SlideShare a Scribd company logo
1 of 127
`
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN ĐỨC TRỌNG
GIÁ TRỊ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 60.38.50
Người hướng dẫn khoa học: TS. HÀ THỊ THANH BÌNH
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016
`
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Thông
tin, số liệu trong luận văn là xác thực, có nguồn gốc rõ ràng. Tôi xin chịu trách
nhiệm về kết quả công trình nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ
Nguyễn Đức Trọng
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS 2005
BLDS 2015
Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11)
ngày 14/6/2005
Bộ luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13)
ngày 24/11/2015
Bộ nguyên tắc Unidroit Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng
thương mại quốc tế
Công ước Viên 1980 Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế
LTM 1997 Luật Thương mại ngày 10/5/1997
LTM 2005 Luật Thương mại (Luật số 36/2005/QH11)
ngày 14/6/2005
Pháp lệnh HĐKT 1989 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế của Hội đồng
nhà nước số 24-LCT/HĐNN8 ngày
25/9/1989
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................1	
  
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
THƯƠNG MẠI VỀ GIÁ TRỊ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI.....................................7	
  
1.1. Những vấn đề lý luận về giá trị bồi thường thiệt hại ......................................7	
  
1.1.1. Khái niệm, chức năng và nguyên tắc bồi thường thiệt hại............................7	
  
1.1.2. Bản chất pháp lý của giá trị bồi thường thiệt hại .......................................13	
  
1.1.3. Vai trò, yếu tố tác động và yêu cầu của việc xác định giá trị bồi thường
thiệt hại..................................................................................................................15	
  
1.2. Quy định cụ thể của pháp luật thương mại về giá trị bồi thường thiệt hại 19	
  
1.2.1. Xác định giá trị bồi thường thiệt hại...........................................................19	
  
1.2.2. Giới hạn giá trị bồi thường thiệt hại và vấn đề miễn, giảm trách nhiệm bồi
thường....................................................................................................................29	
  
1.2.3. Giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh lệch giá...........47	
  
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN TÀI PHÁN LIÊN QUAN ĐẾN GIÁ TRỊ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................49	
  
2.1. Thực tiễn tài phán liên quan đến giá trị bồi thường thiệt hại ......................49	
  
2.1.1. Vấn đề xác định giá trị bồi thường thiệt hại................................................49	
  
2.1.2. Giới hạn giá trị bồi thường thiệt hại và vấn đề giảm giá trị bồi thường thiệt
hại..........................................................................................................................63	
  
2.1.3. Về giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh lệch giá.......69	
  
2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về giá trị bồi thường
thiệt hại.....................................................................................................................72	
  
2.2.1. Thống nhất một số quy định khác biệt giữa LTM 2005 và BLDS 2005 ......73	
  
2.2.2. Xác định giá trị bồi thường thiệt hại...........................................................74	
  
2.2.3. Vấn đề miễn, giảm giá trị bồi thường thiệt hại ...........................................75	
  
2.2.4. Về giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh lệch giá.......76	
  
2.2.5. Tăng cường chức năng hướng dẫn xét xử của Toà án nhân dân tối cao....77	
  
KẾT LUẬN ..................................................................................................................79	
  
