SlideShare a Scribd company logo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
--------

-------
TRẦN THỊ LOAN
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ
NGHỆ THUẬT TRUYỆN HOA TIÊN
CỦA NGUYỄN HUY TỰ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI – 2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
--------

-------
TRẦN THỊ LOAN
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ
NGHỆ THUẬT TRUYỆN HOA TIÊN
CỦA NGUYỄN HUY TỰ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG
HÀ NỘI – 2017
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp em xin chân thành cảm ơn
các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập nghiên
cứu và rèn luyện tại Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2. Đặc biệt em xin
gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Việt Hằng đã tận tình giúp
đỡ và hướng dẫn em thực hiện khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2017
Sinh viên
Trần Thị Loan
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận là kết quả
nghiên cứu c ủa bản thân dưới s ự hướng d ẫn của TS. Nguyễn Thị Việt Hằng.
Kết quả thu được hoàn toàn trung thực và không trùng khớp với các công
trình nghiên c ứu khác . Nếu sai sót, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2017
Sinh viên
Trần Thị Loan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu........................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận .......................................................................... 6
7. Bố cục của khóa luận .............................................................................. 6
NỘI DUNG ................................................................................................ 7
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG..................................................... 7
1.1. Tình hình lịch sử – xã hội, văn hóa – tư tưởng thế kỉ XVIII đến nửa đầu
thế kỉ XIX.......................................................................................................... 7
1.2. Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa tiên......................................................... 10
1.2.1. Cuộc đời................................................................................................ 10
1.2.2. Truyện Hoa tiên..................................................................................... 12
Chương 2. TRUYỆN HOA TIÊN THỂ HIỆN CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU
ĐÔI LỨA........................................................................................................ 19
2.1. Thể hiện câu chuyện tình yêu tự do theo tiếng gọi trái tim...................... 19
2.2. Thể hiện câu chuyện tình yêu trong khuôn khỗ lễ giáo phong kiến......... 28
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT…......................... 38
3.1. Kết cấu .............................................................................................. 38
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật............................................................. 42
3.3. Ngôn ngữ........................................................................................... 48
KẾT LUẬN.............................................................................................. 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong văn học Việt Nam trung đại, truyện Nôm giữ vị trí khá quan
trọng không chỉ bởi số lượng tác phẩm còn lại đến ngày nay mà còn bởi
chất lượng và sức hấp dẫn của nó đối với nhiều thế hệ độc giả. Có thể nói
kết tinh thành tựu văn học trung đại Việt Nam nằm ở thể loại truyện Nôm
với đỉnh cao là kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, đồng thời với đó là
truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự, Sơ kính tân trang của Phạm Thái...
được coi là niềm tự hào của văn hóa và văn học nước nhà. Với ý nghĩa như
vậy, nghiên cứu một tác phẩm truyện Nôm nổi bật là hướng đi hấp dẫn.
Những năm gần đây, chương trình giáo dục ở Đại học có nhiều thay
đổi, việc đào tạo theo hình thức tín chỉ kéo theo số giờ giảng dạy giảm đi
nhiều, một số tác phẩm ít có cơ hội được đề cập đến. Việc tìm hiểu cũng
như đào sâu khai thác là cầu nối giúp cho người đọc bước vào thế giới văn
học trung đại một cách trọn vẹn, phong phú hơn. Bên cạnh đó, truyện Hoa
tiên được đánh giá khá cao trong nhóm truyện Nôm bác học. Song tác
phẩm này chưa được giảng dạy trong chương trình, có chăng chỉ được nhắc
đến như một ví dụ minh chứng cho thể loại truyện Nôm. Vì vậy lựa chọn
truyện Hoa tiên để nghiên cứu là một cách để người viết bổ sung kiến thức
về truyện Nôm nói riêng và văn học trung đại nói chung.
Với ý nghĩa là một tác phẩm được đánh giá cao của thể loại, Hoa tiên nhận
được không ít sự lưu tâm của giới nghiên cứu khai thác trên nhiều khía cạnh song
chưa có công trình nào viết một cách bài bản bao quát cả phương diện nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm nên chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài này.
Là một sinh viên khoa Ngữ văn và một giáo viên tương lai, việc nắm được
một cách sâu rộng giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện Hoa tiên nói riêng
1
và thể loại truyện Nôm nói chung có ý nghĩa quan trọng trong công việc và
góp phần bổ sung kiến thức cá nhân.
Dựa trên những tiền đề khoa học và thực tiễn, nhận thấy nghiên cứu
giá trị nội dung và nghệ thuật là cách để bao quát đầy đủ thành tựu cũng
như hạn chế của một tác phẩm văn học, cộng với hứng thú cá nhân đã thôi
thúc người viết lựa chọn đề tài “Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật
truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự” cho khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Truyện Hoa tiên là tác phẩm được giới nghiên cứu quan tâm trên
nhiều phương diện. Chúng tôi bắt gặp một số lượng không nhỏ những cuốn
sách, những tài liệu, những công trình liên quan đến truyện Hoa tiên như
vấn đề biên khảo, khía cạnh nội dung, nghệ thuật, vấn đề tôn giáo, tác giả,
tác phẩm. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau:
Năm 1828, Vũ Đài Vấn nhận xét về tác giả và người nhuận sắc truyện
Hoa tiên rằng: “Vì Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện còn có
những chỗ kém nên ông đã không quản tài thiên lậu mà thêm bớt, mà sửa
chữa từng chữ, từng câu; đầy năm mới xong” [4,tr15].
Năm 1843, Cao Bá Quát đánh giá khá cao truyện Hoa tiên, ông khen
tác giả đã có công “dùng bụi bặm tấm cám mà hun đúc lên gạch ngói lâu
đài... khiến cho Kim Vân Kiều sau đó sinh ra được vậy” [4,tr254].
Năm 1943, Đào Duy Anh quan tâm nhiều đến thời điểm ra đời truyện Hoa
tiên đồng thời đưa ra những nội dung đánh giá bao quát về tác phẩm trong cuốn
Nguồn gốc Hoa tiên ký. Ông chỉ ra truyện Hoa tiên được sáng tác khi Nguyễn
Huy Tự còn trẻ và đưa ra những nhận định khách quan về giá trị của tác phẩm.
Năm 1961, Lại Ngọc Cang trong khi khảo thích và giới thiệu truyện Hoa
tiên nhận xét Nguyễn Huy Tự “đã viết Hoa tiên theo sát cốt truyện của ca bản,
2
theo sát cả kết cấu của nó nữa, trừ phần cuối cùng... Ông đã thu gọn hẳn câu
chuyện lại..., đã tiếp thu hầu hết những ý hay, lời đẹp của ca bản, nhưng ông
cũng đã gạt bỏ đi rất nhiều câu rườm rà, không cần thiết” [4,tr12-13].
Năm 1968, Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu
nhận định: “văn truyện ấy thật là lối văn uẩn súc, điêu luyện, dùng rất nhiều
điển cố; bởi thế cuốn ấy được các học giả thưởng thức, nhưng không được
phổ cập như cuốn Truyện Kiều của Nguyễn Du” [8,tr324].
Trong hai năm 1993 – 1994, hội thảo kỉ niệm 200 năm ngày mất
(1990) và 250 năm ngày sinh (1993) của Nguyễn Huy Tự đã được tổ chức
tại Hà Tĩnh và Hà Nội, bao gồm 25 bản tham luận, về sau được in trong
cuốn Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa tiên. Những bài tham luận đã đề cập
tới một số khía cạnh có liên quan đến đề tài người viết đang nghiên cứu:
Trần Đình Hượu với Hoa tiên và vấn đề của nó trong lịch sử truyện
Nôm cho rằng Nguyễn Huy Tự đã “dốc tài năng văn chương quốc âm ra làm
một việc hoàn toàn mới: chuyển tác một ca bản chữ Hán thành một truyện
thơ. Sau ông có những người làm theo, hoặc chuyển tác như Kim Vân Kiều,
hoặc sáng tác như Sơ kính tân trang. Cái hấp dẫn họ hay chủ đề văn học mà
họ theo đuổi là tình yêu và điều đó biểu hiện rõ trong công phu gọt rũa văn
chương những đoạn mô tả tình yêu tinh tế, sâu sắc” [29,tr188].
Phong Lê với Nguyễn Huy Tự và Hoa tiên trong cảm hứng nhân
văn và văn mạch dân tộc đã khen ngợi “Hoa tiên trong sự phát triển
của cả một dòng truyện thơ từ bình dân sang bác học quả đã ghi được
một dấu ấn quan trọng trên hành trình tinh thần và khát vọng hạnh
phúc của con người” [29,tr31].
Đào Thản với công trình Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Huy Tự trong
Hoa tiên nhận xét rằng “Nét nổi bật trong ngôn ngữ thơ của Hoa tiên là
sức diễn cảm. Từng câu thơ, đoạn thơ cứ như những cánh hoa vụng dại
3
run rẩy nở ra trước gió, đem đến cho ta cảm giác rằng chúng được viết
ra không phải bằng giấy mực mà bằng hơi thở nhịp đập trái tim và
bằng cả tâm hồn” [29,tr285].
Năm 1996, Ngô Thị Thanh Nga với Truyện thơ Nôm Hoa tiên ký qua sự
tiếp nhận của các thế hệ độc giả in trên tạp chí Khoa học và Công nghệ đưa ra
nhận định: “Dù sự tiếp nhận của các độc giả về Hoa tiên ký không nhiều, nhưng
những giá trị về nội dung, nghệ thuật cũng như giá trị mở đường cho sự phát
triển của văn học Nôm nói chung và thể loại truyện thơ nôm nói riêng của tác
phẩm cũng đã được các độc giả khẳng định một cách vững chắc” [58(10)].
Năm 2004, Lại Văn Hùng trong cuốn Từ điển văn học cho rằng tác giả
viết truyện Hoa tiên vào thời trẻ đồng thời khen ngợi Nguyễn Huy Tự đã
biết “biến lối văn “kể và thuật” của ca bản Trung Quốc thành lối văn “tả và
gợi” [21,tr1151].
Năm 2004, Nguyễn Lộc quan tâm vấn đề truyện Hoa tiên so với các
tác phẩm truyện Nôm khác cùng thời, ông nhận định “Hoa tiên là một câu
chuyện tình xảy ra trong cảnh lầu son gác tía. Điều đáng chú ý là trong tác
phẩm này là không có một nhân vật phản diện nào cả. Mâu thuẫn giữa tình
yêu và lễ giáo phong kiến không thể hiện thành hai tuyến nhân vật đối lập,
như trong nhiều truyện Nôm khác cùng thời, mà thành cuộc đấu tranh giữa
lý trí và tình cảm ở những nhân vật chính” [21,tr600].
Điểm qua một vài công trình nghiên cứu về vấn đề truyện Hoa tiên, chúng
tôi nhận thấy hầu hết các khía cạnh của tác phẩm đã được các nhà nghiên cứu
quan tâm. Nhưng nếu nhìn nhận một cách khách quan ta có thể thấy các công
trình, các bài viết chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó của vấn đề, chưa có công
trình nào khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Tất cả những
công trình, những bài viết, những ý kiến, nhận định, đánh giá của các nhà
4
nghiên cứu trên đây là những gợi ý quý báu trong việc đi sâu khai thác tác
phẩm về mặt nội dung và nghệ thuật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là hoàn thành một công trình nghiên cứu về
giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Hoa tiên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về thời đại Nguyễn Huy Tự trên hai phương diện lịch sử,
xã hội và văn hóa tư tưởng, từ đó nhìn nhận những căn cứ quan trọng có tác
động đến tác giả.
- Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Huy Tự cùng những vấn đề
liên quan đến tác phẩm.
- Làm rõ những khía cạnh cơ bản về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
Hoa tiên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là truyện Hoa tiên. Ở đây chúng
tôi sử dụng văn bản trong cuốn Truyện Hoa tiên, Lai Ngọc Cang khảo thích
và giới thiệu, NXB Văn Hóa Hà Nội,1961.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu giá trị nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm truyện Hoa tiên.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu văn học Sử.
- Phương pháp liên ngành.
- Thao tác thống kê phân loại.
- Các thao tác chứng minh, lập luận, phân tích tổng hợp.
5
6. Đóng góp của khóa luận
Đưa ra một công trình nghiên cứu khái quát về giá trị nội dung và
nghệ thuật của truyện Hoa tiên.
7. Bố cục của khóa luận
Khóa luận được triển khai theo ba phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung được chia thành ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung
- Chương 2: Truyện Hoa tiên thể hiện câu chuyện tình yêu đôi lứa.
- Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật.
6
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tình hình lịch sử – xã hội, văn hóa – tư tưởng thế kỉ XVIII đến
nửa đầu thế kỉ XIX
Truyện Hoa tiên ra đời trong giai đoạn văn học thế kỉ XVIII đến nửa đầu
thế kỉ XIX. Đây là giai đoạn tổng khủng hoảng một cách trầm trọng, toàn
diện. Sự khủng hoảng này được bộc lộ trên nhiều phương diện nhưng nổi bật
nhất là sự suy thoái trong toàn bộ cơ cấu của chế độ phong kiến. Những mâu
thuẫn chất chứa trong lòng xã hội phong kiến đến giai đoạn này bộc lộ gay gắt
và bùng nổ thành những cuộc đấu tranh quyết liệt. Các tập đoàn phong kiến
liên tiếp thay thế nhau thống trị đất nước, chỉ trong một thời gian ngắn, vua Lê
mất, chúa Trịnh diệt vong, Nguyễn Huệ lên ngôi. Sự biến động này kéo theo
mâu thuẫn trong nội bộ triều chính. Tất cả tình hình kinh tế, chính trị như vậy
dẫn đến kết quả những cuộc nội chiến kéo dài, nhiều cuộc khởi nghĩa nông
dân đã nổ ra chống lại triều đình ở cả hai miền Nam, Bắc và giai cấp thống trị
cực đoan. Đỉnh cao là phong trào Tây Sơn – cuộc khởi nghĩa của người anh
hùng áo vải Nguyễn Huệ giành được những thắng lợi vẻ vang, đánh đổ ba tập
đoàn phong kiến thống trị trong nước, đánh tan 20 vạn quân Thanh xâm lược,
lập nên một vương triều phong kiến mới với nhiều chính sách tiến bộ, xây
dựng nước Việt độc lập, tự chủ, dân giàu, nước mạnh, nhân dân được hưởng
thái bình. Chính vì vậy, “thế kỷ XVIII được giới sử học mệnh danh là thế kỷ
của chiến tranh nông dân” [28,tr5]. Thời đại nhiều biến cố đã gây ra tác động
không nhỏ đến các trí thức nho học và bản thân chính tác giả Nguyễn Huy Tự
lúc bấy giờ. Đây là thời điểm các triều đại liên tiếp thay thế nhau, chữ “trung”
bị suy đồi, vua tôi đảo lộn dẫn đến bi kịch của giới trí thức nho học mông lung
trước chữ “trung” của mình. Phạm Thái từng kêu lên:
7
Dăm bảy năm nay những loạn ly,
Cũng thì duyên phận cũng thì thì.
Ba mươi tuổi lẻ là bao nả,
Năm sáu đời vua khéo chóng ghê.
Văn hóa tư tưởng giai đoạn này cũng khủng hoảng nghiêm trọng. Nho giáo
vốn được coi như phương tiện đắc lực để các triều đại nắm quyền sử dụng điều
hành đất nước đến đây lung lay không thể cứu vãn. Tam cương, ngũ thường của
người quân tử bị đảo lộn, mọi kỷ cương bị phá vỡ, chúa hiếp đáp vua, con âm
mưu lật đổ cha, bề tôi nhiều người phản trắc, đồng tiền và quyền lực mới là mục
đích tối cao, quan lại, nho sĩ biến chất. Điều này được diễn tả khá sinh động
trong Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái. Vua Lê trở thành bù nhìn,
toàn bộ việc triều chính nằm trong sự sinh sát của chúa Trịnh. Chúa hiếp đáp vua
đến nỗi biến vua thành tên hề ngay trên cung điện của mình, còn vua tự biến
mình thành một kẻ hèn nhát với phương châm “Trời xui nhà chúa phò ta. Chúa
gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa tức là cái lo lại về ta, ta còn vui gì?”.
Trịnh Sâm say đắm, mải mê sắc đẹp của Đặng Thị Huệ mà gây ra sai lầm nghiêm
trọng trong việc lựa chọn Trịnh Cán quanh năm ốm yếu làm thế tử; Trịnh Tông
vì tham vọng làm chúa mà trái mệnh cha, mưu đồ phản loạn. Ngay cả đạo quần
thần cũng bị chà đạp, Tuần huyện Nguyễn Trang đã nộp chúa Trịnh Tông cho
Tây Sơn, không chỉ vậy, hắn còn bộc lộ trắng trợn quan điểm của mình trước
thầy học Lí Trần Quán “Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân
mình, tôi không để quan lớn để cho lầm lỡ đâu”.
Minh chứng này cộng với việc nội bộ các triều đại vì tranh ngôi báu
mà phá vỡ mọi rường mối Nho giáo, chữ “trung”, chữ “hiếu” bị kéo đổ
thảm hại. Trong bối cảnh này tầng lớp trí thức Nho học bị rơi vào khủng
hoảng, bế tắc, hầu hết đều mang trong mình những tâm sự bi kịch. Nguyễn
Du viết trong Tạp thi:
8
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
(Tráng sĩ đầu bạc ngửng nhìn trời, lòng bi
đát Hùng tâm, sinh kế cả hai đều mờ mịt)
Cao Bá Quát với Bệnh trung:
Trắc thân thiên địa bi cô chưởng
Hồi thủ yên tiêu khuất tráng đồ
(Đất trời đau nỗi bàn tay lẻ
Mây khói che đường chí khí to)
Tình hình xã hội ngày càng đi vào khủng hoảng, bế tắc, đời sống chính
trị ngày càng rối ren thì “con người không có cách nào khác là đi tìm tín
ngưỡng tôn giáo để cứu cánh” [6,tr83]. Nếu như Phật giáo và Đạo giáo trước
đây suy thoái (thế kỷ XVI) thì đến giai đoạn này lại có điều kiện phục hồi, tuy
nhiên không bằng giai đoạn trước đó. Đạo Phật lúc này được coi trọng trở lại,
nó phát triển trong lúc các tín ngưỡng dân gian ngày càng được mở rộng,
nhiều chùa quán được xây dựng, một số chùa được trùng tu lại. Phật giáo tồn
tại, gắn bó, ăn sâu vào tiềm thức tâm linh của con người và có ảnh hưởng sâu
sắc đến tư tưởng, tâm lí, nếp sống của nhân dân. Đạo giáo cũng có những ảnh
hưởng nhất định đến đời sống tâm hồn của người dân, nó được coi là “thứ
thuốc chính thống cho các vết thương tâm hồn” [14,tr51]. Đạo giáo “thấm
nhuần tư tưởng lãng mạn, chủ trương trở về với tự nhiên, thoát li đời sống xã
hội, phản kháng những lễ nghi, bổn phận đạo Khổng tạo ra…” [14,tr50].
Dựa trên nền tảng của luận lý xã hội lúc bấy giờ, cụ thể là trên tinh thần Nho
– Phật – Đạo, là quy phạm cương thường của người quân tử, lòng từ bi bác
ái của con người, là triết lý sống hòa hợp với tự nhiên để được dân gian
hóa, trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam.
9
Giai đoạn văn học thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đánh dấu sự ra đời
của khuynh hướng văn học “dân chủ nhân văn”. Các tác giả chủ yếu hướng ngòi
bút của mình vào thân phận con người, tình yêu và khát vọng hạnh phúc. Thời
điểm này truyện Nôm khá phát triển, người ta có xu hướng viết về những vấn đề
lịch sử, trong đó có một hướng đi nổi trội lúc bấy giờ là dựa trên cốt truyện có
sẵn, tiểu thuyết tài tử giai nhân của Trung Quốc để viết lại. Truyện Kiều là một ví
dụ. Nguyễn Du đã mượn cốt truyện từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân mà sáng tạo ra Truyện Kiều bằng thơ lục bát dài 3254 câu thơ đậm đà bản
sắc Việt Nam. Truyện Hoa tiên cũng vậy, dựa theo một ca bản của Trung Quốc
có tên gọi Đệ bát tài tử Hoa tiên ký, Nguyễn Huy Tự đã có những sáng tạo riêng
để tạo thành một tác phẩm mang tinh thần dân tộc.
Giai đoạn này, mọi giá trị, mọi ràng buộc con người của lễ giáo phong
kiến tất yếu có ảnh hưởng tới sáng tác văn chương. Văn học Việt Nam thế
kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX viết nhiều tình yêu và người phụ nữ với
kiểu mẫu “công dung ngôn hạnh”, “xuất giá tòng phu”... và những khuôn
khổ đạo đức của lễ giáo phong kiến. Truyện Hoa tiên là một câu chuyện
dài thể hiện tình yêu đôi lứa trong khuôn khổ trật tự phong kiến.
1.2. Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa tiên
1.2.1. Cuộc đời
Nguyễn Huy Tự, còn có tên gọi khác là Yên, tự là Hữu Chi, hiệu là
Uẩn Trai, sinh ngày 15 tháng 7 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4 đời vua Lê Hiển
Tông, tức là ngày 2 tháng 9 năm 1743, người làng Trường Lưu, xã Lai
Thạch, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Can Lộc), tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Huy Tự là con trưởng Nguyễn Huy Oánh và bà chính thất họ
Nguyễn, ông nổi tiếng học rộng biết nhiều. Tương truyền “Ông bác thiệt cổ
kim, lại giỏi thuật số, cho nên những thi họa, quốc âm, thanh luật, kỹ nghệ
10
không món gì là không tinh tuyệt. Khâm hoài tiêu sái, khí cục hiên ngang, mà
lúc trò chuyện bàn bạc thì mãn tọa không ai không lắng tai nghe” [16,tr211].
Ông tổ xa xưa của họ Nguyễn Huy là Nguyễn Uyên Hậu, đậu ngũ kinh bác
sĩ đời Hồng Đức. Thế tổ là Nguyễn Hàm Hằng, mười lăm tuổi đậu hương thí, các
đời sau đời nào cũng có người đỗ đạt và làm quan. Ông nội của Nguyễn Huy Tự
là Nguyễn Huy Tựu đậu hương giải, làm Tham chính xứ Thái Nguyên, lúc chết
được phong Công bộ Thượng thư. Cha Nguyễn Huy Tự là Nguyễn Huy Oánh,
đậu thám hoa, giữ chức Hộ bộ Thượng thư, từng đi sứ Trung Quốc. Chú của
Nguyễn Huy Tự là Nguyễn Huy Quýnh, đậu tiến sĩ, sau đổi sang làm quan võ,
giữ chức Đốc thị đạo Quảng Thuận, cũng là một người có tài văn học.
Năm 1759 (mười sáu tuổi), Nguyễn Huy Tự đậu thứ năm kỳ thi
hương, lúc bấy giờ Nguyễn Huy Oánh đang làm Nhập nội thị giảng ở phủ
chúa, ông được bổ chức Thị nội văn chức tùy giảng để giúp cha. Sau đó
liên tiếp ông giữ các chức Hồng lô tự thừa (1767), Tri phủ Quốc Oai
(1768), Hiến sát phó sứ Sơn Nam (1770). Năm 1774, đổi sang làm quan võ,
Nguyễn Huy Tự giữ chức Quản binh, bốn năm sau thăng lên làm Trấn thủ
xứ Hưng Hóa. Năm 1779, ông được đặc ban Tiến triều ứng vụ, ngang với
tiến sĩ, sau đó làm Đốc đồng trấn Hưng Hóa rồi kiêm Đốc đồng Sơn Tây.
Được ít lâu thì mẹ vợ mất, lại có loạn kiêu binh, Nguyễn Huy Tự lấy cớ xin
về nhà chịu tang rồi không ra làm quan nữa.
Nguyễn Huy Tự lấy hai đời vợ, vợ trước là Nguyễn Thị Bành, vợ kế là
Nguyễn Thị Đài, cả hai đều là con gái Nguyễn Khản, anh cả nhà thơ Nguyễn
Du và đều giỏi chữ Nôm. Ông có mười ba người con, chín trai và bốn gái.
Năm 1790, ông được vua Quang Trung triệu vào Phú Xuân bổ chức
Hữu thị lang, ông làm được mấy tháng thì bệnh nặng và mất ngày 27 tháng
7 năm 1790, thọ 48 tuổi.
11
1.2.2. Truyện Hoa tiên
Như chúng tôi đã trình bày, Nguyễn Huy Tự sống trong thời kỳ khủng
hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến và sự suy yếu của tập đoàn thống trị
Lê – Trịnh. Ông tích cực tham gia hoạt động, tạm thời gác lại nghiệp văn thơ
để cầm vũ khí nhằm bảo vệ trật tự xã hội đang bị lay chuyển. Bởi vậy, hẳn
đây không phải là thời gian nhàn rỗi và là nguồn cảm hứng để ông có thể sáng
tác truyện Hoa tiên. Dựa vào ghi chép về dòng họ Nguyễn Huy, nhà phê bình
Hoài Thanh đã đưa ra nhận định “Nguyễn Huy Tự đã viết Hoa tiên hồi còn
nhỏ tuổi” [26,tr104]. Ý kiến này có cơ sở và khá chuẩn xác.
Vào thời chúa Trịnh Doanh, sau khi đậu thứ 5 kì thi hương khi mới 17
tuổi, Nguyễn Huy Tự rời quê lên Thăng Long giúp cha giảng sách ở phủ
Thế tử. Từ lâu, phong trào sáng tác thơ văn chữ Nôm đã thịnh hành ở
Thăng Long. Trịnh Doanh, Trịnh Sâm và Nguyễn Huy Oánh đều có tài làm
thơ Nôm, Nguyễn Huy Tự cũng là người có sở trường về thơ phong tình.
Nguyễn Huy Tự đã đính ước với con gái của Nguyễn Khản. “Tư thất của
Nguyễn Khản dựng ở xóm Bích – câu, nhà cửa lộng lẫy, vườn đầy hoa thơm
cỏ lạ, không kém gì vườn chúa nên thường được Trịnh Sâm ra chơi và tỏ lời
khen ngợi” [4,tr11]. Khi Nguyễn Huy Tự đến làm rể ở phủ Nguyễn Khản đã
cảm nhận được vẻ đẹp cảnh vật, chàng trai đang tuổi hai mươi rạo rực yêu
đương mới thấy hết được giá trị của ca bản Hoa tiên ký. Nhà phê bình Tĩnh
Tịnh Trai bình luận rằng đó là một truyện “khởi bằng gió trăng, kết bằng gió
trăng mà trong khoảng giữa, không có chỗ điểm xuyết nào thoát ra ngoài hai
chữ gió trăng” [4,tr10]. Cảm xúc tuổi trẻ trong Nguyễn Huy Tự rất thích hợp
viết một truyện dài về yêu đương và công danh như truyện Hoa tiên.
Từ việc nghiên cứu nguyên tác kết hợp với tìm hiểu cuộc đời Nguyễn Huy
Tự cho phép chúng tôi khẳng định: “Nguyễn Huy Tự đã viết truyện Hoa tiên
khoảng giữa thế kỷ XVIII, từ năm 1759 (năm ông tới Thăng Long) đến năm
12
1768 (năm được bổ làm quan ở Sơn Tây), lúc này ông vào khoảng 17 – 26
tuổi” [4,tr12].
Truyện Hoa Tiên theo GS. Nguyễn Lộc “bản nguyên tác của Nguyễn
Huy Tự có độ dài là 1.532 câu lục bát. Sau khi được một người em họ bên vợ
là Nguyễn Thiện sửa chữa và thêm thắt thì bản truyện có tất cả là 1.826 câu”
[21,tr600], và được Đỗ Hạ Xuyên khắc ván in đầu tiên vào năm Ất Hợi (1875)
đời Tự Đức, với nhan đề là Hoa tiên nhuận chính, hay Hoa tiên nhuận chính
tân biên. Tuy nhiên, theo văn bản có trong sách Văn học thế kỷ 18 do PGS.
Nguyễn Thạch Giang chủ biên, thì “bản nhuận sắc chỉ có 1.766. Nhưng, theo
nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm thì bản này có đến 1.858 câu” [9,tr70].
Sự ra đời của truyện Hoa tiên là một thành công lớn của văn học cổ
điển dân tộc. Việc nhuận sắc tác phẩm được coi là vấn đề đáng lưu tâm.
Nghiên cứu cho rằng Nguyễn Huy Tự viết truyện Hoa tiên vào khoảng từ
năm 1759 đến năm 1768, khi ông khoảng 17 đến 26 tuổi. Sau đó tác phẩm
đã qua tay nhiều người nhuận sắc, có thể điểm qua như sau:
Nguyễn Thiện được coi là người đầu tiên có công nhuận sắc truyện
Hoa tiên. Nguyễn Thiện, tự Khả Dục, hiệu Thích Hiên, sinh ra ở làng Tiên
Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Là con nhà quan lại khá giả, cháu
gọi Nguyễn Khản bằng bác, gọi thi hào Nguyễn Du bằng chú.
Bàn về việc nhuận sắc tác phẩm có nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh vấn
đề Truyện Kiều của Nguyễn Du chịu ảnh hưởng từ truyện Hoa tiên của Nguyễn
Huy Tự hay ngược lại? Ông Đào Duy Anh đã đưa ra giả thuyết “Nguyễn Du đã
viết Truyện Kiều trong khoảng 1805 – 1809. Nguyễn Thiện đã đọc tác phẩm ấy
rất kỹ và có lẽ chính nó đã tạo nên cảm hứng nhuận sắc truyện Hoa tiên của
Nguyễn Huy Tự” [4,tr18]. Ý kiến này đã giải quyết ổn thỏa vấn đề nhuận sắc của
Nguyễn Thiện. Nhận thấy truyện Hoa tiên và Truyện Kiều có mối ảnh
13
hưởng qua lại tác động lẫn nhau. Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều ít nhiều
đã chịu ảnh hưởng của truyện Hoa tiên:
Truyện Hoa tiên nguyên tác:
Bụi hồng dứt nẻo đi về chiêm bao
Truyện Kiều viết:
Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao
Tuy nhiên Nguyễn Du đã tiếp thu một cách có chọn lọc và sáng tạo
đem lại sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm của mình.
Trong việc nhuận sắc truyện Hoa tiên, Nguyễn Thiện đã dụng công tô
