30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng - Luận cương chính trị tháng 10/1930
1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
Báo cáo bài tập nhóm
Nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử Cương Lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng – Điểm khác của Luận cương chính trị tháng 10/1930 so với
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Sinh Viên thực hiện:
Ngô Tuấn Hưng
20207608
Nguyễn Hữu Vinh
20207641
Nguyễn Quang Tiệp
20207634
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Hoàng Thị Lan
Bộ môn: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Nhóm thực hiện: N. 23
HÀ NỘI, 4/2022
Chữ ký của GVHD
2. MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. Nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng .........................................................................................................................1
1.1 Sơ lược về Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
(2-1930)...........................................................................................................................1
1.2 Nội dung cơ bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng............................2
1.3 Ý nghĩa lịch sử Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng..............................3
CHƯƠNG 2. Luận cương chính trị tháng 10/1930 và điểm khác biệt giữa
Luận cương so với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ..............................4
2.1 Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10/1930....4
2.2 Điểm khác biệt giữa Luận cương chính trị tháng 10/1930 so với Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng....................................................................................6
2.2.1 So sánh tổng quan .............................................................................6
2.2.2 Điểm giống.........................................................................................7
2.2.3 Điểm khác ..........................................................................................7
2.2.4 Điểm khác biệt cần chú ý .................................................................9
CHƯƠNG 3. KẾT LUẬN.........................................................................................10
3.1 Tại sao nói “Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là đúng đắn, sáng
tạo, khoa học, tiến bộ, nhân văn” ...............................................................................10
3.2 Kết luận về Luận cương chính trị tháng 10/1930........................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................13
PHỤ LỤC .....................................................................................................................14
3. 1
CHƯƠNG 1. Nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng
1.1 Sơ lược về Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
(2-1930)
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được đề ra tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức
cộng sản trong nước có ý nghĩa như Đại hội để thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Quốc tế Cộng sản triệu tập
và chủ trì, cùng với sự tham dự chính thức của hai đại biểu Đông Dương Cộng
sản Đảng (6-1929); hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (10-1929) và một
số đồng chí Việt Nam hoạt động ngoài nước. Hội nghị họp bí mật ở nhiều địa
điểm khác nhau trên bán đảo Cửu Long (Hương Cảng), từ ngày 6-1 đến ngày 7
tháng 2 năm 1930, đã thảo luận quyết định thành lập Đảng cộng sản Việt Nam và
nhất trí thông qua 7 tài liệu, văn kiện, trong đó có 4 văn bản: Chính cương vắn tắt
của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ
vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam hợp thành nội dung Cương lĩnh chính trị
của Đảng. Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo
dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) của
Quốc tế Cộng sản; nghiên cứu các Cương lĩnh chính trị của những tổ chức cộng
sản trong nước, tình hình cách mạng thế giới và Đông Dương. Dù là vắn tắt, tóm
tắt, song nội dung các tài liệu, văn kiện chủ yếu của Hội nghị được sắp xếp theo
một lôgic hợp lý của một Cương lĩnh chính trị của Đảng.
Chánh cương phân tích, đánh giá khái quát những đặc điểm quan trọng nhất của
kinh tế công nghiệp, nông nghiệp của nước Việt Nam thuộc địa; tính chất độc
quyền khai thác thuộc địa của thực dân Pháp với những hậu quả tiêu cực cản trở
sự phát triển độc lập về kinh tế của Việt Nam. Chánh cương xác định rõ phương
hướng phát triển của cách mạng Việt Nam là tiến lên chủ nghĩa cộng sản mà giai
đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Về phương pháp cách mạng, về kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại.
Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn và sáng tạo nên từ khi ra đời Đảng đã trở
thành lực lượng lãnh đạo, tập hợp xung quanh mình toàn thể dân tộc theo con
đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Vì vậy, Người đã khẳng
định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân
dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng
to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì
hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của
giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”. Dưới ánh sáng soi
đường của Cương lĩnh Đảng đã dẫn dắt toàn dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thác
nghềnh. Cho đến nay, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn giữ nguyên giá
trị, vẫn là ngọn cờ dẫn lối cho cách mạng Việt Nam tiến bước trên con đường mà
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn.
4. 2
1.2 Nội dung cơ bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt và Chương trình tóm tắt do Nguyễn ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp
thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta - Cương lĩnh Hồ Chí Minh. Nội
dung cơ bản như sau:
1. Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản".
2. Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng:
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến,
làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ
công nông binh và tổ chức quân đội công nông.
Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc
giao cho Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn
đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công
nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành
luật ngày làm tám giờ.
Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình
quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá.
Về lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận
giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu
tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với
phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập
hiến) thì phải đánh đổ.
