1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
CHỦ ĐỀ 2:
BLENDED –
LEARNING
NHÓM 16:
Đinh Bảo Châu : K37.103.024
Đào Ngọc Lam: K37.103.049
Đặng Thị Trúc Linh: K37.103.054
2. 1. Các mô hình triển khai e – Learning – mô hình học kết hợp có những ưu điểm gì để áp
dụng cho ngữ cảnh dạy và học ở Việt Nam:
Học kết hợp là một hình thức tổ chức dạy học hết sức linh hoạt, áp dụng những phương pháp
dạy học tiên tiến và sử dụng hiệu những tiện ích mà Công nghệ đem lại. Xét về mặt bản chất,
học kết hợp có những ưu điểm phù hợp với ngữ cảnh dạy và học ở Việt Nam như sau:
- Linh hoạt về không gian và thời gian diễn ra các hoạt động dạy và học sao cho phù hợp
với từng nội dung, khả năng tổ chức vì việc học vừa diễn ra trên lớp vừa diễn ra thông
qua mạng máy tính. Thời gian học được thay đổi cho phù hợp với khả năng của cá nhân
học sinh.
- Áp dụng phương pháp dạy học tiên tiến hiện nay, phù hợp với nội dung dạy, tương thích
với từng đối tượng học và khả năng học của học sinh
- Tối ưu hóa việc sử dụng phương tiện. Trong học kết hợp ngoài những phương tiện công
nghệ thông tin và truyền thông sử dụng để hỗ trợ trong dạy học truyền thống còn có sự
nâng cao và khai thác tối ưu những tiện ích từ các phương tiện hiện đại khác trong đó có
máy tính và Internet.
- Sự thay đổi phương pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm thay vì lấy giáo viên
làm trung tâm như trước đây sẽ làm tăng tính tương tác giữa học sinh và giáo viên, giữa
học sinh với học sinh, giữa học sinh với nội dung kiến thức, giữa học sinh với các nguồn
bên ngoài, làm học sinh trở nên năng động hơn.
- Người học có thể cập nhật và truy cập thường xuyên nguồn tài nguyên học tập phong phú
thông qua các trang Web.
- Cá nhân hóa việc học tập: bằng việc cung cấp các học liệu online, học sinh có thể dành
khoảng thời gian mà các em cảm thấy cần thiết cho một chủ đề nào đó mà không bị giới
hạn bởi các tiết học trên lớp hay cảm giác ngại với các bạn cùng lớp. Cũng như thế những
học sinh bị mất giờ lên lớp có thể tiếp cận với các học liệu về bài giảng của ngày hôm đó,
điều này giải phóng giáo viên khỏi việc phải theo những học sinh vắng mặt. Với tác động
của công nghệ, chương trình Blended – Learning cho phép học sinh có thể học với tiến
độ của mình, sử dụng phương pháp học tập ưa thích, nhận được phản hồi thường xuyên
và kịp thời về kết quả của mình, cho kinh nghiệm để việc học tập với chất lượng ngày
càng cao hơn.
- Tăng trách nhiệm và quản lý người học: lợi ích khác của môi trường học tập Blended –
Learning là tăng trách nhiệm và quản lý người học. Với nhiều học sinh, khả năng lựa
chọn học những gì, tiếp cận như thế nào với một chủ đề, học lúc nào và ở đâu có thể làm
nên sự khác biệt trong hiệu quả dạy học. Môi trường Blended – Learning cũng khiến phụ
huynh quan tâm hơn tới con em của mình trong quá trình học. Phụ huynh có thể truy cập
vào cùng nguồn học tập giống như con họ để giúp con học và nghiên cứu ngoài giờ lên
lớp. Điều này đặc biệt hữu ích với các môn như Toán và khoa học vì những môn này
thường được dạy rất khác so với những gì các phụ huynh được dạy trước đây. Bằng việc
truy cập vào các nguồn online, phụ huynh sẽ nắm rõ hơn các chủ đề được dạy như thế
nào và chuẩn bị tốt hơn để kiểm tra và giúp con mình hoàn thành tốt việc học.
3. - Người học có thêm thời gian để tập trung cho các hoạt động quan trọng như phát triển kỹ
năng viết và tư duy phản biện.
