Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành văn hóa học với đề tài: Tranh cổ động biểu đạt tình quân dân ở Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành văn hóa học với đề tài: Tranh cổ động biểu đạt tình quân dân ở Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam, cho các bạn tham khảo
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
Mấy ý kiến với Văn Hữu Tuất - Tác giả viết Địa Phương Ký Làng Sơn Tùng, cháu xin ý kiến của chú về ý định của cháu muốn đem nhiệt tình của cháu viết về Địa phương Ký Làng Sơn Tùng của mình, chú thấy ý kiến đó rất hay rất quý, có nhiều ý nghĩa sâu sắc đối với các bậc Tiên Liệt các bậc Tiền bối các thế hệ đã quá cố cho cả hiện tại và có ích cho các thế hệ mai sau.
Bê trọc - Chuyện đời thường trong chiến tranhPhamVietLong1
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long, giải nhì Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Còn có tên gọi "Chuyện đời thường trong chiến tranh"
Bê trọc, còn gọi là Chuyện đời thường trong chiến tranh, là tác phẩm của Phạm Việt Long, do Nhà Xuất bản Thanh niên xuất bản vào đầu năm 1999.
Với gần 700 trang in, Bê trọc chứa đựng một dung lượng hiện thực khá lớn, với những chuyện đời thường có thật nhưng không tầm thường mà rất có ý nghĩa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nuóc của dân tộc ta.
Thông qua nhật ký chiến trường của một phóng viên Thông tấn xã giải phóng, cộng với thư từ, bài báo, ký sự, truyện ngắn được lồng ghép trong một kết cấu vững chắc, Bê trọc dựng lại cuộc sống hào hùng của dân tộc ta trong một giai đọan rất vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: giai đoạn sau tổng tấn công tết Mậu thân (1968) đến ngày đại thắng mùa xuân (1975).
Bê trọc gồm bốn chương:
- Chương một: Vượt Trường Sơn. Chương này miêu tả cuộc hành trình đi giải phóng miền Nam với bao nỗi nguy hiểm, nhọc nhằn của những cán bộ - trí thức trẻ. Họ đã vượt qua vùng đất lửa khu Bốn cũ trong vòng oanh tạc của máy bay Mỹ, hai lần vuợt qua đỉnh Trường Sơn để sang đất bạn Lào và trở lại Tổ quốc, xẻ dọc Trường sơn, vào tới vị trí chiến đấu ở ban Tuyên Huấn Khu Năm.
- Chương hai: Ở căn cứ. Chương này nói lên cuộc sống ở căn cứ vô cùng gian khổ, nguy hiểm nhưng cũng đậm đà tình nghĩa đồng chí, đồng bào. Tại đây, những trí thưc, nhà báo trẻ kiên trì gùi cõng, sản xuất, vượt qua những trận sốt rét rừng, qua thiên tai, địch họa để làm công tác chuyên môn, để chờ thời cơ xung trận bằng chính ngòi bút của mình
- Chương ba: Về đồng bằng. Chương này dựng lại không khí sôi nổi tấn công và nổi dậy của quân và dân miền Trung Trung bộ những năm 1971 - 1972, trong đó đặc biệt sinh động là thế trận chiến tranh nhân dân ở tỉnh Bình Định. Bước chân phóng viên đã theo sát cuộc sống của nhân dân Bình Định, từ những ngày đồng bào bị địch kìm kẹp, cuộc sống ngẹt thở, cán bộ phải nằm hầm, bám dân làm công tác, tới những ngày chuẩn bị, rồi những ngày tấn công và nổi dậy cuốn băng đồn bốt địch, giải phóng quê hương.
- Chương bốn: Đi tới toàn thắng. Chương này phản ánh sức lớn mạnh không ngừng của lực lượng cách mạng, trong đó có lực lượng báo chí giải phóng. Đội quân báo chí được tăng cường, tỏa đi khắp các chiến trường ở Trung Trung Bộ để viết tin, viết bài, chụp ảnh, góp phần vào cuộc chiến đấu của dân tộc và cuối cùng đã cùng đồng bào, chiến sĩ Khu Năm đi tới toàn thắng.
