Download luận án tiến sĩ ngành triết học với đề tài: Vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và bài học đối với Việt Nam hiện nay, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Luận án: Trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ KIM HỒNG
VÊN §Ò Tù DO Vµ TR¸CH NHIÖM §¹O §øC
TRONG HO¹T §éNG KHOA HäC, C¤NG NGHÖ Vµ BµI HäC
§èI VíI VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2018
2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ KIM HỒNG
VÊN §Ò Tù DO Vµ TR¸CH NHIÖM §¹O §øC
TRONG HO¹T §éNG KHOA HäC, C¤NG NGHÖ Vµ BµI HäC
§èI VíI VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Mã số: 62 22 03 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. NGUYỄN ANH TUẤN
2. TS. PHAN MẠNH TOÀN
HÀ NỘI - 2018
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Kim Hồng
4. MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 9
1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận chung về tự do và trách nhiệm
đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ 9
1.2. Những công trình nghiên cứu về nội dung của vấn đề tự do và trách nhiệm
đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ 24
1.3. Những công trình nghiên cứu về bài học trong việc kết hợp hài hòa giữa
tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ ở
Việt Nam hiện nay 28
1.4. Giá trị của những công trình được tổng quan và những vấn đề luận án cần
tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm 33
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỰ DO VÀ TRÁCH
NHIỆM ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ 35
2.1. Quan niệm về tự do và trách nhiệm đạo đức 35
2.2. Tự do, trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ 57
2.3. Mối quan hệ giữa đạo đức và khoa học, công nghệ 62
Chương 3: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM
ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ 71
3.1. Tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ 71
3.2. Trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ 92
Chương 4: TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG
KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ BÀI HỌC ĐỐI
VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY 116
4.1. Một số vấn đề về tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học,
công nghệ được đặt ra hiện nay 117
4.2. Bài học đối với các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu và ứng dụng
khoa học, công nghệ 122
4.3. Bài học đối với Nhà nước Việt Nam trong việc quản lý hoạt động nghiên
cứu khoa học và ứng dụng công nghệ hiện nay 128
KẾT LUẬN 141
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 144
PHỤ LỤC 159
5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS : Acquired Immuno Deficiency Syndrom (Hội chứng suy giảm miễn dịch
mắc phải)
CDC : Centers for Disease Control and Prevention (Trung tâm phòng chống
dịch bệnh Hoa Kỳ)
GDP : Gross Dimestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)
GLP : Good Laboratory Practice (Hệ thống an toàn chất lượng phòng thí nghiệm)
GMP : Good Manufacturing Practice (Tiêu chuẩn Thực hành sản xuất tốt)
NGOs : Non-Governmental Organizations (Các tổ chức phi chính phủ)
Nxb : Nhà xuất bản
6. 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, con người
đang phải quan tâm đến những vấn đề lớn như ô nhiễm, hủy hoại môi trường,
nghịch lý giữa các thành tựu công nghệ với thái độ ứng xử đạo đức của con
người, hay những tác động của toàn cầu hóa đến tiến Bộ Khoa học, công nghệ
và đến đời sống của con người… Tất cả đều đang đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu lý luận và giải quyết thực tiễn. Nổi lên hàng đầu trong số đó là các
vấn đề đạo đức nói chung, và tự do, trách nhiệm của con người trong sự phát
triển khoa học, công nghệ nói riêng.
Bước sang thế kỷ XXI, khoa học và công nghệ hiện đại đã có những
phát triển vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu to lớn. Song, bên cạnh đó là
những hiểm họa của việc ngày càng gia tăng những tác động xấu đến con
người và xã hội từ những mặt trái của chính sự phát triển đó. Điều này đã đặt
ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách cần giải quyết, trong đó phải trả
lời được cho câu hỏi: làm sao có thể kết hợp hài hòa giữa tự do sáng tạo và
trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm đạo đức của các chủ thể trong các hoạt
động khoa học, công nghệ, vì một sự phát triển lành mạnh của khoa học, công
nghệ - nơi con người có thể bộc lộ hết các khả năng của mình, cũng như sự
phát triển chung của xã hội loài người?
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, và hội nhập
quốc tế, Việt Nam đã cố gắng tiếp thu và ứng dụng nhiều thành tựu khoa học,
công nghệ của thế giới, dành nhiều nguồn lực đầu tư phát triển nghiên cứu
khoa học và ứng dụng công nghệ. Những thành tựu tuy còn ít ỏi của khoa
học, công nghệ nước nhà đã tạo đà cho đất nước phát triển trên nhiều mặt từ
kinh tế đến chính trị, văn hóa,... Tuy nhiên, bên cạnh việc nhận thức được vai
trò to lớn của khoa học, công nghệ đối với sự phát triển đất nước, chúng ta
7. 2
cần hiểu sâu sắc những vấn đề nảy sinh trong hoạt động khoa học, công nghệ,
như vấn đề: quyền tự do, môi trường tự do... trong sáng tạo và ứng dụng khoa
học vào sản xuất và đời sống; vấn đề xử lý trách nhiệm của các chủ thể hoạt
động trong lĩnh vực khoa học, công nghệ như thế nào? Phải có những biện
pháp cụ thể nào để có thể phát huy tối đa sức mạnh của khoa học, công nghệ
mà vẫn đảm bảo kết hợp hài hòa giữa tự do và trách nhiệm của các cá nhân, tổ
chức hoạt động trong lĩnh vực trên?
Với ý nghĩa đó, chúng tôi cho rằng, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài
Vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và
bài học đối với Việt Nam hiện nay là một việc làm có ý nghĩa lý luận chung
không chỉ góp phần làm rõ hơn mối liên hệ biện chứng giữa tự do và trách
nhiệm trong hoạt động khoa học, công nghệ, mà còn có ý nghĩa thực tiễn đối
với sự phát triển của khoa học, công nghệ đất nước ta trong bối cảnh hiện nay.
Dưới đây là một số điểm cụ thể hóa tính cấp thiết nêu trên của đề tài:
Thứ nhất, tự do vừa là bản chất tự nhiên, vừa là khát vọng thường trực
của mỗi người. Ai cũng yêu tự do, ai cũng khát khao tự do. Tự do mạnh mẽ
và vĩ đại đến nỗi tìm kiếm nó trở thành bản năng sống còn của con người.
Càng thiếu tự do, con người càng khát khao tự do, giống như sự thèm muốn
bị thôi thúc bởi cơn khát khi không có nước. Chính vì thế, khó có ai yên phận
sống trong sự nô dịch của người khác và không một dân tộc nào cam chịu
sống trong sự thống trị của dân tộc khác. Các cuộc kháng chiến chính là đề
giải phóng con người ra khỏi sự nô dịch và kiềm tỏa. Tự do vừa cụ thể lại vừa
trừu tượng, vì thế, đúng như tên gọi, tự do không chịu khuôn mình vào bất kỳ
khuôn mẫu nào, ngay cả trong những nỗ lực của các nhà triết học, các nhà
khoa học ở mọi thời đại nhằm mô tả và lý giải nó. Có lẽ vì thế, cho nên đến
nay, tự do vẫn là cái gì đó vừa quen thuộc vừa xa lạ đối với con người. Nhận
thức của nhân loại về tự do tập trung nhiều ở những phát hiện của các nhà
triết học thời kỳ Khai sáng. Trong khi đó, với tư cách là một đối tượng quan
8. 3
trọng của triết học, bên cạnh những nội dung nguyên thủy, khái niệm tự do
vẫn không ngừng vận động và ngày càng cuốn thêm vào mình nhiều nội dung
mới. Đặc biệt là việc xem xét tự do trong mối quan hệ biện chứng không thể
tách rời với trách nhiệm. Tự do và trách nhiệm là hai khái niệm đã được
nghiên cứu, tiếp cận riêng biệt từ các góc nhìn xã hội học, đạo đức học, luật
học… Song, vẫn rất cần một tiếp cận triết học để nghiên cứu mối liên hệ giữa
chúng một cách khái quát, có hệ thống. Để chúng đi vào cuộc sống không bao
giờ là những khái niệm đứng riêng biệt với nhau.
Thứ hai, về mặt lý luận, tự do và trách nhiệm là hai phương diện của một
vấn đề. Không thể có trách nhiệm mà không được lựa chọn giá trị và hoạt
động, cũng như không thể có tự do thuần túy không liên quan gì đến trách
nhiệm đối với người khác, đối với xã hội.
Về mặt thực tiễn, tự do và trách nhiệm hình thành, phát triển trong tiến
trình lịch sử của nhân loại, cũng như của các cộng đồng người và là mục tiêu,
động lực của sự phát triển xã hội và con người. Trong bối cảnh khoa học và
công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, thì tự do và trách nhiệm của con
người càng được mở rộng và nâng cao hơn bao giờ hết, nhưng cũng đang
ngày càng phải chịu những thách thức nghiêm trọng. Tự do ở đây vẫn gắn với
trách nhiệm nhưng đây đó đã có hiện tượng tự do buông xuôi không chịu
trách nhiệm hoặc ít chịu trách nhiệm. Bởi vậy, nâng cao trách nhiệm của mỗi
người và của toàn nhân loại trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu do
hoạt động này gây ra là con đường tất yếu để phát triển tự do của con người
và loài người.
Thứ ba, cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đang tác động sâu
sắc đến quá trình phát triển của các nước, nhất là các nước đang phát triển
như Việt Nam hiện nay. Nó trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của xã hội, đưa nhân loại tiến vào một nền văn minh mới. Tuy nhiên,
cùng với sự bùng nổ của cách mạng khoa học, công nghệ thì rất nhiều những
9. 4
nghiên cứu lý thuyết và nhất là ứng dụng của chúng đã để lại những hậu quả
nghiêm trọng đối với sự phát triển của loài người. Tự do là điều kiện, là động
lực cho sự phát triển của khoa học, công nghệ hiện đại, nhưng trách nhiệm xã
hội đối với những hậu quả của cuộc cách mạng này như thế nào cũng là một
vấn đề nhức nhối được đặt ra và cần giải quyết.
Thứ tư, nền văn minh tiện nghi công nghệ dưới sự tác động của kinh tế
thị trường, bên cạnh những mặt tích cực mà nó đem lại, thì cũng không thể
phủ nhận những tác động tiêu cực của nó đối với môi trường và xã hội. Môi
trường sinh thái bị phá vỡ, con người trở nên dường như vô cảm, thờ ơ hơn
trước các vấn đề của bản thân mình, người ta đang có xu hướng đề cao thái
quá chủ nghĩa cá nhân, “cái tôi”, coi trọng đồng tiền hơn các giá trị đạo đức,
văn hóa… Chính điều đó đã làm cho một bộ phận giảm sút trách nhiệm của
mình với chính mình và với toàn xã hội. Những hoạt động vì lợi ích cá nhân
đang diễn ra ngày càng “lệch chuẩn” so với những giá trị đạo đức cơ bản.