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong hoạt động thương mại, sự thoả thuận giữa các bên thông thường được
ghi nhận trong hợp đồng. Các bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng hợp đồng. Tuy
nhiên, việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng vẫn có thể xảy ra, dù cố ý hay vô ý. Khi tranh
chấp phát sinh từ và liên quan đến hợp đồng thương mại, pháp luật cho phép một bên
áp dụng các biện pháp pháp lý đối với bên kia nhằm yêu cầu bên đó chịu trách nhiệm
pháp lý cho hành vi vi phạm hợp đồng của mình. Các biện pháp pháp lý này là chế
tài trong thương mại. Trong đó, bồi thường thiệt hại với tư cách là chế tài trong
thương mại có chức năng bù đắp tổn thất vật chất cho bên bị vi phạm, làm cho hành
vi vi phạm hợp đồng trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị thiệt hại.
Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện hành chưa thống nhất về vấn đề xác
định giá trị bồi thường thiệt hại phải được đền bù. Khoản 2 Điều 302 LTM 2005 quy
định: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị
vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm
đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Trong khi đó, khoản 3 Điều 422
BLDS 2005 quy định: “Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ
phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp
phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức
bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại”; Điều 13 BLDS 2015 quy
định: “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ
thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.
Như vậy, theo quy định của LTM thì các bên không được phép thỏa thuận với nhau
về mức bồi thường thiệt hại nhưng BLDS lại cho phép các bên thỏa thuận về mức
bồi thường này. Nếu các bên khi tham gia hợp đồng có cách hiểu khác nhau do sự
không thống nhất giữa LTM và BLDS thì sẽ dễ dẫn đến những tranh chấp không
đáng có trong quá trình thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, một số quy định trong
pháp luật hiện nay vẫn chưa có tính minh bạch, thống nhất như: yếu tố lỗi làm căn cứ
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, giá trị tổn thất về tinh thần, vấn đề miễn,
giảm trách nhiệm bồi thường...
Ngoài ra, thực tiễn xét xử của tòa án thể hiện sự chưa nhất quán trong việc áp
dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
thương mại, nhất là trong việc xác định mức độ thiệt hại, khoản lợi trực tiếp mà bên
bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Pháp
luật thương mại hiện hành chưa quy định các căn cứ cụ thể để xác định mức độ thiệt
2
hại, các khoản thiệt hại được bồi thường, cũng như chưa quy định cụ thể thế nào là
các khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng. Do đó, trong quá
trình giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại các cơ quan tiến hành tố tụng gặp
nhiều khó khăn, lúng túng.
Từ yêu cầu cấp thiết nghiên cứu để hoàn thiện quy định của pháp luật thương
mại về vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại; đồng thời, giúp cho các cơ quan tiến hành
tố tụng có sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh
chấp hợp đồng thương mại, tác giả chọn đề tài “Giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp
luật thương mại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, qua nghiên cứu của tác giả, chưa có công trình nghiên cứu khoa học
nào được công bố nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại theo
pháp luật thương mại Việt Nam, mặc dù cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu đề
cập đến vấn đề này và một số vấn đề khác liên quan đến giá trị bồi thường thiệt hại.
Cụ thể như sau:
1. Sách chuyên khảo Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam của
TS. Nguyễn Ngọc Khánh do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2007: Gồm có bốn
chương bao quát những vấn đề cốt yếu nhất của chế định hợp đồng, đi sâu phân tích,
lý giải các khía cạnh lý thuyết của chế định này, đặc biệt có đối chiếu, so sánh các
cách tiếp cận khác nhau, các cách hiểu khác nhau, các cách xử lý khác nhau về cùng
một vấn đề được thể hiện trong các hệ thống pháp luật dân sự chủ yếu của thế giới
đương đại. Trong sách này có nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đến đề tài như: chế tài
bồi thường thiệt hại, yếu tố lỗi, xác định thiệt hại, giới hạn trách nhiệm bồi thường…
2. PGS.TS. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án
do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010 (1 tập), tái bản năm 2014 (2
tập) và cuốn Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt
Nam do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010, tái bản năm 2013: Các
cuốn sách này đề cập các vấn đề căn bản nhất của pháp luật về hợp đồng Việt Nam
thông qua bình luận các bản án được chọn lọc, trong đó đề cập nhiều vấn đề liên
quan đến xác định giá trị bồi thường thiệt hại như: thiệt hại vật chất và tổn thất tinh
thần, yếu tố lỗi, giới hạn giá trị bồi thường thiệt hại…
3. Luận văn Thạc sỹ Luật học về Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
trong kinh doanh – thương mại của tác giả Nguyễn Phú Cường năm 2009: Nghiên
cứu việc áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong kinh doanh-
3
thương mại vào thực tiễn, trong đó đề cập đến vấn đề miễn trừ trách nhiệm bồi
thường thiệt hại liên quan trực tiếp đến đề tài.
4. Đề tài nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh do PGS.TS. Phan Huy Hồng làm chủ nhiệm công bố năm 2011 về Các vấn đề
pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa qua thực tiễn xét xử của tòa án và trọng tài
tại Việt Nam: Đánh giá, đúc kết thực tiễn xét xử của tòa án, trọng tài thương mại Việt
Nam về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, rút ra các kết luận về tính thống
nhất, thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật, khả năng hình thành án lệ về một số
vấn đề pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa. Đề tài có nghiên cứu vấn đề xác
định giá trị bồi thường thiệt hại trong hợp đồng kinh doanh-thương mại.
5. Tác giả Nguyễn Thị Hồng Trinh đã công bố bài “Chế tài bồi thường thiệt
hại trong thương mại quốc tế qua Luật Thương mại Việt Nam, Công ước Viên 1980
và Bộ nguyên tắc Unidroit” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22/2009: Phân tích,
so sánh chế định bồi thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam và quốc tế, trong đó
đề cập đến vấn đề xác định giá trị bồi thường thiệt hại qua LTM Việt Nam, Công ước
Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit.
6. Các bài viết “Thỏa thuận hạn chế hay miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng” của tác giả Dương Anh Sơn trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3/2005 và
“Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng” của tác giả Đỗ Thành Công đăng
trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2010 nghiên cứu trực tiếp đến một vấn đề như là
một bộ phận của đề tài.
Các công trình nêu trên mặc dù có nghiên cứu đến vấn đề giá trị bồi thường
thiệt hại nhưng chỉ đề cập với tính chất là một nội dung nhỏ trong một đề tài nghiên
cứu rộng hơn hoặc chỉ nghiên cứu một khía cạnh liên quan đến đề tài, và chưa có
tính bao quát, chưa nghiên cứu sâu, toàn diện việc xác định giá trị bồi thường thiệt
hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại. Mặc dù vậy, các công trình
này là nguồn tài liệu tham khảo rất có giá trị cho tác giả trong quá trình thực hiện đề
tài.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống về lý
luận, thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn xét xử ở Việt Nam về vấn đề giá trị bồi
thường thiệt hại, có so sánh với pháp luật nước ngoài và tham khảo thực tiễn tài phán
quốc tế, bao gồm những nội dung: xác định giá trị bồi thường thiệt hại, giới hạn giá
4
trị bồi thường thiệt hại và giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh
lệch giá. Thông qua đó, phân tích những quy định còn bất cập của pháp luật thương
mại và kiến nghị hoàn thiện các quy định liên quan đến vấn đề giá trị bồi thường
thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Các quy định pháp luật thương mại Việt Nam về vấn đề giá trị bồi thường
thiệt hại;
- Các quan điểm khoa học pháp lý và thực tiễn xét xử liên quan đến xác định giá
trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam;
- Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới như: Anh, Pháp, Mỹ, Nhật
Bản; các quy định của pháp luật quốc tế khác như Công Ước Viên 1980 và Bộ
nguyên tắc Unidroit…về xác định giá trị bồi thường thiệt hại, từ đó rút ra kinh nghiệm
và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định tương ứng của Việt Nam.
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Trong giới hạn
phạm vi nghiên cứu, đề tài sẽ không đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng cho dù căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường đó xuất phát từ hoạt động
kinh doanh thương mại. Đề tài có so sánh, đối chiếu với các quy định tương ứng của
Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, đề tài cũng nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế
có điều chỉnh vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng như Công ước viên
1980 (CISG), Bộ nguyên tắc Unidroit... để nhằm rút ra các kinh nghiệm cho Việt
Nam. Ngoài các quy định pháp luật, đề tài cũng sẽ nghiên cứu thực trạng áp dụng
pháp luật qua các bản án, quyết định của tòa án các cấp, phán quyết của trọng tài
thương mại về tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại có liên
quan đến việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong luận văn, tác giả phối kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu trong khoa học xã hội như: phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp
lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp bình luận, phương pháp so sánh,
phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp…. Tuỳ thuộc vào nội dung nghiên cứu
của từng chương tác giả có thể sử dụng các phương pháp khác nhau. Cụ thể như sau:
5
Trong chương 1, để làm rõ các vấn đề về lý luận tác giả sử dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật; quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật
của Nhà nước về hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Tác giả sử dụng các phương pháp phân tích luật, phương pháp giải
thích luật, phương pháp so sánh luật và phương pháp lịch sử để nghiên cứu, phân tích
quy định của pháp luật thương mại về giá trị bồi thường thiệt hại và các vấn đề khác
liên quan, chỉ ra những điểm mới, tiến bộ (hoặc bất cập) của luật mới so với luật cũ,
của luật chung so với luật chuyên ngành, của luật Việt Nam so với luật nước ngoài,
luật quốc tế… từ đó, rút ra được những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc, hợp lý
nhất để đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Trong chương 2, tác giả thu thập, phân loại một số lượng cần thiết bản án,
phán quyết trọng tài theo các vấn đề pháp lý liên quan đến vấn đề giá trị bồi thường
thiệt hại, và sử dụng các phương pháp bình luận án, phương pháp tổng hợp và
phương pháp quy nạp để phân tích bản án, quyết định của tòa án, phán quyết trọng
tài, đánh giá quan điểm của tòa án hay trọng tài trong việc áp dụng pháp luật. Từ đó,
tác giả đưa ra các nhận định, kết luận có tính đại diện làm cơ sở để đề xuất, kiến
nghị.
5. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và đóng góp mới của luận văn
Luận văn có ý nghĩa khoa học nhất định, là một trong những công trình
nghiên cứu đầu tiên đặt vấn đề đi sâu xem xét các vấn đề lý luận của việc xác định
giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam. Đề tài nghiên cứu
một số thực tiễn giải quyết các vụ án kinh tế liên quan đến việc xác định giá trị bồi
thường thiệt hại theo hợp đồng trong hoạt động thương mại nhằm làm rõ thực trạng
áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp
luật liên quan theo hướng hỗ trợ các cơ quan xét xử xác định giá trị bồi thường thiệt
hại trong các vụ việc tranh chấp về bồi thường thiệt hại phát sinh từ hoạt động
thương mại. Việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện các vấn đề lý
luận về giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam; đồng thời,
đóng góp những luận điểm nhất định để cơ quan lập pháp tham khảo nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật liên quan đến giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật
thương mại Việt Nam phù hợp hơn với thực tiễn thương mại.
Những điểm mới của luận văn bao gồm:
(i) Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về giá trị
bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam;
6
(ii) Đánh giá một cách khách quan thực trạng xác định giá trị bồi thường thiệt
hại trong thực tiễn tài phán;
(iii) Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giá trị bồi
thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam phù hợp với thực tiễn và yêu
cầu phát triển lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được cấu trúc thành 02 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật thương mại về giá
trị bồi thường thiệt hại
Chương 2. Thực tiễn tài phán liên quan đến việc xác định giá trị bồi thường
thiệt hại và một số kiến nghị
7
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT THƯƠNG MẠI VỀ GIÁ TRỊ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
1.1. Những vấn đề lý luận về giá trị bồi thường thiệt hại
1.1.1. Khái niệm, chức năng và nguyên tắc bồi thường thiệt hại
1.1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại
Trong thực tiễn hình thành và phát triển xã hội, mỗi người sống trong đó phải
tôn trọng những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, không thể vì lợi ích của
mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi
phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải
gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất
lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại. Do
vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một trong những chế định pháp lý xuất hiện
sớm nhất trong lịch sử pháp luật dân sự. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, ở
những quốc gia khác nhau, việc bồi thường thiệt hại được quy định khác nhau về chủ
thể, điều kiện, mức, hình thức và phương thức bồi thường, phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế - xã hội của quốc gia.
Pháp luật nhiều nước trên thế giới cũng quy định bồi thường thiệt hại là một
biện pháp mà bên bị vi phạm áp dụng để bảo vệ quyền lợi của mình, bắt buộc bên vi
phạm phải bồi hoàn những tổn thất mà mình bị xâm phạm. Hệ thống pháp luật Châu
Âu lục địa như Pháp, Nga quy định bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm là hai hình
thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Nhưng đối với pháp luật các nước thông luật
như Anh, Mỹ thì bồi thường thiệt hại là chế tài được sử dụng chủ yếu, trong trường
hợp chưa đến mức hủy bỏ hợp đồng. Họ cho rằng áp dụng chế tài này sẽ hợp lý, khả
thi và tiện lợi cho các bên trong quan hệ hợp đồng1
.
Ở Việt Nam, bồi thường thiệt hại là chế tài trong thương mại được áp dụng
trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh thương mại. Trong lĩnh vực mua bán hàng hóa
quốc tế, bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm được tất cả các hệ thống pháp
luật trên thế giới áp dụng2
. Trong trường hợp bên có quyền bị vi phạm đã áp dụng
các hình thức trách nhiệm khác thì họ vẫn không đương nhiên mất quyền đòi bồi
thường thiệt hại. Vì thế, có thể coi bồi thường thiệt hại là một giải pháp vạn năng cho
1 Nguyễn Thị Thanh Nữ (2013), Chế tài bồi thường thiệt hại trong Luật Thương mại 2005, Khóa luận tốt nghiệp
cử nhân Luật, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, sđd, tr. 9.
2
Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình Luật hợp đồng và thương mại quốc tế,
Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 87.
8
mọi trường hợp vi phạm nghĩa vụ hợp đồng3
. Để bảo vệ bên bị vi phạm, pháp luật
cho phép bên bị vi phạm được quyền yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường những tổn
thất đó, ngay cả khi không có điều khoản bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân
thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ cơ sở giải quyết
bồi thường trong hợp đồng và bồi thường ngoài hợp đồng rất khác nhau, xác định
được rõ hai loại trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật một cách đúng
đắn. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà
theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người
khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự
mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt
hại do mình gây ra. Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng bao giờ
cũng được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối
với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác. So với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thì trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có một số khác biệt như sau: (i) Về cơ sở phát
sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách
nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định. Trong khi đó, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng về cơ bản phát sinh trên cơ sở thoả thuận của các
bên theo hợp đồng. (ii) Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định.
Các điều kiện đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi4
. Đối với trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, điều kiện phát sinh do các bên thoả thuận đặt ra,
đó là nghĩa vụ phải thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho các bên khi tham gia vào hợp
đồng. Bên nào không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng tức là đã có
hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho bên bị vi phạm. Điều 303 LTM 2005 quy định rất rõ căn cứ (điều kiện) phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng: “Trừ các trường hợp miễn
3
Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 433.
4
Xem Điều 604 BLDS 2005.
9
trách nhiệm quy định tại Điều 294 Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát
sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại
thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”.
Như vậy, dưới khía cạnh pháp lý trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên,
trong giới hạn nghiên cứu của đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về vấn đề
trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng trong hoạt động thương mại
(nghĩa là bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng thương mại).
Theo Điều 303 LTM 2005 bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có đủ các yếu
tố: Có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là
nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Trước hết phải có hành vi vi phạm hợp đồng,
đó là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên. Hành vi vi phạm hợp đồng chỉ phải bồi
thường nếu hành vi đó gây thiệt hại thực tế và là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt
hại. Ở đây, yếu tố lỗi không là căn cứ để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh của LTM. Tuy nhiên, theo BLDS, lỗi là
yếu tố bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại với tư cách là một loại
trách nhiệm dân sự. Cụ thể, khoản 1 Điều 308 BLDS 2005 quy định: “Người không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân
sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý”; Điều 364 BLDS 2015 quy định: “Lỗi trong trách
nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý”. Hiện nay, có các quan điểm khác nhau về
việc lỗi có phải là một yếu tố bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
hay không?5
Theo quan điểm của tác giả, trong hoạt động kinh doanh thương mại,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng phát sinh mà không cần phải xác
định lỗi; bởi lẽ, (i) LTM với tư cách là luật chuyên ngành, được ưu tiên áp dụng điều
chỉnh các quan hệ trong hợp đồng kinh doanh thương mại trước BLDS, không đòi
hỏi lỗi là yếu tố bắt buộc mà có nó mới phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại;
(ii) “Đối chiếu so sánh thì chúng ta thấy yêu cầu “lỗi” không tồn tại trong một số hệ
thống pháp luật. Ví dụ, trong Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại “không cần yếu tố lỗi””6
; (iii) ở Việt Nam, “trong thực tiễn xét xử
5
Vấn đề yếu tố lỗi, tham khảo thêm: (i) Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Pháp
luật về thương mại hàng hóa dịch vụ, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr. 428-433; (ii) Đỗ Văn Đại (2013), Các biện
pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Thành phố Hồ
Chí Minh, tr. 86-90; (iii) Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb
Tư pháp, Hà Nội, tr. 391-415.
6
Đỗ Văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 88.
10
những năm qua, hầu như chưa bao giờ vấn đề kiểm tra, xem xét trạng thái tâm lý của
người vi phạm nghĩa vụ đối với hành vi thực hiện và hậu quả của hành vi thực hiện
được đặt ra một cách nghiêm túc, cả từ phía Tòa án lẫn từ những người tham gia tố
tụng. Bên cạnh đó, ngay trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay cũng đã bắt đầu
xuất hiện một số văn bản pháp luật chuyên ngành trong đó từ bỏ cách tiếp cận khái
niệm lỗi truyền thống của BLDS 2005”7
. Như vậy, theo quy định của LTM, quan
điểm của pháp luật quốc tế và thực tiễn xét xử ở Việt Nam không yêu cầu lỗi là căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, cần thấy rõ LTM 2005 vẫn
có một số quy định, dành cho các trường hợp cá biệt, mà ở đó lỗi vẫn đóng một vai
trò nhất định trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại như: Điều 238 về giới hạn trách
nhiệm trong hoạt động logictics, Điều 266 về bồi thường thiệt hại trong trường hợp
giám định sai, hay Điều 273 về trách nhiệm đối với tổn thất trong thời hạn thuê. Tuy
nhiên, nếu các nhà làm luật cho rằng đây là những trường hợp ngoại lệ thì cần phải
quy định trong phần chung về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại các
trường hợp nào cần thiết phải có yếu tố lỗi thì mới làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường.
Từ những cơ sở pháp lý trên, có thể hiểu bồi thường thiệt hại là một hình thức
chế tài vật chất được áp dụng cho bên vi phạm, trừ những trường hợp được miễn
trách nhiệm, nhằm bồi thường những tổn thất (thực tế, trực tiếp) mà bên bị vi phạm
phải gánh chịu và những khoản lợi đáng lẽ được hưởng cho bên bị vi phạm. Theo đó,
“chế tài bồi thường thiệt hại thể hiện mục đích là bù đắp, bồi hoàn toàn bộ thiệt hại
thực tế cho bên bị vi phạm hơn là trừng trị bên có hành vi vi phạm hợp đồng”8
.
1.1.1.2. Chức năng của chế tài bồi thường thiệt hại
Thứ nhất, bù đắp thiệt hại là mục đích và cũng là chức năng cơ bản, nổi bật
nhất của chế tài bồi thường thiệt hại. Sự vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại của một bên
trong quan hệ hợp đồng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên kia.
Do đó, bên vi phạm gây thiệt hại phải có trách nhiệm bù đắp những lợi ích vật chất,
đủ để cho phép khôi phục lại tình trạng trước khi vi phạm gây thiệt hại và thỏa mãn
những quyền lợi chính đáng mà bên kia đáng lẽ phải được hưởng9
. Mục đích của bồi
thường thiệt hại là đặt lợi ích vật chất của bên bị thiệt hại vào vị trí đáng lẽ họ phải
7
Đỗ Văn Đại, tlđd 6, tr. 89.
8
Nguyễn Phú Cường (2009), Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thương mại, Luận
văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 8.
9
Nguyễn Ngọc Khánh, tlđd 3, tr. 432.
11
có nếu bên kia thực hiện đúng nghĩa vụ của mình10
. Bồi thường thiệt hại không phải
