Download luận văn thạc sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Quyết định hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Nam Định - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
1. VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM CÔNG TRÌNH
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG
HÀ NỘI, 2017
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học theo quy định của Học viện
Khoa học xã hội.
Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học Viện Khoa
học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
3. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYẾT ĐỊNH
HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN .................................................................................7
1.1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt tù có thời hạn ........................ 7
1.2. Quy định của pháp luật về quyết định hình phạt tù có thời hạn ...................... 12
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH ...............................................27
2.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện
Ý Yên, tỉnh Nam Định ............................................................................................ 27
2.2. Những kết quả đạt được trong quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa
bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định........................................................................... 30
2.3. Những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong quyết định hình phạt tù có thời
hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định....................................................... 34
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYẾT ĐỊNH ĐÚNG HÌNH PHẠT
TÙ CÓ THỜI HẠN .........................................................................................................55
3.1. Giải pháp về hoàn thiện quy định của pháp luật.............................................. 56
3.2. Giải pháp về áp dụng pháp luật........................................................................ 65
3.3. Giải pháp đối với những cơ quan tiến hành tố tụng......................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... ....... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 73
4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật Hình sự
BLTTHS Bộ luật Tố tụng Hình sự
HSST Hình sự sơ thẩm
NXB Nhà xuất bản
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
TNHS Trách nhiệm hình sự
XHCN Xã hội chủ nghĩa
5. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã xác
định: Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp… Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
[30]. Nhiệm vụ quan trọng trên đặt ra yêu cầu cho Tòa án nhân dân phải nâng
cao hơn nữa chất lượng xét xử trong bối cảnh đất nước hội nhập và phát triển,
quyền con người ngày được coi trọng và đề cao. Hình phạt tù có thời hạn tước
tự do và hạn chế một số quyền nhân thân của người bị kết án, ảnh hưởng rất lớn
tới người đó cũng như gia đình họ. Vì vậy, quyết định hình phạt tù có thời hạn
đòi hỏi cần phải chính xác, hợp tình, hợp lý, đủ sức răn đe giáo dục với người bị
kết án và giáo dục phòng ngừa chung trong xã hội.
Thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân cho thấy việc quyết định hình phạt
còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế; nhất là quyết định hình phạt tù có thời hạn.
Trong nhiều trường hợp hình phạt đối với bị cáo không tương xứng với tính chất
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Có những trường hợp, những người
phạm cùng một tội danh, có cùng tính chất, mức độ nguy hiểm và nhân thân
người phạm tội tương tự nhau, nhưng hình phạt do Tòa án quyết định lại rất
khác nhau hoặc có trường hợp được hưởng án treo, có trường hợp không được
hưởng án treo. Điều này làm giảm hiệu quả của hình phạt, gây mất niềm tin của
xã hội vào các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Mặt khác, Bộ luật hình sự 2015 được ban hành trong đó sửa đổi bổ sung
nhiều quy định so với Bộ luật hình sự 1999, tuy nhiên một số điểm hạn chế của
luật cũ chưa được khắc phục trong khi những sai sót mới lại phát sinh. Do đó,
Quốc hội đã phải ban hành Nghị quyết 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 lùi hiệu
lực thi hành của Bộ luật Hình sự 2015 để sửa đổi bổ sung; kể từ 01/7/2016, các
6. 2
quy định có lợi cho người phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015
vẫn được thực hiện. Nghiên cứu Bộ luật Hình sự 2015 để tìm ra những ưu điểm
và hạn chế còn tồn tại, nhất là đối với chế định quyết định hình phạt, từ đó đề xuất
những giải pháp hoàn thiện là yêu cầu cấp bách hiện nay.
Huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định là địa bàn có diện tích rộng, có nhiều
tuyến giao thông huyết mạch đi qua, tiếp giáp với nhiều đơn vị hành chính
khác, kinh tế tương đối phát triển dẫn tới dân số tăng nhanh về cả tự nhiên và
cơ học; tình hình tội phạm diễn biến rất phức tạp. Trong những năm qua, công
tác xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Ý Yên tỉnh Nam Định về cơ bản đạt kết
quả tốt, đóng góp quan trọng vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm tại
địa phương. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng phát sinh nhiều bất cập, nhất là
trong quyết định hình phạt tù có thời hạn. Nguyên nhân xuất phát từ cả yếu tố
khách quan và chủ quan dẫn tới quyết định hình phạt không chính xác đối với
người phạm tội.
Vì vậy, nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn quyết định hình phạt tù có
thời hạn, trên cơ sở đó đề xuất những phương án hoàn thiện pháp luật hình sự,
giải quyết những vướng mắc mà thực tiễn xét xử đặt ra, đảm bảo sự nhận thức
thống nhất trong thực thi pháp luật là vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa
quan trọng. Đây cũng là lý do mà tác giả chọn đề tài “Quyết định hình phạt tù
có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định” làm luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về chế định quyết định
hình phạt nói chung và quyết định hình phạt tù nói riêng.
Về sách giáo trình, sách chuyên khảo, sách bình luận có các công trình
sau: Chương Quyết định hình phạt trong sách Luật Hình sự Việt Nam Phần
chung, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014 do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ
biên; Chương Quyết định hình phạt trong sách Luật hình sự Việt Nam (phần
7. 3
chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2001 do GS.TS Lê Cảm chủ biên;
Chương Quyết định hình phạt trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I,
NXB Công an nhân dân, 2011 của Trường Đại học Luật Hà Nội; Chương Quyết
định hình phạt trong Đề tài Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 (Phần chung), Chủ nhiệm đề tài TS. Uông Chu Lưu, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội - 2001; Sách Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình
sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2010 của tác giả TS. Lê Văn Đệ.
Các công trình này đã đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận cũng như làm rõ
các đặc trưng pháp lý của quyết định hình phạt, mối liên hệ giữa quyết định hình
phạt với các vấn đề khác của luật hình sự.
Ngoài ra, một số bài viết cũng được công bố trên các tạp chí khoa học
chuyên ngành như: Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của pháp luật hình
sự của tác giả Trần Thị Quang Vinh, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 2/2000, tr.
17; Vấn đề quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình sự của tác
giả Dương Tuyết Miên, tạp chí Luật học Số 6/2000, tr. 30 – 34; Quyết định hình
phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội của tác giả Lê Văn Đệ, tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, Số 1/2003, tr. 58 – 62; Quyết định hình phạt tù đối với người
chưa thành niên phạm tội của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Toà án nhân dân,
Số 5/2003, tr. 6 – 8.
Ở cấp độ luận án Tiến sĩ Luật học và luận văn Thạc sĩ Luật học có các đề
tài: Võ Khánh Vinh (1993) Nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự Việt Nam,
Luận án Phó Tiến sỹ Luật học; Nguyễn Sơn (2002) Các hình phạt chính trong
Luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học; Trần Văn Sơn (1996), Quyết
định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội;
Hoàng Chí Kiên (2004), Quyết định hình phạt trong những trường hợp đặc biệt,
Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Đào Tú Hoa (2006), Hình phạt tù trong luật
hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học,
Hà Nội; Nguyễn Thị Kim Hằng (2014), Các căn cứ quyết định hình phạt trong
8. 4
Bộ luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội; Nguyễn Mạnh
Tuấn (2014), Quyết định hình phạt tù có thời hạn theo Luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở số liệu thực tiễn của địa bàn thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ luật
học, Hà Nội.
Các công trình khoa học trên đã nghiên cứu về chế định quyết định hình
phạt trên cơ sở lý luận và từ thực tiễn các địa phương khác nhau. Tuy nhiên, cho
đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách độc lập, chuyên sâu về
vấn đề quyết định hình phạt tù có thời hạn một cách đầy đủ riêng biệt dưới góc
độ pháp lý hình sự và tố tụng hình sự từ thực tiễn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định;
nhiều nội dung liên quan chưa có được cách giải quyết thống nhất, hơn nữa các
công trình này nghiên cứu khi Bộ luật hình sự năm 2015 chưa được ban hành.
Do vậy, việc nghiên cứu về quyết định hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn xét
xử tại huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định là đòi hỏi khách quan, cấp thiết vừa có tính
lý luận vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở làm rõ lí luận và thực tiễn
của việc quyết định hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn huyện Ý Yên, tỉnh Nam
Định, luận văn hướng đến mục đích kiến nghị các giải pháp bảo đảm quyết định
đúng hình phạt tù có thời hạn nhằm nâng cao hiệu quả của hình phạt trong
phòng, chống tội phạm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Tiếp cận từ lí luận về quyết định hình phạt, luận văn phải làm rõ lí luận
quyết định hình phạt tù có thời hạn, trong đó phải làm rõ khái niệm, căn cứ
quyết định hình phạt tù có thời hạn, vấn đề quyết định hình phạt tù có thời hạn
trong những trường hợp đặc biệt…
9. 5
- Phân tích làm rõ thực tiễn quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa
bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định giai đoạn 2012-2016, từ đó phân tích những
hạn chế, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc,
bất cập trong quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định.
