Toàn cảnh văn hóa, thể thao, du lịch - Số 1193 - vanhien.vn
Văn hiến Việt Nam - Chuyên đề Kinh tế & văn hóa số 9 - 10
1.
2.
3. Taïp chí xuaát baûn 02 kyø/thaùng
Giaáy pheùp hoaït ñoäng baùo chí soá 397/GP- BVHTT
Vaø soá 41/GP - SÑBS
Giaáy pheùp Quaûng caùo soá 1187/BC
TOØA SOAÏN TRÒ SÖÏ
27 Höông Vieân, Q. Hai Baø Tröng, Haø Noäi
ÑT & Fax: (84.4)39.764.693
CHUÛ NHIEÄM
GS. Hoaøng Chöông
TOÅNG BIEÂN TAÄP
Nhaø baùo Nguyeãn Theá Khoa
PHOÙ TOÅNG BIEÂN TAÄP THÖÔØNG TRÖÏC
Nhaø baùo Traàn Ñöùc Trung
PHOÙ TOÅNG BIEÂN TAÄP
Ts. Nguyeãn Minh San
TRÖÔÛNG BAN TRÒ SÖÏ
Nhaø baùo Nguyeãn Hoaøng Mai
THÖ KYÙ TOØA SOAÏN
Nhaø baùo Traàn Thu Hieàn
Nhaø baùo Töø My Sôn
GIAÙM ÑOÁC ÑIEÀU HAØNH
Nhaø baùo Voõ Thaønh Taân
HOÄI ÑOÀNG BIEÂN TAÄP
GS. Vuõ Khieâu - GS. Traàn Baûng - GSTS. Traàn Vaên Kheâ
- Nhaø thô Nguyeãn Khoa Ñieàm - NS. Vuõ Maõo - GSVS.
Hoà Só Vònh - GS. Tröôøng Löu - GSTS. Thaùi Kim Lan -
TS.NSND Phaïm Thò Thaønh - NSND Ñaëng Nhaät Minh
- TS. Ñoaøn Thò Tình - GSTS. Nguyeãn Thuyeát Phong
- NB. Phaïm Ñöùc Löôïng - NB. Trung Ñoâng
BAN CHUYEÂN ÑEÀ
VAÊN PHOØNG BAN BIEÂN TAÄP
Soá 64 Trung Hoøa (Soá 06 - Loâ 12B cuõ) Khu ÑTM
Trung Yeân - Trung Hoøa - Caàu Giaáy - Haø Noäi
ÑT: (84.4)37.83.1961 - 37.83.1962
Email: chuyendevanhien@ yahoo.com.vn
VAÊN PHOØNG QUAÛNG CAÙO VAØ PHAÙT HAØNH
Soá 404 Ñöôøng Böôûi, Q. Ba Ñình - TP. Haø Noäi
ÑT: 04. 3 7717665 * Fax: 04. 3 7718875;
Mobile: (+84)989.186661
Email: trantrungvanhien@gmail.com
Website: www.vanhien.net; www.tinnhanh24.vn
VAÊN PHOØNG ÑAÏI DIEÄN TAÏI TP. HCM
288B An Döông Vöông - Q. 5 - TP. HCM
ÑT: (84.8)38.353.878
VAÊN PHOØNG ÑAÏI DIEÄN TAÏI ÑAØ NAÜNG
Taàng 5 Khaùch saïn Eiffel -117 Leâ Ñoä - TP. Ñaø Naüng
ÑT: (84.511)647.529 - Fax: (84.511)811.972
Email: chuyendevanhien@ yahoo.com.vn
Trình baøy - De. Quang Anh
TAØI TRÔÏ PHAÙT HAØNH
Doanh nghieäp saùch Thaønh nghóa - TP. HCM
In Taïi - Coâng ty TNHH MTV in Quaân ñoäi I
GIAÙ: 50.000VNÑ
nội dung
SỐ 9+10 (264)-2014
CULTURE OF VIETNAM
SỰ KIỆN - BÌNH LUẬN
4. Khuê Văn Các - biểu trưng của Hà Nội
Nguyễn Thùy Linh
7. “Người Hà Nội” - khúc tráng ca bất hủ
của Nguyễn Đình Thi
Ny San
11. Mùa Thu trong ca khúc viết về Hà Nội
TS. Nguyễn Minh San
15. Đài phun nước gắn gốm Bông sen
vàng - công trình nghệ thuật mới Chào
mừng 60 năm giải phóng Thủ đô
Tràng An
18. Hội thảo “Văn nghệ sĩ cao tuổi với
văn hóa dân tộc”
VH
19. Nguyễn Á - “Ảnh nghệ thuật về
Hoàng Sa, Trường Sa, biển đảo Việt
Nam”Những vấn đề đặt ra từ Tọa đàm
khoa học
Nguyễn Minh Hoàng
23. Vai trò của báo chí trong việc bảo tồn,
phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc
GS Hoàng Chương
HIỀN TÀI ĐẤT VIỆT
27. Trần Huy Liệu - một người tù chăm học
Trần Chiến
29. Nữ sĩ Hằng Phương - Điểm tựa làm
nên những giải thưởng lớn
Châu Giang
TỪ TRONG DI SẢN
31. Nhà hát Chèo Quân đội - 60 năm
xây dựng và trưởng thành
NSUT Nguyễn Thế Phiệt
34. Chính sách “Ngụ binh ư nông” và
vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng
GS Trần Quốc Vượng
39. Phác thảo kho tàng âm nhạc dân
gian Quảng Nam
Trương Đình Quang
42. Chầu văn - từ cửa đền, cử phủ đến
sân khấu, lên truyền hình và xuất ngoại
San Hoàng
DIỄN ĐÀN
46. Nghệ thuật tranh, tượng ngoài trời ở
Hà Nội sau 60 năm giải phóng - Nhìn lại
và suy ngẫm
Ny San
Ảnh bìa 1: Khuê Văn Các. Ảnh TTXVN
54. Mấy ý kiến về văn nghệ sĩ cao tuổi
với văn hóa dân tộc
Đỗ Hoài
56. Tản mạn về Văn nghệ sĩ cao tuổi với
văn hóa dân tộc
Trương Nguyễn
VÌ SỰ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
60. Công ty CP Giống cây trồng Trung
ương - Khi thương hiệu song hành với
chất lượng
Trúc Lam
62. Công ty CP Xây dựng công nghệ
Tuấn Hùng - Cam kết bảo vệ sức khỏe
cho cộng đồng
Hiền Trần
64. Tỉnh Điện Biên với công tác bình
đẳng giới
Tây Bắc
DOANH NHÂN TÂM - TÀI
66. Công ty TNHHMTV Xổ số kiến thiết
Kon Tum - Một người vì mọi người
Thu Thu
68. Công ty TNHH Khoáng sản và luyện
kim Việt - Trung - Sự quyết đoán của
một doanh nhân
Trần Hiền
70. Người sát cánh cùng Xuân Lộc phát triển
Thu Trần
72. Phòng Chẩn trị Đông y Nguyễn Lễ -
Chuyện về một người con đất Quảng
Trần Thu
THƯƠNG HIỆU - NHÃN HIỆU - TỪ GÓC
NHÌN VĂN HÓA
74. Nhà máy Sữa đậu nành Việt Nam -
Nâng tầm thương hiệu với hướng đi mới
Trần Thu
76. Công ty TNHH Thép Hoàng Gia
Phát - Định vị Thương hiệu Royal Steel
Thu Thu
VĂN HÓA GIAO THÔNG
78. Tổng kết, trao giải và triển lãm tranh
cuộc thi “Thiếu nhi vẽ về Văn hóa giao
thông” - 2014
VH
4. EVENTS & COMMENTS
4. Temple Khue Van - A symbol of Hanoi
Nguyen Thuy Linh
7. “The Hanoian” - A timeless song of
Nguyen Dinh Thi
Ny San
11. Fall in songs about Hanoi
Dr. Nguyen Minh San
15. Fountain decorated with ceramic
golden Lotus - New art work of 60-year
Hanoi liberation
Trang An
18. Seminar on “Senior artists with
national culture”
VH
19. The problems in the scientific
discussion “about the art photos of
Paracel, Spratly islands by Nguyen A”
Nguyen Minh Hoang
23. The role of the press in the
preservation and promotion of heritage
values of national culture
Professor Hoang Chuong
STALENTS OF VIETNAMESE LAND
27. Tran Huy Lieu - A hard learning
prisoner
Tran Chien
29. Woman artist Hang Phuong - An
inspiration to make the big prizes
Chau Giang
INSIDE HERITAGE
31. Military Theatre - 60 years of building
and growing
Artist Nguyen The Phiet
34. Economic issue associated with
defense
Gs. Tran Quoc Vuong
39. Drawing treasure of Quang Nam folk
music
Truong Dinh Quang
42. Chau Van singing - from the temple’s
gate to the stage, on television and
abroad
San Hoang
FORUM
46. Outdoor paintings, statues Art in
Hanoi after 60 years of liberation - Look
back and think
Ny San
Contents
number 9+10 (264) - 2014
54. A few comments on elderly artists
with national culture
Do Hoai
56. Some gleanings on elderly artists
with national culture
Truong Nguyen
FOR THE COMMUNITY DEVELOPMENT
60. Seed national corporation - When
brand paralleled with quality
Truc Lam
62. Tuan Hung Technology Construction
JSC - Commit to protect the health of
community
Hien Tran
64. Dien Bien province with gender
equality
Tay Bac
BUSINESSMAN HEART - TALENT
66. Kon Tum Lottery Company, Ltd. - A
man for all people
Thu Thu
68. Vietnam - China Minerals
and Metallurgical Co., Ltd. - The
determination of an entrepreneur
Tran Hien
70. The person is alongside with Xuan
Loc’s development
Thu Tran
72. Nguyen Le oriental medicine
diagnosis chamber - Story of a Quang’s
land son
Tran Thu
TRADEMARK - BRAND NAME
BY CULTURAL VIEW
74. Vietnam Soy Milk Factory - Enhance
brand image with new direction
Tran Thu
76. Hoang Gia Phat Steel Company
Limited - Positioning Royal Steel Brand
Thu Thu
TRAFFIC CULTURE
78. Review, award in painting exhibition
contest “Children’s paintings about
traffic culture” - 2014
VH
5. KỶ NIỆM 60 NĂM GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ (10/10/1954 - 10/10/2014)
KHUÊ VĂN CÁC
BIỂU TRƯNG HÀ NỘI
TỪ GÁC KHUÊ VĂN…
Để đề cao Nho học, tỏ rõ sự trọng học và cũng là để
khai hoá cho muôn dân, vào năm Canh Tuất (1070), niên
hiệu Thần Vũ thứ hai, vua Lý Thánh Tông đã cho xây Văn
Miếu ở kinh đô Thăng Long để thờ Khổng Tử - ông tổ của
Nho giáo cùng các học trò của Ngài. Hoàng Thái tử đương
triều được đưa tới đó học tập. Như vậy, Văn Miếu không chỉ
là nơi thờ tự mà còn là trường học đầu tiên - trường học đặc
biệt của triều Lý dành cho Hoàng Thái tử Càn Đức, vua Lý
Nhân Tông sau này. Ở các địa phương, nhà vua cũng cho
lập Văn chỉ để làm nơi thờ Khổng Tử nhằm khuyến khích
việc học tập của nhân dân trong các làng xã.
Kế tục truyền thống Nho học và xây dựng Văn Miếu
l NGUYỄN THÙY LINH
của triều Lý, các triều đại sau, đều quan tâm đến giáo
dục Nho học và tu sửa, phát triển, hoàn thiện Văn Miếu -
Quốc Tử Giám. Trong kiến trúc tổng thể Văn Miếu - Quốc
Tử Giám hiện nay, Khuê Văn Các / Gác Khuê Văn được
xây dựng vào năm 1805 dưới thời Nguyễn / Gia Long.
“Khuê Văn” - Sao Khuê, theo cách lý giải truyền thống
của triết học Đông phương về thiên thể: “Khuê” là tên một
ngôi sao trong chòm 28 sao, là đầu Bạch hổ phương Tây,
có 16 ngôi, sắp xếp khúc khuỷu giống hình chữ Văn (chữ
Hán). “Khuê” chủ về văn chương”. Về sau, người ta coi
Sao Khuê biến hóa là người đứng đầu của quan văn.
Gác Khuê Văn là một lầu vuông 8 mái, được xây
trên một nền hình vuông cao, lát gạch Bát Tràng, kiểu
Ảnh Nguyễn Minh San 4
6. KỶ NIỆM 60 NĂM GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ (10/10/1954 - 10/10/2014)
dáng kiến trúc khá độc đáo: tầng dưới là 4 trụ xây
bằng gạch, 4 bề trống không, tầng trên là kiến trúc gỗ
2 tầng mái lợp ngói ống, trang trí 4 góc bằng đất nung.
Sàn gỗ có chừa một khoảng để bắc thang lên gác.
Bốn cạnh có diềm gỗ chạm trổ tinh vi, xung quanh
là lan can con tiện. Bốn mặt gác trổ 4 cửa sổ tròn
xung quanh có những thanh gỗ con tiện tỏa ra 4 phía,
tượng trưng cho các tia của Sao Khuê tỏa sáng. Trên
gác treo biển sơn son thếp vàng đề 3 chữ: “Khuê Văn
Các”. Xung quanh 4 mặt đều có câu đối:
1. Hy triều phấn sức long văn trị
Kiệt các trân tàng tập đại quan.
(Dịch: Đời thịnh tô điểm nền văn trị
Lầu gác lộng lẫy lưu giữ vẻ đẹp)
2. Thánh hiền nhất thống đồ thư phủ
Văn hiến thiên thu lễ nghĩa bang
(Dịch: Phủ đồ thư một mối thánh hiền
Nước lễ nghĩa nghìn năm văn hiến)
3. Khuê tinh thiên lãng nhân văn xiển
Bích thủy xuân thâm đạo mạch trường.
(Dịch: Sao Khuê sáng giữa trời, nhân văn rạng tỏ
Sông Bích đượm sắc xuân, đạo học dài lâu)
4. Thành lâm Bắc Đẩu hồi nguyên khí
Nguyệt tế thu đàm chiếu cổ tâm.
