhiều mồ hôi tay.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Gồm 38 bệnh nhân, nhập viện vào Khoa
Ngoại Tổng Quát, bệnh viện đa khoa tỉnh
Daklak, từ tháng 7/2005 đến tháng 7/2007, được
chẩn đoán tăng tiết mồ hôi tay.
Loại trừ các bệnh nhân có triệu chứng cường
giao cảm mà do các nguyên nhân gây nên như
bệnh Basedow.
Là một nghiên cứu lâm sàng, mô tả tiến cứu
có can thiệp, không so sánh.
Mỗi bệnh nhân khi vào viện được thăm
khám và ghi nhận các triệu chứng theo một mẫu
bệnh án thống nhất. Chúng tôi tiến hành nghiên
cứu theo những đặc điểm sau:
‐Tuổi, giới, nghề nghiệp, thời gian mắc bệnh.
‐Ghi nhận dấu hiệu tăng tiết mồ hôi, vị trí,
toàn thân hay khu trú, mức độ ít, vừa phải hay
ảnh hưởng rất nhiều đến công việc và cuộc sống.
Mức độ ra mồ hôi và ảnh hưởng của bệnh lên
chất lượng cuộc sống theo Krasna(1):
Mức độ 1 Mức độ 2 Mức độ 3 Mức độ 4
Độ ẩm ướt
Không hay
nhẹ
Ướt
Đẫm
nước
Nước nhỏ giọt
Chất lượng
cuộc sống
Bình
thường
Khó chịu
Suy
nhược
Nỗi sợ hãi đối
với xã hội
Dụng cụ phẫu thuật: một dàn máy mổ nội
soi Olympus, với trocar 5mm, sử dụng ống soi
và con lăn cầm máu trong bộ mổ nội soi cắt
đốt tuyến tiền liệt để soi ngực và đốt hạch thần
kinh giao cảm, sonde thở oxygen để đuổi khí,
khay hạt đậu đựng nước muối sinh lý để kiểm
tra nở phổi, chỉ vicryl 2.0 để đóng lỗ mở troca,
pince, kéo…
Gây mê nội khí quản hai nòng Karlent để
làm xẹp từng bên phổi.
3. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Chuyên Ngành – Ngoại Lồng Ngực 263
Hình 1. Khám và đánh giá bệnh nhân.
Hình 2.Ống kính và que đốt
Mô tả kỹ thuật
Sau khi bệnh nhân gây mê, được đặt nằm
ngữa, đầu cao hơn chân khoảng 20‐250 (semi‐
Fowler), có độn một gối ngực‐gáy khoảng 10cm.
Vào ngực từng bên bằng một troca 5mm,
khoang gian sườn III, đường nách giữa. Ống
kính và con lăn cầm máu trong bộ mổ cắt đốt
tuyến tiền liệt được đưa vào qua troca 5mm này.
Phổi đã được làm xẹp trước đó bằng ngưng trao
đổi khí bởi kẹp lần lượt từng bên ống nội khí
quản hai nòng.
Quan sát khoang màng phổi và xác định
thần kinh giao cảm. Đốt thần kinh giao cảm
ngực II, III ngay trên xương sườn số 2 và 3.
Sau khi đốt, kiểm tra chảy máu. Rút ống
kính cùng con lăn ra, luồn sonde thở oxygen vào
khoang màng phổi qua trocar. Thả kẹp ống nội
khí quản, phối hợp cùng gây mê nở phổi và
đuổi khí, dùng khay hạt đậu đựng nước muối
sinh lý để kiểm tra việc đuổi hết khí ra khỏi
khoang màng phổi. Khâu một mũi chữ X, chỉ
vicryl 2.0, lớp da‐cân‐cơ để đóng lỗ trocar. Xiết
cột mũi chỉ đồng thời rút trocar.
Hình 3. và 4. Cắt đốt hạch thần kinh giao cảm và lúc
mổ xong.
Dùng kháng sinh dự phòng phẫu thuật.
Chụp phổi kiểm tra sau mổ khi bệnh nhân
thoát mê.