đậm quan niệm trung hiếu, tiết nghĩa bằng cách viết lại phần mở đầu.
Nguyễn Huy Tự mở đầu tác phẩm bằng cách tả cảnh đêm thông qua việc
đối chiếu chuyện Ngưu Lang – Chức Nữ trên trời với chuyện tình yêu của
con người mà vào truyện:
Nương lan nhẹ hóng mát chiều,
Vàng pha gió quế, trắng dìu hương sen.
Gác rèm câu nguyệt xiên xiên,
Này hôm ả Chức chàng Khiên họp vầy.
Ngược lại, Nguyễn Thiện khi nhuận sắc truyện Hoa tiên đã mở đầu
bằng hai chữ “trăm năm” như Truyện Kiều:
Trăm năm một sợi chỉ hồng
Buộc người tài sắc vào trong khuôn trời
Ngoài ra, Nguyễn Thiện cũng nhấn mạnh tính chất triết lý, một số tư
tưởng Nho giáo thời bấy giờ. Ông thường coi trọng cách diễn tả con người
qua hành động và cả nội tâm nhân vật.
14
Kết cấu truyện cũng đã có sự thay đổi đáng chú ý khi Nguyễn Thiện
nhuận sắc. Ở bản Hoa tiên nguyên tác sau hồi Phủ Lưu ép duyên, tiếp theo
hồi Lương Sinh bàn kế đánh giặc rồi mới đến hồi Ngọc Khanh gieo mình
xuống sông. Trong bản Hoa tiên nhuận sắc Nguyễn Thiện đã đổi hồi Ngọc
Khanh gieo mình xuống sông lên trước hồi Lương sinh bàn kế đánh giặc để
đảm bảo sự hợp lí và lôgic.
Xét một cách bao quát, nhận thấy Nguyễn Thiện đã dụng công trong
việc nhuận sắc truyện Hoa tiên. Tuy nhiên phần đóng góp sửa chữa của
Nguyễn Thiện còn nặng về phần hình thức. Ông đã sửa lại hầu hết những
từ ngữ mộc mạc, giản dị thay vào đó bằng ngôn từ bóng bẩy, chải chuốt
phù hợp với câu chuyện tình yêu nơi lầu son gác tía. Điều đó làm cho câu
chuyện chủ yếu phổ biến trong giới tri thức hơn tầng lớp bình dân.
Vũ Đài Vấn là người tiếp theo nhuận sắc truyện Hoa tiên của Nguyễn
Huy Tự và Nguyễn Thiện năm 1828. Trong bài tựa của mình, ông khen truyện
Hoa tiên “từ hồi hai mươi bốn trở về trên, lời và ý đều chu đáo” nhưng ông
chê tác phẩm “từ hồi hai mươi bốn trở về sau, lời thì nhiều chỗ trái tai mà ý
thì không khỏi có chỗ thiếu sót” [4,tr251]. Khi nhuận sắc truyện Hoa tiên, Vũ
Đài Vấn đã kéo dài tác phẩm thêm 86 câu thơ nữa. Ông ý thức sâu sắc hơn
trong việc đưa những quan niệm đạo đức vào tác phẩm.
Trong bản Hoa tiên nhận chính tân biên, tác giả lên tiếng khẳng định
kẻ làm trai đã vì ơn vua mà chết thì:
Nát thân danh vẫn chưa sờn,
Thôi thôi ngọc lở còn hơn ngõa tuyền
Ngoài ra Vũ Đài Vấn còn có công sửa chữa những từ ngữ thô nhám
cho thanh thoát, nhẹ nhàng đồng thời uốn nắn tâm lí nhân vật phù hợp với
hoàn cảnh.
15
Truyện Hoa tiên nguyên tác:
Tôi con chút phận thờn bơn,
Nếu dồi dắng lại ra hờn cợt ngay
Vũ Đài Vấn chỉnh sửa:
Tôi con chút phận thờn bơn
Xe duyên là mấy đội ơn cao dầy
Xét thấy việc nhuận sắc của Vũ Đài Vấn có phần nặng về nội dung tư
tưởng. Tuy nhiên không thể phủ nhận công lao to lớn của ông khi bỏ ra một
năm để sửa chữa truyện Hoa tiên cho phù hợp với hoàn cảnh và các quan
niệm đạo đức.
Cao Bá Quát trong bài tựa của mình cũng đã lên tiếng khẳng định vì yêu
mến truyện Hoa tiên nên đã sửa chữa, gọt rũa “mạo muội thêm thắt vào sự
điểm chính, ý muốn chữa lại cho đúng những chỗ sai lầm hoặc lạ lùng, tạp
nham mà sửa nên cuốn sách của một nhà” [4,tr255]. Hiện nay người ta không
rõ Cao Bá Quát đã đính chính cụ thể ở những điểm nào nhưng chắc chắn rằng
việc làm của ông có xu hướng điều chỉnh hơn là nhuận sắc truyện Hoa tiên.
Điểm qua lịch sử phức tạp của truyện Hoa tiên, chúng tôi nhận thấy
tác phẩm đã trải qua hai lần nhuận sắc và một lần “đính chính”. Nhìn chung
giá trị nội dung tử tưởng của bản nguyên tác so với các bản nhuận sắc về
cơ bản là như nhau. Tuy nhiên xét ở khía cạnh hình thức nghệ thuật, hầu
hết các bản nhuận sắc sắp xếp theo trật tự thời gian có giá trị hơn.
Truyện Hoa tiên được chia làm ba phần: Gặp gỡ – Tai biến – Đoàn tụ,
có thể tóm tắt như sau:
Phương Châu là con một gia đình quyền quý ở Tô Châu. Chàng xin mẹ
cho sang trọ học nhà người mợ ở Tràng Châu, cùng học với con bà là Diêu
16
Sinh. Vào một đêm trăng, Phương Châu tình cờ gặp Dao Tiên, con gái
quan Đô đốc họ Dương. Say mê trước Dao Tiên, chàng tìm cách làm quen
với Dương tướng quân và một lần được vào chơi trong phủ họ Dương,
Phương Châu đã họa thơ tỏ tình với Dao Tiên. Lúc đầu Dao Tiên còn e
ngại, quyết liệt nhưng nhờ có sự giúp đỡ của hai tì nữ Vân Hương và Bích
Nguyệt, Dao Tiên cũng động lòng yêu mến Phương Châu. Dưới ánh trăng
vàng dịu hai người đã trao nhau lời thề kết duyên trọn đời.
Thế nhưng thề nguyền chưa được bao lâu hai người đã phải chia tay
nhau do ở quê nhà, cha Phương Châu đã đính ước cho chàng cùng với con gái
quan Lại bộ thượng thư họ Lưu tên là Ngọc Khanh. Mặc dù vô cùng đau khổ
nhưng chàng cũng không thể trái lệnh của cha mẹ. Dao Tiên nghe được tin ấy,
cho rằng người mình thương đã bội ước nên cũng buồn đau không kém và tự
nhủ suốt đời không lấy chồng. Chợt Dương tướng công có lệnh làm quan ở
kinh đô. Đến khi ông nhận lệnh cầm quân ra trận diệt giặc Hồ, mẹ con Dao
Tiên đành phải đến ở nhà người cậu họ Tiền ở Kinh đô.
Phương Châu cùng Diêu Sinh thi đỗ Thám hoa, được bổ làm quan ở kinh
đô. Phương Châu tình cờ gặp lại Dao Tiên, hai bên phân trần giãi bày tâm sự.
Biết cha nàng bị giặc vây, Phương Châu liền xin vua đi giải vây, nào ngờ đánh
thua chàng bị quân đối phương vây chặt. Nhận được tin đồn rằng Phương Châu
tử trận, Ngọc Khanh – vị hôn thê chính thức đã thay xiêm y để tang chồng. Sau
đó vì thương con đương tuổi trẻ, mẹ Ngọc Khanh ép lấy chồng khác, nàng nhảy
xuống sông tự tử may gặp thuyền của quan Đề học họ Long vớt được.
Diêu sinh được phái ra trận giải vây đánh tan được quân đối phương, giải
vây cho Dương tướng công và Phương Châu. Tất cả đều được nhà vua ban
thưởng. Tưởng rằng Lưu Ngọc Khanh đã mất, Phương Châu bèn dâng biểu tâu
việc nàng tử tiết, được nhà vua tặng phong cho nàng. Sau đó, Vua lại tự đứng
17
ra làm mối cho Dao Tiên và Phương Châu. Đang khi đó Đề học Long cùng
Lưu Ngọc Khanh cũng vừa đến kinh đô. Nhờ Đề học Long dâng sớ tâu việc
lên, vua lại để Ngọc Khanh kết duyên cùng Phương Châu. Cuối cùng, Phương
Châu không những cưới được Dao Tiên, Ngọc Khanh mà còn cưới cả hai cô tì
nữ là Vân Hương và Bích Nguyệt. Kết thúc một nhà đoàn viên vui vẻ.
Tiểu kết chương 1
Truyện Hoa tiên là một truyện ái tình, tác phẩm phản ánh tình yêu đôi
lứa trong sự biến động về văn hóa, tư tưởng và sự khắt khe của lễ giáo
phong kiến của thời đại bấy giờ. Đây là một tác phẩm hấp dẫn và có giá trị
tinh thần to lớn đối với dân tộc.
18
Chương 2
TRUYỆN HOA TIÊN THỂ HIỆN CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU ĐÔI
LỨA 2.1. Thể hiện câu chuyện tình yêu tự do theo tiếng gọi trái tim
Giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đánh dấu sự
ra đời của khuynh hướng văn học “dân chủ nhân văn”. Nội dung chính của
các tác phẩm chủ yếu hướng tới vấn đề thân phận con người, tố cáo những
thế lực đen tối chà đạp quyền sống và hạnh phúc của họ, đặc biệt đề cao
khát vọng chính đáng yêu và được yêu của con người. Truyện Hoa tiên
nằm trong khuynh hướng văn học thời kì này.
Trước cuộc sống bị chi phối bởi những khuôn khổ khắc chế của lễ
giáo phong kiến, con người luôn khát khao được giải phóng để có một tình
yêu tự do, được hạnh phúc và sống cuộc sống bình đẳng. Để được như vậy,
tất yếu con người phải đấu tranh bằng cách vượt ra khỏi những quy phạm
của lễ giáo phong kiến. Văn học muốn phát triển thì phải tìm cách phá vỡ
khuôn khổ cứng nhắc, khô khan, mang tính quy phạm của lễ giáo phong
kiến. Điều này ứng với trào lưu văn học của giai đoạn thế kỉ XVIII đến nửa
đầu thế kỉ XIX. Các nhà tư tưởng lớn, các nghệ sĩ lớn đã tìm cách vượt ra
khỏi khuôn khổ đó tìm kiếm quan niệm tiến bộ. Trong truyện Nôm tiếng
nói khát khao tự do, phá vỡ rào cản phong kiến không phải hiếm hoi, ta dễ
dàng bắt gặp xu hướng này trong hệ thống tác phẩm như Truyện Kiều của
Nguyễn Du, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Phan Trần... Nguyễn Huy
Tự cũng thể hiện sự tiến bộ đó. Tác phẩm của ông cho thấy sự phá vỡ rào
cản lễ giáo phong kiến bó buộc con người.
Truyện Hoa tiên nằm trong hệ thống truyện Nôm tài tử – giai nhân, tác
phẩm hướng tới ca ngợi tình yêu đôi lứa. Câu chuyện tình yêu ở đây vừa mang
dáng dấp cổ điển theo lễ nghi thông thường của người Việt; vừa mang dáng dấp
chuyện tình yêu tự do, phóng khoáng. Tìm hiểu kĩ mối tình Phương Châu
– Dao Tiên chúng ta thấy rõ điều này.
19
Tác giả Hoa tiên đã thành công khi xây dựng mối tình tự do giữa hai
nhân vật Phương Châu và Dao Tiên. Điều này được thể hiện trước hết ở nhân
vật Phương Châu. Chàng cũng là một kiểu nhân vật của truyện Nôm bác học,
mang những nét khái quát của nhân vật tài tử. Phương Châu là một chàng thư
sinh đang trên đường học hành thi cử vô tình gặp Dao Tiên, nhận thấy đây là
mối tình của cuộc đời mình lập tức “bút nghiên chí nản”, “son phấn tình
nồng”. Đây là mô típ quen thuộc của truyện Nôm, các chàng trai khi động
lòng với cô gái sẽ ngã vào tình yêu, tạm gác chuyện học hành sang một bên để
tìm kiếm thành quả trong tình yêu trước mới quay lại nghiệp thi cử và cuối
cùng đỗ đạt. Phương Châu say đắm Dao Tiên ngay từ lần đầu gặp gỡ. Vì vậy
trong mọi suy nghĩ, hành động, lời nói của chàng đều hướng tới mục đích đạt
được tình yêu của Dao Tiên. Vào một đêm trăng, khi dạo bước một mình
trong vườn thoạt nhìn thấy Dao Tiên chàng đã bị quyến rũ bởi vẻ đẹp lộng lẫy
của nàng như một cành mẫu đơn dưới ánh trăng mờ tỏ:
Lối thơm mở rộng ba đình
Xạ đâu thoang thoảng lọt bình phôi pha?
Vừa cơn mây bợn, trăng lòa
Mảnh tình gửi nét thu ba đưa vào.
Cuộc tiên đôi ả má đào
Riêng làn xiêm trắng đem vào mắt xanh.
Gió đông gờn gợn sóng tình
Dưới trăng lộng lẫy một cành mẫu đơn.
(87-94)
Trong tâm trí Phương Châu kể từ đó “làn xiêm trắng” chưa lúc nào thôi ám
ảnh chàng, bóng dáng người đẹp luôn hiện hữu, thổn thức trong tâm tưởng. Bước
chân của chàng đột ngột bước đến chỗ Dao Tiên chơi cờ. Xuất hiện người lạ lập
tức mọi người dừng cuộc chơi, Dao Tiên vội vàng tránh mặt. Dưới con
20
mắt nửa mê nửa tỉnh, Phương Châu cho rằng nàng còn kịp nhìn mình và nở
một nụ cười:
Rèm Tương động thét tiếng hoàn
Vẻ lan vừa chán, gót sen vội dời.
Nhác xem chiều mỉm mỉm cười
Sóng dầm khóe hạnh chưa dời nét trông
(103-106)
Mặc dù Bích Nguyệt – cô hầu của Dao Tiên đã cố ý nói với Phương
Châu rằng Dao Tiên nếu có cười thật cũng chỉ là cười nỗi “thày lay dại làn”:
Nguyệt rằng: Mê mẩn xinh thay!
Cười chăng: cười nỗi thày lay dại làn.
(147 – 148)
Thế nhưng chàng vẫn quyết tâm theo đuổi Dao Tiên không nản chí.
Phút gặp người đẹp hôm ấy đã làm chàng mê mẩn vướng phải tơ lòng, lúc
nào cũng thổn thức mơ tưởng, khao khát yêu đương. Phương Châu tìm về
nơi gặp xưa thấy cảnh vật vắng lặng càng làm chàng buồn rầu:
Chập chờn bóng nguyệt trêu ai
Hoa đâu rụng, lá đâu rơi trước thềm.
Kêu sương tiếng nhạn lay thềm,
Phong thư đưa đến cung Thiềm được không?
(217-220)
Chàng tìm cách dò hỏi về nàng và đã dùng hết số tiền mẹ cho đi ăn học
để mua một dinh cơ đồ sộ cạnh nhà Dao Tiên. Phương Châu tìm cách làm
quen với Dương tướng quân, một lần được vào chơi trong phủ họ Dương
chàng đã họa thơ tỏ tình với nàng. Vì quá say mê trước vẻ đẹp của Dao Tiên,
Phương Châu tìm mọi cách năn nỉ xin Vân Hương, Bích Nguyệt làm mối lái
giúp đỡ mình. Có thể nói trong tình yêu, chàng là người chủ động và tích cực.
21
Tình cờ gặp Dao tiên lần thứ hai, Phương Châu đã không ngần ngại bỏ
hết những phép tắc của thánh hiền để nặng lời gắn bó với nàng bằng giọng
điệu tha thiết, nhẹ nhàng, bày tỏ tình cảm của mình:
Ngập ngừng, sinh mới rén triềng:
Lẽ chung đã vậy tình duyên sao là?
Đeo đai chót một tiếng đà
Đài thiêng hổ có trăng già chứng lâm.
Nghĩ nguyền ví chẳng tòng tâm,
Cũng liều đầu bạc cho lầm tuổi xanh!
(653-658)
Giáo điều phong kiến không cho phép trai gái gặp nhau nhưng Phương
Châu đã bất chấp để được gặp mặt người đẹp và bày tỏ tình cảm với nàng.
Lễ giáo chưa đủ mạnh để nhắc nhở Phương Châu quay về với những khuôn
phép đạo đức, chàng vẫn luôn nghe theo tiếng gọi rạo rực, thổn thức xuất
phát từ trái tim mình. Giống như tất cả các chàng trai khác trong nhóm
truyện Nôm bác học, Phương Châu đủ kiên nhẫn để chinh phục với tình
yêu mà chàng mong đợi. Nhân vật Kim Trọng trong Truyện Kiều cũng vậy.
Lần đầu gặp Thúy Kiều, chàng đã vội tương tư nàng:
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê
Cảm giác nhớ nhung của tình yêu làm cho thời gian dường như ngưng
đọng. Chàng tìm gặp Thúy Kiều bằng cách quay lại nơi đầu tiên gặp gỡ
nhưng không thấy nàng. Chàng tìm đến nhà nàng nhưng cũng không thể
gặp. Nếu như Kim Trọng thuê một vườn thúy bên cạnh nhà Thúy Kiều để
rồi may mắn gặp được nàng thì Phương Châu cũng dùng hết số tiền ăn học
mua một dinh cơ đồ sộ để tìm cách làm quen và họa thơ tỏ tình với Dao
Tiên. Như vậy các chàng trai trong nhóm truyện Nôm bác học đều là những
người cố gắng để đạt được khát vọng tình yêu của mình.
22
Sau vài lần gặp tiếp theo, dường như Dao Tiên đã chắc chắn được tình
cảm của mình, nàng đã bộc lộ rõ những cử chỉ thể hiện tình cảm của mình
và khát khao nắm bắt được tình yêu:
Thà cho xong một bề nào,
Chẳng thà trắc trở hôm dao nhường này!
( 691 – 692)
Cô gái quý tộc Dao Tiên ngày nào còn mắng tì nữ của mình nay đã vươn
lên vượt qua rào cản lễ giáo để đến với tiếng gọi tình yêu, tiếng nói vọng
lên từ đáy lòng mình sau quá trình dằn vặt bản thân, nàng ngại ngùng thanh
minh: Người hay gỗ đá chi chi
Đã đành tình ấy, còn suy nỗi này.
(705 – 706)
Đến lần gặp thứ ba, Dao Tiên mới động lòng thực sự với Phương Châu,
cuối cùng tình yêu tha thiết và sôi nổi của chàng đã chinh phục được Dao Tiên
bước qua bức tường lễ giáo để đến với niềm hạnh phúc dạt dào trong tình yêu.
Dưới ánh trăng vàng dịu hai người đã trao nhau lời thề kết duyên trọn đời:
Hội này người hợp trăng tròn
Niềm son giải một chén son cùng thề
(787-788)
Dao Tiên cũng nhận ra rằng trót thề nguyền nghĩa là đã vi phạm đạo
đức phong kiến, điều đáng hổ thẹn. Tuy nhiên niềm tin và khát vọng hạnh
phúc đã giúp nàng nghe theo tiếng gọi của trái tim mình. Lễ giáo phong
kiến đối với Dao Tiên lúc này như một cái bóng mờ nhạt ở đâu đó và sức
mạnh tình yêu chiến thắng tất cả:
Trăm năm nhẹ một tấm nguyền
Vừng soi đã hổ với trên đỉnh đầu
Thề lòng dãi bến Hà Châu
23
Đãi nhau trên Bộc, trong Dâu ra mà?
(817-820)
Có thể sống trong thời đại đầy biến động như vậy nên Nguyễn Huy Tự
khát khao tự do và luôn đề cao tình yêu ở chỗ dù bị ràng buộc bởi lễ giáo
phong kiến khắt khe thế nhưng tình yêu tự do vẫn cất cánh. Truyện Kiều
của Nguyễn Du mang những lề thói quy định rõ ràng nhưng lại khá tự do
khi ông cho nhân vật của mình không chỉ yêu một người mà có đến ba mối
tình thật sự trong cuộc đời ở những giai đoạn khác nhau nhưng đều thể hiện
khát vọng yêu đương của con người một cách mạnh mẽ. Nằm trong khuynh
hướng này tác giả Hoa tiên cũng để cho nhân vật của mình đến với nhau
bằng tình yêu tự nguyện “chén son cùng thề”. Sự táo bạo của giai nhân và
tài tử đã đưa đến một tình yêu tự do theo tiếng gọi trái tim.
Thế nhưng thề nguyền chưa được bao lâu hai người đã phải chia tay nhau
do ở quê nhà, cha của Phương Châu đã đính ước cho chàng cùng với con gái
quan Lại bộ thượng thư họ Lưu tên là Ngọc Khanh. Mặc dù vô cùng đau khổ
nhưng chàng cũng không thể trái lệnh của cha mẹ. Chuyển biến đột ngột
khiến cho chàng vô cùng đau đớn. Phương Châu trở lại đi học, đi thi rồi làm
quan nhưng những điều đó dường như không còn nghĩa lí với chàng. Khi tình
cờ gặp lại Dao Tiên, hai bên phân trần về những chuyện xảy ra. Biết nàng đau
khổ vì cha bị giặc vây, chàng quyết định xin vua đi giải vây để tỏ nghĩa với
nàng đồng thời cũng mang trong mình hy vọng:
Họa khi trời có chiều lòng,
Một chuông vàng, một chỉ hồng cũng hay
(1309-1310)
Theo sát quá trình chinh phục tình yêu của Phương Châu, chúng tôi nhận
thấy chàng tượng trưng cho tình cảm thắm thiết sôi nổi, luôn hướng đến tình
24
yêu tự do và khát vọng hạnh phúc. Tuy bị lý trí phong kiến khuất phục nhưng
ở chàng vẫn còn nghe được những tiếng thổn thức yêu đương trong tâm hồn.
Điều đáng trân trọng ở mối tình Dao Tiên – Phương Châu là bởi nó bắt
nguồn từ tình yêu tự do, đôi lứa đến với nhau trên cơ sở tự nguyện chứ
không phải do mối lái hoặc thế lực phong kiến nào quyết định.
Với Hoa tiên, tác giả đã lồng vào bên trong một nếp sống phóng khoáng,
tự do thể hiện được giá trị cũng như cái nhìn tích cực, khác xa với những quan
niệm, giáo điều nghiêm ngặt của tầng lớp quý tộc. Điều này được thể hiện
một cách rõ ràng chủ yếu qua hai nhân vật tỳ nữ Vân Hương và Bích Nguyệt.
Cuộc sống trần tục và niềm vui trần tục luôn đem lại sức hấp dẫn bởi nó hấp
dẫn ngay trong phần cơ bản nhất của văn học là phần nội dung hình tượng trong
nó. Có thể nói trong các lĩnh vực này thì các triết lí siêu hình của Phật giáo, Nho
giáo hay Đạo giáo có tiếng vang rất ít, mà thực sự có ý nghĩa và sức thuyết phục
lại là thứ triết lý do kinh nghiệm sống và đấu tranh của con người mang lại. Dao
Tiên thấy triết lý hấp dẫn nhất đối với mình là triết lý của những cô hầu gái Vân
Hương và Bích Nguyệt về tuổi trẻ, năm tháng và về cả nỗi buồn:
Một năm được mấy mùa xuân
Một ngày được mấy giờ dần, ai ơi
Truyện thơ Nôm thông thường bao giờ cũng xuất hiện những nhân vật
“Ông tơ bà Nguyệt”, “bà mối” làm tăng tính hấp dẫn cho tác phẩm. Truyện Hoa
tiên cũng được xây dựng theo mô típ như vậy. Tưởng chừng như mối tình
Phương Châu – Dao Tiên là mối tình không mối lái, nhưng thực chất để làm nên
mối tình đó phải có vai trò rất lớn của hai “bà mối” Vân Hương và Bích Nguyêt.
Họ xuất hiện khi Phương Châu năn nỉ giúp đỡ và khi tỉ tê tâm sự với Dao Tiên.
Trong đêm thề nguyền của Dao Tiên – Phương Châu, Vân Hương và Bích
Nguyệt cũng đứng ra chứng giám cho tình yêu tự do của họ. Đó còn là hai tỳ nữ
thân thuộc vô cùng nhạy bén trong việc nắm bắt tâm lí của cô chủ, chỉ
25
thoáng nghe qua giọng nói bâng khuâng có chút gợn buồn của Dao Tiên
trước cảnh trời thu thì ngay lập tức Bích Nguyệt đã thấy rõ tâm tư nàng:
Ngẫm nên, Hương đã biết chiều
Trình: Sao như khổ có điều đắng cay
Dạy rằng: Hiu hắt hơi may
Chiều thu nhường cũng nên say chiều người
(695 – 698 )
Vân Hương tỏ ra rất thông minh, khi ngồi xem trăng cùng Dao Tiên
nàng nhận thấy ngay rằng cô chủ buồn rầu vì sao và câu nói dối của Dao
Tiên “chiều thu nhường cũng nên say chiều người” không thể qua mặt được
cô tì nữ nhanh nhạy này.
Tình yêu tự do vượt lễ giáo phong kiến được tác giả thể hiện một cách
khá chủ ý khi mượn lời hai nhân vật tì nữ Vân Hương và Bích Nguyệt để
đưa ra quan niệm sống phóng khoáng về tình yêu. Những con người bình
dân trên cái nền xã hội phong kiến của tầng lớp quý tộc trải lòng một cách
chân thật về tình yêu, về tuổi trẻ:
Liễu kia thu lại còn xuân
Người kia đã dễ mấy lần xuân chăng
(587 – 588)
Vân Hương còn khéo léo đưa ra những gợi ý bỏ lửng:
Làm người nên nghĩ lấy nao
Một xuân một tuổi, nỡ nào luống qua?
(603 – 604)
Khi nói đến nỗi buồn, chuyện trăng xế, chuyện lứa đôi họ tỏ ra rất
chiêm nghiệm:
Cũng sầu song cũng vừa vừa,
Riêng người gối lẻ tương tư là sầu.
26
( 599 – 600)
Chính những lời nói tha thiết, xuất phát tự tận đáy lòng, niềm tâm sự
về tuổi trẻ, về hạnh phúc đã thôi thúc Dao Tiên vươn lên mạnh mẽ hướng
đến tình yêu tự do vượt rào cản lễ giáo. Nếu không có hai tỳ nữ Vân Hương
và Bích Nguyệt chắc hẳn sau nhưng rung động của cảm xúc, Dao Tiên sẽ bị
đạo đức phong kiến, những khuôn phép khắt khe chi phối mà từ bỏ tình yêu
tự do. Như vậy cho thấy sự quan trọng của họ trong việc hình thành nên
mối tình chớm nở trong lòng Dao Tiên.
Quan niệm sống mới mẻ cũng được thể hiện rất rõ khi họ tán thành
chuyện tình yêu của giai nhân tài tử. Đây là những suy nghĩ mang tính tích
cực, đổi mới mà dưới chế độ phong kiến rất khó bắt gặp:
Rành rành một vách đôi bài
Giai nhân tài tử sánh vai khéo là
(393 – 394)
Những suy nghĩ và chiêm nghiệm đều bắt nguồn từ kinh nghiệm thực
tiễn trong đời sống khi nhìn nhận một vấn đề nào đó của tầng lớp bình dân
trong xã hội. Điều táo bạo và giá trị trong suy nghĩ của Vân Hương và Bích
Nguyệt là khi họ quan niệm về chung thủy. Nếu như xã hội phong kiến đòi
hỏi người phụ nữ dù bị phụ bạc vẫn phải “tam tòng tứ đức” thì họ lại cho
rằng một khi người chồng đã phụ bạc thì người vợ có quyền làm lại cuộc
đời, tự xây dựng hạnh phúc cho mình:
Dù ai nỡ phụ chi ai luống chờ
Nhụy đào vẻn vẹn còn tơ,
Ví ai bướm lạc ong lừa hiếm ai
(974 – 976)
Nhận thấy đây là hai nhân vật thông minh, hoạt bát đồng thời đem lại cái
nhìn sâu sắc, tích cực về nhân sinh quan mang tinh thần nhân đạo và khao khát
27
hướng tới hạnh phúc tự do. Quan niệm sống phóng khoáng như châm ngòi
cho việc thúc đẩy con người vượt qua những rào cản phong kiến đang kìm
hãm những tâm hồn.
Với Hoa tiên, Nguyễn Huy Tự đã dựng lên một câu chuyện tình yêu
khá hấp dẫn. Ở tác phẩm người ta thấy được cảm xúc rạo rực của những
người mới lần đầu bước vào tình yêu, thấy được sự mạnh mẽ, quyết liệt của
chàng trai cùng sự e lệ ban đầu của cô gái. Người ta cũng thấy được cái tình
yêu táo bạo vượt qua mọi rào cản của lễ giáo phong kiến để đôi lứa đến với
nhau một cách tự do và yêu nhau không cần bất kì sự sắp đặt nào của lễ
giáo. Qua đó tác giả đã lồng vào tác phẩm những tư tưởng tiến bộ, tiếng nói
tự do và khát vọng hạnh phúc.
2.2. Thể hiện câu chuyện tình yêu trong khuôn khổ lễ giáo phong kiến
Giai đoạn thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX chế độ phong kiến rơi
vào khủng hoảng trầm trọng, Nho giáo đã lung lay từ cội rễ, mọi giá trị cương
thường bị đảo lộn song không vì thế mà biến mất hoàn toàn. Nho giáo vẫn tồn
tại và luôn là khuôn khổ trói buộc tư tưởng con người một cách mạnh mẽ. Xã
hội phong kiến tỏa chiết tình cảm con người trong những mối quan hệ nam
nữ, yêu đương, không chấp nhận con người có quyền tự do cả trong tình yêu
và hôn nhân. Những quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy”, “áo mặc sao qua nổi đầu”,... đã chi phối tư tưởng của con người,
đưa họ vào những khuôn phép khắc nghiệt.
Truyện Nôm thường xây dựng các câu chuyện dựa trên cơ sở của tình yêu
và khát vọng hạnh phúc lứa đôi. Tình yêu thường được thử thách bởi sự khắc
nghiệt của lễ giáo phong kiến. Đây là vấn đề trọng tâm đặt ra trong hầu hết các
tác phẩm. Ngoài nội dung phản ánh tình yêu, hạnh phúc gia đình và bảo vệ nhân
phẩm, truyện Nôm còn tập trung xoáy sâu vào tố cáo bộ mặt tàn bạo của giai cấp
thống trị trong xã hội phong kiến, đề cao những phẩm chất tốt đẹp của
28
quần chúng lao động và đưa ra những cách giải quyết tích cực các vấn đề
xã hội. Nguyễn Huy Tự được sinh ra trong thời điểm như vậy nên ít nhiều
vẫn chịu ảnh hưởng của những quy định, lề thói phong kiến nhất định. Điều
này thể hiện rõ trong truyện Hoa tiên.
Trong tác phẩm, lễ giáo phong kiến đã ràng buộc mối tình của Phương
Châu với Ngọc Khanh thông qua việc đính ước trên thuyền của cha Phương
Châu với quan Lại bộ thượng thư họ Lưu. Đó là một biểu hiện của lễ giáo
phong kiến quan niệm về việc hôn nhân là do “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đấy”, là quan niệm hà khắc về hôn nhân của lễ giáo phong kiến. Quan niệm
này thường xuất hiện ở các sáng tác truyện Nôm bác học, hầu hết các nhân
vật đều thuộc tầng lớp phong kiến, nhiều nhân vật xuất thân từ tầng lớp cấp
cao. Sở dĩ vậy là bởi trong truyện Nôm bình dân, con người ở tầng lớp bình
dân tự do trong chuyện tình yêu, hôn nhân. Trong ca dao có rất nhiều câu
nói đến việc trai gái tự do bày tỏ tình cảm của mình, chẳng hạn:
Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Em lượm thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà?
Đó là lời ngỏ của chàng trai đối với cô gái, nhưng không chỉ có các
chàng trai chủ động chuyện ngỏ lời mà các cô gái cũng rất táo bạo:
Vào vườn hái quả cau xanh,
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu.
Trầu này têm những vôi tàu,
Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay.
Trầu này ăn thiệt là say,
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng.
Dùng chăng nên đạo vợ chồng,
Xoi dăm ba miếng kẻo lòng nhớ thương!
29
Trong truyện Nôm bình dân, tác giả còn xây dựng những câu chuyện
tình yêu, hôn nhân của những người không cùng đẳng cấp, hầu hết các cô
gái trong loại truyện này được giới thiệu là con vua, con quan, nghĩa là
những người thuộc đẳng cấp quý tộc lại yêu những anh học trò nghèo, có
nguồn gốc từng cao quý nhưng sa cơ lỡ vận phải thất thế, nuôi chí công
danh và tương lai làm quan to.
Ở truyện Nôm bác học lại không xây dựng chuyện tình yêu như vậy, dưới
sự sắp đặt của lễ giáo phong kiến, con người không được tự quyết định hôn nhân
của mình, sự quyết định ấy là của cha mẹ, nếu trái lời thì đó được coi là sự bất
hiếu. Hơn thế nữa “việc hôn nhân tuy là của hai người nhưng kéo theo việc xác
lập quan hệ giữa hai gia tộc” [27,tr143] mà “lựa chọn một dòng họ, một gia đình
phải xem cửa nhà hai bên có tương xứng không, có môn đăng hộ
đối không” [27,tr143].
Có thể thấy rằng, Lương gia và Lưu gia là hai gia đình “môn đăng hộ đối”,
đều có truyền thống nho học, hơn nữa Lương tướng công và Lưu tướng công vốn
là người đồng quận và là bạn đồng liêu nên đã dễ dàng hợp ý nhau và mong
kết thông gia:
Hứng vui, thóc mách chuyện nhà
Họ Lưu một gái tên là Ngọc Khanh.
Tuần mười lẻ bảy xuân xanh,
Người trang trọng, nết đoan trinh vẹn mười.
Rõ tin Lương mượn chén mồi:
Đường quan, anh cũng nhác đời như em,
Vòng trần hẳn đã không thêm
Chút nguyền du Nhạc còn hiềm chưa nguôi.
Dám toan kén lứa chọn đôi
Tấn thời có lẽ với người phồn hoa
Thôi thì ta lại biết ta,
30
Chỉ e rêu cỏ biết là nên chăng?
(849-860)
Cả hai bên đều đang tính đến việc yên bề gia thất cho con cái và muốn
kết thông gia với nhau. Với lời “chỉ e rêu cỏ biết là nên chăng?” Lương
Công đã lựa cách nói nhún rằng gia đình ông hèn mọn như rêu cỏ nên
không biết Lưu Công liệu có nhận lời cầu thân không. Thế rồi họ đi đến
quyết định đính hôn cho Phương Châu và Ngọc Khanh:
Một lời đã với nước non
Vâng xe mối chỉ cho tròn tơ duyên
(863-864)
Yếu tố phong kiến trong truyện về cơ bản còn thể hiện ở chỗ nêu lên