là đưa người bị thiệt hại trở về tình trạng ban đầu mà đưa họ vào tình trạng như là
hợp đồng đã được thực hiện. Theo đó, những tổn thất và những khoản lợi trực tiếp họ
được hưởng từ hợp đồng là những khoản mà bên vi phạm phải bồi thường. Đối với
chế định bồi thường thiệt hại trong luật hợp đồng Anh - Mỹ (cả trong luật thực định
cũng như trong thực tiễn xét xử), việc khôi phục lại tình trạng như là trước khi giao
kết hợp đồng không phải là mục tiêu số một. Việc đặt bên có quyền, lợi ích bị xâm
phạm vào vị thế như là hợp đồng đã được thực hiện đúng và đầy đủ mới là mục đích
mà chế định bồi thường thiệt hại trong luật hợp đồng Anh - Mỹ hướng tới11
.
Thứ hai, bồi thường thiệt hại có chức năng răn đe, nhắc nhở các bên trong hợp
đồng phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Bồi thường thiệt hại nhằm mang lại
cho bên bị vi phạm hợp đồng một sự thực hiện tương đương và khuyến khích các bên
thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng. Chế tài này tác động đến nhận thức của các bên,
có tác động thúc đẩy các bên cố gắng thực hiện đúng nội dung của hợp đồng đã xác
lập, trừ những trường hợp không thể thực hiện được như trong trường hợp bất khả
kháng và buộc phải vi phạm nghĩa vụ. Nếu vi phạm hợp đồng và gây thiệt hại thì
phải bồi thường cho bên kia với giá trị như hợp đồng đã được thực hiện bao gồm cả
những khoản lợi khi hợp đồng được thực hiện đúng và các thiệt hại mà bên bị vi
phạm phải gánh chịu từ hành vi vi phạm hợp đồng. Vì vậy, chế tài bồi thường thiệt
hại đặt ra không chỉ để bù đắp tổn thất cho bên bị vi phạm mà còn nhắc nhở các bên
phải nghiêm túc thực hiện đúng hợp đồng; đồng thời, giúp cho các bên yên tâm trong
thực hiện hợp đồng với suy nghĩ rằng, đối tác sẽ phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa
vụ thỏa thuận trong hợp đồng bởi vì nếu vi phạm nghĩa vụ đã cam kết thì phải gánh
chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra.
Thứ ba, bồi thường thiệt hại có chức năng bảo vệ nguyên tắc thiện chí, trung
thực trong thực hiện hợp đồng. Thiện chí, trung thực là một trong những nguyên tắc nền
tảng của việc ký kết và thực hiện hợp đồng được ghi nhận không chỉ trong pháp luật hợp
đồng của Việt Nam mà còn được quy định trong pháp luật của nhiều nước12
. Khi xác lập
và thực hiện hợp đồng, các bên đã dự tính được những khoản lợi mà mình sẽ đạt được.
Đồng thời, bên này cũng biết những khoản lợi mà bên kia đạt được. Do đó, khi vi phạm
hợp đồng, bên vi phạm cũng có thể dự đoán trước những thiệt hại mà bên bị vi phạm phải
10
Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd 2, tr. 89.
11
Nguyễn Ngọc Khánh, tlđd 3, tr. 441.
12
Dương Anh Sơn, Nguyễn Ngọc Sơn (2007), “Tác động của các hình thức lỗi đến việc xác định trách nhiệm
hợp đồng nhìn từ góc độ nguyên tắc trung thực và thiện chí”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 1(38).
12
gánh chịu. Chế tài bồi thường thiệt hại góp phần bảo vệ mong muốn thực sự của các bên
khi tham gia hợp đồng.
1.1.1.3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Thứ nhất, khi trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh trong hợp đồng kinh
doanh – thương mại, chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Bồi thường thiệt hại toàn bộ có nghĩa là thiệt hại phải được bồi thường đầy đủ. Bên
bị thiệt hại phải được đền bù đầy đủ để có thể khôi phục lại lợi ích bị tổn thất do
hành vi vi phạm hợp đồng gây ra13
. Khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 quy định “nếu
không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại”; Điều 13 BLDS 2015 cũng quy định: “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự
bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác hoặc luật có quy định khác”. Điều đó có nghĩa là về nguyên tắc “phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại” nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường. Nguyên
tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại cũng được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Bộ
nguyên tắc Unidroit quy định: “Bên có quyền có quyền đòi bồi thường toàn bộ
những thiệt hại mà mình đã phải gánh chịu từ việc hợp đồng không được thực hiện
như dự kiến. Thiệt hại bao gồm những tổn thất mà bên này trong thực tế đã phải gánh
chịu và những lợi ích bị mất đi, có tính đến mọi khoản lợi cho bên có quyền từ một
khoản chi phí hay tổn thất tránh được” (Khoản 1 Điều 7.4.2). Tương tự, khoản 2
Điều 302 LTM 2005 quy định: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất
thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi
trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Có
thể thấy rằng, bồi thường thiệt hại toàn bộ không chỉ tính đến giá trị tổn thất của bên
bị vi phạm phải gánh chịu mà bên vi phạm còn phải bồi thường cả khoản lợi trực tiếp
mà bên có quyền đáng lẽ nhận được nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng.
Thứ hai, việc bồi thường thiệt hại phải tuân thủ nguyên tắc không làm sinh lợi
cho bên có quyền. Bên bị thiệt hại không được phép nhận sự đền bù vượt ra ngoài phạm
vi cần thiết để khắc phục lợi ích vật chất bị tổn thất của mình14
. Nguyên tắc này cũng
được thể hiện tại Điều 74 Công ước Viên 1980: “Tiền bồi thường thiệt hại này không
thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự
liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng,
có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết”. Trong khi LTM 2005
không đề cập rõ nguyên tắc bồi thường thiệt hại không làm sinh lợi cho bên có quyền thì
13
Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd 2, tr. 88.
14
Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd 2, tr. 88.
13
Điều 229 LTM 1997 quy định cụ thể: “số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn
giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng”. Việc bồi thường thiệt hại chỉ nhằm
mục đích bù đắp lại những mất mát mà bên bị vi phạm phải gánh chịu, nó không nhằm
mục đích mang đến cho họ những khoản lợi ích vượt ra khỏi mất mát này. Do đó, nội
hàm của nguyên tắc này là bên được bồi thường không vì được bồi thường mà có lợi
hơn trong trường hợp nghĩa vụ được thực hiện bình thường.
1.1.2. Bản chất pháp lý của giá trị bồi thường thiệt hại
Thiệt hại theo nghĩa chung nhất là sự mất mát về người, về lợi ích vật chất
hoặc tinh thần được pháp luật bảo vệ15
. Trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, thiệt
hại nên được xem là những mất mát (hoặc sự giảm sút) về lợi ích vật chất hoặc tinh
thần. Điều 303 LTM 2005 quy định “thiệt hại thực tế” là một trong những căn cứ
pháp lý phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Không chỉ riêng pháp luật Việt
Nam mà pháp luật của hầu hết tất cả các nước trên thế giới đều đưa ra nguyên tắc
chung: có thiệt hại thì mới bồi thường. Nếu thực tế có xảy ra hành vi vi phạm hợp
đồng nhưng chưa có thiệt hại thì chưa phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại16
.
Khi có đủ căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bên vi phạm hợp
đồng có trách nhiệm phải bồi thường cho bên bị vi phạm. Tuy nhiên, hiện nay, việc
xác định giá trị bồi thường như thế nào và bồi thường bằng phương thức nào không
có sự thống nhất hoàn toàn trong quy định của pháp luật trên thế giới cũng như trong
pháp luật thương mại Việt Nam.
Một số văn bản pháp lý quốc tế coi “giá trị bồi thường thiệt hại” là “tiền bồi
thường”. Theo Điều 74 Công ước Viên 1980: “Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do
một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ
mà bên kia đã phải gánh chịu do hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng”. Bộ nguyên
tắc Unidroit quy định về “tiền lãi từ khoản tiền bồi thường thiệt hại” (Điều 7.4.10),
“phương thức bồi thường bằng tiền” (Điều 7.4.11), “đồng tiền tính toán thiệt hại”
(Điều 7.4.12) và “tiền bồi thường ấn định trước trong hợp đồng” (Điều 7.4.13). Pháp
luật thương mại Việt Nam trước đây cũng đề cập đến “tiền bồi thường thiệt hại”.
Theo Pháp lệnh HĐKT 1989 thì bồi thường thiệt hại được quy định như là một chế
tài tiền tệ, “Tiền bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng, số
15
Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb Phương Đông, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.
866: “thiệt hại tt. (hoặc dt.). Bị mất mát về người, về của cải vật chất hoặc tinh thần”.
16
Phan Thị Hằng (2012), Chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại quốc tế, Khóa luận tốt nghiệp
cử nhân, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 26.
14
chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm gây ra”17
. Khoản 1 Điều 229
LTM 1997 quy định như sau: “Bồi thường thiệt hại là việc bên có quyền lợi bị vi
phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra”.
Khoản 2 Điều 229 LTM 1997 nêu rõ “Số tiền bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn
thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi
phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra”.
Tuy nhiên, quy định cách thức bồi thường thiệt hại chỉ bằng tiền là không hợp
lý, mang tính chất bó buộc, bởi bên cạnh việc bồi thường bằng tiền, bên vi phạm vẫn
có thể sử dụng tài sản hoặc những cách thức khác theo thỏa thuận để bồi thường cho
bên bị vi phạm những thiệt hại mà mình gây ra, điều đó vẫn không ảnh hưởng đến
tính chất cơ bản của bồi thường thiệt hại18
.
“Giá trị bồi thường thiệt hại” là thuật ngữ lần đầu tiên xuất hiện trong LTM
2005. Theo khoản 2 Điều 302 LTM 2005: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá
trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và
khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi
phạm”. Liên quan đến xác định giá trị bồi thường thiệt hại, BLDS không sử dụng
thuật ngữ giá trị bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng mà sử dụng thuật
ngữ “mức bồi thường thiệt hại” (khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 và khoản 2 Điều 419
BLDS 2015).
Có tác giả cho rằng “bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực hợp đồng là một
khoản tiền. Như vậy, xác định thiệt hại được bồi thường chưa đủ. Chúng ta còn phải
quy thiệt hại thành tiền”19
. Từ cách tiếp cận trên có thể thấy, “giá trị bồi thường thiệt
hại” chính là “khoản tiền” bồi thường được quy đổi từ thiệt hại do bên vi phạm gây
ra. Giá trị bồi thường thiệt hại lúc này tương ứng với khoản tiền đó. Và, khoản tiền
này chính là thước đo giá trị của những thiệt hại được bồi thường, vì về thực chất,
tiền chính là biểu hiện bên ngoài đối với giá trị bên trong của sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ trong hoạt động thương mại.
LTM 2005 không đưa khái niệm phản ánh bản chất của giá trị bồi thường thiệt
hại mà chỉ liệt kê giá trị bồi thường thiệt hại gồm hai bộ phận, đó là bộ phận giá trị
bồi thường thiệt hại thuộc về tổn thất và bộ phận giá trị bồi thường thiệt hại thuộc về
khoản lợi (khoản 2 Điều 302). Về bản chất, giá trị bồi thường thiệt hại là số đo của
17
Điểm b khoản 2 Điều 29 Pháp lệnh HĐKT 1989.
18
Nguyễn Thị Thanh Nữ, tlđd 1, tr. 9.
19
Đỗ Văn Đại (2010), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb Chính trị quốc gia, Thành
phố Hồ Chí Minh, tr. 580.
15
một lượng bồi thường thiệt hại và có thể tính bằng một đơn vị tiền tệ nhất định nên
trong LTM 1997 và Công ước Viên 1980 sử dụng thuật ngữ “tiền bồi thường thiệt
hại”. Số tiền bồi thường thiệt hại được đề cập trong các văn bản luật trên cũng chính
là giá trị bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, sử dụng thuật ngữ “giá trị bồi thường thiệt
hại” có tính khái quát hơn. Nó thể hiện sự đo lường về những lợi ích vật chất và lợi
ích phi vật chất có thể được bồi thường, trong khi đó “số tiền bồi thường” chưa phản
ánh hết giá trị thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu. Sử dụng “số tiền bồi
thường thiệt hại” có thể hiểu như là phương thức bồi thường thiệt hại. Tức là, giá trị
bồi thường thiệt hại được thể hiện thông qua hình thức bồi thường bằng tiền. Bộ
nguyên tắc Unidroit cũng có đề cập đến phương thức bồi thường thiệt hại bằng tiền
(Điều 7.4.11). Như vậy, sử dụng giá trị bồi thường thiệt hại không phản ánh hình
thức (phương thức) bồi thường thiệt hại mà phản ánh mức độ tổn thất do hành vi vi
phạm hợp đồng gây ra và khoản lợi đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi
phạm hợp đồng.
Bản chất pháp lý của giá trị bồi thường thiệt hại chính là giá trị của những tổn
thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm hợp đồng phải gánh chịu do hành vi không
thực hiện đúng hợp đồng và giá trị của những khoản lợi đáng lẽ bên bị vi phạm được
hưởng nếu hợp đồng được thực hiện theo các nội dung đã thỏa thuận. Giá trị của
những tổn thất và giá trị của những khoản lợi này có thể là những giá trị vật chất
hoặc giá trị phi vật chất. Đơn vị tính giá trị vật chất thường bằng tiền tệ. Trong khi
đó, đơn vị tính giá trị phi vật chất không nhất thiết bằng tiền tệ. Tuy nhiên, có thể
quy đổi giá trị phi vật chất thành một lượng tiền tệ nhất định như để bù đắp thiệt hại
về tinh thần. Việc sử dụng thuật ngữ “giá trị bồi thường thiệt hại” lột tả bản chất
pháp lý của chế tài bồi thường thiệt hại trong việc xác định bồi thường với những
khoản giá trị cụ thể, không phản ánh hình thức (phương thức) bồi thường thiệt hại.
1.1.3. Vai trò, yếu tố tác động và yêu cầu của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại
1.1.3.1. Vai trò của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại
Thứ nhất, xác định đúng giá trị bồi thường thiệt hại có vai trò quyết định đối
với việc thực hiện chế tài bồi thường thiệt hại. Khi có căn cứ làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại, vấn đề quan trọng là xác định được giá trị bồi thường
thiệt hại. Xác định đúng giá trị bồi thường thiệt hại sẽ thực hiện đúng được chức
năng của bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, xác định giá trị bồi thường thiệt hại thường
rất phức tạp đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều vấn đề, như: xác định đúng thành phần
giá trị bồi thường thiệt hại, phạm vi giá trị bồi thường thiệt hại, thỏa thuận của các
16
bên về giá trị bồi thường thiệt hại; xác định đúng giá trị tổn thất và giá trị khoản lợi
đáng lẽ được hưởng…
Thứ hai, xác định đúng giá trị bồi thường thiệt hại sẽ bảo đảm quyền lợi của
các bên tham gia hợp đồng. Khi tham gia hợp đồng, các bên đều hướng tới những lợi
ích nhất định. Lợi ích này có thể là lợi nhuận của thương nhân hoặc là nhu cầu của
người tiêu dùng. Các bên khi xác lập và thực hiện hợp đồng đều mong muốn hợp
đồng được thực hiện đúng và hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng của mình, thu được
khoản lợi nhất định. Lợi ích của các bên tham gia hợp đồng trong hoạt động thương
mại rất đa dạng. Với mỗi chủ thể khác nhau, lợi ích này cũng thường không hoàn
toàn giống nhau. Đối với thương nhân, đó chủ yếu là lợi nhuận về vật chất và sự tăng
lên về giá trị tinh thần (uy tín, thương hiệu). Đối với người tiêu dùng tham gia hợp
đồng trong hoạt động thương mại thì quyền lợi của họ là nhu cầu tiêu dùng được đảm
bảo (đáp ứng số lượng và chất lượng sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng). Quyền lợi
chính đáng của các bên trong hợp đồng được pháp luật bảo vệ. Sự bảo vệ này thể
hiện chủ yếu ở việc đưa ra các hình thức trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp
đồng, trong đó có bồi thường thiệt hại. Khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng, bên bị
vi phạm phải chịu thiệt hại nhất định. Xác định đúng giá trị bồi thường thiệt hại là
yếu tố quan trọng để quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng không bị xâm phạm.
Nghĩa là, bên bị vi phạm được bù đắp những khoản bồi thường hợp lý với những tổn
thất mà mình gánh chịu và bên vi phạm chỉ phải bồi thường khoản giá trị thiệt hại
tương xứng với hành vi vi phạm do mình gây ra.
1.1.3.2. Các yếu tố tác động đến việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại
Xác định giá trị bồi thường thiệt hại là quá trình bên bị vi phạm đánh giá, chứng
minh những giá trị thiệt hại phải được bồi thường cho bên bị vi phạm theo quy định
của pháp luật. Kết quả của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại chịu sự tác động,
chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, giữa chúng có mối quan hệ chặt
chẽ, tác động qua lại với nhau.
Một là yếu tố pháp lý, là yếu tố căn bản để xác định giá trị bồi thường thiệt
hại. Quy định của pháp luật càng cụ thể, rõ ràng thì việc xác định giá trị bồi thường
thiệt hại càng được chính xác, thống nhất đảm bảo lợi ích cho cả bên vi phạm lẫn bên
bị vi phạm. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện nay về vấn đề này còn chung
chung, chưa thống nhất giữa BLDS và LTM. Chẳng hạn, LTM coi “khoản lợi đáng lẽ
được hưởng” là một thiệt hại nhưng BLDS không quy định rõ vấn đề này, hay BLDS
17
có quy định về bồi thường tổn thất về tinh thần20
nhưng LTM chỉ nêu “thiệt hại thực
tế”… Do đó, khi tiến hành áp dụng pháp luật về vấn đề này chúng ta thường gặp khó
khăn, lúng túng. Mặt khác, các cơ quan tố tụng cũng chưa có hướng dẫn cụ thể,
thống nhất về việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại trong giải quyết các tranh
chấp hợp đồng kinh doanh thương mại. Đây là vấn đề khó khăn bởi vì thiệt hại
thường rất đa dạng, không thể liệt kê hết trong các văn bản quy phạm pháp luật và
nếu có liệt kê thì vẫn không thể đầy đủ. Trong thời gian tới, nếu có điều kiện sửa đổi
pháp luật thương mại, nên có quy định về vấn đề này theo các định hướng như: (i)
đưa ra những quy định cụ thể làm “công thức” để xác định giá trị bồi thường thiệt
hại; (ii) đưa ra những quy tắc, chuẩn mực chung để các bên thỏa thuận xác định giá
trị bồi thường thiệt hại, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên và không xâm hại đến
lợi ích của nhà nước, công cộng…
Hai là yếu tố thị trường. Đối tượng của hợp đồng trong hoạt động thương mại
là hàng hóa, dịch vụ. Mỗi loại hàng hóa, dịch vụ đều có giá trị và giá trị đó thường
xuyên biến đổi trên thị trường. Khi xác định giá trị của hàng hóa, dịch vụ thường bị
chi phối bởi nhiều vấn đề, như: nhu cầu thị trường, sự biến động giá cả, tỷ giá, lãi
suất… Chẳng hạn, Công ty A ký hợp đồng mua cá ba sa với Công ty B để xuất khẩu
sang thị trường Mỹ. Nhưng sau đó, do Mỹ ra quy định cấm nhập khẩu cá da trơn của
Việt Nam với lý do bán phá giá nên Công ty A không mua cá của Công ty B nữa gây
thiệt hại cho Công ty B vì Công ty B thu mua cá của rất nhiều người nuôi cá. Khi đó,
việc xác định giá trị thiệt hại là giá mua bán cá ba sa theo thỏa thuận trong hợp đồng
hay giá thực tế tại thời điểm vi phạm có sự chênh lệch rất lớn, bởi vì khi Mỹ cấm
nhập khẩu cá da trơn Việt Nam thì giá bán cá ba sa bị sụt giảm thê thảm. Mặt khác,
nếu vụ việc xảy ra trong thời gian dài, khoản lợi đáng lẽ được hưởng là lãi suất ngân
hàng (Công ty B dùng tiền gửi ngân hàng để thu mua cá) cũng có sự biến động lớn.
Do vậy, việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại bị chi phối nhất định bởi yếu tố thị
trường, nhất là đối với việc bồi thường thiệt hại liên quan nhiều quốc gia, khu vực
hoặc việc giải quyết bồi thường thiệt hại diễn ra trong thời gian dài làm cho các chủ
thể khó khăn trong việc thỏa thuận hay chấp nhận phán quyết của cơ quan tài phán
về giá trị bồi thường thiệt hại.
Ba là yếu tố thay đổi theo thời gian của thiệt hại. Thiệt hại mà bên vi phạm
gây ra có một giá trị nhất định tại thời điểm có hành vi vi phạm nhưng giá trị này
thường thay đổi do sự biến động của các yếu tố trong thị trường tạo ra (như: yếu tố
giá cả, cung – cầu…) hoặc do tác động của tự nhiên, môi trường. Sự biến đổi nhanh
20
Xem Điều 307 BLDS 2005 và Điều 361 BLDS 2015.
18
hay chậm của thiệt hại phụ thuộc vào từng loại thiệt hại khác nhau (thiệt hại vật chất,
thiệt hại phi vật chất). Mặt khác, từ thiệt hại này có thể gây ra những thiệt hại khác,
có tính dây chuyền cho bên bị vi phạm. Vấn đề này mang tính tất yếu giống như mối
liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Theo đó, việc
xác định giá trị bồi thường thiệt hại sẽ gặp khó khăn trong trường hợp thiệt hại xảy ra
có phạm vi rộng, có nhiều loại thiệt hại, hay liên quan đến nhiều chủ thể.
Bốn là yếu tố con người. Yếu tố con người là những tác động chủ quan đến
việc xác giá trị bồi thường thiệt hại. Sự tác động, ảnh hưởng của yếu tố này được thể
hiện: (i) sự thỏa thuận của các chủ thể về giá trị bồi thường thiệt hại, nhất là thỏa
thuận về các trường hợp được miễn, giảm giá trị bồi thường thiệt hại, thỏa thuận ấn
định giá trị bồi thường thiệt hại...; (ii) khả năng chứng minh thiệt hại của bên bị vi
phạm; (iii) sự thiện chí, trung thực của các chủ thể tham gia hợp đồng; (iv) khả năng
đánh giá thiệt hại và sử dụng pháp luật của người thuộc cơ quan, tổ chức áp dụng
pháp luật.
1.1.3.3. Các nguyên tắc xác định giá trị bồi thường thiệt hại
Thứ nhất, xác định giá trị bồi thường thiệt hại phải đảm bảo thực hiện đúng
chức năng, nguyên tắc bồi thường thiệt hại. Việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại
giúp bên bị vi phạm có thể có được những khoản bù đắp tương ứng với những gì họ
có thể đạt được nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Việc bồi thường thiệt hại
không hướng đến việc làm tăng thêm khoản vật chất hay khoản lợi cho bên bị vi
phạm. Tất cả những thiệt hại xảy ra mà bên bị vi phạm chứng minh được đều phải
xác định được chính xác và kịp thời về giá trị để bồi thường.
Thứ hai, xác định giá trị bồi thường thiệt hại phải hướng tới việc bảo vệ các
nguyên tắc trong hoạt động thương mại, ngoài việc tôn trọng quyền tự do, tự nguyện
thỏa thuận của các bên tham gia hợp đồng cần đặc biệt chú ý đến việc bảo vệ nguyên
tắc thiện chí, trung thực của các bên. Pháp luật luôn mong muốn mỗi chủ thể khi
tham gia hợp đồng trong hoạt động thương mại đều có tinh thần thiện chí, trung thực
và luôn hướng đến việc đạt được những lợi ích khi thiết lập quan hệ thương mại với
nhau. Đồng thời, pháp luật cũng luôn đứng về phía thiện chí, trung thực để bảo vệ
họ. Tuy nhiên, “quan hệ hợp đồng là quan hệ tài sản chứ không phải quan hệ tình
cảm, nơi mà vấn đề đạo đức luôn được đặt lên hàng đầu”21
. Trong một số trường
hợp, nhất là đối với việc thỏa thuận bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hay miễn,
giảm trong bồi thường thiệt hại, vì quyền lợi của mình mà một bên trong quan hệ hợp
21
Dương Anh Sơn, Nguyễn Ngọc Sơn, tlđd 12.
19
đồng đã cố tình vi phạm hợp đồng bởi họ thấy rằng, việc vi phạm hợp đồng của họ là
có lợi hơn việc phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Vì vậy, bồi thường thiệt hại cũng
phải có tính cá thể hóa, bảo vệ bên thiện chí, trung thực trong hợp đồng. Bên không
thiện chí, trung thực phải chịu trách nhiệm cao hơn bên thiện chí, trung thực đối với
hậu quả mà mình gây ra.
Thứ ba, giá trị bồi thường thiệt hại phải được xác định chính xác và kịp thời.
Do sự tác động của yếu tố thị trường và sự biến đổi của thiệt hại nên việc xác định
giá trị bồi thường thiệt hại phải được tiến hành nhanh chóng và chính xác. Hoạt động
thương mại luôn sôi động và đa dạng. Mỗi chủ thể thương mại thường có nhiều mối
quan hệ thương mại với các chủ thể khác, tạo thành mạng lưới hoạt động thương mại
dày đặc, đan xen, diễn ra trong phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Chính vì vậy, giá trị
của các đối tượng trong hoạt động thương mại cũng thường biến đổi. Có những giá
trị hàng hóa, dịch vụ thay đổi nhanh chóng theo thời gian và không gian. Khi hành vi
vi phạm hợp đồng xảy ra lại tác động xấu đến lợi ích mà các bên mong muốn đạt
được. Bồi thường thiệt hại để bảo vệ bên bị vi phạm trước những tác động xấu này
nên cần phải kịp thời, không để thiệt hại của họ bị tăng lên theo thời gian. Ngoài ra,
nếu xác định giá trị bồi thường thiệt hại càng kéo dài thì càng cản trở việc đi đến sự