Khám đánh giá sau mổ.
Xuất viện ngày thứ hai sau mổ.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong 38 trường hợp đã được phẫu thuật cắt
đốt hạch thần kinh giao cảm ngực qua nội soi,
chúng tôi ghi nhận các kết quả như sau:
Bảng 1. Phân bố về tuổi
Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình
Tuổi 11 42 20,5
Bảng 2. Phân bố về giới
Số bệnh nhân (n=38) Tỷ lệ %
Nam 20 52,63
Nữ 18 47,37
Bảng 3. Phân bố nghề nghiệp
Số bệnh nhân (n=38) Tỷ lệ %
Học sinh-sinh viên 30 78,68
Nhân viên văn phòng 5 13,46
Các nghề khác 3 7,86
Bảng 4. Thời gian bị bệnh
Thời gian bị bệnh Số bệnh nhân (n=38) Tỷ lệ %
Bị từ nhỏ 33 86,84
Mới mắc 5 13,16
4. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008
Hội Nghị Ngoại Khoa Và Phẫu Thuật Toàn Quốc Năm 2008 264
Bảng 5. Vùng bị bệnh
Vùng bị bệnh Số bệnh nhân (n=38) Tỷ lệ %
Hai bàn tay 12 31,58
Hai tay + hai chân 9 23,68
Hai tay + hai nách 6 15,79
Tay + chân + nách 11 28,95
Cộng 38 100
Bảng 6. Mức độ ra mồ hôi
Mức độ
Độ ẩm ướt Chất lượng cột sống
Số bệnh nhân Tỷ lệ %Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Mức độ II 8 21,05 34 89,47
Mức độ III 24 63,16 4 10,53
Mức độ IV 6 15,79 0 0
Tổng 38 100 38 100
Bảng 7. Kết quả trong lúc mổ và ngay sau mổ
Dấu hiệu Số BN (n=38) Tỷ lệ %
Gây mê NKQ hai nòng 38 100
Tư thế semi-Fowler độn gối gáy-
ngực 10cm
38 100
Một troca 5mm vào ngực 38 100
Hạch TKGC ngực II,III hai bên
được đốt
37 97,37
Dính màng phổi bóc được 6 15,78
Dính màng phổi không bóc được 1 2,63
Chảy máu trong lúc mổ, cầm máu
được
5 13,16
Hết ra mồ hôi tay 37 97,37
Giảm ra mồ hôi chân 17 44,74
Hết ra mồ hôi nách 37 97,37
Tiết bù mồ hôi sau mổ 3 7,89
Trong 38 trường hợp, có một bệnh nhân chỉ
đốt được bên trái, kết quả khô tay sau mổ, còn
bên phải bị dính màng phổi rất chặt không thể
tách dính được qua nội soi và phải chuyển qua
mổ hở.
Thời gian mổ trung bình cho cả hai bên là 30
phút.
Không có bệnh nhân nào phải dẫn lưu màng
phổi sau mổ.
Thời gian nằm viện trung bình 2 ngày.
Kháng sinh dùng một liều dự phòng duy
nhất trước mổ cho tất cả bệnh nhân.
Dùng thuốc giảm đau trong ngày đầu sau
mổ.
Kết quả sau mổ ở thời điểm 3 và 6 tháng:
Kiểm tra kết quả sau mổ ở thời điểm 3 và 6
tháng bằng lịch hẹn tái khám. Một số bệnh nhân
không đến tái khám được thì được hỏi qua điện
thoại. Số bệnh nhân được theo dõi là 38, trong
đó:
‐ Hết ra mồ hôi tay, nách: 38 bệnh nhân.
‐ Mồ hôi chân không thay đổi: 17 bệnh nhân.
‐ Tiết bù mồ hôi ở lưng, hai bên bẹn: 3 bệnh
nhân với mức độ vừa phải.
‐ Đau thành ngực dọc phía sau lưng kéo dài
đến 1 tháng: 1 trường hợp.
‐ Hội chứng Horner: không có trường hợp
nào.
‐ Một bệnh nhân nữ có than phiền vì tay khô
quá.