(Dịch: Sao Bắc Đẩu sáng kinh thành tụ hội nguyên
khí/Đầm thu đọng bóng nguyệt soi rọi tấm lòng xưa)
Khuê Văn Các xinh xắn, kiến trúc giản dị, tao nhã,
ẩn dưới tán những cây si, cây đa cổ thụ xung quanh,
Ảnh Nguyễn Minh San
in bóng xuống giếng Thiên Quang (Thiên quang tỉnh
- giếng ánh sáng trời), càng làm tăng thêm vẻ đẹp
của nó. Giếng Thiên Quang hình vuông, có lan can
gạch xây 4 phía, quanh năm nước đầy, xanh trong
phẳng lặng. Theo quan niệm của người xưa, giếng
hình vuông tượng trưng cho mặt Đất, cửa sổ hình tròn
của Khuê Văn Các tượng trưng cho bầu Trời. Bố cục
kiến trúc trên ngụ ý nói nơi đây là nơi hội tụ mọi tinh
hoa của Trời - Đất, nhằm đề cao Văn Miếu - Quốc
Tử Giám là trung tâm giáo dục văn hóa Nho học Việt
Nam.
… ĐẾN BIỂU TƯỢNG HÀ NỘI - THÀNH PHỐ HÒA
BÌNH
Nhân kỷ niệm 900 năm Thăng Long - Đông Đô
- Hà Nội, UBND TP Hà Nội phát động cuộc thi sáng
tạo mẫu biểu trưng Hà Nội. Cuộc thi đã nhận được
sự hưởng ứng tham gia của không chỉ người Việt
Nam ở trong và ngoài nước mà còn của người nước
ngoài. Sau hơn 2 năm tổ chức, với 3 đợt thi, (từ ngày
31/5/1997 đến 19/8/1998), Ban tổ chức đã nhận được
428 tác phẩm của 237 lượt tác giả dự thi. Theo Ban
tổ chức, trong số các bài thi gửi về, đa số các bài thi
chọn Khuê Văn Các. Đó là một công trình kiến trúc
đẹp. Đứng riêng đã đẹp, đứng chung trong quần thể
di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám cũng rất hài hòa,
cân đối. Khuê Văn Các còn tượng trưng cho văn hóa,
5
7. KỶ NIỆM 60 NĂM GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ (10/10/1954 - 10/10/2014)
học vấn, trí tuệ ngàn đời của người Việt Nam. Nhưng
vẽ nó một cách tả thực thì không dễ, bởi các tỷ lệ của
công trình rất chuẩn. Hai lớp mái vẽ hơi to là thô ngay.
Hai cột vẽ hơi mảnh hay thấp đi là dị dạng liền. Cho
nên thể hiện Khuê Văn Các theo lối cách điệu là lối xử
lý thông minh và hiệu quả.
Và, chỉ có một họa sĩ, lại là một họa sĩ Việt kiều -
ông Phạm Ngọc Tuấn, đã gần 50 năm sống ở nước
ngoài đã chọn lối vẽ này và ông đã thành công. Mẫu
vẽ Khuê Văn Các của ông Phạm Ngọc Tuấn - một
Việt kiều tại Pháp là 1 trong 136 bài/mẫu của 45 tác
giả dự thi đợt 3, được Hội đồng nghệ thuật đánh giá đã
đạt được các yêu cầu cơ bản của Biểu trưng Hà Nội,
là: truyền thống, hiện đại, dễ nhận biết và có thể thể
hiện trên nhiều chất liệu. Tuy nhiên, Hội đồng nghệ
thuật cũng góp ý kiến để ông sửa chữa và nâng cao
hơn nữa nhằm hoàn thiện tác phẩm nghệ thuật của
mình.
Họa sĩ Phạm Ngọc Tuấn, sinh năm 1929, là một
chàng trai Hà Nội, định cư 49 năm ở nước ngoài,
nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Thủa nhỏ Phạm
Ngọc Tuấn đã say mê hội họa. Lớn lên, ông từng theo
học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nay là
ĐH Mỹ thuật Hà Nội. Ông là học trò của những họa
sĩ danh tiếng như Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị,
Hoàng Tích Chù..Học được 1 năm, năm 1950, ông
sang Pháp tiếp tục học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật
quốc gia Pháp. Năm 1956, ông nhận bằng tốt nghiệp
trường này. Sau hàng chục năm làm nghệ thuật, ông
đã có triển lãm tại Bỉ, Đức, Ca na đa, Italia, Thụy Sĩ.
Năm 1975, ông đoạt giải Nhất cuộc thi vẽ hiện đại
về bộ bài Tây do Bảo tàng Mỹ thuật trang trí Paris
tổ chức. Năm 1995 ông về thăm Việt Nam. Ông tâm
sự: “Gần 50 năm xa Hà Nội, nhưng hình ảnh về Hồ
Gươm, Tháp Rùa, chùa Một Cột, Khuê Văn Các,…
luôn đau đáu trong ký ức của ông. Ngồi ở Paris, ông
đã vẽ gần 200 mẫu Khuê Văn Các gửi về nước tham
gia cuộc thi. Khi đặt chân về nước sau gần 50 năm xa
cách, ông vô cùng ngỡ ngàng trước sự đổi mới nhanh
chóng của đất nước, Thủ đô nói riêng. Đặc biệt là ông
nhận thức rõ đường lối đổi mới của Đảngvà Nhà nước,
trong đó có tạo điều kiện cho các người Việt Nam
ở nước ngoài về nước xây dựng đất nước, làm giầu
chính đáng cho quê hương”.
Ngày 23/7/1999, UBND TP Hà Nội ra Quyết định
số 59/1999/QĐUB công nhận mẫu biểu trưng Hà Nội
của tác giả Phạm Ngọc Tuấn đoạt Giải Nhất và được
đưa vào sử dụng chính thức. Trong cuộc thi này, không
có giải nhì, chỉ có 2 giải ba, một thuộc về họa sĩ Hà
Nội, ông Thủy Liên, và một thuộc về họa sĩ Việt kiều ở
Đức, ông Phạm Phú Oanh, sinh viên cũ của Đại học
Mỹ thuật Hà Nội. Trao đổi với các đồng nghiệp và báo
chí trong nước, tác giả của Biểu trưng Hà Nội - Thành
phố vì Hòa bình, nói: “Đoạt giải, đặc biệt là giải Nhất
của một cuộc thi lớn là niềm hạnh phúc lớn đối với bất
kỳ người dự thi nào. Nhưng với tôi, là một người Việt
Nam sống 49 năm ở nước ngoài thì niềm hạnh phúc
còn nhân lên gấp bội. Điều đó thể hiện tính nhất quán
giữa nói và làm của Nhà nước Việt Nam, coi người Việt
Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Việc tôi đoạt giải
Nhất là một minh chứng không có sự phân biệt giữa
người ở trong nước và ngoài nước”.
Chỉ thông qua một cuộc thi vẽ Biểu trưng Hà Nội
thôi, cũng đã cho thấy Đất Mẹ Việt Nam luôn giang
tay đón mọi “Con Rồng cháu Tiên” ở mọi chân trời,
góc bể mang tài năng và tâm đức về xây dựng một
nước Việt Nam giầu mạnh, một Thủ đô Hà Nội ngàn
năm văn vật - Thành phố vì Hòa Bình - Trái tim của
cả nước./. n
Ảnh Nguyễn Minh San
6
8. Người Hà Nội
KHÚC TRÁNG CA BẤT HỦ CỦA
NGUYỄN ĐÌNH THI
HÀ NỘI - THỦ ĐÔ MỘT NGHÌN NĂM TUỔI CỦA NƯỚC VIỆT NAM, ĐƯỢC THẾ GIỚI
VINH DANH LÀ “THÀNH PHỐ VÌ HÒA BÌNH” ĐÃ ĐƯỢC NGỢI CA TRONG GẦN MỘT
NGHÌN CA KHÚC CỦA CÁC TÁC GIẢ TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC. TRÊN THẾ GIỚI,
KHÔNG CÓ THỦ ĐÔ CỦA NƯỚC NÀO NHƯ HÀ NỘI LẠI CÓ NHIỀU CA KHÚC CỦA
RIÊNG MÌNH ĐẾN THẾ.
Hà Nội là mảnh đất nghìn năm văn vật do
không biết bao thế hệ người Hà Nội điểm
tô, đổ bao máu xương mới có được. Tuy
nhiên, trong kho tàng di sản gần một nghìn ca khúc
viết về Hà Nội đến hôm nay, số bài hát viết về người
Hà Nội, nghĩa là lấy người Hà Nội làm đối tượng sáng
tác trực tiếp, rất ít, chỉ có duy nhất một bài, và bái hát
ấy mang tên “Người Hà Nội”. Tác giả của ca khúc ấy
là Nguyễn Đình Thi. Song, cũng phải nói ngay rằng,
mặc dù những ca khúc khác viết về Hà Nội, không
lấy tên bài hát là Người Hà Nội, hoặc không lấy người
Hà Nội làm đối tượng sáng tác trực tiếp, mà chỉ viết
về một mùa nào đó trong bốn mùa vần xoay của đất
trời; hay về một tháng, một ngày, một khoảnh khắc
ngắn ngủi của Hà Nội; hay về một loài hoa, một địa
l NY SAN
danh nào đó: Hồ Gươm, Hồ Tây, con ngõ nhỏ,…của
Hà Nội, thì trong nội dung các bài hát ấy đều có bóng
dáng, đều có hơi thở của con người Hà Nội.
Mở đầu bài hát “Người Hà Nội”, với nhịp “vừa phải”
Nguyễn Đình Thi kể cho ta nghe tên các địa danh
tiêu biểu mà, hễ nhắc đến nó là người ta biết là Hà
Nội: “Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây”; về Hà Nội là
thủ đô ngàn năm “lắng hồn núi sông” với những tên
gọi qua các thời kỳ: “Đây Thăng Long, đây Đông Đô,
đây Hà Nội…”. Tiếp đến, tác giả dùng nhịp “nhanh
vừa”, để kể tên các địa danh nổi tiếng, làm nên hồn
cốt của Hà Nội 36 phố phường: “… đây Ô Chợ Dừa,
Ô Cầu Rền,….Quanh co, chen quanh rộn ràng Đồng
Xuân,…Hàng Đào ríu rít Hàng Đường, Hàng Bạc,
Hàng Gai…”.
7
9. Sau khi cho người nghe biết về những địa danh
tiêu biểu của Hà Nội, Nguyễn Đình Thi đi vào miêu
tả con người Hà Nội. Đối với một thành phố 1000
năm tuổi, trải qua nhiều thể chế chính trị khác nhau:
phong kiến, thực dân - phong kiến, dân chủ cộng
hòa, thì công dân của nó gồm đủ loại người, mọi tầng
lớp: nông dân, công nhân, trí thức, văn nghệ sĩ, tư
sản, tiểu thương, quan chức chính phủ, học sinh, sinh
viên,…Trong rất nhiều loại người đó, Người Hà Nội
được Nguyễn Đình Thi nói đến là những ai, trong ca
khúc? Trước hết ta thấy, đó là những người lao động
với “làn áo xanh nâu” (trang phục chủ yếu của người
lao động nghèo khó thủa đó) gánh gồng “tíu tít”, “ríu
rít” buôn bán, làm lụng quanh những Ô Chợ Dừa, Ô
Cầu Rền, những phố Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng
Gai…Chính họ, theo Nguyễn Đình Thi là những người
làm cho “Hà Nội vui sao”.
Một hình ảnh người Hà Nội nữa xuất hiện trong
ca khúc “Người Hà Nội” là những chàng trai làm cho
“Hà Nội tươi thắm. Sống vui phố hè”; là những chiến
sĩ cảm tử quân chiến đấu để chống lại quân Pháp
xâm lược.
Và, sau rốt, một người Hà Nội xuất hiện trong ca
khúc “Người Hà Nội” của Nguyễn Đình Thi chính là
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị Cha Già dân tộc, lãnh tụ
vĩ đại của cách mạng nước ta. Nếu những “Người
Hà Nội” trên chỉ được Nguyễn Đình Thi mô tả chung
chung, thì chỉ duy nhất Cha Già dân tộc - Hồ Chí
Minh được giới thiệu đích danh. Hình ảnh Hồ Chủ
tịch được Nguyễn Đình Thi khắc họa ở hai thời điểm
quan trọng nhất trong cuộc đời của Bác là thời điểm
Người lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng
Chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô dẫn đầu đội
hình Đại đoàn quân tiên phong về tiếp quản
Thủ đô ngày 10/10/1954. Ảnh tư liệu
hòa; và thời điểm sau khi Người lãnh đạo kháng chiến
9 năm chống Pháp, với trận đại thắng Điện Biên Phủ
trấn động địa cầu, Người cùng Trung ương Đảng trở
về Thủ đô. Đó cũng là hai thời khắc quan trọng, làm
nên mốc son chói lọi trong chặng đường lịch sử 1000
năm của Thủ đô Hà Nội.
Từ quê hương Làng Sen (Nghệ An) đến Hà Nội
chưa đầy 300km, nhưng Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí
Minh đã phải mất 34 năm và phải đi vòng quanh thế
giới mới đến được Hà Nội. Nguyễn Đình Thi tả Bác
Hồ xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc đời Người ở Hà
Nội là sau khi Bác lãnh đạo Cách mạng tháng Tám
năm 1945 thành công, từ Chiến khu trở về Hà Nội,
sau khi Hà Nội giành chính quyền:
“Một ngày Thu non sông chiến khu về, /đường
vang tiếng hát cuốn dòng người. /“Đoàn quân Việt
Nam đi”. / Hà Nội say mê chen đón Cha về, kín trời
phất phới vàng sao. /Ngày ấy chói vinh quang vang
ngàn phương lời thề ước.
Việt Nam yêu dấu ngả soi bóng sông Hồng Hà”.
Sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945,
chỉ hơn một năm sau, ngày 19/12/1946, Bác Hồ đã
phải ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, bởi thực
dân Pháp đã quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
Người cùng Trung ương Đảng rút lên chiến khu, từ
đó lãnh đạo cuộc kháng chiến. Cuộc chiến đấu của
Trung đoàn Thủ đô và nhân dân Hà Nội để bảo vệ
Thủ đô yêu dấu được Nguyễn Đình Thi mô tả bằng
âm nhạc:
“Hà Nội cháy khỏi lửa ngập trời. /Hà Nội hồng ầm
ầm rung, sông Hồng reo. /Thét lên xung phong căm
hờn sôi gầm súng. / Bùng cháy khắp phố ta ơi. / Vùng
lên chiến sĩ ta ơi. / Trời Hà Nội đỏ máu. / Bụi hè đường
8
10. cuốn bốc tung bay, xác thù phơi dưới gót giày ầm ầm
cười tiếng súng vui thay vang ngày mai sáng láng. /
Này lớp lớp người đi ánh sao tưng bừng chói lói lòng
ta. / Mai này lớp lớp người đi thét vang vang trời khải
hoàn. / Nhìn đây máu chúng ta tưới bao nhiêu đất
này, ta tưới ngày mai vút lên”.
Cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp
thắng lợi, Bác Hồ và Trung ương Đảng cùng các
chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô năm xưa ca khúc khải
hoàn, trở về Hà Nội. Hình ảnh Bác Hồ và đoàn quân
chiến thắng trở về Hà Nội được Nguyễn Đình Thi mô
tả bằng âm nhạc:
“Hồng Hà réo sóng say sưa trong Cha / bóng
Người mênh mông. / Mắt Người sáng láng vầng sao
thắm tươi, / trán Người mái tóc bạc thêm. / Bóng cờ
bát ngát ngày vui nước non reo cười, /trên môi Người
cười, tiếng cười ngày về”.
Ca khúc “Người Hà Nội” được Nguyễn Đình Thi
sáng tác trước Tết Nguyên đán năm 1947, giữa lúc
cuộc chiến đấu chống quân Pháp với vũ khí hiện đại
của Trung doàn Thủ đô và nhân dân Hà Nội diễn ra
ác liệt. Và trên thực tế, Trung đoàn Thủ đô đã phải
rút khỏi Thủ đô. Vậy mà, chính trong hoàn cảnh đó,
Nguyễn Đình Thi đã hình dung được ngày chiến
thắng Bác Hồ cùng đoàn quân ca khúc khải hoàn
trở về Thủ đô. Sau 9 năm trường kỳ kháng chiến,
dự đoán thiên tài của Nguyễn Đình Thi đã hoàn toàn
đúng sự thực. Chỉ với niềm tin vào sự lãnh đạo tài tình
của Đảng, của lãnh tụ, niềm tin vào tinh thần quyết
chiến quyết thắng của chính nghĩa mới viết nổi, mới
tiên đoán về sự kiện sẽ đến 8 năm sau - ngày giải
phóng Thủ đô, Bác Hồ, Trung ương Đảng và những
người con của Hà Nội đi tản cư sẽ ca khúc khải hoàn
trở về thành phố của mình.
Sau khi ra đời, bài hát “Người Hà Nội” nhanh chóng
được truyền đi, đến với các chiến sĩ Trung đoàn Thủ
đô. Bài hát thúc giục những người con của Hà Nội
đang đánh nhau với giặc Pháp để giữ từng tấc đất
thấm máu của Hà Nội. Ở một xóm nhỏ heo hút trên
đồi Phú Thọ, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã viết phối
khí cho dàn nhạc dây một cách tài hoa và độc đáo.
Chính nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát cũng biểu diễn
bài hát ấy trong Hội nghị Tuyên huấn Trung ương họp
ở Đại Từ (Thái Nguyên, năm 1947). Bài hát ấm lòng
biết bao người khắp ba miền về dự họp. Dòng nhạc
và tiếng hát vừa dứt đi, cả hội trường vỗ tay vang
trời và mắt người nào cũng hoe hoe đỏ. Hôm đó,
đồng chí Trường Chinh đến gặp riêng Nguyễn Đình
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
Thi và dẫn anh đi men theo sườn đồi vào trong một
xóm nhỏ. Ở đây, anh được gặp Bác Hồ và Người bảo
anh hát cho Người nghe “Người Hà Nội”. Kìm nén xúc
động, Nguyễn Đình Thi đã hát một cách say sưa:
“Hồng Hà réo sóng say sưa trong Cha, /bóng
Người mênh mông. / Mắt Người sáng láng vầng sao
thắm tươi, / trán Người mái tóc bạc thêm. / Bóng cờ
bát ngát ngày vui nước non reo cười, /trên môi Người
cười, tiếng cười ngày về”.
Trong một đợt tuyên truyền xung phong, Nguyễn
Đình Thi lại về Hưng Yên. Dọc đường gặp nghệ sĩ
múa Thái Ly, là cán bộ tuyên truyền của tỉnh. Thái
Ly vừa đi, vừa ôm cây đàn ghi ta vừa hát bài “Người
Hà Nội”. Hai người đi các huyện dọc đường số 5,
con đường huyết mạch lớn nối Hà Nội với cảng Hải
Phòng, quân Pháp đang dồn sức đánh chiếm. Thái
Ly hát còn Nguyễn Đình Thi lặng lẽ sửa nốt, bổ sung
tiết tấu và lời ca… Cho mãi tới năm 1948, giữa Chiến
khu Việt Bắc, bài hát “Người Hà Nội” mới hoàn chỉnh
như hiện nay.
Năm 1951, Nguyễn Đình Thi và nhạc sĩ Lưu Hữu
Phước trong Đoàn thanh niên, sinh viên Việt Nam dự
Festival thanh niên, sinh viên thế giới tại Berlin (Cộng
hòa DC Đức). Bài hát “Người Hà Nội” của Nguyễn
Đình Thi được các nhạc sĩ người Đức phối khí, phối
âm để trình diễn trong Đại hội. Ban tổ chức Festival
đã bố trí một dàn nhạc lớn để thể hiện bản nhạc này.
Nhưng rồi đúng hôm bản nhạc trình diễn thì vị nhạc
trưởng người Đức lại vắng mặt do có công việc đột
xuất. “Người Hà Nội” của đất nước Việt Nam đang
chiến đấu chống thực dân Pháp không thể không
vang lên trước những người trẻ thế giới để thế giới
hiểu rõ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân
Việt Nam. Không do dự, Nguyễn Đình Thi đã đứng
trên bục, chỉ huy dàn nhạc người Đức trình tấu bản
nhạc của mình, trước sự thán phục của các thính giả.
Sau đó, bản nhạc được thu đĩa rồi từ đó bay sang
Pháp, các nước châu Âu làm nức lòng kiều bào ta ở
nước ngoài.
Kể từ khi ra đời đến nay, “Người Hà Nội” đã đi cùng
cuộc sống của Thủ đô, của người Hà Nội và vang lên
trên những con đường ra trận. Trong những ngày Hà
Nội đánh B52 trên bầu trời Hà Nội, người ta vẫn nghe
“Người Hà Nội”. “Người Hà Nội” luôn được nhiều thí
sinh chọn để thể hiện tài năng trong các cuộc thi Sao
Mai, Sao Mai điểm hẹn,.. “Người Hà Nội” không còn
là của riêng người Hà Nội nữa, mà đã trở thành tài
sản chung của mọi thế hệ người Việt Nam.
9
11. “Người Hà Nội” là 1 trong 100 bài hát hay nhất
về Hà Nội được tuyển chọn in trong tác phẩm Tổng
tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long (Nxb Văn hóa
- Thông tin, Hà Nội, 2009). Nếu được phép chọn 10
ca khúc hay nhất trong 100 ca khúc hay nhất đó, tôi
và chắc nhiều người khác cũng đồng ý là, “Người Hà
Nội” của tác giả Nguyễn Đình Thi nằm trong số này.
Nhiều năm sau khi ca khúc “Người Hà Nội” ra
đời, Nguyễn Đình Thi đã tâm sự về hoàn cảnh ra đời
của tác phẩm bất hủ này. Buổi chiều tối ngày 19 /
12/ 1946, khi đang là Tổng Thư ký Hội Văn hóa cứu
quốc, Nguyễn Đình Thi được lệnh rời Hà Nội cùng với
đồng chí Trần Huy Liệu. Hai người đi trên một chiếc
xe con xuôi về phía Hà Đông, đến Ngã Tư Sở thì đèn
điện vụt tắt, cả Hà Nội cháy bùng lên vì đạn pháo lửa.
Lửa đỏ ngợp trời, Hà Nội rung chuyển vì tiếng đại bác
của giặc Pháp và đạn pháo của bộ đội ta đánh trả.
Hà Nội đang cháy ngùn ngụt sau lưng Nguyễn Đình
Thi. Nguyễn Đình Thi nghẹn ngào thương trào nước
mắt. Nguyễn Đình Thi và Trần Huy Liệu đều im lặng
không ai nói với nhau lời nào, nhưng lòng cũng cháy
bỏng vì Hà Nội. Đến Hà Đông, anh Trần Huy Liệu
đi tiếp, còn Nguyễn Đình Thi được đồng chí Trường
Chinh trao cho nhiệm vụ cầm bản Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch quay gấp về Hà
Nội ngay trong đêm 19/12/1946 để kịp trao cho Ủy
ban kháng chiến Hà Nội. Nhận lệnh, Nguyễn Đình
Thi tất tả đi ngược trở về nơi góc trời đang cháy đỏ.
Hàng trăm, hàng vạn người, già trẻ bồng bế nhau đi
tản cư. Những dáng người xiêu vẹo, những đôi mắt
đỏ hoe cứ ám ảnh Nguyễn Đình Thi mãi trên con
đường quanh co trở về Hà Nội. Đi bộ đến nửa đêm
thì Nguyễn Đình Thi kịp trao Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Hồ Chủ tịch cho Ủy ban kháng chiến
Hà Nội. Xong nhiệm vụ, anh đi gấp đến 4 giờ sáng thì
về đến cơ quan báo Cứu quốc đóng ở Làng Sét.
Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Hồ Chủ tịch, quân và dân Hà Nội, mà lực lượng nòng
cốt là Trung đoàn Thủ đô đã anh dũng chiến đấu
ngăn cản bước tiến của quân Pháp để người dân Hà
Nội kịp tản cư ra các vùng quanh Hà Nội. Do thế
lực quân Pháp quá mạnh, cuộc chiến đấu của Trung
đoàn Thủ đô không cân sức, bị chúng vây chặt ở Liên
khu I. Còn quân Pháp đã đánh xuống vành đai Hà
Nội.
Đầu năm 1947, cơ quan báo Cứu quốc đóng ở
làng Khúc Thủy, bên bờ sông Nhuệ, Hưng Yên. Giữa
lúc báo đang chuẩn bị ra số Tết để gửi vào tặng bộ
đội Trung đoàn Thủ đô đang giữ từng tấc đất Hà Nội,
thì đồng chí Thép Mới về gặp Nguyễn Đình Thi và
“đặt” anh làm một bài hát để tặng chiến sĩ ta. Tình
cờ, trong một ngôi nhà của người Hà Nội tản cư còn
sót lại chiếc đàn piano. Nguyễn Đình Thi ngồi xuống.
Sau một phút lắng tĩnh, những hình ảnh về Hà Nội lần
lượt ùa về. Nguyễn Đình Thi gõ từng nhịp một xuống
phím đàn. Như có một sức mạnh kỳ bí, dòng nhạc
tuôn chảy cùng lòng người:
…“Hà Nội cháy, khói lửa ngợp trời. /Hà Nội hồng
ầm ầm rung. /Hà Nội vùng đứng lên. /Hà Nội vùng
đứng lên. /Sông Hồng réo. /Thét xung phong căm
hờn sôi gầm súng. /Bùng cháy khắp phố ta ơi!/Vùng
lên chiến sĩ ta ơi!/Trời Hà Nội đỏ máu”…
Cứ thế, dòng nhạc tuôn chảy như một dòng thác.
Bài hát “Người Hà Nội” ra đời như thế đó.
Từ một bài hát “đặt hàng” sáng tác để phục vụ
chính trị, cổ động chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô xông
lên trận tiền giết quân thù để bảo vệ thành phố yêu
dấu của mình, “Người Hà Nội” đã trở thành một tác
phẩm nghệ thuật bất hủ, có sức sống vượt thời gian
và được nhiều người yêu thích. Điều này chỉ có thể
có được bởi tài năng và tình yêu Hà Nội của Nguyễn
Đình Thi. Khi sáng tác bài hát này, ông mới 24 tuổi.
Sau gần bẩy mươi năm, nghe bài hát “Người Hà
Nội” và đối chiếu với cuộc sống thực tại, ta vẫn bắt
gặp bóng dáng “làn áo xanh nâu” gánh gồng “tíu tít”,
“ríu rít” buôn bán, làm lụng quanh những Ô Chợ Dừa,
Ô Cầu Rền, trên các phố Hàng Đường, Hàng Bạc,
Hàng Gai…mà Nguyễn Đình Thi mô tả “Người Hà
Nội” năm xưa. Bóng những người phụ nữ quảy quang
gánh bán hàng rong, mưu sinh, nhiều khi đến phiền
lòng cho giao thông, nhưng nó là một nét văn hóa Hà
Nội. Nếu mất gánh gồng (cũng như mất xe xích lô),
tôi e mất đi một bản sắc Hà Nội. Nguyễn Đình Thi
quá giỏi khi nhận ra cái nét ấy.
Trong số những người con của Hà Nội được
Nguyễn Đình Thi tả trong “Người Hà Nội” của năm
1947, nay chỉ có Bác Hồ đã “đi xa”. Nhưng trong đời
sống thực cũng như trong Tráng ca “Người Hà Nội”,
Bác Hồ vẫn sống mãi trong trái tim người Hà Nội và
các thế hệ người Việt Nam:
“…bóng Người mênh mông.
Mắt Người sáng láng vầng sao thắm tươi,
trán Người mái tóc bạc thêm.