Trong hoạt động khoa học, công nghệ, việc giải quyết tích cực mối quan hệ
giữa tự do và trách nhiệm (đặc biệt là trách nhiệm đạo đức) cũng là một trong
những vấn đề bức thiết hiện nay.
Thứ năm, bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam đã cố gắng tiếp thu và
ứng dụng các thành tựu khoa học và cộng nghệ của thế giới. Những thành
tựu của khoa học và công nghệ đã tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế,
giúp chúng ta đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
ghi rõ: “Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai
trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”
[37]. Đại hội Đảng lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nhấn
mạnh: “Khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
10. 5
Tuy nhiên, bên cạnh việc nhận thức được vai trò to lớn của khoa học và
công nghệ đối với sự phát triển của đất nước, chúng ta cần chỉ ra được những
vấn đề cần giải quyết và biện pháp cụ thể để phát huy sức mạnh của khoa học
và công nghệ, trong đó những vấn đề liên quan đến quyền tự do, môi trường
tự do… trong sáng tạo và ứng dụng các thành tựu khoa học trong các hoạt
động khoa học, công nghệ là những vấn đề cấp thiết được đặt ra trong giai
đoạn hiện nay. Đồng thời, cần tìm ra được những giải pháp để ngăn chặn và
giải quyết tốt nhất những hậu quả của những ứng dụng khoa học, công nghệ
gây ra đối với đất nước và đối với nhân loại. Đây không chỉ là một nhiệm vụ
nặng nề của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta, mà còn là trách nhiệm và nghĩa vụ
của mỗi con người Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng, vấn đề tự do và trách nhiệm, đặc biệt là trách
nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ, có ý nghĩa xã hội, khoa
học và chính trị to lớn, là một trong những vấn đề triết học cấp thiết nhất hiện
nay rất cần được suy ngẫm và tiếp tục nghiên cứu thấu đáo. Tự do và trách
nhiệm, trong khi ra nhập vào cấu trúc của tồn tại và ý thức của mỗi người,
trong khi là những nhu cầu xã hội cao nhất của cá nhân, đang đòi hỏi sự luận
chứng lý thuyết trong thời kỳ phát triển mới của xã hội nhằm mục đích hiện
thực hóa chúng vào thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do cơ bản đó, tôi lựa chọn đề tài “Vấn đề tự do và
trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và bài học đối
với Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Luận án phân tích những nội dung cơ bản của vấn đề tự do và trách
nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ trên thế giới nói chung
11. 6
và ở Việt Nam hiện nay nói riêng; luận giải để rút ra những bài học đối với
Việt Nam hiện nay trong việc kết hợp hài hòa giữa tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Một là, tổng quan các công trình nghiên cứu về tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
Hai là, làm rõ những vấn đề lý luận chung về tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
Ba là, phân tích những nội dung cơ bản về tự do và trách nhiệm đạo đức
trong hoạt động khoa học, công nghệ.
Bốn là, khái quát những vấn đề đặt ra và rút ra những bài học đối với
Việt Nam hiện nay trong việc kết hợp hài hòa giữa tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học,
công nghệ
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Phạm vi về nội dung: Luận án nghiên cứu những nội dung cơ bản của
vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động nghiên cứu khoa học và
hoạt động ứng dụng công nghệ. Từ việc phân tích những nội dung cơ bản đó,
luận án rút ra một số bài học đối với Việt Nam hiện nay trong việc kết hợp hài
hòa giữa tự do và trách nhiệm đạo đức trong lĩnh vực hoạt động này.
- Phạm vi không gian và thời gian nghiên cứu: Tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ ở Việt Nam từ năm 2007 đến nay -
năm đánh dấu Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO).
12. 7
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận của luận án
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là phần
lý luận về quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đề tài cũng dựa trên
những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của
khoa học, công nghệ trong tiến trình phát triển của đất nước.
Ngoài ra, luận án cũng được thực hiện trên cơ sở tiếp thu kết quả của
những công trình khoa học trong và ngoài nước thời gian qua có liên quan đến
đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật, sử dụng các phương pháp như trừu tượng hóa khoa học, thống
nhất lịch sử - lôgic, thống nhất phân tích - tổng hợp. Luận án còn sử dụng các
phương pháp đối chiếu, so sánh, thống kê...
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án phân tích một cách có hệ thống các quan niệm về tự do và
trách nhiệm đạo đức cũng như mối quan hệ giữa chúng trong lịch sử tư tưởng
triết học phương Tây.
- Luận án phân tích sự biểu hiện của tự do và trách nhiệm đạo đức trong
hoạt động khoa học, công nghệ trên thế giới nói chung, ở Việt Nam nói riêng.
Từ đó, luận án khái quát những vấn đề đặt ra và rút ra một số bài học đối với
Việt Nam hiện nay trong việc kết hợp hài hòa giữa tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học của luận án
Những vấn đề mà luận án đề cập và giải quyết sẽ góp phần làm sáng tỏ lý
luận về vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công
nghệ và bài học đối với Việt Nam hiện nay.
13. 8
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án có thể làm tư liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học và
những người quan tâm nghiên cứu về đạo đức học, cũng như cho những
người quan tâm đến các vấn đề về lý luận và thực tiễn phát triển khoa học,
công nghệ trên thế giới và Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
14. 9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Đã có những công trình nghiên cứu đề cập đến từng nội dung nhất định
trong hệ vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công
nghệ và bài học đối với Việt Nam hiện nay. Vì vậy, khi tổng quan những vấn
đề này, chúng tôi đã có điều kiện tiếp xúc với nguồn tài liệu khá phong phú.
Để giải quyết những nhiệm vụ do luận án đặt ra, tác giả đã tổng quan tình
hình nghiên cứu theo nội dung chính các chương của luận án. Tác giả luận án
sắp xếp những tài liệu đó thành những nhóm chính như sau:
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỰ DO VÀ
TRÁCH NHIỆM ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ
1.1.1. Những nghiên cứu lý luận chung về tự do và trách nhiệm
đạo đức
Lịch sử tư tưởng nhân loại đã ghi nhận rất nhiều quan niệm khác nhau về
tự do và trách nhiệm. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, tự do
và trách nhiệm, được nhìn nhận dưới nhiều giác độ khác nhau như triết học,
đạo đức học, chính trị học, văn hóa học… Tuy nhiên, đa số các công trình
nghiên cứu về tự do, về trách nhiệm, cũng như tư tưởng nhìn nhận tự do và
trách nhiệm trong mối liên hệ biện chứng, chỉ mới được bắt đầu từ những năm
90 của thế kỷ XX. Những công trình này bao gồm những cuốn sách, các bài
báo trên tạp chí, các đề tài nghiên cứu... Chúng ta có thể kể đến những công
trình như:
E. Fromm - một nhà triết học Mỹ trong tác phẩm "Trốn thoát tự do"
(Begstvo ot svobody) [53], được dịch giả Bùi Thanh Châu dịch sang Tiếng
Việt, đã phân tích sâu sắc mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm ở các thời
đại lịch sử khác nhau, nhất là trong thời kỳ chuyển biến từ xã hội phong kiến
15. 10
sang xã hội tư bản. Theo tác giả, sở dĩ người ta phải chạy trốn tự do, không
dám đón nhận tự do bởi càng tự do bao nhiêu, thì trách nhiệm của con người
với chính bản thân mình cũng như với xã hội cũng từ đó mà tăng theo [53,
tr.124-132]. Mà dám chịu trách nhiệm là năng lực rất khiếm khuyết ở con
người đại chúng, phần lớn nhân loại không có năng lực này, họ đã quen sống
dựa dẫm, ỷ lại, đã có người khác chỉ bảo phải làm gì, nghĩ hộ mình rồi, phải
trái, đúng sai đã có người khác, họ không phải chịu trách nhiệm gì nữa. Trong
tác phẩm này, E. Fromm không đưa ra quan niệm của mình về tự do, hay
không đi sâu theo hướng phân tích thế nào là tự do nhưng đã phần nào đó đề
cập đến một trong những khía cạnh của quan niệm về trách nhiệm đó là vấn
đề “chịu trách nhiệm”. “Chạy trốn tự do” là tài liệu quý giúp tác giả luận án
có cái nhìn sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm, khi nghiên
cứu mối quan hệ giữ chúng cần đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của một
thời đại, một mối quan hệ… thì mới có thể nghiên cứu được.
K. Jaspers trong tác phẩm "Mục đích và sứ mệnh của lịch sử" [88], khi
bàn về tự do tác giả đã cho rằng: “Tự do là tài sản quý giá nhất; nó không bao
giờ tự đến và không được giữ lại một cách tự động. Con người chỉ có thể giữ
gìn tự do ở nơi mà nó được ý thức và con người cảm nhận thấy phải có trách
nhiệm về nó” [88, tr.166] và khi đó, vấn đề trách nhiệm đối với tự do được
coi là một trong những vấn đề “thầm kín” nhất. Trong tác phẩm, tác giả đã
một lần nữa khẳng định giữa tự do và trách nhiệm có mối liên hệ mật thiết với
nhau, muốn có được và giữ được tự do thì phải có trách nhiệm, nhưng chưa
chỉ rõ cụ thể mối liên hệ ấy như thế nào. Đây là vấn đề mà luận án sẽ hướng
đến làm rõ hơn.
E.V. Zolotukhiana - Abolina bàn về phạm trù tự do và trách nhiệm trên
quan điểm là cần phân biệt rõ ràng các khía cạnh của tự do và trách nhiệm
như: bản chất tự do; vấn đề lựa chọn tự do; con người có trách nhiệm trước ai
và cho cái gì?; vấn đề tự trị của đạo đức - phán xử thế nào về hành vi thực
16. 11
hiện tự do?... là những vấn đề mà tác giả đặt ra và giải quyết trong tác phẩm
“Đạo đức học hiện đại: cội nguồn và những vấn đề” [54], được Trung tâm
xuất bản “Mart” phát hành bằng tiếng Nga. Tác phẩm đã được nhóm các dịch
giả chuyển ngữ sang tiếng Việt để làm tài liệu tham khảo. Đây là tài liệu quý
giá giúp tác giả luận án có cái nhìn toàn diện hơn về khái niệm tự do và khái
niệm trách nhiệm. Đặc biệt, tác phẩm bàn về khái niệm trách nhiệm dưới
quan điểm đạo đức học khá sâu sắc và cụ thể. Khái niệm trách nhiệm được
E.V. Zolotukhiana - Abolina bàn đến ở tầng cao nhất của nó là trách nhiệm
đạo đức. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm chưa được tác giả
phân tích rõ. Tự do và trách nhiệm được tác giả nhìn nhận dưới quan điểm
triết học hiện sinh là chủ yếu nên không tránh khỏi một số những hạn chế nhất
định. Luận án sẽ kế thừa và phân tích cụ thể mối quan hệ này.
