Một Số Giải Pháp Mở Rộng Hoạt Động Thanh Toán Tín Dụng Chứng Từ Tại Ngân Hàng...
Hong ha tongquan
1. CHƯƠNG 1: Tổng quan về thanh toán không dùng tiền mặt
1. Khái niệm, đặc điểm và những quy định chung
1.1 Khái niệm và ý nghĩa
Thanh toán không dùng tiền mặt là cách thức thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ không có
sự xuất hiện của tiền mặt mà được tiến hành bằng cách trích tiền từ tài khoản của người
chi trả chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông
qua vai trò trung gian của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức sử dụng công cụ tiền tệ tiến bộ nhất nó tạo
ra tiền đề để áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mang lại những lợi ích kinh tế to
lớn. Thanh toán không dùng tiền mặt ra đời và phát triển trên cơ sở của nền kinh tế thị
trường. Song chính nó lại trở thành nhân tố thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển, do
đó nó vừa được coi là “đứa con” sinh ra của kinh tế thị trường lại được xem như “bà đỡ”
của nền kinh tế hàng hoá, nó góp phần đẩy nhanh tốc độ quá trình tái sản xuất xã hội, nó
là khâu đầu và cũng là khâu kết thúc của quá trình sản xuất, nó liên quan đến toàn bộ quá
trình lưu thông hàng hoá, tiền tệ của các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội.
+ Đối với khách hàng: Khi giao dịch với ngân hàng để thanh toán họ phải mở tài khoản
tiền gửi tại ngân hàng. Tiền này có thể sử dụng bất cứ lúc nào và nó có tính thanh khoản
gần như 100%. Quá trình thanh toán này nhanh hơn tiền mặt và giảm được rất nhiều chi
phí liên quan đến quá trình vận chuyển, kiểm đếm tiền mặt mà họ phải chịu. Giảm thiểu
các rủi ro như trộm cắp, hỏa hoạn. Ngoài ra khi khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng
và duy trì số tiền gửi , họ còn được hưởng những lợi ích khác như được trả lãi, được cung
cấp dịch vụ ngân hàng với nhiều ưu đãi…
+ Đối với ngân hàng: Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện cho Ngân hàng tập
chung tăng cường ngồn vốn để đầu tư đúng chỗ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế.
Qua hình thức thanh toán không dùng tiền mặt sẽ tập trung được khoản thanh toán của
khách hàng mở tài khoản ở các Ngân hàng, muốn thanh toán được thì trên tài khoản phải
có số dư, điều này đã tạo ra một nguồn vốn nhàn rỗi và tập trung vào ngân hàn. Càng
nhiều khách hàng tham gia vào hoạt động thanh toán này thì số vốn càng lớn và bằng
kênh tín dụng riêng của mình ngân hàng có thể đầu tư khi nền kinh tế kêu gọi vốn phát
triển.
+ Đối với nền kinh tế: Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện dễ dàng cho việc
kiểm soát lạm phát. Thông qua việc khống chế tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ tái chiết khấu...
ngân hàng Trung ương gián tiếp điều hoà khối lượng tiền tệ cung ứng góp phần bảo đảm
2. cho nền kinh tế ở một mức độ ổn định. Căn cứ vào việc thanh toán luân chuyển tiền tệ mà
hoạch định các chính sách cần thiết.
Với ý nghĩa to lớn đó, ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển người dân sử dụng
thanh toán không dùng tiền mặt như là một thói quen văn hoá không thể thiếu được.