2. Ngữ cảnh dạy và học ở Việt Nam: những thuận lợi và hạn chế:
Tìm hiểu về ngữ cảnh dạy học ở Việt Nam
Đại học:
Kết quả từ một nghiên cứu gần đây của PGS.TS.Nguyễn Công Khanh, Trường đại học sư phạm
Hà Nội, cho thấy có một tỉ lệ cao sinh viên (54,5%) không hứng thú trong các bài giảng. Có lẽ đây
cũng chỉ là một phát hiện mới (bằng con số) về một điều mà chúng ta đã biết rất rõ từ lâu nay rồi.
Nói cách khác là chất lượng giáo dục đại học hiện nay ở nước ta đang gặp nhiều vấn đề mà
đó chỉ là một biểu hiện như phần nổi của cả tảng băng chìm.
Thuận lợi:
Giáo dục đại học đang đào tạo theo hệ thống tín chỉ, giúp hạn chế giờ học trên lớp, tạo điều
kiện để người học tự học.
Việc dạy và học đại học:
- Gia tăng mức độ học tập từ ghi nhớ kiến thức đến khả năng tư duy bậc cao
- Kết hợp chiến lược học tập tích cực cùng với thảo luận trong lớp
- Yêu cầu thực hiện bài tập về nhà được phân loại để lấy phản hồi từ người học
- Đánh giá sinh viên từ bài tập về nhà, điểm chuyên cần, điểm tích cực trong lớp học, điểm
cuối kỳ.
Đại học Quốc gia cung cấp một cơ cấu tổ chức tiềm năng cho những nổ lực phát triển có tổ
chức và chuyên nghiệp có tính hệ thống. Trong số các trường đại học thuộc Đại học Quốc gia,
có các chuyên gia trong chuyên ngành và phương pháp sư phạm cũng như nhiều quản trị viên
và các giảng viên có kinh nghiệm và bằng cấp cao được các tổ chức quốc tế công nhận. Ngoài
ra, có những đơn vị đặc biệt dành riêng đánh giá và cải tiến.
Hợp tác về giáo dục
Hạn chế:
Việc dạy và học ở đại học:
- Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, phụ thuộc quá nhiều vào bài giảng, ít sử dụng các
kỹ thuật học tập tích cực (ví dụ, bài tập phân loại và thảo luận), kết quả không có nhiều sự
tương tác giữa giảng viên và học sinh bên ngoài lớp học. Nhiều giảng viên có vẻ không
nắm chắc giờ làm việc
- Quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức (theo kiểu thuộc lòng) mà không nhấn mạnh vào
việc học khái niệm hoặc học ở cấp độ cao (như phân tích và tổng hợp) đẫn đến học hời hợt
thay vì học chuyên sâu
4. - Sinh viên học một cách thụ động (nghe trình bày , ghi chép, nhớ lại thông tin đã học)
- Đa số sĩ số ở các lớp đại học quá đông.
- Quá nhiều học sinh không đến lớp.
- Sinh viên mất quá nhiều thời gian học ở lớp mỗi ngày và học quá nhiều môn trong một
học kỳ mà không có thời gian để tiếp thu tài liệu (không có học và hiểu sâu).
- Sau giờ học, hầu hết sinh viên đi làm thêm, do đó họ không có thời gian để làm bài tập có
thể được cho về nhà làm.
- Thiếu hiểu biết về sự khác biệt giữa giáo dục (sự chuẩn bị chung cho việc học cá nhân và
nghề nghiệp lâu dài) và đào tạo (sự chuẩn bị cụ thể để hoàn tất công việc).
- Thiếu nhấn mạnh đến sự phát triển các kỹ năng thông thường và nghề nghiệp (làm việc
nhóm, khả năng giao tiếp hoặc viết, phương pháp giải quyết vấn đề, sáng kiến, học lâu dài,
…)
- Thiếu hiểu biết về mối tương quan giữa việc sử dụng phương pháp dạy hiện tại với chất
lượng và mức độ tiếp thu của sinh viên.
