Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí văn hóa với đề tài: Bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Phán huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh với phát triển du lịch, cho các bạn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận án tiến sĩ ngành nhân học với đề tài: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, cho các bạn làm luận án tham khảo
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí văn hóa với đề tài: Di sản văn hóa Thái ở bản Bon, xã Mường Chiên, huyện Quỳnh Nhai (Sơn La) với phát triển du lịch lòng hồ sông Đà, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí văn hóa với đề tài: Bảo tồn và phát huy giá trị trang phục truyền thống người Sán Dìu tại xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, cho các bạn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận án tiến sĩ ngành kinh tế phát triển với đề tài: Chợ truyền thống trong quá trình đô thị hoá ở Hà Nội, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí văn hóa với đề tài: Bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của người Dao Thanh Phán huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh với phát triển du lịch, cho các bạn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận án tiến sĩ ngành nhân học với đề tài: Trang phục truyền thống hiện nay của người Lô Lô Hoa ở huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, cho các bạn làm luận án tham khảo
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí văn hóa với đề tài: Di sản văn hóa Thái ở bản Bon, xã Mường Chiên, huyện Quỳnh Nhai (Sơn La) với phát triển du lịch lòng hồ sông Đà, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí văn hóa với đề tài: Bảo tồn và phát huy giá trị trang phục truyền thống người Sán Dìu tại xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, cho các bạn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận án tiến sĩ ngành kinh tế phát triển với đề tài: Chợ truyền thống trong quá trình đô thị hoá ở Hà Nội, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn đồ án tốt nghiệp ngành xây dựng với đề tài: Học viện văn hóa nghệ thuật dân tộc Việt Bắc, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành văn hóa học với đề tài: Trang phục nữ người Dao Quần Trắng (xã Hùng Đức - huyện Hàm Yên - tỉnh Tuyên Quang), cho các bạn làm luận văn tham khảo
Tài liệu này có tính phí xin vui lòng liên hệ facebook để được hỗ trợ Liên hệ page để nhận link download sách và tài liệu: https://www.facebook.com/garmentspace
https://www.facebook.com/garmentspace.blog
My Blog: http://garmentspace.blogspot.com/
Từ khóa tìm kiếm tài liệu : Wash jeans garment washing and dyeing, tài liệu ngành may, purpose of washing, definition of garment washing, tài liệu cắt may, sơ mi nam nữ, thiết kế áo sơ mi nam, thiết kế quần âu, thiết kế veston nam nữ, thiết kế áo dài, chân váy đầm liền thân, zipper, dây kéo trong ngành may, tài liệu ngành may, khóa kéo răng cưa, triển khai sản xuất, jacket nam, phân loại khóa kéo, tin học ngành may, bài giảng Accumark, Gerber Accumarkt, cad/cam ngành may, tài liệu ngành may, bộ tài liệu kỹ thuật ngành may dạng đầy đủ, vật liệu may, tài liệu ngành may, tài liệu về sợi, nguyên liệu dệt, kiểu dệt vải dệt thoi, kiểu dệt vải dệt kim, chỉ may, vật liệu dựng, bộ tài liệu kỹ thuật ngành may dạng đầy đủ, tiêu chuẩn kỹ thuật áo sơ mi nam, tài liệu kỹ thuật ngành may, tài liệu ngành may, nguồn gốc vải denim, lịch sử ra đời và phát triển quần jean, Levi's, Jeans, Levi Straus, Jacob Davis và Levis Strauss, CHẤT LIỆU DENIM, cắt may quần tây nam, quy trình may áo sơ mi căn bản, quần nam không ply, thiết kế áo sơ mi nam, thiết kế áo sơ mi nam theo tài liệu kỹ thuật, tài liệu cắt may,lịch sử ra đời và phát triển quần jean, vải denim, Levis strauss cha đẻ của quần jeans. Jeans skinny, street style áo sơ mi nam, tính vải may áo quần, sơ mi nam nữ, cắt may căn bản, thiết kế quần áo, tài liệu ngành may,máy 2 kim, máy may công nghiệp, two needle sewing machine, tài liệu ngành may, thiết bị ngành may, máy móc ngành may,Tiếng anh ngành may, english for gamrment technology, anh văn chuyên ngành may, may mặc thời trang, english, picture, Nhận biết
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ với đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư trên địa bàn Quận Thủ Đức Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành lịch sử Việt Nam với đề tài: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973, cho các bạn làm luận văn tham khảo
50000358
Download luận văn thạc sĩ ngành dân tộc học với đề tài: Ẩm thực của người Nùng ở xã Hoàng Việt, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Viết về nhà giáo Nguyễn Hữu Tảo. Hiếm có ai trong ngành ta đã hội tụ khá đầy đủ những phẩm chất cao quý như nhà giáo Nguyễn Hữu Tảo. Ở Thầy tỏa chiếu lòng dũng cảm kết hợp với đức kiên trì, tính nghiêm túc, mẫu mực kết hợp với đức khoan dung, đôn hậu; tinh hoa cũ của nhà giáo Việt Nam nhuần nhuyễn với lý tưởng mới, lý tưởng cách mạng của một chiến sĩ cộng sản; với tài năng “Tri hành hợp nhất”, cống hiến suốt đời cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, xây dựng Tổ quốc phồn vinh, văn minh.
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn đồ án tốt nghiệp ngành xây dựng với đề tài: Học viện văn hóa nghệ thuật dân tộc Việt Bắc, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành văn hóa học với đề tài: Trang phục nữ người Dao Quần Trắng (xã Hùng Đức - huyện Hàm Yên - tỉnh Tuyên Quang), cho các bạn làm luận văn tham khảo
Tài liệu này có tính phí xin vui lòng liên hệ facebook để được hỗ trợ Liên hệ page để nhận link download sách và tài liệu: https://www.facebook.com/garmentspace
https://www.facebook.com/garmentspace.blog
My Blog: http://garmentspace.blogspot.com/
Từ khóa tìm kiếm tài liệu : Wash jeans garment washing and dyeing, tài liệu ngành may, purpose of washing, definition of garment washing, tài liệu cắt may, sơ mi nam nữ, thiết kế áo sơ mi nam, thiết kế quần âu, thiết kế veston nam nữ, thiết kế áo dài, chân váy đầm liền thân, zipper, dây kéo trong ngành may, tài liệu ngành may, khóa kéo răng cưa, triển khai sản xuất, jacket nam, phân loại khóa kéo, tin học ngành may, bài giảng Accumark, Gerber Accumarkt, cad/cam ngành may, tài liệu ngành may, bộ tài liệu kỹ thuật ngành may dạng đầy đủ, vật liệu may, tài liệu ngành may, tài liệu về sợi, nguyên liệu dệt, kiểu dệt vải dệt thoi, kiểu dệt vải dệt kim, chỉ may, vật liệu dựng, bộ tài liệu kỹ thuật ngành may dạng đầy đủ, tiêu chuẩn kỹ thuật áo sơ mi nam, tài liệu kỹ thuật ngành may, tài liệu ngành may, nguồn gốc vải denim, lịch sử ra đời và phát triển quần jean, Levi's, Jeans, Levi Straus, Jacob Davis và Levis Strauss, CHẤT LIỆU DENIM, cắt may quần tây nam, quy trình may áo sơ mi căn bản, quần nam không ply, thiết kế áo sơ mi nam, thiết kế áo sơ mi nam theo tài liệu kỹ thuật, tài liệu cắt may,lịch sử ra đời và phát triển quần jean, vải denim, Levis strauss cha đẻ của quần jeans. Jeans skinny, street style áo sơ mi nam, tính vải may áo quần, sơ mi nam nữ, cắt may căn bản, thiết kế quần áo, tài liệu ngành may,máy 2 kim, máy may công nghiệp, two needle sewing machine, tài liệu ngành may, thiết bị ngành may, máy móc ngành may,Tiếng anh ngành may, english for gamrment technology, anh văn chuyên ngành may, may mặc thời trang, english, picture, Nhận biết
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ với đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư trên địa bàn Quận Thủ Đức Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành lịch sử Việt Nam với đề tài: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973, cho các bạn làm luận văn tham khảo
50000358
Download luận văn thạc sĩ ngành dân tộc học với đề tài: Ẩm thực của người Nùng ở xã Hoàng Việt, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://baocaothuctap.net
Viết về nhà giáo Nguyễn Hữu Tảo. Hiếm có ai trong ngành ta đã hội tụ khá đầy đủ những phẩm chất cao quý như nhà giáo Nguyễn Hữu Tảo. Ở Thầy tỏa chiếu lòng dũng cảm kết hợp với đức kiên trì, tính nghiêm túc, mẫu mực kết hợp với đức khoan dung, đôn hậu; tinh hoa cũ của nhà giáo Việt Nam nhuần nhuyễn với lý tưởng mới, lý tưởng cách mạng của một chiến sĩ cộng sản; với tài năng “Tri hành hợp nhất”, cống hiến suốt đời cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, xây dựng Tổ quốc phồn vinh, văn minh.
Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Download luận văn đồ án tốt nghiệp ngành du lịch với đề tài: Thực trạng và giải pháp phát triển du lịch tại làng Văn hóa du lịch Bảo Hà, xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, cho các bạn tham khảo
2. Taïp chí xuaát baûn 02 kyø/thaùng
Giaáy pheùp hoaït ñoäng baùo chí soá 397/GP- BVHTT
Vaø soá 41/GP - SÑBS
Giaáy pheùp Quaûng caùo soá 1187/BC
TOØA SOAÏN TRÒ SÖÏ
27 Höông Vieân, Q. Hai Baø Tröng, Haø Noäi
ÑT & Fax: (84.4)39.764.693
CHUÛ NHIEÄM
GS. Hoaøng Chöông
TOÅNG BIEÂN TAÄP
Nhaø baùo Nguyeãn Theá Khoa
PHOÙ TOÅNG BIEÂN TAÄP THÖÔØNG TRÖÏC
Nhaø baùo Traàn Ñöùc Trung
PHOÙ TOÅNG BIEÂN TAÄP
Ts. Nguyeãn Minh San
TRÖÔÛNG BAN TRÒ SÖÏ
Nhaø baùo Nguyeãn Hoaøng Mai
THÖ KYÙ TOØA SOAÏN
Nhaø baùo Traàn Thu Hieàn
Nhaø baùo Töø My Sôn
GIAÙM ÑOÁC ÑIEÀU HAØNH
Nhaø baùo Voõ Thaønh Taân
HOÄI ÑOÀNG BIEÂN TAÄP
GS. Vuõ Khieâu - GS. Traàn Baûng - GSTS. Traàn Vaên Kheâ
- Nhaø thô Nguyeãn Khoa Ñieàm - NS. Vuõ Maõo - GSVS.