Bóng cờ bát ngát ngày vui nước non reo cười,
trên môi Người cười, tiếng cười ngày về./.n
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
10
12. trong ca khúcHà Nội
Mùa Thu không chỉ là một trong bốn tiết
Xuân - Hạ - Thu - Đông của Đất Trời, mà
còn đong đầy nhiều cảm xúc của người
Hà thành và những lữ khách cho dù chỉ thoáng gặp
trong một lần ghé qua Hà Nội. Mùa Thu năm 1945,
dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, nhân dân
Hà Nội vùng lên trong Cách mạng tháng Tám, cướp
chính quyền từ tay phát xít Nhật. Cũng Mùa Thu ấy,
Bác Hồ - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc đọc bản
Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - Nhà nước
dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, làm nên
một cuộc thay đổi vận mệnh của cả một đất nước,
một dân tộc, và của mỗi gia đình người Hà Nội. Sau 9
Mùa Thu Hà Nội dưới gông cùm của thực dân Pháp,
với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hà Nội sạch bóng
quân thù, tưng bừng cờ hoa hân hoan chào đón Bác
Hồ và Trung ương Đảng trở về, cũng vào đúng Mùa
Thu, ngày 10 tháng 10 năm 1954. Vì thế, thật dễ hiểu
là Mùa Thu đã rung động con tim vốn nhạy cảm với
cái Đẹp của Trời đất, với cái Đẹp của tâm hồn Con
người của nhiều nhạc sĩ. Cứ mỗi độ Thu sang, các
nhạc sĩ ở khắp mọi miền quê của Tổ quốc, lại hướng
về Hà Nội - nơi “lắng hồn núi sông”, trái tim của cả
nước, để viết về Hà Nội - nhớ về Mùa Thu Hà Nội.
Mùa Thu Hà Nội đã chiếm trọn cảm xúc nhiều
nhạc sĩ. Trong số 100 bài hát hay nhất về Hà Nội
được tuyển chọn từ hàng nghìn bài hát viết về Hà Nội,
viết về
l TS.NGUYỄN MINH SAN
Mùa thu
Một sớm Ba Đình. Ảnh Vũ Trung Kiên
11
13. in trong Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long
(Nxb Văn hóa - Thông tin, 2009), có 16 bài viết về 4
mùa ở Hà Nội. Trong 16 bài đó, thì tên bài hát có từ
“Thu” (mùa thu, đêm thu, sắc trời thu, thu sớm, thu lại
về, đoản khúc thu), nghĩa là tác giả lấy Mùa Thu Hà
Nội làm đối tượng thể hiện trực tiếp, có 11 bài (chiếm
tỷ lệ gần 70% viết về 4 mùa và chiếm 11% trong số
100 bài nhất về Hà Nội), chỉ có 04 bài tên bài hát có
từ “Mùa Xuân”, có 01 bài hát tên bài hát có từ “Mùa
Đông”, còn “Mùa Hạ” không có bài nào.
11 bài hát mà ngay từ tên bài hát có từ “Thu”, là:
1. Có một mùa Thu Hà Nội (Nhạc: Phạm Tuyên,
Lời: thơ Lê Hoàng Minh);
2. Có phải em mùa Thu Hà Nội (Nhạc: Trần Quốc
Lộc, Lời: thơ Tô Như Châu);
3. Đêm Thu Hà Nội (Nhạc: Lê Mây , Lời: thơ
Hoàng An Hợp);
4. Em nhớ thương Hà Nội mùa Thu (Nhạc: Đỗ
Dũng, Lời: thơ Chơn Huệ);
5. Một sắc trời Thu Hà Nội (Nhạc và lời: Văn Dung);
6. Thu sớm bước dạo (Nhạc và lời: Lê Tịnh);
7. Hà Nội mùa Thu (Nhạc và lời: Vũ Thanh);
8. Hà Nội Thu lại về (Nhạc: Đoàn Bổng, Lời: thơ
Nguyễn Thị Hồng);
9. Tôi yêu mùa Thu Hà Nội (Nhạc và lời: Phạm
Trọng Cầu)
10. Đoản khúc Thu Hà Nội (Nhạc và lời: Trịnh
Công Sơn);
11. Nhớ mùa Thu Hà Nội (Nhạc và lời: Trịnh Công Sơn)
Ngoài 11 ca khúc trên, trong số 100 ca khúc hay
nhất viết về Hà Nội đó, tuy tên bài không có chữ
“Thu”, nghĩa là mục đích của tác giả không viết trực
tiếp về Mùa Thu Hà Nội, song trong nội dung bài hát
viết về những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc,
hay chỉ là sự kiện liên quan đến riêng tác giả đã diễn
ra dưới trời Thu, sắc Thu của Hà Nội. Nhớ đến sự
kiện ấy, tác giả không quên được hương sắc của Thu
Hà Nội. Hay, mỗi khi bắt gặp hay nhớ về Thu Hà Nội,
những kỷ niệm trên lại ùa về, đong đầy nỗi nhớ.
Có thể thấy điều này trong những sáng tác sau:
- Có 2 bài hát, tuy tên bài hát không có chữ
“Mùa Thu”, nhưng tên bài hát có tháng nằm trong
tiết Thu Hà Nội, là: Cảm xúc tháng Mười (Nhạc:
Nguyễn Thành, Lời: thơ Tạ Hữu Yên); Hà Nội tháng
Mười (Nhạc và lời: Xuân Giao), Tháng Mười Hà Nội
(Nhạc và lời: Trương Ngọc Ninh), …Ví như bài Tháng
Mười Hà Nội, Trương Ngọc Ninh đã viết những ca
từ: “Tháng mười thu, phố phường thu Hà Nội. Tháng
mười thu, mùa thu. Lắng nghe heo may gọi mùa thu
nước xanh trong mặt hồ. Chiều xuống lá thu nhẹ rơi
bồi hồi mưa thu trong tôi….”.
- Những bài không trực tiếp có tên bài hát có chữ mùa
Thu, nhưng viết về một loài hoa đặc trưng của Hà Nội -
hoa Sữa - loài hoa chỉ nở vào cuối Thu đầu Đông, là:
Hoa sữa (Nhạc và lời Hồng Đăng), Mùa hoa sữa (Nhạc:
Huy Thục, Lời: phỏng thơ Hải Như); …
- Tuy tên bài hát không có tên mùa Thu, nhưng ta bắt
gặp mùa Thu hoặc tiết Thu Hà Nội trong nội dung ca từ,
như: Hà Nội đêm trở gió (Nhạc: Trọng Đài, Lời: Chu Lai
- Trọng Đài); Hà Nội mùa vắng những cơn mưa (Nhạc:
Trương Quí Hải, Lời: dựa ý thơ Bùi Thanh Tuấn); Trời
Hà Nội xanh (Nhạc và lời: Văn Ký); Im lặng đêm Hà Nội
(Nhạc: Phú Quang, Lời: thơ Phạm Thị Ngọc Liên); Em
ơi, Hà Nội phố (Nhạc: Phú Quang, Lời: phỏng thơ Phan
Vũ),.…Ví như bài Em ơi, Hà Nội phố, ta bắt gặp những
ca từ nói lên hương hoa mùa Thu rất riêng của Hà Nội
là: “mùi hoàng lan”, “mùi hoa sữa”; là “cây bàng mồ côi
mùa đông”, là “hàng phố cũ rêu phong từng mái ngói xô
nghiêng”, là “hoàng hôn trên Hồ Tây nao nao kỷ niệm”.
Đó là những cảnh sắc rất Thu của Hà Nội. Tác giả yêu
say đắm cảnh sắc ấy, nhân cách hóa, ví sắc Thu như
một người con gái mình yêu.
Với 11 ca khúc, 11 “tuyên ngôn” về Mùa Thu Hà Nội
được tác giả đặt ra ngay từ tên bài, có một điều lạ lùng,
hầu hết các tác giả của những ca khúc này đều không
phải là người Hà Nội. Có phải thế chăng mà Chế Lan
Viên viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất bỗng hóa
tâm hồn”.
Tháp Rùa. Ảnh Nguyễn Minh San
12
14. Trong 11 ca khúc đó, có 5 ca khúc, phần lời là thơ
hoặc ý thơ của tác giả khác được nhạc sĩ phổ nhạc (là:
Có một mùa Thu Hà Nội thơ Lê Hoàng Minh; Có phải
em mùa Thu Hà Nội thơ Tô Như Châu; Đêm Thu Hà Nội
thơ Hoàng An Hợp; Em nhớ thương Hà Nội mùa Thu thơ
Chơn Huệ; Hà Nội Thu lại về thơ Nguyễn Thị Hồng). Và,
trong số 11 ca khúc hay nhất viết về Mùa Thu Hà Nội ấy,
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - một người con Xứ Huế, lại quá
nửa đời người sống ở Sài Gòn (nay là TP Hồ Chí Minh),
là tác giả của 02 ca khúc là: Đoản khúc Thu Hà Nội và
Nhớ mùa Thu Hà Nội. Cả hai ca khúc này, Trịnh Công
Sơn là tác giả của cả phần nhạc và ca từ.
Trong số 11 ca khúc ấy, Thu sớm bước dạo là ca
khúc viết muộn nhất. Theo đề tựa “Tặng Hà Nội nghìn
năm của tôi”, có thể suy luận nhạc sĩ Lê Tịnh viết bài này
chậm nhất là năm 2010, nhân kỷ niệm Hà Nội 1.000
năm tuổi.
Mùa Thu Hà Nội chỉ có 3 tháng. Trong khoảng thời
gian ngắn ngủi đó, sắc Thu đã kịp vương vào con người
và vạn vật của Hà Nội. Nhưng thế cũng đủ để các nhạc
sĩ cảm nhận và mô tả Mùa Thu Hà Nội dưới muôn hình
vạn trạng.
Trong Có một mùa Thu Hà Nội, Nhạc sĩ Phạm Tuyên
không tập trung tả hương sắc mùa thu thế nào mà nói về
một sự kiện diễn ra vào mùa thu năm 1946, cuộc chiến
60 ngày đêm của quân dân Hà Nội, về Trung đoàn Thủ
đô phải tạm rút khỏi Hà Nội, sau 9 năm lại ca khúc khải
hoàn về lại Thủ đô: “Vời vợi xanh năm cửa ô. Tháng
mười heo may ngọn gió, lớp lớp quân về như sóng. Rung
rinh màu lá cây rừng. Mắt người Hà Nội rưng rưng. Cờ
sao tung bay phố cổ. Có một mùa thu như thế, thành lời
bài hát không quên”.
Nhạc sĩ Trần Quang Lộc trong Có phải em mùa Thu
Hà Nội đã nhân cách hóa, gọi mùa Thu Hà Nội là “em”
để trò chuyện, để bày tỏ cảm xúc của mình: về mùa
Thu Hà Nội xưa, với Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công, với “hồn Trưng Vương sông Hát”, mùa Thu
Hà Nội “mùa thu của ước mơ”.
Nhạc sĩ Lê Mây trong Đêm Thu Hà Nội, tả về một
đêm mùa thu Hà Nội, bên Hồ Gươm xanh huyền thoại,
nghe thu đến với đất trời, nghe lá mùa thu rơi, trong
không gian êm ả, và phát hiện ra “Hương Hà Nội êm
đềm, dịu dàng trong mùa hoa sữa. Đêm mùa thu đang
mở cửa, đón bao câu chuyện tâm tình. Bàn chân dù
muôn phương. Người đi nào nguôi quên, dáng mùa thu
Hà Nội. Một Tháp Rùa lung linh quyện mây trời trong
xanh. Tháp Bút nghiêng ngiêng đợi chờ”.
Hà Nội giữa mùa Thu được Nhạc sĩ Đỗ Dũng tả trong
Em nhớ thương Hà Nội mùa Thu với “Không gian êm ả.
Có những phố gầy giăng mắc sương mây. .. Chiều se se
lạnh heo may rải lá vàng trong gió. Buông mặt nước hồ
hai hàng liễu rủ. Tiếng chuông chiều ngân vang cùng
với niềm tiếc nuối gợi nhớ miền mênh mang”. Tác giả
nguyện “dù có chia xa hay gần gũi. Lặng mãi trong em
mùa thu”.
Nhạc sĩ Văn Dung, trong một ngày Thu đi trên đường
Hà Nội, ông đã nhận ra hương sắc riêng Một sắc trời Thu
Hà Nội: “Hà Nội ngây ngất nắng xao động gió heo may”,
nhận ra Hà Nội “ngàn năm dấu xưa còn đó, trầm mặc
uy nghi Thăng Long Đông Đô. Lặng lẽ chiều Tây Hồ,
Lặng lẽ từng hồi chuông bâng khuâng trong không gian”.
Trong cái hương sắc mùa thu ấy, tác giả như nghe thấy
tiếng hát ngày ấy, từng nhịp bước ngày ấy, nghe vọng về
lời Người (Bác Hồ) nói bao thân thương; để Hà Nội hôm
nay thênh thang trong gió thu. Để ta đi bên nhau vui say
bao ước mơ. Để Hà Nội đẹp bao trong trang thơ”.
Nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu “yêu” mùa Thu Hà Nội,
bởi Thu Hà Nội có: “mặt hồ lấp lánh như gương soi…
chiếc lá mùa thu rơi làm xôn xao Hồ Gươm…bay hương
cốm mới.. màn sương thu… mùa heo may về…”. Và, tác
giả nhớ về “mùa thu xưa” Cách mạng tháng Tám thành
công, “lời Bác nói núi sông âm vang Ba Đình” (trong khi
đọc bản Tuyên Ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình
ngày 2/9/1945, Bác đã nói : “Tôi nói đồng bào nghe rõ
không ?”) (bài Tôi yêu mùa Thu Hà Nội).