John Stuart Mill, trong tác phẩm "Bàn về tự do" [87], đã đề cập đến khái
niệm tự do như là ranh giới giữa kiểm soát xã hội và độc lập cá nhân. Ông
xuất phát từ nhận định của Wilhelm Von Humboldt cho rằng: mục tiêu của
nhân loại là sự phát triển cao nhất và hài hòa nhất mọi năng lực của con
người, và cần có hai điều kiện - tự do và sự đa dạng của các tình huống - để
mục tiêu ấy có thể đạt được. Ông đưa ra các nguyên lý về tự do nhằm đạt được
sự hài hòa trong quan hệ giữa con người cá nhân và cộng đồng xã hội, hướng
tới mục tiêu phát triển. Và, tự do là điều mà tất thảy mọi người đều khao khát,
và phải đấu tranh hết sức để giành lấy nó. Như vậy, John Stuart Mill một lần
nữa đề cao vai trò của tự do đối với mỗi người, tự do như là điều kiện đầu tiên
cho sự phát triển nhưng tự do không tự dưng mà có. Là tác phẩm chuyên biệt
bàn về tự do nhưng tác giả không bàn về mối quan hệ giữa tự do và trách
nhiệm, mà John Stuart Mill luận bàn vấn đề theo hướng đặt tự do cá nhân trong
mối quan hệ với toàn bộ cộng đồng xã hội, chịu sự kiểm soát của xã hội. Như
vậy, tác giả gián tiếp khẳng định mối liên hệ giữa tự do và trách nhiệm là
không thể tách rời khi cá nhân tham gia vào các hoạt động xã hội.
17. 12
Trên cơ sở phân tích phạm trù nghĩa vụ đạo đức, tác giả Vũ Trọng Dung
trong "Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin" [43] đã bước đầu đề cập đến
phạm trù trách nhiệm. Dựa trên quan niệm của đạo đức học Mác - Lênin, tác
giả cho rằng nghĩa vụ đạo đức là “ý thức trách nhiệm của con người, là ý thức
cần phải làm và mong muốn làm, hành động tự giác vì lợi ích của người khác
và vì lợi ích của xã hội” [43, tr.197]. Xét ở phương diện đạo đức, đây cũng
được xem là một trong những khái niệm gần với khái niệm trách nhiệm mà
luận án quan tâm nghiên cứu.
Nguyễn Trần Bạt qua cuốn sách "Cội nguồn cảm hứng" [19], đã cho
chúng ta một cái nhìn khá mới mẻ, hiện đại mà sâu sắc về khái niệm tự do và
vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội. Tác giả cho rằng, cần phải định
nghĩa gần gũi hơn về tự do. Vì nếu định nghĩa tự do trong mối quan hệ với tất
yếu thì “nhiều khi con người không nhận ra cái tất yếu để hành động, do đó,
phần đông con người vẫn không hiểu về tự do và giá trị cao quý của tự do”
[19, tr.13]. Kết lại, tác giả định nghĩa tự do như sau: “Tự do là quá trình dịch
chuyển song song của ý nghĩ và hành vi” [19, tr.15]. Chỉ có sự dịch chuyển
song song đó thì con người mới chủ động trong hành động của mình. Tác giả
cuốn sách có tư tưởng gần với với tư tưởng của John Stuart Mill trong tác
phẩm “Bàn về tự do” khi cho rằng tự do là điều kiện đầu tiên, là tiền đề cho
sự phát triển. Tác giả cũng đã đưa ra quan niệm của riêng mình về tự do sau
khi khảo cứu các quan niệm về tự do trong lịch sử. Đây là tác phẩm quan
trọng, luận án có thể tham khảo khi tìm hiểu về lịch sử của khái niệm tự do.
Từ việc khảo cứu các quan niệm về tự do theo dòng lịch sử triết học
phương Tây (từ triết học cổ đại đến triết học Mác - Lênin) thông qua một số
tác giả tiêu biểu, tác giả Vương Thị Bích Thủy trong công trình "Tất yếu và tự
do - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" [143] đã nêu cách hiểu của mình về
phạm trù tự do trong mối quan hệ với cái tất yếu. Tác giả đã xem xét quan
niệm về tự do dưới hai khía cạnh, thứ nhất với tư cách là một phạm trù triết
18. 13
học và thứ hai với tư cách là một phạm trù chính trị - xã hội. Thông qua đó,
tác giả khẳng định, tự do xuất phát từ tính tất yếu, nảy sinh dưới sự quy định
của tất yếu. Cuốn sách tuy không bàn về mối quan hệ giữa tự do và trách
nhiệm, nhưng thông qua cách triển khai nghiên cứu của tác giả về mối quan
hệ giữa tự do và tất yếu sẽ là một tham khảo quý giá cho tác giả luận án triển
khai nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm (đặc biệt là tự do
trong mối quan hệ với trách nhiệm đạo đức). Khái niệm tự do cũng được tác
giả Vương Bích Thủy khảo cứu theo dòng lịch sử triết học khá toàn diện. Đó
chính là cơ sở lý luận giúp tác giả luận án dễ dàng hơn khi tiếp cận và đưa ra
quan điểm của mình về tự do.
Tác giả Đinh Ngọc Thạch trong bài viết “Về “tự do” với tư cách phạm
trù triết học xã hội” [131], cũng chỉ ra rằng “tự do là giá trị thiêng liêng và là
đặc tính bản chất của con người, là cơ sở bản thể luận của đời sống. Phạm trù
“Tự do” dùng để chỉ nhu cầu và khả năng của con người trong những hoạt
động phù hợp với những lợi ích và mục tiêu của mình, không cần sự can thiệp
hay cản trở từ bên ngoài” [131]. Hơn thế nữa, tự do còn là “một phạm trù xã
hội, tự do chỉ được bàn đến trong xã hội, trong hệ thống các quan hệ giữa
người với người”. Do đó, tác giả đã nhìn nhận “tự do” là một phạm trù lịch sử
và nó là sản phẩm được nhận thức và lý giải theo tiến trình phát triển của lịch
sử nhân loại. Tác giả khảo cứu các quan niệm của các nhà triết học từ cổ đại
đến hiện đại và phần nào đó lý giải nó dựa vào đặc điểm thời đại khi quan niệm
ấy ra đời. Tác giả dựa trên quan niệm của triết học Mác - Lênin về tự do và
khẳng định tự do chân chính của con người bị chi phối bởi cả hai yếu tố quyền
lợi và nghĩa vụ. Theo đó, không có tự do tuyệt đối mà tự do của con người luôn
bị giới hạn bởi các yếu tố của đời sống xã hội. Có thể khẳng định, bài viết là
một tư liệu quý giá giúp tác giả luận án có cái nhìn khái quát về quan niệm tự
do trong lịch sử triết học. Đặc biệt, cần chú ý quan điểm khẳng định tự do của
con người là không tuyệt đối mà bài viết đã khảo cứu và nhấn mạnh.
19. 14
Tác giả Vũ Thị Thu Lan trong bài tạp chí “Vấn đề giá trị đạo đức trong
đạo đức học Cantơ” [97], cho rằng, nếu triết học lý luận của Cantơ hướng tới
việc xác định năng lực nhận thức của con người và trả lời cho câu hỏi: “Tôi
có thể biết được cái gì”, thì triết học thực tiễn của ông nghiên cứu các nguyên
lý hoạt động thực tiễn của con người trong xã hội và giải đáp tiếp các câu hỏi:
“Tôi cần phải làm gì”, “Tôi có thể hy vọng gì”. Với cách tiếp cận đó, Cantơ
đã dành nhiều tâm huyết để xây dựng một học thuyết tập trung luận chứng
cho tính hợp pháp và các giá trị của đạo đức.
Hướng tới việc giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống và hoạt
động thực tiễn của con người, khi xây dựng đạo đức học của mình, Cantơ đã
đưa ra một quan niệm độc đáo về giá trị đạo đức để trên cơ sở đó, đánh giá
hành vi ứng xử của con người. Khác với các nhà triết học trước ông và đương
thời với ông, Cantơ không gắn giá trị đạo đức với hạnh phúc, tức là với sự
thoả mãn các nhu cầu hưởng thụ cá nhân. Với ông, hành vi đạo đức là hành vi
thực hiện “bổn phận vì bổn phận”. Coi thực hiện bổn phận đạo đức là sự tuân
thủ “mệnh lệnh tuyệt đối”. Khi phân tích giá trị đạo đức theo quan niệm của
Cantơ, tác giả đã chỉ ra việc giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống
và thực tiễn của con người, chính điều đó đã đưa tới những giá trị đạo đức, và
phải dựa trên đó để đánh giá hành vi, ứng xử của con người. Câu hỏi “tôi cần
phải làm gì để hành vi của tôi được đánh giá là hành vi đạo đức?” đã đề cập
đến khía cạnh trách nhiệm của con người đối với cuộc sống xung quanh mình,
với xã hội.
Trong bài viết “Tự do và trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh” của
Đỗ Minh Hợp [72] cho rằng đạo đức “càng trở nên đặc biệt cấp bách trong
bối cảnh hiện nay, khi loài người đang đối mặt với vô số nguy cơ đe doạ bản
thân sự tồn tại của họ, khi những người có lương tâm đang cùng nhau đi tìm
một thứ đạo đức thực sự nhân văn, có khả năng đảm bảo sự phát triển thực sự
có tính người của mỗi người và của toàn thể cộng đồng nhân loại” [72]. Do
20. 15
vậy, trên cơ sở làm rõ tự do và trách nhiệm với tư cách là những phạm trù đạo
đức cơ bản trong triết học hiện sinh qua việc làm rõ quan niệm của các đại
diện tiêu biểu như E. Husserl, M. Heidegger, K. Jaspers, J.P. Sartre và A.
Camus, tác giả bài viết đã đưa ra những ý kiến đánh giá xác đáng về đóng góp
của các nhà triết học hiện sinh trong lĩnh vực đạo đức học.
Một trong những nhận định khá quan trọng của tác giả là: “nhân loại tự
do đang đứng trước trách nhiệm về tương lai của mình, tức là về các thế hệ
tương lai” [72] và “tự do và trách nhiệm (đối với tự do) là hai hiện sinh thể
quan trọng nhất. Trách nhiệm không phải là sự sao chép lại tự do, mà là luận
điểm cơ bản thứ hai của triết học hiện sinh” [72]. Xét về mặt triết học, tác giả
cho rằng trách nhiệm đối với tự do là cái quy định trách nhiệm đối với cả quá
khứ, lẫn hiện tại và tương lai.
Bài viết trên của tác giả Đỗ Minh Hợp là một trong số không nhiều các
nghiên cứu về mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm trong lịch sử triết học -
đạo đức học, giúp tác giả luận án có cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này. Tuy
nhiên, đúng như tiêu đề của bài viết, tác giả chỉ mới nghiên cứu “tự do và
trách nhiệm trong đạo đức học hiện sinh”, mối quan hệ giữa tự do và trách
nhiệm ở các giai đoạn khác của lịch sử đạo đức học cần được bổ sung nghiên
cứu. Đây là vấn đề mà luận án sẽ tiếp tục làm rõ.