thống nhất giữa các bên của hợp đồng. Tuy nhiên, do chịu tác động của những
nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc xác định chính xác giá trị bồi thường
thiệt hại cũng chỉ có tính chất tương đối.
1.2. Quy định cụ thể của pháp luật thương mại về giá trị bồi thường thiệt hại
1.2.1. Xác định giá trị bồi thường thiệt hại
LTM 1997 quy định giá trị bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế,
trực tiếp và giá trị khoản lợi đáng lẽ được hưởng. Cụ thể, Khoản 2 Điều 229 LTM
1997 quy định: “Số tiền bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và
khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi
phạm hợp đồng gây ra”. Các quy định về hợp đồng trong các điều ước quốc tế và tập
quán thương mại quốc tế có những điểm tương đồng mặc dù thuật ngữ sử dụng và
mức độ rõ ràng của các quy định không hoàn toàn giống nhau. Bộ Nguyên tắc Châu
Âu về hợp đồng quy định thiệt hại được bồi thường gồm “mất mát mà bên có quyền
đã phải gánh chịu và lợi nhuận bị mất” (Điều 9:502). Điều 7.4.2 Bộ nguyên tắc
Unidroit quy định: “Thiệt hại bao gồm những tổn thất mà bên này đã phải gánh chịu
và những lợi ích bị mất đi, có tính đến mọi khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản
chi phí hay tổn thất tránh được”.
20
LTM 2005 quy định việc xác định các loại giá trị bồi thường thiệt hại tại
khoản 2 Điều 302, cụ thể: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực
tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp
mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Như vậy, giá
trị bồi thường thiệt hại theo hợp đồng trong hoạt động thương mại bao gồm hai cấu
phần chính: (i) giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và (ii) giá trị khoản lợi trực tiếp. Các
loại giá trị này thực chất là giá trị của những thiệt hại mà bên bị vi phạm hợp đồng
trong hoạt động thương mại phải gánh chịu do hành vi vi phạm hợp đồng. Thiệt hại
gồm tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng. Do đó, đối
với việc xác định các loại thiệt hại được bồi thường, pháp luật thương mại Việt Nam
nhìn chung có sự tương đồng với thế giới.
1.2.1.1. Tổn thất thực tế và trực tiếp
Giá trị tổn thất là giá trị đối với những khoản thiệt hại trong quá trình thực
hiện hợp đồng. LTM 1997 cũng đề cập giá trị tổn thất tương tự như LTM 2005 khi
xác định “số tiền bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp”. Tuy
nhiên, pháp luật thương mại Việt Nam hiện hành không chỉ rõ giá trị tổn thất được
xác định cụ thể như thế nào mà chỉ nêu lên đặc điểm của nó là phải có tính “thực tế”,
“trực tiếp” và thuật ngữ này không được giải thích về mặt ngữ nghĩa. Tính “thực tế”
và “trực tiếp” ở đây là những khái niệm trừu tượng. Có thể hiểu, tổn thất “thực tế”,
“trực tiếp” đó là những tổn thất đã xảy ra, tồn tại trong thực tế và có mối quan hệ
nhân quả với hành vi vi phạm hợp đồng.
Thực tiễn xét xử cho thấy, giá trị tổn thất thường rất đa dạng, như: giá trị tổn
thất về tài sản, số chi phí mà bên bị vi phạm phải gánh chịu… Đây là giá trị tổn thất
về vật chất. Đối với giá trị tổn thất về tinh thần, pháp luật thương mại và thực tiễn
xét xử trong lĩnh vực này chưa thể hiện rõ. Tuy nhiên, pháp luật dân sự có quy định
khá rõ về giá trị bồi thường thiệt hại vật chất và giá trị bồi thường thiệt hại về tinh
thần. Trong phần quy định về hợp đồng dân sự, khoản 1 Điều 307 BLDS 2005 xác
định: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về
vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần”; BLDS 2015 quy định
tương tự tại khoản 1 Điều 361: “Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về
vật chất và thiệt hại về tinh thần”. Nói đến tổn thất về tinh thần thường đề cập đến
chủ thể của hợp đồng là con người cụ thể, như: tình cảm, niềm vui, danh dự, nhân
phẩm… Tuy nhiên, yếu tố tinh thần không thể hiện rõ trong chủ thể hợp đồng là tổ
chức, doanh nghiệp… Theo đó, để khái quát được hết các loại giá trị bồi thường thiệt
hại thuộc về tổn thất, có thể chia thành giá trị bồi thường thiệt hại đối với tổn thất vật
21
chất và giá trị bồi thường thiệt hại đối với tổn thất phi vật chất, gồm những yếu tố
thuộc về tinh thần của con người và uy tín của chủ thể kinh doanh22
. Cách đề cập này
cũng phù hợp với thực tiễn hoạt động thương mại, hoạt động xét xử và tinh thần của
khoản 1 Điều 302 LTM 2005: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường
những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. Ở đây,
LTM 2005 chỉ nêu “bồi thường những tổn thất” nên tổn thất có thể được hiểu bao
gồm tổn thất vật chất và tổn thất phi vật chất. Tuy nhiên, việc quy định cụ thể về các
loại giá trị bồi thường thiệt hại thuộc loại tổn thất này còn có nhiều điểm hạn chế, bất
cập cần nghiên cứu, hoàn thiện.
Giá trị tổn thất về vật chất
Pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể về các loại
giá trị tổn thất về vật chất. Pháp lệnh HĐKT 1989 quy định khá chi tiết những khoản
thiệt hại thực tế là đối tượng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cụ thể điểm b
khoản 2 Điều 29 quy định: “Tiền bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị số tài sản mất
mát, hư hỏng, số chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm gây ra; tiền
phạt vi phạm hợp đồng và tiền bồi thường thiệt hại mà bên bị vi phạm đã phải trả cho
bên thứ ba là hậu quả trực tiếp của sự vi phạm này gây ra.” Để quy định chi tiết điều
khoản này, điểm b Điều 21 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng
Bộ trưởng quy định: “Tiền bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị số tài sản mất mát, hư
hỏng, kể cả tiền lãi phải trả cho Ngân hàng hoặc các khoản thu nhập trực tiếp và thực
tế không thu được do bị vi phạm hợp đồng, với đầy đủ chứng cứ rõ ràng, hợp pháp,
số chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra; tiền phạt vi
phạm hợp đồng và tiền bồi thường thiệt hại mà bên vi phạm đã phải trả do hậu quả
trực tiếp của sự vi phạm hợp đồng gây ra.”
22
Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: “Thiệt hại bao gồm
thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.
a) Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 608 BLDS; thiệt hại do sức
khỏe bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 609 BLDS; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại khoản
1 Điều 610 BLDS; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS.
b) Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải
chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mấy uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu
nhầm.. và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ
chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin…
vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.”
22
Vấn đề này cũng được nêu khá rõ trong pháp luật dân sự. Khoản 2 Điều 307
BLDS 2005 quy định: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm
bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm
tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu
nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút”; khoản 2 Điều 361 BLDS 2015 quy định tương
tự: “Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất
về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế
bị mất hoặc bị giảm sút”. Quy định trên đã xác định giá trị bồi thường thiệt hại về vật
chất, gồm: tổn thất về tài sản, chi phí, thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút. Ở đây, tổn
thất về tài sản và chi phí chính là những tổn thất về vật chất mà bên bị vi phạm hợp
đồng phải gánh chịu. Đối với thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút thường được coi như
khoản lợi đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Giá trị bồi
thường thiệt hại bao gồm tổn thất về tài sản được xác định theo mức thiệt hại trong
từng trường hợp cụ thể do tài sản bị mất, hư hỏng, suy giảm chất lượng, tính năng sử
dụng của người có tài sản bị tổn thất do việc vi phạm hợp đồng trực tiếp gây ra. Giá
trị tổn thất thuộc về chi phí đó là số chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục
thiệt hại. Theo đó, giá trị tổn thất vật chất trên thực tế thường được xác định chủ yếu
gồm giá trị tổn thất về tài sản và chi phí hạn chế, khắc phục thiệt hại.
Giá trị tổn thất về tài sản có thể gồm: giá trị của những mất mát, hư hỏng,
thiếu hụt, giảm sút về giá trị của tài sản, giảm công suất… do người vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng gây ra. Khoản 1 Điều 490 BLDS 2005 và khoản 1 Điều 482 BLDS 2015
về trả lại tài sản thuê quy định: “Bên thuê phải trả lại tài sản thuê trong tình trạng
như khi nhận, trừ hao mòn tự nhiên hoặc theo đúng như tình trạng đã thoả thuận; nếu
giá trị của tài sản thuê bị giảm sút so với tình trạng khi nhận thì bên cho thuê có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ hao mòn tự nhiên”. LTM 2005 không đề cập
rõ về tổn thất tài sản được xác định như thế nào. Việc đưa ra giá trị bồi thường thiệt
hại tổn thất về tài sản chủ yếu dựa trên thiệt hại thực tế, cũng không có công thức
tính cụ thể. Thực tiễn giải quyết vấn đề này đòi hỏi khả năng đánh giá, phán quyết
của Thẩm phán cũng như các cơ quan tài phán là hết sức quan trọng, đảm bảo tính
hợp lý trong giải quyết tranh chấp giữa các bên.
Chi phí phải bồi thường là loại giá trị bồi thường thiệt hại xuất hiện phổ biến
trong các vụ bồi thường thiệt hại theo hợp đồng trong hoạt động thương mại. Việc
xác định chi phí trên thực tế cũng hết sức đa dạng, như: chi phí sửa chữa, chi phí vận
chuyển, đi lại, làm thủ tục, chi phí hạn chế thiệt hại… Theo đó, liên quan đến vụ việc
bồi thường thiệt hại có thể xuất hiện rất nhiều chi phí. Khoản 3 Điều 297 LTM 2005
quy định: “Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện theo quy định tại khoản 2
23
Điều này thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người
khác để thay thế theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm
phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có quyền tự sửa chữa
khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí
thực tế hợp lý”. Việc quy định chi phí như trên chỉ liên quan đến vấn đề mua, bán
hàng hóa, dịch vụ thay thế, chi phí phát sinh từ việc sửa chữa khuyết tật của hàng
hóa, thiếu sót của dịch vụ, còn các loại chi phí khác thì không đề cập. Mặt khác, pháp
luật thương mại cũng chỉ mới đưa ra đặc tính của một loại chi phí cụ thể, đó là chi
phí do sửa chữa khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ. Và, đặc tính của nó là
“thực tế hợp lý”. Về đặc tính thực tế thì rõ ràng phải luôn tồn tại, vì để phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì thiệt hại đó phải có tính thực tế. Đối với yếu tố
hợp lý, đây là lần đầu tiên pháp luật thương mại đề cập đến đặc tính của loại chi phí.
Tính hợp lý thể hiện rõ nguyên tắc thiện chí, trung thực trong thực hiện hợp đồng. Bộ
nguyên tắc Unidroit, quy định: “Bên có quyền có thể đòi đền bù những chi phí hợp lý
đã chi nhằm hạn chế thiệt hại” (khoản 2 Điều 7.4.8). Theo quy định tại Điều 2-715
Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ, những thiệt hại kèm theo do hành vi vi
phạm hợp đồng của người bán, có thể bao gồm: “những chi phí hợp lý của người
mua phải trả cho việc kiểm tra, tiếp nhận, vận chuyển, bảo quản, lưu kho, lưu bãi đối
với những hàng hóa được từ chối một cách hợp pháp; bất kỳ những khoản chi phí
hợp lý hoặc chi phí hoa hồng về mặt thương mại liên quan đến việc thực hiện mua
hàng thay thế và các chi phí hợp lý khác gắn liền với việc giao hàng chậm trễ hoặc vi
phạm hợp đồng của người bán23
”.
Một loại chi phí khác cũng chưa được đề cập rõ trong pháp luật thương mại đó
là chi phí để hạn chế thiệt hại. Điều 305 LTM 2005 quy định về nghĩa vụ hạn chế tổn
thất có nêu: “Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để
hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do
hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp
dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi
thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được”. Theo đó, số chi phí
phát sinh trong quá trình áp dụng các biện pháp để hạn chế tổn thất cũng là giá trị bồi
thường thiệt hại được bồi thường. Tuy vậy, pháp luật thương mại Việt Nam không
chỉ rõ liệu những biện pháp hợp lý mà bên yêu cầu bồi thường thiệt hại áp dụng làm
phát sinh chi phí thì bên nào phải chịu chi phí này. Nếu liên hệ tại Điều 41 và Điều
305 của LTM 2005 thì có thể minh thị khá rõ việc áp dụng biện pháp hạn chế thiệt
23
Nguyễn Ngọc Khánh, tlđd 3, tr. 447.
24
hại đối với hàng hóa giao thiếu, giao không phù hợp, có khuyết tật, thiếu sót thì bên
áp dụng biện pháp đó được bồi thường chi phí phát sinh.
Những thiệt hại đã xảy ra một cách khách quan trong thực tế là những khoản
tiền hoặc những lợi ích vật chất khác mà người bị thiệt hại phải bỏ ra ngoài dự định
của mình để khắc phục những tình trạng xấu do hành vi vi phạm nghĩa vụ gây ra24
.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc những chi phí hợp lý mà bên có quyền bị vi phạm
đã bỏ ra mới được coi là thiệt hại phải bồi thường. Để xác định chi phí hợp lý này
cần dựa vào nhiều yếu tố, trong đó có cả khả năng dự đoán của bên vi phạm đối với
những chi phí sẽ phát sinh, có thể phải căn cứ vào tập quán thương mại. Tuy nhiên,
trong thông lệ quốc tế, khái niệm chi phí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại
được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Nó không chỉ giới hạn trong phạm vi những chi phí
hợp lý đã bỏ ra mà còn bao hàm cả những chi phí hợp lý mà bên có quyền bị thiệt hại
sẽ phải bỏ ra trong tương lai để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục hậu quả vi phạm. Ví
dụ, nếu bên bán giao thiếu hàng và chậm, thì chi phí phải bao gồm cả chi phí hợp lý
người mua đã bỏ ra để thực hiện việc mua thêm hàng hóa bù vào cũng như chi phí
mà người mua sẽ phải bỏ ra sau đó để nộp phạt hoặc bồi thường do giao hàng chậm
trễ cho người mua tiếp theo. Theo đó, chi phí thuê luật sư hoặc chi phí thuê thẩm
định giá trị bồi thường thiệt hại có phải là chi phí hợp lí hay không còn phụ thuộc
vào hoàn cảnh cụ thể, mặc dù hành vi vi phạm không trực tiếp dẫn đến thiệt hại trong
việc bên bị vi phạm bỏ chi phí thuê luật sư hay thuê thẩm định giá trị bồi thường
thiệt hại.
Như vậy, pháp luật thương mại Việt Nam hiện hành chưa chỉ ra một cách khái
quát và có hệ thống về tính chất của các loại chi phí được bồi thường mà liệt kê một
số chi phí rời rạc trong một số điều luật. Tuy nhiên, bước đầu, pháp luật thương mại
nước ta đã có sự tiếp cận với pháp luật thế giới ở việc xác định đặc tính của chi phí,
đó là tính hợp lý. Theo đó, bên cạnh yếu tố “thực tế” thì yếu tố “hợp lý” là căn cứ
quan trọng để xác định giá trị của các khoản chi phí được bồi thường. Với quy định
như pháp luật thương mại hiện hành ở nước ta, đòi hỏi Thẩm phán phải có năng lực
để đánh giá tính hợp lý, tính dự đoán và mối quan hệ nhân quả để xác định chi phí
cần được bồi thường thiệt hại.
Giá trị tổn thất phi vật chất
Giá trị tổn thất phi vật chất cũng đa dạng. Trên thực tế, tổn thất này thường
bao gồm giá trị tổn thất về tinh thần, danh dự, nhân phẩm, uy tín... Đối với lĩnh vực
24
Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Luật Dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 45.
25
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tổn thất về tinh thần rất phổ biến. Thực tế cho
thấy, việc không thực hiện đúng hợp đồng cũng có thể làm phát sinh tổn thất về tinh
thần25
. Trong hoạt động thương mại, hành vi vi phạm hợp đồng không chỉ gây ra tổn
thất về vật chất mà còn có thể gây ra tổn thất về tinh thần. Ví dụ, ca sĩ A ký kết hợp
đồng với một công ty tổ chức sự kiện. Để đảm bảo uy tín của mình, ca sĩ này đã nêu
rất rõ các yếu tố trong việc dán các áp phích quảng cáo cho sự kiện. Tuy nhiên, công
ty tổ chức sự kiện không tuân thủ nội dụng của hợp đồng và ca sĩ này đã bị chỉ trích.
Trong trường hợp này, uy tín của A bị ảnh hưởng và A có tổn thất về tinh thần26
.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 302 LTM 2005 thì “Bồi thường thiệt hại là
việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho
bên bị vi phạm”. Như vậy, bồi thường thiệt hại với tư cách là chế tài trong thương
mại có chức năng bù đắp tổn thất vật chất cho bên bị vi phạm, làm cho hành vi vi
phạm hợp đồng trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị vi phạm27
. Hiểu theo
cách như trên thì thiệt hại ở đây chỉ có thiệt hại về vật chất, như thế là chưa đầy đủ,
bởi vì có quan điểm cho rằng thiệt hại có thể và nên được hiểu gồm hai loại là thiệt
hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần (nói một cách khái quát hơn là thiệt hại phi
vật chất bao gồm cả tinh thần, danh dự, uy tín, thương hiệu…). Liên quan đến vấn đề
này, “trên thế giới, có hệ thống cho phép bồi thường thiệt hại về tinh thần, có hệ
thống không cho phép bồi thường và có hệ thống cho phép bồi thường trong một số
trường hợp”28
. Ở Pháp, từ rất sớm, Tòa án đã cho bồi thường tổn thất về tinh thần.
Chẳng hạn, vào năm 1932, một công ty phục vụ mai táng đã phải bồi thường tổn thất
về tinh thần cho một gia đình đã ký hợp đồng với họ khi công ty này chậm trễ trong
việc mai táng. Ở Anh, một tác giả đã cho rằng “tổng thể các quyết định của Tòa án
tối cao cho thấy một mong muốn lớn, không hoàn toàn, là coi bồi thường mất mát
phi vật chất như nguyên tắc chung”29
. Bộ nguyên tắc Unidroit cũng chấp nhận bồi
thường tổn thất về tinh thần. Điều 7.4.2 quy định “thiệt hại có thể là phi tiền tệ và bắt
nguồn đặc biệt từ nỗi đau thể chất hoặc tinh thần” và trong phần bình luận nguyên
tắc này có ghi “đó có thể là những nỗi đau về thể xác và tinh thần (pretium doloris),
tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, thiệt hại về hình thể,… cũng như những xúc phạm
đến danh dự hoặc uy tín. Quy tắc này sẽ có thể được áp dụng trong những gì liên
25
Đỗ Văn Đại, tlđd 6, tr.97.
26
Đỗ Văn Đại, tlđd 6, tr.98.
27
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa dịch vụ,
Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr. 428.
28
Đỗ Văn Đại (2014), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Thành
phố Hồ Chí Minh, sđd, tr. 365.
29
Đỗ Văn Đại, tlđd 28, tr. 366.
26
quan đến thương mại quốc tế, ví dụ cho những hợp đồng ký kết với nghệ sĩ, vận
động viên cao cấp hoặc những nhà tư vấn thuộc một công ty hay một tổ chức”. Bộ
nguyên tắc châu Âu về hợp đồng cũng xác định rất rõ tại khoản 2 Điều 9: 501: “Thiệt
hại có thể được bồi thường bao gồm thiệt hại phi vật chất” và trong phần bình luận
chúng ta thấy nêu “thiệt hại có thể được bồi thường không giới hạn ở những mất mát
tài chính mà có thề là tổn thất tinh thần – đau đớn, bất tiện, bất an tâm lý – phát sinh
từ việc không thực hiện đúng hợp đồng”. Phần bình luận đưa ra ví dụ như sau: A đặt
một kỳ nghỉ tại một trung tâm tổ chức du lịch với thời gian là một tuần trong một
khách sạn sang trọng, đồ ăn đặc biệt. Tuy nhiên, thực tế thì phòng thuê nhỏ và bẩn,
đồ ăn thì tồi tệ. Ở đây, A được yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần mà mình đã
gánh chịu (chịu bất tiện và niềm vui bị mất). Ở Việt Nam, pháp luật dân sự có quy
định thiệt hại về tinh thần, tại khoản 3 Điều 307 BLDS 2005: “Người gây thiệt hại về
tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính
công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho
người bị thiệt hại”. Khoản 3 Điều 419 BLDS 2015 quy định về thiệt hại được bồi
thường do vi phạm hợp đồng: “Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc
người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi
thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc”. Như vậy, pháp luật dân
sự cho phép bồi thường thiệt hại về tinh thần như là quy định áp dụng chung cho
nghĩa vụ dân sự nên cũng được áp dụng cho nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng thương
mại, hoặc theo nguyên tắc luật riêng không quy định thì áp dụng quy định của luật
chung (khoản 3 Điều 4 LTM 2005). Trước đây, Điều 230 LTM 1997 quy định rõ
điều kiện phải “có thiệt hại vật chất”30
thì mới được bồi thường nên có thể suy luận
là trách nhiệm bồi thường chỉ phát sinh khi có thiệt hại về vật chất. LTM 2005 chỉ
yêu cầu phải có “có thiệt hại thực tế”. Như vậy, nếu là “thiệt hại thực tế” thì có thể
không chỉ là thiệt hại vật chất mà có thể bao gồm cả tổn thất về tinh thần. Với cách
quy định như LTM 2005, chúng ta có thể và nên suy luận theo hướng tổn thất về tinh
thần cũng có thể xem xét để được bồi thường nếu nó tồn tại trong “thực tế”. “Như
vậy, nhìn từ góc độ văn bản, tổn thất về tinh thần trong lĩnh vực hợp đồng cũng được
bồi thường”31
. Tuy nhiên, trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, pháp
luật dân sự và pháp luật thương mại Việt Nam không có quy định về cách xác định
giá trị đó như thế nào. Đối với việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nghị quyết
số 03/2006/NQ-HĐTP quy định khá rõ, chi tiết về xác định giá trị bồi thường thiệt
30
Xem Điều 230 LTM 1997.
31
Đỗ Văn Đại, tlđd 28, tr.368.
27
hại tinh thần trong lĩnh vực ngoài hợp đồng. Vì vậy, việc xác định giá trị bồi thường
thiệt hại về tinh thần (khái quát hơn là thiệt hại phi vật chất) là vấn đề cần được đặt
ra và làm rõ trong pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay.
1.2.1.2. Khoản lợi có thể đã nhận được
Giá trị khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không
có hành vi vi phạm là một bộ phận của giá trị bồi thường thiệt hại được ghi nhận
trong LTM 2005. Trong LTM 1997 có dùng cụm từ “khoản lợi đáng lẽ được hưởng”.
Như vậy, pháp luật thương mại hiện hành bổ sung thêm yếu tố “trực tiếp” đối với
khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên vi phạm có trách nhiệm bồi thường.
Khi giao kết hợp đồng, các bên đều mong muốn có được những lợi ích nhất
định. Lợi ích mà hợp đồng mang lại đều được các chủ thể tính đến khi giao kết và
thực hiện hợp đồng. Thực chất, những lợi ích đó chủ yếu là khoản lợi mà các bên
được hưởng khi hợp đồng được thực hiện. Dưới góc độ thương mại, khoản lợi trước
hết và chủ yếu là lợi nhuận trong kinh doanh. Và, đây cũng là những mong muốn
chính đáng, cần được pháp luật bảo vệ. Khi hợp đồng bị vi phạm, ngoài việc bên bị
vi phạm có thể phải chịu giá trị tổn thất thì họ còn có thể mất đi khoản lợi mà đáng lẽ
họ phải được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Đặc biệt, nếu bên bị vi
phạm là thương nhân thì thông thường, hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra sẽ làm cho
họ mất đi những lợi nhuận từ việc thực hiện hợp đồng trong hoạt động thương mại,
thậm chí là từ những hợp đồng với thương nhân khác. Theo đó, nếu hợp đồng được
thực hiện thì có thể mang lại cho các bên nhiều khoản lợi. Việc đo lường và xác định
giới hạn của khoản lợi này là hết sức khó khăn. Tuy nhiên, không phải khoản lợi nào
cũng được bồi thường. Theo quy định của pháp luật thương mại Việt Nam thì những
khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng, nếu không có sự vi phạm,
mới được bồi thường.
Nghiên cứu so sánh pháp luật cho thấy, hiện nay, các văn bản quy phạm pháp
luật trong lĩnh vực hợp đồng đều thừa nhận “khoản lợi trực tiếp mà các bên bị vi
phạm đáng lẽ được hưởng” là một loại thiệt hại được bồi thường32
. Điều 7.4.2 Bộ
nguyên tắc Unidroit xác định thiệt hại có những lợi ích bị mất đi, có tính đến mọi
khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được và phần
bình luận điều luật này đã ghi: “Tổn thất về lợi nhuận là khoản lợi nhuận mà đáng lẽ
bên có quyền có được nếu như hợp đồng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Lợi
nhuận thường không chắc chắn, nó thường được xem như việc mất một cơ may được
32
Đỗ Văn Đại, tlđd 19, tr. 577.
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT
Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT

More Related Content

What's hot

Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAYĐề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
Đề tài: Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, HAY
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt NamLuận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAYĐề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
Đề tài: Thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, HAY
 
Luận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
Luận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mạiLuận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
Luận văn: Pháp luật hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại
 
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại theo pháp luật
Luận văn: Phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại theo pháp luậtLuận văn: Phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại theo pháp luật
Luận văn: Phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại theo pháp luật
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Phú Thọ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Phú ThọLuận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Phú Thọ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Phú Thọ
 
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
Luận văn: Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng theo pháp luật - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản đầu tư chung vợ chồng khi ly hôn
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM >>TẢI FREE ZALO 09...
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sảnLuận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
Luận văn: Giải quyết tranh chấp Hợp đồng kinh doanh bất động sản
 
Luận văn: Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá
Luận văn: Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoáLuận văn: Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá
Luận văn: Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá
 
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luật
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luậtLuận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luật
Luận văn: Giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức theo pháp luật
 
Luận án: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HAY
Luận án: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HAYLuận án: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HAY
Luận án: Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, HAYLuận văn: Pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong xây dựng, HAY
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong xây dựng, HAYLuận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong xây dựng, HAY
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng trong xây dựng, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thểLuận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tập thể
 
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOTLuận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
 

Similar to Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT

Luận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
Luận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bánLuận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
Luận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bánViết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
BAI TAP CUOI KY MON - PHAP LUAT HOP DONG.docx
BAI TAP CUOI KY MON - PHAP LUAT HOP DONG.docxBAI TAP CUOI KY MON - PHAP LUAT HOP DONG.docx
BAI TAP CUOI KY MON - PHAP LUAT HOP DONG.docxLe Ha
 
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfVi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfHanaTiti
 
KHÓA LUẬN NGÀNH LUẬT: PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ KIẾ...
KHÓA LUẬN NGÀNH LUẬT: PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ KIẾ...KHÓA LUẬN NGÀNH LUẬT: PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ KIẾ...
KHÓA LUẬN NGÀNH LUẬT: PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ KIẾ...ssuserc1c2711
 
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đ...Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đ...https://www.facebook.com/garmentspace
 

Similar to Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT (20)

Quy định về miễn trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng, HAY
Quy định về miễn trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng, HAYQuy định về miễn trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng, HAY
Quy định về miễn trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp đồng, HAY
 
Luận văn vi phạm hợp đồng, 9 ĐIỂM
Luận văn vi phạm hợp đồng, 9 ĐIỂMLuận văn vi phạm hợp đồng, 9 ĐIỂM
Luận văn vi phạm hợp đồng, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
Luận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bánLuận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
Luận văn: chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
 
Luân văn: Giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại vô hiệu
Luân văn: Giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại vô hiệuLuân văn: Giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại vô hiệu
Luân văn: Giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại vô hiệu
 
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mạiLuận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
Luận văn: Sự thống nhất ý chí để giao kết hợp đồng thương mại
 
Khoá Luận Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Hợp Đồng Quy Định Pháp Luật.
Khoá Luận Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Hợp Đồng Quy Định Pháp Luật.Khoá Luận Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Hợp Đồng Quy Định Pháp Luật.
Khoá Luận Bồi Thường Thiệt Hại Do Vi Phạm Hợp Đồng Quy Định Pháp Luật.
 