- Kiến nghị các giải pháp bảo đảm quyết định đúng hình phạt tù có thời
hạn nhằm nâng cao hiệu quả của hình phạt trong phòng, chống tội phạm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn về
quyết định hình phạt tù có thời hạn theo luật hình sự Việt Nam, từ thực tiễn
huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là các vấn đề lý luận và pháp lý có liên quan tới chế
định quyết định hình phạt tù có thời hạn dưới góc độ luật hình sự và thực tiễn
quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về Nhà nước và pháp luật.
Để hoàn thành đề tài, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu đặc thù như: Phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp
lịch sử và hệ thống, phương pháp phân tích,... để giải quyết những vấn đề khoa
học được đặt ra một cách linh hoạt, đan xen lẫn nhau để đạt được kết quả nghiên
cứu cao nhất của đề tài. Quá trình nghiên cứu đề tài tác giả dựa vào các văn bản
pháp luật của Nhà nước và những văn bản hướng dẫn do Tòa án nhân dân tối
cao ban hành có liên quan đến nội dung của đề tài, những số liệu thống kê, báo
10. 6
cáo tổng kết năm công tác (từ tháng 01/10 năm trước tới 30/9 của năm liền sau)
của Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định và Tòa án nhân dân huyện Ý Yên để phân
tích, tổng hợp các luận chứng, các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lí luận: Luận văn hoàn thành sẽ là tài liệu chuyên khảo nghiên cứu
một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt
tù có thời hạn. Luận văn góp phần hoàn thiện lí luận về quyết định hình phạt tù
có thời hạn.
- Về thực tiễn: Luận văn hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng
trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ở huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung trong quyết định
hình phạt tù có thời hạn. Luận văn sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao hiệu
quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện Ý Yên, tỉnh Nam
Định. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo quan trọng dùng trong quá trình học
tập và nghiên cứu của các cơ sở đào tạo luật ở nước ta.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyết định hình phạt tù có
thời hạn.
Chương 2. Thực tiễn quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn huyện
Ý Yên, tỉnh Nam Định
Chương 3. Các giải pháp bảo đảm quyết định đúng hình phạt tù có thời hạn.
11. 7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
1.1 Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt tù có thời hạn
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm quyết định hình phạt tù có thời hạn
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong
những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Hiện chưa có một văn
bản quy phạm pháp luật nào xác định khái niệm quyết định hình phạt. Tuy
nhiên tựu chung lại cơ thể nhận định: “Quyết định hình phạt là một giai đoạn,
một nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn
loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản điều luật)
theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong
bản án buộc tội” [48, tr.386]
Hoạt động xét xử của Tòa án thường được trải qua ba giai đoạn là: Định
tội danh, định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt
chỉ diễn ra sau khi Tòa án đã tiến hành hoạt động định tội danh và trong trường
hợp người phạm tội bị khẳng định là có tội thì mới có thể bị áp dụng hình phạt.
Nếu lấy giai đoạn định khung hình phạt để so sánh thì định khung hình phạt sai
sẽ dẫn đến quyết định hình phạt sai, nhưng có thể định tội danh vẫn đúng. Vì
vậy định khung hình phạt là bước đầu tiên quan trọng của quyết định hình phạt,
là cơ sở để quyết định hình phạt đúng nên định khung hình phạt thuộc về quyết
định hình phạt. Trên cơ sở khung hình phạt đã xác định, Hội đồng xét xử phải
tiến hành quyết định hình phạt chính trước, sau đó mới quyết định hình phạt bổ
sung. Điều này cho thấy trong quyết định hình phạt thì quyết định hình phạt
chính có tính chất bắt buộc đối với người phạm tội bị kết án.
Nội dung của quyết định hình phạt thể hiện hai điểm sau: 1) Tòa án lựa
chọn một trong những hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản
12. 8
điều luật) tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo. 2) xác định một mức hình
phạt cụ thể đối với bị cáo căn cứ trên tính chất mức độ nguy hiểm cho hành vi
phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
người phạm tội.
Hình phạt tù với tư cách là một hình phạt chính trong hệ thống hình phạt
thường được áp dụng đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng cần thiết phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội bình thường một
thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo họ. Như vậy, có thể định nghĩa: Quyết
định hình phạt tù có thời hạn là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở
việc Toà án có thẩm quyền lựa chọn khung và mức phạt tù cụ thể được quy định
trong điều luật theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội
thể hiện trong bản án buộc tội.
Tiếp cận từ khái niệm và các thuộc tính cơ bản của lí luận về quyết định hình
phạt, có thể suy ra những đặc điểm cơ bản của quyết định hình phạt tù như sau:
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn là một giai đoạn của quá trình xét
xử và chỉ do một cơ quan duy nhất có thẩm quyền tiến hành là Tòa án.
- Đối tượng của quyết định hình phạt tù có thời hạn là cá nhân người
phạm tội, con người cụ thể đó đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi
là tội phạm và có lỗi trong điều kiện hoàn toàn có đủ năng lực chịu trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi luật định tại thời điểm thực hiện tội phạm. Chính họ sẽ
phải chấp hành hình phạt mà Tòa án đã tuyên chứ không ai có thể chấp hành
thay được, có như vậy hình phạt mới đạt được mục đích trừng trị và giáo dục,
cải tạo người phạm tội. Đối tượng này phân biệt với pháp nhân thương mại
phạm tội trong BLHS 2015 bởi vì không thể xử phạt tù đối với pháp nhân.
- Hậu quả pháp lý sau khi Tòa án quyết định một mức hình phạt tù giam
cụ thể đối với người phạm tội là sẽ tước tự do của người bị kết án trong một
thời hạn và một số quyền nhân thân của người đó.
13. 9
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn là hoạt động nhận thức và áp dụng
pháp luật hình sự của Hội đồng xét xử. Trong quan hệ pháp luật hình sự, trách
nhiệm hình sự của người phạm tội không mặc nhiên phát sinh nếu không có
hoạt động xét xử của Toà án để chứng minh người đó phạm tội và áp dụng các
biện pháp chế tài của luật hình sự đối với họ. Do đó, quyết định hình phạt luôn
là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Hội đồng xét xử tiến
hành trên cơ sở căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự để quyết định hình
phạt đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể.
1.1.2 Nguyên tắc quyết định hình phạt tù có thời hạn
Các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng xuất phát, tư
tưởng chỉ đạo được quy định trong pháp luật hình sự và do giải thích mà có, xác
định và định hướng hoạt động của Tòa án khi áp dụng chế tài luật hình sự đối
với người phạm tội [48, tr.388].
Các nhà nghiên cứu pháp luật hình sự Việt Nam đều thống nhất quan
điểm việc quyết định hình phạt nói chung phải dựa trên bốn nguyên tắc:
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa,
nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, nguyên tắc công bằng [48, tr.389]. Các nguyên
tắc này có tính độc lập tương đối của nó và cùng tồn tại. Nhưng mặt khác, các
nguyên tắc quyết định hình phạt luôn có những phần, những nội dung xâm nhập
nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, tác động qua lại lẫn
nhau và ở dạng tổng thể tạo thành một hệ thống thống nhất.
Quyết định hình phạt tù có thời hạn là trường hợp riêng phổ biến của Tòa
án khi quyết định hình phạt, vì vậy cũng phải tuân thủ bốn nguyên tắc nêu trên:
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa,
nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, nguyên tắc công bằng.
* Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc quan trọng
và cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tư tưởng
14. 10
cơ bản của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nói đến sự tuân thủ
triệt để pháp luật của Nhà nước, các cơ quan tổ chức và công dân. Đối
với quyết định hình phạt nguyên tắc này được thể hiện ở việc Tòa án chỉ
áp dụng hình phạt đối với những hành vi phạm tội được quy định trong
Bộ luật hình sự. Điều 2 BLHS 1999 khẳng định: Chỉ người nào phạm một
tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự
[26]. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa khi quyết định hình phạt tù
có thời hạn thể hiện ở việc Tòa án phải tuân theo trình tự tố tụng nhất
định, các điều kiện áp dụng hình phạt tù và đặc biệt Tòa án chỉ có thể tuyên
trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong BLHS (trừ trường hợp
quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật). Mặt khác, nội dung nguyên
tắc pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt tù có thời hạn đòi hỏi các quy
định về mục đích hình phạt, căn cứ lập luận phải được Tòa án ghi rõ trong bản
án định tội.
Nguyên tắc pháp chế XHCN trong quyết định hình phạt tù có thời hạn
còn thể hiện quy định về phạm vi, điều kiện áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Ở
phần các tội phạm, nguyên tắc pháp chế XHCN thể hiện ở chỗ quy định rõ giới
hạn hình phạt từ mức cao nhất đến mức thấp nhất của khung hình phạt cho từng
tội cụ thể áp dụng để quyết định hình phạt đúng đắn.
* Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc nhân đạo XHCN là một nguyên tắc tiến bộ thể hiện ở việc
khi quyết định hình phạt Tòa án phải xuất phát từ tư tưởng nhân đạo, cân nhắc
lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của người phạm tội trong một tổng thể
thống nhất biện chứng, hài hòa và hợp lý. Ở nước ta, tư tưởng nhân đạo luôn thể
hiện rõ nét trong đường lối chính sách của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà
nước. Nguyên tắc nhân đạo XHCN trong quyết định hình phạt tù có thời hạn thể
hiện ở Điều 3 BLHS 1999 - Nguyên tắc xử lý tội phạm: "… khoan hồng đối với
người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội,
15. 11
ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra" [26]. Bộ
luật hình sự cũng quy định các tình tiết định khung giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và giảm nhẹ hình phạt buộc Tòa án
phải cân nhắc khi quyết định hình phạt tù có thời hạn. Hình phạt tù có thời hạn bị
hạn chế áp dụng đối với một số chủ thể đặc biệt như người chưa thành niên,
người già, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người có bệnh
bị hạn chế khả năng nhận thức khả năng điều khiển hành vi.
* Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
Cá thể hóa hình phạt là một trong những nguyên tắc quan trọng của chế
định hình phạt và là nguyên tắc đặc thù của quyết định hình phạt nói chung. Nội
dung của nguyên tắc cá thể hóa khi quyết định hình phạt tù có thời hạn được thể
hiện trong BLHS cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự. Khi quyết
định hình phạt tù, hình phạt mà tòa án tuyên đối với người bị kết án phải phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, mức độ tham gia thực hiện
tội phạm. Việc các nhà làm luật quy định các khung hình phạt trong một tội
danh cũng như quy định mức thấp nhất và mức cao nhất của khung hình phạt
chính là quy định khả năng cá thể hóa đối với những đối tượng chủ mưu, cầm
đầu, chỉ huy, những đối tượng ngoan cố chống đối, lưu manh, tái phạm nguy
hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội và khoan hồng đối với người tự
thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn
hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra…
Trong áp dụng pháp luật hình sự, khi quyết định hình phạt tù có thời hạn,
Tòa án phải cân nhắc những đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội như
hoàn cảnh gia đình, trình độ học vấn, tiền án, tiền sự và các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ để cá thể hóa TNHS đối với người bị kết án.
* Nguyên tắc công bằng
16. 12
Trong lĩnh vực hình sự, nguyên tắc công bằng là sự tương xứng giữa tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và trách nhiệm hình sự
của người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu.
Như vậy, thứ nhất nguyên tắc công bằng đòi hỏi việc quyết định hình
phạt tù phải tương xứng với hành vi của người phạm tội. Thứ hai, khi quyết
định hình phạt tù Tòa án phải cân nhắc cả nhân thân người phạm tội và các tình
tiết khác có trong vụ án. Thứ ba, hình phạt tù được tuyên cần phải phản ánh một
cách đúng đắn dư luận xã hội, ý thức pháp luật và đạo đức xã hội, phải có sức
thuyết phục mọi người.
1.2 Quy định của pháp luật về quyết định hình phạt tù có thời hạn
1.2.1 Quy định của pháp luật về hình phạt tù có thời hạn
Hình phạt tù có thời hạn là một hình phạt chính trong hệ thống hình phạt
của Bộ luật hình sự 1999.
Theo Bộ luật hình sự 1999, Điều 28 quy định hình phạt bao gồm: hình
phạt chính và hình phạt bổ sung. Các hình phạt chính gồm có: a) cảnh cáo; b)
phạt tiền; c) cải tạo không giam giữ; d) trục xuất; đ) tù có thời hạn; e) tù chung
thân; g) tử hình. Các hình phạt bổ sung gồm có: a) cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định; b) cấm cư trú; c) Quản chế;
d) tước một số quyền công dân; đ) tịch thu tài sản; e) phạt tiền, khi không áp
dụng là hình phạt chính; g) trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại
trại giam trong một thời hạn nhất định [26]. Hình phạt tù có thời hạn tước
quyền tự do và hạn chế một số quyền nhân thân của người bị kết án, cách ly họ
khỏi đời sống xã hội bình thường, buộc họ phải sống trong môi trường riêng
biệt có sự giám sát, kiểm soát chặt chẽ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để
giáo dục và cải tạo họ. Đây là hình phạt phổ biến trong hệ thống hình phạt của
mọi quốc gia. So với hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn có nội
dung cưỡng chế nghiêm khắc hơn nhiều. Điều này thể hiện ở việc người bị kết
17. 13
án cải tạo không giam giữ không bị cách ly ra khỏi đời sống xã hội, mọi hoạt
động sinh hoạt với gia đình, cộng đồng không bị ảnh hưởng mà chỉ bị chính
quyền địa phương nơi cư trú giám sát giáo dục. Trong khi đó người bị kết án tù
bị tước tự do hoàn toàn, bị giam giữ trong một môi trường chịu sự quản lý chặt
chẽ và nghiêm khắc, việc tiếp xúc với môi trường sống xã hội bị hạn chế đáng
kể. Hạn chế tự do đối với người bị kết án tù có thời hạn là nội dung pháp lý chủ
yếu của loại hình phạt này. Việc hạn chế tự do của người phạm tội còn có mục
đích phòng ngừa chung. Khi bị kết án tù và phải chấp hành án tại cơ sở giam
giữ, họ không còn có những điều kiện nhất định để phạm tội mới gây thiệt hại
đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Điều 33 Bộ luật hình sự 1999 quy định thời hạn tù tối thiểu là ba tháng, thời
hạn tù tối đa là hai mươi năm. Theo điều 50 Bộ luật hình sự 1999, trong trường
hợp phạm nhiều tội, mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn là ba mươi năm.
1.2.2 Căn cứ quyết định hình phạt tù có thời hạn
Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải dựa vào những căn cứ cụ thể để
đảm bảo hình phạt được tuyên là đúng đắn, chặt chẽ và thống nhất; đồng thời
tránh được tình trạng tùy tiện trong quyết định hình phạt và đảm bảo đạt được
mục đích của hình phạt. Do đó, căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cơ
bản có tính nguyên tắc do Bộ luật hình sự quy định hoặc do giải thích luật mà
có, buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện
tội phạm [48, tr.395].
Điều 45 BLHS 1999 quy định về căn cứ quyết định hình phạt như sau:
Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân
nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân
người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Vì
vậy, căn cứ quyết định hình phạt tù có thời hạn cũng bao gồm:
- Các quy định của Bộ luật hình sự;
- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho hành xã hội cỉa hành vi phạm tội;
18. 14
- Nhân thân người phạm tội;
- Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Đây là những căn cứ chung, có tính chất bắt buộc trong mọi trường hợp
đối với tòa án khi quyết định hình phạt. Các căn cứ này tuy có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau nhưng đều có tính độc lập tương đối.
* Các quy định của Bộ luật hình sự
Khi quyết định hình phạt tù có thời hạn, Tòa án bắt buộc phải căn cứ vào
các quy định của Bộ luật hình sự để lựa chọn khung và xác định mức hình phạt
cụ thể áp dụng đối với người phạm tội. Đó là những quy định liên quan đến
nguyên tắc xử lí, đến hình phạt và quyết định hình phạt. Thuộc về những quy
định này bao gồm:
- Các quy định trong Phần chung của BLHS 1999 như: Quy định về
Nguyên tắc xử lí (Điều 3), về hình phạt tù có thời hạn (Điều 33), về căn cứ
quyết định hình phạt (Điều 45), về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
(Điều 46), các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 48), về tái phạm,
tái phạm nguy hiểm (Điều 49), quy định về án treo (Điều 50).
- Các quy định trong phần các tội phạm của BLHS 1999 về khung hình
phạt tù có thời hạn cho từng loại tội.
Căn cứ vào quy định của BLHS bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc
pháp chế XHCN trong hoạt động xét xử của Tòa án. Vì vậy, chỉ quyết định hình
phạt khi đã có đủ căn cứ xác định một người đã phạm vào một tội mà Bộ luật
hình sự quy định, tức là phải định tội danh trước rồi mới quyết định hình phạt
sau. Khi quyết định hình phạt tù có thời hạn, Toà án phải áp dụng đúng khung
hình phạt và không được phạt cao hơn mức cao nhất của khung hình phạt đã
quy định. Việc áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt phải tuân theo
quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự.
19. 15
* Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
Các quy định của Bộ luật hình sự thuộc căn cứ thứ nhất đã thể hiện tình
thần của nguyên tắc cá thể hóa hình phạt. Đó là khung hình phạt cũng như hình
phạt cụ thể cần quyết định cho từng trường hợp phạm tội phải tương xứng với
tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Áp dụng các quy định trên
để quyết định hình phạt cũng có nghĩa là căn cứ vào tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Ví dụ: Cùng với hành vi dùng dao xâm phạm tính mạng, sức khỏe của
người khác, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, người phạm
tội có thể bị tuyên phạm tội cố ý gây thương tích hoặc giết người, tùy từng
trường hợp có thể bị định khung tăng nặng, khung cơ bản hoặc khung giảm nhẹ
tương ứng với mức hình phạt khác nhau.
Như vậy trong căn cứ thứ nhất đã chứa đựng một phần nội dung của căn
cứ thứ hai. Tuy nhiên, vẫn cần thiết quy định trong Bộ luật Hình sự một căn cứ
quyết định hình phạt độc lập đó là: tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội.
Tính nguy hiểm cho xã hội được thể hiện ở tổng thể của hai khái niệm
“tính chất” và “mức độ” nguy hiểm của hành vi phạm tội [48, tr.397].