- Thiếu sự chuẩn bị cho các giảng viên trong các lĩnh vực: Phương pháp sư phạm (phương
pháp DH, tài liệu giảng dạy và học tập), Thiết kế và phát triển giảng dạy nhằm hướng đến
cải tiến các môn học và chương trình đào tạo, Phát triển chuyên môn nghiệp vụ (đào tạo
sau đại học).
- Không có nhiều nguồn tài liệu viết hoặc nguồn tài liệu điện tử (cũng như các cán bộ hỗ
trợ chuyên nghiệp) để giúp đào tạo các phương pháp giảng dạy và học tập mới nhất.
- Sách, tài liệu thuyết giảng, phần mềm lạc hậu.
- Trang thiết bị phòng học nghèo nàn (ồn, không tiện nghi), trang thiết bị phòng thí nghiệm
và thiết bị để phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu không tương xứng hoặc không có.
- Trang thiết bị thư viện và các nguồn lực không phù hợp (không gian, sách báo, tạp chí
chuyên ngành dưới dạng ấn phẩm và điện tử, Internet băng thông rộng, máy vi tính).
- Thiếu tôn trọng tài sản trí tuệ thể hiện rõ đối với các ấn phẩm tài liệu và phần mềm.
Chương trình đào tạo và môn học
Chương trình đào tạo đại học yêu cầu quá nhiều môn học (6-8) và số tín chỉ (khoảng 25)
trong một học kỳ, kết quả là sinh viên không có kiến thức sâu.
Thường không có sự liên kết giữa các môn học có liên quan. Ngoài ra trình tự sắp xếp chưa
rõ trong toàn bộ chương trình đào tạo đại học.
Nhiều môn học trong chương trình đào tạo không liên quan đến ngành học và chuyên
ngành.
5. Nội dung của từng môn học và toàn bộ chương trình đào tạo lạc hậu và không ngang tầm
với các trường đại học thế giới (nhấn mạnh vào kỹ năng và lý thuyết).
Các ứng dụng thực tiễn tập trung vào các bài tập mức độ thấp (lập trình và giải bài tập),
hơn là các khả năng tư duy như phân tích, tổng hợp, đánh giá và giải quyết vấn đề
Có sự mất cân đối giữa các môn học lý thuyết và các môn học thực hành.
Các chương trình đào tạo đại học chưa trang bị đủ về tiếng Anh (viết, đọc, nghe, nói) rất
quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Thiếu sự chuẩn bị cho các kỹ năng thông thường và nghề nghiệp như giao tiếp nói và viết,
kỹ năng thuyết trình, làm việc nhóm, GQVĐ, quản lý dự án, tư duy phê phán, và sự tự tin.
Sinh viên không có cơ hội thường xuyên đánh giá các môn học và toàn bộ chương trình
đào tạo có liên quan đến kết quả học tập đã đạt được
Người hướng dẫn
Giảng viên làm việc chăm chỉ, có đầy đủ các kỹ năng nhưng nhìn chung nền tảng và kinh
nghiệm của họ không chuẩn bị cho họ để phát triển và thực hiện một chương trình đào tạo
đại học hiện đại hoặc tiến hành nghiên cứu đo cùng cấp độ với các nghiên cứu đang thực
hiện ở các trường đại học top đầu trên thế giới.
Giảng viên có sự chuẩn bị thấp về học thuật bởi vì tập trung vào ghi nhớ kiến thức (lý
thuyết) trong giáo dục đại học và thiếu cơ sở nghiên cứu hiện đại cho họ, vấn đề cụ thể :
+ Giảng viên có trình độ cử nhân phải chịu trách nhiệm về thí nghiệm, thực hành (họ có
ít hoặc không có kinh nghiệm nghiên cứu).
+ Giảng viên với trình độ thạc sĩ chịu trách nhiệm về các bài giảng lý thuyết vào kiến
thức thực tế , kết quả của họ trong việc cung cấp một sự hiểu biết cơ bản về tri thức.
+ Giảng viên có học vị tiến sĩ không được tham gia nghiên cứu và, do đó, không thể cố
vấn cho sinh viên hoặc mang lại nghiên cứu của họ vào lớp học đại học.