Hoà Só Vònh - GS. Tröôøng Löu - GSTS. Thaùi Kim Lan -
TS.NSND Phaïm Thò Thaønh - NSND Ñaëng Nhaät Minh
- TS. Ñoaøn Thò Tình - GSTS. Nguyeãn Thuyeát Phong
- NB. Phaïm Ñöùc Löôïng - NB. Trung Ñoâng
BAN CHUYEÂN ÑEÀ
VAÊN PHOØNG BAN BIEÂN TAÄP
Soá 64 Trung Hoøa (Soá 06 - Loâ 12B cuõ) Khu ÑTM
Trung Yeân - Trung Hoøa - Caàu Giaáy - Haø Noäi
ÑT: (84.4)37.83.1961 - 37.83.1962
Email: chuyendevanhien@ yahoo.com.vn
VAÊN PHOØNG QUAÛNG CAÙO VAØ PHAÙT HAØNH
Soá 404 Ñöôøng Böôûi, Q. Ba Ñình - TP. Haø Noäi
ÑT: 04. 3 7717665 * Fax: 04. 3 7718875;
Mobile: (+84)989.186661
Email: trantrungvanhien@gmail.com
Website: www.vanhien.net; www.tinnhanh24.vn
VAÊN PHOØNG ÑAÏI DIEÄN TAÏI TP. HCM
288B An Döông Vöông - Q. 5 - TP. HCM
ÑT: (84.8)38.353.878
VAÊN PHOØNG ÑAÏI DIEÄN TAÏI ÑAØ NAÜNG
Taàng 5 Khaùch saïn Eiffel -117 Leâ Ñoä - TP. Ñaø Naüng
ÑT: (84.511)647.529 - Fax: (84.511)811.972
Email: chuyendevanhien@ yahoo.com.vn
Trình baøy - De. Quang Anh
TAØI TRÔÏ PHAÙT HAØNH
Doanh nghieäp saùch Thaønh nghóa - TP. HCM
In Taïi - Coâng ty TNHH MTV in Quaân ñoäi I
GIAÙ: 50.000VNÑ
nội dung
SỐ 7+8 (260)-2014
CULTURE OF VIETNAM
SỰ KIỆN - BÌNH LUẬN
4. 45 năm thực hiện Di chúc Bác Hồ
(1969-2014):“Việc riêng” của Bác Hồ
trong Di chúc của Người
Ny San
8. Thiên tài Hồ Chí Minh trong nhận
diện, đối sách với hiểm họa dân tộc
(qua đẩy đuổi 20 vạn quân Tầu Tưởng
ra khỏi miền Bắc sau Cách mạng tháng
8 / 1945)
Trương Nguyễn
12. Nỗi đau Vị Xuyên
Mạc Công Lý
16. Nhãn quan văn hóa Lê Duẩn
Nguyễn Minh Hoàng
20. Nhớ anh Sáu Dân qua những quyết
sách đối với vùng Đồng bằng sông Cửu
Long
Lữ Minh Châu
22. Võ Thị Thắng - Sống mãi “Nụ cười
Chiến thắng”
Hoàng Linh Ny
25. Những gương mặt trí thức tiêu biểu,
là yếu nhân trong Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ở Sài Gòn
Đặng Minh Phương
29. An Lão mảnh đất anh hùng
GS Hoàng Chương
HIỀN TÀI ĐẤT VIỆT
32. Vũ Khiêu - Người Hiền
Ny San
37. Tuổi 17 của Tô Hoài
Châu Giang
39. Những vấn đề đặt ra từ Tọa đàm
khoa học “Thơ Nguyễn Thế Kỷ về
Hoàng Sa, Trường Sa”
Nguyễn Thuỳ Linh
43. Tổ quốc Việt Nam
Thơ Nguyễn Thế Kỷ
44. “Về Tổ” - Bách khoa thư nhỏ về biển
đảo … bằng thơ
TS. Nguyễn Minh San
Ảnh bìa 1: Ông Bùi Văn Thắng - Phó Bí thư
Tỉnh uỷ - Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình nhận
Giải thưởng “Top 100 Nhà quản lý xuất sắc” -
2014, từ Ông Chalơnnhiapaohơ - Bộ trưởng Bộ
Tư pháp Lào và ông Nguyễn Thanh Sơn - Thứ
trưởng BNG - Chủ tịch UBNN về người Việt
Nam ở nước ngoài tại lễ Vinh danh các Đơn vị,
cá nhân tiêu biểu Asean - 2014
TỪ TRONG DI SẢN
50. Đại Huệ sơn - núi thiêng - điểm du
lịch văn hóa tâm linh xứ Nghệ
Trương Nguyễn Hà Bình
54. Sự khác và giống nhau về vũ đạo
giữa sân khấu Tuồng và sân khấu Kinh
kịch của Trung Quốc
NSƯT-Võ sư Trần Hưng Quang
57. Văn hóa của cư dân vùng biển đảo -
văn hóa của những người canh giữ thành
lũy an ninh quốc phòng cho đất nước
ThS Đặng Vũ Cảnh Linh
DIỄN ĐÀN
61. Kinh doanh văn hóa
GS.TS Lê Ngọc Trà
63. Ca sĩ Anh Thơ đưa “Xa khơi” …
xuống hạng
Phạm Việt Long
VÌ SỰ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
66. Công ty CP Mía đường Sơn La - Người
đồng hành với đồng bào dân tộc nghèo
Quang Hòa
68. Công ty Thép Việt Thái- Vươn lên từ
truyền thống của làng nghề
Đại Miêu
DOANH NHÂN TÂM - TÀI
70. Trường Đại học TDTT Đà Nẵng-
Người có “duyên nợ” với ngành TDTT
Mộng Huệ
72. Công ty TNHH MTV Hãng phim Tài
liệu & Khoa học Trung ương - Chị ấy là
Phạm Thị Tuyết
Trúc Lam
THƯƠNG HIỆU - NHÃN HIỆU - TỪ GÓC
NHÌN VĂN HÓA
74. Ngân hàng TMCP An Bình - Kiên trì
với định hướng phát triển bền vững
Thế Điệp
76. Tổng Cty cấp nước Sài Gòn - TNHH
MTV: “Cột trụ” vững chãi SaWaco
Mộng Huệ
78. Công ty CP Tập đoàn Thiên Long:
Linh hoạt vượt khó
Mộng Huệ
ĐỜI SỐNG QUANH TA
80. Lễ Vinh danh Các đơn vị, doanh
nghiệp, cá nhân tiêu biểu Asean - 2014
Bình Nguyên
3. EVENTS & COMMENTS
4. 45 years of realising Uncle Ho’s
Testament (1969-2014): “The individual
matter” of Uncle Ho in will
Ny San
8. Ho Chi Minh genius to identify, to
cope with potential hazard of the nation
(To expel 20 thousand troops of Chiang
Kai-shek after Revolution August/1945)
Truong Nguyen
12. Pain of Vi Xuyen
Mac Cong Ly
16. A Le Duan’s cultural view
Nguyen Minh Hoang
20. Remember brother Sau Dan through
his decisions on the Mekong Delta
Chau Lu Minh
22. Vo Thi Thang - Live forever with
“Winning Smile”
Hoang Linh Ny
25. The faces of the important
typical intellectuals in the August
Revolution/1945 in Saigon
Dang Minh Phuong
29. Heroic An Lao
Prof. Hoang Chuong
NMSTALENTS OF VIETNAMESE LAND
32. Professor Vu Khieu - A person
extremely rare!
Ny San
37. - Age 17 of write To Hoai
Chau Giang
39. The problems based on the scientific
seminar “Nguyen The Ky’s Poetry on
Paracel, Spratly Islands”
Nguyen Thuy Linh
43. Vietnam Fatherland
Poet of Nguyen The Ky
44. “Go Home” - A minimised Encyclopedia
on sea, islands... by poetry
Dr. Nguyen Minh San
INSIDE HERITAGE
50. Dai Hue mountain: The sacred
mountain - A tourist spiritual cultural
point in Nghe land
Truong Nguyen Ha Binh
Contents
number 7+8 (260) - 2014
54.The similarities and differences
between Tuong stage and Chinese opera
Eminent Artist, martial art Master
Tran Hung Quang
57. Culture of the inhabitants in islands:
Culture of the guards to national
ramparts, security of country
Ma. Dang Vu Canh Linh
FORUM
61. Business of culture
Prof. Dr. Le Ngoc Tra
63. Singer Anh Tho degrades “Going off
shore” ... relegation
Dr. Pham Viet Long
FOR THE COMMUNITY DEVELOPMENT
66. Son La Sugar JS Corporation -
Companion with poor minorities
Quang Hoa
68. Viet Thai Steel Corporation - Rising
from villages traditional craft
Dai Mieu
BUSINESSMAN HEART - TALENT
70. Danang University of Sport: A person
has “destiny” with sports
Hue Mong
72. Limited Company - Central Firm of
Scientific & Documentary Film - She is
Pham Thi Tuyet
Truc Lam
TRADEMARK - BRAND NAME
BY CULTURAL VIEW
74. An Binh Commercial Joint Stock
Bank - Persisting with the direction of
sustainable development
The Diep
76. Saigon Water Supplying Corp.: “A
firm column” SaWaco
Hue Mong
78. JSC Thien Long Group: Flexible
overcoming difficulties
Mong Hue
LIFE AROUND US
80. Ceremony Honoring units,
businesses, individuals representing
Asean - 2014
Binh Nguyen
4. 45 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC BÁC HỒ (1969 - 2014)
“Việc riêng” của Bác Hồ
trong Di chúc của người
Trước khi từ biệt thế giới này đúng 4 năm, 3 tháng, 18 ngày, ngày 15/5/1965, vào dịp 75 tuổi, Bác Hồ
đã viết bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, để “phòng khi sẽ đi gặp cụ C. Mác, cụ VI. Lênin
và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột
ngột”. Bản Di chúc Bác viết có sự Chứng kiến của đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Thứ nhất BCHTƯ Đảng.
Nguyên tác, Bác không đặt tên cho văn bản “Tuyệt đối bí mật” này là Di chúc, mà Bác chỉ viết là “để lại
mấy lời này, chỉ tóm tắt vài việc thôi”. Điều này đã càng thêm khẳng định sự khiêm tốn, nhân cách cao
cả của Bác. “Vài việc” mà Bác viết trong bản Di chúc, là: 1. Nói về Đảng; 2. Đoàn viên và thanh niên;
3. Nhân dân lao động; 4. Cuộc kháng chiến chống Mỹ; 5. Về phong trào Cộng sản thế giới; 6. Về việc
riêng. Bài viết này chỉ xin trình bày những suy nghĩ về “việc riêng” của Bác mà Bác viết trong Di chúc.
l NY SAN
Bác dùng một từ là “việc riêng”, tức là việc chỉ
thuộc về cá nhân của Bác, để phân biệt với
việc chung, mà Bác là lãnh tụ Đảng, là Chủ
tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong bản Di
chúc, Bác đề cập đến “việc riêng” của mình rất ít, tỷ
lệ “việc riêng” trên “việc chung” chỉ chiếm 1/6 thôi.
Qua đây, chúng ta cũng thấy Bác Hồ là người dành
“cả một đời vì nước vì dân”.
Khi Bác viết “Về việc riêng”, nếu không đọc kỹ
những việc mà Bác kể cụ thể ra, ta sẽ nghĩ đến rất
nhiều việc của một con người phải làm (hay sẽ làm)
trong môi trường gia đình và xã hội, với chằng chịt
các mối quan hệ mà, mỗi mối quan hệ đó đã (hoặc
sẽ) nảy sinh không biết bao việc/chuyện. Nào là việc/
chuyện họ hàng bên nội, bên ngoại; việc/chuyện vợ
chồng; việc/chuyện cha/mẹ - con cái; việc/chuyện
con chung, con riêng, con ngoài giá thú; việc/chuyện
đất đai/Sổ Đỏ, nhà cửa, xe cộ, tài khoản ngân hàng,…
Nói chung, nếu một người đàn ông bình thường ở vào
tuổi 75 như Bác, sẽ có vô số việc / chuyện riêng để
lại cho người thân phải giải quyết nếu chẳng may qua
đời. Không ít người, trong đó có cán bộ, Đảng viên
4
5. có chức vụ cao trong Đảng, chính quyền khi sống
luôn đặt quyền lợi riêng trên lợi ích chung, có những
chuyện không minh bạch hoặc có những chuyện
chưa thể nói, thấy không thể mang theo xuống mồ,
vào lúc lâm chung, đã phải nói ra hoặc công bố di
chúc, đã gây sốc cho người còn sống. Không ít gia
đình, sau khi người thân qua đời, muốn tìm của, tìm
đất đai, tìm con riêng của vợ hoặc chồng, đã đi tìm
cứu cánh ở gọi hồn, đưa đến không biết bao nhiêu
chuyện dở khóc, dở cười, có trường hợp gây nên thù
oán, bởi tin lời hồn nói. Đó là lẽ thường tình, ai sinh ra
rồi cũng có một lần.
“Việc riêng” của Bác mà Bác nói/đặt vấn đề trong
Di chúc, sau khi mình qua đời rồi, chỉ có Một - Việc -
Duy - Nhất. Đó là việc lo đám tang của mình thế nào
sau khi Bác qua đời. Về việc tang của mình, Bác dặn:
“chớ nên tổ chức đám đình, lãng phí ngày giờ và tiền
bạc của nhân dân”. (3 năm sau, khi Bác tròn 78 tuổi,
Bác có sửa chữa, bổ sung vào đoạn này như sau:
“chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng
phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”).
Như để chỉ dẫn các việc phải làm để tránh tốn
kém, lãng phí tiền bạc của nhân dân, Bác yêu cầu:
“thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là “hỏa táng”, “Tro
xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần Tam Đảo
và Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây
một cái nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để
những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi. Nên
có kế hoạch trồng cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng
một cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy.
Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong
cảnh và lợi cho nông nghiệp.
Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống
nhất, thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền
Nam”. (3 năm sau, khi Bác tròn 78 tuổi, Bác có sửa
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
chữa, bổ sung vào đoạn này như sau: “Tôi yêu cầu thi
hài tôi được đốt đi, tức là “hỏa táng”. Tôi mong rằng
cách “hỏa táng” sau này sẽ được phổ biến. Vì như thế
đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn
đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì “điện táng” càng
tốt hơn.
Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành.
Một hộp cho miền Bắc, một hộp cho miền Trung. Một
hộp cho miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà
chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng
đồng, mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi,
chắc chắn, mát mẻ để những người đến viếng thăm
có chỗ nghỉ ngơi. Nên có kế hoạch trồng cây trên và
chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây
làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt
cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc
nên giao phó cho các cụ phụ lão”.
Bác Hồ là người sáng lập Đảng ta, người khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước Dân
chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Công lao của
Bác với dân, với nước thật vô cùng vĩ đại. Song Bác
không bao giờ yêu cầu, đòi hỏi ở Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta một đặc ân nào cho riêng mình. Khi
kháng chiến 9 năm chống Pháp thành công, từ chiến
khu Việt Bắc trở về Hà Nội, Bác đã từ chối đến ở trong
Phủ Toàn quyền Đông Dương cũ (nay là Nhà khách
Chính phủ), mà đến ở trong ngôi nhà anh thợ điện của
Phủ Toàn quyền đã ở. Sau này, Bác ở trong ngôi nhà
sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh ao cá trong Phủ Chủ tịch,
do Trung ương làm theo yêu cầu của Bác. Hàng ngày,
Bác ăn mặc giản dị, ăn uống thanh đạm. Bác đã từng
từ chối nhận Huân chương Sao Vàng - Huân chương
cao quí nhất của Nhà nước ta. Có thể nói, Bác không
có một chút gì là của riêng tư/cá nhân, ngay cả thân
thể của Bác sau khi qua đời Bác cũng muốn được
hòa vào núi sông Đất Việt không muốn hoá thành
tượng đồng bia đá. Sinh thời Bác từng nói, gia đình
của Bác là dân tộc Việt Nam, con cháu của Bác là
các cháu thanh, thiếu niên Việt Nam. Cả đời Bác chỉ
có một mong muốn, mong muốn tột bậc là “Làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn
được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”. Cả cuộc đời Bác, chỉ một lần
duy nhất, Bác có yêu cầu cho riêng mình, khi Người
đã 75 tuổi. Lần đầu tiên trong đời, Bác đặt thẳng là
“Tôi yêu cầu” một việc riêng cho mình. Song cái việc
mà Bác - Yêu - Cầu đó, không gây sự tốn kém về vật
5
6. SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
Bác Hồ nói chuyện với bà con nông dân Hùng Sơn - Đại Từ
- Thái Nguyên năm 1954. Ảnh tư liệu
chất cho Đảng, cho dân, không đi ngược lại với truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, không vì quyền lợi
ích kỷ nào cho Bác và gia đình, họ hàng thân tộc của
Bác. Trái lại, việc Bác - Yêu - Cầu làm cho Bác ấy, lại
là việc có lợi cho dân cho nước, bảo tồn và phát huy
truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Đó là, đỡ
lãng phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân, không
lãng phí đất đai của nhà nước, giữ vệ sinh môi trường
sống cho con cháu. Trước khi đi xa, Bác vẫn còn lo
cho dân: “Tôi mong rằng cách “hỏa táng” dần dần sẽ
được phổ biến. Vì như thế đối với người sống được tốt
về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Bao giờ ta có
nhiều điện, thì “điện táng” càng tốt hơn”. Bác còn lo
cho người đến thăm Bác bị nắng gió, khuyên trồng
cây trên đồi “để những người đến thăm viếng có chỗ
nghỉ ngơi”. Bác khuyên: “Nên có kế hoạch trồng cây
trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm.
Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây nhiều
thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông
nghiệp”. Sinh thời, nỗi nhớ miền Nam không lúc nào
nguôi trong Bác: “Miền Nam luôn trong trái tim tôi”.
Trước khi đi xa, Bác vẫn thương nhớ đồng bào Miền
Nam đang ngày đêm đau khổ rên xiết dưới gót giầy
của bọn xâm lược và bè lũ tay sai khát máu. Thương
đồng bào xa xôi, nếu biết tin Bác qua đời sẽ không
quản đường xa ra viếng Bắc, vì vậy, Bác căn dặn:
“Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất,
thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam”.
(3 năm sau, khi Bác tròn 78 tuổi, Bác có sửa chữa, bổ
sung vào đoạn này như sau: “Tro thì chia làm 3 phần,
bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một
hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam”.
Các triết gia đã dạy: Xem xét, đánh giá một Nhân
Cách Lớn, hãy bắt đầu từ Những Việc Nhỏ. Trong
hành trình 79 Mùa Xuân của mình, dù chỉ là những
việc nhỏ hàng ngày, sinh hoạt đối nhân xử thế, việc
chung hay việc riêng, nhất nhất ở Bác Hồ đều toát
lên một lối sống giản dị, trong sạch, luôn luôn lo nghĩ
và làm việc có lợi cho dân, cho nước, yêu thương và
quan tâm tới đời sống của nhân dân.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Nhiều người
nước ngoài đã bàn về sức cảm hóa kỳ lạ trong con
người của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có người cho đó là
do sự hiểu biết sâu rộng, do tài trí thông minh tuyệt
vời, do ý chí nghị lực phi thường của Người. Có người
nói đó là do đức khiêm tốn, giản dị, do sự lạc quan,
tin tưởng, do tính tình thẳng thắn, cởi mở, do sự từng
trải, lịch thiệp của Người. Những điều ấy đều đúng.
Nhưng bao trùm lên tất cả ở Hồ Chủ tịch, chính là
sự quên mình vì mọi người, chính là sự ham muốn,
“ham muốn duy nhất, ham muốn tột bậc” của Người
là làm sao mang lại thật nhiều hạnh phúc cho dân,
cho nước. Cuộc sống hoàn toàn không một chút bợn
riêng tư, đã tạo nên ở Người một cái gì vô cùng trong
sáng”. (Những chặng đường lịch sử, tr 292).
Bác là một Nhân Cách Lớn không chỉ bởi Người
đã khai sinh ra nước Việt Nam DCCH, đã đưa dân
Bác Hồ đi thăm bà con nông dân xã Gia Thượng (Gia Lâm,
Hà Nội). Ảnh tư liệu
6
7. TOÀN VĂN “về VIỆC RIÊNG” CỦA BÁC
TRONG
DI CHÚC BÁC HỒ
1. Trong bản đầu tiên viết ngày 15/5/1965, vào dịp
mừng 75 tuổi, có sự chứng kiến của đồng chí Lê Duẩn,
Bác viết:
“Về việc riêng - Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức
đám đình, lãng phí ngày giờ và tiền bạc của nhân dân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là “hỏa
táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” dần dần sẽ được
phổ biến. Vì như thế đối với người sống được tốt về mặt vệ
sinh, lại không tốn đất. Bao giờ ta có nhiều điện, thì “điện
táng” càng tốt hơn.
Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn. Gần Tam Đảo và
Ba Vì như hình có nhiều đồi tốt. Trên mộ, nên xây một cái
nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ để những người
đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi. Nên có kế hoạch trồng
cây trên đồi. Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm.
Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày, cây nhiều thành
rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp.
Nếu tôi qua đời trước ngày nước ta được thống nhất,
thì nên gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam”.
2. Sau bản trên, Bác còn có 3 lần sửa chữa, bổ sung
vào bản đầu tiên, vào các dịp: bản đầu viết khi Bác tròn 78
tuổi, vào 19/5/1968, bản hai Bác viết vào tháng 5/1968,
bản 3 Bác viết ngày 10/5/1969. Song, trong 3 bản đó, chỉ
có bản đầu tiên, Bác có viết “Về việc riêng”, như sau:
“Về việc riêng: Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ
Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay
dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối
hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa,
nhiều hơn nữa.
Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh
đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.
Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là “hỏa táng”.
Tôi mong rằng cách “hỏa táng” sau này sẽ được phổ biến.
Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại
không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì “điện táng”
càng tốt hơn.
Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một
hộp cho miền Bắc, một hộp cho miền Trung. Một hộp cho
miền Nam.
Đồng bào mỗi miền nên chọn một quả đồi mà chôn
hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà
nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát
mẻ để những người đến viếng thăm có chỗ nghỉ ngơi.
Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai
đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây
nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông
nghiệp. Việc săn sóc nên giao phó cho các cụ phụ lão”.
tộc Việt Nam vẻ vang trên trường Quốc tế, mà cả
trong những việc riêng. Trong “việc riêng” mà Bác
đề nghị giúp Bác, cũng thể hiện sự khiêm nhường,
lo cho dân, không muốn phiền hà cho dân, lo nghĩ
đến lợi ích lâu dài của dân của nước. Hơn ai hết,
Bác hiểu rõ những hủ tục gây nhiều tác hại của
nhân dân ta trong việc tang ma, gây mất vệ sinh,
tốn kém tiền bạc cho những người còn sống khi có
người thân qua đời. Vì vậy, Người muốn nêu gương
trong việc tổ chức việc hậu sự cho mình, với mong
muốn dân ta cùng thực hiện vì lợi ích của mỗi gia
đình và cả xã hội.
Thực hiện Di chúc của Bác, TP Hà Nội và TP
Hồ Chí Minh đã đi đầu cả nước trong việc xây
dựng khu hỏa táng/điện táng “Đài hóa thân hoàn
vũ”. Sau nhiều năm họat động, đến nay, hình thức
táng này đã nhận được sự hưởng ứng của không
chỉ nhân dân của hai thành phố đó, mà còn là
sự lựa chọn của nhân dân nhiều địa phương lân
cận. Hà Nội đã chấm dứt họat động chôn cất tại
Nghĩa trang Văn Điển, làm cho môi rường ở khu
vực này dần dần được cải thiện, trong sạch hơn.
Tuy nhiên, trong một bộ phận nhân dân, đặc biệt
là trong không ít gia đình cán bộ, đảng viên không
học tập và quán triệt Di chúc Bác Hồ, chưa đổi mới
việc tang ma. Họ không chỉ vẫn giữ nguyên nghi
thức tang ma cũ có nhiều hủ tục, gây tốn kém tiền
của, đất đai nông nghiệp, mà nhiều người còn trục
lợi qua tang ma người thân, rất đáng chê trách.
Hiện tượng ganh đua kiểu “con gà tức nhau tiếng
gáy” của một số kẻ hợm của, lại thiếu hiểu biết về
văn hóa - tâm linh, lầm tưởng làm như thế là báo
hiếu cha mẹ, biến nghĩa địa thành nơi khoe của,
xây mồ mả to cao hoành tráng tốn kém hàng trăm
triệu đồng, thậm chí hàng tỷ đồng, chiếm nhiều đất
đai, với nhiều kiểu cách lai căng, Tây hóa, Trung
Quốc hóa, mầu mè, cầu kỳ đua nhau mọc lên ở
các nghĩa địa mà hầu như ở địa phương nào cũng
có, trong khi người dân địa phương vẫn còn nhiều
gia đình nhà tranh vách đất, gây nên sự phản cảm
ở chốn linh thiêng.
Trong phong trào xây dựng nông thôn mới hiện
nay, việc tang ma, nhân dân, trước hết là cán bộ,
đảng viên ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị cần
gương mẫu học tập và quán triệt lời căn dặn của
Bác Hồ trong Di chúc, để việc tang ma vừa tiết
kiệm, vừa văn minh./.n
7
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
8. HỒ CHÍ MINH
TRONG NHẬN DIỆN, ĐỐI SÁCH VỚI HIỂM HỌA LÂU DÀI CỦA DÂN TỘC
(QUA VIỆC ĐẨY ĐUỔI 20 VẠN QUÂN TẦU TƯỞNG RA KHỎI MIỀN BẮC SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 /1945)
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập
ngày 2/9/1945. Ngay sau khi ra đời, nước Việt
Nam mới đã phải đối phó với hoàn cảnh hết sức rối ren,
thù trong giặc ngoài bốn bề như rươi.
Kẻ thù bên ngoài đang lăm le xâm chiếm, chống
phá nước ta có ba thế lực: một là đế quốc Mỹ, hai là với
Trung Hoa Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch, ba là
với thực dân Pháp đã được Mỹ và Anh giúp trở lại xâm
lược nước ta lần thứ hai. Cả ba thế lực này đều chống
lại Việt Nam. Về ba kẻ thù này, trong tác phẩm Những
chặng đường lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết:
“Khó khăn lớn nhất lúc này là các quân đội nước ngoài
từ 4 phương cùng dồn dập kéo tới. Bọn ở gần, bọn ở
xa. Chúng khác nhau về mầu da, về tiếng nói, nhưng
l TRƯƠNG NGUYỄN
rất giống nhau ở một dã tâm: muốn thôn tính đất nước
chúng ta, muốn đẩy chúng ta trở về với cuộc sống nộ lệ”
(tr 244). Trong mối tương quan lực lượng đó, cách mạng
Việt Nam ở vào thế hết sức bất lợi, “như trứng chọi đá”.
Để đưa con thuyền cách mạng nước ta vượt qua thác
gềnh, đưa Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non
trẻ thoát khỏi thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí
Minh lãnh đạo Đảng ta, cùng với việc tổ chức xây dựng
sức mạnh Đoàn kết của toàn dân để giữ cho được độc
lập dân tộc, thống nhất lãnh thổ đất nước từ Bắc tới Nam,
lấy điều này làm cái bất biến để ứng phó với cái vạn
biến; đồng thời thực hiện việc phân hóa kẻ thù, lợi dụng
những mâu thuẫn nội bộ của từng đối tượng và những
mâu thuẫn giữa các đối tượng với nhau để tranh thủ thời
gian củng cố và xây dựng lực lượng, tránh rơi vào thế
Thiên tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet ký
bản tạm ước Việt - Pháp ngày 14-9-1946.
Ảnh tư liệu, nguồn: www.shopkienthuc.net
8
9. một mình chúng ta phải đối phó với cả ba kẻ thù trên.
Trong ba kẻ thù trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh răn Đảng
ta xác định rõ hiểm họa lâu dài đối với độc lập và toàn
vẹn lãnh thổ nước ta là kẻ thù đến từ nước láng giềng,
bọn Quốc dân Đảng Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch.
Do đó, chúng ta đã thi hành nhiều đối sách nhằm chặn
đứng mưu mô của một số quân phiệt Trung Quốc định
chiếm đóng lâu dài nước ta, đẩy đuổi 20 vạn quân Tưởng
khỏi miền Bắc, để rảnh tay đối phó với quân Pháp quay
trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai.
Tưởng Giới Thạch là người chống Cộng sản và ôm
ấp mộng chiếm Việt Nam như mọi ông vua Trung Quốc
trước đó. Từ cuối năm 1940, Mỹ đã hứa hẹn cho Tưởng
vào Đông Dương thay Pháp. Vì thế, Tưởng đã chuẩn bị
kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”, “Diệt Cộng, cầm Hồ”
(Tiêu diệt Cộng sản, bắt giữ Hồ Chí Minh). Để thực hiện
kế hoạch chiếm đóng lâu dài nước ta, Tưởng đã tập hợp,
nuôi dưỡng nhóm người Việt đang lưu vong bên Trung
Quốc giả danh “cách mạng”, trong hai tổ chức “Việt
Cách”, “Việt Quốc”, chờ cơ hội đưa chúng về nước lật đổ
chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nay, với việc quân
đội của Tưởng Giới Thạch được thay mặt quân Đồng
Minh vào miền Bắc và miền Trung Việt Nam để tước khí
giới quân Nhật, thì quả là cơ hội trời cho. Giới lãnh đạo
quân phiệt Trùng Khánh tin rằng đây là một thời cơ rất
thuận lợi để thôn tính miền Bắc và miền Trung Việt Nam
mà không phải tốn một viên đạn. Chúng tính ít nhất từ
Vĩ tuyến 16 trở ra sẽ có một chính quyền tay sai ngoan
ngoãn của Trùng Khánh.
Trên thực tế, từ cuối tháng 8 đến cuối tháng 9 năm
1945, quân Tàu Tưởng đã theo nhiều ngả ào vào miền
Bắc và miền Trung, với một số quân gần hai chục vạn
đông gấp mấy chục lần các lực lượng vũ trang ta, lại
được trang bị bằng vũ khí Mỹ, cùng với một nhóm tay
sai người Việt trong đảng phản động Việt Quốc, Việt
Cách. Bọn chúng tuyên bố thời gian quân đội Tưởng
làm nhiệm vụ ở Việt Nam sẽ không có hạn định. Giữa
tháng 9 năm 1945, đội quân Tầu Tưởng, theo sau là bọn
phản động lưu vong trong đảng Việt Quốc, Việt Cách tới
Hà Nội. Những viên tướng chỉ huy quân đội Tưởng vào
đóng ngay tại Phủ Toàn quyền Đông Dương. Còn bọn
Nguyễn Hải Thần chiếm khu trung tâm thành phố, biến
nó thành khu tự trị để tiến hành những hoạt động chống
phá cách mạng.
Hai mươi vạn quân Tưởng tràn vào Việt Nam do
tướng Lư Hán chỉ huy. Mang tiếng là đội quân thực hiện
xứ mệnh của Đồng Minh đi tước khí giới Nhật, nhưng
thực chất, đây là đội quân ô hợp, phần nhiều là dân ốm
đói, ghẻ lở, bệnh tật từ Vân Nam đến. Vì là dân phù thũng
nên dân ta mới gọi chúng là bọn “Tàu phù”. Tình thế này
Quân Anh đến Sài Gòn, tháng 9 năm 1945
lại đặt ra cho ta một hiểm họa nữa là thiếu lương thực
trầm trọng. Nước ta đang gặp nạn đói, đã có gần 2 triệu
người chết đói, nay lại phải nuôi các ông khách ốm đói,
lương thực không đủ, khó khăn chồng chất khó khăn.
