1. CNXH I/ CNXH 0 tưởng đến khoa học và
sức sống CNXHKH.
* CNXH 0 tưởng giá trị và hạn chế; Điều
kiện: khách quan (KT-XH, VH-TT); chủ
quan (thiên tài của Mác-Angels-Lênin).
Những tư tưởng mang tính chất XHCN có một
quá trình phát sinh, phát triển lâu dài, mang
những nội dung, khuynh hướng khác nhau, do
những điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi thời kỳ
khác nhau qui định. Lần đầu tiên, những ước
mơ về một đời sống ấm no bình đẳng giữa
người và người xuất hiện vào thời sơ kỳ của
chế độ chiếm hữu nô lệ, những ước mơ ấy của
quần chúng nghèo khổ vừa là sự phản kháng
tiêu cực đối với xã hội bất công đương thời
vừa là một hoài vọng về cuộc sống thời
nguyên thủy. Lịch sử tư tưởng XHCN 0 tưởng
phát triển từ dạng chưa thành văn (dưới dạng
văn học dân gian, truyền thuyết huyền thoại
thời cổ đại) sang dạng thành văn nhưng
nhuốm màu sắc tôn giáo (dưới dạng các giáo
lý tôn giáo thời trung cổ) và hình thành nên
một hệ thống lý thuyết, tuy chưa hoàn chỉnh,
và xuất hiện các nhà đại biểu của tư tưởng
XHCN 0 tưởng trong thời kỳ cận đại. Có thể
khái quát, CNXH 0 tưởng là một hệ thống lý
thuyết lý giải phong trào đấu tranh xóa bỏ áp
bức, bất bình đẳng song chưa mang tính khoa
học.
- Ưu điểm:
Các nhà 0 tưởng đều mang tinh thần phê phán
XH đương thời, vạch rõ diện mạo, chân tướng
XH đương thời, đó là XH ttại “cừu ăn thịt
người”, XH mà sự thiếu thốn được sinh ra
chính từ sự thừa thãi, bức tranh XH lộn ngược
(như Xanhximông nói người ta bỏ qua những
tội lỗi tày đình, nghiêm trị những tội lỗi nhỏ
nhặc; người nghèo khổ ban phát và rủ lòng
thương cho bọn giàu có; kẻ vô đạo đức đi dạy
đức hạnh cho người có đạo đức; trong từng
chi tiết cũng như toàn bộ người 0 có năng lực
điều hành những người có năng lực). Chế độ
XH ttại chế độ tư hữu.
Trên những nét cơ bản, họ đã vạch ra mô hình
của XH tương lai, một XH dựa trên chế độ
công hữu, mọi người phải lao động và coi
trọng tài năng, từ đó đặt ra để giải quyết nhiều
vấn đề như giải phóng phụ nữ… Khi n/c vấn
đề này, CN M – L nhận định “họ đã dự kiến
được rất tài tình những vấn đề chân lý mà
ngày nay chúng ta đem KH ra chứng minh là
đúng”.
- Hạn chế:
Mong muốn có 1 XH tương lai những chưa
chỉ ra được con đường đích thực đi tới XH
tương lai (M chỉ ra đó là CM VS); Phê phán
XH đương thời nhưng chưa vạch trần bản chất
bóc lột của XH ấy, khắc phục điều này M đã
chỉ ra học thuyết giá trị thặng dư; Bênh vực
những người nghèo khổ nhưng chưa chỉ ra
được một LLXH để vượt qua XH đương thời
để XD XH mới, M đã tìm ra sứ mệnh lịch sử
của g/c công nhân.
- Tiền đề khách quan:
Về kinh tế-xã hội, vào những năm 40 của thế
kỷ 19, CM KHKT lẫn thứ I căn bản hình
thành ở một số nước châu Âu, năng xuất LĐ
XH cao hơn, khối lượng sp hàng hoá cao hơn
trong điều kiện của chế độ tư hữu, tích tụ và
tập trung tư bản nhiều hơn dẫn đến mâu thuẫn
XH nhiều hơn, do đó người ta tìm cách giải
quyết mâu thuẫn này thông qua các phong trào
đấu tranh như phong trào công nhân ở Lion (P),
p/t công nhân Đức ở Xilêdi, phong trào hiến
chương của công nhân LĐ ở Anh… Những sự
kiện l/s ấy cho thấy mâu thuẫn giữa LLSX mang
tính chất XH và QHSX dựa trên chế độ chiếm
hữu tư nhân TBCN về TLSX đã được thể hiện
trên bề nổi thành mâu thuẫn 0 thể điều hoà giữa
g/c TS bóc lột thống trị và g/c những người LĐ
làm thuê bị bóc lột.