Bê trọc là một bản hùng ca dung dị, đồng thời là một bản tình ca đằm thắm. Trên những trang sách, không chỉ có cuộc sống gian khổ, đói cơm, nhạt muối, cũng không chỉ có khí thế chiến đấu sôi nổi, hào hùng, mà còn có tình yêu đằm thắm - tình yêu đồng đội, đồng bào, tình yêu lứa đôi. Bằng những chi tiết sinh động, Bê trọc đã xây dựng nên hình tượng một Bê trọc giản dị mà hào hùng - đó là những cán bộ chiến sĩ chưa có gia đình riêng từ miền Bắc lên đường vào chiến trường B, những cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc trở lại..
Trên cơ sở giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, Lễ hội Đền thờ Bát Hải Long Vương năm 2016 là một sân chơi đầy thú vị và thể hiện tín ngưỡng của người dân phường Phú Sơn.
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long. Đoạt giải B (không có giải A) của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1999 dành cho văn xuôi. Xuất bản lần đầu: NXB Thanh niên - 1999. Tái bản lần 1,2 3 - NXB Văn học. Tái bản lần thứ tư - năm 2013 - NXB Dân trí. Đã chuyển thể thành phim truyền hình 4 tập NHẬT KÝ CHIẾN TRƯỜNG.
Phản ánh hoạt động của nhà báo chiến trường và nhân dân miền Trung Trung bộ giai đoạn 1968 - 1975..
Mấy ý kiến với Văn Hữu Tuất - Tác giả viết Địa Phương Ký Làng Sơn Tùng, cháu xin ý kiến của chú về ý định của cháu muốn đem nhiệt tình của cháu viết về Địa phương Ký Làng Sơn Tùng của mình, chú thấy ý kiến đó rất hay rất quý, có nhiều ý nghĩa sâu sắc đối với các bậc Tiên Liệt các bậc Tiền bối các thế hệ đã quá cố cho cả hiện tại và có ích cho các thế hệ mai sau.
Bê trọc - Chuyện đời thường trong chiến tranhPhamVietLong1
Tiểu thuyết của Phạm Việt Long, giải nhì Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Còn có tên gọi "Chuyện đời thường trong chiến tranh"
Bê trọc, còn gọi là Chuyện đời thường trong chiến tranh, là tác phẩm của Phạm Việt Long, do Nhà Xuất bản Thanh niên xuất bản vào đầu năm 1999.
Với gần 700 trang in, Bê trọc chứa đựng một dung lượng hiện thực khá lớn, với những chuyện đời thường có thật nhưng không tầm thường mà rất có ý nghĩa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nuóc của dân tộc ta.
Thông qua nhật ký chiến trường của một phóng viên Thông tấn xã giải phóng, cộng với thư từ, bài báo, ký sự, truyện ngắn được lồng ghép trong một kết cấu vững chắc, Bê trọc dựng lại cuộc sống hào hùng của dân tộc ta trong một giai đọan rất vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: giai đoạn sau tổng tấn công tết Mậu thân (1968) đến ngày đại thắng mùa xuân (1975).
Bê trọc gồm bốn chương:
- Chương một: Vượt Trường Sơn. Chương này miêu tả cuộc hành trình đi giải phóng miền Nam với bao nỗi nguy hiểm, nhọc nhằn của những cán bộ - trí thức trẻ. Họ đã vượt qua vùng đất lửa khu Bốn cũ trong vòng oanh tạc của máy bay Mỹ, hai lần vuợt qua đỉnh Trường Sơn để sang đất bạn Lào và trở lại Tổ quốc, xẻ dọc Trường sơn, vào tới vị trí chiến đấu ở ban Tuyên Huấn Khu Năm.
- Chương hai: Ở căn cứ. Chương này nói lên cuộc sống ở căn cứ vô cùng gian khổ, nguy hiểm nhưng cũng đậm đà tình nghĩa đồng chí, đồng bào. Tại đây, những trí thưc, nhà báo trẻ kiên trì gùi cõng, sản xuất, vượt qua những trận sốt rét rừng, qua thiên tai, địch họa để làm công tác chuyên môn, để chờ thời cơ xung trận bằng chính ngòi bút của mình
- Chương ba: Về đồng bằng. Chương này dựng lại không khí sôi nổi tấn công và nổi dậy của quân và dân miền Trung Trung bộ những năm 1971 - 1972, trong đó đặc biệt sinh động là thế trận chiến tranh nhân dân ở tỉnh Bình Định. Bước chân phóng viên đã theo sát cuộc sống của nhân dân Bình Định, từ những ngày đồng bào bị địch kìm kẹp, cuộc sống ngẹt thở, cán bộ phải nằm hầm, bám dân làm công tác, tới những ngày chuẩn bị, rồi những ngày tấn công và nổi dậy cuốn băng đồn bốt địch, giải phóng quê hương.