Nguy cơ chết đói tiếp đã hiển hiện. Trong tác phẩm Pháp
quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh (Nxb Văn hóa thông tin,
H 2001), ông Vũ Đình Hòe, viết: “Đồng bào ta mọi nơi
điêu đứng vì họ. Ta phải cung cấp gạo, tiền, nhà ở đến
cả chiếc bóng đèn, cân đường và thuốc phiện. Những
người thời đó, hiện nay còn sống, ắt còn lợm giọng, nhìn
những đoàn quân “Tầu phù” nhếch nhác, gánh gồng nồi
niêu, chổi cùn, rế rách, đầu tóc bù xù chấy rận, qua các
chợ, thị xã vào cướp giật đủ thứ, ỉa đái lung tung. Tất
nhiên là “Hoa quân” nhập Việt Thủ đô thì có chọn lọc,
nên các đơn vị của tướng Hà Ứng Khâm đóng rải rác ở
nội thành có sạch sẽ hơn, lịch thiệp hơn chút ít. Nhưng
ách chiếm đóng vẫn đè nặng lên người dân mới được hít
Quân đội Trung Hoa Dân quốc đến Hải Phòng, năm 1945
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
9
10. thở không khí tự do….Chúng vào chiếm cả một dãy nhà
lớn (ký túc xá sinh viên) trong sân Trường Đại học phố
Bobillot. Bộ Giáo dục và nhà riêng tôi ở sát nách đấy,
anh chị em bảo vệ bảo nhau khéo mềm mỏng, đãi bọn
sĩ quan thuốc lào, kẹo vừng, kẹo lạc, thì quân của họ đỡ
quậy. Nhưng chỉ ban ngày thôi, có đêm tôi về, lính Tàu
chặn xe tôi lại, bẻ cả cờ hiệu cắm ở mui xe, tước cả súng
ngắn của chú bảo vệ. Đối với mình còn như thế thì đối
với dân chúng hách dịch và hỗn xược đến đâu. Trung
ương Đảng Dân chủ nhận được không biết bao nhiêu
thư khiếu nại của dân, nhất là đồng bào ngoại thành và
các tỉnh khổ quá, hết chịu nổi”.
Quân Tầu Tưởng còn ngang nhiên thiết lập các qui
định phi lý của chúng ở Hà Nội, phớt lờ Chính phủ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng còn áp đặt giá trị của đồng
tiền Quan kim, tiền Quốc tệ những thứ tiền giấy từ lâu đã
trở thành mớ giấy lộn. Hành động này không khác nào
hành động cướp ngày, trắng trợn cướp đoạt tiền của của
dân ta. Quân Tưởng còn dung túng cho các đảng phái
tay sai Việt Quốc, Việt Cách cố tình phá hoại cuộc đàm
phán Việt - Pháp. Họ gây áp lực để đưa người của những
đảng này vào chính phủ ta. Họ cho tay sai khiêu khích,
đẩy ta xung đột với Pháp để họ lợi dụng.
Theo lệnh quan thầy, dựa vào sức mạnh của bọn Tàu
Tưởng, các đảng phản động Việt Quốc, Việt Cách điên
cuồng thực hiện các hoạt động chống phá cách mạng
và nhân dân ta. Chúng tuyên truyền, cho mình là cách
mạng trong khi chưa hề đổ một giọt mồ hôi cho độc lập
dân tộc. Chúng đòi giải tán chính phủ Việt Minh, đòi loại
trừ những Bộ trưởng là đảng viên Đảng cộng sản, đòi
thay đổi Quốc kỳ, Quốc ca, yêu cầu Chủ tịch Hồ chí Minh
từ chức. Họ chỉ chửi bới, hạch sách mà không đưa ra
được một biện pháp gì để lo cho đất nước. Trái lại, chúng
chỉ lo cướp bóc, bắt cóc, tống tiền. Vì họ chỉ là theo đóm
ăn tàn, cho nên khó lòng nói đến chuyện thống nhất,
đoàn kết. Họ khủng bố ngay cả những người Việt Cách
cùng về với họ nhưng có tinh thần dân tộc như các ông:
Bồ Xuân Luật, Lê Tùng Sơn, Trương Trung Phụng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Đảng ta đã nhìn
thấy dã tâm của bọn Quốc dân Đảng Trung Hoa, và bọn
phản động Việt Quốc, Việt Cách, đã chỉ rõ chúng là kẻ thù
không đội trời chung của cách mạng. Ta phải cảnh giác đề
phòng chúng lật ta để thay thế bằng bọn tay sai.
Trước số quân đông và sự hung hăng của quân đội
Tưởng và bọn tay sai, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương
cần phải biết kiên nhẫn chịu đựng, giữ hòa hoãn, có thể có
những nhân nhượng với quân Tưởng để có thể tập trung
mũi nhọn và kẻ thù chính. Hồ Chủ tịch nói đó là “đường lối
Câu Tiễn” để chuyển quan hệ từ yếu sang mạnh. Đại tướng
Võ Nguyên Giáp kể lại: “Bác kiên quyết trong nguyên tắc
và linh hoạt về sách lược. Và khi sách lược đã định rồi,
Bác cũng rất kiên quyết thực hiện sách lược” (Sđd, tr 263).
Biện pháp hòa hoãn và đường lối nhân nhượng kiểu Câu
Tiễn với Trung Quốc được thể hiện:
1. Chúng ta đề ra khẩu hiệu “Hoa - Việt thân thiện”.
2. Đảng CS Đông Dương tuyên bố tự giải tán (Đảng
ta thành lập Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác, làm bình
phong cho hoạt động lãnh đạo của Đảng).
3. Đổi tên Chính phủ Lâm thời thành Chính phủ Liên
hiệp lâm thời, trong đó có Nguyễn Hải Thần (Việt Cách)
là Phó chủ tịch, Nguyễn Tường Tam (Việt Quốc) làm Bộ
trưởng Ngoại giao, Chu Bá Phượng (Việt Quốc) làm Bộ
trưởng Kinh tế và Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc) làm Phó
Chủ tịch, Luật sư Phan Anh (ngoài đảng) làm Bộ trưởng
Quốc phòng, Huỳnh Thúc Kháng (ngoài đảng) làm Bộ
trưởng Bộ Nội vụ.
4. Quân Giải phóng Việt Nam được đổi tên là Vệ
Quốc quân và được lệnh rút khỏi Hà Nội.
Song, không phải toàn dân, và ngay cả những người
cách mạng chân chính lúc đó cũng thông, cũng hiểu
được đối sách đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cụ Vũ Đình Hòe kể: “Anh em yêu cầu tôi phản ánh
tình hình lên Hồ Chủ tịch. Cụ Hồ chỉ cười: “Ông tưởng tôi
không biết à? Cán bộ đảng viên Dân chủ phải gương
mẫu chịu đựng để cho dân theo và yên tâm. Phải tập “ăn
dơ” như Câu Tiễn thuở xa xưa ấy! Đành phải giải quyết
khuyên nhủ chứ ai yên tâm được! Nhưng đấy chỉ là việc
nhỏ. Còn việc khó hơn gấp trăm, nghìn lần cơ. Tức “lộn
ruột” lên ấy chứ. Càng nghĩ lại hồi đó, càng thương ông
Cụ và bái phục Cụ. Người thường nếu không phát điên
thì cũng lo lắng, buồn bực đến bạc đầu. Thế mà ông
Cụ vẫn cứ bình tĩnh, nhún nhường, nhưng cương quyết
bảo vệ nguyên tắc chủ quyền và lãnh thổ, ôn tồn thuyết
đạo lý với họ để tìm giải pháp cho những yêu sách trịch
thượng rồ dại của chúng đối với một dân tộc vừa tổng
khởi nghĩa oanh liệt. Cụ kiên trì chiến lược, với chiến
thuật khi thì cương, khi thì nhu…Cụ Hồ luôn nhắc nhở
chúng tôi bình tĩnh, nhẫn nại, còn nước còn tát. Bàn tay
có ngón dài, ngón ngắn, song tất cả đều tụ nơi bàn tay.
Đã là người Việt Nam, nhiều ít ai cũng có lòng yêu nước.
Thà là người phụ ta chứ ta không phụ người…Với nhân
nghĩa ấy, Cụ cảm hóa được nhiều nhân vật trong họ, ít
ra thì cũng trung lập được một số trong từng vấn đề gay
cấn…. Phía Việt Minh cũng có anh em thừa hành không
kìm được phẫn uất, đã bắn lén, có khi đụng đến cả binh
lính Tàu. Ta nhớ vụ Chèm Vẽ. Vì bộ chỉ huy quân đội
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
10
11. chiếm đóng phản kháng kịch liệt, hăm dọa trả đũa, nên
Cụ Hồ đành gạt nước mắt, ra lệnh xử bắn mấy chiến sĩ
dân quân phạm kỷ luật. Chính trong bối cảnh phức tạp
như thế mà theo đề nghị của Hồ Chủ tịch, Đảng cộng
sản Đông Dương đã tuyên bố tự giải tán….(Pháp quyền
nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Sđd, tr 68).
Nhờ chính sách ngoại giao khôn khéo của chúng
ta, cộng với áp lực trong nước, sức ép của quan thầy
Mỹ đã chuyển sang ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương,
nhận thấy âm mưu chiếm đóng lâu dài đất nước ta
không có cơ thực hiện, Tưởng Giới Thạch đã bán đứng
Việt Nam cho Pháp. Ngày 28/2/1946, Chính phủ Trùng
Khánh đã ký với Pháp Hiệp ước Trung - Pháp, qui
định rõ việc quân Pháp được vào miền Bắc Việt Nam
thay thế quân Tưởng, với thời hạn chậm nhất là ngày
31/3/1946. Tuy không bị bất ngờ với hành động này,
nhưng cũng đặt cách mạng Việt Nam trước tình thế
cấp bách. Sau nhiều lần đàm phán, ngày 6/3/1946, Hồ
Chủ tịch đã ký Hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3 năm
1946 với Pháp. Nhiều người gọi Hiệp định 6/3/1946
là “Hiệp ước Mác xít”, bởi vì nó khiến Tàu Tưởng rút
về nước chúng, ta thoát một đám đông quấy nhiễu
chính quyền cách mạng, và khi Lư Hán rút về thì bọn
Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh chỉ còn cách sang
Tàu. ..Thoát khỏi cái nợ Tàu trắng, công cuộc kháng
chiến thuận tiện hơn và uy tín của Việt Minh không ai
dám tranh cãi. Song, bọn Việt Cách, Việt Quốc, ra sức
công kích, chống phá. Chúng đưa ra những khẩu hiệu
cực đoan, kích động tinh thần chống Pháp của nhân
dân, rêu rao “chính phủ bán nước”, “Hồ Chí Minh bán
nước”, kêu gọi đánh Pháp ngay. Âm mưu của chúng
là lợi dụng áp lực của nhân dân, đẩy chính phủ ta vào
thế chống lại Hiệp ước Trung - Pháp. Nhưng chúng
ta không mắc mưu chúng. Chỉ thị của Ban thường vụ
Trung ương ngày 9 tháng 3 năm 1946 nêu rõ: “dã tâm
của bọn Nguyễn Hải Thần và phái phản động Quốc
dân đảng cố ý phá cuộc đàm phán giữa ta và Pháp,
đẩy ta chống lại Hiệp ước Hoa - Pháp để cho cả ba lực
lượng: Tầu trắng, thực dân Pháp và bọn phản động
Việt Nam sẽ đứng ra lập chính phủ bù nhìn, đi đôi với
thực dân Pháp đánh ta, buộc cho ta là phiến loạn, là
chống Liên hiệp quốc, là phản hòa bình. Lúc đó, quân
Tầu trắng sẽ có cớ ở lại Đông Dương cùng bọn thực
dân Pháp và bọn phản động đánh ta”. Trong bối cảnh
đó, đúng như cụ Vũ Đình Hòe khẳng định: “Tinh thần
yêu nước, dũng cảm lúc này lại thể hiện bằng đường
lối Câu Tiễn, muốn rửa sạch cái nhục lớn phải cam
chịu cái nhục nhỏ”. Cụ Vũ Đình Hòe kể lại câu chuyện
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
diễn ra vào ngày 8/3/1946 (sau khi ký Hiệp định sơ bộ
6 tháng 3 năm 1946): “Chúng tôi vào tận phòng Cụ
Hồ đang nằm nghỉ. Không đủ ghế, chúng tôi ngồi ghé
bên mép giường như là con cháu đến thăm cha ông
ốm. Trình bày nỗi căm tức và cái khổ của đồng bào, có
người nghẹn ngào bật khóc. Ông Cụ ngồi nhổm dậy,
nắm lấy tay anh Đức (Hoàng Văn Đức) và một chị ôn
tồn nói: “Mình hiểu nỗi khổ tâm của các cô, các chú
phải nhìn trực tiếp hay thấy cảnh đau lòng của đồng
bào. Nhưng làm sao được?.... Phải tính rằng một ngày
dân ta nhắm mắt, bấm bụng “ăn dơ” thì dân ta rèn
thêm được bao nhiêu đao kiếm, vót thêm được bao
nhiêu tầm vông, mài được bao nhiêu giáo mác, đào
được bao nhiêu hố, đắp được bao nhiêu ụ. Hiểu rồi
chứ? Thế thì gắng sức an ủi động viên đồng bào. Cái
khỏe của ta là ở đấy!”.
Trên thực tế, chiến lược của Hồ Chí Minh hoàn
toàn đúng đắn. Dù có cố tình dây dưa, trì hoãn kéo dài
việc rút quân, đến ngày 18/9/1946, bộ phận cuối cùng
của quân Tưởng cũng phải rời Hà Nội về nước. Chỗ
dựa duy nhất của bọn phản động Việt Quốc, Việt Cách
là bọn Tàu Tưởng không còn thì những kẻ hung hăng
nhất như Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần, Vũ
Hồng Khanh cũng cao chạy xa bay theo quan thầy.