Thanh toán không dùng tiền mặt tạo điều kiện giúp Ngân hàng trung ương dự đoán và
kiểm soát đồng tiền đối với nền kinh tế để sử dụng và phát huy các đòn bẩy kinh tế như
lãi suất, tỷ trọng tín dụng trung dài hạn, tỷ giá hối đoái… mà không cần phải dùng tới các
mệnh lệnh hành chính để kiểm soát và định hướng nền kinh tế. Thanh toán không dùng
tiền mặt có ý nghĩa quan trọng đến việc tiết kiệm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, từ
đó giảm bớt những phí tổn to lớn của xã hội có liên quan đến việc phát hành và lưu thông
tiền. Trước hết đó là tiết kiệm chi phí in tiền, sau đó là những chi phí cho việc kiểm đếm,
chuyên chở, bảo quản và huỷ bỏ tiền cũ, rách mà vấn đề bức xúc nhất hiện nay đó là việc
chuyên chở và bảo quản tiền mặt
1.2 Đặc điểm của TTKDTM
Sự ra đời của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt gắn liền với sự ra đời của đồng
tiền ghi sổ và sự phát triển của nó gắn liền với sự phát t riển của hệ thống ngân hàng. Sự
tồn tại và lớn mạnh của hệ thống này đã tạo điều kiện cho cá nhân và các tổ chức kinh tế
mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và thực hiện việc thanh toán thông 2 qua việc chuyển
khoản trong hệ thống ngân hàng. thanh toán không dùng tiền mặt là một hình thức vận
động tiền tệ mà ở đây tiền vừa là công cụ để kế toán, vừa là công cụ để chuyển hóa hình
thức giá trị của hàng hóa và dịch vụ. Nó có một số đặc điểm sau:
+ Trong thanh toán không dùng tiền mặt sự vận động của tiền tệ độc lập với sự vận động
của hàng hóa cả về thời gian lẫn không gian và thường không có sự ăn khớp nhau. Đây là
đặc điểm quan trọng và nổi bật nhất của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
+ Trong thanh toán không dùng tiền mặt, vật trung gian trao đổi không xuất hiện như
trong hình thức thanh toán dùng tiền mặt theo kiểu H-T-H mà chỉ xuất hiện dưới dạng
tiền kế toán hay tiền ghi sổ và được ghi chép trên các chứng từ sổ sách kế toán. đây là đặc
điểm riêng của thanh toán không dùng tiền mặt.
+ Trong thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng vừa là người tổ chức vừa là người
thực hiện các khoản thanh toán. Chỉ có ngân hàng, người quản lý tài khoản tiền gửi của
các khách hàng mới được quyền trích chuyển những tài khoản này theo các nguyên tắc
chuyên môn đặc thù như là một nghiệp vụ riêng của mình.
3. Với nghiệp vụ này, ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán đối với các khách hàng của
mình. Với những đặc điểm nêu trên, thanh toán không dùng tiền mặt nếu được tổ chức và
thực hiện tốt sẽ phát huy được tác dụng tích cực của nó. Trong tương lai, theo đà phát
triển của xã hội và theo nhu cầu của thị trường, thanh toán không dùng tiền mặt sẽ giữ
một vị trí cực kỳ quan trọng trong việc lưu chuyển tiền tệ và trong thanh toán giá trị của
nền kinh tế.
1.3 Nguyên tắc chung.
Muốn thanh toán qua ngân hàng, khách hàng phải chấp hành đúng quy định của ngân
hàng nhà nước về thanh toán qua ngân hàng cũng như những hướng dẫn cụ thể của
từng ngân hàng. Dù là khách hảng của ngân hàng nào khi muốn thanh toán qua ngân
hàng cũng phải tuân thủ theo những nguyên tắc sau:
+Phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, trên tài khoản phải có số dư để đáp ứng
nhu cầu thanh toán. Chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm về việc chi trả vượt quá số
dư 3 trên tài khoản và chịu phạt theo tỷ lệ TTKDTM (trừ trường hợp đã có thỏa thuận
thấu chi với ngân hàng ), chịu trách nhiệm trên những sai sót, lợi dụng trên những
giấy tờ thanh toán của những người được chủ tài khoản ủy quyền ký thay.
+Khi thực hiện thanh toán qua ngân hàng, chủ tài khoản phải chấp hành những quy
định và hướng dẫn của ngân hàng về việc lập những giấy tờ thanh toán, phương thức
nộp, lĩnh tiền ở ngân hàng . trên các giấy tờ thanh toán duấ và chữ ký phải đúng mẫu
đã đăng ký tại ngân hàng.