Tình hình thực tế lịch sử đó báo hiệu rằng xã hội
0 thể sống yên ổn dưới sự thống trị của giai cấp
tư sản, rằng bản thân giai cấp tư sản là 0 thể
tương dung với sự tồn tại của một xã hội đang
đòi hỏi cần có sự công bằng và bình đẳng giữa
người với người.
Trên đây là những điều kiện, tiền đề kinh tế xã
hội khách quan cho sự ra đời của chủ nghĩa xã
hội khoa học, hay nói một cách khác đây là
những cơ sở kinh tế xã hội cho sự chuyển biến
của CNXH từ 0 tưởng thành khoa học; CNXH
KH đã thay thế cho các trào lưu XHCN KT đã tỏ
ra lỗi thời, 0 có khả năng đáp ứng những yêu cầu
chính trị cấp bách của giai cấp công nhân. Các cơ
sở kinh tế và cơ cấu xã hội TBCN là mảnh đất
hiện thực cho CNXH KH hình thành, song sự
chuyển biến của CNXH từ KT đến KH còn cần
có những tiền đề cần thiết khác về tư tưởng-văn
hóa.
Vào đầu thế kỷ 19, những thành tựu to lớn trong
khoa học tự nhiên (đặc biệt là, Định luật bảo toàn
và chuyển hóa năng lượng, Học thuyết về tế bào
và Thuyết tiến hóa của Đác uyn) đã có tác động
trực tiếp vào sự quá trình chinh phục tự nhiên,
phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội. Đồng thời
trong lĩnh vực khoa học XH, thời kỳ này cũng
chứng kiến sự hình thành những thành quả khoa
học có ý nghĩa lịch sử như nền triết học cổ điển
Đức (Hêghen, Phoiơbách), nền kinh tế chính trị
học cổ điển Anh (Adam Smith và David
Recardo) và các học thuyết XHCN KT phê phán
tiêu (biểu là Hăngriddow, Xanh Ximông, Saclơ
Phuriêvà Robert Owen. Nhìn chung những cống
hiến của các nhà tư tưởng tiêu biểu nói trên trong
triết học, kinh tế học, CNXH KH đã góp phần quí
báu vào kho tàng lịch sử tư tưởng của nhân loại.
Ngoài những hạn chế, khiếm khuyết do điều kiện
khách quan 0 thể tránh khỏi của lịch sử, những di
sản trí tuệ của họ có ý nghĩa vô cùng to lớn, và
được những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác
xem đó là những điều kiện khách quan mang tính
tiền đề tư tưởng cho học thuyết của mình. Chính
Angels đã thừa nhận Xanhximông, Saclơ Phuriê
và Robert Owen thuộc về những trí tuệ vĩ đại
nhất, và chính họ đã tiên đoán được một cách
thiên tài vô số những chân lý mà ngày nay chúng
ta đang chứng minh tính đúng đắn của chúng một
cách khoa học.
- Tiền đề chủ quan:
- Tuy các tiền đề về tư tưởng -văn hóa và cơ sở
kinh tế, cấu trúc xã hội có thuận lợi đến mấy, có
tác động ảnh hưởng lớn đến đâu thì sự hình thành
của CNXH KH hay sự chuyển biến của CNXH từ
KT thành KH cũng 0 bao giờ xảy ra nếu 0 có
những thiên tài vĩ đại của lịch sử như C. Mác, Ph.
Ăngghen và V.I. Lênin. Có thể khẳng định mà 0
nghi ngờ gì là, C. Mác, Ph. Ăngghen và
V.I.Lênin là những người sáng lập và phát triển
CNXH KH.