Trong các mạng, việc giành chính quyền đã khó,
nhưng việc giữ chính quyền còn khó hơn. Chủ tịch Hồ
Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, người khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng là người
chèo lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt
qua bao thác gềnh tới đích thành công. Trong chặng
đường đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa non trẻ này, Hồ Chủ tịch đã tìm ra hướng cách
mạng phải đi như thế nào để giữ vững chính quyền và
độc lập dân tộc. Chỉ có thể là một người có một kinh
nghiệm cách mạng toàn thế giới cũng như phải hiểu
tình hình thực tế của từng nước, trong từng hoàn cảnh
để đưa ra những yêu cầu vừa mức làm đà cho những
yêu cầu khác quan trọng hơn, đồng thời phải biết cách
xây dựng một nền tảng chính trị thực sự vững chắc để
lấy cái bất biến này chống lại mọi biến đổi như Chủ
tịch Hồ Chí Minh, mới thành công. May phúc cho dân
tộc ta có Bác! Còn một may mắn nữa, như Đại tướng
Võ Nguyên Giáp nhận xét: “Thực là may phúc cho Việt
Nam khi từ năm 1941 đến 1951, chỉ một mình Bác
quyết định tất cả, nếu một người thứ hai xen vào thì
nhất định thất bại”. (Phan Ngọc - Một thức nhận về văn
hóa Việt Nam - Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa Thông
tin, H, 2005, tr 253)./. n
11
12. KỶ NIỆM 30 NĂM TRẬN CHIẾN ĐÁNH ĐUỔI QUÂN TRUNG QUỐC Ở VỊ XUYÊN (12/7/1984 - 12/7/2014)
Nỗi đau VỊ XUYÊN
Cao điểm 772, Vị Xuyên - nơi diễn ra trận đánh ác liệt ngày 12-7-1984 - Ảnh: Hoàng Điệp
Tạo hóa khéo trêu ngươi khi bắt Việt Nam phải ở cạnh một nước lớn luôn có tham vọng xâm lược, thôn
tính Việt Nam là Trung Quốc. Ngay từ thế kỷ XII, Toa Đô (Sogatu) đã nói với Hốt Tất Liệt (Khubilai):
“Giao Chỉ liền đất với Chân Lạp, Chiêm Thành, Xiêm, Miến Điện, nên lập tỉnh ngay trên đất ấy…lấy
lương thực ở đấy cấp cho binh sĩ, tránh được vận tải đường biển mệt nhọc”. Chiếm cho kỳ được Việt
Nam hoặc bắt Việt Nam làm tay sai, đó là dã tâm chưa bao giờ thay đổi của các Hoàng đế Trung Hoa
trước kia, của Quốc dân Đảng Trung Hoa Tưởng Giới Thạch, cũng như các thế lực diều hâu ở Trung
Nam Hải từ năm 1949 đến nay. Bởi, chỉ có chiếm được Việt Nam hoặc bắt Việt Nam làm tay sai thì
Trung Quốc mới làm chủ biển Đông, mở được cửa ngõ để xâm chiếm các nước Đông Nam Á.
Để bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng và nền độc lập của mình, cũng như thể hiện trách nhiệm cao cả với
các nước trong khu vực, các thế hệ người Việt Nam đã kiên cường đứng lên chiến đấu để đánh đuổi
quân Trung Quốc xâm lược. Trong cuộc chiến đấu ấy, quân và dân các tỉnh biên giới phía Bắc có vinh
dự và tự hào là phên dậu, là những pháo đài thép giữ gìn toàn vẹn biên cương Tổ quốc.
MỎ ĐỒNG LỚN TỤ LONG - VỊ XUYÊN ĐÃ MẤT VỀ TRUNG QUỐC
Trước thời điểm Trung Quốc theo lệnh của Mao Trạch
Đông đưa quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt
Nam năm 1974 (lúc đó do Chính quyền Việt Nam Cộng
hòa quản lý theo qui định của Hiệp định Giơnevơ năm
1954, trong đó có sự tham gia của đại diện Chính phủ Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa), lợi dụng địa lý hai nước núi liền
núi, sông liền sông, ngoài những cuộc chiến tranh qui mô
lớn (đưa đại quân sang xâm chiếm, sau đó áp đặt bộ máy
cai trị), Trung Quốc thường xuyên tiến hành các cuộc chiến
xâm phạm lãnh thổ, cướp đất đai trên toàn tuyến biên giới,
đặc biệt là ở những vùng có nhiều khoáng sản quí hiếm.
Khu mỏ đồng Tụ Long thuộc huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà
Giang là một trong những địa điểm mà Trung Quốc đã dai
dẳng tiến hành các cuộc xâm chiếm ấy.
Vùng đất Vị Xuyên đời Hùng Vương thuộc bộ Tân
Cương, một trong 15 bộ của nước Văn Lang; Đời Hán thuộc
Mẹ Âu Cơ đã đi vòng trái đất
Chọn vùng tâm bão để sinh con
Thơ Trần Mạnh Hảo
l MẠC CÔNG LÝ
quận Giao Chỉ. Nước ta đời Trần gọi là châu Tuyên Quang
thuộc lộ Quốc Oai, sau đổi làm trấn. Thời thuộc Minh, đổi
làm phủ Tuyên Hóa. Năm 1644, người Mãn Châu xâm lược
Trung Quốc, đánh đổ nhà Minh, lập nên triều nhà Thanh.
Song trên thực tế, năm 1663, nhà Minh mới chính thức bị
nhà Thanh xóa sổ. Sau khi nhà Thanh ổn định cai trị miền
nam Trung Quốc, trong vòng 20 năm sau, quân Thanh
liên tục xâm chiếm biên giới nước ta, trong đó có khu vực
Vị Xuyên, một vùng có nhiều khoáng sản, đặc biệt là có
nhiều mỏ đồng, vàng, bạc, sắt,…Tụ Long là một xã thuộc
Vị Xuyên, trấn Tuyên Quang; phía Tây giáp phủ Khai Hóa
(Trung Quốc), phía Bắc giáp với Ngưu Dương (Trung Quốc)
có sông Đổ Chú làm biên giới tự nhiên. Ruộng đất màu mỡ,
mỗi năm cấy vụ mùa mỗi mẫu được 20 gánh thóc, có gỗ
thông nổi tiếng, người Trung Quốc tranh nhau mua. Ngoài
ra, có mỏ đồng và mỏ bạc ở làng Nà Ngọ.
Trước một mảnh đất giàu tài nguyên như vậy, quan lại
12
13. nhà Thanh đã tìm mọi cách để xâm chiếm. Năm 1688, quân
Thanh đánh chiếm các động thuộc ba châu Vị Xuyên, Bảo
Lạc, Thủy Vỹ, miền Tây Bắc nước ta, đặt tuần ty thu thuế
buôn bán. Nhà Lê /Chúa Trịnh đưa thư yêu cầu trả lại đất,
nhà Thanh không trả và không rút quân về nước. Năm sau
(1689), quân Thanh lại xâm phạm miền Đông Bắc nước ta,
lấn chiếm châu Lộc Bình (Lạng Sơn). Quân Thanh một mặt
cho lính xuống chiếm giữ mỏ đồng Tụ Long, một mặt gửi
thư sang báo cho bên ta là biên giới của phủ Khai Hóa kéo
dài xuống phía Nam 240 dặm, không phải chỉ là sông Đổ
Chú mà là sông Ninh Biên, lập mốc biên giới ở Xưởng Chí,
vu cho phía ta đã xâm chiếm nội địa Trung Quốc 40 dặm.
Chúng cho lập bia mốc, đắp dinh lũy và lập đồn ải.
Trước việc xâm chiếm của quan lại nhà Thanh, triều
đình Lê - Trịnh làm công văn kháng nghị gửi cho Tuần phủ
Vân Nam và Hoàng đế nhà Thanh. Tuần phủ Vân Nam lúc
đó là Ngạc Nhĩ Thái đã làm tờ thư trả lời bản tâu của triều
đình Lê - Trịnh, quở trách nghiêm khắc ta “càn rỡ” và bảo
phải làm bản tâu khác tạ tội. Triều đình Lê - Trịnh phái Trịnh
Kính là trấn thủ Tuyên Quang đem quân lên đề phòng, thổ
quan ở Tụ Long là Hoàng Văn Tuy quyết tâm giữ đất mỏ.
Chúa Trịnh Cương nghiêm sức cho quan quân Việt Nam
chuẩn bị sẵn sàng nhưng không được gây chiến trước. Thư
từ vẫn được trao đổi giữa Chúa Trịnh và Tuần phủ Vân Nam
và Hoàng đế nhà Thanh. Quân Thanh thấy quân Việt Nam
chuẩn bị sẵn sàng, khó lòng mà chiếm đoạt được vùng mỏ
Tụ Long bằng quân sự, chúng viết thư gửi triều đình ta. Bức
thư có đoạn: “Địa giới từ sông Ninh Biên trở vào, từ con ngòi
nhỏ núi Xưởng Chí trở ra, nói là địa phận của quý quốc (Việt
Nam) cố nhiên có bằng cứ nhưng nói là địa phận của nội
địa (nhà Thanh) cũng không phải là lời nói vu vơ, không
phải nói chứng cớ của quý quốc lời nào cũng chính xác mà
việc ghi chép của nội địa việc gì cũng khó tin, nhưng nay
Thiên tử đã ban ơn mà quốc vương (vua Lê) đã chịu ơn trời
ban cho, không cần tranh cãi về địa giới làm gì. Vậy nay
nhất định phân chia địa giới chỗ đất 40 dặm kể từ con ngòi
nhỏ núi Xưởng Chi trở vào và vùng Mã Bạc trở
ra, mong quốc vương ủy cho viên chức thông
thạo, định kỳ khám xét”.
Năm 1726, chúa Trịnh Cương hạ lệnh cho
Tiến sĩ Hồ Phi Tích và Thám hoa Vũ Công Tể
lên Tụ Long cùng với quan lại nhà Thanh hội
đàm. Cuộc đàm phán đã diễn ra gay gắt vì
quan nhà Thanh đã cố tình mở rộng biên giới
ra khỏi đường biên giới cũ mà hai nước đã phân
định từ thời nhà Minh. Phải mất 5 năm trời việc
đấu tranh ngoại giao để đòi lại đất Tụ Long mới
đạt được kết quả. Trước thái độ cương quyết
và mềm dẻo của phía ta qua những thư từ gửi
cho chúng, vào năm 1728, Ngạc Nhĩ Thái đã chuyển cho
ta một chỉ dụ của vua Ung Chính nhà Thanh sang cho vua
Lê, viết: “… nghĩ thưởng cho đất 40 dặm”. Chúa Trịnh Cương
đã cử một phái bộ lên Tụ Long để lập giới mốc, gồm: Tiến
sĩ Nguyễn Huy Nhuận và Tiến sĩ Nguyễn Công Thái. Nhận
trao trả đất, lấy sông Đổ Chú làm biên giới tự nhiên, nhưng
quan lại nhà Thanh đã chỉ sông Đổ Chú giả để coi vùng Tụ
Long vẫn là đất nhà Thanh. Huy Nhuận và Công Thái đã
khảo sát kĩ càng, nhận ra sông Đổ Chú thật và dùng lý lẽ
đấu tranh nên quan nhà Thanh mới phải chịu. Sự việc này
được Ngô Cao Lãng ghi lại trong sách Lịch triều tạp kỷ, như
sau: “Bấy giờ quan nhà Thanh cho chia gianh giới hai nước
bằng sông Đổ Chú, nhưng thổ quan phủ Khai Hóa chỉ láo
vào sông Đổ Chú giả để chực chặn lấy các thôn xã ở Bảo
Sơn. Bọn Công Thái xông pha lam chướng, vượt nơi hiểm
trở, đi qua các mỏ đồng mỏ bạc, nhận ra được sông Đỗ
Chú thật, bèn cùng quan nhà Thanh, hai bên tư đi báo lại,
tranh biện và bẻ lí mãi, rồi lập đồng trụ làm giới mốc. Thế
là việc cương giới mới ổn định. Mỏ đồng Tụ Long lại thuộc
về ta”.
Trong sách Kiến văn tiểu lục, Lê Quí Đôn viết: “Nay chỗ
lập giới mốc ở sông Đổ Chú, về phía đông sông là đất Tụ
Long của nước ta, bên bờ sông có bia đá, có nhà lợp bằng
tranh để che mưa nắng, cỏ mọc um tùm. Về phía Tây sông
này là đất phủ Khai Hóa, có lập bia ở trên núi đất, có nhà lợp
bằng ngói để che mưa nắng và có đặt đồn canh giữ”. Nhà
bia dựng ở mép sông Đổ Chú của nước ta có một bia đá
có khắc chữ như sau: “Giới mốc châu Vị Xuyên, trấn Tuyên
Quang, nước An Nam, lấy sông Đổ Chú làm căn cứ. Ngày
18 tháng 9 năm Ung Chính thứ 6, chúng tôi là Nguyễn Huy
Nhuận, Tả thị lang Bộ Binh, và Nguyễn Công Thái, Tế tửu
Quốc tử giám, được triều đình phái ủy, vâng theo chỉ dụ lập
bia này” (năm 1731). Văn bia của nhà Thanh ghi như sau:
“… Bọn Sĩ, Côn chúng tôi, tuân theo tờ hịch của Tổng đốc
Vân Quý (Vân Nam và Quý Châu), ngày 7 tháng 9 họp
Nghĩa trang Liệt sỹ Vị Xuyên, Hà Giang. Ảnh Hà Thanh
13
14. cùng Nguyễn Huy Nhuận và viên quan phái ủy của Giao
Chỉ, cùng bàn định, lấy con sông nhỏ ở phía nam tấn Bạch
Ma làm giới mốc. Chỗ này tức là chỗ trong tờ tâu ở quốc
vương Giao Chỉ gọi là sông Đổ Chú. Vậy, chúng tôi tuân chỉ
lập nhà bia giới mốc ở phía bắc sông. Từ đây biên cương
bền vững lâu dài, ức muôn năm, được đội không bao giờ
mai một. Ngày 18 tháng 9 năm Ung Chính thứ 6”. Như vậy,
qua 5 năm đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, nước ta đã
lấy lại được mỏ đồng Tụ Long và 17 thôn: Phủ Ni, Phủ Li,
Phủ Chu, Trị Giang, Phủ Khổn, Ma Hô, Bố Ma, Hô Khâm,
Mã Khao, Tà Lộ, Yên Mã, Mã Thọ, Tu Ca, Tông Sự và Mã
Đề” (Lê Quí Đôn, Kiến văn tiểu lục, tr 346).