Tác giả Nguyễn Văn Thức, trong bài tạp chí “Vai trò của nhà nước và
vấn đề trách nhiệm xã hội” [141], đã phân tích những nội dung cơ bản của
khái niệm trách nhiệm xã hội cũng như vai trò của nhà nước đối với việc tổ
chức và thực thi trách nhiệm xã hội. Tác giả cho rằng:
Trách nhiệm được hiểu là điều phải làm, phải gánh vác, hoặc phải nhận
lấy về mình. Trách nhiệm thuộc phạm trù đạo đức học và luật học, phản ánh
thái độ xã hội đặc biệt và thái độ đạo đức - pháp luật của cá nhân đối với xã
hội (đối với nhân loại nói chung); thái độ này biểu thị sự hoàn thành nghĩa vụ
đạo đức của mình và các tiêu chuẩn pháp luật [141].
21. 16
Tác giả bài viết khẳng định: Trong các học thuyết về đạo đức và pháp
quyền, người ta thường xem xét trách nhiệm trong mối liên hệ với tự do.
Nhưng, ngoài chủ nghĩa Mác, vấn đề đó thường được giải quyết một cách
trừu tượng và lệ thuộc vào việc trả lời câu hỏi: nói chung, liệu có thể coi con
người là tự do trong những hành động của mình hay không. Trong chủ nghĩa
Mác, vấn đề trách nhiệm mang tính lịch sử - cụ thể và được giải quyết trên cơ
sở phân tích mức độ tự do hiện thực của con người trong những điều kiện lịch
sử nhất định.
Bài viết cũng phần nào đưa ra giải pháp để con người trong xã hội có
được tự do đó là: xây dựng một xã hội không có bóc lột, không có những giai
cấp thù địch, việc áp dụng nguyên lý tự giác một cách có kế hoạch vào đời
sống xã hội, việc làm cho quần chúng nhân dân quen với việc tự quản lý xã
hội và sáng tạo lịch sử sẽ tăng cường mạnh mẽ mức độ tự do của cá nhân và
đồng thời, tăng cường trách nhiệm xã hội và đạo đức của mỗi người. Tác giả
bài viết cho rằng: trách nhiệm của cá nhân không chỉ bao hàm những hành vi
đã làm, mà cả sự nhận thức của cá nhân về lợi ích của xã hội nói chung, nghĩa
là xét đến cùng, nhận thức được các quy luật phát triển của lịch sử.
Tuy không phải là bài viết về vấn đề tự do và trách nhiệm theo quan
điểm triết học hay đạo đức học, nhưng thông quan việc tìm hiểu khái niệm
trách nhiệm xã hội, nội dung của bài viết trên phần nào là cơ sở lý luận để
luận án khẳng định mối quan hệ không tách rời giữa tự do và trách nhiệm của
con người trong xã hội. Bài viết cũng phần nào gợi mở giải pháp để phát triển
hài hòa giữa tự do và trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm đạo đức của cá
nhân trong hoạt động khoa học, công nghệ - vấn đề mà luận án quan tâm.
Tác giả Nguyễn Văn Phúc trong bài viết “Tự do và trách nhiệm trong
hoạt động của con người” [114] đã bước đầu khẳng định quan hệ giữa tự do
và trách nhiệm như hai phương diện của một vấn đề: tự do là hành động thực
hiện trách nhiệm một cách tự giác, tự nguyện; còn trách nhiệm là hành động
22. 17
đáp ứng và đảm bảo cho tự do của con người. Theo đó, chỉ khi có tự do con
người mới thực sự có trách nhiệm, vì trách nhiệm của con người trước bản
thân mình, trước những hành động được lựa chọn một cách tự do. Ngược lại,
vì hành động của con người bị quy định bởi hoàn cảnh, bởi những yếu tố bên
ngoài, nên tự do của con người cũng chỉ có giới hạn; đồng thời con người
cũng ít trách nhiệm đi, vì con người không phải chịu trách nhiệm về những
hành động mà họ không được lựa chọn một cách tự do.
Xem xét các quan điểm về tự do và trách nhiệm trong lịch sử triết học,
tác giả bài viết đã điểm lại các quan điểm cơ bản của các nhà triết học về vấn
đề này. Bài viết mở ra một vấn đề: trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự tự
do và trách nhiệm của con người ngày càng được mở rộng và nâng cao, và nó
cũng đang chịu những thách thức nghiêm trọng từ quá trình này. Do đó, trách
nhiệm của con người đối với nhân loại, xã hội trong việc giải quyết những
vấn đề toàn cầu là con đường tất yếu để phát triển tự do của con người.
Bài viết trên của tác giả Nguyễn Văn Phúc tuy không nghiên cứu sâu về
các quan điểm tự do, trách nhiệm, hay mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm
nhưng vẫn là tài liệu quý giá có cách tiếp cận về hệ vấn đề này theo phương
pháp lịch sử - logic khi khảo cứu các quan niệm về tự do trong lịch sử triết
học - một cách tiếp cận khá mới trong nghiên cứu vấn đề này. Mối quan hệ
giữa tự do và trách nhiệm tuy chưa được bàn đủ sâu nhưng đó là những gợi
mở giúp luận án nghiên cứu tiếp vấn đề này. Phần kết của nội dung bài viết
trên đã thôi thúc tác giả luận án đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do và
trách nhiệm trong một lĩnh vực hoạt động của con người là hoạt động khoa
học, công nghệ.
Tác giả Trần Đức Cường trong bài viết “Công bằng xã hội, trách nhiệm
xã hội và đoàn kết xã hội trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” [39] cho rằng:
Trách nhiệm, đó là năng lực của con người ý thức được những hậu quả
do hành động của mình đưa lại. Cụ thể hơn, đó là năng lực xác định được lợi
23. 18
ích hoặc tác hại đối với người khác, đối với xã hội của hành động. Trong
trường hợp như vậy, chủ thể của hành động hoạt động có trách nhiệm làm cho
hành động hoặc hoạt động của mình có ích đối với xã hội. Trách nhiệm cũng
thể hiện trong trường hợp những hoạt động không phù hợp với lợi ích xã hội,
chẳng hạn, với trật tự xã hội, với pháp chế hoặc đạo đức xã hội. Trong trường
hợp này, chủ thể phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại đối với lợi ích xã
hội do hoạt động của mình gây ra. Như thế, trách nhiệm bao hàm cả quyền
của xã hội đòi hỏi hoặc trừng phạt các thành viên của mình tuỳ theo hành vi
của họ. Trách nhiệm không chỉ bao hàm đòi hỏi của xã hội đối với cá nhân,
mà còn bao hàm đòi hỏi của cá nhân, tức là quyền của cá nhân, đối với xã hội.
Cụ thể hơn, nếu cá nhân có nghĩa vụ, có trách nhiệm đối với xã hội thì xã hội
cũng có nghĩa vụ, có trách nhiệm đối với cá nhân [39].
Do đó, trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
mọi quốc gia bằng cách này hay cách khác, cũng đều phải xem xét và tính đến
các vấn đề về công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội.
Theo Nguyễn Thị Lan Hương trong bài tạp chí “Trách nhiệm môi
trường - Một phương diện của trách nhiệm xã hội” [77], trách nhiệm môi
trường của con người ngày càng quan trọng không kém so với trách nhiệm
của con người đối với con người. Con người phải hành động khôn ngoan để
không làm tổn hại đến môi trường vì lợi ích của chính con người và các sinh
thể khác. Trong bài viết này, tác giả nêu cách hiểu cơ bản nhất về thuật ngữ
“trách nhiệm” nói chung và phân biệt nó với thuật ngữ “trách nhiệm xã hội”.
Bài viết đã phần nào nói đến khái niệm trách nhiệm trước khi phân tích
trách nhiệm môi trường. Tác giả cho rằng, thông thường, nói đến trách nhiệm
là nói đến mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng. Thực thi trách nhiệm là
cách thức để con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho lợi ích của cá
nhân phù hợp với lợi ích của cộng đồng, hoặc ít nhất cũng không làm phương
hại đến lợi ích của các cá nhân khác hay toàn cộng đồng. Bên cạnh đó, nói
24. 19
đến trách nhiệm là nói đến mối quan hệ cụ thể, xác định. Nó trả lời cho câu
hỏi: chủ thể chịu trách nhiệm là ai và chịu trách nhiệm trước ai, trước cái gì
(đối tượng mà nó tác động)?
Có thể kể thêm một công trình nữa nghiên cứu về tự do là tập tiểu luận
"Suy tưởng" của Nguyễn Trần Bạt [18], trong đó tác giả đề cập và luận giải về
tự do, tuy nhiên tác giả chủ yếu đi sâu vào phân tích vai trò của tự do với con
người, xã hội, tự do sinh ra con người, mang lại sự thức tỉnh cho các dân tộc.
Ngoài ra Suy tưởng còn đề cập đến tự do như một quyền của con người nhưng
không đi sâu phân tích chúng, mà chủ yếu luận giải vấn đề bảo vệ quyền con
người ở Việt Nam thông qua các suy luận biện chứng.
Luận án tiến sĩ triết học của tác giả Nguyễn Công Chiến với tiêu đề
"Mối quan hệ biện chứng giữa tất yếu và tự do trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn" [31] đã đi sâu vào khai thác mối quan hệ biện chứng
giữa tự do và tất yếu trong lĩnh vực nhận thức và hoạt động thực tiễn, nhưng
chưa phân tích làm rõ phạm trù tự do với tư cách là một quyền dân sự của
con người.
1.1.2. Những nghiên cứu lý luận về hoạt động khoa học, công nghệ
Tác giả Phan Xuân Dũng trong bài viết “Đẩy mạnh hoạt động khoa học
và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
[44] cho rằng, khoa học và công nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng và an ninh, tạo ra nhiều sản phẩm
hàng hóa chất lượng cao, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân. Tuy nhiên, theo tác giả khái niệm và nội hàm của khoa học và công
nghệ hiểu chưa được đầy đủ nên có không ít nhiệm vụ khoa học và công
nghệ được phê duyệt không phải là hoạt động khoa học, công nghệ; còn sự
nhầm lẫn giữa khái niệm công nghiệp với công nghệ nên đã sử dụng ngân
sách nhà nước dành cho khoa học và công nghệ vào phát triển công nghiệp;
nội dung chi nhiệm vụ thường xuyên, nhiệm vụ giải pháp cũng đưa vào nội
25. 20
dung chi cho các hoạt động khoa học, công nghệ. So với yêu cầu phát triển,
khoa học và công nghệ nước ta còn chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy
đất nước phát triển, chưa gắn kết chặt chẽ với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội.