bài học to lớn của Nho giáo về chữ “trung”, chữ “hiếu” và chữ “trinh”.
Phương Châu yêu Dao Tiên tha thiết nhưng bởi chữ “hiếu” nên dù đau khổ
vì phải bội ước thì chàng vẫn phải vâng lời cha mẹ lấy Ngọc Khanh:
Dẫu vàng dẫu đá với người
Nặng tình đâu dám nhẹ lời song thân
(949 – 950)
Tình yêu dang dở, Phương Châu không còn đoái hoài đến việc học hành
thi cử cho đến khi được Diêu Sinh nhắc nhở rằng việc thi cử đỗ đạt là chuyện
hệ trọng, phải công thành danh toại để đáp nghĩa đền ơn cha mẹ sinh thành:
Sinh rằng: Duyên nghiệp dở dang
Thì thôi còn nghĩ chi đường công danh
Thưa rằng: Dạy thế sao đành
Lầu Ban sáu kỷ, song huỳnh mười thu
(1131 – 1134)
Không chỉ Phương Châu, Diêu Sinh mà tất cả những bậc nam nhi thời bấy
giờ đều chịu sự chi phối lễ giáo phong kiến về tư tưởng. Trong quan niệm chính
thống thời đại phong kiến, đã làm trai thì “đầu đội trời, chân đạp đất”, phải có
31
“chí”, “công danh”, có khát vọng để theo đuổi ước mơ, hoài bão. Bậc nam
nhi phải luôn đặt mình trong những mối quan hệ với quốc gia, dân tộc, đi
liền với đó là những mục tiêu và hành động tương xứng: “Nam nhi khoa cử
đỗ đạt thành danh chấp chính là mẫu người lý tưởng của thời trung đại”
[23,tr42]. Chí làm trai vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực của
Nho giáo: lập đức, lập công (có công danh sự nghiệp), lập danh (có danh
tiếng tốt đẹp), nam nhi phải vẫy vùng tứ bể, phải cống hiến sức trai phục vụ
non sông, đất nước và như một tất yếu, công danh được coi là món nợ phải
trả của kẻ làm trai. Hình tượng nam nhi đã trở thành đề tài hấp dẫn đối với
các nhà thơ, sức hấp dẫn của hình tượng ấy còn kéo dài đến cả thể kỉ XVIII
– nửa đầu thế kỉ XIX. Nói đến hình tượng nam nhi trong văn học trung đại
giai đoạn này, có thể nhắc tới Nguyễn Công Trứ:
Trong vũ trụ đã đành phận sự
Phải có danh mà đối với non sông
(Chí nam nhi)
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Nợ tang bồng)
Trong truyện Hoa tiên, chí nam nhi thể hiện rõ ràng khi đôi bạn
Phương Châu – Diêu Sinh quyết tâm dùi mài kinh sử để thi đỗ ba kỳ thi
Hương, thi Hội, thi Đình liên tiếp:
Bảng thu sơm sớm đề tên
Tiện đường kíp lại ruổi liền hội xuân
Đi về đường quẫn dưới chân
Vũ môn ba đợt trao lần nay mai
(1153-1156)
Phương Châu đỗ làm quan ở Kinh đô, tình cờ gặp lại Dao Tiên, hai bên
phân trần về những chuyện xảy ra trước đó. Biết nàng đau khổ khi cha bị giặc
32
vây, chàng quyết định xin vua đi giải vây để tỏ tình nghĩa với nàng. Sau đó,
nghe tin Phương Châu tử trận nơi chiến trường, Ngọc Khanh ở nhà thay xiêm
y để tang chồng:
Ngọc Khanh xiết nỗi ngại ngùng
Đổi màu xiêm trắng, kém thưng cơm vàng
(1397 – 1398)
Đến khi Phương Châu được giải vây và chiến thắng trở về, nhận được
tin Ngọc Khanh vì mình mà tự tử. Vua đứng ra kết duyên cho chàng với
Dao Tiên. Phương Châu lại đang canh cánh trong lòng xót thương cho
Ngọc Khanh vì mình mà tử tiết. Chàng băn khoăn do dự và được Diêu Sinh
động viên, khuyên bảo:
Tình phu phụ, nghĩa quân thân
Trong tam cương ấy xem phân nào hơn
Tôi con một phận thờn bơn
Xe duyên là mấy đội ơn cao dầy
(1661 – 1664)
Không chỉ Phương Châu, Dao Tiên và Ngọc Khanh cũng chịu sự chi
phối sâu sắc của lễ giáo phong kiến. Văn học trung đại quan niệm về người
phụ nữ đẹp là người phụ nữ có vẻ đẹp toàn diện cả bên trong lẫn bên ngoài.
Trái ngược với việc bước vào tình yêu một cách mạnh dạn và tự nhiên
của Phương Châu, để đi đến tình yêu, Dao Tiên đã phải trải qua một quá
trình dằn vặt tâm lí nội tâm khá phức tạp và nhiều do dự.
Nếu như Thúy Kiều mới lần đầu gặp Kim Trọng đã:
Tình trong như đã mặt ngoài còn e
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
thì Dao Tiên sau lần đầu gặp Phương Châu lại tỏ ra khó chịu và mắng các
cô hầu: “ Đi đâu mà để người đâu xông càn?”, nàng thẳng từng tuyên bố:
33
Tự ta đóng nguyệt cài mây,
Buồng thơm chớ lọt mảy may gió tà
(251 – 252)
Đến lần gặp thứ hai, thái độ của Dao Tiên không còn quyết liệt nữa nhưng
nàng lại khéo léo gợi ý Phương Châu tìm người mai mối cho mối tình của mình:
Dẫu cho nền lễ, sân thi,
Cùng nhau đôi lứa cũng tùy nơi xe.
Chia đường hãy lánh cho về
Lẽ thường hẳn chẳng e nề chút ru?
(661-664)
Tuy nhiên Phương Châu đã nhanh chóng gạt đi con đường mai mối của
Dao Tiên:
Lời vàng ý ngọc dám sai?
Lửa gần, lại bảo cho bài nước xa?
(667-668)
Chàng cho rằng lời của Dao Tiên quả là vàng ngọc không sai chút nào
nhưng việc nàng bảo chàng đi tìm mối mai chẳng khác nào lửa đang cháy
ngay cạnh mà lại đi tìm nước xa, tình yêu đang mãnh liệt, sục sôi trong lòng
khiến chàng không thể chờ lâu đến thế. Trong mối tình này, khuôn khổ lễ giáo
phong kiến không phải là rào cản của Phương Châu nhưng lại cản đường đến
với tình yêu tự do của Dao Tiên. Thái độ điềm đạm và nghiêm túc của cô gái
quý tộc thời xưa vẫn luôn hiện hữu trong con người Dao Tiên. Nàng nhắc nhở
tì nữ của mình “mạch rừng bưng bít” bởi cái đạo đức phong kiến đã thấm
nhuần trong tâm tưởng không cho phép nàng rời bỏ lễ giáo:
Là điều thuận miệng vắng đây,
Mạch rừng bưng bít cho hay mới vừa
(533 – 534 )
34
Với tác phẩm, Dao Tiên chính là nhân vật mang những nét tiêu, thể
hiện sự giằng co giữa tiếng gọi tình yêu tự do với những bài học đạo đức
phong kiến, là mâu thuẫn giữa tình yêu và lí trí. Cuối cùng tình yêu đã
chiến thắng lí trí, tình yêu đã thuyết phục Dao Tiên. Sau lời thề ước, những
tưởng tình yêu sẽ nở hoa thế nhưng họ lại buộc phải chia cắt bởi Phương
Châu không thể trái lại sự sắp đặt hôn ước của gia đình. Về sau, khi vô tình
gặp lại, tưởng bị Phương Châu phụ bạc, nàng đau đớn không kìm lòng và
tiếng nói có phần chua chát, nặng nề:
Phận đàn bà ngỡ là chơi
Một ngày tăm tiếng muôn đời mắt tai
(981 – 982)
Có lẽ bởi nỗi nhớ nhung da diết người xưa vẫn luôn canh cánh trong
lòng và tình yêu lúc nào cũng phấp phỏng nên khi nghe chàng thanh minh,
Dao Tiên đã vội tin để lúc hai người từ biệt lại:
Biệt ly ai vẽ nên lòng?
Càng mau giọt tủi, càng nồng tấm thương.
(1321 – 1322)
Đó còn là sự kết hợp hài hòa của nhan sắc và đức hạnh “tam tòng tứ
đức”. Dao Tiên khi nhận tin Phương Châu đã tử trận, quá đau đớn nàng ý
định tự tử, thế nhưng khi nghĩ đến chữ “hiếu”, nghĩ đến bổn phận của con
đối với cha mẹ nàng đành gạt ý định đó qua một bên:
Tình kia bể núi thực rằng,
Tình này sao lại nhắc bằng hiếu kia?
Gìn lòng ngọc tạc, vàng ghi
Hiếu tình cân lại nhắc đi cho toàn
(1357 – 1360)
35
Xã hội phong kiến quy định người con gái chỉ được yêu một lần, đã
yêu thì cho dù bị người yêu phụ bạc vẫn phải giữ trọn tấm lòng trinh tiết.
Chẳng thế mà Dao Tiên thà chết chứ không chịu lấy người khác:
Mặc ai dặn nhạt, nguyền phai
Tự ta xuân khóa, mây cài với ta!
(983 – 984)
Cô tiểu thư Ngọc Khanh cũng mới tuổi xuân đã thủ tiết thờ chồng mặc
dù đó là người nàng chưa từng biết mặt, chưa từng cưới mà chỉ do cha mẹ
mai mối đính ước cho nàng. Ngọc Khanh được ngợi ca là “tuyết sạch giá
trong” danh tiết của nàng khó ai hơn được. Thương con, mẹ Ngọc Khanh
khuyên đi lấy chồng khác bởi đương còn tuổi trẻ nhưng nàng nhất định
không nghe, sau sự phản kháng quyết liệt Ngọc Khanh đã gieo mình xuống
sông tự tử, mâu thuẫn thể hiện giữa một bên tình và một bên hiếu. Tất cả tư
tưởng ấy đều do đạo đức phong kiến chi phối, xã hội phong kiến đã chỉ rõ
bổn phận của người con gái chỉ được lấy chồng một lần và Ngọc Khanh đã
làm đúng với những “cương thường” nhưng dường như việc tự tử của nàng
còn nghiêng về tình mà nhẹ về hiếu:
Rằng: Cương thường nặng núi non,
Hãy còn trời đất, hãy còn di luân.
(1403 – 1404)
Ở Hoa tiên, lễ giáo phong kiến chưa bao giờ bị gạt bỏ hay bị chê trách
mà nó luôn là thứ uy quyền chi phối toàn bộ xã hội. Trong cảnh đoàn tụ, tác
phẩm đã dùng mệnh vua cho Phương Châu kết hôn với cả Dao Tiên và
Ngọc Khanh, đồng nghĩa với việc cưới luôn hai tỳ nữ Vân Hương và Bích
Nguyệt. Dễ hiểu kết thúc đó không làm ta lấy làm lạ bởi xã hội phong kiến
cho phép kết hôn một chồng nhiều vợ.
36
Nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm đưa ra ý kiến “Truyện Hoa tiên,
tuy là một câu chuyện tình, nhưng có chủ ý khuyên răn người đời về đường
luân thường” [8,tr318]. Các nhân vật xuất hiện, hành động, suy nghĩ... đều
do lễ giáo chi phối nhằm mục đích giáo huấn dăn dạy. Điều này có thể nhận
thấy ở hai nhân vật Ngọc Khanh và Diêu Sinh, họ là sản phẩm của lễ giáo
“tiếng nói của họ trong truyện từ đầu đến cuối là những lời thuyết minh cho
giáo lý của Khổng, Mạnh” [17,tr222].
Tác giả Hoa tiên đã xây dựng tình yêu lồng vào khuôn khổ phong
kiến. Tình yêu của họ đã phần nào vượt qua vòng lễ giáo nhưng suy nghĩ
cũng như tư tương của họ vẫn không thể nào thoát khỏi những bài học đạo
đức phong kiến, người đọc cũng dễ dàng chấp nhận những yếu tố phong
kiến bên trong tác phẩm.
Tiểu kết chương 2
Với sự tinh tế và tâm hồn nhạy bén, Nguyễn Huy Tự đã xây dựng câu
chuyện tình yêu tự do trước sự ràng buộc, chi phối mạnh mẽ của lễ giáo.
Truyện Hoa tiên chứa đựng giá trị nội dung sâu sắc và đậm chất nhân văn,
nhân đạo, đồng thời thể hiện sự sáng tạo của tác giả. Tác phẩm mang đậm
nét hiện đại và cả nét truyền thống.
37
Chương 3
MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Kết cấu
Kết cấu là hệ thống những yếu tố, những mối quan hệ, liên hệ giữa bộ
phận và tổng thể. Kết cấu tác phẩm gắn liền với văn bản, ngôn từ, quan hệ
không gian, thời gian, quan hệ nhân quả với các phương thức riêng biệt, tạo
nên thế giới nghệ thuật mới mẻ. Kết cấu là sự sắp xếp, tổ chức các thành tố
của văn bản thành một đơn vị thống nhất, hoàn chỉnh và ý nghĩa. Bất kì một
văn bản nào cũng có một kết cấu nhất định hàm chứa dụng ý của tác giả sao
cho phù hợp với nội dung văn bản.
Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm
[24,tr156]. Nó sắp xếp, gắn kết toàn bộ các yếu tố, thành phần để tạo nên
một sinh thể nghệ thuật toàn vẹn. Không có kết cấu, những yếu tố, những
thành phần chỉ là những mảnh vụn rời rạc. Như vậy, kết cấu là một phương
tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật.
Có nhiều hướng khi nghiên cứu mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, trong các
hướng nghiên cứu, trong các công trình, mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, giới
khoa học đã nhất trí với kết luận: thứ nhất, cách kể chuyện theo trình tự tuyến
tính của thời gian; thứ hai, kết cấu cốt truyện theo ba sự kiện lớn: Gặp gỡ
– tai biến – đoàn tụ; thứ ba là chiều hướng kết thúc có hậu. TS. Nguyễn Thị Nhàn
đã có công trình nghiên cứu về mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, công trình này
có hướng nghiên cứu mới, đó là: mô hình kết cấu cốt truyện thơ Nôm theo trình
tự thời gian và mô hình kết cấu cốt truyện thơ Nôm không theo trình
tự thời gian, trong đó lại chia nhỏ thành nhiều loại.
Truyện Nôm là tác phẩm tự sự và dường như “các truyện Nôm đều cho
thấy một cấu trúc truyện tương đồng” [22,tr19]. Truyện Hoa tiên cũng được
xây dựng theo mô hình ổn định của hệ thống cốt truyện với ba sự kiện cơ bản:
38
Gặp gỡ – tai biến – đoàn tụ. Sự kiện gặp gỡ được tác giả miêu tả khá sinh
động. Nguyễn Huy Tự còn dụng công xây dựng sự kiện tai biến khá hấp dẫn ở
chỗ nhân vật chàng trai bị cha mẹ đính ước với người con gái khác là Ngọc
Khanh trong khi lòng vẫn luôn hướng về tình yêu tự do của mình, vì thế ở đây
lại xuất hiện thêm một câu chuyện khác là chuyện hôn nhân chứ không phải
tình yêu. Sau khi tình cờ gặp lại, chàng tìm cách trả nghĩa cho Dao Tiên, sẵn
sàng xông pha chiến trường giải vây cho cha nàng. Sự kiện đoàn tụ với kết
thúc có hậu được tác giả xây dựng đồng nhất các truyện Nôm thông thường.
Kết cấu truyện Hoa tiên rất chặt chẽ và gọn gàng. Tác phẩm được chia
thành nhiều hồi, từ hồi này sang hồi khác mà không bị rối loạn, kết cấu tóm
trước, mở sau gọn gàng mà đầy đủ, tài tình mà tinh tế. Trong truyện Nôm
bác học thường xuất hiện mô típ chàng trai đang trên đường ứng thí gặp cô
gái đẹp “bút nghiên chí nản” mà “son phấn tình nồng”. Chàng muốn đặt
chuyện chiến thắng trong tình yêu trước rồi mới quay về nghiệp thi cử.
Phương Châu trong truyện Hoa tiên là một chàng trai như vậy. Chàng xin
đến trọ học ở Tràng Châu, tình cờ gặp nàng Dương Dao Tiên, say đắm và đã họa
thơ tỏ tình với nàng. Hai người cùng nhau nặng lười thề thốt. Ngờ đâu ở nhà, cha
của Phương Châu đã đính ước cho chàng cùng Ngọc Khanh. Mặc dù vô cùng đau
khổ, nhưng chàng cũng đành phải theo lệnh của cha mẹ. Dao Tiên nghe được tin
ấy, cho rằng người mình thương đã bội ước, nên cũng buồn đau không kém và tự
nhủ suốt đời không lấy chồng. Phương Châu không còn đoái hoài đến việc học
hành thi cử cho đến khi được Diêu Sinh nhắc nhở rằng việc thi cử đỗ đạt là
chuyện hệ trọng. Chàng thi đỗ, được cử làm quan tình cờ gặp lại Dao Tiên, rồi
giãi bày tâm sự cùng nàng. Biết cha nàng bị giặc vây, chàng liền xin vua đi giải
vây, nào ngờ đánh thua, chàng bị quân đối phương vây chặt. Nhận được tin đồn
rằng Phương Châu tử trận, Lưu Ngọc Khanh, vị hôn thê chính thức đã thay xiêm
y để tang chồng. Sau, vì mẹ khuyên lấy chồng khác,
39
nàng nhảy xuống sông tự tử may gặp thuyền của quan Đốc học Long cứu
vớt. Sự kiện đoàn tụ ở đây được tác giả xây dựng một cách vô cùng viên
mãn, đôi lứa sum họp. Phương Châu lấy được cả Dao Tiên và Ngọc Khanh
làm vợ. Truyện khép lại bằng một kết thúc đẹp.
Tuy nhiên, kết cấu truyện Hoa tiên có phần khác với các truyện Nôm
thông thường. Nguyễn Huy Tự đã khiến câu chuyện hấp dẫn hơn ở chỗ
chàng trai không phải ngay lập tức đã đến được với tình yêu của mình mà
gặp phải rào cản buộc phải lấy người khác trong khi lòng không yêu bởi
vậy Phương Châu vẫn luôn canh cánh hướng về tình yêu của mình.
Kiều Thu Hoạch có nhận xét như sau: “Về mặt xây dựng cốt truyện,
hình thái cấu trúc của truyện Nôm cũng vẫn là truyện cổ tích, tức là cấu
trúc theo mô hình kết thúc có hậu”. Ở đây, truyện Hoa tiên cũng là truyện
Nôm với một cái kết có hậu như đã nói ở trên.
Do quá trình giao lưu văn hóa, văn học khu vực nên văn học Việt Nam thời
trung đại thường có đặc biệt là hiện tượng “vay mượn” đề tài, cốt truyện. Nguồn
gốc đề tài cốt truyện truyện Nôm rất đa dạng, có thể khái quát và chia thành ba
nhóm chính: Sử dụng cốt truyện dân gian (truyện cổ tích, thần tích,...) lưu hành
từ lâu trong đời sống dân gian và sáng tác dân gian; Mượn cốt truyện trong kho
tàng tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc – chủ yếu là Minh Thanh; Những tác phẩm
có cốt truyện bắt nguồn từ đời sống thực tại xã hội. Phần lớn các truyện Nôm đều
mượn kết cấu, cốt truyện của truyện cổ dân gian hay các sự tích, truyện cổ và bảo
lưu khuôn dạng của truyện cổ. Cơ sở cốt truyện là xung đột xã hội, xung đột giữa
thiện – ác hay chỉ biểu hiện ở góc độ bảo vệ tình yêu, hạnh phúc, chống lại sự
thống trị của giai cấp phong kiến. Truyện Hoa tiên viết dựa theo một ca bản
Trung Quốc có nhan đề là Đệ bát tài tử Hoa tiên ký, một ca bản mang giá trị
nghệ thuật cao. Nhà phê bình Tĩnh Tịnh Trai nhận định rằng Hoa tiên là một câu
chuyện “khởi bằng gió trăng, kết bằng gió trăng mà
40
trong khoảng giữa, không có chỗ điểm xuyết nào thoát ra ngoài hai chữ gió
trăng” [3,sđd,tr10] và “tác phẩm ấy là do hai người, một ông Giải nguyên
và một ông Thám hoa cùng viết” [4,tr7]. Nguyễn Huy Tự theo sát cốt
truyện của ca bản Trung Quốc, chỉ riêng đoạn cuối có thay đổi đồng thời
ông diễn lại ca bản bằng thể thơ dân tộc, ông đã bỏ đi những chi tiết rườm
rà, làm cho màu sắc trữ tình của tác phẩm nổi bật hơn. Nguyễn Huy Tự đã
để cho Phương Châu dẫn hai vợ về thăm quê chứ không để cha mẹ Phương
Châu lên kinh hay để Ngọc Khanh về thăm cha mẹ nàng như trong ca bản.
Bên cạnh đó, không chỉ diễn nôm ca bản, Nguyễn Huy Tự cũng đã góp
phần thu gọn câu chuyện, cắt bớt những phần dài dòng và những ý quanh
quẩn. Ý thơ của Nguyễn Huy Tự trở nên nhẹ nhàng, cô đọng và hàm súc
hơn bao giờ hết. Mở đầu tác phẩm ca bản có viết:
Từng nghe một truyện kỳ phong nguyệt,
Chung tình dằng dặc như biển trời
Mai một phong lưu ai biết được?
Nên đem truyền cho hậu thế xem!
Nguyễn Huy Tự viết:
Từng nghe trăng gió duyên nào,
Bề sâu là nghĩa, non cao là tình
Người dung hạnh, bậc tài danh,
Nói vay mượn tiếng chập chành để gương
Như vậy, Nguyễn Huy Tự đã có những nét sáng tạo riêng của mình
khiến câu văn nhẹ nhàng nhưng vẫn thấm đẫm ý nghĩa sâu sắc. Điều quan
trọng hơn cả là tác phẩm vẫn trung thành với ca bản, không làm mai một ý
nghĩa ca bản Hoa tiên ký.
Kết cấu chặt chẽ, tình tiết phong phú nhưng không rườm rà của tác phẩm đã
thể hiện được tài năng và sáng tạo của tác giả Nguyễn Huy Tự. Nhờ sự sáng
41
tạo ấy, truyện được dựng lên như vừa có chủ tâm nghệ thuật, vừa có ngẫu nhiên,
đơn giản, tinh tế. Với cách kết cấu như vậy, tác giả đã khiến cho mạch kể của tác
phẩm nhanh chóng phát triển theo khuynh hướng của nó đồng thời tạo ra độ gấp
khúc. Tác phẩm kết thúc có hậu thể hiện chính mong ước, khát vọng mãnh liệt
của nhân dân về một tình yêu tự do, cuộc sống hạnh phúc, công bằng.
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nhân vật văn học là những con người được miêu tả trong tác phẩm
bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ
hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần,
thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không làm
ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm.
Bettong Brecht cho rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật
không phải đơn giản là những bản dập của những con người sống mà là
những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả”.
Để xây dựng thành công một nhân vật văn học, nhà văn phải có khả
năng đồng cảm, phát hiện những đặc điểm bền vững ở nhân vật. Điều này
đòi hỏi nhà văn phải hiểu đời, hiểu người. Nhưng có một điều không kém
phần quan trọng là nhà văn phải miêu tả, khắc họa nhân vật ấy ra sao cho
có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc. Đây là vấn đề liên quan
trực tiếp đến những biện pháp xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học.
Nhân vật trong truyện Nôm thường là những bậc giai nhân – tài tử. Có
thể nói, một trong những thành công rực rỡ nhất về phương diện nghệ thuật
của Hoa tiên là xây dựng nhân vật. Nhân vật trong truyện Hoa tiên có số
lượng như sau:
Nhân vật chính: 3. (gồm Phương Châu, Dao Tiên, Ngọc Khanh).
Nhân vật trung tâm: 3. (gồm Phương Châu, Dao Tiên, Ngọc Khanh).
Nhân vật phụ: 3. (gồm Vân Hương, Bích Nguyệt, Diêu Sinh).
42
Số lượng nhân vật trong tác phẩm không nhiều, tuy vậy không làm
giảm sự hấp dẫn của tác phẩm bởi tác giả đã xây dựng câu chuyện với
những tình tiết hay và mới lạ. Nhân vật trong Hoa tiên ít nhiều đã mang
bản sắc và cá tính riêng biệt.
Truyện Nôm luôn chia nhân vật thành hai tuyến đối lập: nhân vật
chính diện và nhân vật phản diện. Thông thường trong truyện Nôm khi
miêu tả nhân vật là người tốt sẽ là những người có dung mạo đẹp, có học
vấn và ăn nói văn hoa, cử chỉ, hành động thì đoan trang, mực thước ngược
lại đối với nhân vật phản diện.
Nếu như trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chia thành hai loại hình nhân
vật: tuyến nhân vật chính diện tả theo bút pháp ước lệ, tuyến nhân vật phản
diện tả theo bút pháp tả thực thì truyện Hoa tiên tác giả lại không chia giống
như vậy. Sở dĩ vậy là bởi trong truyện Hoa tiên không có tuyến nhân vật phản
diện mà các nhân vật trong tác phẩm đều là những nhân vật chính diện.
Phương Châu là một chàng trai sống trong khuôn khổ giáo điều nhưng giàu
tình cảm, chấp nhận chạy theo tình yêu một cách tha thiết, mãnh liệt. Dao
Tiên lại là một cô gái quý tộc e dè, không chủ động, có đời sống nội tâm phức
tạp với khá nhiều dằn vặt trong suy nghĩ và cũng là nhân vật được xây dựng
thành công nhất trong truyện. Ngọc Khanh và Diêu Sinh luôn bó mình trong
khôn khổ lễ giáo phong kiến với tính cách khô khan, chưa bao giờ làm điều gì
trái với đạo lí Khổng, Mạnh. Hai tì nữ Vân Hương và Bích Nguyệt đều mang
điểm chung ở sự lạc quan, yêu đời và tư tưởng sống tiến bộ.
Các tác giả truyện Nôm thường làm nổi bật ngoại hình, phẩm chất
nhân vật bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, thủ pháp quen thuộc của văn
chương trung đại, không chỉ có tác giả của truyện Hoa tiên mới sử dụng mà
hầu hết các nhà thơ, nghệ sĩ của văn học trung đại đều sử dụng đến.
43
Tác giả Hoa tiên đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả nhân
vật của mình từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động mà ở đây tiêu biểu là
Phương Châu và Dao Tiên. Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả đã giới thiệu cho
người đọc một trang văn nhân tài mạo, với tầm thước đĩnh đạc hơn người:
Húy Phương Châu, tự Diệc Thương
Phong tư điềm giá, từ chương toát loài.
Mặt hoa, tài gấm gồm hai,
Đua chân nhảy phượng, sánh vai cưỡi kình.
(17 – 20)
Chỉ bằng vài nét vẽ, dăm ba từ ngữ chấm phá tác giả đã làm hiện lên
một chàng thư sinh có tướng hiền quý. Hình ảnh Phương Châu tượng trưng
cho một “trang văn nhân tài tử” tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ tương
xứng “đua chân nhảy phượng, sánh vai cưỡi kình”. Đó là một vẻ đẹp cân
đối, hài hòa, tỏ rõ chí nam nhi, một người vừa có sức vóc, vừa có tài năng,
nhân tài này sẽ làm nên được việc lớn.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã sử dụng bút pháp ước lệ khi
miêu tả Từ Hải:
Râu hùm hàm én mày ngài,
Vai năm thước rộng thân mười thước cao.
Từ Hải được nhà thơ xây dựng giống như hình tượng người anh hùng
trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là người anh hùng với dáng hình “vai năm
thước rộng, thân mười thước cao”. Có thể nói qua câu thơ miêu tả của
Nguyễn Du về hình dáng của Từ Hải ta thấy được một hình ảnh người anh
hùng thứ thiệt, mang tầm vóc ngang tàng, hoành tráng của những anh hùng
thời xưa. Đó chính là nét đẹp phương phi của những người anh hùng thời
xưa mà qua đây chúng ta biết thêm về nét đẹp ấy. Nếu Từ Hải được miêu tả
với những vẻ đẹp của người anh hùng thì Kim Trọng lại được miêu tả là
một văn nhân với phong thái trang nhã, lịch sự:
44
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lòng buông tay khấu bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau lưng theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu dòn,
Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời.
Không chỉ Phương Châu, nhân vật Dao Tiên cũng được tác giả sử
dụng triệt để bút pháp ước lệ để miêu tả vẻ đẹp của nàng.
Văn học trung đại thường sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả
vẻ đẹp của người phụ nữ, lấy thiên nhiên làm thước đo vẻ đẹp con người.
Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều: Vân xem trang trọng
khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Với Nguyễn Du, “nét ngài nở nang” là nét đẹp hài hòa, duyên dáng, là
cân đối, phù hợp với “khuôn trăng đầy đặn” của Thúy Vân, vẻ đẹp đoan trang
báo hiệu cho nàng một cuộc sống an nhàn, hạnh phúc. Vẻ đẹp của Thúy Vân
tưởng chừng không ai sánh được, nhưng Thúy Kiều lại có vẻ đẹp vượt trội
“sắc sảo mặn mà” hơn, vẻ đẹp ấy khiến “hoa ghen”, “liễu hờn”. Vẻ đẹp khiến
tạo hóa phải ghen tị báo hiệu cho một cuộc bể dâu của kiếp hồng nhan.
Thúy Vân, Thúy Kiều của Nguyễn Du có vẻ đẹp như vậy thì Dao Tiên
của truyện Hoa tiên cũng đẹp không thua kém:
Gió đông gờn gợn sóng tình
45
Dưới trăng lộng lẫy một cành mẫu đơn.
Mặn mà chìm cá, rơi nhàn
Nguyệt ghen gương khép, hoa hờn thắm
bay Thiên nhiên sẵn đúc dầy dầy,
Càng tươi tỉnh nét, càng say sưa tình.
(93 – 98)
Ta bắt gặp vẻ đẹp của Dao Tiên trong sự si tưởng của Phương Châu:
Người sao ngọc đúc, tuyết đông
Vẻ sao mây chuốt gương trong hỡi người
( 159 – 160)
Cũng giống như Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp Thúy Kiều “Hoa ghen
thua thắm, liễu hờn kém xanh” thì vẻ đẹp của Dao Tiên ở đây cũng khiến
trăng phải ghen “nguyệt ghen” với sắc đẹp của nàng mà mờ đi, hoa hờn vì
kém đẹp nên màu thắm như cũng phôi pha “thắm bay”, cái vẻ đẹp do trời
ban của Dao Tiên cứ dần lộ ra một cách rực rỡ.
Truyện Nôm thường ít khi miêu tả nội tâm nhân vật, nếu có thì chỉ là
một vài dòng tâm lí. Tiêu biểu cho số ít truyện Nôm miêu tả nội tâm nhân
vật chính là Truyện Kiều của Nguyễn Du, chẳng hạn với đoạn trích Trao
duyên, nỗi đau xót của Thúy Kiều cao trào ở hai câu cuối:
Ôi kim lang! hỡi kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Tác giả truyện Hoa tiên cũng xây dựng nhân vật của mình, tiêu biểu là
nhân vật Dao Tiên với những nét tâm lý. Dao Tiên là nhân vật thể hiện sâu
sắc nhất mối giằng co giữa lí trí và tình cảm với biết bao nhiêu dằn vặt
trong suy nghĩ:
Nẻo lần mượn lối trao cho
Ý tròn gương nguyệt, lọ mờ bóng mây
46
Là điều thuận miệng vắng đây
Mạch rừng bưng bít cho hay mới vừa
(531 – 534)
Dao Tiên dằn vặt trong mối suy nghĩ như tơ vò rằng nếu Phương Châu
đã say mê mình như vậy sao không mời người đến mối lái, hẳn khi dùng con
đường hợp lễ như vậy thì chẳng phải đàng hoàng, trọn vẹn hơn sao? Nhưng
dẫu sao cuối cùng tình yêu đã chiến thắng, Dao tiên tâm sự với hai cô hầu:
Mảnh tiên từng thấy thơ nào,
Ruộng tình dễ thấm nên hao bể lòng
(527 – 528)
Tiếng nói tình yêu đã thôi thúc nàng khiến Dao Tiên xúc động mãnh liệt:
Đàn đâu réo rắt bên tai,
Lửa đâu chất chứa nhường khơi trận hằng
(607 – 608)
Tâm trạng day dứt của Dao Tiên còn được bộc lộ ở những trang truyện
về sau, khi tình duyên dang dở Dao Tiên vô cùng đau xót:
Phận đàn bà ngỡ là chơi
Một ngày tăm tiếng muôn đời mắt tai
(981 – 982)
Sau này khi đã được vua tứ hôn lấy Phương Châu, Dao tiên vẫn mang
nhưng nét đáng quý và tấm lòng ân tình. Nàng nói đến 18 câu thơ ca tụng
phẩm giá của Ngọc Khanh, tự nhận Ngọc Khanh chịu thiệt thòi là do mình
gây ra nên khi vua tứ hôn cho Phương Châu lấy cả Ngọc Khanh, Dao Tiên
không ích kỉ mà còn khuyên Phương Châu cưới nàng, cho rằng việc Ngọc
Khanh còn sống gặp lại Phương Châu là trời thấm được nỗi oan của nàng:
Bây giờ lầm cát mặc ai
Vinh hoa riêng lấy một đời hay sao?
47
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự

More Related Content

What's hot

Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh ChâuĐề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản ĐàKhóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAY
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAYYếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAY
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Thể loại văn học và sự phân loại tác phẩm văn học
Thể loại văn học và sự phân loại tác phẩm văn họcThể loại văn học và sự phân loại tác phẩm văn học
Thể loại văn học và sự phân loại tác phẩm văn học
Jackson Linh
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
NOT
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAYLuận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAYLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của ngườiLuận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
Luận văn: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy ThiệpLuận văn: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
Luận văn: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Zalo/Telegram 0917193864
 
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
nataliej4
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bảnPhức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam BộLuận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyếtLuận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ, HAYLuận văn: Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh ChâuĐề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
Đề tài: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu
 
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản ĐàKhóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
Khóa Luận văn học về Mộng trong thơ của Tản Đà
 
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAY
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAYYếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAY
Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, HAY
 
Thể loại văn học và sự phân loại tác phẩm văn học
Thể loại văn học và sự phân loại tác phẩm văn họcThể loại văn học và sự phân loại tác phẩm văn học
Thể loại văn học và sự phân loại tác phẩm văn học
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
 
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo   juliet...
Cái bi và nghệ thuật bi kịch của shakespear qua các vở bi kịch rômeo juliet...
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAYLuận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
Luận văn: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh, HAY
 
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
Luận văn: Cảm thức người xa lạ trong tiểu thuyết Kẻ xa lạ của A Camus và Thất...
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAYLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản, HAY
 
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
 
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAYLuận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
Luận văn: Văn hóa dân gian trong tiểu thuyết Đàn hương hình, HAY
 
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của ngườiLuận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
Luận văn: Nghệ thuật giễu nhại trong tiểu thuyết Ba ngôi của người
 
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
 
Luận văn: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
Luận văn: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy ThiệpLuận văn: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
Luận văn: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
 
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
Tiểu Luận Sử Thi Mahabharata Của Ấn Độ
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
 
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bảnPhức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
Phức cảm genji trong sáng tác của một số nhà văn hiện đại nhật bản
 
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam BộLuận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
Luận văn: Phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
 
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyếtLuận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
Luận văn: Motif hôn nhân giữa người và thần linh trong truyền thuyết
 
Luận văn: Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ, HAYLuận văn: Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ, HAY
Luận văn: Tiểu thuyết di dân Việt Nam của các nhà văn nữ, HAY
 

Similar to Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự

Đặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.doc
Đặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.docĐặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.doc
Đặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.doc
Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
jackjohn45
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
nataliej4
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
HanaTiti
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NuioKila
 
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh TháiĐặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi phápLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAYLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAYLuận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
HanaTiti
 
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
NuioKila
 
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng VũTiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và InrasaraLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAYLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

Similar to Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự (20)

Đặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.doc
Đặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.docĐặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.doc
Đặc Điểm Tiểu Thuyết Lịch Sử Nguyễn Triệu Luật.doc
 
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩmXuân diệu về tác gia và tác phẩm
Xuân diệu về tác gia và tác phẩm
 
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh ChâuLuận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM
 
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN TRÃI VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdfNGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
NGUYỄN DU VỀ TÁC GIA VÀ TÁC PHẨM.pdf
 
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh TháiĐặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
Đặc điểm thể chân dung và văn học của Hồ Anh Thái
 
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đLuận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
Luận văn: Thể loại truyền kì trong tiến trình văn học Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi phápLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAYLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
 
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
Th s33.012 tìm hiểu chú giải văn học trung đại việt nam trong sách giáo khoa ...
 