- Từ lập trường nhân đạo chuyển sang lập
trường cộng sản…
- Từ thế giới duy tâm chuyển sang duy vật, để giải
thích đươc là 1 quá trình nhận thức từ chưa hoàn thiện
đến hoàn thiện…Trước khi trở thành người cộng sản,
M – E là những người có tinh thần dân chủ CM, trước
khi là nhà duy vật 2 ông là nhà duy tâm chủ nghĩa.
- Sự ra đời của CNXH KH là kết quả của quá trình hoạt
động lý luận của khoa học tự nhiên và XH, gắn liền với
hoạt động thực tiễn nc các phong trào đấu tranh của
XH phương Tây thời bấy giờ như Công xã Pari, Công
nhân Anh…. Mác đã vận dụng và phát triển thành công
những quan điểm duy vật và phương pháp biện chứng
từ nền triết học cổ Hy Lạp đến nền triết học cổ điển
đức, nhờ vậy đã phát hiện ra các quy luật vận động của
lịch sử, trước hết là quy luật về sự chuyển biến của các
hình thái kinh tế xã hội và sự kế tiếp nhau giữa các
hình thái này và 2 ông đã sáng lập ra Chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Tiếp theo đó Mác đã vận dụng những quan
điểm duy vật về lịch sử và những yếu tố hợp lý của nền
kinh tế học cổ điển Anh vào nghiên cứu phương thức
sản xuất TBCN một cách toàn diện và mang tính phê
phán triệt để, sáng lập ra Học thuyết về giá trị thặng
dư. Chính hai phát kiến vĩ đại ấy, quan niệm duy vật về
lịch sử và dùng giá trị thặng dư để bóc trần bí mật của
sản xuất TBCN, đã khiến cho CNXH trở thành khoa
học. Sự ra đời của Tuyên ngôn ĐCS với sự bắt đầu từ
luận điểm “từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, lịch
sử tất cả các XH tồn tại từ trước đến nay chỉ là lịch sử
đấu tranh giai cấp,” sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân đã được phát hiện và thừa nhận. Đó là sứ mệnh tự
giải phóng mình và giải phóng cho toàn xã hội thoát
khỏi tình trạng phân chia thành giai cấp, áp bức, bóc lột
giai cấp và đấu tranh giai cấp thông qua cuộc cách
mạng xã hội (CMVS). Tuyên ngôn ĐCS được thừa
nhận là cương lĩnh chính trị đầu tiên của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Kể từ đây CNXH 0 còn
bị xem là một phát hiện ngẫu nhiên của một khối óc
“kiệt xuất”, nhiệm vụ của nó cũng 0 phải “nặn” ra từ
đầu óc một chế độ “toàn mỹ” mà là ở chỗ phải nghiên
cứu quá trình kinh tế, lịch sử đã sản sinh ra giai cấp tư
sản và công nhân cũng như mâu thuẫn 0 thể điều hòa
giữa hai giai cấp này. Với tư cách là một hệ thống lý
luận khoa học, CNXH KH 0 phải chỉ có nhiệm vụ dự
kiến những mục tiêu lý tưởng mà còn là ở chỗ tạo ra
được những điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để
giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình.
Từ đó, ta có thể thấy: Trong quá trình để hoàn thiện
học thuyết, có những lúc, những quan điểm phù hợp
với điều kiện này nhưng 0 phù hợp với điều kiện khác.
Do đó, nc CN M nói riêng và CN M – L nói chung thì
phải nc cụ thể, đồng thời phải đặt nó trong 1 chỉnh thể.
* Sức sống của CNXH KH:
- Nó ra đời trên cs kế thừa những tư tưởng của nhân
loại…
- Đó là sự vận dụng vào điều kiện của các nước (vận
dụng ở nước ta 1954 – 1975; 1975 – 1986; 1986 – nay).
- Trong quá trình ra đời, ttại và phát triển CNXHKH
phải đấu tranh loại bỏ những “tạp chất”. Tức là nó đấu
tranh để từ chối với những quan điểm 0 còn phù hợp
với điều kiện lịch sử, đồng thời bổ sung những quan
điểm mới…