BÀN LUẬN
Điều trị tăng tiết mồ hôi tay có nhiều
phương pháp và kỹ thuật khác nhau. Ở nước ta,
vào những thập niên 70 của thế kỷ XX, đã có
nhiều trung tâm tiến hành điều trị bằng tiêm
nước sôi hay phẫu thuật mở ngực, nhưng kết
quả thu được không như mong đợi và có nhiều
tai biến xấu xảy ra(1,6,7).
Trên thế giới và nhiều trung tâm phẫu thuật
lớn của nước ta, trong những năm gần đây đã
tiến hành phẫu thuật nội soi ngực, diệt hạch
thần kinh giao cảm với số lượng hàng ngàn
trường hợp và thu được kết quả khô tay với tỷ lệ
rất cao(4,5,7,8,9). Tuy nhiên trong quá trình thực
hiện kỹ thuật nội soi, đã có nhiều cải tiến kỹ
thuật về tư thế bệnh nhân khi mổ, gây mê nội
khí quản hai hay một nòng, số lượng trocar vào
ngực, số lượng hạch thần kinh giao cảm được
diệt, cắt đốt đứt các đoạn thần kinh giao cảm
hay là lấy đi cả đoạn hoặc chỉ kẹp dây thần kinh
bằng clip(2,3,6,7)...
Tại bệnh viện đa khoa tỉnh Daklak, từ tháng
7 năm 2005, chúng tôi đã mạnh dạn áp dụng
những cải tiến kỹ thuật với điều kiện máy móc
hiện có của tuyến tỉnh.
Về tư thế bệnh nhân
Trong phẫu thuật nội soi ngực điều trị tăng
tiết mồ hôi tay có thể sử dụng các tư thế: nằm
nghiêng, nằm sấp, nằm ngữa đầu cao(1,5,7,8).
5. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Chuyên Ngành – Ngoại Lồng Ngực 265
Văn Tần mổ tư thế nằm sấp(8,9), ông cho rằng ở
tư thế này có nhiều ưu điểm hơn nằm nghiêng
vì không phải thay đổi tư thế bệnh nhân,
không phải thay đồ vải khi phải can thiệp hai
bên ngực, phổi xẹp và đổ ra trước rất dễ quan
sát, can thiệp trên hạch thần kinh giao cảm.
Tuy nhiên, về thế nằm sấp có ảnh hưởng rất
nhiều đến thông khí, huyết động và phải vất
vã đặt tư thế cho bênh nhân. Trần Ngọc
Lương(7) đã phẫu thuật nội soi ngực cắt thần
kinh giao cảm với tư thế nằm ngữa đầu cao
cho 106 bệnh nhân với ưu điểm: không phải
thay đổi tư thế, không ảnh hưởng đến huyết
động và hô hấp. Chính vì vậy, chúng tôi đã áp
dụng tư thế này và có độn gối gáy‐ngực 10cm.
Vị trí và số lượng trocar vào ngực: chúng tôi
sử dụng một trocar 5mm để vào ngực, sử dụng
ống kính và con lăn cầm máu của phẫu thuật nội
soi cắt đốt tuyến tiền liệt trong quá trình phẫu
thuật để cắt đốt hạch thần kinh giao cảm mà
không gặp một khó khăn nào trong khi quan sát
lồng ngực, nhận định thần kinh giao cảm và cắt
đốt hạch. Một trocar 5mm đặt ở gian sườn III
đường nách giữa đảm bảo tính thẩm mỹ cao.
Huỳnh Quang Khánh(1) sử dụng một trocar
10mm, Văn Tần(8,9) cải tiến việc sử dụng troca: 3
trocar, 2 trocar và 1 trocar 7mm.
Kỹ thuật đốt: chúng tôi áp dụng cải tiến kỹ
thuật của Văn Tần, cắt đốt đứt các đoạn thần
kinh giao cảm ngực II, III ngay trên xương sườn.