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOTLuận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
Luận văn: Phương thức trần thuật của truyện ngắn thế sự, HOT
 
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAYLuận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
Luận văn: Sự chuyển biến trong văn học nửa cuối thế kỉ XIX, HAY
 
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdfNgôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Tiểu Thuyết Mười Lẻ Một Đêm Của Hồ Anh Thái.pdf
 
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
DẠY TRUYỆN KIỀU TỪ GÓC ĐỘ KHAI THÁC ẨN DỤ- HOÁN DỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM N...
 
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng VũTiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
Tiểu thuyết “hoa hậu xứ mường” và “vương quốc ảo ảnh” của Phượng Vũ
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và InrasaraLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAYLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
 

More from Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877

Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeBáo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkBáo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thốngLuận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamLuận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnLuận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởLuận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiLuận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang TrạiLuận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoLuận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịLuận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtTiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafeTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhTiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn THTiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTTiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

More from Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877 (20)

Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win HomeBáo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
Báo cáo thực tập quản trị nhân sự tại công ty Bất Động Sản Win Home
 
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa VinamilkBáo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
Báo cáo thực tập Văn hóa doanh nghiệp tại công ty sữa Vinamilk
 
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
Luận văn thạc sĩ Giá trị đạo lý trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu với đời ...
 
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
Luận văn văn hóa học ảnh hưởng của truyền thông đối với việc chọn nghề của họ...
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương ĐạiLuận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
Luận văn thạc sĩ văn hóa học Di sản khảo cổ học trong bối cảnh Đương Đại
 
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thốngLuận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
Luận văn thạc sĩ văn hóa học về chợ quê truyền thống
 
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt NamLuận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
Luận văn thạc sĩ ứng dụng thương mại điện tử trong bán lẻ Việt Nam
 
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyếnLuận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
Luận văn thạc sĩ thương mại điện tử ý định mua sách trực tuyến
 
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ SởLuận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
Luận văn thạc sĩ chính trị học giáo dục Lý Luận Chính Trị Cho Cán Bộ Cấp Cơ Sở
 
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn MớiLuận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
Luận văn Phát triển nông thôn Trong Xây Dựng Nông Thôn Mới
 
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang TrạiLuận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
Luận văn thạc sĩ phát triển nông thôn Kinh Tế Trang Trại
 
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báoLuận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
Luận văn thạc sĩ ngành xã hội học về người có uy tín trên báo
 
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thịLuận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
Luận văn thạc sĩ xã hội học Giao tiếp trong gia đình đô thị
 
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọtTiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
Tiểu luận Thiết lập và thẩm định dự án đầu tư_ Dự án đầu tư cửa hàng bánh ngọt
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư trung tâm kỹ năng Anoz5
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafeTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán cafe
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt FastfoodTiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư quán ăn vặt Fastfood
 
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanhTiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
Tiểu luận thẩm định dự án đầu tư cửa hàng thức ăn nhanh
 
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn THTiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
Tiểu luận văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn TH
 
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPTTiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
Tiểu luận biểu hiện văn hóa doanh nghiệp của Tập Đoàn FPT
 

Recently uploaded

30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
nvlinhchi1612
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
phamthuhoai20102005
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
Qucbo964093
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
duykhoacao
 

Recently uploaded (10)

30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
 

Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện hoa tiên của Nguyễn Huy Tự