Mỗi khi Hà Nội vào Thu, cũng như mỗi người dân Hà
Nội, trong lòng Nhạc sĩ Vũ Thanh lại xao xuyến, bâng
Mùa cốm xanh về. Ảnh Thuỵ Anh
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
13
15. khuâng “nghe gió đưa vang vọng giữa Ba Đình” lời Bác
Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập (“lời Người thu năm ấy”),
bâng khuâng nhớ về mầu cờ đỏ sao vàng rực trời Hà
Nội trong ngày khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa (“Mầu cờ thu năm ấy”). Từ mùa Thu năm 1945 ấy,
trải qua gian lao, qua chiến tranh, Hà Nội “Vẫn đây, xanh
trời mây”, vẫn trọn vẹn một tình yêu trong trái tim mỗi
người Việt Nam, Hà Nội vẫn giữ “khuôn mặt sáng”, vẫn
“duyên dáng”, vẫn giữ dáng vóc của Thủ đô một nước
ngàn năm văn hiến. Có được diện mạo ấy, dáng vóc ấy,
là bởi có “Em bên anh. Ta bước đi nghe lòng nghĩ suy
gì. Hà Nội tim ta đó. Dặm dài trong gian khó. Vẫn ngát
xanh, xanh mùa thu” (bài Hà Nội mùa Thu).
Mùa Thu Hà Hội được Nhạc sĩ Đoàn Bổng cảm nhận
qua một cảnh đẹp của Hà Nội là Hồ Tây. Vào một chiều
thu, Hồ Tây thật “mộng mơ”, “êm đềm”. Lúc hoàng hôn
buông xuống, “trời Hồ Tây trong xanh”. Hai người yêu
nhau, đứng bên nhau trong cảnh sắc ấy của Hồ Tây:
“Hai chúng mình lặng im. Nỗi cô đơn vơi dần…Mơ màng
trong em anh. Em dịu dàng bên anh. Anh ôm em nồng
thắm”. Và, khi xa nhau, kỷ niệm ấy không bao giờ phai
mờ: “Rồi từ đấy xa nhau. Bao nỗi buồn đọng lại. Trong
chiều thu lắng sâu” (bài Hà Nội Thu lại về).
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có 2 bài, là: Đoản khúc
Thu Hà Nội và Nhớ mùa Thu Hà Nội. Hai ca khúc, hai
tâm trạng của tác giả. Trong Đoản khúc Thu Hà Nội:
Trịnh Công Sơn đã tả những nét đặc trưng của tiết trời
mùa thu, là: “Hà Nội mùa Thu. Hà Nội gió. Xôn xao
con đường, xôn xao lá. Nhòa phố mong manh, nhòe
phố mưa. Chợt nắng long lanh chợt nắng thưa”. Nhưng
ông chỉ mượn cái hương sắc ấy để nói tâm trạng nhớ
nhung một người con gái mà đoan chắc ông nhớ, khi
ông đang ở Hà Nội trong một sớm mùa thu: “Hà Nội
mùa thu tròn nỗi nhớ. Không bởi vì em hay vì em…Hồng
má môi em hồng sóng xa. Vì một bàn tay không ngần
ngại. Tặng hết cho tôi một phố chờ”. Đến Nhớ mùa Thu
Hà Nội, Trịnh Công Sơn hoàn toàn khác. Những thứ mà
ông nhớ rất cụ thể, và đều là những thứ gợi hương, sắc
Chiều Hồ Tây. Ảnh Thắng Sói
đặc trưng của Thu Hà Nội. Và, nói
đến Thu Hà Nội nếu phải dùng sắc,
dùng hương để cảm, để kể, để tả,
thì không thể không tả, không nhắc
đến /kể đến nó:
“cây cơm nguội vàng”, “Cây
bàng lá đỏ”, “nằm kề bên nhau phố
xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu”,
“mùa hoa sữa về thơm từng ngọn
gió”, “mùa cốm xanh về thơm từng
ngõ nhỏ, cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua”, “Hồ
Tây chiều thu mặt nước vàng bay, … màn sương thương
nhớ,… bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời”.
Và, trong cái hương sắc mùa thu Hà Nội ấy, mặc
dù “đi giữa mọi người” giữa trời Thu Hà Nội, Trịnh Công
Sơn vẫn “nhớ đến một người”. Đoan chắc, người con
gái được Trịnh nhớ đến ấy không buồn, khi lòng người
nghệ sĩ “Nhớ đến một người để nhớ mọi người”.
Nhạc sĩ Lê Tịnh viết Thu sớm bước dạo sau khi
những ca khúc viết về Mùa Thu Hà Nội đã rất nổi tiếng,
rất được yêu thích, đã đi vào trái tim yêu Hà Nội của
bao thế hệ rồi. Thời điểm tác giả viết ca khúc này là lúc
không gian Hà Nội đã mở rộng, đang trên con đường
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giao thông nội đô còn
nhiều điều tiếng. Song, Mùa Thu năm 2010 của Hà Nội
được nhạc sĩ cảm nhận về phương diện thiên nhiên, Hà
Nội vẫn giữ hương sắc mùa thu xưa, như: “sương giăng
mờ hột nào rót nhỏ”, “một khung trời những vân vi chớp
hé”, “từng chiếc lá tìm nhau sắc nắng mùa thu”, “cây
sấu ru mùa hè vương trên áo chút gió heo may”. Và tác
giả vẫn nghe thấy trong gió Thu Hà Nội của thế kỷ XXI
những tiếng vọng của mùa Thu cách mạng Hà Nội xưa:
“thành phố của em gươm thiêng truyền đời đời ánh lửa”,
“Vào Ba Đình nắm hương thơm thắp cháy cháy hồng
điều chung thủy”. Hà Nội vẫn là “Nơi suy nghĩ tóc bạc
nhiều cho trăm lối đất nước đi về”. Tác giả gửi gắm niềm
tin tưởng, cũng là nhắn gửi cho muôn sau: Hà Nội “Đưa
chân bước nghe thì thào, xin ai chớ quên rêu phong,
cho hương sắc mãi thơm đời đời”.
Thu quyến rũ đã lên hương, lên sắc, và ngất ngây
tình trong những ca khúc hay nhất về Hà Nội. Dù có
muôn sau, Mùa Thu Hà Nội vẫn mãi là vẻ đẹp bất tận
và quyến rũ của Hà Nội.
Thu ấy chắc chắn sẽ tiếp tục cất lên thành lời,
ngân lên thành nhạc để:
Hà Nội tim ta đó
Dặm dài trong gian khó
Vẫn ngát xanh, xanh Mùa Thu!./. n
14
16. ĐÀI PHUN NƯỚC GẮN GỐM BÔNG SEN VÀNG
Công trình nghệ thuật mới
chào mừng 60 năm giải phóng Thủ đô
Vl TRÀNG AN ào buổi tối, với kỹ thuật
chiếu sáng bằng đèn
đổi màu, bông sen gốm
khổng lồ chuyển dần theo các
màu: hồng cánh sen, hồng cam,
xanh ngọc, tím biếc… ấn tượng
và đẹp mắt. Bất cứ ai đến thăm
công trình cũng đều cảm nhận
được vẻ đẹp lãng mạn bay bổng
đậm chất Hà thành.
Đài phun nước cao gần 5m,
gồm 3 tầng cánh sen được tạo
hình mềm mại, thanh thoát. Mỗi
tầng cánh có 6 cánh, tổng cộng
18 cánh sen được gắn hàng triệu
viên gốm nhỏ 2cm x2cm. Cấu
trúc vươn lên và xòe nở của bông
sen gần giống với kiến trúc của
chùa Một Cột gồm có một cột trụ
chính tâm nâng đỡ khối hoa sen.
Ngoài ra, xung quanh đài
phun nước có thêm 4 chiếc ghế
gắn gốm hình vòng cung. Đường
diềm trang trí lưng tựa của các
ghế này là nét đồ họa cầu Long
Biên và phố cổ Hà Nội. Vì thế
mỗi khi tựa lưng vào ghế mỗi
người sẽ cảm nhận được mình
đang được bao bọc bởi những
gì thân thương nhất của Thủ đô.
Đây là kỹ thuật in trên gốm nặng
lửa rất đặc biệt của các tác giả
công trình để đưa các hình ảnh
15
17. cổ của Hà Nội và hình ảnh Hà
Nội trong ngày tiếp quản Thủ đô
lịch sử 10/10/1954 lên những tấm
gốm vĩnh cửu được sắp đặt rất
đương đại phía trên hình đồ họa
cầu Long biên.
Tác giả của công trình Đài
phun nước gắn gốm bông sen
vàng này là nữ họa sỹ Nguyễn
Thu Thủy. Là “Công dân ưu tú”
của Thủ đô (năm đầu tiên), với
tình yêu Hà Nội sâu sắc,, họa sỹ
Nguyễn Thu Thủy- tác giả Con
đường Gốm sứ ven sông Hồng,
Cờ Tổ quốc và 6 bức tranh gốm
độc đáo ở Trường Sa - luôn đau
đáu với những ý tưởng nối tiếp ý
tưởng và mong muốn được chinh
phục và làm đẹp các không gian
lớn ngoài trời, đóng góp cho cộng
đồng, cho xã hội. Ngay từ giữa
năm 2013, họa sĩ Nguyễn Thu
Thủy cho đã hình thành 3 ý tưởng
mới về ba công trình nghệ thuật
công cộng chào mừng 60 năm
giải phóng Thủ đô là: Đài phun
nước bông sen vàng tại vườn hoa
Mai Xuân Thưởng, Điêu khắc
gốm Trái tim tình yêu Hà Nội bên
hồ Trúc Bạch và Vĩnh cửu hóa
hình ảnh Hà Nội cổ trên đường
đê Trần Quang Khải đối diện Bảo
tàng lịch sử Quốc gia. Nữ họa sỹ
rất vui mừng vì cả ba ý tưởng đều
được lãnh đạo UBND TP Hà Nội
ủng hộ và đồng ý cho triển khai
thực hiện. Tuy nhiên, ý tưởng thứ
3 sau đó chưa được triển khai vì
vướng quy hoạch cải tạo cung
đường này. Còn công trình Trái
tim tình yêu Hà Nội đang trong
giai đoạn hoàn thiện.
Trở thành tổng đạo diễn của
hai công trình nghệ thuật công
cộng mới, trọng đại của Thủ đô,
họa sỹ Nguyễn Thu Thủy cùng
ê kíp chính gồm: kiến trúc sư
Nguyễn Thành Lam, nhà điêu
“
”
VÀO ĐÚNG NGÀY HÀ NỘI KỶ NIỆM SỰ KIỆN TRỌNG ĐẠI 60 NĂM GIẢI PHÓNG,
NGƯỜI DÂN HÀ NỘI VÀ DU KHÁCH BỐN PHƯƠNG VÔ CÙNG NGỠ NGÀNG VÀ
PHẤN KHỞI KHI ĐƯỢC CHIÊM NGƯỠNG MỘT CÔNG TRÌNH MỸ THUẬT NGOÀI
TRỜI: ĐÀI PHUN NƯỚC BÔNG SEN VÀNG GẮN GỐM TẠI VƯỜN HOA MAI XUÂN
THƯỞNG (TRÊN PHỐ MAI XUÂN THƯỞNG, ĐẦU ĐƯỜNG THANH NIÊN, HÀ NỘI)
GIỮA KHÔNG GIAN XANH MƯỚT CỦA CÂY CỐI, ĐÀI PHUN NƯỚC HIỆN LÊN BỪNG
SÁNG, HÀNG TRIỆU TIA NƯỚC VÀ NHỮNG VIÊN GỐM NHỎ LẤP LÁNH DƯỚI
NẮNG THU VÀNG.
Đài phun nước Bông sen vàng được chiếu sáng chuyển màu vào ban đêm. Ảnh Thu Thủy
16
18. khắc Bùi Viết Đoàn và gần 60
thợ xây dựng và nghệ nhân gắn
gốm của Công ty Nghệ thuật
Tân Hà Nội đã làm việc miệt
mài,cật lực trong suốt 56 ngày
đêm để kịp hoàn thành công
trình phục vụ công chúng Thủ đô
vào đúng dịp lễ kỷ niệm 60 năm
ngày giải phóng.
Họa sỹ Thu Thủy cho biết,
so với dự án Con đường gốm
sứ, hai dự án nghệ thuật công
cộng mới này đã được triển khai
rất bài bản, qua các khâu thẩm
định, thẩm tra, phê duyệt của Sở
Xây dựng. Vai trò của chủ đầu
tư là Ban Quản lý chỉnh trang
Đô thị Hà Nội là hết sức quan
trọng. Họ là các chuyên viên có
nghiệp vụ về kiến trúc, xây dựng
đã có nhiều kinh nghiệm trong
việc giám sát các công trình xây
dựng. Chính việc chịu áp lực về
tiến độ và chất lượng dưới sự
giám sát khắt khe của họ, chị và
e kíp thực hiện đã đạt được độ
hài lòng trong việc chuyển thể từ
phác thảo thành tác phẩm.
Trong quá trình triển khai
Hoạ sĩ Thu Thủy trực tiếp gắn gốm, và chỉ đạo thi công tại hiện trường.
Ảnh hoạ sĩ Thu Thủy cung cấp
thực hiện, ê kíp thực hiện cũng
đã tiếp thu được nhiều ý kiến
đóng góp quý báu từ Hội đồng
Nghệ thuật của Sở VH,TT&DL
Hà Nội. Ví dụ như việc điều
chỉnh độ nghiêng của cánh sen,
thảm cỏ xanh bao quanh đài
phun nước, hoa văn sóng nước
thời Lý trang trí thành bể, các
tone màu vàng của cánh sen…
Kết quả lao động nghệ thuật vất
vả là Hà Nội có thêm một đài
phun nước đẹp và một vườn hoa
hết sức lãng mạn.
Nhìn một cách tổng thể, công
trình Đài phun nước gắn gốm
bông sen vàng hài hòa giữa
không gian xanh của công viên
Mai Xuân Thưởng, xứng đáng là
một công trình nghệ thuật công
cộng mang tính biểu tượng của
vùng sen Tây Hồ, cũng như vẻ
đẹp thanh khiết của tâm hồn
người Hà Nội gửi gắm niềm vui
niềm tự hào về thủ đô văn hiến
trong dịp lễ kỷ niệm đầy ý nghĩa
này.n
17
19. HỘI THẢO KHOA HỌC
VĂN NGHỆ SĨ CAO TUỔI VỚI VĂN HÓA DÂN TỘC
l VH
Gs.AHLĐ Vũ Khiêu tặng câu đối mừng Gs. Hoàng Chương và nhà báo Kim Quốc Hoa tại Hội thảo. Ảnh Nguyễn Minh San
Sáng 01/10/2014, đúng ngày “Thế giới
Người cao tuổi”, tại Hội trường Bộ VH-TT&
DL, Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và
phát huy văn hóa dân tộc phối hợp với Báo Người
cao tuổi Việt Nam tổ chức Hội thảo “Văn nghệ sĩ
cao tuổi với văn hóa dân tộc”.