- Chương bốn: Đi tới toàn thắng. Chương này phản ánh sức lớn mạnh không ngừng của lực lượng cách mạng, trong đó có lực lượng báo chí giải phóng. Đội quân báo chí được tăng cường, tỏa đi khắp các chiến trường ở Trung Trung Bộ để viết tin, viết bài, chụp ảnh, góp phần vào cuộc chiến đấu của dân tộc và cuối cùng đã cùng đồng bào, chiến sĩ Khu Năm đi tới toàn thắng.
Bê trọc là một bản hùng ca dung dị, đồng thời là một bản tình ca đằm thắm. Trên những trang sách, không chỉ có cuộc sống gian khổ, đói cơm, nhạt muối, cũng không chỉ có khí thế chiến đấu sôi nổi, hào hùng, mà còn có tình yêu đằm thắm - tình yêu đồng đội, đồng bào, tình yêu lứa đôi. Bằng những chi tiết sinh động, Bê trọc đã xây dựng nên hình tượng một Bê trọc giản dị mà hào hùng - đó là những cán bộ chiến sĩ chưa có gia đình riêng từ miền Bắc lên đường vào chiến trường B, những cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc trở lại..
Trên cơ sở giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, Lễ hội Đền thờ Bát Hải Long Vương năm 2016 là một sân chơi đầy thú vị và thể hiện tín ngưỡng của người dân phường Phú Sơn.
2. Chắc ai cũng biết rằng chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta là
một vị lãnh tụ yêu nước, yêu nhân dân của mình. Bác đã
dành cả đời để cống hiến cả sự nghiệp mình cho cách mạng
đất nước và để gần gũi với nhân dân. Và cả với đồng bào tây
nguyên cũng vậy, Bác coi các đồng bào tây nguyên như con
của mình và dành yêu thương đến cho họ luôn quan tâm và
nghĩ tới họ.
Ngày 19/4/1946 Người gửi bức thư của mình tới Hội nghị
Các dân tộc thiểu số miền Nam được tổ chức tại Pleiku (Gia
Lai)Người Tây Nguyên mãi mãi không quên lời dạy của Bác:
“Đồng bào Kinh hay Tày, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê,
Ba Na, Xê Đăng hay M’nông và các dân tộc thiểu số khác,
đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta
sống chết có nhau, sướng, khổ, no, đói bên nhau…Sông có
thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kế t của chúng ta
không bao giờ giảm bớt…”. Lời dạy của Người như truyền
thêm sức mạnh cho đồng bào vững niềm tin vào Đảng, đoàn
kết đứng lên làm cách mạng, đánh đuổi quân xâm lược, giữ
lấy núi rừng Tây Nguyên thân yêu.
3.
4. 4
Năm 1968, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn
ra ác liệt ở cả hai miền Nam Bắc, Bác Hồ lại gửi điện thăm hỏi đồng
bào, chiến sỹ và cán bộ Tây Nguyên. Trên bức điện, Người ghi: “Kính
nhờ cụ Y Bih Alêô, Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Chủ tịch Phong trào dân
tộc tự trị Tây Nguyên, chuyển”. Người vui mừng được biết: “Quân và
dân Tây Nguyên, già trẻ, gái trai, Kinh, Thượng đoàn kết một lòng, luôn
luôn nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ,
thi đua diệt giặc, lập công, giữ gìn buôn rẫy, thu được những thành tích
to lớn, cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Người
căn dặn: “Đồng bào và chiến sỹ Tây Nguyên đã đoàn kết, càng phải đoàn
kết chặt chẽ hơn nữa, cố gắng không ngừng, phát huy mạnh mẽ thắng lợi
đã giành được, luôn luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm
mưu của địch, ra sức củng cố và phát triển vùng giải phóng và phục vụ
tiền tuyến”. Và tỏ lòng tin tưởng: “Tây Nguyên nhất định cùng cả nước
tiến lên đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược”. Thực hiện lời dạy của
Người, quân và dân Tây Nguyên cùng với cả nước đã làm nên trận đánh
lịch sử giải phóng Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975, mở
đầu
cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước.