  • 1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN --------  ------- TRẦN THỊ LOAN TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRUYỆN HOA TIÊN CỦA NGUYỄN HUY TỰ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2017
  • 2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN --------  ------- TRẦN THỊ LOAN TÌM HIỂU GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRUYỆN HOA TIÊN CỦA NGUYỄN HUY TỰ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HẰNG HÀ NỘI – 2017
  • 3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và rèn luyện tại Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Việt Hằng đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em thực hiện khóa luận này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2017 Sinh viên Trần Thị Loan
  • 4. LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận là kết quả nghiên cứu c ủa bản thân dưới s ự hướng d ẫn của TS. Nguyễn Thị Việt Hằng. Kết quả thu được hoàn toàn trung thực và không trùng khớp với các công trình nghiên c ứu khác . Nếu sai sót, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 20 tháng 04 năm 2017 Sinh viên Trần Thị Loan
  • 5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU…....................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu........................................................................................ 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 5 5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 5 6. Đóng góp của khóa luận .......................................................................... 6 7. Bố cục của khóa luận .............................................................................. 6 NỘI DUNG ................................................................................................ 7 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG..................................................... 7 1.1. Tình hình lịch sử – xã hội, văn hóa – tư tưởng thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX.......................................................................................................... 7 1.2. Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa tiên......................................................... 10 1.2.1. Cuộc đời................................................................................................ 10 1.2.2. Truyện Hoa tiên..................................................................................... 12 Chương 2. TRUYỆN HOA TIÊN THỂ HIỆN CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU ĐÔI LỨA........................................................................................................ 19 2.1. Thể hiện câu chuyện tình yêu tự do theo tiếng gọi trái tim...................... 19 2.2. Thể hiện câu chuyện tình yêu trong khuôn khỗ lễ giáo phong kiến......... 28 Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT…......................... 38 3.1. Kết cấu .............................................................................................. 38 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật............................................................. 42 3.3. Ngôn ngữ........................................................................................... 48 KẾT LUẬN.............................................................................................. 56 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................
  • 6.
  • 7. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong văn học Việt Nam trung đại, truyện Nôm giữ vị trí khá quan trọng không chỉ bởi số lượng tác phẩm còn lại đến ngày nay mà còn bởi chất lượng và sức hấp dẫn của nó đối với nhiều thế hệ độc giả. Có thể nói kết tinh thành tựu văn học trung đại Việt Nam nằm ở thể loại truyện Nôm với đỉnh cao là kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du, đồng thời với đó là truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự, Sơ kính tân trang của Phạm Thái... được coi là niềm tự hào của văn hóa và văn học nước nhà. Với ý nghĩa như vậy, nghiên cứu một tác phẩm truyện Nôm nổi bật là hướng đi hấp dẫn. Những năm gần đây, chương trình giáo dục ở Đại học có nhiều thay đổi, việc đào tạo theo hình thức tín chỉ kéo theo số giờ giảng dạy giảm đi nhiều, một số tác phẩm ít có cơ hội được đề cập đến. Việc tìm hiểu cũng như đào sâu khai thác là cầu nối giúp cho người đọc bước vào thế giới văn học trung đại một cách trọn vẹn, phong phú hơn. Bên cạnh đó, truyện Hoa tiên được đánh giá khá cao trong nhóm truyện Nôm bác học. Song tác phẩm này chưa được giảng dạy trong chương trình, có chăng chỉ được nhắc đến như một ví dụ minh chứng cho thể loại truyện Nôm. Vì vậy lựa chọn truyện Hoa tiên để nghiên cứu là một cách để người viết bổ sung kiến thức về truyện Nôm nói riêng và văn học trung đại nói chung. Với ý nghĩa là một tác phẩm được đánh giá cao của thể loại, Hoa tiên nhận được không ít sự lưu tâm của giới nghiên cứu khai thác trên nhiều khía cạnh song chưa có công trình nào viết một cách bài bản bao quát cả phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm nên chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài này. Là một sinh viên khoa Ngữ văn và một giáo viên tương lai, việc nắm được một cách sâu rộng giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện Hoa tiên nói riêng 1
  • 8. và thể loại truyện Nôm nói chung có ý nghĩa quan trọng trong công việc và góp phần bổ sung kiến thức cá nhân. Dựa trên những tiền đề khoa học và thực tiễn, nhận thấy nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật là cách để bao quát đầy đủ thành tựu cũng như hạn chế của một tác phẩm văn học, cộng với hứng thú cá nhân đã thôi thúc người viết lựa chọn đề tài “Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự” cho khóa luận của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu Truyện Hoa tiên là tác phẩm được giới nghiên cứu quan tâm trên nhiều phương diện. Chúng tôi bắt gặp một số lượng không nhỏ những cuốn sách, những tài liệu, những công trình liên quan đến truyện Hoa tiên như vấn đề biên khảo, khía cạnh nội dung, nghệ thuật, vấn đề tôn giáo, tác giả, tác phẩm. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như sau: Năm 1828, Vũ Đài Vấn nhận xét về tác giả và người nhuận sắc truyện Hoa tiên rằng: “Vì Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện còn có những chỗ kém nên ông đã không quản tài thiên lậu mà thêm bớt, mà sửa chữa từng chữ, từng câu; đầy năm mới xong” [4,tr15]. Năm 1843, Cao Bá Quát đánh giá khá cao truyện Hoa tiên, ông khen tác giả đã có công “dùng bụi bặm tấm cám mà hun đúc lên gạch ngói lâu đài... khiến cho Kim Vân Kiều sau đó sinh ra được vậy” [4,tr254]. Năm 1943, Đào Duy Anh quan tâm nhiều đến thời điểm ra đời truyện Hoa tiên đồng thời đưa ra những nội dung đánh giá bao quát về tác phẩm trong cuốn Nguồn gốc Hoa tiên ký. Ông chỉ ra truyện Hoa tiên được sáng tác khi Nguyễn Huy Tự còn trẻ và đưa ra những nhận định khách quan về giá trị của tác phẩm. Năm 1961, Lại Ngọc Cang trong khi khảo thích và giới thiệu truyện Hoa tiên nhận xét Nguyễn Huy Tự “đã viết Hoa tiên theo sát cốt truyện của ca bản, 2
  • 9. theo sát cả kết cấu của nó nữa, trừ phần cuối cùng... Ông đã thu gọn hẳn câu chuyện lại..., đã tiếp thu hầu hết những ý hay, lời đẹp của ca bản, nhưng ông cũng đã gạt bỏ đi rất nhiều câu rườm rà, không cần thiết” [4,tr12-13]. Năm 1968, Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu nhận định: “văn truyện ấy thật là lối văn uẩn súc, điêu luyện, dùng rất nhiều điển cố; bởi thế cuốn ấy được các học giả thưởng thức, nhưng không được phổ cập như cuốn Truyện Kiều của Nguyễn Du” [8,tr324]. Trong hai năm 1993 – 1994, hội thảo kỉ niệm 200 năm ngày mất (1990) và 250 năm ngày sinh (1993) của Nguyễn Huy Tự đã được tổ chức tại Hà Tĩnh và Hà Nội, bao gồm 25 bản tham luận, về sau được in trong cuốn Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa tiên. Những bài tham luận đã đề cập tới một số khía cạnh có liên quan đến đề tài người viết đang nghiên cứu: Trần Đình Hượu với Hoa tiên và vấn đề của nó trong lịch sử truyện Nôm cho rằng Nguyễn Huy Tự đã “dốc tài năng văn chương quốc âm ra làm một việc hoàn toàn mới: chuyển tác một ca bản chữ Hán thành một truyện thơ. Sau ông có những người làm theo, hoặc chuyển tác như Kim Vân Kiều, hoặc sáng tác như Sơ kính tân trang. Cái hấp dẫn họ hay chủ đề văn học mà họ theo đuổi là tình yêu và điều đó biểu hiện rõ trong công phu gọt rũa văn chương những đoạn mô tả tình yêu tinh tế, sâu sắc” [29,tr188]. Phong Lê với Nguyễn Huy Tự và Hoa tiên trong cảm hứng nhân văn và văn mạch dân tộc đã khen ngợi “Hoa tiên trong sự phát triển của cả một dòng truyện thơ từ bình dân sang bác học quả đã ghi được một dấu ấn quan trọng trên hành trình tinh thần và khát vọng hạnh phúc của con người” [29,tr31]. Đào Thản với công trình Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Huy Tự trong Hoa tiên nhận xét rằng “Nét nổi bật trong ngôn ngữ thơ của Hoa tiên là sức diễn cảm. Từng câu thơ, đoạn thơ cứ như những cánh hoa vụng dại 3
  • 10. run rẩy nở ra trước gió, đem đến cho ta cảm giác rằng chúng được viết ra không phải bằng giấy mực mà bằng hơi thở nhịp đập trái tim và bằng cả tâm hồn” [29,tr285]. Năm 1996, Ngô Thị Thanh Nga với Truyện thơ Nôm Hoa tiên ký qua sự tiếp nhận của các thế hệ độc giả in trên tạp chí Khoa học và Công nghệ đưa ra nhận định: “Dù sự tiếp nhận của các độc giả về Hoa tiên ký không nhiều, nhưng những giá trị về nội dung, nghệ thuật cũng như giá trị mở đường cho sự phát triển của văn học Nôm nói chung và thể loại truyện thơ nôm nói riêng của tác phẩm cũng đã được các độc giả khẳng định một cách vững chắc” [58(10)]. Năm 2004, Lại Văn Hùng trong cuốn Từ điển văn học cho rằng tác giả viết truyện Hoa tiên vào thời trẻ đồng thời khen ngợi Nguyễn Huy Tự đã biết “biến lối văn “kể và thuật” của ca bản Trung Quốc thành lối văn “tả và gợi” [21,tr1151]. Năm 2004, Nguyễn Lộc quan tâm vấn đề truyện Hoa tiên so với các tác phẩm truyện Nôm khác cùng thời, ông nhận định “Hoa tiên là một câu chuyện tình xảy ra trong cảnh lầu son gác tía. Điều đáng chú ý là trong tác phẩm này là không có một nhân vật phản diện nào cả. Mâu thuẫn giữa tình yêu và lễ giáo phong kiến không thể hiện thành hai tuyến nhân vật đối lập, như trong nhiều truyện Nôm khác cùng thời, mà thành cuộc đấu tranh giữa lý trí và tình cảm ở những nhân vật chính” [21,tr600]. Điểm qua một vài công trình nghiên cứu về vấn đề truyện Hoa tiên, chúng tôi nhận thấy hầu hết các khía cạnh của tác phẩm đã được các nhà nghiên cứu quan tâm. Nhưng nếu nhìn nhận một cách khách quan ta có thể thấy các công trình, các bài viết chỉ đề cập đến một khía cạnh nào đó của vấn đề, chưa có công trình nào khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Tất cả những công trình, những bài viết, những ý kiến, nhận định, đánh giá của các nhà 4
  • 11. nghiên cứu trên đây là những gợi ý quý báu trong việc đi sâu khai thác tác phẩm về mặt nội dung và nghệ thuật. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của khóa luận là hoàn thành một công trình nghiên cứu về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Hoa tiên. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu về thời đại Nguyễn Huy Tự trên hai phương diện lịch sử, xã hội và văn hóa tư tưởng, từ đó nhìn nhận những căn cứ quan trọng có tác động đến tác giả. - Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Huy Tự cùng những vấn đề liên quan đến tác phẩm. - Làm rõ những khía cạnh cơ bản về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Hoa tiên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là truyện Hoa tiên. Ở đây chúng tôi sử dụng văn bản trong cuốn Truyện Hoa tiên, Lai Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu, NXB Văn Hóa Hà Nội,1961. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi tiến hành nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm truyện Hoa tiên. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu văn học Sử. - Phương pháp liên ngành. - Thao tác thống kê phân loại. - Các thao tác chứng minh, lập luận, phân tích tổng hợp. 5
  • 12. 6. Đóng góp của khóa luận Đưa ra một công trình nghiên cứu khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện Hoa tiên. 7. Bố cục của khóa luận Khóa luận được triển khai theo ba phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung được chia thành ba chương: - Chương 1: Những vấn đề chung - Chương 2: Truyện Hoa tiên thể hiện câu chuyện tình yêu đôi lứa. - Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật. 6
  • 13. NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tình hình lịch sử – xã hội, văn hóa – tư tưởng thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX Truyện Hoa tiên ra đời trong giai đoạn văn học thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Đây là giai đoạn tổng khủng hoảng một cách trầm trọng, toàn diện. Sự khủng hoảng này được bộc lộ trên nhiều phương diện nhưng nổi bật nhất là sự suy thoái trong toàn bộ cơ cấu của chế độ phong kiến. Những mâu thuẫn chất chứa trong lòng xã hội phong kiến đến giai đoạn này bộc lộ gay gắt và bùng nổ thành những cuộc đấu tranh quyết liệt. Các tập đoàn phong kiến liên tiếp thay thế nhau thống trị đất nước, chỉ trong một thời gian ngắn, vua Lê mất, chúa Trịnh diệt vong, Nguyễn Huệ lên ngôi. Sự biến động này kéo theo mâu thuẫn trong nội bộ triều chính. Tất cả tình hình kinh tế, chính trị như vậy dẫn đến kết quả những cuộc nội chiến kéo dài, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra chống lại triều đình ở cả hai miền Nam, Bắc và giai cấp thống trị cực đoan. Đỉnh cao là phong trào Tây Sơn – cuộc khởi nghĩa của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ giành được những thắng lợi vẻ vang, đánh đổ ba tập đoàn phong kiến thống trị trong nước, đánh tan 20 vạn quân Thanh xâm lược, lập nên một vương triều phong kiến mới với nhiều chính sách tiến bộ, xây dựng nước Việt độc lập, tự chủ, dân giàu, nước mạnh, nhân dân được hưởng thái bình. Chính vì vậy, “thế kỷ XVIII được giới sử học mệnh danh là thế kỷ của chiến tranh nông dân” [28,tr5]. Thời đại nhiều biến cố đã gây ra tác động không nhỏ đến các trí thức nho học và bản thân chính tác giả Nguyễn Huy Tự lúc bấy giờ. Đây là thời điểm các triều đại liên tiếp thay thế nhau, chữ “trung” bị suy đồi, vua tôi đảo lộn dẫn đến bi kịch của giới trí thức nho học mông lung trước chữ “trung” của mình. Phạm Thái từng kêu lên: 7
  • 14. Dăm bảy năm nay những loạn ly, Cũng thì duyên phận cũng thì thì. Ba mươi tuổi lẻ là bao nả, Năm sáu đời vua khéo chóng ghê. Văn hóa tư tưởng giai đoạn này cũng khủng hoảng nghiêm trọng. Nho giáo vốn được coi như phương tiện đắc lực để các triều đại nắm quyền sử dụng điều hành đất nước đến đây lung lay không thể cứu vãn. Tam cương, ngũ thường của người quân tử bị đảo lộn, mọi kỷ cương bị phá vỡ, chúa hiếp đáp vua, con âm mưu lật đổ cha, bề tôi nhiều người phản trắc, đồng tiền và quyền lực mới là mục đích tối cao, quan lại, nho sĩ biến chất. Điều này được diễn tả khá sinh động trong Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái. Vua Lê trở thành bù nhìn, toàn bộ việc triều chính nằm trong sự sinh sát của chúa Trịnh. Chúa hiếp đáp vua đến nỗi biến vua thành tên hề ngay trên cung điện của mình, còn vua tự biến mình thành một kẻ hèn nhát với phương châm “Trời xui nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa tức là cái lo lại về ta, ta còn vui gì?”. Trịnh Sâm say đắm, mải mê sắc đẹp của Đặng Thị Huệ mà gây ra sai lầm nghiêm trọng trong việc lựa chọn Trịnh Cán quanh năm ốm yếu làm thế tử; Trịnh Tông vì tham vọng làm chúa mà trái mệnh cha, mưu đồ phản loạn. Ngay cả đạo quần thần cũng bị chà đạp, Tuần huyện Nguyễn Trang đã nộp chúa Trịnh Tông cho Tây Sơn, không chỉ vậy, hắn còn bộc lộ trắng trợn quan điểm của mình trước thầy học Lí Trần Quán “Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi không để quan lớn để cho lầm lỡ đâu”. Minh chứng này cộng với việc nội bộ các triều đại vì tranh ngôi báu mà phá vỡ mọi rường mối Nho giáo, chữ “trung”, chữ “hiếu” bị kéo đổ thảm hại. Trong bối cảnh này tầng lớp trí thức Nho học bị rơi vào khủng hoảng, bế tắc, hầu hết đều mang trong mình những tâm sự bi kịch. Nguyễn Du viết trong Tạp thi: 8
  • 15. Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên (Tráng sĩ đầu bạc ngửng nhìn trời, lòng bi đát Hùng tâm, sinh kế cả hai đều mờ mịt) Cao Bá Quát với Bệnh trung: Trắc thân thiên địa bi cô chưởng Hồi thủ yên tiêu khuất tráng đồ (Đất trời đau nỗi bàn tay lẻ Mây khói che đường chí khí to) Tình hình xã hội ngày càng đi vào khủng hoảng, bế tắc, đời sống chính trị ngày càng rối ren thì “con người không có cách nào khác là đi tìm tín ngưỡng tôn giáo để cứu cánh” [6,tr83]. Nếu như Phật giáo và Đạo giáo trước đây suy thoái (thế kỷ XVI) thì đến giai đoạn này lại có điều kiện phục hồi, tuy nhiên không bằng giai đoạn trước đó. Đạo Phật lúc này được coi trọng trở lại, nó phát triển trong lúc các tín ngưỡng dân gian ngày càng được mở rộng, nhiều chùa quán được xây dựng, một số chùa được trùng tu lại. Phật giáo tồn tại, gắn bó, ăn sâu vào tiềm thức tâm linh của con người và có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tâm lí, nếp sống của nhân dân. Đạo giáo cũng có những ảnh hưởng nhất định đến đời sống tâm hồn của người dân, nó được coi là “thứ thuốc chính thống cho các vết thương tâm hồn” [14,tr51]. Đạo giáo “thấm nhuần tư tưởng lãng mạn, chủ trương trở về với tự nhiên, thoát li đời sống xã hội, phản kháng những lễ nghi, bổn phận đạo Khổng tạo ra…” [14,tr50]. Dựa trên nền tảng của luận lý xã hội lúc bấy giờ, cụ thể là trên tinh thần Nho – Phật – Đạo, là quy phạm cương thường của người quân tử, lòng từ bi bác ái của con người, là triết lý sống hòa hợp với tự nhiên để được dân gian hóa, trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam. 9
  • 16. Giai đoạn văn học thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đánh dấu sự ra đời của khuynh hướng văn học “dân chủ nhân văn”. Các tác giả chủ yếu hướng ngòi bút của mình vào thân phận con người, tình yêu và khát vọng hạnh phúc. Thời điểm này truyện Nôm khá phát triển, người ta có xu hướng viết về những vấn đề lịch sử, trong đó có một hướng đi nổi trội lúc bấy giờ là dựa trên cốt truyện có sẵn, tiểu thuyết tài tử giai nhân của Trung Quốc để viết lại. Truyện Kiều là một ví dụ. Nguyễn Du đã mượn cốt truyện từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà sáng tạo ra Truyện Kiều bằng thơ lục bát dài 3254 câu thơ đậm đà bản sắc Việt Nam. Truyện Hoa tiên cũng vậy, dựa theo một ca bản của Trung Quốc có tên gọi Đệ bát tài tử Hoa tiên ký, Nguyễn Huy Tự đã có những sáng tạo riêng để tạo thành một tác phẩm mang tinh thần dân tộc. Giai đoạn này, mọi giá trị, mọi ràng buộc con người của lễ giáo phong kiến tất yếu có ảnh hưởng tới sáng tác văn chương. Văn học Việt Nam thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX viết nhiều tình yêu và người phụ nữ với kiểu mẫu “công dung ngôn hạnh”, “xuất giá tòng phu”... và những khuôn khổ đạo đức của lễ giáo phong kiến. Truyện Hoa tiên là một câu chuyện dài thể hiện tình yêu đôi lứa trong khuôn khổ trật tự phong kiến. 1.2. Nguyễn Huy Tự và truyện Hoa tiên 1.2.1. Cuộc đời Nguyễn Huy Tự, còn có tên gọi khác là Yên, tự là Hữu Chi, hiệu là Uẩn Trai, sinh ngày 15 tháng 7 niên hiệu Cảnh Hưng thứ 4 đời vua Lê Hiển Tông, tức là ngày 2 tháng 9 năm 1743, người làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Can Lộc), tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Huy Tự là con trưởng Nguyễn Huy Oánh và bà chính thất họ Nguyễn, ông nổi tiếng học rộng biết nhiều. Tương truyền “Ông bác thiệt cổ kim, lại giỏi thuật số, cho nên những thi họa, quốc âm, thanh luật, kỹ nghệ 10
  • 17. không món gì là không tinh tuyệt. Khâm hoài tiêu sái, khí cục hiên ngang, mà lúc trò chuyện bàn bạc thì mãn tọa không ai không lắng tai nghe” [16,tr211]. Ông tổ xa xưa của họ Nguyễn Huy là Nguyễn Uyên Hậu, đậu ngũ kinh bác sĩ đời Hồng Đức. Thế tổ là Nguyễn Hàm Hằng, mười lăm tuổi đậu hương thí, các đời sau đời nào cũng có người đỗ đạt và làm quan. Ông nội của Nguyễn Huy Tự là Nguyễn Huy Tựu đậu hương giải, làm Tham chính xứ Thái Nguyên, lúc chết được phong Công bộ Thượng thư. Cha Nguyễn Huy Tự là Nguyễn Huy Oánh, đậu thám hoa, giữ chức Hộ bộ Thượng thư, từng đi sứ Trung Quốc. Chú của Nguyễn Huy Tự là Nguyễn Huy Quýnh, đậu tiến sĩ, sau đổi sang làm quan võ, giữ chức Đốc thị đạo Quảng Thuận, cũng là một người có tài văn học. Năm 1759 (mười sáu tuổi), Nguyễn Huy Tự đậu thứ năm kỳ thi hương, lúc bấy giờ Nguyễn Huy Oánh đang làm Nhập nội thị giảng ở phủ chúa, ông được bổ chức Thị nội văn chức tùy giảng để giúp cha. Sau đó liên tiếp ông giữ các chức Hồng lô tự thừa (1767), Tri phủ Quốc Oai (1768), Hiến sát phó sứ Sơn Nam (1770). Năm 1774, đổi sang làm quan võ, Nguyễn Huy Tự giữ chức Quản binh, bốn năm sau thăng lên làm Trấn thủ xứ Hưng Hóa. Năm 1779, ông được đặc ban Tiến triều ứng vụ, ngang với tiến sĩ, sau đó làm Đốc đồng trấn Hưng Hóa rồi kiêm Đốc đồng Sơn Tây. Được ít lâu thì mẹ vợ mất, lại có loạn kiêu binh, Nguyễn Huy Tự lấy cớ xin về nhà chịu tang rồi không ra làm quan nữa. Nguyễn Huy Tự lấy hai đời vợ, vợ trước là Nguyễn Thị Bành, vợ kế là Nguyễn Thị Đài, cả hai đều là con gái Nguyễn Khản, anh cả nhà thơ Nguyễn Du và đều giỏi chữ Nôm. Ông có mười ba người con, chín trai và bốn gái. Năm 1790, ông được vua Quang Trung triệu vào Phú Xuân bổ chức Hữu thị lang, ông làm được mấy tháng thì bệnh nặng và mất ngày 27 tháng 7 năm 1790, thọ 48 tuổi. 11
  • 18. 1.2.2. Truyện Hoa tiên Như chúng tôi đã trình bày, Nguyễn Huy Tự sống trong thời kỳ khủng hoảng trầm trọng của chế độ phong kiến và sự suy yếu của tập đoàn thống trị Lê – Trịnh. Ông tích cực tham gia hoạt động, tạm thời gác lại nghiệp văn thơ để cầm vũ khí nhằm bảo vệ trật tự xã hội đang bị lay chuyển. Bởi vậy, hẳn đây không phải là thời gian nhàn rỗi và là nguồn cảm hứng để ông có thể sáng tác truyện Hoa tiên. Dựa vào ghi chép về dòng họ Nguyễn Huy, nhà phê bình Hoài Thanh đã đưa ra nhận định “Nguyễn Huy Tự đã viết Hoa tiên hồi còn nhỏ tuổi” [26,tr104]. Ý kiến này có cơ sở và khá chuẩn xác. Vào thời chúa Trịnh Doanh, sau khi đậu thứ 5 kì thi hương khi mới 17 tuổi, Nguyễn Huy Tự rời quê lên Thăng Long giúp cha giảng sách ở phủ Thế tử. Từ lâu, phong trào sáng tác thơ văn chữ Nôm đã thịnh hành ở Thăng Long. Trịnh Doanh, Trịnh Sâm và Nguyễn Huy Oánh đều có tài làm thơ Nôm, Nguyễn Huy Tự cũng là người có sở trường về thơ phong tình. Nguyễn Huy Tự đã đính ước với con gái của Nguyễn Khản. “Tư thất của Nguyễn Khản dựng ở xóm Bích – câu, nhà cửa lộng lẫy, vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, không kém gì vườn chúa nên thường được Trịnh Sâm ra chơi và tỏ lời khen ngợi” [4,tr11]. Khi Nguyễn Huy Tự đến làm rể ở phủ Nguyễn Khản đã cảm nhận được vẻ đẹp cảnh vật, chàng trai đang tuổi hai mươi rạo rực yêu đương mới thấy hết được giá trị của ca bản Hoa tiên ký. Nhà phê bình Tĩnh Tịnh Trai bình luận rằng đó là một truyện “khởi bằng gió trăng, kết bằng gió trăng mà trong khoảng giữa, không có chỗ điểm xuyết nào thoát ra ngoài hai chữ gió trăng” [4,tr10]. Cảm xúc tuổi trẻ trong Nguyễn Huy Tự rất thích hợp viết một truyện dài về yêu đương và công danh như truyện Hoa tiên. Từ việc nghiên cứu nguyên tác kết hợp với tìm hiểu cuộc đời Nguyễn Huy Tự cho phép chúng tôi khẳng định: “Nguyễn Huy Tự đã viết truyện Hoa tiên khoảng giữa thế kỷ XVIII, từ năm 1759 (năm ông tới Thăng Long) đến năm 12
  • 19. 1768 (năm được bổ làm quan ở Sơn Tây), lúc này ông vào khoảng 17 – 26 tuổi” [4,tr12]. Truyện Hoa Tiên theo GS. Nguyễn Lộc “bản nguyên tác của Nguyễn Huy Tự có độ dài là 1.532 câu lục bát. Sau khi được một người em họ bên vợ là Nguyễn Thiện sửa chữa và thêm thắt thì bản truyện có tất cả là 1.826 câu” [21,tr600], và được Đỗ Hạ Xuyên khắc ván in đầu tiên vào năm Ất Hợi (1875) đời Tự Đức, với nhan đề là Hoa tiên nhuận chính, hay Hoa tiên nhuận chính tân biên. Tuy nhiên, theo văn bản có trong sách Văn học thế kỷ 18 do PGS. Nguyễn Thạch Giang chủ biên, thì “bản nhuận sắc chỉ có 1.766. Nhưng, theo nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm thì bản này có đến 1.858 câu” [9,tr70]. Sự ra đời của truyện Hoa tiên là một thành công lớn của văn học cổ điển dân tộc. Việc nhuận sắc tác phẩm được coi là vấn đề đáng lưu tâm. Nghiên cứu cho rằng Nguyễn Huy Tự viết truyện Hoa tiên vào khoảng từ năm 1759 đến năm 1768, khi ông khoảng 17 đến 26 tuổi. Sau đó tác phẩm đã qua tay nhiều người nhuận sắc, có thể điểm qua như sau: Nguyễn Thiện được coi là người đầu tiên có công nhuận sắc truyện Hoa tiên. Nguyễn Thiện, tự Khả Dục, hiệu Thích Hiên, sinh ra ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Là con nhà quan lại khá giả, cháu gọi Nguyễn Khản bằng bác, gọi thi hào Nguyễn Du bằng chú. Bàn về việc nhuận sắc tác phẩm có nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh vấn đề Truyện Kiều của Nguyễn Du chịu ảnh hưởng từ truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự hay ngược lại? Ông Đào Duy Anh đã đưa ra giả thuyết “Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều trong khoảng 1805 – 1809. Nguyễn Thiện đã đọc tác phẩm ấy rất kỹ và có lẽ chính nó đã tạo nên cảm hứng nhuận sắc truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự” [4,tr18]. Ý kiến này đã giải quyết ổn thỏa vấn đề nhuận sắc của Nguyễn Thiện. Nhận thấy truyện Hoa tiên và Truyện Kiều có mối ảnh 13