3. Sách lược của Đảng nêu rõ: Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân
thông qua Đảng Cộng sản. "Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp
phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng". Cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới, "liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần
chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp".
4. Toàn bộ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách
mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đi tới cách mạng xã hội chủ
nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp đó là của
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – Đảng Mác –
Lênin.
5. 3
1.3 Ý nghĩa lịch sử Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và
sáng tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử,
nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm nhuần tinh thần dân tộc.
- Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để giành
chính quyền về tay chân dân đi tới xã hội cộng sản, độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
- Nội dung Cương lĩnh vẫn còn một vài vấn đề về sau không hoàn toàn phù
hợp với thực tế Việt Nam hoặc có một số từ ngữ có thể dẫn tới sự giải
thích khác nhau, song với sự bổ sung của Luận cương Chính trị được
thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành trung ương Đảng,
Cương lĩnh chính trị của Đảng đã được hoàn thiện hơn.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư
sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và
chống kiến, thực hiện dân tộc lập, người cày ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù
hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ra là nông dân. Vì
vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn xung
quanh giai cấp mình, còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị
phá sản hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta – Đảng của
giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tăng cường.
6. 4
CHƯƠNG 2. Luận cương chính trị tháng 10/1930 và điểm khác biệt giữa
Luận cương so với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
2.1 Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10/1930
Sau Hội nghị thành lập Đảng, cương lĩnh và điều lệ của Đảng được bí mật
đưa vào quần chúng. Phong trào cách mạng phát triển mạnh và tiến dần lên cao
trào. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng vừa thành lập đã bước ngay
vào một cuộc thử thách toàn diện trên cương vị đội tiên phong lãnh đạo cuộc đấu
tranh mới của dân tộc. Tháng 4-1930, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương
Đông của Quốc tế cộng sản ở Mátxcơva (Liên Xô), Trần Phú về nước hoạt động.
Tháng 7-1930, Trần Phú được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời
của Đảng và được phân công cùng Ban Thường vụ chuẩn bị cho Hội nghị thứ
nhất của Ban Chấp hành Trung ương. Giữa lúc đó một số uỷ viên Trung ương
lâm thời của Đảng bị địch bắt. Một số uỷ viên mới được bổ sung.
Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930 Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần
thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì đã quyết định đổi tên
Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Nghị
quyết "Về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng" và
Điều lệ Đảng; thảo luận bản Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông
Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng). Ban Chấp hành Trung ương mới của
Đảng được thành lập gồm 6 uỷ viên, trong đó Ban Thường vụ có: Trần Phú, Ngô
Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã, do Trần Phú làm Tổng Bí thư. Hội nghị còn thông
qua các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ…
Ban Chấp hành Trung ương nhận định Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
đầu năm 1930 do Nguyễn ái Quốc chủ trì đã lập đảng với tên gọi là Việt Nam
cộng sản Đảng chưa bao gồm được Cao Miên và Lào. Ban Chấp hành Trung
ương quyết định "bỏ tên Việt Nam cộng sản Đảng mà lấy tên Đông Dương cộng
sản Đảng".
Hội nghị đánh giá Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng do Hội
nghị hợp nhất thông qua đã "chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp
tranh đấu", Ban Chấp hành Trung ương quyết định phải dựa vào nghị quyết của
Quốc tế Cộng sản để hoạch định cương lĩnh, chính sách và kế hoạch của Đảng
mà chỉnh đốn nội bộ, làm cho Đảng bônsêvích hoá. Hội nghị đã thảo luận Dự án
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương. Luận cương xác định:
Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao
Miên là "một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên
thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa"* .
Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất
của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc "cách mạng tư sản dân
quyền", "có tính chất thổ địa và phản đế". "Tư sản dân quyền cách mạng
7. 5
là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng". Sau khi cách mạng tư sản dân
quyền thắng lợi sẽ tiếp tục "phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu
thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa".
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải "tranh đấu để
đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư
bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để" và "đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập". Hai nhiệm vụ
chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau: "có đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được
thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc
chủ nghĩa". Luận cương nhấn mạnh: "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách
mạng tư sản dân quyền", là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
Về lực lượng cách mạng, Luận cương xác định giai cấp vô sản và nông
dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai
cấp vô sản là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng,
nông dân có số lượng đông đảo nhất, là một động lực mạnh của cách
mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác ngoài công nông như tư sản
thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản
công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát
triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ
công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì không tán
thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia chủ nghĩa
và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kỳ đầu. Chỉ có
các phần tử lao khổ ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ công
nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.
Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương nhấn mạnh "Điều kiện cốt yếu cho
sự thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng cộng
sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc
với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên
phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà
đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông
Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được
mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản".
Về phương pháp cách mạng, Luận cương khẳng định để đạt được mục tiêu
cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính
quyền về tay công nông thì phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con
đường "võ trang bạo động". Vì vậy, lúc thường thì phải tuỳ theo tình hình
mà đặt khẩu hiệu "phần ít", "phải lấy những sự chủ yếu hàng ngày làm
bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng".
Đến lúc có tình thế cách mạng "Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để
đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công
nông". Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, "phải
tuân theo khuôn phép nhà binh".
8. 6
2.2 Điểm khác biệt giữa Luận cương chính trị tháng 10/1930 so với Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
2.2.1 So sánh tổng quan
9. 7
2.2.2 Điểm giống
Cả hai văn kiện có các điểm tương đồng về đường lối chiến
lược, nhiệm vụ cách mạng, lực lượng cách mạng, lãnh đạo, hay việc chỉ rõ
mối quan hệ với cách mạng thế giới.
2.2.3 Điểm khác
2.2.3.1. Tính chất xã hội
Cương lĩnh chính trị đầu tiên: xã hội Việt Nam là xã hội thuộc
địa nửa phong kiến, bao gồm 2 mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm lược và mâu
thuẫn giữa nhân dân lao động (chủ yếu là nông dân) với địa chủ
phong kiến, trong đó, mâu thuẫn cơ bản nhất, gay gắt nhất là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và bọn tay
sai.
Luận cương chính trị 10/1930: Xã hội Đông Dương gồm 2 mâu
thuẫn dân tộc và giai cấp, trong đó mâu thuẫn giai cấp là cơ bản
nhất
2.2.3.2. Tính chất cách mạng
Cương lĩnh chính trị đầu tiên: cách mạng trải qua 2 giai đoạn:
cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa để tiến lên chũ
nghĩa cộng sản. Hai giai đoạn kế tiếp nhau, không bức tường nào
ngăn cách.
Luận cương chính trị 10/1930: cách mạng Đông Dương lúc đầu
là cách mạng tư sản dân quyền, sau khi thắng lợi tiến thẳng lên
10. 8
XHCN không qua giai đoạn phát triển TBCN. Hoàn thành thắng lợi
của giai đoạn này mới làm tiếp giai đoạn khác.
2.2.3.3. Kẻ thù cách mạng
Cương lĩnh chính trị đầu tiên: Đế quốc Pháp, vua quan phong
kiến và tư sản phản cách mạng. Cương lĩnh đã xác định rõ kẻ thù
không phải toàn bộ là phong kiến và tư sản
Luận cương chính trị 10/1930: Đế quốc và phong kiến, luận
cương không phân biệt rõ trong hàng ngũ giai cấp phong kiến còn
có bộ phận tiến bộ, Luận cương cũng không đề cập đến bộ phận tư
sản mại bản.
2.2.3.4. Nhiệm vụ cách mạng
Cương lĩnh chính trị đầu tiên: Đánh đổ đế quốc Pháp, bọn
phong kiến và tư sản phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam độc
lập. Dựng lên chính phủ công nông binh, tổ chức ra quân đội công
nông, tịch thu hết sản nghiệp của đế quốc, tịch thu ruộng đất, …
chia cho dân nghèo, tiến hành cải cách ruộng đất.
Luận cương chính trị 10/1930: Đánh đổ thế lực phong kiến,
đánh đổ ách áp bức bóc lột tư bản, thực hành cách mạng thổ địa và
đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
2.2.3.5. Vai trò lãnh đạo
Cương lĩnh chính trị đầu tiên: Giai cấp công nhân thông qua
đội tiên phong là Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Luận cương chính trị 10/1930: giai cấp vô sản với đội tiên
phong là Đảng Cộng sản Đông Dương
2.2.3.6. Lực lượng cách mạng
Cương lĩnh chính trị đầu tiên: Giai cấp công nhân, nông dân là
động lực là gốc của cách mạng cần phải liên minh với giai cấp tiểu
tư sản, tư sản dân tộc, trung và tiểu địa chủ.
Luận cương chính trị 10/1930: Chỉ gồm công nhân và nông
dân, không đề cập tới các giai cấp khác.