+Chủ tài khoản phải tự theo dõi tài số dư tiền gửi tại ngân hàng, nếu số liệu của ngân
hàng và sổ sách của mình có sự chênh lệch thì phải báo ngay cho ngân hàng biết để
cùng nhau đối chiếu, điều chỉnh số liệu cho khớp đúng.
+Ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ thanh toán của khách hàng, số dư
trên tài khoản và chi trả kịp thời theo yêu cầu của khách hàng, mọi sai sót do chủ quan
của ngân hàng làm thiệt hại đến khách hàng đều phải bồi thường theo quy định.
1.4 Các văn bản luật có liên quan
Để công tác thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng hoàn thiện hơn, Chính phủ và
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không ngừng nghiên cứu và đưa ra các văn bẩn có tính
pháp lý, tạo hành lang pháp lý khác vững trãi cho các hình thức thanh toán KDTM phát
huy tác dụng. Hệ thống các văn bản pháp quy đó bao gồm:
-Luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng ban hành năm 1997, trong đó có đề cập đến vấn
đề thanh toán qua ngân hàng.
4. -Quyết định 371/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN ban hành ngày 19/10/1999 về quy chế
phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng.
-Nghị định 64//2001/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 20/09/2001 về hoạt động
thanh toán qua tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
-Quyết định 226/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 2603/2002 về
việc ban hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
-Quyết định 235/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 01/04//2002 về
việc chấm dứt phát hành Ngân hàng phiếu thanh toán.
-Quyết định 1092/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 08/10/2002-
QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 08/10/2002 quy định thủ tục thanh
toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
-Luật các công cụ chuyển nhượng của nước CHXHCN Việt Nam – ngày 29/11/2005.
-Quyết định 30/2006/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 11/07/2006 về
Quy chế cung ứng và sử dụng Séc.
2. Phương tiện và phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
2.1 Các phương tiện TTKDTM
2.1.1 Séc :
Séc là môt tờ lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu đã quy định sẵn, yêu
cầu ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người
thụ hưởng có tên trên tờ séc hay người cầm tờ séc đó.
Séc là loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên thế giới,
quy định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên Công ước quốc tế. Séc được sử dụng để
thanh toán tiền hàng, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ… hoặc được dùng để rút tiền mặt tại
các chi nhánh ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng đều có
quyền sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn hiệu lực của séc, tùy theo quy định trước,
thường là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người thụ hưởng
nộp séc vào ngân hàng (gồm cả ngày chủ nhật và ngày lễ).
2.1.2 Ủy nhiệm chi ( UNC ) :
Trong các phương tiện thanh toán không dùng tiền măt hiện nay tại Việt Nam, có thể
nói UNC là phương tiện thanh toán được sử dụng phổ biến nhất vì đơn giản về thủ
5. tục, có phạm vi thanh toán rộng. khi có nhu cầu thanh toán chủ tài khoản ( công ty
hoặc cá nhân) lập lệnh theo mẫu của ngân hàng- nơi quản lý tài khoản và gửi tới ngân
hàng. Ngay khi nhận được lệnh, ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của
UNC, số dư tài khoản và sẽ thực hiện trong thời gian không quá một ngày làm việc kể
từ thời điểm nhận được lệnh chi hay UNC do khách hàng gửi đến.
Bên cạnh những ưu điểm thì UNC vẫn còn có thể gây thiệt hại cho bên bán một khi
bên mua thiếu thiện chí thanh toán, bên mua có thể lập UNC đưa đến cho ngân hàng
nhưng sau đó lại yêu cầu hủy ngay, khi mà ngân hàng chưa kịp xử lý lệnh và cũng có
thể gây thiệt hại cho bên mua trong trường hợp đã thanh toán tiền nhưng chất lượng
hàng nhận không như mong đợi. trong các trường hợp này ngân hàng chỉ cung cấp
dịch vụ theo đúng nghĩa của nó.