Tới dự Hội thảo có các vị: ông Huỳnh Vĩnh Ái
- Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL, TS. Đàm Hữu Đắc -
Phó Chủ tịch Thường trực Hội Người cao tuổi Việt
Nam; GS.AHLĐ Vũ Khiêu, GS.Hoàng Chương
-Tổng Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Bảo tồn và
phát huy văn hóa dân tộc, Nhà báo Kim Quốc Hoa
- Tổng biên tập Báo Người cao tuổi Việt Nam; cùng
hơn 100 Giáo sư, Tiến sĩ, Nghệ sĩ nhân dân, nhà
nghiên cứu hàng đầu về văn hóa nghệ thuật tham
dự.
Trước khi Hội thảo khai mạc, Đoàn Nghệ thuật
Hội Người Cao tuổi Việt Nam, đã biểu diễn nhiều
tiết mục văn nghệ mang tính dân tộc chào mừng
Hội thảo.
Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL Huỳnh Vĩnh Ái chúc
mừng các đại biểu tham dự Hội thảo nhân ngày
“Thế giới Người cao tuổi”. Sau Báo cáo Đề dẫn của
GS Hoàng Chương, lần lượt gần 20 nhà khoa học,
văn nghệ sĩ trình bày tham luận, phát biểu ý kiến
tại Hội thảo.n
18
20. Ảnh nghệ thuật về Hoàng Sa - Trường Sa, biển đảo Việt Nam
Những vấn đề đặt ra từ Tọa đàm khoa học
Gs. Hoàng Chương phát biểu tại buổi
Toạ đàm
l NGUYỄN MINH HOÀNG (Bài và ảnh)
PGS.TS Hồng Vinh phát biểu tại buổi
Toạ đàm
Nguyễn Á
Tọa đàm khoa học “Ảnh
nghệ thuật về Hoàng Sa -
Trường Sa, biển đảo Việt
Nam của Nguyễn Á” do Trung tâm
Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn
hóa dân tộc tổ chức sáng ngày 04
tháng 10 năm 2014, tại Hội trường
Bộ VH-TT&DL (Hà Nội).
Tham dự Tọa đàm, có: PGS.
TS Hồng Vinh - nguyên Ủy viên TƯ
Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận và
Phê bình văn học nghệ thuật Trung
ương; TS. Lê Bá Trình - Phó Chủ
tịch UBTƯ Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam; TS. Mai Liêm Trực - nguyên
Thứ trưởng Bộ Bưu chính - Viễn
thông; TS. Bùi Mạnh Hải - nguyên
Thứ trưởng Bộ KH&CN; PGS.
TSKH Phan Đình Tân - Chánh Văn
phòng Bộ VH-TT&DL; Ông Vũ Văn
Dũng - Phó Vụ trưởng Vụ Thông
tin tuyên truyền Ủy ban Biên giới
quốc gia; TS. Thiếu tướng Nguyễn
Quang Bắc - nguyên Phó Chủ
nhiệm Tổng cục Kỹ thuật Bộ QP;
Ông Vũ Quốc Khánh - Chủ tịch
Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam;
NSND Chu Thúy Quỳnh - Chủ
tịch Hội Nghệ sĩ Múa Việt Nam;
các Giáo sư, Tiến sĩ, NSND, nhạc
sĩ, nhà nghiên cứu văn hóa nghệ
thuật hàng đầu, như: GS Phong
Lê, GS.TSKH Hồ Ngọc Đại, GS
Đặng Kim Chi, GS Nguyễn Lân
Dũng, Nhạc sĩ Phạm Tuyên, NSND
Đặng Nhật Minh, NSND Đàm Liên,
NSND Phạm Thị Thành, Nhà
ngoại giao Nguyễn Trung, TS Đinh
Hoàng Thắng cựu Đại sứ Việt Nam
tại Hà Lan,…Tham dự Tọa đàm
còn có Anh hùng Quân đội La Văn
Cầu, Thiếu tướng Anh hùng Quân
đội Lê Mã Lương, Đại tá Nguyễn
Duy Quang - Trưởng phòng KHQS
Cảnh sát biển Việt Nam.
Một điểm thú vị và mang ý nghĩa
chính trị - khoa học rất lớn là sự xuất
hiện tại cuốc Toạ đàm giữa Thủ đô,
xung quanh các nhà khoa học, các
văn nghệ sĩ hàng đầu đất nước của
những cán bộ, chiến sĩ vừa bước ra
khỏi những ngày lao động, chiến
đấu căng thẳng, mệt mỏi, cái chết
chỉ cách trong gang tấc khi làm
nhiệm vụ thực thi pháp luật Việt
19
21. Toàn cảnh buổi Toạ đàm Gs. Hoàng Chương, Gs. Nguyễn Lân Dũng, NSNA Nguyễn Á
chụp ảnh lưu niệm với CBCS tàu CSB 803
Nhạc sĩ Phạm Tuyên GS.TSKH Hồ Ngọc Đại NSND Chu Thúy Quỳnh
Nam trên vùng biển Hoàng Sa để
ngăn cản Trung Quốc đặt trái phép
giàn khoan HD 981 trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam. Đó
là ông Bùi Đức Bệ - Trạm trưởng
Trạm Hải đăng đảo Song Tử Tây
(Trường Sa), là Thiếu tá Nguyễn
Văn Hưng - Thuyền trưởng tầu
Cảnh sát biển 8003 và nhiều chiến
sĩ cảnh sát biển thuộc cấp trên Tầu
8003. Tầu CSB 8003 chính là con
tầu mà nghệ sĩ Nguyễn Á đã có
mặt để chụp nên những bức ảnh
- bằng chứng không thể chối cãi
về sự hung hăng, xâm phạm chủ
quyền vùng biển Việt Nam của
Trung Quốc, được in trong cuốn
sách ảnh nghệ thuật “ Hoàng Sa -
Trường Sa, biển đảo Việt Nam”.
Sau bản Báo cáo đề dẫn của
GS. Hoàng Chương - Tổng Giám
đốc Trung tâm nghiên cứu bảo tồn
và phát huy văn hóa dân tộc, đã có
15 tham luận, phát biểu ý kiến tại
Tọa đàm của các đại biểu: TS Lê
Bá Trình - Phó Chủ tịch UBTƯ Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, GS.TSKH
Hồ Ngọc Đại, PGS.TS Đoàn Thị
Tình, TS Mai Liêm Trực - nguyên
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền
thông, GS Phong Lê, NSND-Đạo
diễn Đặng Nhật Minh, Anh
hùng Quân đội La Văn Cầu, Anh
hùng Quân đội - Thiếu tướng Lê
Mã Lương, Nhạc sĩ Phạm Tuyên,
GS.TS Nguyễn Lân Dũng, Nhà
sử học Dương Trung Quốc, Nhà
nghiên cứu văn hóa Nguyễn Khắc
Mai, NSND Chu Thúy Quỳnh - Chủ
tịch Hội nghệ sĩ Múa Việt Nam, ông
Bùi Đức Bệ - Trạm trưởng Trạm Hải
đăng Song Tử Tây - Trường Sa,…
Nội dung chính của các tham luận
và ý kiến phát biểu tại Tọa đàm
được PGS.TS Hồng Vinh - Chủ tịch
Hội đồng Lý luận và Phê bình văn
học nghệ thuật Trung ương, thành
viên Chủ tọa cuộc Tọa đàm tổng
hợp, như sau:
1. Tôi rất tán đồng với nhận xét
của GS. Phong Lê là chưa có một
buổi Tọa đàm khoa học giữa Thủ
đô nào về một cuốn sách ảnh lại thu
hút đông đảo các Giáo sư, NSND,
nhà nghiên cứu văn hóa nghệ thuật
đến dự và phát biểu thật cảm xúc,
thật ngưỡng mộ, khâm phục như
buổi Tọa đàm về cuốn sách ảnh
“Hoàng Sa - Trường Sa, biển đảo
Việt Nam” của nghệ sĩ Nguyễn Á
hôm nay. Mọi người có mặt tại buổi
Tọa đàm này là biểu thị sự trân
trọng một sản phẩm văn hóa phản
ánh kịp thời đời sống chính trị - kinh
tế - văn hóa - xã hội trên vùng biển
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
20
22. NNC Nguyễn Mại và NSNA Nguyễn Á CBCS tàu CSB 803 tại Toạ đàm
GS Nguyễn Lân Dũng NSND Đặng Nhật Minh Nhà sử học Dương Trung Quốc
của đất nước ta trong những tháng
qua, cũng là thấm đẫm mồ hôi, tiêu
tốn không biết bao nhiêu sức lực
của nghệ sĩ Nguyễn Á. Chính cuốn
sách ảnh này của Nguyễn Á đã nói
thay tiếng lòng của chúng ta, tình
cảm của chúng ta về một vấn đề
thiêng liêng, đó là chủ quyền lãnh
thổ quốc gia, chủ quyền biển đảo
là vô cùng thiêng liêng, là bất khả
xâm phạm. Quân đội ta, nhân dân
ta, và tất cả chúng ta ở đây không
thể đánh đổi chủ quyền lấy một thứ
hữu nghị viển vông, như Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định
với thế giới.
2. Tất cả các ý kiến phát biểu
trong cuộc Tọa đàm này đều đánh
giá rất cao giá trị tư tưởng, nghệ
thuật của cuốn sách. Cuốn sách
bắt nguồn từ Tâm - Tài và Tầm của
Nguyễn Á.
Tâm là lòng yêu nước, yêu nhân
dân, là trách nhiệm của một công
dân, trách nhiệm của một nghệ sĩ
chân chính - một chiến sĩ trên mặt
trận nghệ thuật khi cầm máy của
Nguyến Á. Khi tác nghiệp ngoài
Hoàng Sa - Trường Sa - đó là cuộc
chiến đấu của Nguyễn Á trong
những ngày tháng Biển Đông dậy
sóng chống Trung Quốc xâm phạm
vùng kinh tế đặc quyền của chúng
ta. Tác giả đã lao động tới tận cùng,
yêu nước đến tận cùng. Đó là thái
độ sống thật đáng trân trọng, đáng
mặt một đấng nam nhi, cần được
nhân rộng trong xã hội, đặc biệt là
trong giới trẻ.
Tài ở Nguyễn Á thể hiện ở chỗ
anh có cách thức tiếp cận sự kiện -
đối tượng sáng tác từ nhiều chiều,
nhiều góc độ. Anh đã phải chụp
trên 10.000 bức ảnh để từ đó chọn
ra hơn một nghìn bức ảnh in trong
cuốn sách, phản ánh vô cùng sinh
động nhiều lớp người, từ cán bộ
chiến sĩ trên các đảo ở Trường Sa,
trên các nhà giàn DK1, trên các
tầu cảnh sát biển, tầu kiểm ngư, là
những ngư dân, các nhà sư ở đảo
Trường Sa, người dân trên đảo lớn
Trường Sa, trên đảo Lý Sơn,...Ảnh
về những con người sống, lao động,
chiến đấu ở nơi đầu sóng ngọn gió
của Nguyễn Á luôn luôn toát lên
niềm lạc quan. Đây chính là động
lực làm nên sự đoàn kết để tạo nên
sức mạnh đánh thắng bất cứ kẻ thù
nào xâm lược nước ta.
3. Trên một nghìn bức ảnh in
trên gần 400 trang sách, được tác
giả tập trung vào mấy nội dung
sau:
- Hoàng Sa, Trường Sa thuộc
chủ quyền Việt Nam đó là điều
21
23. Anh hùng Quân đội La Văn Cầu Trạm trưởng Trạm Hải đăng đảo Song
được khẳng định qua các tư liệu lịch
sử là không thể đảo ngược. Và chủ
quyền về Hoàng Sa, Trường Sa, về
biển đảo là thiêng liêng không gì có
thể đánh đổi được.
- Những tấm gương bộ đội, ngư
dân, các lực lượng thực thi pháp
luật, nhân dân cả nước hướng về
Hoàng Sa, Trường Sa, về biển đảo,
mỗi khi có kẻ thù xâm lược, hay mỗi
khi biển đông sóng to gió lớn gây
tàn phá, …
- Phản ánh tình cảm của đồng
bào, chiến sĩ cả nước, đồng bào ta
ở nước ngoài hướng về Hoàng Sa,
Trường Sa. Thông qua cuốn sách
ảnh này thấy tình cảm của đất liền
dành cho những người chiến sĩ ở
Hoàng Sa, Trường Sa. Cho thấy,
Hoàng Sa, Trường Sa luôn có một
điểm tựa vững chắc là đất liền, làm
cho Hoàng Sa, Trường Sa không
xa đâu.
- Cuộc sống lao động, chiến đấu
của các chiến sĩ, ngư dân trên các
đảo nổi, đảo chìm, giữa biển khơi…
4. Cuốn sách đã gửi đi một
thông điệp: với một Quân đội anh
hùng, với một dân tộc luôn yêu
chuộng và khát khao hòa bình,
nhưng không ảo tưởng, cuộc đấu
tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo
của chúng ta đã nhận được sự
đồng tình của nhiều quốc gia trên
thế giới. Chúng ta nhất định sẽ giữ
vững độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ thiêng liêng, trong đó
có Hoàng Sa, Trường Sa, biển đảo
Việt Nam. Chúng ta không quên lời
nhắn nhủ của vua Lê Thánh Tông
năm xưa: “Nếu người nào dám đem
một thước, một tấc đất của vua Lê
Thái Tổ để làm mồi cho giặc thì
người ấy sẽ bị trừng trị nặng”.