  • 20. hưởng qua lại tác động lẫn nhau. Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của truyện Hoa tiên: Truyện Hoa tiên nguyên tác: Bụi hồng dứt nẻo đi về chiêm bao Truyện Kiều viết: Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao Tuy nhiên Nguyễn Du đã tiếp thu một cách có chọn lọc và sáng tạo đem lại sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm của mình. Trong việc nhuận sắc truyện Hoa tiên, Nguyễn Thiện đã dụng công tô đậm quan niệm trung hiếu, tiết nghĩa bằng cách viết lại phần mở đầu. Nguyễn Huy Tự mở đầu tác phẩm bằng cách tả cảnh đêm thông qua việc đối chiếu chuyện Ngưu Lang – Chức Nữ trên trời với chuyện tình yêu của con người mà vào truyện: Nương lan nhẹ hóng mát chiều, Vàng pha gió quế, trắng dìu hương sen. Gác rèm câu nguyệt xiên xiên, Này hôm ả Chức chàng Khiên họp vầy. Ngược lại, Nguyễn Thiện khi nhuận sắc truyện Hoa tiên đã mở đầu bằng hai chữ “trăm năm” như Truyện Kiều: Trăm năm một sợi chỉ hồng Buộc người tài sắc vào trong khuôn trời Ngoài ra, Nguyễn Thiện cũng nhấn mạnh tính chất triết lý, một số tư tưởng Nho giáo thời bấy giờ. Ông thường coi trọng cách diễn tả con người qua hành động và cả nội tâm nhân vật. 14
  • 21. Kết cấu truyện cũng đã có sự thay đổi đáng chú ý khi Nguyễn Thiện nhuận sắc. Ở bản Hoa tiên nguyên tác sau hồi Phủ Lưu ép duyên, tiếp theo hồi Lương Sinh bàn kế đánh giặc rồi mới đến hồi Ngọc Khanh gieo mình xuống sông. Trong bản Hoa tiên nhuận sắc Nguyễn Thiện đã đổi hồi Ngọc Khanh gieo mình xuống sông lên trước hồi Lương sinh bàn kế đánh giặc để đảm bảo sự hợp lí và lôgic. Xét một cách bao quát, nhận thấy Nguyễn Thiện đã dụng công trong việc nhuận sắc truyện Hoa tiên. Tuy nhiên phần đóng góp sửa chữa của Nguyễn Thiện còn nặng về phần hình thức. Ông đã sửa lại hầu hết những từ ngữ mộc mạc, giản dị thay vào đó bằng ngôn từ bóng bẩy, chải chuốt phù hợp với câu chuyện tình yêu nơi lầu son gác tía. Điều đó làm cho câu chuyện chủ yếu phổ biến trong giới tri thức hơn tầng lớp bình dân. Vũ Đài Vấn là người tiếp theo nhuận sắc truyện Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện năm 1828. Trong bài tựa của mình, ông khen truyện Hoa tiên “từ hồi hai mươi bốn trở về trên, lời và ý đều chu đáo” nhưng ông chê tác phẩm “từ hồi hai mươi bốn trở về sau, lời thì nhiều chỗ trái tai mà ý thì không khỏi có chỗ thiếu sót” [4,tr251]. Khi nhuận sắc truyện Hoa tiên, Vũ Đài Vấn đã kéo dài tác phẩm thêm 86 câu thơ nữa. Ông ý thức sâu sắc hơn trong việc đưa những quan niệm đạo đức vào tác phẩm. Trong bản Hoa tiên nhận chính tân biên, tác giả lên tiếng khẳng định kẻ làm trai đã vì ơn vua mà chết thì: Nát thân danh vẫn chưa sờn, Thôi thôi ngọc lở còn hơn ngõa tuyền Ngoài ra Vũ Đài Vấn còn có công sửa chữa những từ ngữ thô nhám cho thanh thoát, nhẹ nhàng đồng thời uốn nắn tâm lí nhân vật phù hợp với hoàn cảnh. 15
  • 22. Truyện Hoa tiên nguyên tác: Tôi con chút phận thờn bơn, Nếu dồi dắng lại ra hờn cợt ngay Vũ Đài Vấn chỉnh sửa: Tôi con chút phận thờn bơn Xe duyên là mấy đội ơn cao dầy Xét thấy việc nhuận sắc của Vũ Đài Vấn có phần nặng về nội dung tư tưởng. Tuy nhiên không thể phủ nhận công lao to lớn của ông khi bỏ ra một năm để sửa chữa truyện Hoa tiên cho phù hợp với hoàn cảnh và các quan niệm đạo đức. Cao Bá Quát trong bài tựa của mình cũng đã lên tiếng khẳng định vì yêu mến truyện Hoa tiên nên đã sửa chữa, gọt rũa “mạo muội thêm thắt vào sự điểm chính, ý muốn chữa lại cho đúng những chỗ sai lầm hoặc lạ lùng, tạp nham mà sửa nên cuốn sách của một nhà” [4,tr255]. Hiện nay người ta không rõ Cao Bá Quát đã đính chính cụ thể ở những điểm nào nhưng chắc chắn rằng việc làm của ông có xu hướng điều chỉnh hơn là nhuận sắc truyện Hoa tiên. Điểm qua lịch sử phức tạp của truyện Hoa tiên, chúng tôi nhận thấy tác phẩm đã trải qua hai lần nhuận sắc và một lần “đính chính”. Nhìn chung giá trị nội dung tử tưởng của bản nguyên tác so với các bản nhuận sắc về cơ bản là như nhau. Tuy nhiên xét ở khía cạnh hình thức nghệ thuật, hầu hết các bản nhuận sắc sắp xếp theo trật tự thời gian có giá trị hơn. Truyện Hoa tiên được chia làm ba phần: Gặp gỡ – Tai biến – Đoàn tụ, có thể tóm tắt như sau: Phương Châu là con một gia đình quyền quý ở Tô Châu. Chàng xin mẹ cho sang trọ học nhà người mợ ở Tràng Châu, cùng học với con bà là Diêu 16
  • 23. Sinh. Vào một đêm trăng, Phương Châu tình cờ gặp Dao Tiên, con gái quan Đô đốc họ Dương. Say mê trước Dao Tiên, chàng tìm cách làm quen với Dương tướng quân và một lần được vào chơi trong phủ họ Dương, Phương Châu đã họa thơ tỏ tình với Dao Tiên. Lúc đầu Dao Tiên còn e ngại, quyết liệt nhưng nhờ có sự giúp đỡ của hai tì nữ Vân Hương và Bích Nguyệt, Dao Tiên cũng động lòng yêu mến Phương Châu. Dưới ánh trăng vàng dịu hai người đã trao nhau lời thề kết duyên trọn đời. Thế nhưng thề nguyền chưa được bao lâu hai người đã phải chia tay nhau do ở quê nhà, cha Phương Châu đã đính ước cho chàng cùng với con gái quan Lại bộ thượng thư họ Lưu tên là Ngọc Khanh. Mặc dù vô cùng đau khổ nhưng chàng cũng không thể trái lệnh của cha mẹ. Dao Tiên nghe được tin ấy, cho rằng người mình thương đã bội ước nên cũng buồn đau không kém và tự nhủ suốt đời không lấy chồng. Chợt Dương tướng công có lệnh làm quan ở kinh đô. Đến khi ông nhận lệnh cầm quân ra trận diệt giặc Hồ, mẹ con Dao Tiên đành phải đến ở nhà người cậu họ Tiền ở Kinh đô. Phương Châu cùng Diêu Sinh thi đỗ Thám hoa, được bổ làm quan ở kinh đô. Phương Châu tình cờ gặp lại Dao Tiên, hai bên phân trần giãi bày tâm sự. Biết cha nàng bị giặc vây, Phương Châu liền xin vua đi giải vây, nào ngờ đánh thua chàng bị quân đối phương vây chặt. Nhận được tin đồn rằng Phương Châu tử trận, Ngọc Khanh – vị hôn thê chính thức đã thay xiêm y để tang chồng. Sau đó vì thương con đương tuổi trẻ, mẹ Ngọc Khanh ép lấy chồng khác, nàng nhảy xuống sông tự tử may gặp thuyền của quan Đề học họ Long vớt được. Diêu sinh được phái ra trận giải vây đánh tan được quân đối phương, giải vây cho Dương tướng công và Phương Châu. Tất cả đều được nhà vua ban thưởng. Tưởng rằng Lưu Ngọc Khanh đã mất, Phương Châu bèn dâng biểu tâu việc nàng tử tiết, được nhà vua tặng phong cho nàng. Sau đó, Vua lại tự đứng 17
  • 24. ra làm mối cho Dao Tiên và Phương Châu. Đang khi đó Đề học Long cùng Lưu Ngọc Khanh cũng vừa đến kinh đô. Nhờ Đề học Long dâng sớ tâu việc lên, vua lại để Ngọc Khanh kết duyên cùng Phương Châu. Cuối cùng, Phương Châu không những cưới được Dao Tiên, Ngọc Khanh mà còn cưới cả hai cô tì nữ là Vân Hương và Bích Nguyệt. Kết thúc một nhà đoàn viên vui vẻ. Tiểu kết chương 1 Truyện Hoa tiên là một truyện ái tình, tác phẩm phản ánh tình yêu đôi lứa trong sự biến động về văn hóa, tư tưởng và sự khắt khe của lễ giáo phong kiến của thời đại bấy giờ. Đây là một tác phẩm hấp dẫn và có giá trị tinh thần to lớn đối với dân tộc. 18
  • 25. Chương 2 TRUYỆN HOA TIÊN THỂ HIỆN CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU ĐÔI LỨA 2.1. Thể hiện câu chuyện tình yêu tự do theo tiếng gọi trái tim Giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX đánh dấu sự ra đời của khuynh hướng văn học “dân chủ nhân văn”. Nội dung chính của các tác phẩm chủ yếu hướng tới vấn đề thân phận con người, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp quyền sống và hạnh phúc của họ, đặc biệt đề cao khát vọng chính đáng yêu và được yêu của con người. Truyện Hoa tiên nằm trong khuynh hướng văn học thời kì này. Trước cuộc sống bị chi phối bởi những khuôn khổ khắc chế của lễ giáo phong kiến, con người luôn khát khao được giải phóng để có một tình yêu tự do, được hạnh phúc và sống cuộc sống bình đẳng. Để được như vậy, tất yếu con người phải đấu tranh bằng cách vượt ra khỏi những quy phạm của lễ giáo phong kiến. Văn học muốn phát triển thì phải tìm cách phá vỡ khuôn khổ cứng nhắc, khô khan, mang tính quy phạm của lễ giáo phong kiến. Điều này ứng với trào lưu văn học của giai đoạn thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX. Các nhà tư tưởng lớn, các nghệ sĩ lớn đã tìm cách vượt ra khỏi khuôn khổ đó tìm kiếm quan niệm tiến bộ. Trong truyện Nôm tiếng nói khát khao tự do, phá vỡ rào cản phong kiến không phải hiếm hoi, ta dễ dàng bắt gặp xu hướng này trong hệ thống tác phẩm như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Phan Trần... Nguyễn Huy Tự cũng thể hiện sự tiến bộ đó. Tác phẩm của ông cho thấy sự phá vỡ rào cản lễ giáo phong kiến bó buộc con người. Truyện Hoa tiên nằm trong hệ thống truyện Nôm tài tử – giai nhân, tác phẩm hướng tới ca ngợi tình yêu đôi lứa. Câu chuyện tình yêu ở đây vừa mang dáng dấp cổ điển theo lễ nghi thông thường của người Việt; vừa mang dáng dấp chuyện tình yêu tự do, phóng khoáng. Tìm hiểu kĩ mối tình Phương Châu – Dao Tiên chúng ta thấy rõ điều này. 19
  • 26. Tác giả Hoa tiên đã thành công khi xây dựng mối tình tự do giữa hai nhân vật Phương Châu và Dao Tiên. Điều này được thể hiện trước hết ở nhân vật Phương Châu. Chàng cũng là một kiểu nhân vật của truyện Nôm bác học, mang những nét khái quát của nhân vật tài tử. Phương Châu là một chàng thư sinh đang trên đường học hành thi cử vô tình gặp Dao Tiên, nhận thấy đây là mối tình của cuộc đời mình lập tức “bút nghiên chí nản”, “son phấn tình nồng”. Đây là mô típ quen thuộc của truyện Nôm, các chàng trai khi động lòng với cô gái sẽ ngã vào tình yêu, tạm gác chuyện học hành sang một bên để tìm kiếm thành quả trong tình yêu trước mới quay lại nghiệp thi cử và cuối cùng đỗ đạt. Phương Châu say đắm Dao Tiên ngay từ lần đầu gặp gỡ. Vì vậy trong mọi suy nghĩ, hành động, lời nói của chàng đều hướng tới mục đích đạt được tình yêu của Dao Tiên. Vào một đêm trăng, khi dạo bước một mình trong vườn thoạt nhìn thấy Dao Tiên chàng đã bị quyến rũ bởi vẻ đẹp lộng lẫy của nàng như một cành mẫu đơn dưới ánh trăng mờ tỏ: Lối thơm mở rộng ba đình Xạ đâu thoang thoảng lọt bình phôi pha? Vừa cơn mây bợn, trăng lòa Mảnh tình gửi nét thu ba đưa vào. Cuộc tiên đôi ả má đào Riêng làn xiêm trắng đem vào mắt xanh. Gió đông gờn gợn sóng tình Dưới trăng lộng lẫy một cành mẫu đơn. (87-94) Trong tâm trí Phương Châu kể từ đó “làn xiêm trắng” chưa lúc nào thôi ám ảnh chàng, bóng dáng người đẹp luôn hiện hữu, thổn thức trong tâm tưởng. Bước chân của chàng đột ngột bước đến chỗ Dao Tiên chơi cờ. Xuất hiện người lạ lập tức mọi người dừng cuộc chơi, Dao Tiên vội vàng tránh mặt. Dưới con 20
  • 27. mắt nửa mê nửa tỉnh, Phương Châu cho rằng nàng còn kịp nhìn mình và nở một nụ cười: Rèm Tương động thét tiếng hoàn Vẻ lan vừa chán, gót sen vội dời. Nhác xem chiều mỉm mỉm cười Sóng dầm khóe hạnh chưa dời nét trông (103-106) Mặc dù Bích Nguyệt – cô hầu của Dao Tiên đã cố ý nói với Phương Châu rằng Dao Tiên nếu có cười thật cũng chỉ là cười nỗi “thày lay dại làn”: Nguyệt rằng: Mê mẩn xinh thay! Cười chăng: cười nỗi thày lay dại làn. (147 – 148) Thế nhưng chàng vẫn quyết tâm theo đuổi Dao Tiên không nản chí. Phút gặp người đẹp hôm ấy đã làm chàng mê mẩn vướng phải tơ lòng, lúc nào cũng thổn thức mơ tưởng, khao khát yêu đương. Phương Châu tìm về nơi gặp xưa thấy cảnh vật vắng lặng càng làm chàng buồn rầu: Chập chờn bóng nguyệt trêu ai Hoa đâu rụng, lá đâu rơi trước thềm. Kêu sương tiếng nhạn lay thềm, Phong thư đưa đến cung Thiềm được không? (217-220) Chàng tìm cách dò hỏi về nàng và đã dùng hết số tiền mẹ cho đi ăn học để mua một dinh cơ đồ sộ cạnh nhà Dao Tiên. Phương Châu tìm cách làm quen với Dương tướng quân, một lần được vào chơi trong phủ họ Dương chàng đã họa thơ tỏ tình với nàng. Vì quá say mê trước vẻ đẹp của Dao Tiên, Phương Châu tìm mọi cách năn nỉ xin Vân Hương, Bích Nguyệt làm mối lái giúp đỡ mình. Có thể nói trong tình yêu, chàng là người chủ động và tích cực. 21
  • 28. Tình cờ gặp Dao tiên lần thứ hai, Phương Châu đã không ngần ngại bỏ hết những phép tắc của thánh hiền để nặng lời gắn bó với nàng bằng giọng điệu tha thiết, nhẹ nhàng, bày tỏ tình cảm của mình: Ngập ngừng, sinh mới rén triềng: Lẽ chung đã vậy tình duyên sao là? Đeo đai chót một tiếng đà Đài thiêng hổ có trăng già chứng lâm. Nghĩ nguyền ví chẳng tòng tâm, Cũng liều đầu bạc cho lầm tuổi xanh! (653-658) Giáo điều phong kiến không cho phép trai gái gặp nhau nhưng Phương Châu đã bất chấp để được gặp mặt người đẹp và bày tỏ tình cảm với nàng. Lễ giáo chưa đủ mạnh để nhắc nhở Phương Châu quay về với những khuôn phép đạo đức, chàng vẫn luôn nghe theo tiếng gọi rạo rực, thổn thức xuất phát từ trái tim mình. Giống như tất cả các chàng trai khác trong nhóm truyện Nôm bác học, Phương Châu đủ kiên nhẫn để chinh phục với tình yêu mà chàng mong đợi. Nhân vật Kim Trọng trong Truyện Kiều cũng vậy. Lần đầu gặp Thúy Kiều, chàng đã vội tương tư nàng: Ba thu dọn lại một ngày dài ghê Cảm giác nhớ nhung của tình yêu làm cho thời gian dường như ngưng đọng. Chàng tìm gặp Thúy Kiều bằng cách quay lại nơi đầu tiên gặp gỡ nhưng không thấy nàng. Chàng tìm đến nhà nàng nhưng cũng không thể gặp. Nếu như Kim Trọng thuê một vườn thúy bên cạnh nhà Thúy Kiều để rồi may mắn gặp được nàng thì Phương Châu cũng dùng hết số tiền ăn học mua một dinh cơ đồ sộ để tìm cách làm quen và họa thơ tỏ tình với Dao Tiên. Như vậy các chàng trai trong nhóm truyện Nôm bác học đều là những người cố gắng để đạt được khát vọng tình yêu của mình. 22
  • 29. Sau vài lần gặp tiếp theo, dường như Dao Tiên đã chắc chắn được tình cảm của mình, nàng đã bộc lộ rõ những cử chỉ thể hiện tình cảm của mình và khát khao nắm bắt được tình yêu: Thà cho xong một bề nào, Chẳng thà trắc trở hôm dao nhường này! ( 691 – 692) Cô gái quý tộc Dao Tiên ngày nào còn mắng tì nữ của mình nay đã vươn lên vượt qua rào cản lễ giáo để đến với tiếng gọi tình yêu, tiếng nói vọng lên từ đáy lòng mình sau quá trình dằn vặt bản thân, nàng ngại ngùng thanh minh: Người hay gỗ đá chi chi Đã đành tình ấy, còn suy nỗi này. (705 – 706) Đến lần gặp thứ ba, Dao Tiên mới động lòng thực sự với Phương Châu, cuối cùng tình yêu tha thiết và sôi nổi của chàng đã chinh phục được Dao Tiên bước qua bức tường lễ giáo để đến với niềm hạnh phúc dạt dào trong tình yêu. Dưới ánh trăng vàng dịu hai người đã trao nhau lời thề kết duyên trọn đời: Hội này người hợp trăng tròn Niềm son giải một chén son cùng thề (787-788) Dao Tiên cũng nhận ra rằng trót thề nguyền nghĩa là đã vi phạm đạo đức phong kiến, điều đáng hổ thẹn. Tuy nhiên niềm tin và khát vọng hạnh phúc đã giúp nàng nghe theo tiếng gọi của trái tim mình. Lễ giáo phong kiến đối với Dao Tiên lúc này như một cái bóng mờ nhạt ở đâu đó và sức mạnh tình yêu chiến thắng tất cả: Trăm năm nhẹ một tấm nguyền Vừng soi đã hổ với trên đỉnh đầu Thề lòng dãi bến Hà Châu 23
  • 30. Đãi nhau trên Bộc, trong Dâu ra mà? (817-820) Có thể sống trong thời đại đầy biến động như vậy nên Nguyễn Huy Tự khát khao tự do và luôn đề cao tình yêu ở chỗ dù bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến khắt khe thế nhưng tình yêu tự do vẫn cất cánh. Truyện Kiều của Nguyễn Du mang những lề thói quy định rõ ràng nhưng lại khá tự do khi ông cho nhân vật của mình không chỉ yêu một người mà có đến ba mối tình thật sự trong cuộc đời ở những giai đoạn khác nhau nhưng đều thể hiện khát vọng yêu đương của con người một cách mạnh mẽ. Nằm trong khuynh hướng này tác giả Hoa tiên cũng để cho nhân vật của mình đến với nhau bằng tình yêu tự nguyện “chén son cùng thề”. Sự táo bạo của giai nhân và tài tử đã đưa đến một tình yêu tự do theo tiếng gọi trái tim. Thế nhưng thề nguyền chưa được bao lâu hai người đã phải chia tay nhau do ở quê nhà, cha của Phương Châu đã đính ước cho chàng cùng với con gái quan Lại bộ thượng thư họ Lưu tên là Ngọc Khanh. Mặc dù vô cùng đau khổ nhưng chàng cũng không thể trái lệnh của cha mẹ. Chuyển biến đột ngột khiến cho chàng vô cùng đau đớn. Phương Châu trở lại đi học, đi thi rồi làm quan nhưng những điều đó dường như không còn nghĩa lí với chàng. Khi tình cờ gặp lại Dao Tiên, hai bên phân trần về những chuyện xảy ra. Biết nàng đau khổ vì cha bị giặc vây, chàng quyết định xin vua đi giải vây để tỏ nghĩa với nàng đồng thời cũng mang trong mình hy vọng: Họa khi trời có chiều lòng, Một chuông vàng, một chỉ hồng cũng hay (1309-1310) Theo sát quá trình chinh phục tình yêu của Phương Châu, chúng tôi nhận thấy chàng tượng trưng cho tình cảm thắm thiết sôi nổi, luôn hướng đến tình 24
  • 31. yêu tự do và khát vọng hạnh phúc. Tuy bị lý trí phong kiến khuất phục nhưng ở chàng vẫn còn nghe được những tiếng thổn thức yêu đương trong tâm hồn. Điều đáng trân trọng ở mối tình Dao Tiên – Phương Châu là bởi nó bắt nguồn từ tình yêu tự do, đôi lứa đến với nhau trên cơ sở tự nguyện chứ không phải do mối lái hoặc thế lực phong kiến nào quyết định. Với Hoa tiên, tác giả đã lồng vào bên trong một nếp sống phóng khoáng, tự do thể hiện được giá trị cũng như cái nhìn tích cực, khác xa với những quan niệm, giáo điều nghiêm ngặt của tầng lớp quý tộc. Điều này được thể hiện một cách rõ ràng chủ yếu qua hai nhân vật tỳ nữ Vân Hương và Bích Nguyệt. Cuộc sống trần tục và niềm vui trần tục luôn đem lại sức hấp dẫn bởi nó hấp dẫn ngay trong phần cơ bản nhất của văn học là phần nội dung hình tượng trong nó. Có thể nói trong các lĩnh vực này thì các triết lí siêu hình của Phật giáo, Nho giáo hay Đạo giáo có tiếng vang rất ít, mà thực sự có ý nghĩa và sức thuyết phục lại là thứ triết lý do kinh nghiệm sống và đấu tranh của con người mang lại. Dao Tiên thấy triết lý hấp dẫn nhất đối với mình là triết lý của những cô hầu gái Vân Hương và Bích Nguyệt về tuổi trẻ, năm tháng và về cả nỗi buồn: Một năm được mấy mùa xuân Một ngày được mấy giờ dần, ai ơi Truyện thơ Nôm thông thường bao giờ cũng xuất hiện những nhân vật “Ông tơ bà Nguyệt”, “bà mối” làm tăng tính hấp dẫn cho tác phẩm. Truyện Hoa tiên cũng được xây dựng theo mô típ như vậy. Tưởng chừng như mối tình Phương Châu – Dao Tiên là mối tình không mối lái, nhưng thực chất để làm nên mối tình đó phải có vai trò rất lớn của hai “bà mối” Vân Hương và Bích Nguyêt. Họ xuất hiện khi Phương Châu năn nỉ giúp đỡ và khi tỉ tê tâm sự với Dao Tiên. Trong đêm thề nguyền của Dao Tiên – Phương Châu, Vân Hương và Bích Nguyệt cũng đứng ra chứng giám cho tình yêu tự do của họ. Đó còn là hai tỳ nữ thân thuộc vô cùng nhạy bén trong việc nắm bắt tâm lí của cô chủ, chỉ 25
  • 32. thoáng nghe qua giọng nói bâng khuâng có chút gợn buồn của Dao Tiên trước cảnh trời thu thì ngay lập tức Bích Nguyệt đã thấy rõ tâm tư nàng: Ngẫm nên, Hương đã biết chiều Trình: Sao như khổ có điều đắng cay Dạy rằng: Hiu hắt hơi may Chiều thu nhường cũng nên say chiều người (695 – 698 ) Vân Hương tỏ ra rất thông minh, khi ngồi xem trăng cùng Dao Tiên nàng nhận thấy ngay rằng cô chủ buồn rầu vì sao và câu nói dối của Dao Tiên “chiều thu nhường cũng nên say chiều người” không thể qua mặt được cô tì nữ nhanh nhạy này. Tình yêu tự do vượt lễ giáo phong kiến được tác giả thể hiện một cách khá chủ ý khi mượn lời hai nhân vật tì nữ Vân Hương và Bích Nguyệt để đưa ra quan niệm sống phóng khoáng về tình yêu. Những con người bình dân trên cái nền xã hội phong kiến của tầng lớp quý tộc trải lòng một cách chân thật về tình yêu, về tuổi trẻ: Liễu kia thu lại còn xuân Người kia đã dễ mấy lần xuân chăng (587 – 588) Vân Hương còn khéo léo đưa ra những gợi ý bỏ lửng: Làm người nên nghĩ lấy nao Một xuân một tuổi, nỡ nào luống qua? (603 – 604) Khi nói đến nỗi buồn, chuyện trăng xế, chuyện lứa đôi họ tỏ ra rất chiêm nghiệm: Cũng sầu song cũng vừa vừa, Riêng người gối lẻ tương tư là sầu. 26
  • 33. ( 599 – 600) Chính những lời nói tha thiết, xuất phát tự tận đáy lòng, niềm tâm sự về tuổi trẻ, về hạnh phúc đã thôi thúc Dao Tiên vươn lên mạnh mẽ hướng đến tình yêu tự do vượt rào cản lễ giáo. Nếu không có hai tỳ nữ Vân Hương và Bích Nguyệt chắc hẳn sau nhưng rung động của cảm xúc, Dao Tiên sẽ bị đạo đức phong kiến, những khuôn phép khắt khe chi phối mà từ bỏ tình yêu tự do. Như vậy cho thấy sự quan trọng của họ trong việc hình thành nên mối tình chớm nở trong lòng Dao Tiên. Quan niệm sống mới mẻ cũng được thể hiện rất rõ khi họ tán thành chuyện tình yêu của giai nhân tài tử. Đây là những suy nghĩ mang tính tích cực, đổi mới mà dưới chế độ phong kiến rất khó bắt gặp: Rành rành một vách đôi bài Giai nhân tài tử sánh vai khéo là (393 – 394) Những suy nghĩ và chiêm nghiệm đều bắt nguồn từ kinh nghiệm thực tiễn trong đời sống khi nhìn nhận một vấn đề nào đó của tầng lớp bình dân trong xã hội. Điều táo bạo và giá trị trong suy nghĩ của Vân Hương và Bích Nguyệt là khi họ quan niệm về chung thủy. Nếu như xã hội phong kiến đòi hỏi người phụ nữ dù bị phụ bạc vẫn phải “tam tòng tứ đức” thì họ lại cho rằng một khi người chồng đã phụ bạc thì người vợ có quyền làm lại cuộc đời, tự xây dựng hạnh phúc cho mình: Dù ai nỡ phụ chi ai luống chờ Nhụy đào vẻn vẹn còn tơ, Ví ai bướm lạc ong lừa hiếm ai (974 – 976) Nhận thấy đây là hai nhân vật thông minh, hoạt bát đồng thời đem lại cái nhìn sâu sắc, tích cực về nhân sinh quan mang tinh thần nhân đạo và khao khát 27
  • 34. hướng tới hạnh phúc tự do. Quan niệm sống phóng khoáng như châm ngòi cho việc thúc đẩy con người vượt qua những rào cản phong kiến đang kìm hãm những tâm hồn. Với Hoa tiên, Nguyễn Huy Tự đã dựng lên một câu chuyện tình yêu khá hấp dẫn. Ở tác phẩm người ta thấy được cảm xúc rạo rực của những người mới lần đầu bước vào tình yêu, thấy được sự mạnh mẽ, quyết liệt của chàng trai cùng sự e lệ ban đầu của cô gái. Người ta cũng thấy được cái tình yêu táo bạo vượt qua mọi rào cản của lễ giáo phong kiến để đôi lứa đến với nhau một cách tự do và yêu nhau không cần bất kì sự sắp đặt nào của lễ giáo. Qua đó tác giả đã lồng vào tác phẩm những tư tưởng tiến bộ, tiếng nói tự do và khát vọng hạnh phúc. 2.2. Thể hiện câu chuyện tình yêu trong khuôn khổ lễ giáo phong kiến Giai đoạn thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng trầm trọng, Nho giáo đã lung lay từ cội rễ, mọi giá trị cương thường bị đảo lộn song không vì thế mà biến mất hoàn toàn. Nho giáo vẫn tồn tại và luôn là khuôn khổ trói buộc tư tưởng con người một cách mạnh mẽ. Xã hội phong kiến tỏa chiết tình cảm con người trong những mối quan hệ nam nữ, yêu đương, không chấp nhận con người có quyền tự do cả trong tình yêu và hôn nhân. Những quan niệm “trọng nam khinh nữ”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “áo mặc sao qua nổi đầu”,... đã chi phối tư tưởng của con người, đưa họ vào những khuôn phép khắc nghiệt. Truyện Nôm thường xây dựng các câu chuyện dựa trên cơ sở của tình yêu và khát vọng hạnh phúc lứa đôi. Tình yêu thường được thử thách bởi sự khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến. Đây là vấn đề trọng tâm đặt ra trong hầu hết các tác phẩm. Ngoài nội dung phản ánh tình yêu, hạnh phúc gia đình và bảo vệ nhân phẩm, truyện Nôm còn tập trung xoáy sâu vào tố cáo bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến, đề cao những phẩm chất tốt đẹp của 28
  • 35. quần chúng lao động và đưa ra những cách giải quyết tích cực các vấn đề xã hội. Nguyễn Huy Tự được sinh ra trong thời điểm như vậy nên ít nhiều vẫn chịu ảnh hưởng của những quy định, lề thói phong kiến nhất định. Điều này thể hiện rõ trong truyện Hoa tiên. Trong tác phẩm, lễ giáo phong kiến đã ràng buộc mối tình của Phương Châu với Ngọc Khanh thông qua việc đính ước trên thuyền của cha Phương Châu với quan Lại bộ thượng thư họ Lưu. Đó là một biểu hiện của lễ giáo phong kiến quan niệm về việc hôn nhân là do “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, là quan niệm hà khắc về hôn nhân của lễ giáo phong kiến. Quan niệm này thường xuất hiện ở các sáng tác truyện Nôm bác học, hầu hết các nhân vật đều thuộc tầng lớp phong kiến, nhiều nhân vật xuất thân từ tầng lớp cấp cao. Sở dĩ vậy là bởi trong truyện Nôm bình dân, con người ở tầng lớp bình dân tự do trong chuyện tình yêu, hôn nhân. Trong ca dao có rất nhiều câu nói đến việc trai gái tự do bày tỏ tình cảm của mình, chẳng hạn: Hôm qua tát nước đầu đình, Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen. Em lượm thì cho anh xin, Hay là em để làm tin trong nhà? Đó là lời ngỏ của chàng trai đối với cô gái, nhưng không chỉ có các chàng trai chủ động chuyện ngỏ lời mà các cô gái cũng rất táo bạo: Vào vườn hái quả cau xanh, Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu. Trầu này têm những vôi tàu, Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay. Trầu này ăn thiệt là say, Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng. Dùng chăng nên đạo vợ chồng, Xoi dăm ba miếng kẻo lòng nhớ thương! 29
  • 36. Trong truyện Nôm bình dân, tác giả còn xây dựng những câu chuyện tình yêu, hôn nhân của những người không cùng đẳng cấp, hầu hết các cô gái trong loại truyện này được giới thiệu là con vua, con quan, nghĩa là những người thuộc đẳng cấp quý tộc lại yêu những anh học trò nghèo, có nguồn gốc từng cao quý nhưng sa cơ lỡ vận phải thất thế, nuôi chí công danh và tương lai làm quan to. Ở truyện Nôm bác học lại không xây dựng chuyện tình yêu như vậy, dưới sự sắp đặt của lễ giáo phong kiến, con người không được tự quyết định hôn nhân của mình, sự quyết định ấy là của cha mẹ, nếu trái lời thì đó được coi là sự bất hiếu. Hơn thế nữa “việc hôn nhân tuy là của hai người nhưng kéo theo việc xác lập quan hệ giữa hai gia tộc” [27,tr143] mà “lựa chọn một dòng họ, một gia đình phải xem cửa nhà hai bên có tương xứng không, có môn đăng hộ đối không” [27,tr143]. Có thể thấy rằng, Lương gia và Lưu gia là hai gia đình “môn đăng hộ đối”, đều có truyền thống nho học, hơn nữa Lương tướng công và Lưu tướng công vốn là người đồng quận và là bạn đồng liêu nên đã dễ dàng hợp ý nhau và mong kết thông gia: Hứng vui, thóc mách chuyện nhà Họ Lưu một gái tên là Ngọc Khanh. Tuần mười lẻ bảy xuân xanh, Người trang trọng, nết đoan trinh vẹn mười. Rõ tin Lương mượn chén mồi: Đường quan, anh cũng nhác đời như em, Vòng trần hẳn đã không thêm Chút nguyền du Nhạc còn hiềm chưa nguôi. Dám toan kén lứa chọn đôi Tấn thời có lẽ với người phồn hoa Thôi thì ta lại biết ta, 30