2.1.3 Ủy nhiệm thu hoặc nhờ thu ( UNT ) :
Nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu sau khi giao hàng và
cung ứng dịch vụ cho người nhập khẩu thì uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu
hộ số tiền ở người nhập khẩu trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra.
Khi áp dụng phương thức thanh toán này các bên liên quan sẽ tuân theo qui tắc thống
nhất về nhờ thu chứng từ thương mại URC (Uniform Rule for Collection) do phòng
thương mại quốc tế ICC phát hành năm 1995.Theo URC 522 để tiến hành phương
thức thanh tóan nhờ thu bên bán phải lập chỉ thị nhờ thu ( Collection Instruction) gửi
cho ngân hàng uỷ thác. Các ngân hàng tham gia nghiệp vụ nhờ thu chỉ được thực hiện
theo đúng chỉ thị, với nội dung phù hợp qui định URC được dẫn chiếu. Chỉ thị nhờ
thu là văn bản pháp ly điều chỉnh quan hệ giữa Ngân hàng với bên nhờ thu
Các bên tham gia phương thức thanh toán:
- Người xuất khẩu (người uỷ nhiệm thu / Người hưởng lợi )
- Ngân hàng nhận uỷ nhiệm thu :là ngân hàng phục vụ người xuất khẩu
- Ngân hàng đại lý (ngân hàng thu tiền):là ngân hàng phục vụ bên mua
- Người nhập khẩu(người trả tiền / Bên mua)
2.1.4 Thư tín dụng(TTD):
TTD là hình thức thanh toán theo sự thoả thuận giữa hai bên bán và mua trong điều
kiện bên bán đòi hỏi bên mua phải có đủ tiền để chi trả phù hợp với giá trị hàng hoá
mà bên bán đã giao theo hợp đồng hay đơn đặt hàng đã ký.
6. TTD thường dùng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở hai ngân hàng
khác nhau, có thể cùng hoặc khác hệ thống ( trường hợp khác hệ thống thì nơi ngân
hàng bên bán đóng trụ sở phải có ngân hàng cùng hệ thống với ngân hàng mở TTD và
tham gia thanh toán bù trừ với ngân hàng bên bán). Mỗi TTD chỉ được dùng để thanh
toán cho một người thụ hưởng. Thời hạn hiệu lực của một TTD là 3 tháng kể từ ngày
ngân hàng bên mua nhận mở TTD. Mức tiền tối thiểu cuả một TTD là 10 triệu đồng.
2.1.5 Thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán cho khách
hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ hay lĩnh tiền
mặt tại các ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động.
Thẻ thanh toán có nhiều loại nhưng có một số loại thẻ sau được sử dụng phổ biến:
- Thẻ ghi Nợ: Người sử dụng loại thẻ này không phải lưu ký tiền vào tài khoản " Đảm
bảo thanh toán thẻ". Căn cứ để thanh toán thẻ là số dư tài khoản tiền gửi của chủ sở
hữu thẻ tại ngân hàng và hạn mức thanh toán tối đa do ngân hàng phát hành thẻ quy
định. Hạn mức của thẻ được ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện tử hoặc được ghi
vào dải băng từ nếu là thẻ từ. Loại thẻ này áp dụng cho những khách hàng có quan hệ
tốt, thường xuyên và có tín nhiệm với ngân hàng.
- Thẻ ký quỹ thanh toán(thẻ loại B) : là loại thẻ mà để được sử dụng thẻ, khách hàng
phải lưu ký một số tiền nhất định vào tài khoản " Đảm bảo thanh toán thẻ" thông qua
việc tính tiền gửi hoặc nộp tiền mặt. Số tiền ký quỹ là hạn mức của thẻ và được ghi
vào bộ nhớ của thẻ. Thẻ này áp dụng rộng rãi cho mọi khách hàng.
- Thẻ tín dụng (thẻ loại C): áp dụng với những khách hàng có đủ điều kiện được ngân
hàng đồng ý cho vay tiền để mua thẻ. Mức tiền cho vay được coi như hạn mức tín
dụng và được ghi vào bộ nhớ của thẻ, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong
phạm vi hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp thuận.