Tính chất nguy hiểm cho xã hội là đặc tính về chất của hành vi phạm tội,
là thuộc tính khách quan của tội phạm [48, tr.398]. Mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội là thuộc tính về lượng nhất định của cùng một chất -
tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội [48, tr.398]. Những tội phạm giống
nhau về tính chất nguy hiểm cho xã hội nhưng có thể khác nhau về mức độ
nguy hiểm cho xã hội. Mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng là thuộc tính khách
quan của tội phạm.
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ
thuộc vào các yếu tố cấu thành tội phạm, bởi vì tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội, nếu hành vi đó tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy
20. 16
hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm (khoản 4 Điều 8 Bộ
luật hình sự).
Các yếu tố đó bao gồm:
- Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phụ
thuộc vào tính chất quan trọng của khách thể bị xâm phạm. Quan hệ xã hội về
an ninh quốc gia và quan hệ xã hội về tính mạng, sức khỏe danh dự nhân phẩm
của con người được ưu tiên bảo vệ và tội phạm xâm phạm các quan hệ này bị
có tính chất mức độ nguy hiểm lớn hơn, khung hình phạt nặng hơn.
- Thủ đoạn, công cụ phương tiện, hình thức thực hiện tội phạm: Thủ đoạn
công cụ càng tinh vi thì tính chất nguy hiểm càng lớn.
- Tính chất và mức độ của hậu quả đã gây ra hoặc đe dọa gây ra.
- Tính chất và mức độ lỗi, động cơ, mục đích của hành vi phạm tội. Cùng
là lỗi nhưng lỗi cố ý nguy hiểm hơn lỗi vô ý, cùng là lỗi cố ý nhưng lỗi cố ý
trực tiếp thì nguy hiểm hơn lỗi cố ý gián tiếp; cùng là lỗi cố ý trực tiếp, nhưng
sự quyết tâm phạm tội của người phạm tội cao nguy hiểm hơn người không có
ý thức quyết tâm phạm tội đến cùng; cùng là vô ý thì vô ý vì quá tự tin nguy
hiểm hơn lỗi vô ý vì cẩu thả.
- Những tình tiết thuộc về nhân thân có ảnh hưởng tới mức độ nguy hiểm
của tội phạm …
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, nhà làm luật chia tội phạm ra làm bốn loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Đối với cùng một loại tội phạm, nhà làm luật cũng chia các khung hình
phạt khác nhau: khung cơ bản, khung tăng nặng, khung giảm nhẹ căn cứ trên
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án bắt buộc phải chỉ ra trong bản án những
tình tiết cụ thể để chứng minh tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội mà Tòa án dựa vào đó để quyết định hình phạt đối với bị cáo.
21. 17
* Nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là những đặc điểm đặc tính về mặt chính trị -
xã hội, tâm lý, đạo đức, sinh lý của người phạm tội [48, tr.403]. Để có căn cứ
quyết định hình phạt có rất nhiều đặc điểm được Tòa án cân nhắc tới, trong đó
phổ biến là các yếu tố như: độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn, quá trình công tác, khen thưởng, kỷ luật, hoàn cảnh gia đình, tiền
án, tiền sự... Những đặc điểm này được chia thành các nhóm bao gồm: đặc điểm
nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội; những đặc điểm về nhân thân người phạm tội phản ánh khả
năng giáo dục, cải tạo người phạm tội; những đặc điểm về nhân thân người
phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội mà Tòa án phải xem
xét khi quyết định hình phạt.
Khoản 2 Điều 224 BLTTHS 2003 quy định: “Trong bản án cần phải ghi
rõ: … họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ
văn hóa, thành phần xã hội, tiền án, tiền sự của bị cáo; …” [28]. Điều này
không những để định danh người phạm tội mà còn buộc Tòa án phải xem xét
các yếu tố nhân thân này khi quyết định hình phạt. Ngoài những đặc điểm thuộc
về nhân thân người phạm tội có thể được chỉ rõ trong luật (mang tính pháp lý),
Tòa án có thể cân nhắc những đặc điểm không được chỉ rõ trong luật nhưng
được pháp luật cho phép khi chúng có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt
(không mang tính pháp lý).
* Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự
Khi quyết định hình phạt nói chung hình phạt tù có thời hạn nói riêng,
Tòa án không những phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm tội mà còn cân nhắc các tình
tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự .
Tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình tiết được quy định tại Điều 46 Bộ
luật hình sự 1999 với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết giảm
22. 18
nhẹ TNHS do Tòa án xem xét, cân nhắc và ghi rõ trong bản án, để khi cá thể
hóa TNHS và hình phạt đối với người phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong
phạm vi một khung hình phạt.
Tình tiết tăng nặng TNHS là những tình tiết được quy định tại Điều 48
Bộ luật hình sự 1999 với tính chất là tình tiết tăng nặng chung, để khi cá thể hóa
TNHS và hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn trong
phạm vi một khung hình phạt nếu trong vụ án hình sự có tình tiết này.
Về tính chất pháp lí của các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách
nhiệm hình sự, cần lưu ý như sau:
- Tình tiết được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nếu là
những tình tiết được luật hình sự quy định tại Điều 46 BLHS 1999 hoặc có thể
là tình tiết khác được Tòa án xác định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
để cân nhắc khi quyết định hình phạt;
- Tình tiết chỉ được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nếu
được luật hình sự quy định tại Điều 48 BLHS 1999;
- Đối với các loại tội, không phải tất cả các tình tiết được nêu tại Điều 46
và 48 BLHS đều có thể là các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS bởi vì
các tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi
là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ;
- Hầu hết các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS đều chỉ được nêu
một cách khái quát mà không được mô tả cụ thể. Riêng tình tiết tăng nặng Tái
phạm, tái phạm nguy hiểm được quy định cụ thể tại Điều 49 BLHS 1999.
1.2.3 Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong một số trường hợp đặc
biệt
Trong nhiều trường hợp khi quyết định hình phạt, Tòa án phải vận dụng
các quy định mang tính đặc thù để quyết định hình phạt riêng đối với bị cáo.
Các quy định đặc thù đó thể hiện tính chất nhân đạo của Nhà nước như quy
định đối với người chưa thành niên, quy định mang tính giảm nhẹ hay tăng
23. 19
nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo hoặc là những quy định thể hiện tính
chất hành vi hay kết quả của tội phạm. Quyết định hình phạt trong trường hợp
này được gọi là quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt.
Theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành, quyết định hình phạt tù
có thời hạn trong trường hợp đặc biệt bao gồm một số trường hợp sau đây:
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn nhẹ hơn quy định của BLHS
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp phạm nhiều tội
- Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp đồng phạm
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên
phạm tội.
*Quyết định hình phạt tù có thời hạn nhẹ hơn quy định của Bộ luật
Hình sự.
Quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn của BLHS trước hết xuất
phát từ nguyên tắc nhân đạo XHCN mà nhà làm luật đã xây dựng lên nhằm
mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội để họ có thể trở thành công dân có
ích cho xã hội. Đây là mục đích hàng đầu thể hiện thái độ khoan hồng của
Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội khi họ có nhiều tình tiết giảm nhẹ,
đồng thời cũng thể hiện rõ nguyên tắc cá thể hoá là hình phạt phải tương xứng
với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Điều 47 BLHS 1999 quy định: “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy
định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình
phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng
phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp
điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình
phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới
24. 20
mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ
hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án” [26].
Theo quy định này, khi quyết định hình phạt Toà án có thể không lựa
chọn và tuyên một hình phạt cho người phạm tội trong giới hạn của khung hình
phạt cho phép tuyên một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
hoặc chuyển sang một hình phạt khác nhẹ hơn khi người phạm tội có nhiều tình
tiết giảm nhẹ TNHS.
Căn cứ để Toà án có thể quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của bộ
luật là người phạm tội phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy
định tại khoản 1 Điều 46 BLHS 1999. Khoản 1 Điều 46 BLHS 1999 đã liệt kê
tất cả các tình tiết giảm nhẹ TNHS mang tính chất phổ biến. Khi quyết định
hình phạt trong trường hợp đặc biệt này thì căn cứ “có ít nhất hai tình tiết giảm
nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 46” có giá trị pháp lý bắt buộc. Đồng thời
lý do của việc giảm nhẹ khi quyết định hình phạt trong trường hợp này phải
được ghi vào bản án.
* Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp phạm nhiều tội
Hình phạt tù có thời hạn là một hình phạt chính do đó khi Tòa án khi
tổng hợp hình phạt phải tuân theo các quy định tại khoản 1 Điều 50 BLHS
1999. Theo quy định này, Toà án quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó
tổng hợp hình phạt. Khi quyết định hình phạt trong trường hợp này, hình phạt
chính đối với các tội có thể cùng là hình phạt tù có thời hạn hoặc có tội là hình
phạt tù có thời hạn, có tội là hình phạt cải tạo không giam giữ. Nguyên tắc tổng
hợp hình phạt như sau:
- Nếu hình phạt chính đã tuyên cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt
đó được cộng lại thành hình phạt chung, hình phạt chung không vượt quá ba
mươi năm.
- Nếu các hình phạt chính đã tuyên là cải tạo không giam giữ và tù có
thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt
25. 21
tù theo tỷ lệ cứ ba ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành một
ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo nguyên tắc nêu trên.
* Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
Thực tiễn xét xử cho thấy không phải trong tất cả các trường hợp phạm
nhiều tội đều được phát hiện và đưa ra xét xử cùng một lần. Nếu tất cả các tội
phạm đều được phát hiện và đưa ra xét xử cùng một lần thì quyết định hình
phạt trong trường hợp này bao gồm quyết định hình phạt đối với từng tội và
quyết định hình phạt chung đối với các tội theo quy định tại Điều 50 BLHS
1999. Nếu tất cả các tội phạm được xét xử ở các lần khác nhau thì việc tổng
hợp hình phạt nói chung và hình phạt tù nói riêng ở nhiều bản án sẽ được thực
hiện theo quy định tại Điều 51 BLHS 1999.
Về bản chất thì đây cũng là quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội nên việc quyết định hình phạt trong trường hợp này được thực hiện
giống như quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội nhưng do
khác nhau về thời điểm phạm tội và thời điểm xét xử nên việc người phạm tội
phải chấp hành hình phạt trong trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
có sự khác biệt. Điều 51 BLHS 1999 quy định việc tổng hợp hình phạt trong
nhiều bản án bao gồm 3 trường hợp:
- Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án có hiệu lực
pháp luật lại bị đưa ra xét xử về một tội đã phạm trước khi có bản án đó.
Trường hợp này được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS 1999
Trong trường hợp này, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị
xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 BLHS
1999. Do người phạm tội đã chấp hành được một phần hình phạt của bản án
trước nên thời gian này được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.
- Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án có hiệu lực
pháp luật lại phạm tội mới và bị đem ra xét xử. Trường hơp này được quy định
tại khoản 2 Điều 51 BLHS.
26. 22
Trong trường hợp này, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau
đó tổng hợp hình phạt của tội mới với phần hình phạt chưa chấp hành của bán
án trước rồi quyết định hình phạt chung.
- Trường hợp người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp
luật mà các hình phạt của bản án chưa được tổng hợp. Trường hợp này được
quy định tại khoản 3 Điều 51 BLHS. Việc áp dụng khoản 3 Điều 51 BLHS
1999 về thực chất là việc áp dụng các nguyên tắc tổng hợp hình phạt theo quy
định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều 51 BLHS 1999. Khi tổng hợp hình phạt mà
các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp thì về nguyên tắc cần phải
tổng hợp và thuộc thẩm quyền của Chánh án Tòa án.
* Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt
Điều 17 BLHS 1999 quy định: “Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn
công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm.
Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm
trọng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện” [26]
Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi
tạo ra những điều kiện cần thiết (những điều kiện vật chất và tinh thần) cho
việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó.
Điều 18 BLHS 1999 quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội
phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý
muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm chưa đạt” [26].
Đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì thời điểm muộn nhất được xác
định là trước lúc người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được
mô tả trong cấu thành tội phạm. Còn phạm tội chưa đạt thì người phạm tội đã
bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm
27. 23
nhưng chưa thực hiện hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm vì
những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt là hai trường hợp đặc biệt, khác
với trường hợp phạm tội hoàn thành ở mặt khách quan là hậu quả của tội phạm
chưa xảy ra nên việc quyết định hình phạt cho bị cáo phải nhẹ hơn. Việc quyết
định hình phạt tù có thời hạn đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội
chưa đạt phải tuân theo nguyên tắc quy định tại Điều 52 BLHS 1999 đối với
trường hợp hình phạt chính là tù có thời hạn. Theo đó, đối với trường hợp
chuẩn bị phạm tội, mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 1/2 mức
phạt tù mà điều luật quy định cho tội phạm hoàn thành. Đối với trường hợp
phạm tội chưa đạt, mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 3/4 mức
phạt tù mà điều luật quy định cho phạm tội hoàn thành.
*Quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp đồng phạm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 20 BLHS 1999, đồng phạm là trường
hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Pháp luật hình sự
chia những người đồng phạm thành: người tổ chức, người thực hành, người xúi
giục, người giúp sức. Điều 53 BLHS 1999 quy định riêng về quyết định hình
phạt trong trường hợp đồng phạm. Khi quyết định hình phạt đối với những
người đồng phạm, Toà án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và
mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Các tình tiết giảm nhẹ,
tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào thì chỉ
áp dụng đối với người đó.
Khi quyết định hình phạt tù đối những người đồng phạm, Tòa án phải
phân loại nhóm người đồng phạm là người tổ chức, xúi giục, giúp sức hay là
người thực hành để xác định vai trò, mức độ tham gia tội phạm, xác định tính
nguy hiểm của hành vi, mức độ tham gia của từng người từ đó cá thể hóa trách
nhiệm hình sự đối với họ. Người tổ chức, người chủ mưu, người thực hành tích
28. 24
cực có vai trò nguy hiểm hơn nên phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn người
giúp sức, người xúi giục.
*Quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên
phạm tội
Dựa trên tinh thần Điều 69 BLHS 1999, việc xử lý người chưa thành
niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển
lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Do đó nếu có phải áp dụng
hình phạt đối với họ cũng chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn
chế áp dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa
thành niên phạm tội được hưởng mức nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người
đã thành niên phạm tội tương ứng. Khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với
người chưa thành niên phạm tội, Toà án cần phải cân nhắc kỹ xem có nên áp dụng
hình phạt tù đối với họ hay không. Chỉ áp dụng hình phạt tù đối với người chưa
thành niên khi thấy không thể áp dụng được các loại hình phạt khác đối với họ.
Đây là một nguyên tắc quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
tội. Khi buộc phải áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội,
Toà án phải tuân theo các quy định tại Điều 74 BLHS 1999 như sau:
- Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình
phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn,
thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà
điều luật quy định.
- Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình
phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn
29. 25
thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù
mà điều luật quy định
Quy định này thể hiện một cách rõ nhất nguyên tắc nhân đạo XHCN,
nguyên tắc cá thể hóa hình phạt biểu hiện ở việc TNHS đối với người chưa
thành niên luôn thấp hơn TNHS đối với người đã thành niên.
Kết luận Chương 1
Trong chương này của luận văn, tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý luận
của quyết định hình phạt nói chung, hình phạt tù có thời hạn nói riêng, nêu lên
khái niệm, đặc điểm quyết định hình phạt tù có thời hạn. Quyết định hình phạt
đúng, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội là cơ sơ pháp lý đầu tiên để đạt được các mục đích của hình phạt.
Quyết định hình phạt tù có thời hạn chỉ diễn ra sau khi Tòa án đã tiến hành
hoạt động định tội danh, trong trường hợp người phạm tội bị khẳng định là có
tội và thấy cần thiết phải cách ly người đó ra khỏi đời sống xã hội một thời
gian nhất định, Tòa án sẽ áp dụng hình phạt tù có thời hạn, giam giữ họ tại cơ
sở giam giữ để giáo dục, cải tạo. Hoạt động xét xử của Tòa án thường được
trải qua ba giai đoạn là: định tội danh, định khung hình phạt và quyết định
hình phạt. Khi quyết định hình phạt tù có thời hạn, cần phải tuân thủ đúng các
nguyên tắc quyết định hình phạt đó là nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc
nhân đạo XHCN, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và nguyên tắc công bằng;
đồng thời phải căn cứ vào các quy định của BLHS, tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS để quyết định hình phạt. Trong nhiều trường
hợp khi quyết định hình phạt, Tòa án phải vận dụng các quy định mang tính đặc
thù để quyết định hình phạt riêng đối với bị cáo. Quyết định hình phạt trong
trường hợp này được gọi là quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt, bao
gồm: Quyết định hình phạt tù có thời hạn nhẹ hơn quy định của BLHS; quyết
30. 26
định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp phạm nhiều tội, tổng hợp hình
phạt của nhiều bản án; quyết định hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp
chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt; quyết định hình phạt tù có thời hạn trong
trường hợp đồng phạm; quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa
thành niên phạm tội. Việc quyết định hình phạt tù có thời hạn cũng phải tuân
thủ quy định chung của Bộ luật Hình sự trong những trường hợp này.
31. 27
Chương 2
THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH
2.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt tù có thời hạn trên địa
bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
Huyện Ý Yên thuộc vùng đồng bằng chiêm trũng nằm ở phía Tây của tỉnh
Nam Định, nằm ở trung tâm của tam giác nối tỉnh lỵ của ba tỉnh vùng nam đồng
bằng sông Hồng là thành phố Nam Định (tỉnh Nam Định), thành phố Phủ Lý
(tỉnh Hà Nam) và thành phố Ninh Bình (tỉnh Ninh Bình). Về địa giới hành
chính, huyện Ý Yên phía bắc giáp với huyện Thanh Liêm (thuộc tỉnh Hà Nam),
phía đông giáp với huyện Vụ Bản (tỉnh Nam Định), phía nam giáp với huyện
Nghĩa Hưng (tỉnh Nam Định) và phía tây giáp với thành phố Ninh Bình (tỉnh
Ninh Bình). Huyện Ý Yên có 32 đơn vị hành chính cấp xã; diện tích khoảng 240
km2
, đứng thứ 2/10 huyện, thành phố của tỉnh Nam Định; dân số năm 2010 là
228.365 người, đứng thứ 3/10 huyện, thành phố của tỉnh Nam Định. Trên địa
bàn huyện có một số trục giao thông quan trọng đi qua gồm: đường sắt Bắc -
Nam, đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình, quốc lộ 10 và quốc lộ 37B.