Luận văn: Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật thương mại ở Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật thương mại ở Việt Nam, 9 ĐIỂMLuận văn: Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật thương mại ở Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật thương mại ở Việt Nam, 9 ĐIỂM
 
Vi phạm về giao kết hợp đồng lao động trong doanh nghiệp, HAY
Vi phạm về giao kết hợp đồng lao động trong doanh nghiệp, HAYVi phạm về giao kết hợp đồng lao động trong doanh nghiệp, HAY
Vi phạm về giao kết hợp đồng lao động trong doanh nghiệp, HAY
 
Các lưu ý khi soạn thảo điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng
Các lưu ý khi soạn thảo điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồngCác lưu ý khi soạn thảo điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng
Các lưu ý khi soạn thảo điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng
 
Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại
Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương MạiVi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại
Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại
 
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAYLuận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Hợp đồng vô hiệu do nhầm lần theo pháp luật, HAY
 
BAI TAP CUOI KY MON - PHAP LUAT HOP DONG.docx
BAI TAP CUOI KY MON - PHAP LUAT HOP DONG.docxBAI TAP CUOI KY MON - PHAP LUAT HOP DONG.docx
BAI TAP CUOI KY MON - PHAP LUAT HOP DONG.docx
 
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAYĐề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
Đề tài: Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật, HAY
 
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdfVi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
Vi phạm chấm dứt hợp đồng lao động trong pháp luật lao động Việt Nam.pdf
 
Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại.doc
Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại.docVi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại.doc
Vi Phạm Cơ Bản Hợp Đồng Theo Pháp Luật Thương Mại.doc
 
Thực Hiện Hợp Đồng Thương Mại Theo Pháp Luật, HAY.doc
Thực Hiện Hợp Đồng Thương Mại Theo Pháp Luật, HAY.docThực Hiện Hợp Đồng Thương Mại Theo Pháp Luật, HAY.doc
Thực Hiện Hợp Đồng Thương Mại Theo Pháp Luật, HAY.doc
 
Đề tài: Thực hiện hợp đồng đặt cọc theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thục ...
Đề tài: Thực hiện hợp đồng đặt cọc theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thục ...Đề tài: Thực hiện hợp đồng đặt cọc theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thục ...
Đề tài: Thực hiện hợp đồng đặt cọc theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thục ...
 
KHÓA LUẬN NGÀNH LUẬT: PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ KIẾ...
KHÓA LUẬN NGÀNH LUẬT: PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ KIẾ...KHÓA LUẬN NGÀNH LUẬT: PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ KIẾ...
KHÓA LUẬN NGÀNH LUẬT: PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ KIẾ...
 
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đ...Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đ...
Khóa luận tốt nghiệp ngành Luật Pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đ...
 
Hợp Đồng Bao Tiêu Nông Sản Giữa Doanh Nghiệp Với Hợp Tác Xã Nông Nghiệp.
Hợp Đồng Bao Tiêu Nông Sản Giữa Doanh Nghiệp Với Hợp Tác Xã Nông Nghiệp.Hợp Đồng Bao Tiêu Nông Sản Giữa Doanh Nghiệp Với Hợp Tác Xã Nông Nghiệp.
Hợp Đồng Bao Tiêu Nông Sản Giữa Doanh Nghiệp Với Hợp Tác Xã Nông Nghiệp.
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 