2.1.6 Dịch vụ ngân hàng điện tử :
Về nguyên tắc, thực chất của dịch vụ Ngân hàng điện tử là việc thiết lập một kênh
trao đổi thông tin tài chính giữa khách hàng và Ngân hàng nhằm phục vụ nhu cầu sử
dụng dịch vụ Ngân hàng của khách hàng một cách thực sự nhanhchóng, an toàn và
thuận tiện. Hiện nay dịch vụ Ngân hàng được các Ngân hàng thương mại Việt Nam
cung cấp qua các kênh chính sau đây: Ngân hàng trên mạng Internet (Internet-banking),
Ngân hàng tại nhà (Home-banking), Ngân hàng tự động qua điện thoại
(Phonebanking);Ngân hàng qua mạng thông tin di động (Mobile-banking)…
7. Ngân hàng trên mạng Internet (Internet-banking)
Internet-banking là dịch vụ cung cấp tự động các thông tin sản phẩm và dịch vụ NH
thông qua đường truyền Internet. Đây là một kênh phân phối rộng các sản phẩm và
dịch vụ NH tới khách hàng ở bất cứ nơi đâu và bất cứ thời gian nào. Với máy tính kết
nối Internet, khách hàng có thể truy cập vào website của NH để được cung cấp các
thông tin, hướng dẫn đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng. Các dịch vụ
Internet-banking cung cấp:xem số dư tài khoản tại thời điểm hiện tại, vấn tin lịch sử
giao dịch; xem thông tin tỷ giá; lãi suất tiền gửi tiết kiệm; thanh toán hóa đơn điện,
nước, điện thoại; khách hàng có thể gửi tất cả các thắc mắc, góp ý về sản phẩm, dịch
vụ của Ngân hàng và được giải quyết nhanh chóng.
Ngân hàng tại nhà (Home-banking):
Ứng dụng và phát triển Home-banking là một bước phát triển chiến lược của các
NHTM Việt Nam trước sức ép rất lớn của tiến trình hội nhập toàn cầu về dịch vụ NH.
Đứng về phía khách hàng, Home-banking đã mang lại những lợi ích thiết thực như
tiết kiệm chi phí, thời gian. Và khẩu hiệu “Dịch vụ Ngân hàng 24 giờ mỗi ngày, bảy
ngày mỗi tuần” chính là ưu thế lớn nhất mà mô hình Ngân hàng “hành chính” truyền
thống không thể nào sánh được.
Ngân hàng qua điện thoại (Phone-banking):
Phone-banking được cung cấp qua một hệ thống máy chủ và phần mềm quản lý đặt tại
NH, liên kết với khách hàng thông qua tổng đài của dịch vụ. Thông qua các phím
chức năng được khái niệm trước, khách hàng sẽ được phục vụ một cách tự động hoặc
thông qua nhân viên tổng đài. Khi đăng ký sử dụng dịch vụ Phone-banking, khách
hàng sẽ được cung cấp một mã khách hàng, hoặc mã tài khoản, tùy theo dịch vụ đăng
ký, khách hàng có thể sử dụng nhiều dịch vụ khác nhau.
Ngân hàng qua mạng di động (Mobile-banking):
Cùng với sự phát triển của mạng thông tin di động, các NHTM Việt Nam cũng đã
nhanh chóng ứng dụng những công nghệ mới này vào các dịch vụ NH. Về nguyên tắc,
thông tin bảo mật được mã hóa và trao đổi giữa trung tâm xử lý của NH và thiết bị di
động của khách hàng (điện thoại di động, Pocket PC, Palm…).
2.2 Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
2.2.1 Thanh toán bù trừ
8. Thanh toán bù trừ là thanh toán vốn giữa các tổ chức tín dụng, kho bạc Nhà nước
khác hệ thống nhưng cùng địa bàn thông qua tài khoản tại ngân hàng Nhà nước d đơn
vị ngân hàng Nhà nước đứng ra tổ chức và chủ trì thanh toán bù trừ.