Khi phân tích yếu tố tiến bộ công nghệ ảnh hưởng như thế nào đến việc
hình thành giá trị và chuẩn mực đạo đức mới, tác giả Nguyễn Văn Phúc nhấn
mạnh quan điểm của mình về công nghệ trong bài viết “Về tính quy luật của
sự hình thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới” như sau: Công nghệ
“không chỉ là các phương tiện vật chất, thiết bị kỹ thuật và gắn liền với chúng
là phương thức, quy trình vận hành, mà còn bao hàm những yêu cầu tương
ứng về tổ chức, thiết chế quản lý, điều phối, tiếp thị và sau cùng là con người
với kỹ năng, năng lực vận hành công nghệ” [112]. Từ đó, những thành tố của
công nghệ, đòi hỏi và tạo điều kiện cho sự phát triển lý trí của con người.
Quan điểm này sẽ bổ sung cho luận án một cách nhìn toàn diện hơn về khái
niệm công nghệ.
Tác giả Nguyễn Thái Sơn trong bài "Quan hệ giữa cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại đối với con người hiện nay" [128], đã cho rằng, khoa học
là hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội, tư duy, tích lũy trong quá trình lịch sử.
Khoa học là cuộc tổng kết sự phát triển lâu dài của tri thức. Mục đích của
khoa học là phát hiện ra những quy luật khách quan của các đối tượng và giải
thích chúng. Khoa học là bộ phận quan trọng nhất của văn hóa tinh thần, là
hiện tượng mang tính lịch sử, xã hội xuất hiện trong đời sống con người, là
một hình thái ý thức xã hội quan trọng. Còn công nghệ là tổng thể nói chung
các phương pháp gia công, chế tạo, làm thay đổi trạng thái, tính chất, hình
dáng nguyên vật liệu hay bán thành phẩm sử dụng trong quá trình sản xuất để
tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.
Tác giả của luận án Tiến sĩ Triết học nêu trên đã lập luận, giữa khoa học
và công nghệ có nhiều đặc điểm khác nhau, song chúng cũng có quan hệ rất
26. 21
chặt chẽ. Có thể hình dung cụm thuật ngữ khoa học - công nghệ chính là sự
tương tác, xâm nhập, gắn bó, hòa trộn lẫn nhau giữa khoa học và công nghệ,
thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.
Đặc biệt, khái niệm hoạt động khoa học, công nghệ, được "Luật khoa học
và công nghệ Việt Nam" [122] trực tiếp nêu ra. Luật này là sự bổ sung, phát
triển luật khoa học và công nghệ năm 2000, trong luật khoa học và công nghệ
Việt Nam năm 2013 các thuật ngữ như: khoa học, công nghệ, nghiên cứu khoa
học, phát triển công nghệ… được giải thích ngắn gọn, cơ bản nhất. Đặc biệt,
hoạt động khoa học, công nghệ cũng được quy định gồm những hoạt động nào.
Đây cũng là một căn cứ để luận án tham khảo khi tìm hiểu về khái niệm hoạt
động khoa học, công nghệ là hoạt động như thế nào?
Trong "Hướng dẫn điền phiếu thu thập thông tin về nghiên cứu và phát
triển năm 2012" của Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc gia thuộc
Bộ Khoa học và Công nghệ [22], có định nghĩa về “nghiên cứu và phát
triển”, qua đó hướng dẫn này đã gián tiếp đưa ra định nghĩa về hoạt động
khoa học, công nghệ là: những hoạt động có tính hệ thống liên quan chặt chẽ
với việc tạo lập, thúc đẩy, truyền bá và ứng dụng tri thức khoa học và công
nghệ trong mọi lĩnh vực khoa học và công nghệ. Các lĩnh vực này bao gồm
các hoạt động như nghiên cứu và phát triển, giáo dục và đào tạo về khoa học
và công nghệ và các dịch vụ khoa học và công nghệ. Cách hiểu này khá
rộng, luận án sẽ kế thừa để đi đến cách hiểu về hoạt động khoa học, công
nghệ cụ thể hơn.
1.1.3. Những nghiên cứu về mối quan hệ giữa đạo đức và khoa học,
công nghệ
Tập thể tác giả Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong "Giáo
trình đạo đức học" [68] nhấn mạnh rằng, bản thân khoa học đã chứa đựng
những lý tưởng đạo đức cao cả. Chính những lý tưởng đạo đức đã đóng vai
27. 22
trò không nhỏ làm thành một động lực của sự phát triển khoa học và công
nghệ. Nhưng khi nhân loại bước vào cuộc cách mạng khoa học, công nghệ lần
thứ ba thì giữa tiến Bộ Khoa học và tiến bộ đạo đức lại đặt ra nhiều mâu
thuẫn, thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học. Việc giải quyết mâu thuẫn
ấy chỉ có thể diễn ra trong điều kiện tìm ra được nguyên nhân, nguồn gốc của
những bất cập để có thể điều chỉnh, giải quyết chúng vì sự phát triển chung
của xã hội loài người.
Trong bài viết bài viết “Khoa học, công nghệ và đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trường” của Nguyễn Đình Hòa [64] cho rằng các nước chậm phát
triển không thể không tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó khoa
học và công nghệ có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, những tác
động của nền kinh tế thị trường đến hoạt động khoa học, kỹ thuật và công
nghệ bao gồm cả những yếu tố tích cực và tiêu cực. Những tác động tiêu cực
đối với sự phát triển xã hội, trong đó có lĩnh vực đạo đức là không thể tránh
khỏi. Trong mối quan hệ đó, “khoa học, kỹ thuật và công nghệ cùng với
những thành tựu của nó luôn là cơ sở, là nền tảng cho sự hình thành, phát
triển các giá trị đạo đức thực sự, chân chính của con người” và “sự phát triển
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cùng với việc nó đang
từng bước trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp không chỉ làm thay đổi vị trí
của con người trong quá trình sản xuất, mà hơn thế, còn làm thay đổi căn bản
chính nền sản xuất xã hội. Do đó, khoa học, công nghệ cũng tác động mạnh
mẽ đến sự phát triển của đạo đức, làm thay đổi thang giá trị và những nguyên
tắc chi phối hoạt động của con người, của xã hội” [64]. Bài viết không trực
tiếp bàn về mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động
khoa học, công nghệ. Nhưng, bài viết đã gián tiếp minh chứng cho luận án
rằng mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa
học, công nghệ là mối quan hệ có cơ sở lý luận từ quan hệ giữa khoa học,
công nghệ và đạo đức.
28. 23
Tác giả Nguyễn Văn Phúc trong bài viết “Về tính quy luật của sự hình
thành hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức mới” đã giới thiệu ở trên, còn phân
tích những nhân tố tác động đến quá trình hình thành hệ giá trị và chuẩn mực
đạo đức mới. Trong đó, nhân tố tiến bộ công nghệ được tác giả nhìn nhận có
vai trò lớn trong sự nghiệp hiện đại hóa đất nước. Dưới tác động của kinh tế
thị trường hiện nay, tiến bộ công nghệ vừa tạo điều kiện để các giá trị đạo đức
truyền thống phát huy, vừa đặt ra những thách thức không nhỏ đối với chúng.
Quan điểm của tác giả đã gián tiếp khẳng định quan hệ giữa đạo đức và khoa
học, công nghệ khi đi vào thực tiễn có nhiều vấn đề cần quan tâm [112]. Bài
viết củng cố phần nào cơ sở lý luận để tác giả luận án nghiên cứu vấn đề tự do
và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ. Bởi vì, tiến bộ
công nghệ chính là kết quả hoạt động lâu dài của hoạt động khoa học, công
nghệ. Còn tự do và trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm đạo đức là hệ vấn đề
mà đạo đức không thể không quan tâm.
Cũng tác giả Nguyễn Văn Phúc trong bài “Quan niệm của C. Mác về
đạo đức và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp xây dựng nền đạo đức mới ở Việt
Nam hiện nay” [113] đã giới thiệu ở trên, còn cho rằng tự do là những phạm
trù thuộc đạo đức, do vậy, tác giả đã phân tích quan điểm của C. Mác về đạo
đức, ẩn chứa đằng sau đó là vấn đề xây dựng những hệ thống đạo đức. Tác
giả chỉ ra rằng, theo C. Mác tiến bộ đạo đức không trùng khít với sự tăng
trưởng kinh tế - kỹ thuật. Sự tăng trưởng kinh tế - kỹ thuật trong những điều
kiện nhất định có thể dẫn đến sự thoái bộ trên một số phương diện nào đó của
đạo đức. Do vậy, trước những yêu cầu của hội nhập quốc tế, thúc đẩy mạnh
mẽ việc áp dụng tiến Bộ Khoa học - công nghệ, nếu không lường trước chúng
ta sẽ phải đối mặt với những nguy cơ suy thoái đạo đức. Đó là “sự gia tăng
tính vô cảm, tính ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, tệ sùng bái vật chất, chủ nghĩa hư
vô về giá trị, thói phô trương, hãnh tiến,… trong điều kiện kinh tế thị trường
29. 24
gắn liền với việc đẩy nhanh áp dụng các tiến bộ công nghệ” [113]. Luận án
hoàn toàn đồng ý với nhận định này của tác giả.
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NỘI DUNG CỦA VẤN ĐỀ
TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC,
CÔNG NGHỆ
Vấn đề tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công
nghệ nói riêng và hoạt động lao động, sản xuất của con người nói chung đang
được sự quan tâm của toàn xã hội. Nhìn nhận tầm quan trọng của khoa học,
công nghệ trong đời sống xã hội, nhờ có những tiến Bộ Khoa học, công nghệ
mà con người ngày càng hiểu được thế giới vô hạn và từng bước giải phóng
sức lao động, chuyển từ lao động chân tay sang sử dụng các phương tiện máy
móc, lao động trí óc… Các ngành khoa học cũng đã cung cấp cho con người
những tri thức mới như từng bước khám phá vũ trụ, khám phá thế giới tự
nhiên, cung cấp kiến thức hữu ích cho con người. Trong hoạt động khoa học,
công nghệ, vấn đề quan hệ giữa tự do và trách nhiệm đạo đức cũng đã được
quan tâm nghiên cứu trong các công trình khác nhau mà tiêu biểu nhất có thể
kể đến một số công trình như:
Hơn nửa thế kỷ trước tác giả Thomas Kuhn trong cuốn sách "Cấu trúc
các cuộc cách mạng khoa học" [138], đã phân tích cấu trúc của các cuộc
cách mạng khoa học, cấu trúc các cộng đồng, khoa học và sự phát triển của
khoa học, đồng thời chứng minh các lý thuyết khoa học trong lịch sử thường
không bị loại bỏ ngay khi chúng bộc lộ sai sót, chúng chỉ được thay thế khi
có các lý thuyết mới đúng hơn xuất hiện. Theo Kuhn, nhìn chung có thể chia
sự phát triển của khoa học ra làm ba thời kỳ: thời kỳ tiền khoa học, thời kỳ
“khoa học chuẩn định”, thời kỳ “khủng hoảng” (khi những bất thường trong
khoa học được tích tụ ngày càng nhiều). Vào thời điểm này, một “mẫu hình
mới” sẽ ra đời và được chấp nhận. Đó chính là “cách mạng khoa học”. Có
nghĩa là Kuhn muốn chứng minh cách mạng khoa học là điểm gián đoạn
30. 25
trong sự phát triển liên tục của khoa học. Dựa vào cách lập luận của Kuhn,
có thể phần nào lý giải được sự ra đời của cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại - mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển vượt bậc của khoa học và
công nghệ.
Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Việt Nam ra mắt bạn đọc cuốn
"Khoa học và công nghệ thế giới - Kinh nghiệm và định hướng chiến lược"
[20]. Cuốn sách này đã nêu rõ những nguyên nhân thành bại của các nước
trong quá trình phát triển những thập niên gần đây, cũng như những quyết
tâm và nỗ lực của mỗi nước trong việc đẩy mạnh phát triển khoa học và
công nghệ vào thập niên đầu của thế kỷ mới. Các thành tựu đạt được của hầu
hết các nước có nền kinh tế phát triển nhờ đầu tư cho phát triển khoa học
cũng được đề cập trong cuốn sách trên. Các thành tựu đó như là minh chứng
cho tự do của con người trong hoạt động khoa học, công nghệ. Bởi vậy,
cuốn sách là tài liệu quan trọng để tác giả luận án có những số liệu sát thực
cho thực trạng về tự do trong hoạt động khoa học, công nghệ trên thế giới,
cũng như ở Việt Nam.
Trong tác phẩm "Tất yếu và tự do - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"
[143] (đã được đề cập ở mục 1.1), tác giả Vương Thị Bích Thủy cũng chỉ ra
rằng chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn con người mới có tự do. Bên cạnh
đó, tác giả cũng giới thiệu một số vấn đề về nhận thức và vận dụng quan điểm
của triết học Mác - Lênin về tất yếu và tự do trong công cuộc đổi mới ở đất
nước ta hiện nay. Điều này được thực hiện trong ba nội dung cơ bản là: tính
tất yếu và tự do trong việc lựa chọn con đường phát triển của đất nước; trong
việc phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại và quá trình
dân chủ hóa đời sống xã hội. Tác phẩm là gợi ý sâu sắc để luận án đưa ra hệ
giải pháp cho vấn đề nghiên cứu của mình, khi kế thừa giải pháp của tác giả
nhằm làm cho con người có được tự do chân chính.
31. 26
Tác giả Nguyễn Văn Việt trong bài viết “Vấn đề định hướng giá trị đạo
đức trong nghiên cứu và ứng dụng y - sinh học hiện đại” [163], đã nêu rõ,
những kỹ thuật mới của y - sinh học hiện đại có thể giúp con người nâng cao
khả năng chẩn đoán y học đối với một số căn bệnh hiểm nghèo có liên quan
đến di truyền và sử dụng để tạo ra nhiều loại protein khác nhau. Thậm chí, với
kỹ thuật gen nhiều loại lương thực, thực phẩm giàu các loại vitamin thiết yếu
hoặc những loại cây chứa sẵn một số kháng sinh, vắcxin ngừa bệnh... Tác giả
cho rằng, chính trong những ứng dụng mang lại lợi ích to lớn đó, y - sinh học
hiện đại cũng đang tiềm ẩn bên trong nó những mạo hiểm không hề nhỏ.
Ngày nay, ngay cả những người ít quan tâm đến vấn đề môi trường cũng biết
rằng, môi trường sống của con người đang bị hủy hoại, trái đất đang nóng dần
lên, mưa axít, nước biển bị ô nhiễm, lỗ thủng tầng ôzôn, nạn khô hạn và bão
lụt… Song, không nhiều người biết được những hệ quả đó có thể xuất phát từ
những hiểm họa tiềm tàng trong các công nghệ y - sinh học hiện đại. Bài viết
như lời cảnh tỉnh cho con người về những hậu quả của sự phát triển khoa học,
công nghệ trong thời đại ngày nay, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học, công
nghệ khá nhạy cảm đó là lĩnh vực y - sinh học hiện đại. Qua đây, tác giản đã
gián tiếp nói lên giới hạn tự do của con người trong hoạt động khoa học, công
nghệ. Đúng như tiêu đề, bài viết đã nhấn mạnh đến việc định hướng giá trị
đạo đức trong một lĩnh vực hoạt động của khoa học, công nghệ. Đây là gợi ý
để luận án đưa ra giải pháp để nâng cao trách nhiệm đạo đức trong hoạt động
khoa học, công nghệ ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn trong bài “Kinh tế thị trường và trách
nhiệm xã hội” [35], đã chỉ rõ, một mặt, nền kinh tế thị trường là môi trường
thuận lợi cho việc tìm kiếm lợi nhuận. Mặt khác, ý thức trách nhiệm xã hội
trong nền kinh tế thị trường còn đặt ra bài toán việc tìm kiếm lợi nhuận làm
sao cho chính đáng, phù hợp với chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực đạo đức. Tác
giả cho rằng:
32. 27
Nền kinh tế thị trường ngày nay đã tỏ rõ những ưu thế của nó trong đời
sống hiện thực. Nó không những góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế,
thúc đẩy tiến Bộ Khoa học và Công nghệ, mà còn có khả năng tác động
nhiều mặt đến sự phát triển xã hội. Kinh tế thị trường kích thích khả năng
độc lập, sáng tạo, sự năng động và tính hiệu quả trong các hoạt động của con
người [35].
Tuy nhiên, không thể không nhận thấy rằng, dù đã có không ít những sự
thay đổi theo chiều hướng tích cực thì kinh tế thị trường, do tác động của quy
luật giá trị, quy luật cạnh tranh luôn dẫn đến sự phân hóa khắc nghiệt, cho nên
trong quá trình vận hành vẫn không thể hoàn toàn loại trừ sự tàn nhẫn, sự phi
nhân tính, sự vô trách nhiệm trong những tính toán ích kỷ hoặc sự vụ lợi vô
độ. Do đó, ý thức về trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường
hiện đại giúp cho người ta thấy rằng, thị trường thế giới rộng lớn đầy tiềm
năng trên phạm vi toàn cầu là môi trường vô cùng thuận lợi để tìm kiếm lợi
nhuận không chỉ cho riêng mình, mà còn cho cả quê hương, đất nước và cho
sự phát triển, sự tiến bộ chung của xã hội.
Tác giả Nguyễn Thái Sơn trong bài "Quan hệ giữa cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại đối với con người hiện nay" [128], cho rằng, con người
là chủ thể của cách mạng khoa học - công nghệ, tuy nhiên điều đó chưa có
nghĩa là con người làm chủ được khoa học, công nghệ hiện đại. Cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại cũng có tác động hết sức sâu sắc, rộng lớn đến
con người trên nhiều phương diện. Thứ nhất, nó tác động làm môi trường tự
nhiên biến đổi tích cực, hoặc tiêu cực; Thứ hai, sự tác động đó còn gây ra
những biến đổi đa chiều đối với hoàn cảnh xã hội như thúc đẩy nhanh nhịp
điệu sống, thay đổi ngành nghề, tạo ra sự phong phú, đa dạng trong phong
cách, lối sống, tạo ra nhiều mâu thuẫn xã hội và gây ra những biến động trong
hệ thống chính trị và kiến trúc thượng tầng; Thứ ba, ảnh hưởng đến đời sống
đạo đức, tinh thần của con người. Sự phát triển như vũ bão của khoa học,
33. 28
công nghệ, gây tâm lý hoang mang sợ hãi, tạo ra sự mất cân đối trong lĩnh
vực đạo đức, tinh thần, con người hoảng hốt chối bỏ trách nhiệm, chạy trốn
lịch sử, do đó đặt ra nhiều vấn để cần giải quyết.
Có thể nói, nhận định của tác giả Nguyễn Thái Sơn đã minh chứng
cho thực trạng loài người đã và đang đứng trước nhiều vấn đề đe dọa đến
tự do của chính mình trong cách mạng khoa học, công nghệ (nói rộng ra là
toàn bộ hoạt động khoa học, công nghệ). Đây là vấn đề mà luận án sẽ tiếp
tục làm rõ.
1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BÀI HỌC TRONG VIỆC KẾT
HỢP HÀI HÒA GIỮA TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT
ĐỘNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Hoạt động khoa học, công nghệ ở Việt Nam ngày càng gắn bó với sản
xuất và đời sống, nổi bật là việc tiếp thu, ứng dụng nhanh các tiến Bộ Khoa
học, công nghệ vào sản xuất và đời sống, góp phần quan trọng thúc đẩy sự
tiến bộ xã hội. Lời giải cho câu hỏi: làm thế nào để có thể kết hợp hài hòa
giữa phát triển tự do, đồng thời nâng cao trách nhiệm đạo đức của các chủ thể
trong hoạt động khoa học, công nghệ ở Việt Nam trong tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là cần thiết, nhưng, cho đến nay, tác giả luận án chưa tìm
thấy một nghiên cứu nào về vấn đề này ở Việt Nam. Có thể nói, đây là một
khoảng trống lớn cần nghiên cứu.
Để đưa ra bài học cụ thể đối với Việt Nam trong việc kết hợp hài hòa
giữa phát triển tự do và nâng cao trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa
học, công nghệ, tác giả luận án đã tìm hiểu một số nghiên cứu về những lĩnh
vực nhỏ là biểu hiện của hoạt động khoa học, công nghệ. Trong các nghiên
cứu này, các tác giả ít nhiều có bàn đến giải pháp để con người có trách nhiệm
hơn đối với các hậu quả do hoạt động khoa học, công nghệ của mình gây nên
như: giải pháp đối với vấn đề môi trường, đối với các vấn đề của công nghệ y
- sinh học…
34. 29
Theo tác giả Nguyễn Thị Lan Hương trong bài “Trách nhiệm môi trường
- một phương diện của trách nhiệm xã hội” [77], trách nhiệm môi trường của
con người ngày càng quan trọng không thua kém trách nhiệm của con người
đối với con người. Con người phải hành động khôn ngoan để không làm tổn
hại đến môi trường vì lợi ích của chính con người và các sinh thể khác. Ý
thức được vấn đề này, trong mấy chục năm qua các hội nghị thượng đỉnh về
môi trường ở cấp độ toàn cầu đã diễn ra thường xuyên và tập trung bàn đến
những vấn đề môi trường cấp bách nhất. Mặc dù còn những điểm bất đồng
hay chưa nhất trí tuyệt đối, song nỗ lực trên đã cho thấy sự cố gắng rất lớn
của nhân loại đối với các vấn đề môi trường toàn cầu.