Luận văn: Giá trị bồi thường thiệt hại theo luật thương mại, HOT

  • 1. ` BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN ĐỨC TRỌNG GIÁ TRỊ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ Mã số: 60.38.50 Người hướng dẫn khoa học: TS. HÀ THỊ THANH BÌNH TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016
  • 2. ` LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Thông tin, số liệu trong luận văn là xác thực, có nguồn gốc rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả công trình nghiên cứu của mình. TÁC GIẢ Nguyễn Đức Trọng
  • 3. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS 2005 BLDS 2015 Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14/6/2005 Bộ luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015 Bộ nguyên tắc Unidroit Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế Công ước Viên 1980 Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế LTM 1997 Luật Thương mại ngày 10/5/1997 LTM 2005 Luật Thương mại (Luật số 36/2005/QH11) ngày 14/6/2005 Pháp lệnh HĐKT 1989 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế của Hội đồng nhà nước số 24-LCT/HĐNN8 ngày 25/9/1989
  • 4. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................1   CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VỀ GIÁ TRỊ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI.....................................7   1.1. Những vấn đề lý luận về giá trị bồi thường thiệt hại ......................................7   1.1.1. Khái niệm, chức năng và nguyên tắc bồi thường thiệt hại............................7   1.1.2. Bản chất pháp lý của giá trị bồi thường thiệt hại .......................................13   1.1.3. Vai trò, yếu tố tác động và yêu cầu của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại..................................................................................................................15   1.2. Quy định cụ thể của pháp luật thương mại về giá trị bồi thường thiệt hại 19   1.2.1. Xác định giá trị bồi thường thiệt hại...........................................................19   1.2.2. Giới hạn giá trị bồi thường thiệt hại và vấn đề miễn, giảm trách nhiệm bồi thường....................................................................................................................29   1.2.3. Giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh lệch giá...........47   CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN TÀI PHÁN LIÊN QUAN ĐẾN GIÁ TRỊ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................49   2.1. Thực tiễn tài phán liên quan đến giá trị bồi thường thiệt hại ......................49   2.1.1. Vấn đề xác định giá trị bồi thường thiệt hại................................................49   2.1.2. Giới hạn giá trị bồi thường thiệt hại và vấn đề giảm giá trị bồi thường thiệt hại..........................................................................................................................63   2.1.3. Về giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh lệch giá.......69   2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về giá trị bồi thường thiệt hại.....................................................................................................................72   2.2.1. Thống nhất một số quy định khác biệt giữa LTM 2005 và BLDS 2005 ......73   2.2.2. Xác định giá trị bồi thường thiệt hại...........................................................74   2.2.3. Vấn đề miễn, giảm giá trị bồi thường thiệt hại ...........................................75   2.2.4. Về giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh lệch giá.......76   2.2.5. Tăng cường chức năng hướng dẫn xét xử của Toà án nhân dân tối cao....77   KẾT LUẬN ..................................................................................................................79  
  • 5. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong hoạt động thương mại, sự thoả thuận giữa các bên thông thường được ghi nhận trong hợp đồng. Các bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng hợp đồng. Tuy nhiên, việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng vẫn có thể xảy ra, dù cố ý hay vô ý. Khi tranh chấp phát sinh từ và liên quan đến hợp đồng thương mại, pháp luật cho phép một bên áp dụng các biện pháp pháp lý đối với bên kia nhằm yêu cầu bên đó chịu trách nhiệm pháp lý cho hành vi vi phạm hợp đồng của mình. Các biện pháp pháp lý này là chế tài trong thương mại. Trong đó, bồi thường thiệt hại với tư cách là chế tài trong thương mại có chức năng bù đắp tổn thất vật chất cho bên bị vi phạm, làm cho hành vi vi phạm hợp đồng trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị thiệt hại. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện hành chưa thống nhất về vấn đề xác định giá trị bồi thường thiệt hại phải được đền bù. Khoản 2 Điều 302 LTM 2005 quy định: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Trong khi đó, khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 quy định: “Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại”; Điều 13 BLDS 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Như vậy, theo quy định của LTM thì các bên không được phép thỏa thuận với nhau về mức bồi thường thiệt hại nhưng BLDS lại cho phép các bên thỏa thuận về mức bồi thường này. Nếu các bên khi tham gia hợp đồng có cách hiểu khác nhau do sự không thống nhất giữa LTM và BLDS thì sẽ dễ dẫn đến những tranh chấp không đáng có trong quá trình thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, một số quy định trong pháp luật hiện nay vẫn chưa có tính minh bạch, thống nhất như: yếu tố lỗi làm căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, giá trị tổn thất về tinh thần, vấn đề miễn, giảm trách nhiệm bồi thường... Ngoài ra, thực tiễn xét xử của tòa án thể hiện sự chưa nhất quán trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại, nhất là trong việc xác định mức độ thiệt hại, khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Pháp luật thương mại hiện hành chưa quy định các căn cứ cụ thể để xác định mức độ thiệt
  • 6. 2 hại, các khoản thiệt hại được bồi thường, cũng như chưa quy định cụ thể thế nào là các khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng. Do đó, trong quá trình giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Từ yêu cầu cấp thiết nghiên cứu để hoàn thiện quy định của pháp luật thương mại về vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại; đồng thời, giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng có sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp hợp đồng thương mại, tác giả chọn đề tài “Giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đến nay, qua nghiên cứu của tác giả, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào được công bố nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam, mặc dù cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này và một số vấn đề khác liên quan đến giá trị bồi thường thiệt hại. Cụ thể như sau: 1. Sách chuyên khảo Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam của TS. Nguyễn Ngọc Khánh do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2007: Gồm có bốn chương bao quát những vấn đề cốt yếu nhất của chế định hợp đồng, đi sâu phân tích, lý giải các khía cạnh lý thuyết của chế định này, đặc biệt có đối chiếu, so sánh các cách tiếp cận khác nhau, các cách hiểu khác nhau, các cách xử lý khác nhau về cùng một vấn đề được thể hiện trong các hệ thống pháp luật dân sự chủ yếu của thế giới đương đại. Trong sách này có nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đến đề tài như: chế tài bồi thường thiệt hại, yếu tố lỗi, xác định thiệt hại, giới hạn trách nhiệm bồi thường… 2. PGS.TS. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010 (1 tập), tái bản năm 2014 (2 tập) và cuốn Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010, tái bản năm 2013: Các cuốn sách này đề cập các vấn đề căn bản nhất của pháp luật về hợp đồng Việt Nam thông qua bình luận các bản án được chọn lọc, trong đó đề cập nhiều vấn đề liên quan đến xác định giá trị bồi thường thiệt hại như: thiệt hại vật chất và tổn thất tinh thần, yếu tố lỗi, giới hạn giá trị bồi thường thiệt hại… 3. Luận văn Thạc sỹ Luật học về Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thương mại của tác giả Nguyễn Phú Cường năm 2009: Nghiên cứu việc áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong kinh doanh-
  • 7. 3 thương mại vào thực tiễn, trong đó đề cập đến vấn đề miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan trực tiếp đến đề tài. 4. Đề tài nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh do PGS.TS. Phan Huy Hồng làm chủ nhiệm công bố năm 2011 về Các vấn đề pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa qua thực tiễn xét xử của tòa án và trọng tài tại Việt Nam: Đánh giá, đúc kết thực tiễn xét xử của tòa án, trọng tài thương mại Việt Nam về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, rút ra các kết luận về tính thống nhất, thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật, khả năng hình thành án lệ về một số vấn đề pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa. Đề tài có nghiên cứu vấn đề xác định giá trị bồi thường thiệt hại trong hợp đồng kinh doanh-thương mại. 5. Tác giả Nguyễn Thị Hồng Trinh đã công bố bài “Chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại quốc tế qua Luật Thương mại Việt Nam, Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 22/2009: Phân tích, so sánh chế định bồi thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam và quốc tế, trong đó đề cập đến vấn đề xác định giá trị bồi thường thiệt hại qua LTM Việt Nam, Công ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit. 6. Các bài viết “Thỏa thuận hạn chế hay miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng” của tác giả Dương Anh Sơn trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3/2005 và “Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng” của tác giả Đỗ Thành Công đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2010 nghiên cứu trực tiếp đến một vấn đề như là một bộ phận của đề tài. Các công trình nêu trên mặc dù có nghiên cứu đến vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại nhưng chỉ đề cập với tính chất là một nội dung nhỏ trong một đề tài nghiên cứu rộng hơn hoặc chỉ nghiên cứu một khía cạnh liên quan đến đề tài, và chưa có tính bao quát, chưa nghiên cứu sâu, toàn diện việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại. Mặc dù vậy, các công trình này là nguồn tài liệu tham khảo rất có giá trị cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài. 3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống về lý luận, thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn xét xử ở Việt Nam về vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại, có so sánh với pháp luật nước ngoài và tham khảo thực tiễn tài phán quốc tế, bao gồm những nội dung: xác định giá trị bồi thường thiệt hại, giới hạn giá
  • 8. 4 trị bồi thường thiệt hại và giá trị bồi thường thiệt hại trong trường hợp có sự chênh lệch giá. Thông qua đó, phân tích những quy định còn bất cập của pháp luật thương mại và kiến nghị hoàn thiện các quy định liên quan đến vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu của đề tài - Các quy định pháp luật thương mại Việt Nam về vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại; - Các quan điểm khoa học pháp lý và thực tiễn xét xử liên quan đến xác định giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam; - Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới như: Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản; các quy định của pháp luật quốc tế khác như Công Ước Viên 1980 và Bộ nguyên tắc Unidroit…về xác định giá trị bồi thường thiệt hại, từ đó rút ra kinh nghiệm và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định tương ứng của Việt Nam. 4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu đề tài Phạm vi nghiên cứu đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng thương mại. Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu, đề tài sẽ không đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho dù căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường đó xuất phát từ hoạt động kinh doanh thương mại. Đề tài có so sánh, đối chiếu với các quy định tương ứng của Bộ luật Dân sự. Ngoài ra, đề tài cũng nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế có điều chỉnh vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng như Công ước viên 1980 (CISG), Bộ nguyên tắc Unidroit... để nhằm rút ra các kinh nghiệm cho Việt Nam. Ngoài các quy định pháp luật, đề tài cũng sẽ nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật qua các bản án, quyết định của tòa án các cấp, phán quyết của trọng tài thương mại về tranh chấp hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại có liên quan đến việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Phương pháp nghiên cứu đề tài Trong luận văn, tác giả phối kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong khoa học xã hội như: phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp bình luận, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp…. Tuỳ thuộc vào nội dung nghiên cứu của từng chương tác giả có thể sử dụng các phương pháp khác nhau. Cụ thể như sau:
  • 9. 5 Trong chương 1, để làm rõ các vấn đề về lý luận tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước về hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tác giả sử dụng các phương pháp phân tích luật, phương pháp giải thích luật, phương pháp so sánh luật và phương pháp lịch sử để nghiên cứu, phân tích quy định của pháp luật thương mại về giá trị bồi thường thiệt hại và các vấn đề khác liên quan, chỉ ra những điểm mới, tiến bộ (hoặc bất cập) của luật mới so với luật cũ, của luật chung so với luật chuyên ngành, của luật Việt Nam so với luật nước ngoài, luật quốc tế… từ đó, rút ra được những vấn đề chung, mang tính nguyên tắc, hợp lý nhất để đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Trong chương 2, tác giả thu thập, phân loại một số lượng cần thiết bản án, phán quyết trọng tài theo các vấn đề pháp lý liên quan đến vấn đề giá trị bồi thường thiệt hại, và sử dụng các phương pháp bình luận án, phương pháp tổng hợp và phương pháp quy nạp để phân tích bản án, quyết định của tòa án, phán quyết trọng tài, đánh giá quan điểm của tòa án hay trọng tài trong việc áp dụng pháp luật. Từ đó, tác giả đưa ra các nhận định, kết luận có tính đại diện làm cơ sở để đề xuất, kiến nghị. 5. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và đóng góp mới của luận văn Luận văn có ý nghĩa khoa học nhất định, là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên đặt vấn đề đi sâu xem xét các vấn đề lý luận của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam. Đề tài nghiên cứu một số thực tiễn giải quyết các vụ án kinh tế liên quan đến việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại theo hợp đồng trong hoạt động thương mại nhằm làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó, đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật liên quan theo hướng hỗ trợ các cơ quan xét xử xác định giá trị bồi thường thiệt hại trong các vụ việc tranh chấp về bồi thường thiệt hại phát sinh từ hoạt động thương mại. Việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện các vấn đề lý luận về giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam; đồng thời, đóng góp những luận điểm nhất định để cơ quan lập pháp tham khảo nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam phù hợp hơn với thực tiễn thương mại. Những điểm mới của luận văn bao gồm: (i) Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam;
  • 10. 6 (ii) Đánh giá một cách khách quan thực trạng xác định giá trị bồi thường thiệt hại trong thực tiễn tài phán; (iii) Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giá trị bồi thường thiệt hại theo pháp luật thương mại Việt Nam phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển lĩnh vực kinh doanh, thương mại. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được cấu trúc thành 02 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật thương mại về giá trị bồi thường thiệt hại Chương 2. Thực tiễn tài phán liên quan đến việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại và một số kiến nghị
  • 11. 7 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VỀ GIÁ TRỊ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI 1.1. Những vấn đề lý luận về giá trị bồi thường thiệt hại 1.1.1. Khái niệm, chức năng và nguyên tắc bồi thường thiệt hại 1.1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại Trong thực tiễn hình thành và phát triển xã hội, mỗi người sống trong đó phải tôn trọng những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác được hiểu là bồi thường thiệt hại. Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một trong những chế định pháp lý xuất hiện sớm nhất trong lịch sử pháp luật dân sự. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, ở những quốc gia khác nhau, việc bồi thường thiệt hại được quy định khác nhau về chủ thể, điều kiện, mức, hình thức và phương thức bồi thường, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của quốc gia. Pháp luật nhiều nước trên thế giới cũng quy định bồi thường thiệt hại là một biện pháp mà bên bị vi phạm áp dụng để bảo vệ quyền lợi của mình, bắt buộc bên vi phạm phải bồi hoàn những tổn thất mà mình bị xâm phạm. Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa như Pháp, Nga quy định bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm là hai hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Nhưng đối với pháp luật các nước thông luật như Anh, Mỹ thì bồi thường thiệt hại là chế tài được sử dụng chủ yếu, trong trường hợp chưa đến mức hủy bỏ hợp đồng. Họ cho rằng áp dụng chế tài này sẽ hợp lý, khả thi và tiện lợi cho các bên trong quan hệ hợp đồng1 . Ở Việt Nam, bồi thường thiệt hại là chế tài trong thương mại được áp dụng trong tất cả các lĩnh vực kinh doanh thương mại. Trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế, bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm được tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới áp dụng2 . Trong trường hợp bên có quyền bị vi phạm đã áp dụng các hình thức trách nhiệm khác thì họ vẫn không đương nhiên mất quyền đòi bồi thường thiệt hại. Vì thế, có thể coi bồi thường thiệt hại là một giải pháp vạn năng cho 1 Nguyễn Thị Thanh Nữ (2013), Chế tài bồi thường thiệt hại trong Luật Thương mại 2005, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, sđd, tr. 9. 2 Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình Luật hợp đồng và thương mại quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 87.
  • 12. 8 mọi trường hợp vi phạm nghĩa vụ hợp đồng3 . Để bảo vệ bên bị vi phạm, pháp luật cho phép bên bị vi phạm được quyền yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường những tổn thất đó, ngay cả khi không có điều khoản bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ cơ sở giải quyết bồi thường trong hợp đồng và bồi thường ngoài hợp đồng rất khác nhau, xác định được rõ hai loại trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. So với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có một số khác biệt như sau: (i) Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định. Trong khi đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng về cơ bản phát sinh trên cơ sở thoả thuận của các bên theo hợp đồng. (ii) Về điều kiện phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi4 . Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, điều kiện phát sinh do các bên thoả thuận đặt ra, đó là nghĩa vụ phải thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho các bên khi tham gia vào hợp đồng. Bên nào không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng tức là đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm. Điều 303 LTM 2005 quy định rất rõ căn cứ (điều kiện) phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng: “Trừ các trường hợp miễn 3 Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 433. 4 Xem Điều 604 BLDS 2005.
  • 13. 9 trách nhiệm quy định tại Điều 294 Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”. Như vậy, dưới khía cạnh pháp lý trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong giới hạn nghiên cứu của đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng trong hoạt động thương mại (nghĩa là bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng thương mại). Theo Điều 303 LTM 2005 bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có đủ các yếu tố: Có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Trước hết phải có hành vi vi phạm hợp đồng, đó là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên. Hành vi vi phạm hợp đồng chỉ phải bồi thường nếu hành vi đó gây thiệt hại thực tế và là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Ở đây, yếu tố lỗi không là căn cứ để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh của LTM. Tuy nhiên, theo BLDS, lỗi là yếu tố bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại với tư cách là một loại trách nhiệm dân sự. Cụ thể, khoản 1 Điều 308 BLDS 2005 quy định: “Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý”; Điều 364 BLDS 2015 quy định: “Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý”. Hiện nay, có các quan điểm khác nhau về việc lỗi có phải là một yếu tố bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không?5 Theo quan điểm của tác giả, trong hoạt động kinh doanh thương mại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng phát sinh mà không cần phải xác định lỗi; bởi lẽ, (i) LTM với tư cách là luật chuyên ngành, được ưu tiên áp dụng điều chỉnh các quan hệ trong hợp đồng kinh doanh thương mại trước BLDS, không đòi hỏi lỗi là yếu tố bắt buộc mà có nó mới phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại; (ii) “Đối chiếu so sánh thì chúng ta thấy yêu cầu “lỗi” không tồn tại trong một số hệ thống pháp luật. Ví dụ, trong Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại “không cần yếu tố lỗi””6 ; (iii) ở Việt Nam, “trong thực tiễn xét xử 5 Vấn đề yếu tố lỗi, tham khảo thêm: (i) Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa dịch vụ, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr. 428-433; (ii) Đỗ Văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 86-90; (iii) Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 391-415. 6 Đỗ Văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 88.
  • 14. 10 những năm qua, hầu như chưa bao giờ vấn đề kiểm tra, xem xét trạng thái tâm lý của người vi phạm nghĩa vụ đối với hành vi thực hiện và hậu quả của hành vi thực hiện được đặt ra một cách nghiêm túc, cả từ phía Tòa án lẫn từ những người tham gia tố tụng. Bên cạnh đó, ngay trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay cũng đã bắt đầu xuất hiện một số văn bản pháp luật chuyên ngành trong đó từ bỏ cách tiếp cận khái niệm lỗi truyền thống của BLDS 2005”7 . Như vậy, theo quy định của LTM, quan điểm của pháp luật quốc tế và thực tiễn xét xử ở Việt Nam không yêu cầu lỗi là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, cần thấy rõ LTM 2005 vẫn có một số quy định, dành cho các trường hợp cá biệt, mà ở đó lỗi vẫn đóng một vai trò nhất định trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại như: Điều 238 về giới hạn trách nhiệm trong hoạt động logictics, Điều 266 về bồi thường thiệt hại trong trường hợp giám định sai, hay Điều 273 về trách nhiệm đối với tổn thất trong thời hạn thuê. Tuy nhiên, nếu các nhà làm luật cho rằng đây là những trường hợp ngoại lệ thì cần phải quy định trong phần chung về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại các trường hợp nào cần thiết phải có yếu tố lỗi thì mới làm phát sinh trách nhiệm bồi thường. Từ những cơ sở pháp lý trên, có thể hiểu bồi thường thiệt hại là một hình thức chế tài vật chất được áp dụng cho bên vi phạm, trừ những trường hợp được miễn trách nhiệm, nhằm bồi thường những tổn thất (thực tế, trực tiếp) mà bên bị vi phạm phải gánh chịu và những khoản lợi đáng lẽ được hưởng cho bên bị vi phạm. Theo đó, “chế tài bồi thường thiệt hại thể hiện mục đích là bù đắp, bồi hoàn toàn bộ thiệt hại thực tế cho bên bị vi phạm hơn là trừng trị bên có hành vi vi phạm hợp đồng”8 . 1.1.1.2. Chức năng của chế tài bồi thường thiệt hại Thứ nhất, bù đắp thiệt hại là mục đích và cũng là chức năng cơ bản, nổi bật nhất của chế tài bồi thường thiệt hại. Sự vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại của một bên trong quan hệ hợp đồng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên kia. Do đó, bên vi phạm gây thiệt hại phải có trách nhiệm bù đắp những lợi ích vật chất, đủ để cho phép khôi phục lại tình trạng trước khi vi phạm gây thiệt hại và thỏa mãn những quyền lợi chính đáng mà bên kia đáng lẽ phải được hưởng9 . Mục đích của bồi thường thiệt hại là đặt lợi ích vật chất của bên bị thiệt hại vào vị trí đáng lẽ họ phải 7 Đỗ Văn Đại, tlđd 6, tr. 89. 8 Nguyễn Phú Cường (2009), Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thương mại, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 8. 9 Nguyễn Ngọc Khánh, tlđd 3, tr. 432.
  • 15. 11 có nếu bên kia thực hiện đúng nghĩa vụ của mình10 . Bồi thường thiệt hại không phải là đưa người bị thiệt hại trở về tình trạng ban đầu mà đưa họ vào tình trạng như là hợp đồng đã được thực hiện. Theo đó, những tổn thất và những khoản lợi trực tiếp họ được hưởng từ hợp đồng là những khoản mà bên vi phạm phải bồi thường. Đối với chế định bồi thường thiệt hại trong luật hợp đồng Anh - Mỹ (cả trong luật thực định cũng như trong thực tiễn xét xử), việc khôi phục lại tình trạng như là trước khi giao kết hợp đồng không phải là mục tiêu số một. Việc đặt bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm vào vị thế như là hợp đồng đã được thực hiện đúng và đầy đủ mới là mục đích mà chế định bồi thường thiệt hại trong luật hợp đồng Anh - Mỹ hướng tới11 . Thứ hai, bồi thường thiệt hại có chức năng răn đe, nhắc nhở các bên trong hợp đồng phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Bồi thường thiệt hại nhằm mang lại cho bên bị vi phạm hợp đồng một sự thực hiện tương đương và khuyến khích các bên thực hiện nghiêm chỉnh hợp đồng. Chế tài này tác động đến nhận thức của các bên, có tác động thúc đẩy các bên cố gắng thực hiện đúng nội dung của hợp đồng đã xác lập, trừ những trường hợp không thể thực hiện được như trong trường hợp bất khả kháng và buộc phải vi phạm nghĩa vụ. Nếu vi phạm hợp đồng và gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên kia với giá trị như hợp đồng đã được thực hiện bao gồm cả những khoản lợi khi hợp đồng được thực hiện đúng và các thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu từ hành vi vi phạm hợp đồng. Vì vậy, chế tài bồi thường thiệt hại đặt ra không chỉ để bù đắp tổn thất cho bên bị vi phạm mà còn nhắc nhở các bên phải nghiêm túc thực hiện đúng hợp đồng; đồng thời, giúp cho các bên yên tâm trong thực hiện hợp đồng với suy nghĩ rằng, đối tác sẽ phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng bởi vì nếu vi phạm nghĩa vụ đã cam kết thì phải gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra. Thứ ba, bồi thường thiệt hại có chức năng bảo vệ nguyên tắc thiện chí, trung thực trong thực hiện hợp đồng. Thiện chí, trung thực là một trong những nguyên tắc nền tảng của việc ký kết và thực hiện hợp đồng được ghi nhận không chỉ trong pháp luật hợp đồng của Việt Nam mà còn được quy định trong pháp luật của nhiều nước12 . Khi xác lập và thực hiện hợp đồng, các bên đã dự tính được những khoản lợi mà mình sẽ đạt được. Đồng thời, bên này cũng biết những khoản lợi mà bên kia đạt được. Do đó, khi vi phạm hợp đồng, bên vi phạm cũng có thể dự đoán trước những thiệt hại mà bên bị vi phạm phải 10 Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd 2, tr. 89. 11 Nguyễn Ngọc Khánh, tlđd 3, tr. 441. 12 Dương Anh Sơn, Nguyễn Ngọc Sơn (2007), “Tác động của các hình thức lỗi đến việc xác định trách nhiệm hợp đồng nhìn từ góc độ nguyên tắc trung thực và thiện chí”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 1(38).
  • 16. 12 gánh chịu. Chế tài bồi thường thiệt hại góp phần bảo vệ mong muốn thực sự của các bên khi tham gia hợp đồng. 1.1.1.3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại Thứ nhất, khi trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh trong hợp đồng kinh doanh – thương mại, chúng ta phải tuân thủ nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại. Bồi thường thiệt hại toàn bộ có nghĩa là thiệt hại phải được bồi thường đầy đủ. Bên bị thiệt hại phải được đền bù đầy đủ để có thể khôi phục lại lợi ích bị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra13 . Khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 quy định “nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại”; Điều 13 BLDS 2015 cũng quy định: “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Điều đó có nghĩa là về nguyên tắc “phải bồi thường toàn bộ thiệt hại” nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại cũng được thừa nhận rộng rãi trên thế giới. Bộ nguyên tắc Unidroit quy định: “Bên có quyền có quyền đòi bồi thường toàn bộ những thiệt hại mà mình đã phải gánh chịu từ việc hợp đồng không được thực hiện như dự kiến. Thiệt hại bao gồm những tổn thất mà bên này trong thực tế đã phải gánh chịu và những lợi ích bị mất đi, có tính đến mọi khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được” (Khoản 1 Điều 7.4.2). Tương tự, khoản 2 Điều 302 LTM 2005 quy định: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Có thể thấy rằng, bồi thường thiệt hại toàn bộ không chỉ tính đến giá trị tổn thất của bên bị vi phạm phải gánh chịu mà bên vi phạm còn phải bồi thường cả khoản lợi trực tiếp mà bên có quyền đáng lẽ nhận được nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Thứ hai, việc bồi thường thiệt hại phải tuân thủ nguyên tắc không làm sinh lợi cho bên có quyền. Bên bị thiệt hại không được phép nhận sự đền bù vượt ra ngoài phạm vi cần thiết để khắc phục lợi ích vật chất bị tổn thất của mình14 . Nguyên tắc này cũng được thể hiện tại Điều 74 Công ước Viên 1980: “Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết”. Trong khi LTM 2005 không đề cập rõ nguyên tắc bồi thường thiệt hại không làm sinh lợi cho bên có quyền thì 13 Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd 2, tr. 88. 14 Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tlđd 2, tr. 88.
  • 17. 13 Điều 229 LTM 1997 quy định cụ thể: “số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng”. Việc bồi thường thiệt hại chỉ nhằm mục đích bù đắp lại những mất mát mà bên bị vi phạm phải gánh chịu, nó không nhằm mục đích mang đến cho họ những khoản lợi ích vượt ra khỏi mất mát này. Do đó, nội hàm của nguyên tắc này là bên được bồi thường không vì được bồi thường mà có lợi hơn trong trường hợp nghĩa vụ được thực hiện bình thường. 1.1.2. Bản chất pháp lý của giá trị bồi thường thiệt hại Thiệt hại theo nghĩa chung nhất là sự mất mát về người, về lợi ích vật chất hoặc tinh thần được pháp luật bảo vệ15 . Trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, thiệt hại nên được xem là những mất mát (hoặc sự giảm sút) về lợi ích vật chất hoặc tinh thần. Điều 303 LTM 2005 quy định “thiệt hại thực tế” là một trong những căn cứ pháp lý phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Không chỉ riêng pháp luật Việt Nam mà pháp luật của hầu hết tất cả các nước trên thế giới đều đưa ra nguyên tắc chung: có thiệt hại thì mới bồi thường. Nếu thực tế có xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng nhưng chưa có thiệt hại thì chưa phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại16 . Khi có đủ căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, bên vi phạm hợp đồng có trách nhiệm phải bồi thường cho bên bị vi phạm. Tuy nhiên, hiện nay, việc xác định giá trị bồi thường như thế nào và bồi thường bằng phương thức nào không có sự thống nhất hoàn toàn trong quy định của pháp luật trên thế giới cũng như trong pháp luật thương mại Việt Nam. Một số văn bản pháp lý quốc tế coi “giá trị bồi thường thiệt hại” là “tiền bồi thường”. Theo Điều 74 Công ước Viên 1980: “Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải gánh chịu do hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng”. Bộ nguyên tắc Unidroit quy định về “tiền lãi từ khoản tiền bồi thường thiệt hại” (Điều 7.4.10), “phương thức bồi thường bằng tiền” (Điều 7.4.11), “đồng tiền tính toán thiệt hại” (Điều 7.4.12) và “tiền bồi thường ấn định trước trong hợp đồng” (Điều 7.4.13). Pháp luật thương mại Việt Nam trước đây cũng đề cập đến “tiền bồi thường thiệt hại”. Theo Pháp lệnh HĐKT 1989 thì bồi thường thiệt hại được quy định như là một chế tài tiền tệ, “Tiền bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng, số 15 Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb Phương Đông, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 866: “thiệt hại tt. (hoặc dt.). Bị mất mát về người, về của cải vật chất hoặc tinh thần”. 16 Phan Thị Hằng (2012), Chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại quốc tế, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 26.
  • 18. 14 chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm gây ra”17 . Khoản 1 Điều 229 LTM 1997 quy định như sau: “Bồi thường thiệt hại là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra”. Khoản 2 Điều 229 LTM 1997 nêu rõ “Số tiền bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra”. Tuy nhiên, quy định cách thức bồi thường thiệt hại chỉ bằng tiền là không hợp lý, mang tính chất bó buộc, bởi bên cạnh việc bồi thường bằng tiền, bên vi phạm vẫn có thể sử dụng tài sản hoặc những cách thức khác theo thỏa thuận để bồi thường cho bên bị vi phạm những thiệt hại mà mình gây ra, điều đó vẫn không ảnh hưởng đến tính chất cơ bản của bồi thường thiệt hại18 . “Giá trị bồi thường thiệt hại” là thuật ngữ lần đầu tiên xuất hiện trong LTM 2005. Theo khoản 2 Điều 302 LTM 2005: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Liên quan đến xác định giá trị bồi thường thiệt hại, BLDS không sử dụng thuật ngữ giá trị bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng mà sử dụng thuật ngữ “mức bồi thường thiệt hại” (khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 và khoản 2 Điều 419 BLDS 2015). Có tác giả cho rằng “bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực hợp đồng là một khoản tiền. Như vậy, xác định thiệt hại được bồi thường chưa đủ. Chúng ta còn phải quy thiệt hại thành tiền”19 . Từ cách tiếp cận trên có thể thấy, “giá trị bồi thường thiệt hại” chính là “khoản tiền” bồi thường được quy đổi từ thiệt hại do bên vi phạm gây ra. Giá trị bồi thường thiệt hại lúc này tương ứng với khoản tiền đó. Và, khoản tiền này chính là thước đo giá trị của những thiệt hại được bồi thường, vì về thực chất, tiền chính là biểu hiện bên ngoài đối với giá trị bên trong của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ trong hoạt động thương mại. LTM 2005 không đưa khái niệm phản ánh bản chất của giá trị bồi thường thiệt hại mà chỉ liệt kê giá trị bồi thường thiệt hại gồm hai bộ phận, đó là bộ phận giá trị bồi thường thiệt hại thuộc về tổn thất và bộ phận giá trị bồi thường thiệt hại thuộc về khoản lợi (khoản 2 Điều 302). Về bản chất, giá trị bồi thường thiệt hại là số đo của 17 Điểm b khoản 2 Điều 29 Pháp lệnh HĐKT 1989. 18 Nguyễn Thị Thanh Nữ, tlđd 1, tr. 9. 19 Đỗ Văn Đại (2010), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Nxb Chính trị quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 580.