2.2.2 Thanh toán điện tử liên ngân hang
Thanh toán điện tử liên ngân hàng là phương thức thanh toán điện tử sử dụng mạng
thanh toán CITAD do sở giao dịch NHNN Việt Nam làm chủ trì và các NHTM làm
thành viên. Thanh toán điện tử liên ngân hàng có hai hình thức là thanh toán điện tử
giá trị cao ( số tiền thanh toán từ 500 triệu trở lên ) và giá trị thấp ( số tiền thanh toán
dưới 500 triệu ).
2.2.3 Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng khác
Hình thức này áp dụng đối với các ngân hàng cùng hoặc khác hệ thống nhưng cùng
địa bàn và có quan hệ giao dịch thanh toán thường xuyên với nhau. Một ngân hàng có
tài khoản tiền gửi ở nhiều ngân hàng khác sẽ tạo điều kiện chuyển tiền thuận lợi và
nhanh chóng.
3. Thanh toán không dùng tiền mặt trên thế giới
Thanh toán không dùng tiền mặt là quan hệ chi trả tiền giữa khách nợ (Người mắc nợ) và
chủ nợ phát sinh từ một quan hệ mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ được thực
hiện bằng ủy nhiệm cho Ngân hàng gửi tài khoản của mình để thực hiện.
Đầu thế kỷ 20, khi tiền gắn liền với quá trình sản xuất và trao đổi, tiền tệ được xem là có
những chức năng: Thước đo giá trị trao đổi, phương tiện để lưu thông hàng hóa, phương
tiện cất trữ giá trị, phương tiện thanh toán và là phương tiện tiền tệ quốc tế.
Ngày nay, chức năng thanh toán của tiền đang phát triển với mô thức đa dạng, hiện đại và
ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất, lưu thông hànghóa và dịch vụ. Sự nhanh
chóng, tiện ích, an toàn, hiệu quả trong thanh toán sẽ đẩy nhanh việc tập trung và phân
phối các dòng vốn trong nền kinh tế xã hội, cung ứng vốn cho nền kinh tế phát triển.
Ngược lại, sự châm trễ ách tắc, không ân toàn trong thanh toán sẽ là biểu hiện của sự trì
trệ, kém phát triển của nền kinh tế. Đã đến lúc điều hành chính sách tài chính, tiền tệ phải
thông qua “màn hình thanh toán quốc gia” với những phương tiện, kỹ thuật công nghệ
thanh toán hiện đại để tập trung, phản ánh đầy đủ, nhanh chóng và thường xuyên nhất
mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội. Công việc đó chỉ có thể thực hiện một cách có hiệu
quả nhất khi đưa công nghệ thông tin nói chung, công nghệ thanh toán nói riêng vào vận
hành và tất yếu tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế sẽ phát triển,
hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong giao dịch, mua bán.
9. Thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ trung gian của Ngân hàng, ở các nước phát
triển thì dịch vụ thanh toán mang lại thu nhập chính cho Ngân hàng, và ở những nước này
nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt đã phá triển từ những năm 80 của thế kỷ XX,
cụ thể như sau :
Bảng 1 : Phần tiền mặt trong tồng thanh toán hằng năm (1988)
Như vậy, vào những năm từ những năm 1988 việc thanh toán bằng tiền mặt của mỗi
người dân là thấp, điều này chứng tỏ ngành Ngân hàng nói chung và việc cung cấp dịch
vụ thanh toán ở các nước này cực phát triển.
10. Thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ trung gian của Ngân hàng, ở các nước phát
triển thì dịch vụ thanh toán mang lại thu nhập chính cho Ngân hàng, và ở những nước này
nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt đã phá triển từ những năm 80 của thế kỷ XX,
cụ thể như sau :
Bảng 1 : Phần tiền mặt trong tồng thanh toán hằng năm (1988)
Như vậy, vào những năm từ những năm 1988 việc thanh toán bằng tiền mặt của mỗi
người dân là thấp, điều này chứng tỏ ngành Ngân hàng nói chung và việc cung cấp dịch
vụ thanh toán ở các nước này cực phát triển.