Giảng viên thiếu cập nhật kiến thức trong lĩnh vực của họ liên quan đến chương trình giảng
dạy và với nội dung khóa học, phương pháp giảng dạy và nghiên cứu. Vì vậy, thiếu giảng
viên có trình độ có thể hiện đại hóa phương pháp giảng dạy và học tập đại học, chương
trình đào tạo và kỹ thuật, cũng như giáo dục đại học và nghiên cứu.
Giảng viên làm việc nhiều giờ và trả lương thấp (giảng dạy lên đến 20 giờ hoặc nhiều hơn
mỗi tuần cộng với công việc bên ngoài để kiếm sống). Vì vậy, họ thiếu thời gian cần thiết
để nâng cao kỹ năng giảng dạy, các khóa học và chương trình giảng dạy, và khả năng
nghiên cứu
Giảng viên thụ động và có thể xem xét khả năng chống sự đổi mới / thay đổi vì điều này
đòi hỏi thời gian và công sức của họ.
6. Giảng viên thiếu sự hỗ trợ và giúp đỡ như thể hiện trong:
+ ít hoặc không có hỗ trợ phát triển chuyên môn cho giảng viên
+ ít nguồn nhân lực cho các giảng viên như giảng dạy và / hoặc trợ lý nghiên cứu, thư
ký, và các chuyên gia phát triển giảng dạy; và
+ cơ sở vật chất trang bị nghèo nàn cả về giảng dạy (phòng học) và nghiên cứu (phòng
thí nghiệm).
Thiếu thư viện, ít hoặc không có quyền truy cập vào nguồn tài nguyên của chuyên môn
khác như sách, tạp chí điện tử, tạp chí quốc tế, và các dữ liệu điện tử
Giảng viên được khen thưởng chủ yếu về tài chính cho giảng dạy và không cho tiến hành
nghiên cứu.
Một số giảng viên du học nước ngoài khi trở về nước thất vọng với tốc độ chậm thay đổi.
Giảng viên không nhận thức được tầm nhìn về quản lý cao hơn để cải thiện đại học và giáo
dục đại học.
Giảng viên không tham gia vào các quyết định chương trình đào tạo quan trọng và vấn đề
khác có liên quan
Giảng viên không được đánh giá và, do đó, không nhận được phản hồi về hiệu quả của họ
Giảng viên không nhận thức đầy đủ các thủ tục và các bước của hệ thống khen thưởng
Đánh giá kết quả học tập của sinh viên và hiệu quả tổ chức
Ở cấp môn học, ít cơ chế cung cấp thông tin phản hồi về dạy và học với mục đích cải thiện
quá trình dạy học. Đánh giá thành phần thiếu trên nhiều vấn đề
Ở cấp khoa, có vẻ như ít xem xét liên tục, dựa trên dữ liệu đánh giá, về chất lượng các môn
học trong chương trình giảng dạy và thành tựu của sinh viên chuyên ngành trong các lĩnh
vực cụ thể.
Có một sự thiếu rõ ràng về cơ sở hạ tầng nghiên cứu ở cấp đại học. Để làm rõ, điều này
liên quan đến nghiên cứu các thông tin về tổ chức, không phải những dự án nghiên cứu
trong các lĩnh vực.
Hiệu quả của tổ chức thì không thường được đánh giá về quá trình học của sinh viên hoặc
hiệu quả nghiên cứu
Công nhận chính phủ (ví dụ, đánh giá tổng kết) trong giai đoạn đầu của phát triển với một
số tiềm năng để phát triển.
Giáo dục phổ thông
Cho đến lớp 5 các khoảng cách giữa các nhóm trẻ đã được hình thành rõ rệt. Điểm kiểm tra
của học sinh vào đầu năm học đã thể hiện khá rõ ở điểm kiểm tra cuối năm, liên quan một phần
7. tới hoàn cảnh gia đình và việc học tập ở những năm trước. Điều này cho thấy tầm quan trọng
của việc tập trung vào học tập của trẻ trong những năm trước đó nhằm cải thiện kết quả học
tập nói chung.
Có bằng chứng về tiến bộ khác biệt giữa học sinh lớp 5. Học sinh có hoàn cảnh thuận lợi
thường có thành tích học tập cao hơn, nhưng vẫn có bằng chứng đáng khích lệ về việc theo kịp
bạn bè của nhóm học sinh thiểu số liên quan tới chương trình học lớp 5.