Tác giả Phạm Văn Đức trong bài viết “Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách” [52], đã
nhìn nhận trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trên khía cạnh của sự phát
triển bền vững. Đó là:
Sự phát triển bảo đảm tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng một cách
hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ được môi trường tự nhiên nhằm vừa
có thể thỏa mãn được nhu cầu của thế hệ hôm nay, vừa không làm ảnh hưởng
đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu và môi trường sống của các thế hệ mai sau.
Thực chất của sự phát triển bền vững là giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo đảm sự công bằng giữa các
thế hệ trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường [52].
Tác giả Lê Thi trong bài viết “Mối quan hệ biện chứng giữa trách nhiệm
cá nhân và trách nhiệm nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường Việt
Nam” [137], đã tập trung phân tích mối quan hệ mật thiết, sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam và trách nhiệm của công dân
Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Theo tác giả, bồi đắp sức mạnh liên hợp, tổng hợp giữa trách nhiệm cá
nhân và trách nhiệm nhà nước vì lợi ích chính đáng của mỗi người dân và lợi
35. 30
ích chung của toàn thể cộng đồng xã hội cần có sự cố gắng từ cả hai phía
người dân và nhà nước, cần phải nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân của
toàn thể công dân và ý thức trách nhiệm nhà nước của toàn thể bộ máy, của
cán bộ, nhân viên nhà nước. Đây là gợi ý giúp tác giả luận án đưa ra những
biện pháp cụ thể để phát triển tự do và nâng cao trách nhiệm đạo đức của các
chủ thể trong hoạt động khoa học, công nghệ. Đó là sự tổng hợp trách nhiệm
đạo đức của các cá nhân nhà khoa học trong hoạt động nghiên cứu khoa học,
cũng như trách nhiệm của những chủ thể ứng dụng và cho phép ứng dụng các
thành tựu khoa học, công nghệ.
Theo tác giả Nguyễn Văn Việt, vẫn trong bài “Vấn đề định hướng giá trị
đạo đức trong nghiên cứu và ứng dụng y - sinh học hiện đại” [163] nói trên,
thì tri thức khoa học tự nhiên nói chung, y - sinh học hiện đại nói riêng có thể
trung lập về mặt giá trị trong quan hệ nhận thức, nhưng phải thích hợp về mặt
giá trị trên bình diện đạo đức, xã hội. Tác giả cho rằng, khả năng trung lập về
mặt giá trị của tri thức trong các khoa học này chưa phải là sự bảo đảm cho
việc áp dụng khoa học vì lợi ích xã hội. Trên bình diện đời sống xã hội, khoa
học tự nhiên, y - sinh học hiện đại… những giá trị văn hóa, giá trị đạo đức
luôn có vai trò định hướng nhất định. Thông qua những định hướng giá trị
này, y - sinh học hiện đại sẽ phát huy được những tiềm năng to lớn và hạn chế
tối đa những hậu quả có thể là cực kỳ nguy hiểm đối với sự tồn vong của con
người và hệ sinh thái. Đúng như tiêu đề của bài viết, tác giả đã nhấn mạnh
đến việc định hướng giá trị đạo đức trong một lĩnh vực của hoạt động của
khoa học, công nghệ là lĩnh vực y - sinh học. Đây là gợi ý để luận án đưa ra
giải pháp để nâng cao trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công
nghệ ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Văn Phúc trong bài viết “Tự do và trách nhiệm trong
hoạt động của con người” [114], cho rằng trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện
nay, với sự xuất hiện và ngày một gia tăng mức trầm trọng của những vấn
36. 31
đề toàn cầu thì tự do và trách nhiệm của con người cũng đang đứng trước
những thách thức nghiêm trọng. Tính mạng của con người, tức là quyền
sống cũng như các quyền tự do khác của con người, đang bị đe doạ bởi đại
dịch AIDS, chủ nghĩa khủng bố, chiến tranh khu vực, ô nhiễm môi
trường,… Những vấn đề đó và hàng loạt những vấn đề khác nữa đang đòi
hỏi phải có sự nâng cao trách nhiệm không chỉ của các tổ chức quốc tế, các
quốc gia, các dân tộc, mà còn của toàn nhân loại. Và, cũng chính trong việc
nâng cao trách nhiệm giải quyết những vấn đề nảy sinh từ quá trình hiện
đại hóa, toàn cầu hoá, tự do của mỗi người và của loài người được nâng lên
một tầm cao mới.
Cũng trong bài viết đã nêu ở mục 1.1 của tác giả Phan Xuân Dũng,
“Đẩy mạnh hoạt động khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [44], tác giả đã đưa ra một số giải pháp
nhằm hoàn thành tốt các nhiệm vụ khoa học, công nghệ của đất nước: Một
là, quán triệt nghiêm túc các nghị quyết của Đảng; các chủ trương, pháp
luật của Nhà nước; hiểu rõ mọi thách thức và nắm bắt tốt mọi cơ hội trong
phát triển khoa học và công nghệ; Hai là, phân bổ và sử dụng ngân sách
phải thực sự khoa học, hướng tới hiệu quả, theo cơ chế thị trường; Ba
là, tăng cường giám sát và đánh giá tình hình sử dụng và phân bổ ngân
sách bằng những chỉ tiêu thực sự khoa học; Bốn là, xã hội hóa các nguồn
lực đầu tư cho khoa học và công nghệ; thu hút đầu tư từ doanh nghiệp, coi
đây là nguồn lực chính. Nhà nước phải coi đầu tư từ các nguồn ngoài ngân
sách nhà nước, đặc biệt là từ các doanh nghiệp cho khoa học và công nghệ
là chính, tiến tới đầu tư cho khoa học và công nghệ chủ yếu từ doanh
nghiệp như các nước tiên tiến đã làm.
Đặc biệt, bài viết “Giải pháp cho sự đồng hành giữa tiến Bộ Khoa học -
công nghệ và đạo đức” của tác giả Nguyễn Văn Phúc [115] đã khẳng định,
chỉ có cách tiếp cận văn hóa mới khắc phục được những tác động tiêu cực đối
37. 32
với tiến bộ xã hội nói chung và đạo đức nói riêng. Theo tác giả, ở Việt Nam,
định hướng xã hội chủ nghĩa đối với phát triển chính là giải pháp văn hóa mà
qua đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiến bộ xã hội trở thành một quá
trình thống nhất; tiến Bộ Khoa học - công nghệ trở thành nhân tố thúc đẩy
phát triển xã hội nói chung và nhân cách, đạo đức con người nói riêng. Luận
án sẽ tiếp thu quan điểm này của tác giả bài viết trên như một gợi ý cho những
giải pháp để kết hợp hài hòa giữa phát triển tự do và nâng cao trách nhiệm
đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
Tác giả Nguyễn Văn Phúc trong bài viết “Đạo đức và lợi nhuận trong
kinh doanh” [117], đã khẳng định:
Đẩy mạnh nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu tính đặc thù của đạo đức
kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
trên cơ sở đó, xây dựng và áp dụng đạo đức kinh doanh là một trong những
nhiệm vụ gắn liền với chính quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay [117].
Quan điểm này của tác giả sẽ là gợi ý cho luận án đề xuất giải pháp “đẩy
mạnh nghiên cứu vấn đề đạo đức trong khoa học” để có thể đảm bảo tự do
của con người trong hoạt động khoa học, công nghệ nhưng con người ta vẫn
đầy trách nhiệm trong hoạt động đó.
Trong luận án đã nêu của Nguyễn Thái Sơn, tác giả đã đưa ra một số
phương hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu cách mạng khoa học, công nghệ. Tác giả cho rằng, để tạo ra con
người Việt Nam hiện đại, đáp ứng các yêu cầu của cách mạng khoa học, công
nghệ, chúng ta cần phải xem giáo dục, khoa học, công nghệ là quốc sách hàng
đầu. Bên cạnh đó cần phát triển kinh tế thị trường, tạo ra các điều kiện vật
chất để xây dựng con người. Những yếu tố văn hóa tiên tiến mang đậm bản
sắc dân tộc là nguồn tinh thần không thể thiếu của con người Việt Nam. Một
38. 33
hệ thống chính sách xã hội công bằng, tiến bộ, dân chủ là môi trường tốt đẹp
để con người Việt Nam phát huy các khả năng tiềm ẩn.
1.4. GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐƯỢC TỔNG QUAN VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, LÀM SÁNG TỎ THÊM
1.4.1. Giá trị những công trình được tổng quan
Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án được tác giả
chọn để tổng quan đã bàn khá rõ những vấn đề lý luận về tự do, trách nhiệm,
trách nhiệm đạo đức, mối quan hệ giữa tự do và trách nhiệm. Chúng cũng
gián tiếp bàn đến những khía cạnh nhỏ của vấn đề tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ. Các công trình trên đều có giá trị
nhất định đối với luận án trên cả ba nội dung (lý luận, thực tiễn và bài học đối
với Việt Nam hiện nay):
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu tiêu biểu trên đã đề cập đến
những khía cạnh quan trọng của khái niệm tự do, khái niệm trách nhiệm, trách
nhiệm đạo đức; hoạt động khoa học, công nghệ; mối quan hệ giữa tự do và
trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
Thứ hai, những công trình nghiên cứu trên ở những góc độ nhất định đã
phân tích được những nội dung cơ bản của vấn đề tự do và trách nhiệm đạo
đức trong hoạt động khoa học, công nghệ trong hoạt động khoa học, công
nghệ nói chung và trong hoạt động khoa học, công nghệ ở Việt Nam hiện nay
nói riêng.
Thứ ba, những công trình nghiên cứu trên là những gợi ý cho tác giả
luận án rút ra những bài học đối với Việt Nam hiện nay trong việc kết hợp hài
hòa giữa tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống
từ góc độ lý luận cho đến nội dung và bài học nhằm phát triển tự do và nâng
cao trách nhiệm đạo đức của con người trong hoạt động khoa học, công nghệ
39. 34
nói chung và ở Việt Nam hiện nay nói riêng, đó là khoảng trống lớn để tác giả
Luận án thực hiện.
1.4.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ thêm
Kế thừa thành quả trong những công trình nghiên cứu của các học giả đi
trước, luận án tiếp tục triển khai nghiên cứu, làm rõ những vấn đề sau:
Một là, tiếp tục nghiên cứu làm rõ về mặt lý luận các quan điểm về tự
do và trách nhiệm, trách nhiệm đạo đức. Đặc biệt, luận án cần làm sáng tỏ
quan hệ giữa tự do và trách nhiệm được thể hiện như thế nào. Bởi vì, hiện
nay chưa có một công trình nghiên cứu nào về vấn đề này một cách đầy đủ
và có hệ thống.
Tiếp đến, về mặt lý luận, luận án cần làm rõ nội hàm của khái niệm hoạt
động khoa học, công nghệ và đi đến cách hiểu chung nhất về tự do và trách
nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ là gì?
Hai là, phân tích những nội dung cơ bản của vấn đề tự do và trách
nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và nhận diện một số vấn
đề đặt ra hiện nay đối với Việt Nam về vấn đề này.