Là vùng đất hình thành sớm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng,
phần lớn các xã trong huyện Ý Yên là xã thuần nông, chỉ có một số xã, thị trấn
có nghề thủ công nghiệp và công nghiệp phát triển là thị trấn Lâm, xã Yên Xá
(làng nghề đúc đồng Tống Xá), xã Yên Tiến (làng nghề sơn mài Cát Đằng), xã
Yên Ninh (làng nghề đồ gỗ La Xuyên), xã Yên Trị (may Vĩnh Trị). Với điều
kiện địa lý, dân cư và sự khác biệt về mặt kinh tế và xã hội như vậy đã tạo nên
sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt trên địa bàn huyện: các xã phía bắc quốc lộ 10
kinh tế phát triển, nhiều làng nghề và giao thông đi lại thuận lợi, các xã phía
nam quốc lộ 10 kinh tế chậm phát triển, dân cư chủ yếu sản xuất nông nghiệp,
cơ sở hạ tầng kém, bị sông Đào và sông Đáy vây bọc nên đi lại rất khó khăn.
32. 28
Điều này khiến cho tình hình an ninh trật tự trên địa bàn huyện diễn biến khá
phức tạp; nhất là tình hình tội phạm diễn biến khó kiểm soát tác động tiêu cực
đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Bảng 2.1. Số lượng vụ án, bị cáo được xét xử sơ thẩm trên địa bàn huyện
Ý Yên và tỉnh Nam Định giai đoạn 2012-2016
Năm
Ý Yên Nam Định Tỷ lệ
Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo
2012 98 156 1426 2171 6,9 % 7,2%
2013 87 160 1181 1824 7,4% 8,8%
2014 63 130 1236 1990 5,1% 6,5%
2015 81 174 1005 1772 8,1% 9,8%
2016 89 150 1282 2042 6,9% 7,3%
Tổng 418 770 6130 9799 6,8% 7,8%
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định
Trên địa bàn huyện Ý Yên có hai điểm nóng về tội phạm. Thứ nhất là khu
vực cầu Non Nước, xã Yên Bằng. Địa điểm này nằm ở cửa ngõ của thành phố
du lịch Ninh Bình, là điểm giao cắt của tuyến cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với
quốc lộ 10. Tỉnh Ninh Bình nhiều danh lam thắng cảnh, nhiều điểm tham quan.
Chính sự giáp ranh đã tạo môi trường lý tưởng cho các tụ điểm giải trí của xã Yên
Bằng hình thành và phát triển. Chỉ một đoạn đường khoảng 5km từ cầu Non
Nước, Ninh Bình về đến ngã ba Cát Đằng – Yên Tiến đã có tới hơn 100 nhà nghỉ,
quán cafe, karaoke, cắt tóc, gội đầu, massage, xông hơi,… Đây là điều kiện thuận
lợi cho tội phạm ma túy và mại dâm phát triển. Thứ hai là khu vực thị trấn Lâm –
xã Yên Ninh, nơi có nhiều cơ sở sản xuất đồ gỗ và đúc đồng thu hút nhiều lao
động là thanh niên địa phương và lao động từ nơi khác đến, đặc thù của việc đúc
đồng là thường sản xuất về đêm. Chính điều này dẫn tới việc phát sinh tội phạm
về chiếm đoạt tài sản, đánh bạc và cố ý gây thương tích trên địa bàn.
33. 29
Thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian qua cho thấy hình phạt tù
giam được áp dụng nhiều, chiếm tỷ lệ trên 50%. Hình phạt cảnh cáo, phạt tiền,
cải tạo không giam giữ được áp dụng rất ít hoặc hầu như không được áp dụng.
Khi khung hình phạt quy định hai loại hình phạt để Tòa án lựa chọn như: Cải
tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn; phạt tiền hoặc tù có thời hạn thì hình
phạt tù có thời hạn vẫn ưu tiên áp dụng hơn hình phạt còn lại.
Với đặc thù của tòa án nhân dân cấp huyện căn cứ theo quy định của
BLTTHS chỉ có thẩm quyền xét những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiên trọng với khung hình phạt đến
15 năm tù, do đó Tòa án nhân dân huyện Ý Yên không có vụ án nào xét xử bị cáo bị
áp dụng hình phạt tù trên 15 năm, hình phạt chung thân và tử hình.
Bảng 2.2.Hình phạt chính áp dụng với các bị cáo giai đoạn 2012-2016
Năm
Tổng
số bị
cáo
Các loại hình phạt chính
Tổng số
bị cáo bị
xử phạt
tù giam
(không kể
án treo)
Tỷ lệ
số án
giam
/Tổng
số
bị cáo
Cảnh
cáo
Phạt
tiền
Cải
tạo
không
giam
giữ
Án
treo
Tù
đến 3
năm
Tù
trên 3
đến 7
năm
Tù
trên 7
đến
15
năm
2012 156 0 0 0 60 62 23 11 96 62%
2013 160 1 17 14 17 78 25 8 111 69%
2014 130 0 2 18 27 60 19 4 83 64%
2015 174 0 0 7 70 81 14 2 97 55%
2016 150 0 6 14 52 58 17 3 78 52%
Tổng 770 1 25 53 226 339 98 28 465 60%
Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Ý Yên
34. 30
2.2. Những kết quả đạt được trong quyết định hình phạt tù có thời
hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
Thực tiễn cho thấy công tác xét xử các vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân
huyện Ý Yên trong các năm trở lại đây đã đạt được nhiều kết quả quan trọng,
các phán quyết của Tòa án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa
và trên cơ sở xem xét một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ đã
được thu thập trong quá trình điều tra vụ án, được thẩm định tại phiên tòa nên
việc xét xử đã đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đạt được mục đích
của hình phạt. Chất lượng giải quyết, xét xử các vụ án hình sự nói chung tiếp tục
được nâng lên. Đạt được những kết quả đó xuất phát từ các yếu tố sau:
- Định tội danh đúng với tội phạm đã thực hiện
Như đã phân tích ở trên, quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình
sự diễn ra phức tạp và đa dạng, được thể hiện ở 3 giai đoạn: Định tội danh, định
khung hình phạt và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là giai đoạn
quan trọng nhất trong ba giai đoạn trên của toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật
hình sự, việc định tội danh đúng là tiền đề cho việc định khung hình phạt và
quyết định hình phạt chính xác. Thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Ý
Yên hầu hết các bản án quyết định của Tòa án đều định tội danh chính xác dựa
trên quy định của Bộ luật hình sự làm căn cứ để đưa ra phán quyết.
Ví dụ: Vụ án cố ý gây thương tích xảy ra tại xã Yên Chính, huyện Ý Yên
Nội dung vụ án: Nguyễn Ngọc Khôi có hành vi tự ý xây dựng tường bao
trước cửa nhà, lấn chiếm hành lang an toàn giao thông đường 485. Chính quyền
xã đã lập biên bản vi phạm và yêu cầu tự tháo dỡ nhưng Khôi không chấp hành.
Ngày 16/11/2013 UBND xã Yên Chính đã quyết định thành lập tổ công tác để
làm nhiệm vụ kiểm tra thực địa, lập biên bản vi phạm tổ chức giải tỏa các công
trình vi phạm, lấn chiếm hành lang an toàn giao thông đường bộ. Khoảng 8 giờ
sáng ngày 17/11/2013, tổ công tác có mặt tại nhà Khôi, tiếp tục yêu cầu Khôi tự
tháo dỡ tường bao lấn chiếm hành lang an toàn giao thông. Khôi không chấp
35. 31
hành mà còn có những lời lẽ thách đố. Ông Nguyễn Đăng Quyền là bí thư chi bộ
xóm giải thích thì Khôi nói: “Thằng nào phá nhà tao, tao đập chết” và nhặt 1/2
viên gạch đập vào vùng thái dương bên phải ông Quyền. Giám định ông Nguyễn
Đăng Quyền bị tổn hại sức khỏe do thương tích gây nên là 1%. Tại bản án số
13/2014/HSST ngày 23/4/2014, Tòa án nhân dân huyện Ý Yên nhận định Khôi
dùng 1/2 viên gạch là hung khí nguy hiểm và để cản trở người thi hành công vụ
nên đã áp dụng khoản 1 Điều 104 BLHS, tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Khôi
phạm tội “Cố ý gây thương tích”, xử phạt bị cáo 06 tháng tù.
Theo quy định tại Điều 104 BLHS, hành vi cố ý gây thương tích mà tỷ lệ
thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp quy
định tại khoản 1 thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
06 tháng đến 03 năm. Trong vụ án này, người bị hại bị thương tật dưới 11% tuy
nhiên Tòa án căn cứ vào tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” và “cản trở người
thi hành công vụ” theo điểm a, điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS để định tội đối
với bị cáo là đúng quy định của pháp luật.
- Định khung hình phạt đúng với tội phạm đã thực hiện.