Hiệu quả của cắt đốt hạch thần kinh giao
cảm: nghiên cứu của chúng tôi hết ra mồ hôi tay
đạt 97,37% cũng giống như các nghiên cứu của
Văn Tần, Trần Ngọc Lương, Huỳnh Quang
Khánh, Nguyễn Ngọc Bích(4,5,7,8,9)... Trong số 7
trường hợp dính màng phổi, chỉ có một bệnh
nhân bị viêm phổi màng phổi từ nhỏ và có hút
thuốc lá đã lâu năm, màng phổi dính rất chặt
không thể tách dính bằng nội soi được nên phải
chuyển sang mổ hở. Không có các biến chứng
khác như: tràn máu, tràn khí khoang màng phổi,
nhiễm trùng lỗ trocar...
KẾT LUẬN
Phẫu thuật cắt đốt hạch thần kinh giao cảm
ngực qua nội soi trong điều trị tăng tiết mồ hôi
tay là một phẫu thuật mang lại kết quả rất tốt,
khô tay đạt 97,37%.
Với tư thế nằm ngữa đầu cao (semi‐Fowler),
gây mê nội khí quản hai nòng, một troca 5mm
vào ngực, sử dụng ống kính và con lăn cầm máu
trong bộ nội soi cắt đốt tuyến tiền liệt, cắt đốt
hạch thần kinh giao cảm ngực II, III lần lượt
từng bên phổi được tiến hành một cách dễ dàng,
thuận lợi và đảm bảo tính thẩm mỹ cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Huỳnh Quang Khánh, Nguyễn Công Minh, Hoàng Văn
Thiệp (2006), “Phẫu thuật nội soi cắt hạch thần kinh giao cảm
ngực với gây mê nội khí quản thường, nằm ngữa và sử dụng
một ngỏ vào”, Y học thành phố Hồ Chí Minh, 10, tr 280‐287.
2. Lin CC., Mo LR., Lee LS., Nguyen SM. and HWang MH.
(1998), “ÉT‐C: Thoracic T2 sympathetic block by climping‐ A
better and reversible operation for treatment of hyperhidrosis;
Experience with 326 cases”. Eur J Surg; suppl 580: 13‐16.
3. Lin TS. (2001), “Endoscopic clipping in videoassisted
thoracospic sympathetic blockade for axillary hyperhidrosis”,
an analysis of 26 cases, surgycal endoscopic, 2001, 15, pp 126‐
128.
4. Nguyễn Hoài Nam (2006), “Các bước phát triển của phẫu thuật
nội soi lồng ngực”, Y học Việt Nam, 328, tr 321‐325.
5. Nguyễn Ngọc Bích, Trần Hiếu Học, Trần Vinh (2006), “ Kết
quả điều trị ra mồ hôi tay, nách, mặt bằng nội soi ngực”, tạp chí Y
học tập 319, số đặc biệt chuyên đề phẫu thuật nội soi và nội
soi can thiệp, tổng hội Y Dược học Việt Nam, tr 400‐407.
6. Nguyễn Thường Xuân (1998), “Tiêm huyết thanh nóng vào
hạch giao cảm ngực trên trong điều trị bệnh chảy nhiều mồ
hôi”, Hội thảo chuyên đề ngoại thần kinh 1998.
7. Trần Ngọc Lương, Trần Đoàn Kết, Tạ Văn Bình (2005), “Kết
quả bước đầu qua 131 trường hợp đốt hạch giao cảm nội soi qua
lồng ngực để chữa chứng ra mồ hôi tay”, tạp chí Y học thực hành,
số 507‐508, bộ Y tế, tr 1278‐1286.
8. Văn Tần (2007), “Nghiên cứu phẫu thuật điều trị ướt bàn tay do
mồ hôi qua nội soi lồng ngực”, phẫu thuật lồng ngực qua nội soi
và phẫu thuật cắt thần kinh giao cảm ngực, NXB Y học, tr 93‐
118.
9. Văn Tần, Hồ nam (1999), “Kết quả nghiên cứu cải tiến phẫu
thuật nội soi lồng ngực để điều trị chứng mồ hôi tay”, Đại hội
hội ngoại khoa lần thứ X 1999, tr 191‐194.