Ba là, rút ra được những bài học chủ yếu đối với Việt Nam hiện nay
trong việc kết hợp hài hòa giữa tự do và trách nhiệm đạo đức trong hoạt động
khoa học, công nghệ.
Như vậy, có thể nói, đề tài luận án là sự kế thừa kết quả của các nghiên
cứu trước đó về mặt lý luận những vấn đề về tự do và trách nhiệm trong hoạt
động khoa học, công nghệ. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn những khoảng
trống cả về mặt lý luận cũng như về thực tiễn và tầm quan trọng của việc
nghiên cứu vấn đề trên ở Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, chính chúng đã thôi thúc tôi lựa chọn “Vấn đề tự do và trách
nhiệm đạo đức trong hoạt động khoa học, công nghệ và bài học đối với Việt
Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của Luận án.
40. 35
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM
ĐẠO ĐỨC TRONG HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ
2.1. QUAN NIỆM VỀ TỰ DO VÀ TRÁCH NHIỆM ĐẠO ĐỨC
2.1.1. Quan niệm về tự do
Tự do là một trong những biểu hiện sức mạnh bản chất của con người,
đồng thời là khát vọng, là định hướng giá trị cho hoạt động người. Chưa có tự
do nghĩa là chưa thoát khỏi tình trạng bản năng, động vật. Trình độ phát triển
tự do của con người là tiêu chí đánh giá trình độ chinh phục tự nhiên và xã
hội, trình độ phát triển nhân cách con người và tiến bộ xã hội. Tự do gắn với
quá trình hoạt động của con người, với lịch sử phát triển loài người. Sự phát
triển của tự do bị quy định bởi nhu cầu và trình độ phát triển của lịch sử nhân
loại trong các thời đại cụ thể. Do vậy, trong tiến trình phát triển tư tưởng nhân
loại, tự do luôn được nhìn nhận và lý giải từ những quan điểm khác nhau.
Trong lịch sử tư tưởng xã hội vấn đề tự do luôn gắn liền với sự tìm kiếm
ý nghĩa khác nhau. Thông thường tự do hay bị quy về vấn đề, con người có tự
do ý chí không hay toàn bộ các hành vi của nó đều bị quy định bởi tính tất yếu
bên ngoài? (bởi sự định trước, bởi ý Chúa, bởi số phận…).
Con người là một cá thể mà từ mọi khía cạnh đều bị bao phủ bởi rất
nhiều tính quy định. Một mặt, chúng ta sống trong thế giới vật chất, mà như
thế có nghĩa là chúng ta phải phục tùng mọi quy luật vật lý (chẳng hạn, không
thể bay như quả bóng bay), cũng như các quy luật sinh lý: phải ăn, phải uống,
phải thở, sống trong một chế độ thời tiết nhất định. Mặt khác, với tư cách là
những cá nhân thuộc về một xã hội xác định, chúng ta phải phục tùng các quy
luật, các chuẩn mực và các quy tắc xã hội và pháp lý của nó, các khuôn mẫu
hành vi, các truyền thống tập tục và lễ nghi. Vậy, có tự do trong thế giới đan
dệt bởi sự phức tạp của các tính tất yếu đó hay không? Nó là gì? Là như thế
41. 36
nào? Lịch sử tư tưởng của nhân loại đã có những cách kiến giải khác nhau về
điều đó.
Quan điểm thứ nhất coi tự do như cái đối lập hoàn toàn và tách rời cái tất
yếu. Theo quan điểm này, tự do là khả năng lựa chọn và thực hiện theo ý chí
riêng của mỗi người về giá trị và hành vi. Sự lựa chọn này là sự lựa chọn tự
do và chỉ là tự do khi không bị quy định bởi bất cứ một tính tất yếu nào, tính
quy định nào từ bên ngoài chủ thể. Ngay từ thời cổ đại, Êpiquya đã từng nói
về tự do như là sự “chệch hướng” tuỳ ý khỏi tất yếu được định trước. Theo
ông, nhờ có sự đi chệch tự do, tự phát khỏi đường thẳng mà nguyên tử phủ
định sự rơi xuống do trọng lượng, cũng như con người, qua tự do của mình có
thể phủ định tính tất yếu khắc nghiệt của số phận. Êpiquya quan niệm:
Điều bất hạnh là sống trong sự tất yếu, nhưng sống trong sự tất yếu lại
tuyệt nhiên không phải là điều tất yếu. Những con đường dẫn đến tự do đều
rộng mở ở khắp nơi, có nhiều con đường ấy, chúng ngắn và dễ dàng. Chúng
ta hãy cảm ơn Thượng đế vì không thể giữ được ai trong cuộc sống. Ngăn
ngừa chính sự tất yếu - đó là điều được phép [22, tr.296].
Tuy nhiên, hết tầm cỡ của nó, đề tài tự do như là lựa chọn chỉ được bàn
thảo trong Thiên Chúa giáo vốn gắn sự vận động của con người theo đường
thiện hay ác với quyết định tự do của nó. Thiên Chúa giáo xuất phát từ chỗ, ý
chí con người tự do, tức là tự nó làm lấy sự lựa chọn, trong khi không là hệ
quả giản đơn của những nguyên nhân quyết định luận nào đó đối với nó. Con
người có thể đón nhận cánh tay Chúa chìa về phía nó, hoặc chối từ sự giúp đỡ
và yểm trợ thánh thần, chọn cho mình thần tượng và sự sùng kính khác.
Tư tưởng về tự do ý chí như là phẩm chất đặc biệt của con người trong
thế kỷ XX đã được biểu hiện rõ rệt nhất trong trào lưu hiện sinh, nơi mà tự
do ý chí được gán cho quy chuẩn tuyệt đối. Trong điều kiện của xã hội hiện
đại, những nhà hiện sinh nhìn nhận tự do ý chí như là phẩm chất đặc biệt
42. 37
của con người, chính xác hơn, là phẩm chất của con người hiện sinh. Theo
đó, tự do ý chí là khả năng hành động phù hợp với ý chí cá nhân, một ý chí
không bị quy định bởi bất kỳ một điều kiện nào của hoàn cảnh bên ngoài.
Theo họ, chỉ có như vậy con người mới có tự do. Khi có tự do thì con
người mới thực sự có trách nhiệm, bởi trách nhiệm chính là trách nhiệm
của con người trước bản thân mình, trách nhiệm về những hành động được
lựa chọn một cách tự do. Ngược lại, nếu nhìn nhận hành động của con
người bị quy định bởi hoàn cảnh, bởi tính tất yếu bên ngoài thì điều đó
không chỉ có nghĩa là con người không có tự do, mà đồng thời còn có nghĩa
là con người không có trách nhiệm, vì con người không phải chịu trách
nhiệm về những hành động mà họ không được lựa chọn một cách tự do.
Tuy nhiên, trong thực tế, liệu có thể có một hành động mang tính người
nào tự do đến mức không hề liên quan đến lợi ích của người khác, của xã
hội, nghĩa là không liên quan đến những yêu cầu bên ngoài mang tính tất
yếu? Chính vì vậy, quan điểm hiện sinh về tự do từng bị phê phán là đã hạ
thấp tự do đến mức tự do vô trách nhiệm.
Những người tiêu biểu giương cao ngọn cờ tự do ý chí trong trào lưu
hiện sinh, có thể là M. Heidegger, K. Jaspers, J.P. Sartre…
K. Jaspers (1883 - 1969) nhận xét, trong mọi khát vọng trái ngược nhau
của thời hiện đại dường như luôn có một yêu cầu chung của tất cả. Mọi dân
tộc, mọi người, đại diện của mọi chế độ chính trị đều đồng tâm đòi hỏi tự do
[88, tr.166].
Và, nếu tự do được coi là nguyên tắc cơ bản của tồn tại người, là cái
phân biệt con người với mọi cái tự nhiên, thì tất yếu sẽ nảy sinh vấn đề xác
định thái độ của con người đối với nguyên tắc ấy. K. Jaspers đã viết: “Tự do
là tài sản quý giá nhất; nó không bao giờ tự đến và không được giữ lại một
cách tự động. Con người chỉ có thể giữ gìn tự do ở nơi mà nó được ý thức và
con người cảm nhận thấy phải có trách nhiệm về nó” [88, tr.182].
43. 38
J.P. Sartre (1905 - 1980) cho rằng, khi tự trói buộc bản thân vào một lực
lượng nào đó, con người vẫn hành động một cách tự do. Điều này có nghĩa là,
cần phải coi tự do là cái mang ý nghĩa quyết định trong mọi suy tư triết học.
Các hiện sinh thể khác, kể cả hư vô lẫn sự hiện sinh, đều không thể tồn tại
trước hiện sinh thể “tự do”. Ông khẳng định: “Toàn bộ hoạt động của con
người, trước hết là hoạt động tinh thần, đều được thể hiện ở việc phát hiện ra
con đường của mình trong những khả năng đã được mở ra cho con người.
Những gì diễn ra trong hiện thực đều phụ thuộc vào con người, vào mỗi
người, cho dù một người riêng biệt không định trước được tiến trình phát triển
của lịch sử” [85, tr.167].
Khác với quan điểm hiện sinh về tự do (tự do ý chí), những người theo
quyết định luận máy móc lại hoàn toàn phủ nhận tự do ý chí. Đối với họ, hành
động của con người chẳng qua chỉ là sự thể hiện, thực hiện những tính tất yếu
nhất định và do vậy, hoàn toàn bị chi phối bởi những điều kiện bên ngoài
mang tính khách quan tuyệt đối. Quan điểm này sẽ dẫn đến định mệnh luận.
Nó không khích lệ con người phấn đấu cho tự do, đồng thời, trách nhiệm mà
con người phải thực hiện cũng mất đi ý nghĩa tích cực, vì trách nhiệm đó
không phản ánh được sức mạnh bản chất của con người.
Thực ra, tự do và tất yếu có mối quan hệ nội tại và việc nhận ra mối quan
hệ này cũng đã có từ lâu trong lịch sử. Ở phương Đông, Đạo gia và Nho gia
đã nhìn nhận tự do như là sự nhận thức được tính tất yếu. Chẳng hạn, với Đạo
gia, Đạo là bản nguyên của vũ trụ, quy luật của trời đất. Đạo bao gồm đạo trời
và đạo người. Đạo người là hình thức thể hiện của đạo trời và do vậy, nó phải
phục tùng đạo trời. Hành động của con người, đặc biệt là hành động quản lý
xã hội, sẽ trở thành hành động tự do, tức là vô vi khi thuận theo quy luật của
trời đất. Còn Nho gia thì nhìn nhận toàn bộ hành động của con người (từ vua
quan đến thứ dân) đều chỉ là sự thể hiện và thực hiện các nghĩa vụ, trách
nhiệm đạo đức, mà đằng sau các nghĩa vụ đạo đức đó của con người chính là