5. Một số đại biểu nêu ý kiến
về hướng phát hành cuốn sách,
về trao tặng tác giả Nguyễn Á một
phần thưởng xứng đáng. Những ý
kiến này đã nhận được sự tán đồng
của các đại biểu tham dự Tọa đàm.
Cụ thể:
- NSND Đặng Nhật Minh, Nhạc
sĩ Phạm Tuyên đề nghị, trong các
lần tái bản, cuốn sách cần có thêm
phần chú thích bằng tiếng Trung
Quốc. Theo các ông, đối tượng chủ
yếu trong công tác tuyên truyền
vạch bộ mặt thật của thế lực bành
trướng Trung Quốc trong cuộc đấu
tranh giữ gìn biển đảo là 1,3 tỷ nhân
dân Trung Quốc.
- Ý kiến của Thiếu tướng Anh
hùng Lê Mã Lương: cần đẩy mạnh
hơn nữa hoạt động tuyên truyền,
đặc biệt là tuyên truyền đối ngoại
(của Bộ Ngoại giao). Vì vậy cả hệ
thống chính trị phải vào cuộc. Cuốn
sách này cần được các đoàn đi
công tác nước ngoài mang đi tuyên
truyền, các đại sứ quán, cơ quan
đại diện Việt Nam ở nước ngoài
phải có cuốn sách này, đồng bào
ta ở nước ngoài cần có cuốn sách
này,…
- Ý kiến của nhà sử học Dương
Trung Quốc: Cuốn sách này là kho
tư liệu quí, là tài sản quí của quốc
gia về chủ quyền biển đảo. Cần coi
trọng quảng bá rộng rãi.
- Một số ý kiến đề nghị: Bộ
VH-TT&DL, Bộ GD&ĐT, Bộ Ngoại
giao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, …
Tử Tây - Bùi Đức Bệ
cần mua cuốn sách này để phục vụ
công tác tuyên truyền của mình.
- NSND Chu Thúy Quỳnh, NNC
văn hóa Nguyễn Mai: Nhà nước nên
ghi công xứng đáng cho Nguyễn Á
(có ý kiến là thưởng Huân chương
Độc lập, có ý kiến là Huân chương
Lao động, có ý kiến là Bằng khen
Thủ tướng Chính phủ,…).Trao tặng
Phần thưởng nào thì cũng đề nghị
Trung tâm NCBT&PHVHDT và Hội
NS nhiếp ảnh Việt Nam cũng cần
có hình thức, bước đi theo đúng qui
trình của Nhà nước.
6. Tổ chức cuộc Tọa đàm này,
một lần nữa GS. Hoàng Chương
và Trung tâm NCBT&PHVHDT
lại “Ghi điểm”. Bởi trước cuộc Tọa
đàm hôm nay, cách đây không lâu,
cũng chính Hội trường này, Trung
tâm đã tổ chức cuộc Tọa đàm
“Thơ Nguyễn Thế Kỷ về Hoàng
Sa - Trường Sa”. Nguyễn Thế Kỷ,
Nguyễn Á, một già một trẻ, cùng
vì Hoàng Sa, Trường Sa, biển
đảo Việt Nam. Nhờ hoạt động của
Trung tâm, Hà Nội có mặn mòi của
biển cả, có hơi thở của Hoàng Sa,
Trường Sa, hơi thở của biển đảo
thân yêu của chúng Ta. Hà Nội và
cả nước luôn hướng về Hoàng Sa,
Trường Sa. Hoàng Sa, Trường Sa
luôn hướng về Hà Nội - Thủ đô Anh
hùng, trái tim của cả nước./.n
22
24. VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ
Trong việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc
Cách đây gần một thế kỷ, ngày 21/6/1925 do
xác định báo chí là công cụ tuyên truyền,
đồng thời cũng là vũ khí đấu tranh của Đảng,
của cách mạng nên ngay lúc mới về nước, Hồ Chủ tịch
đã sáng lập đồng thời làm chủ nhiệm kiêm chủ bút ra
tờ Thanh Niên, tờ báo cách mạng đầu tiên, tiền thân
của báo Nhân dân ngày nay.
Đến nay, báo chí đã trở thành lực lượng hùng hậu
với nhiều loại hình: báo viết, báo hình, báo ảnh, báo
nói và báo điện tử. Ngoài việc tuyên truyền về các mặt
chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh... báo chí cách
l GS HOÀNG CHƯƠNG
mạng của chúng ta còn giành một thời lượng và một
tỉ lệ số trang không nhỏ cho việc tuyên truyền về văn
hóa, trong đó có việc tuyên truyền, quảng bá và bảo
vệ di sản văn hóa dân tộc.
Nước ta là một đất nước giàu có và phong phú về
di sản văn hóa, từ vật thể đến phi vật thể. Những Vịnh
Hạ Long, Động Phong Nha, Thánh Địa Mỹ Sơn, Cố
Đô Huế, Phố Cổ Hội An, Hoàng Thành Thăng Long
đã trở thành Di sản văn hóa thế giới. Những di tích
lịch sử như Đền Hùng, Thành Cổ Loa, Điện Biên Phủ,
Hang Pắc Pó, Chùa Hương Tích - Hương Sơn (Hà
Nghệ thuật tuồng. Ảnh Quốc Bảo
23
25. SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
Tĩnh), Chùa Hương (Hà Tây), Côn Sơn Kiếp Bạc (Hải
Dương), Yên Tử (Quảng Ninh)... và hàng ngàn chùa
chiền miếu mạo, hàng trăm tháp Chàm uy nghi ngạo
nghễ đứng vững hàng 7,8 trăm năm như ở Quảng
Nam, Khánh Hòa, Bình Định hiện nay. Về di sản văn
hóa phi vật thể như hát Bội (Tuồng), Bài Chòi, Chèo,
Cải Lương, múa rối nước, dân ca, dân vũ, kể khan Tây
Nguyên, Dù kê Nam bộ, Nhã nhạc cung đình Huế,
đờn ca tài tử Nam Bộ, quan họ, ca trù, hát xoan, cồng
chiêng Tây Nguyên, và các hình thức âm nhạc dân
gian khác như Hát Xẩm, Chầu văn, Ví dặm... rải khắp
từ Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, miền Trung đến
Nam Bộ. Đó là vốn quý của dân tộc ta, là niềm tự hào
của nhân dân ta, một dân tộc có nền văn hóa phong
phú, đặc sắc lâu đời và bền vững nên không có một
thế lực ngoại bang nào khuất phục được.
Trong nhiều thập kỷ qua, được sự quan tâm của
Đảng và Hồ Chủ tịch nên việc phục hồi và phát huy di
sản văn hóa dân tộc được tiến hành thường xuyên và
đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy vậy,
do chiến tranh tàn phá và thiên tai tác động, kể cả con
người nữa mà sự mai một, sự mất mát, sự hao mòn
về di sản văn hóa dân tộc không phải là nhỏ, chính vì
vậy mà ngày 29/6/2003 Quộc hội nước CHXHCN Việt
Nam đã thông qua Luật Di sản văn hóa, xác định: Di
sản văn hóa gồm: “Di sản văn hóa phi vật thể và di sản
văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ
này qua thế hệ khác...”. Tiếp theo, ngày 11/11/2002
Chính phủ đã ra Nghị định số 92/2002 quy định chi tiết
Luật Di sản văn hóa, thì văn hóa phi vật thể bao gồm:
Tiếng nói, Chữ viết, Tác phẩm văn học nghệ thuật,
Khoa học, Ngữ Văn truyền miệng, Diễn xướng dân
gian, Lối sống, Nếp sống, Lễ hội, Nghề thủ công
truyền thống, Tri thức văn hóa dân gian.
Báo chí từ Trung ương đến địa phương đã lên
tiếng hưởng ứng những nghị quyết và nghị định hết
sức quan trọng của Quốc hội cũng như Chính phủ về
bảo vệ di sản văn hóa dân tộc. Thật ra không phải
chờ khi có luật và có nghị định Di sản thì báo chí mới
quan tâm đến vấn đề này, mà từ trước đây báo chí đã
từng lên tiếng, phản ánh rất nhiều về thực trạng của
di sản văn hóa dân tộc Việt Nam. Cũng có thể nói
báo chí đã là áp lực góp phần thúc đẩy việc ra đời của
Luật Di sản văn hóa mà Quốc hội đã thông qua. Nếu
thống kê được thì trong vài thập kỷ qua đã có hàng
trăm bài viết trên các mặt báo, trên các màn ảnh nhỏ,
đài phát thanh đã lên tiếng phê phán tình trạng xâm
phạm di sản văn hóa như khối đá hình Nàng Tô Thị (ở
Lạng Sơn), Chùa Hương, Chùa Dâu ( ở Hà Tây), Mộ
Nguyễn Du (ở Hà Tĩnh)... nhà cổ ở Hà Tây và các loại
hình nghệ thuật truyền thống bị biến dạng, bị “gieo
vừng ra ngô” ! Nhờ có báo chí mà ngăn chặn được dự
án “100 kiệt tác sân khấu” với 100 tỷ đồng ở Nhà hát
Tuổi trẻ vào năm 2010.
Trong nhiều thập kỷ qua, được sự quan tâm của
Đảng và Hồ Chủ tịch nên việc phục hồi và phát huy di
sản văn hóa dân tộc được tiến hành thường xuyên và
đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy vậy,
do chiến tranh tàn phá và thiên nhiên tác động cộng
với hành vi xâm phạm của con người mà sự mai một,
sự mất mát, sự hao mòn về di sản văn hóa dân tộc
không phải là nhỏ.
Nhờ có tiếng nói của báo chí mà sự xâm hại di sản
văn hóa được ngăn chặn phần nào. Thông qua báo
chí mà người trong nước và cả bạn bè quốc tế mới
hiểu được cái hay, cái đẹp của vốn di sản sân khấu
truyền thống quý giá như tuồng, chèo, múa rối nước
cùng các hình thức âm nhạc dân gian đặc sắc như
Quan họ Bắc Ninh, Nhã nhạc cung đình Huế v.v... Báo
chí đã làm được một việc rất quan trọng là phát huy,
tôn vinh những tài năng, nghệ thuật dân tộc từ xa xưa
Liền chị quan họ Bắc Ninh. Ảnh Nguyễn Minh San
24
26. và các thế hệ nghệ sĩ tài năng kế tiếp. Chính những
nghệ sĩ tài năng này là hiện thực sống động của di sản
nghệ thuật dân tộc.
Cũng nhờ có báo chí mà những lễ hội dân gian
được tiến hành hàng năm trong không khí trang
nghiêm, hấp dẫn, cộng đồng đến với tâm linh và
truyền thống văn hóa của dân tộc. Đồng thời báo chí
cũng phê phán những lễ hội tổ chức thiếu nghiêm túc
hoặc thương mại hóa lễ hội, hướng lễ hội thật sự đi vào
đời sống tâm linh trong sáng và có tính văn hóa.
Tuy nhiên, không phải tất cả các tờ báo, các đài
phát thanh, truyền hình đều vào cuộc một cách có
hiệu quả. Một số tờ báo không mấy mặn mà với di sản
văn hóa, dường như mục bảo vệ di sản không được
chú trọng. Đây là biểu hiện của sự khủng hoảng về
thẩm mỹ văn hóa và sự thiếu quan tâm tới di sản văn
hóa dân tộc của một tờ báo và nhà báo.
Nhờ có tiếng nói của báo chí mà các cơ quan chức
năng Nhà nước mới biết và mới thực sự chuyển biến,
thật sự quan tâm tới việc bảo vệ, việc đầu tư phục
hồi những di tích bị hư hỏng, xuống cấp và mất mát,
đồng thời cũng thông qua báo chí mà nhân dân mới
biết được cái quý, cái đẹp, cái giá trị muôn đời của các
di sản văn hóa dân tộc kể cả văn hóa vật thể và phi
vật thể. Thông qua báo chí mà người trong nước và
ngoài nước mới hiểu được cái hay cái đẹp của tuồng,
chèo, múa rối nước, ca trù, bài chòi, ví dặm, ca Huế,
hát xẩm, Đàn đá Khánh Sơn, Nhã nhạc cung đình
Huế, cồng chiêng Tây Nguyên, Đàn ca tài tử Nam Bộ,
Đàn hát then Tây Bắc... mới biết tới những phố cổ Hội
An, Thánh địa Mỹ Sơn, Động Phong Nha - Kẻ Bàng,
Quần thể di tích Tràng An - Ninh Bình, Thành nhà Hồ
- Thanh Hóa mà UNESCO đã công nhận là Di sản VH
của thế giới. Báo chí cũng làm được cái việc rất quan
trọng là phát huy, tôn vinh những tài năng nghệ thuật
dân tộc từ xa xưa như Đào Duy Từ, Đào Tấn, Nguyễn
Diêu, Nguyễn Hiển Dĩnh (tuồng), Nguyễn Đình Nghị,
Trùm Thịnh, Cả Tam, Tào Mạt...(chèo), Cao Văn Lầu,
Trần Hữu Trang, Phùng Há, Năm Châu (cải lương) và
các thế hệ nghệ sĩ tài năng kế tiếp.
Nhờ có báo chí mà đông đảo nhân dân mới biết
được tới Quách Thị Hồ, Nguyễn Thị Phúc... (Hát Ả
Đào) lừng danh và mới biết được Hà Thị Cầu một tài
năng hát xẩm có một không hai, nhờ có báo chí mà
bạn bè khắp năm châu được làm quen với di sản văn
hóa Việt Nam và tìm đến văn hóa Việt Nam với tấm
lòng say mê hứng thú. Có thể nói, vai trò của báo chí
thật là quan trọng, thật là to lớn trong việc bảo tồn và
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
phát huy di sản văn hóa DT trong hơn nửa thế kỷ qua
và nhờ có báo chí mà nhận thức về văn hóa của nhân
dân ta được đúng đắn hơn. Qua tìm hiểu, chúng tôi
thấy bất kỳ tờ báo nào kể cả chính trị, kinh tế, và quân
sự đều có những chương mục giành riêng cho văn
hóa, trong đó ít nhiều có nói về di sản văn hóa dân tộc,
khi thì tôn vinh, ca ngợi các giá trị di sản, lúc thì phê
phán những hành vi làm tổn hại di sản văn hóa dân
tộc. Nhờ có báo chí gióng lên tiếng chuông cảnh báo,
phát hiện những cái sai phạm trong việc bảo vệ di sản
mà cơ quan quản lý Nhà Nước mới biết được, hoặc
biết rõ hơn thực trạng một di sản nào đó đang xuống
cấp, đang bị xâm hại mà kịp thời giải quyết. Điển hình
như Chùa Hương - Hà Tây, hoặc vụ cáp treo Yên Tử ở
Quảng Ninh trong năm 2002, hoặc vụ Đàn Nam Giao
ở Huế bị phá, vụ Tượng đá Nàng Tô Thị ở Lạng Sơn
bị đập, hoặc nhiều tượng đá ở Bảo tàng Chàm (Đà
Nẵng) bị mất cắp, hoặc nhà cổ ở Hà Tây bị làm mới...