5. Kéo pháo vào chiến trường, chuẩn bị cho Chiến dịch giải
phóng Buôn Ma Thuột
Sáng sớm 10-3, quân giải phóng đã làm chủ
sân bay thị xã
Đến trưa 11-3, quân ta đã xóa sổ Sư đoàn 23 của địch,
cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
tung bay trên nóc cột cờ Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy
6. 6
Trong hàng triệu đồng bào Tây Nguyên, có không ít người con ưu
tú đã vinh dự được gặp Bác. Người đầu tiên có được niềm vinh dự
ấy có lẽ là ông Y Ngông Niê Kđăm.
Trong buổi họp đầu tiên Quốc hội ra mắt ngày 2/3/1946, bác sỹ Y
Ngông còn nhớ như in lời phát biểu của Bác Hồ trước Quốc hội
của nước Việt Nam mới: “Ngày nay, nước Việt Nam là nước chung
của người Kinh và người Thượng…”. Những năm sau đó, với cương
vị công tác của mình, ông còn vinh dự được gặp Bác nhiều lần. Mỗi
lần gặp Bác là một kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời làm cách mạng
của
ông.
7. Một số thông tin về
Y Ngông Niê Kdăm.
Chức vụ
Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk
Nhiệm kỳ 1979 – 1986
Tiền nhiệm Trần Kiên
Kế nhiệm Huỳnh Văn Cần
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Lắk
Nhiệm kỳ 1978 – 1979
Tiền nhiệm Y Blôk
Kế nhiệm Nguyễn An Vinh
Thông tin chung
Đảng phái Đảng Cộng sản Việt Nam
Sinh 13 tháng 8 năm 1922
Cư M'gar, Đắk Lắk, Liên bang Đông Dương
Mất 9 tháng 5, 2001 (78 tuổi)
Thành phố Hồ Chí Minh
Dân tộc Ê Đê
Tôn giáo Không
Vợ Bùi Thị Tân
Con cái Linh Nga Niê Kdăm
8. Người con thứ hai của Tây Nguyên được gặp Bác là ông KSor Ní,
nguyên Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai -
Kon Tum.
Tháng 5 năm 1946, ông ra Hà Nội dự Đại hội Thanh niên các dân tộc
Việt Nam và lần đầu tiên được gặp Bác Hồ. Đó là một ngày đầu tháng
6, ông và ông Y Ngông Niê Kđăm được vào gặp Bác. Bác ân cần hỏi
thăm sức khỏe, hỏi thăm tình hình đồng bào Tây Nguyên. Bác nói
chúng ta phải đoàn kết đánh Pháp mới bảo vệ được nền độc lập, Tây
Nguyên là một bộ phận không thể tách rời của nước Việt Nam thống
nhất. Bác xòe bàn tay và giải thích: “Một bàn tay hoàn chỉnh phải có
năm ngón,
thiếu một ngón là một bàn tay không hoàn chỉnh. Một ngón
tay đau thì cả bàn tay cũng đau”. Những lời dạy đó của Người
mãi
9. 9
Rất nhiều những người con ưu tú khác của Tây Nguyên cũng
đã vinh dự được gặp Bác như Anh hùng Núp, cụ Thiếu tướng
Y Blôk Êban, cụ Y Bih Alêô, ông Ksor Krơn, Nghệ sĩ nhân dân Y
Brơm, Nhà giáo ưu tú Nay Hwin… Cụ Y Bih Alêô, nguyên là Phó
Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ
cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã khẳng định:
“Tình cảm của Bác Hồ đối với các dân tộc Tây Nguyên là sức mạnh
vô biên, luôn luôn tràn đầy như nước sông Ba và cao như ngọn núi
Cư Yang Sin. Chúng tôi nhớ lời Bác Hồ và uống rượu cần thề với
nhau sẽ mãi mãi đi theo con đường của Bác vạch ra để giải phóng
quê hương”.
Núp Y Blôk Êban Ksor Krơn Y Brơm
10. Hàng vạn đồng bào Tây Nguyên khác không có cái may mắn
được trực tiếp gặp Bác, nhưng họ vẫn được Bác truyền thêm sức
mạnh, ý chí và niềm tin trong cuộc chiến đấu một mất một còn với
kẻ thù để giữ lấy từng tấc đất của buôn làng thân yêu. Với tấm
lòng chân thật, đồng bào Tây Nguyên đáp lại ân tình của Bác bằng
niềm tin yêu son sắt, lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc đối với vị
cha già của dân tộc.