  • 19. 15 một lượng bồi thường thiệt hại và có thể tính bằng một đơn vị tiền tệ nhất định nên trong LTM 1997 và Công ước Viên 1980 sử dụng thuật ngữ “tiền bồi thường thiệt hại”. Số tiền bồi thường thiệt hại được đề cập trong các văn bản luật trên cũng chính là giá trị bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, sử dụng thuật ngữ “giá trị bồi thường thiệt hại” có tính khái quát hơn. Nó thể hiện sự đo lường về những lợi ích vật chất và lợi ích phi vật chất có thể được bồi thường, trong khi đó “số tiền bồi thường” chưa phản ánh hết giá trị thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu. Sử dụng “số tiền bồi thường thiệt hại” có thể hiểu như là phương thức bồi thường thiệt hại. Tức là, giá trị bồi thường thiệt hại được thể hiện thông qua hình thức bồi thường bằng tiền. Bộ nguyên tắc Unidroit cũng có đề cập đến phương thức bồi thường thiệt hại bằng tiền (Điều 7.4.11). Như vậy, sử dụng giá trị bồi thường thiệt hại không phản ánh hình thức (phương thức) bồi thường thiệt hại mà phản ánh mức độ tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra và khoản lợi đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Bản chất pháp lý của giá trị bồi thường thiệt hại chính là giá trị của những tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm hợp đồng phải gánh chịu do hành vi không thực hiện đúng hợp đồng và giá trị của những khoản lợi đáng lẽ bên bị vi phạm được hưởng nếu hợp đồng được thực hiện theo các nội dung đã thỏa thuận. Giá trị của những tổn thất và giá trị của những khoản lợi này có thể là những giá trị vật chất hoặc giá trị phi vật chất. Đơn vị tính giá trị vật chất thường bằng tiền tệ. Trong khi đó, đơn vị tính giá trị phi vật chất không nhất thiết bằng tiền tệ. Tuy nhiên, có thể quy đổi giá trị phi vật chất thành một lượng tiền tệ nhất định như để bù đắp thiệt hại về tinh thần. Việc sử dụng thuật ngữ “giá trị bồi thường thiệt hại” lột tả bản chất pháp lý của chế tài bồi thường thiệt hại trong việc xác định bồi thường với những khoản giá trị cụ thể, không phản ánh hình thức (phương thức) bồi thường thiệt hại. 1.1.3. Vai trò, yếu tố tác động và yêu cầu của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại 1.1.3.1. Vai trò của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại Thứ nhất, xác định đúng giá trị bồi thường thiệt hại có vai trò quyết định đối với việc thực hiện chế tài bồi thường thiệt hại. Khi có căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, vấn đề quan trọng là xác định được giá trị bồi thường thiệt hại. Xác định đúng giá trị bồi thường thiệt hại sẽ thực hiện đúng được chức năng của bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, xác định giá trị bồi thường thiệt hại thường rất phức tạp đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều vấn đề, như: xác định đúng thành phần giá trị bồi thường thiệt hại, phạm vi giá trị bồi thường thiệt hại, thỏa thuận của các
  • 20. 16 bên về giá trị bồi thường thiệt hại; xác định đúng giá trị tổn thất và giá trị khoản lợi đáng lẽ được hưởng… Thứ hai, xác định đúng giá trị bồi thường thiệt hại sẽ bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng. Khi tham gia hợp đồng, các bên đều hướng tới những lợi ích nhất định. Lợi ích này có thể là lợi nhuận của thương nhân hoặc là nhu cầu của người tiêu dùng. Các bên khi xác lập và thực hiện hợp đồng đều mong muốn hợp đồng được thực hiện đúng và hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng của mình, thu được khoản lợi nhất định. Lợi ích của các bên tham gia hợp đồng trong hoạt động thương mại rất đa dạng. Với mỗi chủ thể khác nhau, lợi ích này cũng thường không hoàn toàn giống nhau. Đối với thương nhân, đó chủ yếu là lợi nhuận về vật chất và sự tăng lên về giá trị tinh thần (uy tín, thương hiệu). Đối với người tiêu dùng tham gia hợp đồng trong hoạt động thương mại thì quyền lợi của họ là nhu cầu tiêu dùng được đảm bảo (đáp ứng số lượng và chất lượng sản phẩm cho nhu cầu tiêu dùng). Quyền lợi chính đáng của các bên trong hợp đồng được pháp luật bảo vệ. Sự bảo vệ này thể hiện chủ yếu ở việc đưa ra các hình thức trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng, trong đó có bồi thường thiệt hại. Khi xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm phải chịu thiệt hại nhất định. Xác định đúng giá trị bồi thường thiệt hại là yếu tố quan trọng để quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng không bị xâm phạm. Nghĩa là, bên bị vi phạm được bù đắp những khoản bồi thường hợp lý với những tổn thất mà mình gánh chịu và bên vi phạm chỉ phải bồi thường khoản giá trị thiệt hại tương xứng với hành vi vi phạm do mình gây ra. 1.1.3.2. Các yếu tố tác động đến việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại Xác định giá trị bồi thường thiệt hại là quá trình bên bị vi phạm đánh giá, chứng minh những giá trị thiệt hại phải được bồi thường cho bên bị vi phạm theo quy định của pháp luật. Kết quả của việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại chịu sự tác động, chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau. Một là yếu tố pháp lý, là yếu tố căn bản để xác định giá trị bồi thường thiệt hại. Quy định của pháp luật càng cụ thể, rõ ràng thì việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại càng được chính xác, thống nhất đảm bảo lợi ích cho cả bên vi phạm lẫn bên bị vi phạm. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện nay về vấn đề này còn chung chung, chưa thống nhất giữa BLDS và LTM. Chẳng hạn, LTM coi “khoản lợi đáng lẽ được hưởng” là một thiệt hại nhưng BLDS không quy định rõ vấn đề này, hay BLDS
  • 21. 17 có quy định về bồi thường tổn thất về tinh thần20 nhưng LTM chỉ nêu “thiệt hại thực tế”… Do đó, khi tiến hành áp dụng pháp luật về vấn đề này chúng ta thường gặp khó khăn, lúng túng. Mặt khác, các cơ quan tố tụng cũng chưa có hướng dẫn cụ thể, thống nhất về việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại trong giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại. Đây là vấn đề khó khăn bởi vì thiệt hại thường rất đa dạng, không thể liệt kê hết trong các văn bản quy phạm pháp luật và nếu có liệt kê thì vẫn không thể đầy đủ. Trong thời gian tới, nếu có điều kiện sửa đổi pháp luật thương mại, nên có quy định về vấn đề này theo các định hướng như: (i) đưa ra những quy định cụ thể làm “công thức” để xác định giá trị bồi thường thiệt hại; (ii) đưa ra những quy tắc, chuẩn mực chung để các bên thỏa thuận xác định giá trị bồi thường thiệt hại, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên và không xâm hại đến lợi ích của nhà nước, công cộng… Hai là yếu tố thị trường. Đối tượng của hợp đồng trong hoạt động thương mại là hàng hóa, dịch vụ. Mỗi loại hàng hóa, dịch vụ đều có giá trị và giá trị đó thường xuyên biến đổi trên thị trường. Khi xác định giá trị của hàng hóa, dịch vụ thường bị chi phối bởi nhiều vấn đề, như: nhu cầu thị trường, sự biến động giá cả, tỷ giá, lãi suất… Chẳng hạn, Công ty A ký hợp đồng mua cá ba sa với Công ty B để xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Nhưng sau đó, do Mỹ ra quy định cấm nhập khẩu cá da trơn của Việt Nam với lý do bán phá giá nên Công ty A không mua cá của Công ty B nữa gây thiệt hại cho Công ty B vì Công ty B thu mua cá của rất nhiều người nuôi cá. Khi đó, việc xác định giá trị thiệt hại là giá mua bán cá ba sa theo thỏa thuận trong hợp đồng hay giá thực tế tại thời điểm vi phạm có sự chênh lệch rất lớn, bởi vì khi Mỹ cấm nhập khẩu cá da trơn Việt Nam thì giá bán cá ba sa bị sụt giảm thê thảm. Mặt khác, nếu vụ việc xảy ra trong thời gian dài, khoản lợi đáng lẽ được hưởng là lãi suất ngân hàng (Công ty B dùng tiền gửi ngân hàng để thu mua cá) cũng có sự biến động lớn. Do vậy, việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại bị chi phối nhất định bởi yếu tố thị trường, nhất là đối với việc bồi thường thiệt hại liên quan nhiều quốc gia, khu vực hoặc việc giải quyết bồi thường thiệt hại diễn ra trong thời gian dài làm cho các chủ thể khó khăn trong việc thỏa thuận hay chấp nhận phán quyết của cơ quan tài phán về giá trị bồi thường thiệt hại. Ba là yếu tố thay đổi theo thời gian của thiệt hại. Thiệt hại mà bên vi phạm gây ra có một giá trị nhất định tại thời điểm có hành vi vi phạm nhưng giá trị này thường thay đổi do sự biến động của các yếu tố trong thị trường tạo ra (như: yếu tố giá cả, cung – cầu…) hoặc do tác động của tự nhiên, môi trường. Sự biến đổi nhanh 20 Xem Điều 307 BLDS 2005 và Điều 361 BLDS 2015.
  • 22. 18 hay chậm của thiệt hại phụ thuộc vào từng loại thiệt hại khác nhau (thiệt hại vật chất, thiệt hại phi vật chất). Mặt khác, từ thiệt hại này có thể gây ra những thiệt hại khác, có tính dây chuyền cho bên bị vi phạm. Vấn đề này mang tính tất yếu giống như mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Theo đó, việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại sẽ gặp khó khăn trong trường hợp thiệt hại xảy ra có phạm vi rộng, có nhiều loại thiệt hại, hay liên quan đến nhiều chủ thể. Bốn là yếu tố con người. Yếu tố con người là những tác động chủ quan đến việc xác giá trị bồi thường thiệt hại. Sự tác động, ảnh hưởng của yếu tố này được thể hiện: (i) sự thỏa thuận của các chủ thể về giá trị bồi thường thiệt hại, nhất là thỏa thuận về các trường hợp được miễn, giảm giá trị bồi thường thiệt hại, thỏa thuận ấn định giá trị bồi thường thiệt hại...; (ii) khả năng chứng minh thiệt hại của bên bị vi phạm; (iii) sự thiện chí, trung thực của các chủ thể tham gia hợp đồng; (iv) khả năng đánh giá thiệt hại và sử dụng pháp luật của người thuộc cơ quan, tổ chức áp dụng pháp luật. 1.1.3.3. Các nguyên tắc xác định giá trị bồi thường thiệt hại Thứ nhất, xác định giá trị bồi thường thiệt hại phải đảm bảo thực hiện đúng chức năng, nguyên tắc bồi thường thiệt hại. Việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại giúp bên bị vi phạm có thể có được những khoản bù đắp tương ứng với những gì họ có thể đạt được nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Việc bồi thường thiệt hại không hướng đến việc làm tăng thêm khoản vật chất hay khoản lợi cho bên bị vi phạm. Tất cả những thiệt hại xảy ra mà bên bị vi phạm chứng minh được đều phải xác định được chính xác và kịp thời về giá trị để bồi thường. Thứ hai, xác định giá trị bồi thường thiệt hại phải hướng tới việc bảo vệ các nguyên tắc trong hoạt động thương mại, ngoài việc tôn trọng quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận của các bên tham gia hợp đồng cần đặc biệt chú ý đến việc bảo vệ nguyên tắc thiện chí, trung thực của các bên. Pháp luật luôn mong muốn mỗi chủ thể khi tham gia hợp đồng trong hoạt động thương mại đều có tinh thần thiện chí, trung thực và luôn hướng đến việc đạt được những lợi ích khi thiết lập quan hệ thương mại với nhau. Đồng thời, pháp luật cũng luôn đứng về phía thiện chí, trung thực để bảo vệ họ. Tuy nhiên, “quan hệ hợp đồng là quan hệ tài sản chứ không phải quan hệ tình cảm, nơi mà vấn đề đạo đức luôn được đặt lên hàng đầu”21 . Trong một số trường hợp, nhất là đối với việc thỏa thuận bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hay miễn, giảm trong bồi thường thiệt hại, vì quyền lợi của mình mà một bên trong quan hệ hợp 21 Dương Anh Sơn, Nguyễn Ngọc Sơn, tlđd 12.
  • 23. 19 đồng đã cố tình vi phạm hợp đồng bởi họ thấy rằng, việc vi phạm hợp đồng của họ là có lợi hơn việc phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Vì vậy, bồi thường thiệt hại cũng phải có tính cá thể hóa, bảo vệ bên thiện chí, trung thực trong hợp đồng. Bên không thiện chí, trung thực phải chịu trách nhiệm cao hơn bên thiện chí, trung thực đối với hậu quả mà mình gây ra. Thứ ba, giá trị bồi thường thiệt hại phải được xác định chính xác và kịp thời. Do sự tác động của yếu tố thị trường và sự biến đổi của thiệt hại nên việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại phải được tiến hành nhanh chóng và chính xác. Hoạt động thương mại luôn sôi động và đa dạng. Mỗi chủ thể thương mại thường có nhiều mối quan hệ thương mại với các chủ thể khác, tạo thành mạng lưới hoạt động thương mại dày đặc, đan xen, diễn ra trong phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Chính vì vậy, giá trị của các đối tượng trong hoạt động thương mại cũng thường biến đổi. Có những giá trị hàng hóa, dịch vụ thay đổi nhanh chóng theo thời gian và không gian. Khi hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra lại tác động xấu đến lợi ích mà các bên mong muốn đạt được. Bồi thường thiệt hại để bảo vệ bên bị vi phạm trước những tác động xấu này nên cần phải kịp thời, không để thiệt hại của họ bị tăng lên theo thời gian. Ngoài ra, nếu xác định giá trị bồi thường thiệt hại càng kéo dài thì càng cản trở việc đi đến sự thống nhất giữa các bên của hợp đồng. Tuy nhiên, do chịu tác động của những nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc xác định chính xác giá trị bồi thường thiệt hại cũng chỉ có tính chất tương đối. 1.2. Quy định cụ thể của pháp luật thương mại về giá trị bồi thường thiệt hại 1.2.1. Xác định giá trị bồi thường thiệt hại LTM 1997 quy định giá trị bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và giá trị khoản lợi đáng lẽ được hưởng. Cụ thể, Khoản 2 Điều 229 LTM 1997 quy định: “Số tiền bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra”. Các quy định về hợp đồng trong các điều ước quốc tế và tập quán thương mại quốc tế có những điểm tương đồng mặc dù thuật ngữ sử dụng và mức độ rõ ràng của các quy định không hoàn toàn giống nhau. Bộ Nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng quy định thiệt hại được bồi thường gồm “mất mát mà bên có quyền đã phải gánh chịu và lợi nhuận bị mất” (Điều 9:502). Điều 7.4.2 Bộ nguyên tắc Unidroit quy định: “Thiệt hại bao gồm những tổn thất mà bên này đã phải gánh chịu và những lợi ích bị mất đi, có tính đến mọi khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được”.
  • 24. 20 LTM 2005 quy định việc xác định các loại giá trị bồi thường thiệt hại tại khoản 2 Điều 302, cụ thể: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Như vậy, giá trị bồi thường thiệt hại theo hợp đồng trong hoạt động thương mại bao gồm hai cấu phần chính: (i) giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và (ii) giá trị khoản lợi trực tiếp. Các loại giá trị này thực chất là giá trị của những thiệt hại mà bên bị vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại phải gánh chịu do hành vi vi phạm hợp đồng. Thiệt hại gồm tổn thất thực tế, trực tiếp và khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng. Do đó, đối với việc xác định các loại thiệt hại được bồi thường, pháp luật thương mại Việt Nam nhìn chung có sự tương đồng với thế giới. 1.2.1.1. Tổn thất thực tế và trực tiếp Giá trị tổn thất là giá trị đối với những khoản thiệt hại trong quá trình thực hiện hợp đồng. LTM 1997 cũng đề cập giá trị tổn thất tương tự như LTM 2005 khi xác định “số tiền bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp”. Tuy nhiên, pháp luật thương mại Việt Nam hiện hành không chỉ rõ giá trị tổn thất được xác định cụ thể như thế nào mà chỉ nêu lên đặc điểm của nó là phải có tính “thực tế”, “trực tiếp” và thuật ngữ này không được giải thích về mặt ngữ nghĩa. Tính “thực tế” và “trực tiếp” ở đây là những khái niệm trừu tượng. Có thể hiểu, tổn thất “thực tế”, “trực tiếp” đó là những tổn thất đã xảy ra, tồn tại trong thực tế và có mối quan hệ nhân quả với hành vi vi phạm hợp đồng. Thực tiễn xét xử cho thấy, giá trị tổn thất thường rất đa dạng, như: giá trị tổn thất về tài sản, số chi phí mà bên bị vi phạm phải gánh chịu… Đây là giá trị tổn thất về vật chất. Đối với giá trị tổn thất về tinh thần, pháp luật thương mại và thực tiễn xét xử trong lĩnh vực này chưa thể hiện rõ. Tuy nhiên, pháp luật dân sự có quy định khá rõ về giá trị bồi thường thiệt hại vật chất và giá trị bồi thường thiệt hại về tinh thần. Trong phần quy định về hợp đồng dân sự, khoản 1 Điều 307 BLDS 2005 xác định: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần”; BLDS 2015 quy định tương tự tại khoản 1 Điều 361: “Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần”. Nói đến tổn thất về tinh thần thường đề cập đến chủ thể của hợp đồng là con người cụ thể, như: tình cảm, niềm vui, danh dự, nhân phẩm… Tuy nhiên, yếu tố tinh thần không thể hiện rõ trong chủ thể hợp đồng là tổ chức, doanh nghiệp… Theo đó, để khái quát được hết các loại giá trị bồi thường thiệt hại thuộc về tổn thất, có thể chia thành giá trị bồi thường thiệt hại đối với tổn thất vật
  • 25. 21 chất và giá trị bồi thường thiệt hại đối với tổn thất phi vật chất, gồm những yếu tố thuộc về tinh thần của con người và uy tín của chủ thể kinh doanh22 . Cách đề cập này cũng phù hợp với thực tiễn hoạt động thương mại, hoạt động xét xử và tinh thần của khoản 1 Điều 302 LTM 2005: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. Ở đây, LTM 2005 chỉ nêu “bồi thường những tổn thất” nên tổn thất có thể được hiểu bao gồm tổn thất vật chất và tổn thất phi vật chất. Tuy nhiên, việc quy định cụ thể về các loại giá trị bồi thường thiệt hại thuộc loại tổn thất này còn có nhiều điểm hạn chế, bất cập cần nghiên cứu, hoàn thiện. Giá trị tổn thất về vật chất Pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể về các loại giá trị tổn thất về vật chất. Pháp lệnh HĐKT 1989 quy định khá chi tiết những khoản thiệt hại thực tế là đối tượng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cụ thể điểm b khoản 2 Điều 29 quy định: “Tiền bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng, số chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm gây ra; tiền phạt vi phạm hợp đồng và tiền bồi thường thiệt hại mà bên bị vi phạm đã phải trả cho bên thứ ba là hậu quả trực tiếp của sự vi phạm này gây ra.” Để quy định chi tiết điều khoản này, điểm b Điều 21 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/01/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định: “Tiền bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị số tài sản mất mát, hư hỏng, kể cả tiền lãi phải trả cho Ngân hàng hoặc các khoản thu nhập trực tiếp và thực tế không thu được do bị vi phạm hợp đồng, với đầy đủ chứng cứ rõ ràng, hợp pháp, số chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra; tiền phạt vi phạm hợp đồng và tiền bồi thường thiệt hại mà bên vi phạm đã phải trả do hậu quả trực tiếp của sự vi phạm hợp đồng gây ra.” 22 Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: “Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần. a) Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 608 BLDS; thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 609 BLDS; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 610 BLDS; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS. b) Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mấy uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm.. và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin… vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.”
  • 26. 22 Vấn đề này cũng được nêu khá rõ trong pháp luật dân sự. Khoản 2 Điều 307 BLDS 2005 quy định: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút”; khoản 2 Điều 361 BLDS 2015 quy định tương tự: “Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút”. Quy định trên đã xác định giá trị bồi thường thiệt hại về vật chất, gồm: tổn thất về tài sản, chi phí, thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút. Ở đây, tổn thất về tài sản và chi phí chính là những tổn thất về vật chất mà bên bị vi phạm hợp đồng phải gánh chịu. Đối với thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút thường được coi như khoản lợi đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm tổn thất về tài sản được xác định theo mức thiệt hại trong từng trường hợp cụ thể do tài sản bị mất, hư hỏng, suy giảm chất lượng, tính năng sử dụng của người có tài sản bị tổn thất do việc vi phạm hợp đồng trực tiếp gây ra. Giá trị tổn thất thuộc về chi phí đó là số chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại. Theo đó, giá trị tổn thất vật chất trên thực tế thường được xác định chủ yếu gồm giá trị tổn thất về tài sản và chi phí hạn chế, khắc phục thiệt hại. Giá trị tổn thất về tài sản có thể gồm: giá trị của những mất mát, hư hỏng, thiếu hụt, giảm sút về giá trị của tài sản, giảm công suất… do người vi phạm nghĩa vụ hợp đồng gây ra. Khoản 1 Điều 490 BLDS 2005 và khoản 1 Điều 482 BLDS 2015 về trả lại tài sản thuê quy định: “Bên thuê phải trả lại tài sản thuê trong tình trạng như khi nhận, trừ hao mòn tự nhiên hoặc theo đúng như tình trạng đã thoả thuận; nếu giá trị của tài sản thuê bị giảm sút so với tình trạng khi nhận thì bên cho thuê có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ hao mòn tự nhiên”. LTM 2005 không đề cập rõ về tổn thất tài sản được xác định như thế nào. Việc đưa ra giá trị bồi thường thiệt hại tổn thất về tài sản chủ yếu dựa trên thiệt hại thực tế, cũng không có công thức tính cụ thể. Thực tiễn giải quyết vấn đề này đòi hỏi khả năng đánh giá, phán quyết của Thẩm phán cũng như các cơ quan tài phán là hết sức quan trọng, đảm bảo tính hợp lý trong giải quyết tranh chấp giữa các bên. Chi phí phải bồi thường là loại giá trị bồi thường thiệt hại xuất hiện phổ biến trong các vụ bồi thường thiệt hại theo hợp đồng trong hoạt động thương mại. Việc xác định chi phí trên thực tế cũng hết sức đa dạng, như: chi phí sửa chữa, chi phí vận chuyển, đi lại, làm thủ tục, chi phí hạn chế thiệt hại… Theo đó, liên quan đến vụ việc bồi thường thiệt hại có thể xuất hiện rất nhiều chi phí. Khoản 3 Điều 297 LTM 2005 quy định: “Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện theo quy định tại khoản 2
  • 27. 23 Điều này thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý”. Việc quy định chi phí như trên chỉ liên quan đến vấn đề mua, bán hàng hóa, dịch vụ thay thế, chi phí phát sinh từ việc sửa chữa khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ, còn các loại chi phí khác thì không đề cập. Mặt khác, pháp luật thương mại cũng chỉ mới đưa ra đặc tính của một loại chi phí cụ thể, đó là chi phí do sửa chữa khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ. Và, đặc tính của nó là “thực tế hợp lý”. Về đặc tính thực tế thì rõ ràng phải luôn tồn tại, vì để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì thiệt hại đó phải có tính thực tế. Đối với yếu tố hợp lý, đây là lần đầu tiên pháp luật thương mại đề cập đến đặc tính của loại chi phí. Tính hợp lý thể hiện rõ nguyên tắc thiện chí, trung thực trong thực hiện hợp đồng. Bộ nguyên tắc Unidroit, quy định: “Bên có quyền có thể đòi đền bù những chi phí hợp lý đã chi nhằm hạn chế thiệt hại” (khoản 2 Điều 7.4.8). Theo quy định tại Điều 2-715 Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ, những thiệt hại kèm theo do hành vi vi phạm hợp đồng của người bán, có thể bao gồm: “những chi phí hợp lý của người mua phải trả cho việc kiểm tra, tiếp nhận, vận chuyển, bảo quản, lưu kho, lưu bãi đối với những hàng hóa được từ chối một cách hợp pháp; bất kỳ những khoản chi phí hợp lý hoặc chi phí hoa hồng về mặt thương mại liên quan đến việc thực hiện mua hàng thay thế và các chi phí hợp lý khác gắn liền với việc giao hàng chậm trễ hoặc vi phạm hợp đồng của người bán23 ”. Một loại chi phí khác cũng chưa được đề cập rõ trong pháp luật thương mại đó là chi phí để hạn chế thiệt hại. Điều 305 LTM 2005 quy định về nghĩa vụ hạn chế tổn thất có nêu: “Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được”. Theo đó, số chi phí phát sinh trong quá trình áp dụng các biện pháp để hạn chế tổn thất cũng là giá trị bồi thường thiệt hại được bồi thường. Tuy vậy, pháp luật thương mại Việt Nam không chỉ rõ liệu những biện pháp hợp lý mà bên yêu cầu bồi thường thiệt hại áp dụng làm phát sinh chi phí thì bên nào phải chịu chi phí này. Nếu liên hệ tại Điều 41 và Điều 305 của LTM 2005 thì có thể minh thị khá rõ việc áp dụng biện pháp hạn chế thiệt 23 Nguyễn Ngọc Khánh, tlđd 3, tr. 447.
  • 28. 24 hại đối với hàng hóa giao thiếu, giao không phù hợp, có khuyết tật, thiếu sót thì bên áp dụng biện pháp đó được bồi thường chi phí phát sinh. Những thiệt hại đã xảy ra một cách khách quan trong thực tế là những khoản tiền hoặc những lợi ích vật chất khác mà người bị thiệt hại phải bỏ ra ngoài dự định của mình để khắc phục những tình trạng xấu do hành vi vi phạm nghĩa vụ gây ra24 . Điều này cũng đồng nghĩa với việc những chi phí hợp lý mà bên có quyền bị vi phạm đã bỏ ra mới được coi là thiệt hại phải bồi thường. Để xác định chi phí hợp lý này cần dựa vào nhiều yếu tố, trong đó có cả khả năng dự đoán của bên vi phạm đối với những chi phí sẽ phát sinh, có thể phải căn cứ vào tập quán thương mại. Tuy nhiên, trong thông lệ quốc tế, khái niệm chi phí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Nó không chỉ giới hạn trong phạm vi những chi phí hợp lý đã bỏ ra mà còn bao hàm cả những chi phí hợp lý mà bên có quyền bị thiệt hại sẽ phải bỏ ra trong tương lai để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục hậu quả vi phạm. Ví dụ, nếu bên bán giao thiếu hàng và chậm, thì chi phí phải bao gồm cả chi phí hợp lý người mua đã bỏ ra để thực hiện việc mua thêm hàng hóa bù vào cũng như chi phí mà người mua sẽ phải bỏ ra sau đó để nộp phạt hoặc bồi thường do giao hàng chậm trễ cho người mua tiếp theo. Theo đó, chi phí thuê luật sư hoặc chi phí thuê thẩm định giá trị bồi thường thiệt hại có phải là chi phí hợp lí hay không còn phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, mặc dù hành vi vi phạm không trực tiếp dẫn đến thiệt hại trong việc bên bị vi phạm bỏ chi phí thuê luật sư hay thuê thẩm định giá trị bồi thường thiệt hại. Như vậy, pháp luật thương mại Việt Nam hiện hành chưa chỉ ra một cách khái quát và có hệ thống về tính chất của các loại chi phí được bồi thường mà liệt kê một số chi phí rời rạc trong một số điều luật. Tuy nhiên, bước đầu, pháp luật thương mại nước ta đã có sự tiếp cận với pháp luật thế giới ở việc xác định đặc tính của chi phí, đó là tính hợp lý. Theo đó, bên cạnh yếu tố “thực tế” thì yếu tố “hợp lý” là căn cứ quan trọng để xác định giá trị của các khoản chi phí được bồi thường. Với quy định như pháp luật thương mại hiện hành ở nước ta, đòi hỏi Thẩm phán phải có năng lực để đánh giá tính hợp lý, tính dự đoán và mối quan hệ nhân quả để xác định chi phí cần được bồi thường thiệt hại. Giá trị tổn thất phi vật chất Giá trị tổn thất phi vật chất cũng đa dạng. Trên thực tế, tổn thất này thường bao gồm giá trị tổn thất về tinh thần, danh dự, nhân phẩm, uy tín... Đối với lĩnh vực 24 Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Luật Dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 45.
  • 29. 25 bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tổn thất về tinh thần rất phổ biến. Thực tế cho thấy, việc không thực hiện đúng hợp đồng cũng có thể làm phát sinh tổn thất về tinh thần25 . Trong hoạt động thương mại, hành vi vi phạm hợp đồng không chỉ gây ra tổn thất về vật chất mà còn có thể gây ra tổn thất về tinh thần. Ví dụ, ca sĩ A ký kết hợp đồng với một công ty tổ chức sự kiện. Để đảm bảo uy tín của mình, ca sĩ này đã nêu rất rõ các yếu tố trong việc dán các áp phích quảng cáo cho sự kiện. Tuy nhiên, công ty tổ chức sự kiện không tuân thủ nội dụng của hợp đồng và ca sĩ này đã bị chỉ trích. Trong trường hợp này, uy tín của A bị ảnh hưởng và A có tổn thất về tinh thần26 . Theo quy định tại khoản 1 Điều 302 LTM 2005 thì “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm”. Như vậy, bồi thường thiệt hại với tư cách là chế tài trong thương mại có chức năng bù đắp tổn thất vật chất cho bên bị vi phạm, làm cho hành vi vi phạm hợp đồng trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị vi phạm27 . Hiểu theo cách như trên thì thiệt hại ở đây chỉ có thiệt hại về vật chất, như thế là chưa đầy đủ, bởi vì có quan điểm cho rằng thiệt hại có thể và nên được hiểu gồm hai loại là thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần (nói một cách khái quát hơn là thiệt hại phi vật chất bao gồm cả tinh thần, danh dự, uy tín, thương hiệu…). Liên quan đến vấn đề này, “trên thế giới, có hệ thống cho phép bồi thường thiệt hại về tinh thần, có hệ thống không cho phép bồi thường và có hệ thống cho phép bồi thường trong một số trường hợp”28 . Ở Pháp, từ rất sớm, Tòa án đã cho bồi thường tổn thất về tinh thần. Chẳng hạn, vào năm 1932, một công ty phục vụ mai táng đã phải bồi thường tổn thất về tinh thần cho một gia đình đã ký hợp đồng với họ khi công ty này chậm trễ trong việc mai táng. Ở Anh, một tác giả đã cho rằng “tổng thể các quyết định của Tòa án tối cao cho thấy một mong muốn lớn, không hoàn toàn, là coi bồi thường mất mát phi vật chất như nguyên tắc chung”29 . Bộ nguyên tắc Unidroit cũng chấp nhận bồi thường tổn thất về tinh thần. Điều 7.4.2 quy định “thiệt hại có thể là phi tiền tệ và bắt nguồn đặc biệt từ nỗi đau thể chất hoặc tinh thần” và trong phần bình luận nguyên tắc này có ghi “đó có thể là những nỗi đau về thể xác và tinh thần (pretium doloris), tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, thiệt hại về hình thể,… cũng như những xúc phạm đến danh dự hoặc uy tín. Quy tắc này sẽ có thể được áp dụng trong những gì liên 25 Đỗ Văn Đại, tlđd 6, tr.97. 26 Đỗ Văn Đại, tlđd 6, tr.98. 27 Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa dịch vụ, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr. 428. 28 Đỗ Văn Đại (2014), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, sđd, tr. 365. 29 Đỗ Văn Đại, tlđd 28, tr. 366.
  • 30. 26 quan đến thương mại quốc tế, ví dụ cho những hợp đồng ký kết với nghệ sĩ, vận động viên cao cấp hoặc những nhà tư vấn thuộc một công ty hay một tổ chức”. Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng cũng xác định rất rõ tại khoản 2 Điều 9: 501: “Thiệt hại có thể được bồi thường bao gồm thiệt hại phi vật chất” và trong phần bình luận chúng ta thấy nêu “thiệt hại có thể được bồi thường không giới hạn ở những mất mát tài chính mà có thề là tổn thất tinh thần – đau đớn, bất tiện, bất an tâm lý – phát sinh từ việc không thực hiện đúng hợp đồng”. Phần bình luận đưa ra ví dụ như sau: A đặt một kỳ nghỉ tại một trung tâm tổ chức du lịch với thời gian là một tuần trong một khách sạn sang trọng, đồ ăn đặc biệt. Tuy nhiên, thực tế thì phòng thuê nhỏ và bẩn, đồ ăn thì tồi tệ. Ở đây, A được yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần mà mình đã gánh chịu (chịu bất tiện và niềm vui bị mất). Ở Việt Nam, pháp luật dân sự có quy định thiệt hại về tinh thần, tại khoản 3 Điều 307 BLDS 2005: “Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại”. Khoản 3 Điều 419 BLDS 2015 quy định về thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng: “Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc”. Như vậy, pháp luật dân sự cho phép bồi thường thiệt hại về tinh thần như là quy định áp dụng chung cho nghĩa vụ dân sự nên cũng được áp dụng cho nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng thương mại, hoặc theo nguyên tắc luật riêng không quy định thì áp dụng quy định của luật chung (khoản 3 Điều 4 LTM 2005). Trước đây, Điều 230 LTM 1997 quy định rõ điều kiện phải “có thiệt hại vật chất”30 thì mới được bồi thường nên có thể suy luận là trách nhiệm bồi thường chỉ phát sinh khi có thiệt hại về vật chất. LTM 2005 chỉ yêu cầu phải có “có thiệt hại thực tế”. Như vậy, nếu là “thiệt hại thực tế” thì có thể không chỉ là thiệt hại vật chất mà có thể bao gồm cả tổn thất về tinh thần. Với cách quy định như LTM 2005, chúng ta có thể và nên suy luận theo hướng tổn thất về tinh thần cũng có thể xem xét để được bồi thường nếu nó tồn tại trong “thực tế”. “Như vậy, nhìn từ góc độ văn bản, tổn thất về tinh thần trong lĩnh vực hợp đồng cũng được bồi thường”31 . Tuy nhiên, trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, pháp luật dân sự và pháp luật thương mại Việt Nam không có quy định về cách xác định giá trị đó như thế nào. Đối với việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP quy định khá rõ, chi tiết về xác định giá trị bồi thường thiệt 30 Xem Điều 230 LTM 1997. 31 Đỗ Văn Đại, tlđd 28, tr.368.
  • 31. 27 hại tinh thần trong lĩnh vực ngoài hợp đồng. Vì vậy, việc xác định giá trị bồi thường thiệt hại về tinh thần (khái quát hơn là thiệt hại phi vật chất) là vấn đề cần được đặt ra và làm rõ trong pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay. 1.2.1.2. Khoản lợi có thể đã nhận được Giá trị khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm là một bộ phận của giá trị bồi thường thiệt hại được ghi nhận trong LTM 2005. Trong LTM 1997 có dùng cụm từ “khoản lợi đáng lẽ được hưởng”. Như vậy, pháp luật thương mại hiện hành bổ sung thêm yếu tố “trực tiếp” đối với khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên vi phạm có trách nhiệm bồi thường. Khi giao kết hợp đồng, các bên đều mong muốn có được những lợi ích nhất định. Lợi ích mà hợp đồng mang lại đều được các chủ thể tính đến khi giao kết và thực hiện hợp đồng. Thực chất, những lợi ích đó chủ yếu là khoản lợi mà các bên được hưởng khi hợp đồng được thực hiện. Dưới góc độ thương mại, khoản lợi trước hết và chủ yếu là lợi nhuận trong kinh doanh. Và, đây cũng là những mong muốn chính đáng, cần được pháp luật bảo vệ. Khi hợp đồng bị vi phạm, ngoài việc bên bị vi phạm có thể phải chịu giá trị tổn thất thì họ còn có thể mất đi khoản lợi mà đáng lẽ họ phải được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Đặc biệt, nếu bên bị vi phạm là thương nhân thì thông thường, hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra sẽ làm cho họ mất đi những lợi nhuận từ việc thực hiện hợp đồng trong hoạt động thương mại, thậm chí là từ những hợp đồng với thương nhân khác. Theo đó, nếu hợp đồng được thực hiện thì có thể mang lại cho các bên nhiều khoản lợi. Việc đo lường và xác định giới hạn của khoản lợi này là hết sức khó khăn. Tuy nhiên, không phải khoản lợi nào cũng được bồi thường. Theo quy định của pháp luật thương mại Việt Nam thì những khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng, nếu không có sự vi phạm, mới được bồi thường. Nghiên cứu so sánh pháp luật cho thấy, hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng đều thừa nhận “khoản lợi trực tiếp mà các bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng” là một loại thiệt hại được bồi thường32 . Điều 7.4.2 Bộ nguyên tắc Unidroit xác định thiệt hại có những lợi ích bị mất đi, có tính đến mọi khoản lợi cho bên có quyền từ một khoản chi phí hay tổn thất tránh được và phần bình luận điều luật này đã ghi: “Tổn thất về lợi nhuận là khoản lợi nhuận mà đáng lẽ bên có quyền có được nếu như hợp đồng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Lợi nhuận thường không chắc chắn, nó thường được xem như việc mất một cơ may được 32 Đỗ Văn Đại, tlđd 19, tr. 577.