Về phía ta, sau khi giữ được chủ quyền ở vùng Tụ Long,
chúa Trịnh đã phái hơn hai ngàn quân lính lên canh giữ
ngày đêm, đồng thời cho khai thác đồng, bạc và thu thuế.
Theo sách Bang giao Đại Việt - triều Lê, Mạc, Lê Trung
Hưng của tác giả Nguyễn Thế Long (Nxb Văn hóa thông
tin, 2005, tr 150-154): “Dưới thời Lê - Trịnh, mỏ đồng Tụ
Long mỗi năm nấu được tới 45 vạn cân đồng (cân ta). 100
cân đồng trị giá 9 lạng bạc. Ngay ở xưởng đồng có khoảng
300 nhà, cạnh đó là phố chợ có tới cả ngàn nhà sinh sống.
Vào khoảng năm 1720 đến 1729, có tới hàng vạn người
đúc đồng. Quặng sa nấu 4 lần mới thành đồng; đồng nấu
2 lần nữa mới được bạc, 10.000 cân đồng nấu được 8 hốt
bạc. Đồng được chở bằng ngựa thồ, mỗi con 70 cân, đi 5
ngày mới ra tới Hà Giang”. Cuộc đấu tranh giữ vững chủ
quyền lãnh thổ vào đầu thế kỷ XVIII đã thắng lợi là cuộc đấu
tranh ngoại giao kết hợp với thực lực quân sự ở mức độ cần
thiết, lúc cứng rắn, lúc mềm dẻo, với những viên quan có tài
năng và trách nhiệm cao, đã thể hiện chính sách ngoại giao
khéo léo của nước ta.
Nhưng rồi một sự bất công của lịch sử đã diễn ra. Sau
khi chiếm xong nước ta, thực dân Pháp, trong khi phân chia
biên giới với nhà Thanh, muốn mở đường sắt Lào Cai - Vân
Nam, tiến vào vùng Hoa Nam của Trung Quốc, nên đã
đem vùng đất mỏ Tụ Long rộng khoảng 750km2 của nước
ta cho nhà Thanh. Trung Quốc đã xơi không vùng mỏ đồng
Tụ Long của Việt Nam từ đấy.
VỊ XUYÊN - “THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ” Ở ĐỊA ĐẦU PHÍA BẮC
Trong lịch sử quan hệ giữa hai nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, trong thời
kỳ hai nước cùng phe XHCN, cùng trong Quốc tế Cộng
sản, hai nước từng có một kẻ thù chung. Đó là Quốc dân
Đảng Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch, phát xít Nhật (giai
đoạn từ năm 1941 - 1946), sau đó là đế quốc Mỹ. Quốc
dân Đảng của Tưởng Giới Thạch là kẻ thù của nhân dân
và cách mạng Trung Quốc, kẻ thù của Hồng quân Trung
Quốc, kẻ thù của Mao Chủ tịch, vì vậy cũng là kẻ thù của
nhân dân và cách mạng Việt Nam. Ngoài lý do đó, nhân
dân ta còn vô cùng căm thù bọn Quốc dân Đảng Trung
Hoa sau khi xua 20 vạn quân “Tầu phù” vào miền Bắc thực
hiện giải giáp quân Nhật theo yêu cầu của Đồng Minh, thực
chất là để thực hiện kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”, “Diệt
Cộng, cầm Hồ”, chiếm đóng lâu dài nước ta sau khi âm
mưu không thành, chúng đã ký Hiệp ước Trung - Pháp
(ngày 28/2/1946), bán đứng nước ta cho Pháp, với việc cho
quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng
với thời hạn chậm nhất là 31/3/1946 để làm tiếp nhiệm vụ
của Đồng Minh. Thực chất là giúp quân Pháp trở lại Đông
Dương hợp pháp, giúp Pháp thực hiện âm mưu xâm lược
Việt Nam lần thứ hai. Trong cuộc chiến chống kẻ thù chung
này, Trung Quốc đều bắt tay với kẻ thù, đâm sau lưng Việt
Nam, bán rẻ đồng đội Việt Nam vì quyền lợi dân tộc ích kỷ,
hẹp hòi của mình. Trường hợp với đế quốc Mỹ là bẩn thỉu
và đê tiện nhất. Đế quốc Mỹ chỉ là kẻ thù chung của hai
nước đến năm 1972 thôi. Bởi, năm 1972 đã diễn ra một
sự kiện làm thay đổi hoàn toàn nền chính trị thế giới, ảnh
hưởng đến phe xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Việt Nam. Đó
là sự kiện Tổng thống Mỹ Ni xon sang thăm Trung Quốc.
Trong chuyến đi này, Trung Quốc và chính quyền Ni xon
đã thực hiện một cuộc mua bán bẩn thỉu trên lưng nhân
dân Việt Nam, thể hiện trong Thông báo Thượng Hải. Theo
đó, Trung Quốc đã dùng “con bài Việt Nam” để được ngoi
lên địa vị cường quốc lớn, bình thường hóa quan hệ Trung -
Mỹ và giải quyết vấn đề Đài Loan. Còn chính quyền Nixon
có thể cứu vãn và khôi phục địa vị trên thế giới đã bị suy
yếu nghiêm trọng do hậu quả của cuộc chiến tranh Việt
Nam và bắt đầu thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” nhằm rút được quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam
mà vẫn giữ được chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Nhằm
xoa dịu hành động đâm sau lưng Việt Nam này, Mao Trạch
Đông phát biểu với các đồng chí lãnh đạo nước ta: “Thành
thực mà nói, nhân dân Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung
Quốc phải cảm ơn nhân dân Việt Nam đã đánh thắng Mỹ.
Các đồng chí chiến thắng mới buộc Nixon phải đi Bắc
Kinh”. (Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong
30 năm qua - Nxb Sự thật, H, 1979). Sau khi có thỏa thuận
mua bán trên, và nhận được cái gật đầu của Mỹ, Mao Trach
Đông đã triển khai ngay kế hoạch mà Trung Nam Hải mưu
tính từ lâu, là cho quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam lúc này đang do chính quyền Việt Nam Cộng
hòa quản lý. Mỹ để mặc cho Trung Quốc đánh chiếm quần
đảo Hoàng Sa của Việt Nam, không có hành động can
thiệp nào cứu chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Thậm chí,
Hạm đội 7 của Mỹ neo đậu gần đó còn không đếm xỉa đến
ngay cả việc điều tầu nhân đạo đi cứu những người lính Việt
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
14
15. Nam bảo vệ đảo đang đuối sức trên biển.
Chưa dừng lại ở đó, ngày 17/2/1979, với luận điệu “Đối
Việt tự vệ phản kích chiến”, “Dạy cho Việt Nam một bài
học”, dưới sự chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã
phát động cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến 6 tỉnh
biên giới nước ta. Với chiến thuật “Tiền pháo hậu xung và
biển người”, tiến hành từ 17/2/1979 đến 16/3/1979, quân
đội Trung Quốc đã gây cuộc chiến tranh đẫm máu chưa
từng có trong lịch sử nước Trung Hoa mới với quân dân 6
tỉnh biên giới nước ta. Trung Quốc khoe khoang cái gọi là sự
lớn mạnh của quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc khi
tuyên bố đã giết và làm bị thương 57.000 bộ đội Việt Nam,
đánh thiệt hại nặng 4 sư đoàn quân chính qui và 10 trung
đoàn trực thuộc khác. Đó là những thiệt hại về người, còn
về kinh tế, thì thiệt hại là vô cùng lớn, 6 thị xã xinh đẹp mà
bao đời nay nhân dân miền biên giới vất vả xây dựng, đã bị
quân Trung Quốc san bằng địa. Do bị quân và dân ta đánh
trả quyết liệt, đánh cho tơi bời, buộc Trung Quốc phải rút
quân về nước (ngày 16/3/1979). Nhưng trên thực tế, Trung
Quốc không từ bỏ dã tâm đánh chiếm lãnh thổ nước ta.
Cuối tháng 3/1984, cay cú với việc ta mở chiến dịch truy
quét tàn quân Khmer Đỏ - tay sai của Trung Quốc, đã tăng
cường quân số và hỏa lực chiếm chốt nhiều vùng đất sâu
trong lãnh thổ nước ta, trong đó có Vị Xuyên (Hà Giang).
Tại đây, chúng đã chiếm và xây dựng các công sự kiên cố
trên các cao điểm 468, 772, 685, 1509,…Từ các cao điểm
này, pháo Trung Quốc thường xuyên bắn phá các khu dân
cư và nơi quân đội ta đóng giữ.
Sau nhiều cuộc đấu tranh ngoại giao của ta mà Trung
Quốc vẫn chây ì, không chịu rút quân, trả lại đất đai xâm
chiếm, Sư đoàn 356 cùng các Sư đoàn 313, 316, 312,
314, .... của quân đội ta trên mặt trận Vị Xuyên (Hà Giang)
được lệnh giải phóng Vị Xuyên. Ngày 12/7/1984, lực lượng
ta bắt đầu mở cuộc phản công để giành lại cao điểm 468,
để từ đó chiếm lại các cao điểm 772, 685, 1509,… bị Trung
Quốc chiếm. Chỉ trong ngày hôm đó, tại điểm cao đó, hơn
600 cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn 356 đã ngã xuống. Trận
chiến ở Cao điểm 468 ác liệt không kém với trận chiến
của quân ta ở thành cổ Quảng Trị mùa Hè năm 1972. Tại
đây, cuộc chiến giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, giành giật
nhau từng vách đá, mỏm núi. Những người lính Vị Xuyên
đã nêu cao lời thề: “Sống bám đá, chết hóa đá, hóa thành
bất tử”. Tên gọi cao điểm 772 là “đồi thịt băm”, “lò vôi thế
kỷ”, “thung lũng gọi hồn” đã nói lên sự ác liệt của chiến
trường Vị Xuyên. Sau 5 năm với quyết tâm “Dạy cho quân
Bành trướng Trung Quốc một bài học” (1984-1989) chúng
ta đã đánh bật quân Trung Quốc khỏi các điểm cao, đẩy
lùi chúng về bên kia biên giới. Sau cuộc chiến, hơn 1.700
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
người lính trẻ, những người con ưu tú đến từ mọi miền Tổ
quốc đã anh dũng chiến đấu và hy sinh để giành lại từng tấc
đất thiêng liêng của Tổ quốc ở Vị Xuyên đã được qui tập về
Nghĩa trang Vị Xuyên. Vậy là, sau những Nghĩa trang Liệt sĩ
Quốc gia là nơi yên nghỉ những anh hùng liệt sĩ chống Mỹ ở
Quảng Trị, nay là Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia chống quân
Trung Quốc ở phía Bắc, trên địa đầu Tổ quốc. Đó là chưa
kể còn rất nhiều chiến sĩ khác đến nay, sau 30 năm vẫn còn
nằm trong khe đá, thung sâu của đất Vị Xuyên.
Chưa yên đâu, Vị Xuyên!
Hơn ai hết trên thế giới này, người Việt Nam hiểu rõ tâm
đen của Trung Quốc trong cuồng vọng bành trướng. Bằng
chứng là, sau tội ác trên đất liền Vị Xuyên năm 1984, thì
4 năm sau, Trung Quốc xâm lược Trường Sa, chiếm đảo
Gạc Ma và một số đảo khác, giết hại gần 80 chiến sĩ hải
quân ta. Và, mới đây thôi, sự kiện Trung Quốc ngang nhiên
đặt giàn khoan HD981 trong vùng đặc quyền kinh tế của
nước ta, cho hàng trăm tầu chấp pháp, tầu chiến hiện đại
chống phá các tầu chấp pháp, phá hủy nhiều tầu cá của
ngư dân ta trên vùng biển Hoàng Sa - chủ quyền Việt Nam.
Sau những sự kiện trên cho thấy Trung Quốc đã tự lột bỏ
bộ mặt giả dối, công khai mưu đồ, dã tâm nham hiểm của
mình xâm chiếm Việt Nam, làm bá chủ Biển Đông. Nhưng
thực lòng tôi vẫn chưa hết băn khoăn là hiện những người
ngây thơ về chính trị, từ trước đến nay vẫn còn tin vào các
luận điệu tuyên truyền bịp bợm của Trung Quốc, tin vào
Trung Quốc thực tâm giữ gìn và vun đắp cho tình hữu nghị
giữa hai dân tộc, làm theo 16 chữ vàng, hành xử theo 4 tốt,
đã hết u mê. Còn tôi, tôi cho rằng chưa yên đâu, Vị Xuyên!
Gen xâm lược Việt Nam luôn chảy trong huyết quản người
Trung Quốc, không biết vào lúc nào, những cái đầu nóng ở
Trung Nam Hải lại xua quân xâm chiếm Vị Xuyên (và các
vùng đất khác của nước ta).
Thông minh hơn, đẩy mạnh hoạt động kinh tế vùng biên
hơn, duy trì tình hữu nghị giữa nhân dân hai bên biên giới,
song phải luôn nêu cao cảnh giác, mài sắc ý chí, sẵn sàng
chiến đấu để không bị động với đòn tấn công xâm lược bất
ngờ của Trung Quốc, là tâm thế của Vị Xuyên hôm nay và
muôn sau để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng mà các thế
hệ cha ông, trong đó có những chiến sĩ của Sư đoàn 356 đã
ngã xuống nhuộm đỏ các điểm cao 468, 772, 685, 1509,…
năm 1984 - 1989. Xây dựng Vị Xuyên trở thành vùng đất
phên dậu, là một pháo đài bất khả xâm phạm canh giữ bình
yên cho Tổ quốc là trách nhiệm của mỗi người Việt Nam.