11. 9
2.2.4 Điểm khác biệt cần chú ý
a) Điểm khác đầu tiên
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên chỉ rõ Cách mạng Việt Nam chỉ
thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc để giải phóng, giành độc lập dân tộc. Còn
trong Luận cương lại bao gồm cả nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
kiến.
b) Điểm khác thứ hai
Trong Cương lĩnh, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được nhấn mạnh, là
nhiệm vụ hàng đầu còn Luận cương lại đề cao hơn, nhấn mạnh hơn nhiệm
vụ chống phong kiến Điểm hạn chế của Luận cương tháng
10/1930 vì Luận cương đã đưa vấn đề chống phong kiến và vấn đề giải quyết
các mâu thuẫn trong xã hội đặt cao hơn nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
c) Điểm khác thứ ba
Cương lĩnh đã chỉ ra rất đông đảo các lực lượng trong xã hội sẽ tham
gia vào Cách mạng Việt Nam còn Luận cương thì chỉ ra lực lương cho cách
mạng chỉ bao gồm công nhân và nông dân Điểm hạn chế thứ
hai của Luận cương là hạn chế về lực lượng tham gia.
12. 10
CHƯƠNG 3. KẾT LUẬN
3.1 Tại sao nói “Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là đúng đắn, sáng
tạo, khoa học, tiến bộ, nhân văn”
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng
tạo theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm
giai cấp và thấm nhuần tinh thần dân tộc, tuy vẫn còn một vài vấn đề về sau
không hoàn toàn phù hợp với thực tế nhưng Cương lĩnh đã giải quyết được cơ
bản nhất những vấn đề, nhiệm vụ Cách mạng Việt Nam mà tư tưởng tự do, độc
lập là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh.
Tính cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên đó được thể hiện
qua những nội dung sau:
1. Cương lĩnh vạch rõ tính chất của cách mạng Việt Nam là phải trải qua
hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền (về sau gọi là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân) và cách mạng xã hội chủ nghĩa (“làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”).
Như vậy, ngay từ đầu, Đảng ta đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách
mạng Việt Nam là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Cương lĩnh đề ra nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta:
đánh đổ đế quốc Pháp, vua quan phong kiến và tư sản phản cách mạng. Mục tiêu:
+ Làm cho nước Việt Nam độc lập.
+ Dựng lên chính phủ công nông binh.
+ Tổ chức ra quân đội công nông.
+ Tịch thu sản nghiệp lớn của bọn đế quốc và ruộng đất của bọn đế
quốc, bọn phản cách mạng đem chia cho dân cày nghèo, chuẩn bị
cách mạng thổ địa.
Như vậy, Cương lĩnh bao gồm nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và
chống phong kiến nhưng nổi bật là chống đế quốc và tay sai phản động, giành
độc lập tự do cho toàn thể dân tộc.
Lực lượng cách mạng chủ yếu là công nông, đồng thời phải lôi kéo tiểu tư sản, trí
thức, trung nông về phe giai cấp vô sản, còn phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản
Việt Nam chưa lộ rõ bộ mặt phản động thì phải lợi dụng và làm cho họ trung lập.
13. 11
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ tối đa lực lượng cách mạng, cô lập tối đa
lực lượng kẻ thù. Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất dước sự lãnh đạo của
đảng, trên cơ sở công -nông-trí liên minh
3. Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
- Đảng phải lấy chủ nghĩa Marx Lenin làm nền tảng tư tưởng.
- Đảng phải có trách nhiệm phục vụ đại bộ phận giai cấp công nhân, làm
cho giai cấp mình lãnh đạo được quần chúng. Phải thu phục đại đa số dân
cày, dựa vững vào dân cày. Đồng thời phải liên minh với các giai cấp và
tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết, tổ chức họp đấu tranh chống đế quốc và
phong kiến.
4. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng còn coi cách mạng nước ta là một bộ
phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng về phía mặt trận cách mạng gồm các
dân tộc thuộc địa bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới.
Như vậy, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là cương lĩnh cách mạng giải
phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm
đượm tính dân tộc và tính nhân văn với tư tưởng cốt lõi là Độc lập – Tự do cho
dân tộc.
Nội dung con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là con đường cách
mạng vô sản, do giai cấp công nhân lãnh đạo, lực lượng nòng cốt là công – nông,
đồng thời phải đoàn kết với tiểu tư sản, trí thức, trung, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc
và phú nông, dùng bạo lực cách mạng.
3.2 Kết luận về Luận cương chính trị tháng 10/1930
Luận cương đã bộc lộ những yếu điểm, hạn chế khi so với Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng và đã được Đảng tiếp tục tiếp thu và chỉnh sửa, hoàn
thiện trong đường lối chỉ đạo Cách mạng Việt Nam thông qua các hội nghị sau
này như hội nghị tháng 7/1936, hội nghị tháng 11/1939 và đặc biệt là hội nghị
tháng 5/1941 dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc và hội nghị đã cơ bản khắc
phục được những hạn chế của Luận cương tháng 10/1930 và đưa cách mạng đến
thành công.