Sau khi định tội danh thì Hội đồng xét xử cần xác định khung hình phạt
tương ứng với tính chất mức độ của tội phạm đã thực hiện. Xác định khung hình
phạt đúng là tiền đề để đưa ra quyết định hình phạt tù chính xác. Các bản án của
Tòa án nhân dân huyện Ý Yên về cơ bản đã xác định đúng khung đối với tội
phạm đã thực hiện.
Ví dụ: Vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ xảy ra tại xã Yên Bình, huyện Ý Yên.
Nội dung vụ án: Ngày 20/02/2015, Vũ Văn Thông không có giấy phép lái
xe cơ giới theo quy định, điều khiển xe mô tô đi trên đường liên xã (đường
không ưu tiên) hướng ra quốc lộ 38B (đường ưu tiên). Khi đến khu vực ngã tư
thuộc thôn Tâng xã Yên Bình, mặc dù trước đó đã có biển báo hiệu nguy hiểm
giao nhau với đường ưu tiên nhưng Vũ Văn Thông không quan sát để giảm tốc
36. 32
độ, nhường đường cho xe đang đi trên đường ưu tiên mà vẫn điều khiển xe rẽ
trái đi ra quốc lộ 38B nên đã xô vào xe môtô do chị Trần Thị Thảo điều khiển đi
trên quốc lộ 38B hướng Phố Cháy – Thành phố Nam Định, chở cháu Trần
Thanh Kim Huệ; hậu quả khiến cháu Huệ tử vong. Kết luận giám định pháp y
xác định cháu Huệ chết do chấn thương sọ não. Bản án số 45/2015/HSST ngày
24/7/2015 áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202 BLHS xử phạt Vũ Văn Thông 36
tháng tù.
Trong vụ án này xét về hành vi khách quan thì bị cáo chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 202 nhưng do bị cáo không có giấy phép lái xe
mà vẫn điều khiển phương tiện giao thông, do đó việc Hội đồng xét xử áp dụng
tình tiết định khung tại điểm a khoản 2 Điều 202 BLHS để quyết định hình phạt
đối với bị cáo là chính xác.
- Quyết định hình phạt tù có thời hạn về cơ bản đã tuân thủ đúng các
nguyên tắc quyết định hình phạt, vận dụng đúng và đầy đủ các căn cứ
quyết định hình phạt.
Trong thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Ý Yên, việc quyết định
hình phạt tù có thời hạn về cơ bản đã tuân thủ đúng các nguyên tắc quyết định
hình phạt, vận dụng đúng và đầy đủ các căn cứ quyết định hình phạt. Các hình
phạt nghiêm khắc được áp dụng đối với đối tượng phạm tội rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội có tổ chức, tái phạm nguy hiểm, gây hậu quả rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Hội đồng xét xử đã cân nhắc thận
trọng khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và các quy định của Bộ luật hình sự để
quyết định hình phạt. Hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với các bị cáo thể hiện
được chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước là nghiêm trị người chủ mưu,
cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố, lưu manh côn đồ; khoan hồng đối với người tự thú,
thành khẩn khai báo, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa, bồi
thường thiệt hại nên đã đề cao tính giáo dục và phòng ngừa chung đáp ứng được
yêu cầu phòng chống tội phạm tại địa phương.
37. 33
Ví dụ: Vụ án vận chuyển hàng cấm xảy ra tại xã Yên Nhân, huyện Ý Yên.
Nội dung vụ án: Ngày 02/01/2016 Lê Văn Sáng làm nghề phụ hồ xây dựng
cùng con trai là cháu Lê Văn Ánh, sinh ngày 09/11/2003, dùng thuyền xi măng
chở 02 bao tải pháo nổ (01 bao đựng 05 bánh và 01 bao đựng 03 bánh) từ ngã tư
xã Yên Thắng đến cầu Ba Cây xã Yên Nhân, huyện Ý Yên thì bị phát hiện bắt
quả tang, thu giữ 24 kg pháo nổ, loại tràng dây. Bản án Hình sự số
09/2016/HSST ngày 29/01/2016 của Tòa án nhân dân huyện Ý Yên nhận định
hành vi của Sáng là nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi vận chuyển
pháo nổ là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm, xâm hại
đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, kinh doanh pháo nổ. Tuy
nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị cáo có hoàn
cảnh gia đình khó khăn, hiểu biết pháp luật hạn chế nên cho bị cáo được hưởng
tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46. Cháu Lê Văn
Ánh tuy có hành vi vận chuyển hàng cấm cùng bị cáo Sáng nhưng tại thời điểm
đó chưa đủ 14 tuổi, do đó căn cứ theo quy định của BLHS cháu Ánh không phải
chịu trách nhiệm hình sự vì hành vi của mình. Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1
Điều 155 BLHS quyết định xử phạt bị cáo Lê Văn Sáng 06 tháng tù là mức thấp
nhất đối với hình phạt tù của khung hình phạt là phù hợp với tính chất mức độ
của hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo.
Vụ án được xét xử công khai lưu động tại Ủy ban nhân dân xã Yên Nhân nơi
bị cáo cư trú và cũng là nơi thực hiện tội phạm vào thời điểm giáp Tết Nguyên đán
Bính Thân 2016 được sự quan tâm chú ý của đông đảo người dân địa phương đã
góp phần giáo dục phòng ngừa chung, nhất là khi tình trạng đốt pháo trái phép vẫn
thường xuyên diễn ra vào Tết nguyên đán dù đã bị nghiêm cấm.
38. 34
2.3 Những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong quyết định hình phạt tù
có thời hạn trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
Thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Ý Yên trong giai đoạn 2012-
2016 phát sinh một số bất cập, hạn chế, vướng mắc dẫn tới quyết định hình phạt
tù có thời hạn không đúng, bản án bị Tòa án cấp trên hủy, sửa.
Trong giai đoạn từ 2012 -2016, có tổng cộng 63 bản án hình sự sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; không có bản án hình sự sơ thẩm
nào bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong số 63
bản án hình sự sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có 05
bản án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán.
Bảng 2.3. Số lượng bản án HSST bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm của Tòa án nhân dân huyện Ý Yên giai đoạn 2012-2016
2012 2013 2014 2015 2016 Tổng
Số lượng bản án HSST bị
kháng cáo kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm
9 11 15 13 15 63
Số lượng bản án HSST bị
hủy sửa do lỗi chủ quan của
Thẩm phán
1 0 1 2 1 5
Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Ý Yên
Qua nghiên cứu các bản án bị Tòa án cấp trên hủy, sửa; tác giả nhận thấy
hầu hết đó là bản án quyết định hình phạt tù hoặc hình phạt tù nhưng cho hưởng
án treo, chiếm đa số so với các hình phạt khác như cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ, phạt tiền. Ngoài ra, kết luận kiểm tra giám đốc hàng năm của Tòa án nhân
dân tỉnh Nam Định cũng chỉ ra nhiều sai sót trong các bản án đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án nhân dân huyện Ý Yên. Những sai sót này có nguyên nhân
từ những bất cập, hạn chế, vướng mắc; chia thành các nhóm sau đây:
+ Những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong định tội danh;
39. 35
+ Những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong quyết định hình phạt;
+ Những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong quyết định hình phạt trong
trường hợp đặc biệt;
+ Những bất cập, hạn chế, vướng mắc khác.
2.3.1 Những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong định tội danh
Như đã phân tích ở trên định tội danh là vấn đề rất quan trọng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự; là tiền đề cho việc quyết định hình phạt công
minh, chính xác. Định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như:
không đảm bảo được tính công minh, đúng pháp luật của bản án, truy cứu trách
nhiệm sai người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm danh dự nhân phẩm,
sức khỏe, tính mạng, quyền tự do dân chủ của công dân. Do đó để tìm ra những
bất cập hạn chế trong quyết định hình phạt tù có thời hạn thì nghiên cứu về định
tội danh là cần thiết. Thực tiễn xét xử tại địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định
cho thấy một số bất cập, hạn chế, vướng mắc trong việc định tội danh như sau:
- Tình tiết định tội danh mang tính định tính
Trong quy định về các tội phạm cụ thể của BLHS 1999, mặt khách quan
của tội phạm vẫn duy trì cách thức quy định mang tính định tính thông qua sử
dụng các thuật ngữ như: dùng thủ đoạn nguy hiểm, xảo quyệt, dùng hung khí
nguy hiểm (khi xác định hành vi phạm tội); số lượng lớn, thu lợi bất chính lớn,
rất lớn, đặc biệt lớn; trường hợp nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng; gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (khi xác
định hậu quả). Đây là những thuật ngữ mang tính định tính khó xác định trên
thực tế. Trong khi đó văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ, kịp thời do đó việc áp
dụng còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc và chưa đảm bảo tính thống nhất, gây
lúng túng cho Tòa án trong định tội danh cũng như quyết định hình phạt.