Một số trường học và lớp học tạo điều kiện tốt hơn các trường, lớp khác trong việc giúp
học sinh học tập
Những tác động này có thể lớn, và lớn hơn sự khác biệt về tiến bộ giữa các nhóm xã hội.
Một số nhân tố quan trọng nổi lên và cần được cân nhắc ở cấp trường và lớp bao gồm cơ sở
vật chất tốt hơn (có phòng học riêng biệt và có điện), giáo viên có bằng cấp và giáo viên cảm
thấy có đủ điều kiện để tạo sự khác biệt trong việc học của trẻ.
Mặc dù Việt Nam đã đạt được tiến bộ trong lĩnh vực giáo dục trong những năm qua nhưng vẫn
còn một số thách thức. Tình hình giáo dục chung: tỉ lệ nghịch giữa số lượng và chất lượng đào tạo
Hệ thống giáo dục Việt Nam đấu tranh với một số vấn đề: khoảng cách giữa chất lượng giáo
dục ở nông thôn và thành thị, tình trạng thiếu cán bộ quản lý giáo dục với những kỹ năng cần
thiết trong một hệ thống phân cấp, công cụ giáo dục hạn chế và lỗi thời và phương pháp sư
phạm, ....
Trang bị cho học sinh những kỹ năng cơ bản còn thấp
Giáo viên được đào tạo sử dụng phương pháp dạy học truyền thống thất bại trong khuyến khích
học tích cực
Phụ thuộc nhiều vào hoạt động cá nhân
Đầu tư thấp trong phần mềm giáo dục - chương trình giảng dạy, đào tạo giáo viên, lớp học và
các tài liệu giáo dục
Hạn chế bảo vệ sự phát triển của trẻ ban đầu
Sự không cân bằng trong giáo dục đối với trẻ em nghèo, khuyết tật, trẻ em dân tộc thiểu số
Trẻ em thất bại trong việc thể hiện tốt do thiếu chất dinh dưỡng
3. Vấn đề Social Science đối với người Việt Nam khi tham gia dạy và học trực tuyến
Việc học tập của học sinh bị chi phối và ảnh hưởng nhiều từ văn hóa xã hội Việt Nam. Từ
xưa đến nay văn hóa học tập Việt Nam thường mang các đặc điểm:
Nền giáo dục mang tính “hàn lâm, kinh viện”: khái niệm tính “hàn lâm, kinh viện” chỉmột
nền giáo dục định hướng vào việc truyền thụ một hệthống tri thức được quy định sẵn dựa
trên cơ sởcác môn khoa học chuyên ngành, nhưng ít chú ý đến việc rèn luyện tính tích cực
nhận thức, tính độc lập, sáng tạo cũng như khả năng vận dụng những tri thức đó trong thực
tiễn. Trong nền giáo dục mang tính ”hàn lâm, kinh viện” thì phương pháp dạy học chủ yếu
8. dựa trên quan điểm giáo viên là trung tâm, trong đó người thầy đóng vai trò chính trong
việc truyền thụ tri thức cho HS. PPDH chủ yếu là các phương pháp thông báo tri thức, HS
tiếp thu tri thức một cách thụ động. Các PPDH phát huy tính tích cực nhận thức của HS
cũng như việc rèn luyện phương pháp tự học ít được chú trọng.
• Nền giáo dục “ứng thí”: việc học tập của HS mang nặng tính chất đối phó với các kỳ thi,
chạy theo bằng cấp mà ít chú ý đến việc phát triển nhân cách toàn diện cũng nhưnăng lực
vận dụng kiến thức đã học trong thực tiễn. Trong khi đó các kỳ thi tuyển sinh hiện nay chỉ
giới hạn ở một số môn học, cũng như không thể kiểm tra toàn diện tri thức và có nhiều hạn
chế trong việc kiểm tra năng lực vận dụng tri thức một cách sáng tạo trong các tình huống
gắn với thực tiễn.
Với các văn hóa học tập trên sẽ làm cho thế hệ trẻ được đào mang tính thụ động cao, hạn
chế khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống
thực tiễn cuộc sống. Điều đó gây không ít khó khăn cho học sinh khi mới tiếp cận với e-
Learning.