Cả dân tộc Việt Nam là điểm tựa của Vị Xuyên - nơi biên
cương Tổ quốc./.n
15
16. NHẬN XÉT VỀ VĂN HOÁ TRUNG QUỐC, VĂN HOÁ VIỆT
NAM NGAY TRONG LẦN ĐẦU TIÊN SANG TRUNG QUỐC
Tháng 6/1952, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy
Nam Kỳ, được Bác Hồ và Trung ương gọi ra chiến
khu Việt Bắc. Từ bưng biền Nam Bộ, sau gần 5 tháng
luồn rừng, vượt qua bao hiểm nguy, trải qua bao vất
vả, ngày 20/11/1952, đồng chí tới Văn phòng TƯ
Đảng ở An Toàn khu. Sau nhiều lần từ chối không
được, tháng 6/1953, đồng chí Lê Duẩn chấp hành
quyết định của Bác Hồ và Trung ương, đồng ý sang
l NGUYỄN MINH HOÀNG
Trung Quốc để chữa bệnh. Đây là lần đầu tiên đi ra
nước ngoài của ông. Vào cuối tháng 9 - 1953, trước
khi về nước, đồng chí được bạn bố trí ở khách sạn
Đại Hạ, một khách sạn lớn lúc bấy giờ, ở bờ sông
Hoàng Phố, thành phố Thượng Hải. Thành phố
Thượng Hải lúc đó mới bắt đầu cuộc sống cải tạo xã
hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp, phố xá rất
sầm uất, hàng hóa rất phong phú, nhất là hàng tiêu
dùng, vừa đẹp vừa giá hạ.Cùng thời gian này, cũng
ở khách sạn này, đồng chí đã gặp và nói chuyện với
Nhãn quan
Văn hóa
LÊ DUẨN
Đồng chí Lê Duẩn, là một trong những người học trò tiêu
biểu, xuất sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí
không chỉ là một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một nhà chiến lược
sáng tạo, một trí tuệ lớn của cách mạng Việt Nam, mà
còn là người có một nhãn quan văn hóa vô cùng sâu rộng.
Nhãn quan văn hóa ở Lê Duẩn bộc lộ rất sớm, từ khi đất
nước ta đang trong khói lửa chiến tranh, và thường thông
qua những cuộc trò chuyện thân mật trước khi biến thành
quyết sách của Đảng. Qua qua những câu chuyện đó cho
thấy Lê Duẩn có nhận thức rất đúng đắn và sự hiểu biết
vô cùng sâu sắc, uyên thâm về bản chất, vẻ đẹp, vai trò,
vị trí và sức mạnh của văn hóa Việt Nam.
16
17. đoàn đại biểu thanh niên và sinh viên Việt Nam vừa
đi dự Đại hội liên hoan Thanh niên và Sinh viên thế
giới lần thứ IV ở Bucarét (Rumani) trở về nước, đang
nghỉ cùng khách sạn. Đồng chí Nguyễn Khánh một
thành viên trong đoàn (sau này là Phó Thủ tướng
Chính phủ), kể lại: “Một buổi chiều, khoảng 5 giờ,
mấy anh chị em đang ngồi chơi trong phòng anh Lưu
Hữu Phước sau khi vừa đi thăm một nhà máy dệt về,
thì có tiếng gõ cửa, người đàn ông cao lớn mặc quần
áo Trung Quốc vào hỏi bằng tiếng Việt: “Xin lỗi, các
đồng chí có phải là Đoàn đại biểu Thanh niên Việt
Nam không?”. Anh Phước trả lời: “Đúng, chúng tôi
là Đoàn đại biểu Thanh niên Việt Nam vừa đi Đại
hội Thanh niên thế giới về”. Người kia nói tiếp: “Anh
Ba mời các đồng chí lên chơi, Anh Ba ở tầng 8. Mời
các đồng chí theo tôi”. Ngỡ ngàng không biết Anh
Ba là ai, nhưng qua cách nói của người đến mời, tôi
đoán chừng Anh Ba là một đồng chí lãnh đạo cấp
cao của Đảng ta. Nhưng anh Phước biết, nói nhỏ
với chúng tôi: “Chắc là anh Ba Duẩn, Trung ương Ủy
viên”. Tôi cùng anh Lưu Hữu Phước và một anh nữa
trong đoàn theo người đàn ông cao lớn lên tầng 8,
đến một căn phòng khá rộng, cửa vừa mở đã thấy
Anh Ba - một người gầy, xanh, tuổi ước gần 50 - từ
một ghế bành đứng dậy tươi cười: “Chào các đồng
chí thanh niên, mời vào đây”. Chúng tôi ngồi xuống
ghế nhưng còn dè dặt, chưa biết nói gì thì Anh Ba đã
nói: “Tôi sang đây dưỡng bệnh đã được gần 1 tháng.
Được biết các anh chị đi họp thanh niên quốc tế
về, có gì hay xin kể cho nghe”. Tôi thấy Anh Ba nói
giọng miền Trung ấm áp và nói chậm rãi (chứ không
nói nhanh như những năm sau này).
Tôi thay mặt các anh có mặt hôm ấy báo cáo
tóm tắt một số điểm về Đại hội III Đoàn Thanh niên
Dân chủ thế giới và Đại hội liên hoan thanh niên và
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
Đồng chí Lê Duẩn
báo cáo tình hình
cách mạng miền
Nam với Chủ tịch Hồ
Chí Minh, năm 1957.
Ảnh tư liệu
sinh viên thế giới lần thứ IV ở Bucarét, về sự ca ngợi
và ủng hộ nồng nhiệt của các bạn thanh niên hơn
100 nước đối với cuộc kháng chiến gian khổ và anh
dũng của nhân dân ta, về sự kính trọng, tôn vinh
của các bạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, về sự đón
tiếp và chăm sóc rất chu đáo, đầy tình cảm của các
đồng chí Trung Quốc, Liên Xô, Rumani ở những nơi
chúng tôi đi qua. Tôi kể về chuyến tầu hỏa đặc biệt
mà các đồng chí Trung Quốc dành riêng cho 4 đoàn
đại biểu thanh niên Trung Quốc, Việt Nam, Triều
Tiên và Mông Cổ. Chuyến tầu đặc biệt này đến mỗi
ga lớn trên đất Trung Quốc, Liên Xô, Rumani đều
dừng lại khoảng 10 phút để các đoàn xuống ga dự
mít tinhh của thanh niên và nhân dân địa phương
chào mừng các đoàn, chào mừng những thắng lợi
của nhân dân Việt Nam, nhân dân Triều Tiên trong
các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc,…Thật ra, vì
chưa biết ý tứ của Anh Ba thế nào, tôi chỉ báo cáo
mấy điểm chung đã được chuẩn bị như đã nói ở vài
nơi.
Nghe tôi nói xong, Anh Ba mỉm cười và nói một
cách hào hứng chừng 15 phút, đại ý: Các đồng chí
đi họp thanh niên quốc tế như thế là rất tốt. Các bạn
thế giới ngày càng hiểu ta, ủng hộ ta, có tình cảm
sâu sắc với nhân dân Việt Nam, với Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đó là điều rất quan trọng giúp chúng ta chiến
đấu đến thắng lợi. Ta phải làm tốt hơn, làm nhiều
hơn công tác tuyên truyền quốc tế. Tôi từ trong Nam
ra rồi sang đây chữa bệnh, mới đi đến đây thôi chứ
chưa có dịp đi Liên Xô và Đông Âu như các anh,
các chị. Nhưng tôi muốn nói để các anh các chị biết
sự suy nghĩ của tôi: Từ lúc đặt chân lên đất Trung
Quốc và thăm một số nơi ở Trung Quốc, chân thì
đi trên đất bạn mà đầu óc thì nghĩ về Việt Nam, về
đất nước của mình nhiều hơn. Có biết tôi nghĩ như
17
18. SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
thế nào không? Nhìn cảnh vật của nước bạn thấy
đồng ruộng, núi non, sông hồ chẳng khác gì ta. Nếu
nói non sông gấm vóc thì ta chẳng kém gì Trung
Quốc. Nói vẻ đẹp thiên nhiên thì Tây Hồ - Hàng
Châu không hơn được Hồ Tây - Hà Nội, khó có cảnh
thiên nhiên nào của bạn so sánh được với Vịnh Hạ
Long. Nhưng có điều khác rõ nét là ở bên này hầu
như quả núi nào, con sông nào cũng có những đền,
chùa, lăng tẩm, những công trình văn hóa, lịch sử
do con người tạo ra từ hàng trăm năm trước. Còn
ở ta thì nhiều nơi chỉ là cảnh đẹp thiên nhiên, ít có
các công trình và các công trình đều rất nhỏ. Như
vậy phải chăng ông cha chúng ta không coi trọng
văn hóa? Có phải người Việt Nam ta không có đầu
óc sáng tạo? Không phải vậy đâu! Muốn hiểu đúng
vấn đề này, phải hiểu rõ lịch sử Việt Nam, lịch sử
cuộc sống và chiến đấu của người Việt Nam, dân
tộc Việt Nam.
Có lẽ từ khi lập quốc Việt Nam cho đến bây giờ,
dân tộc Việt Nam phải liên tục chiến đầu, bằng cả
sức mạnh và tài trí của mình để chống ngoại xâm,
đánh đuổi bọn quan quân đô hộ, và bọn thực dân,
gìn giữ nền độc lập và chủ quyền quốc gia của mình.
Có những cuộc chiến đấu vì độc lập tự do kéo dài
hàng chục năm, hàng trăm năm. Các cuộc chiến
tranh xâm lược đã tàn phá, hủy hoại không biết bao
nhiêu công trình văn hóa, lịch sử của đất nước ta.
Cùng với chiến tranh kéo dài là thiên tai, bão lụt và
hạn hán xẩy ra liên tiếp ở khắp nơi. Có lẽ vì thế mà
dân ta không có nhiều thời gian và công sức để xây
dựng các công trình văn hóa ở khắp nơi như ở Trung
Quốc, cũng không có điều kiện khôi phục lại nhiều
công trình văn hóa lịch sử đã bị chiến tranh tàn phá.
Có phải vậy không? Nhưng không phải
ít có công trình văn hóa thì có nghĩa
là người Việt Nam, dân tộc Việt Nam
không có một nền văn hóa dân tộc sâu
sắc. Nền văn hóa Việt Nam có tính dân
tộc và tính nhân dân sâu sắc, thể hiện
ở tâm hồn người Việt Nam, ngôn ngữ
Việt Nam, văn học và nghệ thuật Việt
Nam, trong cuộc sống hòa bình và cả
trong chiến tranh. Chính sự phong
phú và sâu sắc của tâm hồn Việt Nam,
của nền văn hóa dân tộc Việt Nam là
nguồn sức mạnh của dân ta trong đấu
tranh cách mạng và trong cuộc kháng
chiến hiện nay. Các anh có đồng ý như
vậy không? Đấy, đi trên đất bạn, ngồi trên đất bạn,
ngắm cảnh nước bạn mà nghĩ về nước mình như
vậy đấy.
Rồi đây kháng chiến thắng lợi phải phát triển
mạnh nền văn hóa Việt Nam. Phải làm mạnh và
làm đồng thời hai việc: khôi phục và xây dựng mới
các công trình văn hóa ở từng làng, xã, từng thị
trấn, thành phố. Trong việc này ta phải học kinh
nghiệm các bạn Trung Quốc, và sưu tầm, khai thác
sức mạnh văn hóa trong tâm hồn và tri thức của
nhân dân. Phải làm sao cho nước mình đẹp hơn,
đẹp bằng cảnh vật thiên nhiên cộng với sức sáng
tạo văn hóa của người Việt Nam. Các anh có đồng
ý như vậy không?”.
Cuộc gặp Anh Ba hôm ấy đã để lại ấn tượng rất
mạnh trong chúng tôi. Chúng tôi suy nghĩ và nhớ
từng ý, từng lời của Anh Ba nói về nền văn hóa Việt
Nam khi ngồi trên đất bạn, khi đất nước ta đang
trong khói lửa chiến tranh. Có những ý mà mãi sau
này, khi làm những công việc có quan hệ nhiều đến
lĩnh vực văn hóa, tôi mới hiểu hết. Những năm sau
này tôi có nhiều dịp được làm việc trực tiếp với Anh
Ba, được nghe Anh nói về nhiều vấn đề, nhiều lĩnh
vực, nhưng tôi không bao giờ quên câu chuyện về
văn hóa Việt Nam mà Anh Ba nói ở Thượng Hải gần
50 năm trước, câu chuyện thể hiện tầm cao, chiều
sâu về tâm hồn, ý tưởng và tư duy sáng tạo của
một nhà chiến lược, một nhà văn hóa, một nhà tư
tưởng”.(1)
CHÚNG TA THẮNG VÌ CHÚNG TA THƯƠNG NHAU, VÌ
CHÚNG TA ĐAU KHỔ!
Nhân dịp Tết cổ truyền năm 1973, một số văn
nghệ sĩ, trong đó một số là người miền Nam, đến
Đồng chí Lê Duẩn thăm một lớp học ở vùng cao Mai Châu.