Anh hùng lực lượng vũ trang A Vai kể câu chuyện về A Vân,
một trai làng của dân tộc Pakô, bị địch bắt tra khảo, đánh đập
rất dã man, đau đớn nhưng không hề kêu than lấy một lời. Trước
khi hy sinh A Vân đã gọi A Vóoc Hồ 3 lần. Khi A Vai ra thăm miền
Bắc, các già làng căn dặn mãi: “Nếu được gặp A Voóc Hồ, con
không biết nói điều gì thì cứ kể chuyện A Vân và cây Tyo kia cho
A Vóoc Hồ nghe là đủ, vì đó là tấm lòng của người Pakô chúng ta
đối với A Vóoc Hồ”. Già làng Ama Ril là một du kích dũng cảm thời
kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Buôn Ngô (huyện Krông Bông)
đã giữ ảnh Bác Hồ và lá cờ Tổ quốc do cán bộ tặng như một báu
vật. Mấy lần buôn làng bị cháy, bọn địch càn đi quét
lại,
nhưng Ama Ril vẫn giữ trọn tấm ảnh và lá cờ vì đó là niềm
11. Những câu chuyện như thế có rất nhiều ở các buôn làng
kháng chiến thời chống Pháp cũng như chống Mỹ. Tình
cảm của Bác đối với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên
quý hơn chiêng, đẹp hơn cả hoa ê pang. Và tình cảm của
đồng bào đối với Bác cũng thật sâu sắc:
Người Êđê chưa gặp mặt Bác Hồ
Mà trong bụng thương hơn cha hơn mẹ
Bởi vì:
Người cứu dân tộc mình
Cho suối đánh đàn, cho hoa Gơ-ma nở
Cho nương đầy lúa, rẫy đầy khoai
Cho núi sông đầy cá nước hoa ngàn
Cho con gái cườm đeo quanh cổ
Người đó là Hồ Chí Minh, là Bok Hồ của Tây Nguyên.
(Ca dao dân tộc Êđê)
12. Bác Hồ kính yêu, vị cha già, vị lãnh tụ vĩ đại của toàn dân tộc
vẫn luôn sống mãi trong lòng mọi người con đất Việt dù Bác đã
đi xa. Thế hệ con cháu sau này vẫn luôn lấy Người làm tấm gương
để học tập và rèn luyện. Và cứ mỗi độ tháng 5 về, đồng bào trên
cả nước đều nhớ về ngày sinh của Người.
13. Năm nay, tròn 128 năm ngày sinh của Bác (19/5/1890 - 19/5/2018),
khắp nơi trên cả nước diễn ra các chương trình, các hoạt động ý
nghĩa mừng sinh nhật Người. 11 đồng bào dân tộc (Tày, Dao, Mông,
Thái, Mường, Khơ Mú, Tà Ôi, Cơ Tu, RagLai, Ê Đê, Khmer) và của 11
địa phương cùng các nghệ nhân, tiểu thương của Hiệp hội Làng nghề
Việt Nam đều có mặt tham gia sự kiên này
Với chủ đề “Bác Hồ với Tây Nguyên, Tây Nguyên với Bác Hồ”, đến
với Làng Văn hóa chúng ta được tham gia trải nghiệm các hoạt động
triển lãm, trưng bày, giới thiệu tư liệu, hiện vật, hình ảnh vật dụng
sinh hoạt, những sáng tác văn học, nghệ thuật, câu chuyện, bài báo...
về Bác Hồ.
14. Trong đó, đặc biệt nổi bật là hình ảnh, câu chuyện Bác Hồ với các
dân tộc Tây Nguyên. Mọi người được lắng nghe những chia sẻ của
đại
diện đồng bào Tây Nguyên đã từng gặp Bác, người sưu tầm
những hình ảnh, hiện vật và lưu giữ những câu chuyện về Bác.
15. Trong đó, Triển lãm “Sen trong đời sống văn hóa Việt” trưng
bày, giới thiệu tới chúng ta hình ảnh về hoa sen qua nghệ thuật
của các nhà nhiếp ảnh; giới thiệu ẩm thực chế biến từ hoa sen như
trà sen, mứt sen, cháo sen… Bên cạnh đó, chúng ta được thưởng
thức những làn điệu dân ca ngọt ngào với chủ đề “Xúc cảm tháng 5
- Hoa sen nhớ Bác” ca ngợi Bác Hồ, thể hiện được tình cảm của
Bác dành cho cộng đồng các dân tộc Việt Nam.