Cũng nhờ có báo chí lên tiếng mà nạn phá tuồng,
phá chèo được hạn chế, một phần nạn “cải tiến” nghệ
thuật dân tộc quá đà được ngăn chặn.
Tuy nhiên không phải tất cả các tờ báo, đài phát
thanh truyền hình, đài TNVN đều vào cuộc với cơ
quan bảo vệ văn hóa dân tộc, mà thực tế cho thấy
không ít tờ báo và đài truyền hình chưa thật quan tâm,
hoặc chưa mạnh tay trong việc bảo vệ di sản văn hóa
dân tộc. Một số tờ báo không mấy mặn mà với các di
sản văn hóa dân tộc, dường như mục bảo vệ di sản
không mấy phù hợp với những trang giật gân, những
hình ảnh hở hang, xa lạ kiểu Châu Mỹ, Châu Âu nào
đó, hoặc có xu hướng nghiêng về nói chuyện đời tư
nghệ sỹ... Dĩ nhiên loại báo chạy theo thị hiếu tầm
thường lại được những người thẩm mỹ thấp kém đón
nhận nhiệt tình và báo bán chạy hơn.
Cũng có một số tờ báo vô tình hay cố ý tiếp tay cho
những người làm lu mờ bản sắc dân tộc. Ví dụ như
vở tuồng, vở chèo, cải lương, vở Bài chòi nào đó mới
công diễn mà chất Tuồng, chất chèo, cải lương lại mờ
nhạt, nhưng người viết báo lại khen là “rất tuồng”, “rất
chèo”, rất “cải lương” và có sự hấp dẫn v.v... và v.v...
Cũng có thể người viết bài chưa hiểu đặc trưng của
các loại hình nghệ thuật truyền thống này, nên cứ “ca”
để động viên các nghệ sĩ, nhưng cũng có người theo
thị hiếu, theo sở thích của mình mà viết và cho đăng
trên báo, không nghĩ tới tác hại là “ bôi dầu cho kiến
leo”, tức là những người “phá tuồng”, “phá chèo” dựa
vào những bài báo sai trái đó mà khẳng định mình,
đánh bóng mình. Những bài báo loại này đã đưa lại
25
27. hệ lụy cho một số diễn viên tuồng, chèo không sành
hát tuồng, hát chèo, hát cải lương, hát Bài chòi nên đã
trượt dài theo hình thức kịch nói, cuối cùng nghề của
ông cha không nắm vững được. Đó là nguyên nhân
của sự mai một di sản văn hóa dân tộc. Vì không xác
định được vai trò vị trí của báo chí là tôn vinh cái đẹp
của dân tộc và phê phán cái ngoại lai, cái bắt chước
nước ngoài một cách ngây thơ, vụng về, thiếu chọn
lọc, nên đã không ít bài báo cứ bốc đồng ca ngợi một
vài nhạc sĩ, một số ca sĩ nào đó, những người nhân
danh vì thế hệ trẻ mà sáng tạo và biểu diễn phục vụ
cho giới trẻ, nhưng thực chất là làm hại thế hệ trẻ, bởi
họ phải nhồi nhét, phải hưởng thụ những sản phẩm
độc hại, giai điệu thì nghèo nàn, ca từ thì sáo rỗng, lặp
đi lặp lại chỉ là những lời yêu đương trăng gió thiếu tính
tư tưởng, thiếu tính nhân văn, thiếu tính giáo huấn và
thiếu cả tính thẩm mỹ dân tộc. Chưa nói là cung cách
ăn mặc và biểu diễn của diễn viên thì rập theo phương
Tây, thậm chí còn quá quắt hơn, quái dị nên không ít
người cho rằng: các ca sĩ đang khoe cơ thể, đang lên
cơn điên, hoặc tập thể dục trên sân khấu. Cũng đã có
một số tờ báo như Nhân Dân, Quân đội Nhân Dân,
Văn Hiến Việt Nam, Văn Hóa, Toàn Cảnh, Lao Động,
Tiền Phong... đã có nhiều bài giới thiệu về sân khấu
dân tộc, về di sản văn hóa dân tộc, đồng thời có một
số bài phê phán những hiện tượng xâm hại di sản và
hiện tượng phi nghệ thuật trong đời sống nghệ thuật
hiện nay. Nhưng “gió cứ thổi người cứ đi”, nghệ thuật
dân tộc vẫn lép vế, nghệ thuật hiện đại lai căng vẫn
lên ngôi, và người tán dương cho thứ nghệ thuật lai
căng vẫn tồn tại.
Nhìn chung giữa xây và chống trong việc bảo vệ
di sản văn hóa dân tộc trên mặt trận báo chí hãy còn
trong thế hai chiều đối nghịch giữa hai khuynh hướng
dân tộc và hiện đại, giữa thương mại và bảo vệ truyền
thống mà vai trò của báo chí hết sức quan trọng.
Đó là thực tế trên cả nước. Riêng với một địa
phương như Bình Định, tình hình cũng không khá
hơn. Bình Định là vùng đất địa linh nhân kiệt, là quê
hương của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn, quê hương
của anh hùng dân tộc lỗi lạc Quang Trung - Nguyễn
Huệ, Bình Định cũng là quê hương của những văn
thần võ tướng lừng danh như Bùi Thị Xuân, Võ Văn
Dũng, Trần Quang Diệu, Đặng Văn Long... thời Tây
Sơn và những chí sĩ yêu nước nổi tiếng thời kháng
Pháp như Mai Xuân Thưởng, Tăng Bạt Hổ, Võ Duy
Dương, Chàng Lía... Bình Định là quê hương của danh
nhân Đào Tấn (hậu tổ hát bội) của Nguyễn Diêu, Lê
Đại Cang và rất nhiều danh nhân khác. Bình Định là
đất tuồng, đất Bài chòi và đất võ, đặc biệt Bình Định là
nơi hai cha con Nguyễn Sinh Sắc, Nguyễn Tất Thành
đã sống và chia tay lần cuối trên lãnh thổ Việt Nam.
Trừ Nghệ An và Huế, chưa ở đâu Bác Hồ thời trẻ sống
tới hơn một năm như ở Bình Định. Nhưng cho đến nay
văn hóa Bình Định chưa có nhiều người biết đến, bởi
báo chí chưa thật sự quan tâm. Vì vậy mà nhà biên
kịch bộ phim “Nhìn ra biển cả” (nói về hành trình của
Bác Hồ từ Huế vào nam tìm đường cứu nước) đã bỏ
sót hơn một năm Bác đã từng ở Bình Định trước khi
dừng chân 5 tháng ở trường Dục Thanh - Phan Thiết.
Bình Định đã tổ chức hội thảo cấp quốc gia về Nguyễn
Tất Thành ở Bình Định nhưng sau hội thảo lại không
được tuyên truyền đầy đủ trên báo (kể cả tờ Thông tin
Bình Định không có một dòng) nên chẳng mấy ai biết
sự kiện lịch sử quan trọng này. Cũng vì báo chí không
quan tâm mà khi Bình Định tổ chức kỷ niệm 50 năm
giải phóng An Lão, có nhiều người nhầm An Lão ở Hải
Phòng, cũng như Hà Nội có con đường mang tên Đào
Tấn nhưng người Hà Nội không biết Đào Tấn là ai,
buộc đài PTTH Hà Nội phải mời tôi nói về con người
và sự nghiệp danh nhân Đào Tấn cho người Hà Nội
biết. Mới đây Bộ trưởng Bộ VH - TT&DL đã trao bằng
di tích văn hóa cấp quốc gia cho hai loại hình di sản
đặc biệt của Bình Định là Võ thuật dân tộc và nghệ
thuật Bài chòi dân gian (Bài chòi đang được lập hồ sơ
trình UNSECO đề nghị công nhận là Di sản văn hóa
phi vật thể của nhân loại). Nhưng tôi theo dõi đăng tin
về võ thuật và Bài chòi còn quá khiêm tốn, như vậy
làm sao gây được ấn tượng cho người đọc? Nên còn
rất ít khách du lịch đến Bình Định so với Đà Nẵng, Nha
Trang. Về điểm này, phải nói là cả hai phía chủ thể và
khách thể - Chủ phải thật sự quan tâm tới vai trò của
báo chí, khách phải quan tâm tới di sản văn hóa dân
tộc của Bình Định.
Chúng ta đang ngồi trên mỏ vàng mà không biết
vàng ở đâu bởi không có người mách bảo. Trong dịp
kỷ niệm 60 năm giải phóng Thủ đô, Bí thư Thành ủy
Phạm Quang Nghị tổ chức gặp gỡ báo chí, ông nhấn
mạnh rằng “ báo chí là liều thuốc bổ giúp cho tim mạch
Hà Nội được mạnh khỏe thăng hoa...”. Cách làm này
đem lại hiệu ứng rất cao, bởi báo chí là tai mắt, là tư
vấn và là người bảo vệ di sản văn hóa chính thể, cho
những người lãnh đạo các cấp, trong đó có bảo vệ di
sản văn hóa dân tộc vì nếu văn hóa dân tộc không
được bảo vệ một cách thường xuyên và chu đáo, thì sẽ
mất văn hóa, mà mất văn hóa là mất nước./.n
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
26
28. TRẦN HUY LIỆU
một người tù
Chăm học
l TRẦN CHIẾN
Khám Lớn Sài Gòn đã vào đêm. Ngọn đèn
hành lang soi lờ mờ bóng người lính gác bất
động. Thỉnh thoảng anh ta đứng dậy, xốc
súng đi rảo qua các phòng giam. Tiếng ngáy, tiếng
chép miệng, nghiến răng như một bản hợp xướng
kinh khủng, khúc “sô lô” là tiếng rên của người bị
đánh ban ngày.
Mò mẫm trong xó tối, Liệu lôi ra mảnh báo tiếng
Pháp. Lợi dụng ánh đèn ngoài kia, và lúc người lính
gà gật, anh đứng hẳn dậy xem. Đến một chỗ ngắc
ngứ thì ngẩn người ra, cứ thế tần ngần, cuối cùng mò
mẫm đến cuối phòng, lay người dược sĩ bị bắt vì tội
làm thuốc giả.
- Này, hỏi tí đây. “Anh-đê-păng-đăng-xơ” là gì?
- Là “độc lập” - người dược sĩ lầu bầu, trở mình
ngủ tiếp.
- Nhưng “Anh-đê-păng-đăng” cũng là “độc lập”
kia mà…
- Một đằng là tính từ, một đằng là danh từ. Còn
gì nữa không?
- Còn một đoạn nữa nhưng tối quá.
Tiếng thì thào làm vài người thức dậy. Góc bên
kia có tiếng càu nhàu:
- Thôi bố trẻ ơi, để chúng con ngủ ạ.
- Rõ là con mọt, đêm xuống mới cót két.
-Đ. mẹ thằng nào phá giấc ông… Mai cho một
trận!
Một thường phạm nổi cáu làm Liệu lo lắng, lui về
chỗ. Cái bọn chuyên lấy đấm đá đạp làm cơm ăn
nước uống hàng ngày, anh ngán lắm, dù ngoài kia
có lúc chỉ huy cuộc mít tinh cả vạn người. Mảnh báo
lại bị dúi vào xó, để mai lôi ra.
Ấy là vào năm 1927, những hoạt động chính trị
tạm lắng xuống với Liệu. “Lắng xuống” vì anh phải
nằm bót sáu tháng, “trận phủ đầu êm dịu” của chánh
cẩm Arnoux với kẻ quậy phá nguy hiểm. Nhưng
Khám Lớn có cái hay, là chỗ để bồi bổ sự học. Liệu
rất tự tin khi dùng tiếng Việt và chữ Nho, nhưng lỗ mỗ
về tiếng Tây. Vào khám thiếu tự do mà anh không
phát điên, có lẽ vì nhờ cái đức “mọt sách bẩm sinh”.
Vào Nam Kỳ, xứ thuộc địa Pháp, sinh sống, thực
hành chí hướng đều bằng chữ nghĩa, Liệu thấy có
quá nhiều thứ mình còn thiếu. Thực dân sang đây
đô hộ người Việt, đặt chế độ cai trị tàn ác khiến anh
căm thù. Nhưng nước Pháp - với tư tưởng “Tự do-
Bình đẳng-Bác ái” những nhà triết học của thế kỷ
Ánh Sáng- hấp dẫn anh. Trước đó, những “Tinh thần
pháp luật”, “Khế ước xã hội”, rồi nay là “Tư bản luận”,
“Lịch sử tiến hóa nhân loại”, “Lịch sử tư tưởng thế
giới”… anh đã đọc qua tiếng Hoa của Thương vụ ấn
quán Thượng Hải. Nhưng chỉ là ông đồ non mà làm
báo ở Nam Kỳ thì thiếu hụt quá.
Thời làm chủ bút Đông Pháp thời báo, Liệu lấy tin
khá nhiều ở báo chữ Tây. Trước khi đưa người biết
dịch, anh hay tò mò “điểm” những từ quan trọng,
đoán nội dung tin, hễ khớp với bản dịch mà thấy
mình mò đúng thì khoái chí lắm. Liệu nhất định phải
học tiếng Pháp. Không hệ thống cũng được. Nhưng
27
HIEÀN TAØI ÑAÁT VIEÄT