Ví dụ: Vụ án Nguyễn Ngọc Khôi phạm tội cố ý gây thương tích đã lấy ví
dụ ở trên, bản án căn cứ vào tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” định tội danh
đối với bị cáo nhưng thế nào là “hung khí nguy hiểm” thì Bộ luật hình sự không
40. 36
quy định rõ. Khi áp dụng tình tiết định tội này Hội đồng xét xử phải căn cứ tiểu
mục 3.1 mục 3 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn về tình tiết "dùng hung khí nguy hiểm" quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS, nhưng Nghị quyết cũng không nói rõ là
những vật gì là hung khí nguy hiểm mà dẫn chiếu tới tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2
Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao. Theo đó, tại điểm c tiểu mục 2.2 mục 2 hướng
dẫn: “Phương tiện nguy hiểm là … vật có sẵn trong tự nhiên. Ví dụ: gạch, đá,
đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt...” Việc phải căn cứ vào nhiều văn bản hướng
dẫn gây khó khăn cho Hội đồng xét xử khi áp dụng pháp luật.
- Tình tiết định tội không có cách hiểu thống nhất do chưa được hướng
dẫn rõ ràng.
Trên thực tế BLHS quy định một số tội phạm nhưng không quy định rõ
mặt khách quan dẫn tới cách hiểu khác nhau về cùng một hành vi phạm tội.
Ví dụ: Vụ án đánh bạc xảy ra ngày 27/02/2016 tại xã Yên Phúc, huyện Ý Yên.
Nội dung vụ án: Khoảng 20h30 ngày 27/02/2016, Vũ Đình Đới, Đoàn Văn
Bộ, Bùi Đình Chinh, Vũ Ngọc Điền, Ngô Văn Ban, Trần Văn Hòa đến nhà Mai
Xuân Hải ở thôn Vĩnh Ninh xã Yên Phúc chơi. Lúc này Mai Xuân Hải không có
nhà. Đới, Bộ, Chinh, Điền, Ban, Hòa rủ nhau đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa
được thua bằng tiền ở bếp nhà Mai Xuân Hải. Sau đó có Vũ Đình Thường, Vũ
Đình Dũng, Vũ Đình Giang đến nhà Hải và cũng tham gia đánh bạc. Khoảng
21h30, Mai Xuân Hải về nhà thấy mọi người đánh bạc tại bếp nhà mình thì nói:
“Anh em nghỉ đi”, Vũ Đình Đới nói “Để anh em chơi một tý”. Hải không nói gì
lên nhà hút thuốc sau đó cùng vào tham gia đánh bạc. Khi Đới, Bộ, Chinh, Điền,
Ban, Hòa, Thường, Dũng, Giang, Hải đang tham gia đánh bạc thì bị lực lượng
công an bắt quả tang, thu giữ số tiền trên chiếu bạc là 5.200.000 đồng. Tại cơ
quan điều tra các đối tượng đánh bạc đều khai nhận: Tối 27/02/2016 Mai Xuân
Hải không thu bất cứ khoản tiền gì; tuy nhiên, một số đối tượng có khai những
41. 37
ngày trước có để lại 10.000 đồng hoặc 20.000 đồng dưới chiếu nhà Hải khi chơi
xong. Hải cũng khai ngày hôm trước có thấy tiền các đối tượng chơi bạc để lại,
Hải biết là tiền của các đối tượng đánh bạc nên thu lấy để sử dụng vào mục đích
cá nhân.
Quá trình điều tra ban đầu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ý
Yên khởi tố các bị cáo trong vụ án trong đó có Mai Xuân Hải về tội “Đánh bạc”.
Ngày 23/03/2016, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên yêu cầu bổ sung Quyết
định khởi tố bị can đối với Mai Xuân Hải về tội “Gá bạc”. Quan điểm của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên cho rằng: Mai Xuân Hải phạm tội “Gá bạc” vì
đồng ý cho các con bạc đánh bạc tại nhà và có động cơ thu lợi bất chính. Ngày
25/03/2016 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ý Yên đã có Quyết định
bổ sung Quyết định khởi tố bị can đối với Mai Xuân Hải về tội “Gá bạc”. Tuy
nhiên khi thụ lý vụ án, qua nghiên cứu hồ sơ, Tòa án nhân dân huyện Ý Yên cho
rằng: Mai Xuân Hải không phạm tội “Gá bạc” vì tối ngày 27/02/2016 Hải không
thu “tiền hồ” của các con bạc.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án trên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý
Yên sau quá trình xét hỏi đồng ý rút một phần cáo trạng truy tố Mai Xuân Hải
về tội “Gá bạc” nhưng với căn cứ áp dụng Điều 25 BLHS 1999 (miễn trách nhiệm
hình sự cho người phạm tội), vận dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo. Tại bản án
hình sự sơ thẩm số 52/2016/HSST ngày 19/07/2016 của Tòa án nhân dân huyện
Ý Yên đã bác quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên truy tố Mai
Xuân Hải về tội “Gá bạc”, đồng thời tuyên bố bị cáo Mai Xuân Hải phạm tội
“Đánh bạc”, xử phạt Mai Xuân Hải 06 tháng tù.
Quan điểm của tác giả khi nghiên cứu hồ sơ vụ án cho rằng: Gá bạc là
hành vi dùng địa điểm (nhà ở, cửa hàng, khách sạn, phòng trọ, tàu, xe, thuyền,
bè…) đang do mình quản lý sử dụng để cho người khác đánh bạc thu tiền (tiền
hồ). Bị cáo phải có hành vi thu “tiền hồ” thì mới cấu thành tội phạm. Trong vụ
án này, Mai Xuân Hải không có hành vi thu “tiền hồ” của các con bạc, vì vậy
42. 38
hành vi của bị cáo không cấu thành tội “Gá bạc”. Việc Tòa án nhân dân huyện Ý
Yên đã bác bỏ quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên truy tố Mai
Xuân Hải về tội “Gá bạc” là đúng theo quy định của pháp luật.
Từ ví dụ trên ta có thể thấy rằng việc BLHS không quy định hành vi
khách quan của tội phạm có thể dẫn tới cách hiểu sai về tội phạm đó trong quá
trình áp dụng pháp luật, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người
phạm tội.
- Bộ luật hình sự quy định điều luật là tội ghép khiến cho việc định tội
danh không chính xác.
Thực tiễn xét xử các vụ án ma túy tại huyện Ý Yên tỉnh Nam Định cho
thấy việc BLHS 1999 quy định tại Điều 194 tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy” là một tội ghép, quy định nhiều hành vi
khách quan của tội phạm trong cùng một điều luật gây khó khăn trong định tội
danh với bị cáo. Rất nhiều trường hợp bản án định tội danh không đúng đối với
hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện.
Ví dụ: Vụ án Nguyễn Hồng Quân bị truy tố, xét xử về tội “Tàng trữ, mua
bán trái phép chất ma túy” xảy ra tại xã Yên Bằng, huyện Ý Yên.
Nội dung vụ án: Ngày 24/4/2015, Công an huyện Ý Yên bắt quả tang
Nguyễn Hồng Quân đang bán ma túy cho Nguyễn Quang Huy, thu giữ của Huy
02 gói hêrôin vừa mua của Quân trọng lượng 0,044g. Ngoài ra, công an còn thu
giữ trong túi quần của Quân 200.000đ tiền Quân vừa bán ma túy cho Huy và 07
gói hêrôin trọng lượng 0,213 gam Quân cất giấu ở khe biển quảng cáo trước cửa
nhà nghỉ Bến Sông. Số hêrôin thu giữ của Quân giấu ở khe biển quảng cáo,
Quân khai là hêrôin mục đích để bán cho các con nghiện. Tại bản án số
47/2015/HSST ngày 06/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện Ý Yên áp dụng
khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS,
tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng Quân phạm tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất
ma túy”, xử phạt bị cáo 39 tháng tù.
43. 39
Qua nghiên cứu vụ án này, tác giả cho rằng hành vi phạm tội của bị cáo
không cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bản án xét xử bị cáo theo
tội ghép “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy” là không đúng theo hướng
dẫn của Thông tư liên tịch số 17 ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp vì toàn bộ số ma túy
của bị cáo tàng trữ nhằm mục đích để bán kiếm lời, như vậy, hành vi của bị cáo
chỉ cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2.3.2 Những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong quyết định hình phạt
Khi quyết định hình phạt tù có thời hạn, Tòa án căn cứ vào các quy định
của Bộ luật hình sự, tính chất và mức độ nguy hiểm cho hành xã hội của hành
vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử trên địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định, cho thấy có một số bất cập, hạn chế, vướng mắc trong quyết định
hình phạt tù có thời hạn như sau:
* Về căn cứ quy định của BLHS
Nghiên cứu quy định BLHS về quyết định hình phạt tù có thời hạn cho
thấy một số bất cập như sau:
Thứ nhất, BLHS 1999 về cơ bản vẫn ưu tiên yếu tố trừng trị khi quyết
định hình phạt. Tội phạm có chế tài là hình phạt tù có thời hạn chiếm đa số. Tại
phần các tội phạm của BLHS 1999 chỉ có 06/272 điều luật (chiếm tỷ lệ 1,84
%) không quy định hình phạt tù mà chỉ có lựa chọn giữa các hình phạt không
tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ). Đó là: Điều 125 (Tội
xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác);
Điều 159 (Tội kinh doanh trái phép); Điều 161 (Tội trốn thuế); Điều 163 (Tội
cho vay lãi nặng); Điều 170a (Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan);
Điều 171 (Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp) [1].
Thứ hai, thời hạn tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn là ngắn.