Ảnh: www.baomoi.com
18
19. thăm và chúc Tết đồng chí Lê Duẩn ở Hà Nội. Nhân
đó, đồng chí nói về truyền thống nhân nghĩa của dân
tộc. Nhà thơ Bảo Định Giang, một thành viên trong
đoàn hôm đó, kể lại, đồng chí Lê Duẩn khẳng định:
“Con người lao động, về bản chất là lương thiện, là
rất giàu lòng nhân nghĩa. Thời nguyên thủy, dù không
tự giác, con người sinh ra là thương nhau và cùng
lao động. Qua xã hội phong kiến thì khác. Giai cấp
thống trị hay dùng chữ “nhân”. Hay nói điều “nhân”,
nhưng thực chất chỉ là một thứ đạo đức giả. Chúng
muốn bắt người khác làm con vật để riêng chúng
được làm con người. Như thế, thử hỏi chúng làm con
người ở chỗ nào? Và “nhân” ở chỗ nào? …Trong xã
hội do giai cấp bóc lột thống trị, thì không thể có sự
công bằng, không thể có tình thương cho tất cả mọi
người. Chỉ có trong xã hội XHCN, khi chế độ người
bóc lột người bị xóa bỏ, thì mới có tình thương chân
chính. Vì vậy chúng ta phải giáo dục, bồi dưỡng tình
thương yêu giữa những người lao động. Đối với trẻ
em, theo tôi, nên bắt đầu giáo dục các em yêu Tổ
quốc, yêu đồng bào, yêu người lao động, yêu chủ
nghĩa xã hội, và vì tình yêu đó mà căm thù bọn xâm
lược, bọn bóc lột, bọn phản động. Hình như có một
số đồng chí cho rằng, nói đến tình thương là ủy mị,
rằng đó là tư tưởng tiểu tư sản, thậm chí là tư tưởng
tư sản. Không đúng đâu! Tình thương tiểu tư sản là
thứ tình thương chật hẹp, nhiều khi vớ vẩn. Còn giai
cấp phong kiến, tư sản chúng chỉ biết bóc lột nhân
dân lao động thôi, chúng chỉ thương chúng thôi, chứ
thương ai! Trong việc xây dựng con người mới, tôi
mong rằng văn hóa văn nghệ sẽ hết sức coi trọng
việc góp phần giáo dục lòng yêu thương giữa nhân
dân lao động”.(2)
Nhà văn Thép Mới (nguyên Phó Tổng biên tập
Báo Nhân dân), trong lúc đi tìm câu trả lời: Vì sao
ta thắng Mỹ, đã tìm được câu trả lời “giản dị mà có
lẽ gần chân lý nhất” từ đồng chí Lê Duẩn. Đồng
chí kể lại: “Đó là lần mà chị Mười Thập và chị Bảy
Huệ trong Ban viết sử phong trào phụ nữ Nam Bộ
đến thăm Anh Ba, nhân dịp Anh lưu lại ở TP Hồ
Chí Minh. Nhân nói đến lịch sử phong trào, nói đến
truyền thống, Anh Ba trầm ngâm suy nghĩ rồi nói ra
một điều mà tôi thấy sâu, thấy mới:
- Chúng ta đã thắng vì chúng ta thương nhau, vì
chúng ta đau khổ.
Đau thương biến thành sức mạnh, đó là điều mà
tôi được trực tiếp thấy trong mùa Xuân hồng năm
1959”(3).
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
YÊU NƯỚC VÀ VĂN HÓA DÂN TỘC CỘI NGUỒN SỨC
MẠNH ĐÁNH THẮNG MỌI KẺ THÙ XÂM LƯỢC!
Đồng chí Vũ Thắng - Nguyên Ủy viên Trung ương
Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bình Trị Thiên viết: “Anh
Ba là một người hiểu biết sâu sắc, uyên thâm về văn
hóa dân tộc. Có lần Anh hỏi tôi: “Chúng ta chiến thắng
một kẻ thù mạnh như nước Mỹ là nhờ cái gì?”. Tôi trả
lời là do Đảng lãnh đạo. Anh cười và nói: “Lại thêm một
người bảo thủ, máy móc nữa”. Và Anh phân tích: Trước
đây chưa có Đảng, sao cha ông ta thời Ngô Quyền,
Trần Hưng Đạo, Quang Trung lại đánh thắng kẻ thù
ngoại bang lớn như vậy được? Rõ ràng, đó là vấn đề
yêu nước và văn hóa dân tộc. Trong thời đại ngày nay,
lòng yêu nước quyện với văn hóa dân tộc và với sự
lãnh đạo của Đảng đã đưa lại chiến thắng của chúng
ta hôm nay. Chúng ta không nên nghĩ một chiều. Văn
hóa dân tộc ta cao lắm. Đời xưa ở bên Trung Hoa,
vì mục đích phục vụ cho chế độ phong kiến, nên tư
tưởng của đạo Khổng là quân - sư - phụ, tam cương,
ngũ thường, phu xướng phụ tùy. Những nguyên lý đó
nêu lên nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp phong kiến.
Đối với dân tộc ta không phải như vậy. Văn hóa dân
tộc Việt Nam là yêu nước, thương dân, thương mình; là
“bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng
chung một giàn”, là “thuận vợ, thuận chồng tát biển
Đông cũng cạn”, là “con hơn cha là nhà có phúc”… Tất
cả các câu này chính là nội dung truyền thống quý báu
của văn hóa dân tộc. Vì lẽ đó mà trước đây, ròng rã hơn
1.000 năm Bắc thuộc, dân ta vẫn không bị đồng hóa.
Đây là một vấn đề rất lớn, chúng ta cần suy nghĩ. Bất
cứ văn hóa nào đến Việt Nam, thì người Việt Nam cũng
biết phân biệt; tiếp thu những tinh hoa của nó để nâng
tầm văn hóa dân tộc ta lên; đồng thời thải loại những
gì phản tiến bộ, không lành mạnh trái với đạo lý Việt
Nam. Chính vì vậy , văn hóa Việt Nam có sức mạnh to
lớn và sức mạnh ấy xây đắp nên tinh thần làm chủ của
dân tộc ta” (4).
Những ý kiến của đồng chí Lê Duẩn về văn hóa
Việt Nam được ông nêu ra cách đây mấy thập kỷ,
song vẫn là những luận điểm rất cơ bản, đúng đắn,
có ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn cao trong bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam hôm
nay và mai sau./.n
-------------
1. Lê Duẩn - một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo lớn
của cách mạng Việt Nam - Nhiều tác giả - Hồi ký - Nxb Chính trị quốc
gia, H, 2002, tr 245 - 248; 2. sđd, tr 848; 3. sđd tr 776; 4. sđd tr411
19
20. Nhớ anh Sáu Dân
qua những quyết sách
đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Nguyên Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
Nguyên Chủ tịch HĐQT đầu tiên của Ngân hàng phát triển nhà ĐBSCL
Ngày 11 tháng 6 năm 2014 vừa qua là ngày
giỗ lần thứ 6 ông Võ Văn Kiệt, cố Thủ tướng
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Tên khai sinh của cố Thủ tướng là Phan
Văn Hòa ở ấp Bình Phụng, xã Trung Lương, huyện
Vũng Liêm tỉnh Vĩnh Long. Sáu Dân là bí danh của
Anh và là tên gọi thân thương quý mến của đồng
bào, đồng chí khi nhắc tên Anh. Anh sống ấm tình,
sống hết mình với Đồng bằng sông Cửu Long.
Riêng tôi, còn nhớ mãi không bao giờ quên,
tháng 5/1997, sau khi có ghị quyết của Bộ Chính trị,
Anh đi khảo sát vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long
Xuyên, Anh đề ra quyết sách “Phải sống chung với
lũ”. Về đến Tp. Hồ Chí Minh, Anh gọi tôi đến và nói
ngay: “Không thể để như vậy được, một vùng là vựa
lúa của cả nước, đảm bảo an ninh lương thực cho
Quốc gia, là nơi tập trung xuất khẩu thủy hải sản
cao nhất cả nước, mà nông dân sống nhếch nhác
tạm bợ hơn bất cứ vùng nào trong cả nước. Nhưng
muốn phát triển được phải có vốn, vốn ai lo, Ngân
hàng lo. Tôi giao cho ông xây dựng một Ngân hàng
hoạt động theo kiểu mới thích hợp để chăm lo công
việc này. Tôi thưa với Anh Sáu: “Tôi đã chuyển sang
công tác khác sau bảy năm rồi, Anh Sáu nên giao
l LỮ MINH CHÂU
Nguyên Ủy viên TW Đảng.
cho anh Cao Sĩ Kiêm, Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước hiện tại lo thì phù hợp hơn.” Anh Sáu nói “Tôi
nghĩ kỹ rồi, việc này phải có người chuyên lo mới
được. Tôi đã bàn với anh Cao Sĩ Kiêm, anh Kiêm
cũng có ý giao cho anh đứng ra thành lập, anh Kiêm
sẽ hỗ trợ tận tình. Do đó, anh cứ nhận làm, tôi trực
tiếp chỉ đạo. Việc này không phải bây giờ mới bàn
mà tôi đã báo cáo với Bộ Chính trị và Bộ Chính trị đã
có quyết định rồi.”
Tiếp theo đó, ngày 14/6/1997, Thủ tướng gửi
một thư riêng cho UBND các tỉnh ĐBSCL, UBND
Tp. Hồ Chí Minh, các tổng công ty hoạt động trong
lĩnh vực xây dựng, vật tư, sản phẩm nông nghiệp
và các Ngân hàng thương mại, nội dung như sau:
“Để góp phần đẩy nhanh việc xây dựng hạ tầng cơ
sở và chăm lo đời sống cho nông dân Đồng bằng
sông Cửu Long, qua đó khai thác tốt hơn tiềm năng
của khu vực này đảm bảo an toàn thực phẩm cho
cả nước, cần thiết phải có một định chế tài chính
mới đủ tầm vóc và điều kiện góp phần giải quyết
các vấn đề mà thực tiễn đời sống kinh tế xã hội ở
Đồng bằng sông Cửu Long đặt ra.” Tiếp theo ngày
1/7/1997, Thủ tướng đã ký quyết định số 461/TTg,
chỉ định Ban Trù bị thành lập Ngân hàng Phát triển
20
21. nhà ĐBSCL, giao trách nhiệm cho tôi làm trưởng
ban; lúc đó tôi đã 68 tuổi rồi.
Tôi bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ được giao,
gấp rút mời một số chuyên gia Ngân hàng am hiểu
vùng ĐBSCL, có kinh nghiệm xây dựng và tổ chức
các Ngân hàng làm việc khẩn trương trong 2 tháng.
Kết quả phương án hoạt động, điều lệ của Ngân
hàng đã được Ngân hàng Nhà nước thông qua.
Ngày 18/9/1997, Thủ tướng đã ký quyết định số 769/
TTg cho phép thành lập Ngân hàng Phát triển nhà
ĐBSCL, khai sinh một định chế tài chính mới nhằm
mở rộng hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Ngân hàng với mục tiêu trước mắt: Khai thác, huy
động, tập trung các nguồn vốn để đầu tư phát triển
nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần ổn định
nhà ở cho người dân, nhất là người dân ở vùng lũ lụt.
Mục tiêu lâu dài: góp phần chuyển dịch cơ cấu, hỗ
trợ cho sự phát triển toàn bộ khu vực ĐBSCL
Lúc đặt tên cho Ngân hàng, tôi có nói với Anh
Sáu cái tên “Phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu
Long” nghe ra có tính cục bộ địa phương quá. Anh
cười và khoát tay nói “Không sao, đặt tên vậy để
người ta chú ý đến nhà ở vùng ĐBSCL với chỉ số
nhà ở thấp nhất nước, sau này làm ăn khá thì phát
triển ra khắp nước, có sao đâu!”
Bây giờ ngồi ngẫm nghĩ lại thấy Anh Sáu nói
đúng. Thưa với Anh Sáu, Ban Lãnh đạo Ngân hàng
Phát triển nhà ĐBSCL hiện nay đã làm được một số
việc có kết quả tốt và còn phải làm nhiều việc nữa
mới đạt được ước vọng của Anh.
Một là Anh nói: “Khi có điều kiện phải cổ phần
hóa ngay” - Thưa với Anh ngày 14/08/2012, Ngân
hàng Phát triển nhà ĐBSCL đã chính thức đi vào
hoạt động theo một hình thức Ngân hàng TMCP,
vốn điều lệ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
là 4.575 tỷ đồng, vốn điều lệ đến nay đã có 3.369
tỷ đồng.
Việc thứ hai là nhiệm vụ đối với vùng ĐBSCL,
SÖÏ KIEÄN&BÌNH LUAÄN
Ngày 19/1/1997, Thủ tướng Võ Văn Kiệt
đến thăm và làm việc với tỉnh Bạc Liêu.
Ảnh: Anh Rô
Ngân hàng đã có một mạng lưới hoạt động đều khắp
với hơn 230 chi nhánh và phòng giao dịch, là Ngân
hàng đứng thứ 2 trong toàn hệ thống Ngân hàng
tại khu vực này (chỉ sau Agribank). Các chi nhánh
của Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL đã triển khai
tốt Nghị định 41/ND - CP ngày 12/4/2010 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ưu tiên phát triển tín dụng,
phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Ngân
hàng Phát triển nhà ĐBSCL đã dành đến 69% trên
tổng số dư nợ cho nhiệm vụ này.
Việc thứ ba Anh nói: “Khi làm tốt nhiệm vụ ở
ĐBSCL thì mở rộng ra các tỉnh khác trong cả nước,
có sao đâu”
Thưa với Anh Sáu: Ngày 23/10/2001, Thủ tướng
Chính phủ đã ký phê duyệt Đề án cơ cấu lại Ngân
hàng phát triển nhà ĐBSCL giai đoạn 2001 - 2010,
chuyển toàn bộ hoạt động của Ngân hàng theo
nguyên tắc thị trường, cạnh tranh có lợi nhuận và
xây dựng Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL thành
một Ngân hàng thương mại hoạt động đa năng,
hoạt động an toàn hiệu quả, có uy tín trong và ngoài
nước, đủ sức cạnh tranh và hội nhập. Đến nay, Ngân
hàng Phát triển nhà DDBSCL đã có mặt ở một số
tỉnh miền Bắc, miền Trung, Tây Nguyên.
Và còn một điều mà Anh mong muốn là thông qua
kênh huy động vốn để tuyên truyền cho nhân dân làm
quen với việc tiết kiệm chi tiêu, có kế hoạch chi tiêu,
đến nay cũng đã làm được. Nhân dân trong vùng đã
gửi vào tiền tiết kiệm hàng chục ngàn tỷ đồng.
Nhân dịp sắp đến ngày giỗ cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt, tôi mong anh chị em trong Ngân hàng Phát
triển nhà ĐBSCL (MHB) đến nay cũng đã đến hàng
ngàn người, từ cán bộ lãnh đạo đến anh chị em nhân
viên phải sống thật ân tình và làm việc hết mình theo
gương Anh Sáu vượt qua mọi khó khăn thử thách để
hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ mà cố Thủ tướng
Võ Văn Kiệt đã thay mặt Bộ Chính trị giao phó khi
thành lập. n
21