  • 37. Chỉ e rêu cỏ biết là nên chăng? (849-860) Cả hai bên đều đang tính đến việc yên bề gia thất cho con cái và muốn kết thông gia với nhau. Với lời “chỉ e rêu cỏ biết là nên chăng?” Lương Công đã lựa cách nói nhún rằng gia đình ông hèn mọn như rêu cỏ nên không biết Lưu Công liệu có nhận lời cầu thân không. Thế rồi họ đi đến quyết định đính hôn cho Phương Châu và Ngọc Khanh: Một lời đã với nước non Vâng xe mối chỉ cho tròn tơ duyên (863-864) Yếu tố phong kiến trong truyện về cơ bản còn thể hiện ở chỗ nêu lên bài học to lớn của Nho giáo về chữ “trung”, chữ “hiếu” và chữ “trinh”. Phương Châu yêu Dao Tiên tha thiết nhưng bởi chữ “hiếu” nên dù đau khổ vì phải bội ước thì chàng vẫn phải vâng lời cha mẹ lấy Ngọc Khanh: Dẫu vàng dẫu đá với người Nặng tình đâu dám nhẹ lời song thân (949 – 950) Tình yêu dang dở, Phương Châu không còn đoái hoài đến việc học hành thi cử cho đến khi được Diêu Sinh nhắc nhở rằng việc thi cử đỗ đạt là chuyện hệ trọng, phải công thành danh toại để đáp nghĩa đền ơn cha mẹ sinh thành: Sinh rằng: Duyên nghiệp dở dang Thì thôi còn nghĩ chi đường công danh Thưa rằng: Dạy thế sao đành Lầu Ban sáu kỷ, song huỳnh mười thu (1131 – 1134) Không chỉ Phương Châu, Diêu Sinh mà tất cả những bậc nam nhi thời bấy giờ đều chịu sự chi phối lễ giáo phong kiến về tư tưởng. Trong quan niệm chính thống thời đại phong kiến, đã làm trai thì “đầu đội trời, chân đạp đất”, phải có 31
  • 38. “chí”, “công danh”, có khát vọng để theo đuổi ước mơ, hoài bão. Bậc nam nhi phải luôn đặt mình trong những mối quan hệ với quốc gia, dân tộc, đi liền với đó là những mục tiêu và hành động tương xứng: “Nam nhi khoa cử đỗ đạt thành danh chấp chính là mẫu người lý tưởng của thời trung đại” [23,tr42]. Chí làm trai vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực của Nho giáo: lập đức, lập công (có công danh sự nghiệp), lập danh (có danh tiếng tốt đẹp), nam nhi phải vẫy vùng tứ bể, phải cống hiến sức trai phục vụ non sông, đất nước và như một tất yếu, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Hình tượng nam nhi đã trở thành đề tài hấp dẫn đối với các nhà thơ, sức hấp dẫn của hình tượng ấy còn kéo dài đến cả thể kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Nói đến hình tượng nam nhi trong văn học trung đại giai đoạn này, có thể nhắc tới Nguyễn Công Trứ: Trong vũ trụ đã đành phận sự Phải có danh mà đối với non sông (Chí nam nhi) Đã mang tiếng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông (Nợ tang bồng) Trong truyện Hoa tiên, chí nam nhi thể hiện rõ ràng khi đôi bạn Phương Châu – Diêu Sinh quyết tâm dùi mài kinh sử để thi đỗ ba kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình liên tiếp: Bảng thu sơm sớm đề tên Tiện đường kíp lại ruổi liền hội xuân Đi về đường quẫn dưới chân Vũ môn ba đợt trao lần nay mai (1153-1156) Phương Châu đỗ làm quan ở Kinh đô, tình cờ gặp lại Dao Tiên, hai bên phân trần về những chuyện xảy ra trước đó. Biết nàng đau khổ khi cha bị giặc 32
  • 39. vây, chàng quyết định xin vua đi giải vây để tỏ tình nghĩa với nàng. Sau đó, nghe tin Phương Châu tử trận nơi chiến trường, Ngọc Khanh ở nhà thay xiêm y để tang chồng: Ngọc Khanh xiết nỗi ngại ngùng Đổi màu xiêm trắng, kém thưng cơm vàng (1397 – 1398) Đến khi Phương Châu được giải vây và chiến thắng trở về, nhận được tin Ngọc Khanh vì mình mà tự tử. Vua đứng ra kết duyên cho chàng với Dao Tiên. Phương Châu lại đang canh cánh trong lòng xót thương cho Ngọc Khanh vì mình mà tử tiết. Chàng băn khoăn do dự và được Diêu Sinh động viên, khuyên bảo: Tình phu phụ, nghĩa quân thân Trong tam cương ấy xem phân nào hơn Tôi con một phận thờn bơn Xe duyên là mấy đội ơn cao dầy (1661 – 1664) Không chỉ Phương Châu, Dao Tiên và Ngọc Khanh cũng chịu sự chi phối sâu sắc của lễ giáo phong kiến. Văn học trung đại quan niệm về người phụ nữ đẹp là người phụ nữ có vẻ đẹp toàn diện cả bên trong lẫn bên ngoài. Trái ngược với việc bước vào tình yêu một cách mạnh dạn và tự nhiên của Phương Châu, để đi đến tình yêu, Dao Tiên đã phải trải qua một quá trình dằn vặt tâm lí nội tâm khá phức tạp và nhiều do dự. Nếu như Thúy Kiều mới lần đầu gặp Kim Trọng đã: Tình trong như đã mặt ngoài còn e (Truyện Kiều – Nguyễn Du) thì Dao Tiên sau lần đầu gặp Phương Châu lại tỏ ra khó chịu và mắng các cô hầu: “ Đi đâu mà để người đâu xông càn?”, nàng thẳng từng tuyên bố: 33
  • 40. Tự ta đóng nguyệt cài mây, Buồng thơm chớ lọt mảy may gió tà (251 – 252) Đến lần gặp thứ hai, thái độ của Dao Tiên không còn quyết liệt nữa nhưng nàng lại khéo léo gợi ý Phương Châu tìm người mai mối cho mối tình của mình: Dẫu cho nền lễ, sân thi, Cùng nhau đôi lứa cũng tùy nơi xe. Chia đường hãy lánh cho về Lẽ thường hẳn chẳng e nề chút ru? (661-664) Tuy nhiên Phương Châu đã nhanh chóng gạt đi con đường mai mối của Dao Tiên: Lời vàng ý ngọc dám sai? Lửa gần, lại bảo cho bài nước xa? (667-668) Chàng cho rằng lời của Dao Tiên quả là vàng ngọc không sai chút nào nhưng việc nàng bảo chàng đi tìm mối mai chẳng khác nào lửa đang cháy ngay cạnh mà lại đi tìm nước xa, tình yêu đang mãnh liệt, sục sôi trong lòng khiến chàng không thể chờ lâu đến thế. Trong mối tình này, khuôn khổ lễ giáo phong kiến không phải là rào cản của Phương Châu nhưng lại cản đường đến với tình yêu tự do của Dao Tiên. Thái độ điềm đạm và nghiêm túc của cô gái quý tộc thời xưa vẫn luôn hiện hữu trong con người Dao Tiên. Nàng nhắc nhở tì nữ của mình “mạch rừng bưng bít” bởi cái đạo đức phong kiến đã thấm nhuần trong tâm tưởng không cho phép nàng rời bỏ lễ giáo: Là điều thuận miệng vắng đây, Mạch rừng bưng bít cho hay mới vừa (533 – 534 ) 34
  • 41. Với tác phẩm, Dao Tiên chính là nhân vật mang những nét tiêu, thể hiện sự giằng co giữa tiếng gọi tình yêu tự do với những bài học đạo đức phong kiến, là mâu thuẫn giữa tình yêu và lí trí. Cuối cùng tình yêu đã chiến thắng lí trí, tình yêu đã thuyết phục Dao Tiên. Sau lời thề ước, những tưởng tình yêu sẽ nở hoa thế nhưng họ lại buộc phải chia cắt bởi Phương Châu không thể trái lại sự sắp đặt hôn ước của gia đình. Về sau, khi vô tình gặp lại, tưởng bị Phương Châu phụ bạc, nàng đau đớn không kìm lòng và tiếng nói có phần chua chát, nặng nề: Phận đàn bà ngỡ là chơi Một ngày tăm tiếng muôn đời mắt tai (981 – 982) Có lẽ bởi nỗi nhớ nhung da diết người xưa vẫn luôn canh cánh trong lòng và tình yêu lúc nào cũng phấp phỏng nên khi nghe chàng thanh minh, Dao Tiên đã vội tin để lúc hai người từ biệt lại: Biệt ly ai vẽ nên lòng? Càng mau giọt tủi, càng nồng tấm thương. (1321 – 1322) Đó còn là sự kết hợp hài hòa của nhan sắc và đức hạnh “tam tòng tứ đức”. Dao Tiên khi nhận tin Phương Châu đã tử trận, quá đau đớn nàng ý định tự tử, thế nhưng khi nghĩ đến chữ “hiếu”, nghĩ đến bổn phận của con đối với cha mẹ nàng đành gạt ý định đó qua một bên: Tình kia bể núi thực rằng, Tình này sao lại nhắc bằng hiếu kia? Gìn lòng ngọc tạc, vàng ghi Hiếu tình cân lại nhắc đi cho toàn (1357 – 1360) 35
  • 42. Xã hội phong kiến quy định người con gái chỉ được yêu một lần, đã yêu thì cho dù bị người yêu phụ bạc vẫn phải giữ trọn tấm lòng trinh tiết. Chẳng thế mà Dao Tiên thà chết chứ không chịu lấy người khác: Mặc ai dặn nhạt, nguyền phai Tự ta xuân khóa, mây cài với ta! (983 – 984) Cô tiểu thư Ngọc Khanh cũng mới tuổi xuân đã thủ tiết thờ chồng mặc dù đó là người nàng chưa từng biết mặt, chưa từng cưới mà chỉ do cha mẹ mai mối đính ước cho nàng. Ngọc Khanh được ngợi ca là “tuyết sạch giá trong” danh tiết của nàng khó ai hơn được. Thương con, mẹ Ngọc Khanh khuyên đi lấy chồng khác bởi đương còn tuổi trẻ nhưng nàng nhất định không nghe, sau sự phản kháng quyết liệt Ngọc Khanh đã gieo mình xuống sông tự tử, mâu thuẫn thể hiện giữa một bên tình và một bên hiếu. Tất cả tư tưởng ấy đều do đạo đức phong kiến chi phối, xã hội phong kiến đã chỉ rõ bổn phận của người con gái chỉ được lấy chồng một lần và Ngọc Khanh đã làm đúng với những “cương thường” nhưng dường như việc tự tử của nàng còn nghiêng về tình mà nhẹ về hiếu: Rằng: Cương thường nặng núi non, Hãy còn trời đất, hãy còn di luân. (1403 – 1404) Ở Hoa tiên, lễ giáo phong kiến chưa bao giờ bị gạt bỏ hay bị chê trách mà nó luôn là thứ uy quyền chi phối toàn bộ xã hội. Trong cảnh đoàn tụ, tác phẩm đã dùng mệnh vua cho Phương Châu kết hôn với cả Dao Tiên và Ngọc Khanh, đồng nghĩa với việc cưới luôn hai tỳ nữ Vân Hương và Bích Nguyệt. Dễ hiểu kết thúc đó không làm ta lấy làm lạ bởi xã hội phong kiến cho phép kết hôn một chồng nhiều vợ. 36
  • 43. Nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm đưa ra ý kiến “Truyện Hoa tiên, tuy là một câu chuyện tình, nhưng có chủ ý khuyên răn người đời về đường luân thường” [8,tr318]. Các nhân vật xuất hiện, hành động, suy nghĩ... đều do lễ giáo chi phối nhằm mục đích giáo huấn dăn dạy. Điều này có thể nhận thấy ở hai nhân vật Ngọc Khanh và Diêu Sinh, họ là sản phẩm của lễ giáo “tiếng nói của họ trong truyện từ đầu đến cuối là những lời thuyết minh cho giáo lý của Khổng, Mạnh” [17,tr222]. Tác giả Hoa tiên đã xây dựng tình yêu lồng vào khuôn khổ phong kiến. Tình yêu của họ đã phần nào vượt qua vòng lễ giáo nhưng suy nghĩ cũng như tư tương của họ vẫn không thể nào thoát khỏi những bài học đạo đức phong kiến, người đọc cũng dễ dàng chấp nhận những yếu tố phong kiến bên trong tác phẩm. Tiểu kết chương 2 Với sự tinh tế và tâm hồn nhạy bén, Nguyễn Huy Tự đã xây dựng câu chuyện tình yêu tự do trước sự ràng buộc, chi phối mạnh mẽ của lễ giáo. Truyện Hoa tiên chứa đựng giá trị nội dung sâu sắc và đậm chất nhân văn, nhân đạo, đồng thời thể hiện sự sáng tạo của tác giả. Tác phẩm mang đậm nét hiện đại và cả nét truyền thống. 37
  • 44. Chương 3 MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 3.1. Kết cấu Kết cấu là hệ thống những yếu tố, những mối quan hệ, liên hệ giữa bộ phận và tổng thể. Kết cấu tác phẩm gắn liền với văn bản, ngôn từ, quan hệ không gian, thời gian, quan hệ nhân quả với các phương thức riêng biệt, tạo nên thế giới nghệ thuật mới mẻ. Kết cấu là sự sắp xếp, tổ chức các thành tố của văn bản thành một đơn vị thống nhất, hoàn chỉnh và ý nghĩa. Bất kì một văn bản nào cũng có một kết cấu nhất định hàm chứa dụng ý của tác giả sao cho phù hợp với nội dung văn bản. Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm [24,tr156]. Nó sắp xếp, gắn kết toàn bộ các yếu tố, thành phần để tạo nên một sinh thể nghệ thuật toàn vẹn. Không có kết cấu, những yếu tố, những thành phần chỉ là những mảnh vụn rời rạc. Như vậy, kết cấu là một phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Có nhiều hướng khi nghiên cứu mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, trong các hướng nghiên cứu, trong các công trình, mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, giới khoa học đã nhất trí với kết luận: thứ nhất, cách kể chuyện theo trình tự tuyến tính của thời gian; thứ hai, kết cấu cốt truyện theo ba sự kiện lớn: Gặp gỡ – tai biến – đoàn tụ; thứ ba là chiều hướng kết thúc có hậu. TS. Nguyễn Thị Nhàn đã có công trình nghiên cứu về mô hình kết cấu truyện thơ Nôm, công trình này có hướng nghiên cứu mới, đó là: mô hình kết cấu cốt truyện thơ Nôm theo trình tự thời gian và mô hình kết cấu cốt truyện thơ Nôm không theo trình tự thời gian, trong đó lại chia nhỏ thành nhiều loại. Truyện Nôm là tác phẩm tự sự và dường như “các truyện Nôm đều cho thấy một cấu trúc truyện tương đồng” [22,tr19]. Truyện Hoa tiên cũng được xây dựng theo mô hình ổn định của hệ thống cốt truyện với ba sự kiện cơ bản: 38
  • 45. Gặp gỡ – tai biến – đoàn tụ. Sự kiện gặp gỡ được tác giả miêu tả khá sinh động. Nguyễn Huy Tự còn dụng công xây dựng sự kiện tai biến khá hấp dẫn ở chỗ nhân vật chàng trai bị cha mẹ đính ước với người con gái khác là Ngọc Khanh trong khi lòng vẫn luôn hướng về tình yêu tự do của mình, vì thế ở đây lại xuất hiện thêm một câu chuyện khác là chuyện hôn nhân chứ không phải tình yêu. Sau khi tình cờ gặp lại, chàng tìm cách trả nghĩa cho Dao Tiên, sẵn sàng xông pha chiến trường giải vây cho cha nàng. Sự kiện đoàn tụ với kết thúc có hậu được tác giả xây dựng đồng nhất các truyện Nôm thông thường. Kết cấu truyện Hoa tiên rất chặt chẽ và gọn gàng. Tác phẩm được chia thành nhiều hồi, từ hồi này sang hồi khác mà không bị rối loạn, kết cấu tóm trước, mở sau gọn gàng mà đầy đủ, tài tình mà tinh tế. Trong truyện Nôm bác học thường xuất hiện mô típ chàng trai đang trên đường ứng thí gặp cô gái đẹp “bút nghiên chí nản” mà “son phấn tình nồng”. Chàng muốn đặt chuyện chiến thắng trong tình yêu trước rồi mới quay về nghiệp thi cử. Phương Châu trong truyện Hoa tiên là một chàng trai như vậy. Chàng xin đến trọ học ở Tràng Châu, tình cờ gặp nàng Dương Dao Tiên, say đắm và đã họa thơ tỏ tình với nàng. Hai người cùng nhau nặng lười thề thốt. Ngờ đâu ở nhà, cha của Phương Châu đã đính ước cho chàng cùng Ngọc Khanh. Mặc dù vô cùng đau khổ, nhưng chàng cũng đành phải theo lệnh của cha mẹ. Dao Tiên nghe được tin ấy, cho rằng người mình thương đã bội ước, nên cũng buồn đau không kém và tự nhủ suốt đời không lấy chồng. Phương Châu không còn đoái hoài đến việc học hành thi cử cho đến khi được Diêu Sinh nhắc nhở rằng việc thi cử đỗ đạt là chuyện hệ trọng. Chàng thi đỗ, được cử làm quan tình cờ gặp lại Dao Tiên, rồi giãi bày tâm sự cùng nàng. Biết cha nàng bị giặc vây, chàng liền xin vua đi giải vây, nào ngờ đánh thua, chàng bị quân đối phương vây chặt. Nhận được tin đồn rằng Phương Châu tử trận, Lưu Ngọc Khanh, vị hôn thê chính thức đã thay xiêm y để tang chồng. Sau, vì mẹ khuyên lấy chồng khác, 39
  • 46. nàng nhảy xuống sông tự tử may gặp thuyền của quan Đốc học Long cứu vớt. Sự kiện đoàn tụ ở đây được tác giả xây dựng một cách vô cùng viên mãn, đôi lứa sum họp. Phương Châu lấy được cả Dao Tiên và Ngọc Khanh làm vợ. Truyện khép lại bằng một kết thúc đẹp. Tuy nhiên, kết cấu truyện Hoa tiên có phần khác với các truyện Nôm thông thường. Nguyễn Huy Tự đã khiến câu chuyện hấp dẫn hơn ở chỗ chàng trai không phải ngay lập tức đã đến được với tình yêu của mình mà gặp phải rào cản buộc phải lấy người khác trong khi lòng không yêu bởi vậy Phương Châu vẫn luôn canh cánh hướng về tình yêu của mình. Kiều Thu Hoạch có nhận xét như sau: “Về mặt xây dựng cốt truyện, hình thái cấu trúc của truyện Nôm cũng vẫn là truyện cổ tích, tức là cấu trúc theo mô hình kết thúc có hậu”. Ở đây, truyện Hoa tiên cũng là truyện Nôm với một cái kết có hậu như đã nói ở trên. Do quá trình giao lưu văn hóa, văn học khu vực nên văn học Việt Nam thời trung đại thường có đặc biệt là hiện tượng “vay mượn” đề tài, cốt truyện. Nguồn gốc đề tài cốt truyện truyện Nôm rất đa dạng, có thể khái quát và chia thành ba nhóm chính: Sử dụng cốt truyện dân gian (truyện cổ tích, thần tích,...) lưu hành từ lâu trong đời sống dân gian và sáng tác dân gian; Mượn cốt truyện trong kho tàng tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc – chủ yếu là Minh Thanh; Những tác phẩm có cốt truyện bắt nguồn từ đời sống thực tại xã hội. Phần lớn các truyện Nôm đều mượn kết cấu, cốt truyện của truyện cổ dân gian hay các sự tích, truyện cổ và bảo lưu khuôn dạng của truyện cổ. Cơ sở cốt truyện là xung đột xã hội, xung đột giữa thiện – ác hay chỉ biểu hiện ở góc độ bảo vệ tình yêu, hạnh phúc, chống lại sự thống trị của giai cấp phong kiến. Truyện Hoa tiên viết dựa theo một ca bản Trung Quốc có nhan đề là Đệ bát tài tử Hoa tiên ký, một ca bản mang giá trị nghệ thuật cao. Nhà phê bình Tĩnh Tịnh Trai nhận định rằng Hoa tiên là một câu chuyện “khởi bằng gió trăng, kết bằng gió trăng mà 40
  • 47. trong khoảng giữa, không có chỗ điểm xuyết nào thoát ra ngoài hai chữ gió trăng” [3,sđd,tr10] và “tác phẩm ấy là do hai người, một ông Giải nguyên và một ông Thám hoa cùng viết” [4,tr7]. Nguyễn Huy Tự theo sát cốt truyện của ca bản Trung Quốc, chỉ riêng đoạn cuối có thay đổi đồng thời ông diễn lại ca bản bằng thể thơ dân tộc, ông đã bỏ đi những chi tiết rườm rà, làm cho màu sắc trữ tình của tác phẩm nổi bật hơn. Nguyễn Huy Tự đã để cho Phương Châu dẫn hai vợ về thăm quê chứ không để cha mẹ Phương Châu lên kinh hay để Ngọc Khanh về thăm cha mẹ nàng như trong ca bản. Bên cạnh đó, không chỉ diễn nôm ca bản, Nguyễn Huy Tự cũng đã góp phần thu gọn câu chuyện, cắt bớt những phần dài dòng và những ý quanh quẩn. Ý thơ của Nguyễn Huy Tự trở nên nhẹ nhàng, cô đọng và hàm súc hơn bao giờ hết. Mở đầu tác phẩm ca bản có viết: Từng nghe một truyện kỳ phong nguyệt, Chung tình dằng dặc như biển trời Mai một phong lưu ai biết được? Nên đem truyền cho hậu thế xem! Nguyễn Huy Tự viết: Từng nghe trăng gió duyên nào, Bề sâu là nghĩa, non cao là tình Người dung hạnh, bậc tài danh, Nói vay mượn tiếng chập chành để gương Như vậy, Nguyễn Huy Tự đã có những nét sáng tạo riêng của mình khiến câu văn nhẹ nhàng nhưng vẫn thấm đẫm ý nghĩa sâu sắc. Điều quan trọng hơn cả là tác phẩm vẫn trung thành với ca bản, không làm mai một ý nghĩa ca bản Hoa tiên ký. Kết cấu chặt chẽ, tình tiết phong phú nhưng không rườm rà của tác phẩm đã thể hiện được tài năng và sáng tạo của tác giả Nguyễn Huy Tự. Nhờ sự sáng 41
  • 48. tạo ấy, truyện được dựng lên như vừa có chủ tâm nghệ thuật, vừa có ngẫu nhiên, đơn giản, tinh tế. Với cách kết cấu như vậy, tác giả đã khiến cho mạch kể của tác phẩm nhanh chóng phát triển theo khuynh hướng của nó đồng thời tạo ra độ gấp khúc. Tác phẩm kết thúc có hậu thể hiện chính mong ước, khát vọng mãnh liệt của nhân dân về một tình yêu tự do, cuộc sống hạnh phúc, công bằng. 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Nhân vật văn học là những con người được miêu tả trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít hoặc không làm ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm. Bettong Brecht cho rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải đơn giản là những bản dập của những con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả”. Để xây dựng thành công một nhân vật văn học, nhà văn phải có khả năng đồng cảm, phát hiện những đặc điểm bền vững ở nhân vật. Điều này đòi hỏi nhà văn phải hiểu đời, hiểu người. Nhưng có một điều không kém phần quan trọng là nhà văn phải miêu tả, khắc họa nhân vật ấy ra sao cho có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc. Đây là vấn đề liên quan trực tiếp đến những biện pháp xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học. Nhân vật trong truyện Nôm thường là những bậc giai nhân – tài tử. Có thể nói, một trong những thành công rực rỡ nhất về phương diện nghệ thuật của Hoa tiên là xây dựng nhân vật. Nhân vật trong truyện Hoa tiên có số lượng như sau: Nhân vật chính: 3. (gồm Phương Châu, Dao Tiên, Ngọc Khanh). Nhân vật trung tâm: 3. (gồm Phương Châu, Dao Tiên, Ngọc Khanh). Nhân vật phụ: 3. (gồm Vân Hương, Bích Nguyệt, Diêu Sinh). 42
  • 49. Số lượng nhân vật trong tác phẩm không nhiều, tuy vậy không làm giảm sự hấp dẫn của tác phẩm bởi tác giả đã xây dựng câu chuyện với những tình tiết hay và mới lạ. Nhân vật trong Hoa tiên ít nhiều đã mang bản sắc và cá tính riêng biệt. Truyện Nôm luôn chia nhân vật thành hai tuyến đối lập: nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Thông thường trong truyện Nôm khi miêu tả nhân vật là người tốt sẽ là những người có dung mạo đẹp, có học vấn và ăn nói văn hoa, cử chỉ, hành động thì đoan trang, mực thước ngược lại đối với nhân vật phản diện. Nếu như trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chia thành hai loại hình nhân vật: tuyến nhân vật chính diện tả theo bút pháp ước lệ, tuyến nhân vật phản diện tả theo bút pháp tả thực thì truyện Hoa tiên tác giả lại không chia giống như vậy. Sở dĩ vậy là bởi trong truyện Hoa tiên không có tuyến nhân vật phản diện mà các nhân vật trong tác phẩm đều là những nhân vật chính diện. Phương Châu là một chàng trai sống trong khuôn khổ giáo điều nhưng giàu tình cảm, chấp nhận chạy theo tình yêu một cách tha thiết, mãnh liệt. Dao Tiên lại là một cô gái quý tộc e dè, không chủ động, có đời sống nội tâm phức tạp với khá nhiều dằn vặt trong suy nghĩ và cũng là nhân vật được xây dựng thành công nhất trong truyện. Ngọc Khanh và Diêu Sinh luôn bó mình trong khôn khổ lễ giáo phong kiến với tính cách khô khan, chưa bao giờ làm điều gì trái với đạo lí Khổng, Mạnh. Hai tì nữ Vân Hương và Bích Nguyệt đều mang điểm chung ở sự lạc quan, yêu đời và tư tưởng sống tiến bộ. Các tác giả truyện Nôm thường làm nổi bật ngoại hình, phẩm chất nhân vật bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, thủ pháp quen thuộc của văn chương trung đại, không chỉ có tác giả của truyện Hoa tiên mới sử dụng mà hầu hết các nhà thơ, nghệ sĩ của văn học trung đại đều sử dụng đến. 43
  • 50. Tác giả Hoa tiên đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả nhân vật của mình từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động mà ở đây tiêu biểu là Phương Châu và Dao Tiên. Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả đã giới thiệu cho người đọc một trang văn nhân tài mạo, với tầm thước đĩnh đạc hơn người: Húy Phương Châu, tự Diệc Thương Phong tư điềm giá, từ chương toát loài. Mặt hoa, tài gấm gồm hai, Đua chân nhảy phượng, sánh vai cưỡi kình. (17 – 20) Chỉ bằng vài nét vẽ, dăm ba từ ngữ chấm phá tác giả đã làm hiện lên một chàng thư sinh có tướng hiền quý. Hình ảnh Phương Châu tượng trưng cho một “trang văn nhân tài tử” tác giả đã sử dụng bút pháp ước lệ tương xứng “đua chân nhảy phượng, sánh vai cưỡi kình”. Đó là một vẻ đẹp cân đối, hài hòa, tỏ rõ chí nam nhi, một người vừa có sức vóc, vừa có tài năng, nhân tài này sẽ làm nên được việc lớn. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã sử dụng bút pháp ước lệ khi miêu tả Từ Hải: Râu hùm hàm én mày ngài, Vai năm thước rộng thân mười thước cao. Từ Hải được nhà thơ xây dựng giống như hình tượng người anh hùng trong xã hội lúc bấy giờ. Đó là người anh hùng với dáng hình “vai năm thước rộng, thân mười thước cao”. Có thể nói qua câu thơ miêu tả của Nguyễn Du về hình dáng của Từ Hải ta thấy được một hình ảnh người anh hùng thứ thiệt, mang tầm vóc ngang tàng, hoành tráng của những anh hùng thời xưa. Đó chính là nét đẹp phương phi của những người anh hùng thời xưa mà qua đây chúng ta biết thêm về nét đẹp ấy. Nếu Từ Hải được miêu tả với những vẻ đẹp của người anh hùng thì Kim Trọng lại được miêu tả là một văn nhân với phong thái trang nhã, lịch sự: 44
  • 51. Trông chừng thấy một văn nhân, Lòng buông tay khấu bước lần dặm băng. Đề huề lưng túi gió trăng, Sau lưng theo một vài thằng con con. Tuyết in sắc ngựa câu dòn, Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời. Không chỉ Phương Châu, nhân vật Dao Tiên cũng được tác giả sử dụng triệt để bút pháp ước lệ để miêu tả vẻ đẹp của nàng. Văn học trung đại thường sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ, lấy thiên nhiên làm thước đo vẻ đẹp con người. Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều: Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang. Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Kiều càng sắc sảo mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn. Làn thu thủy nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. Với Nguyễn Du, “nét ngài nở nang” là nét đẹp hài hòa, duyên dáng, là cân đối, phù hợp với “khuôn trăng đầy đặn” của Thúy Vân, vẻ đẹp đoan trang báo hiệu cho nàng một cuộc sống an nhàn, hạnh phúc. Vẻ đẹp của Thúy Vân tưởng chừng không ai sánh được, nhưng Thúy Kiều lại có vẻ đẹp vượt trội “sắc sảo mặn mà” hơn, vẻ đẹp ấy khiến “hoa ghen”, “liễu hờn”. Vẻ đẹp khiến tạo hóa phải ghen tị báo hiệu cho một cuộc bể dâu của kiếp hồng nhan. Thúy Vân, Thúy Kiều của Nguyễn Du có vẻ đẹp như vậy thì Dao Tiên của truyện Hoa tiên cũng đẹp không thua kém: Gió đông gờn gợn sóng tình 45
  • 52. Dưới trăng lộng lẫy một cành mẫu đơn. Mặn mà chìm cá, rơi nhàn Nguyệt ghen gương khép, hoa hờn thắm bay Thiên nhiên sẵn đúc dầy dầy, Càng tươi tỉnh nét, càng say sưa tình. (93 – 98) Ta bắt gặp vẻ đẹp của Dao Tiên trong sự si tưởng của Phương Châu: Người sao ngọc đúc, tuyết đông Vẻ sao mây chuốt gương trong hỡi người ( 159 – 160) Cũng giống như Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp Thúy Kiều “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” thì vẻ đẹp của Dao Tiên ở đây cũng khiến trăng phải ghen “nguyệt ghen” với sắc đẹp của nàng mà mờ đi, hoa hờn vì kém đẹp nên màu thắm như cũng phôi pha “thắm bay”, cái vẻ đẹp do trời ban của Dao Tiên cứ dần lộ ra một cách rực rỡ. Truyện Nôm thường ít khi miêu tả nội tâm nhân vật, nếu có thì chỉ là một vài dòng tâm lí. Tiêu biểu cho số ít truyện Nôm miêu tả nội tâm nhân vật chính là Truyện Kiều của Nguyễn Du, chẳng hạn với đoạn trích Trao duyên, nỗi đau xót của Thúy Kiều cao trào ở hai câu cuối: Ôi kim lang! hỡi kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây! Tác giả truyện Hoa tiên cũng xây dựng nhân vật của mình, tiêu biểu là nhân vật Dao Tiên với những nét tâm lý. Dao Tiên là nhân vật thể hiện sâu sắc nhất mối giằng co giữa lí trí và tình cảm với biết bao nhiêu dằn vặt trong suy nghĩ: Nẻo lần mượn lối trao cho Ý tròn gương nguyệt, lọ mờ bóng mây 46
  • 53. Là điều thuận miệng vắng đây Mạch rừng bưng bít cho hay mới vừa (531 – 534) Dao Tiên dằn vặt trong mối suy nghĩ như tơ vò rằng nếu Phương Châu đã say mê mình như vậy sao không mời người đến mối lái, hẳn khi dùng con đường hợp lễ như vậy thì chẳng phải đàng hoàng, trọn vẹn hơn sao? Nhưng dẫu sao cuối cùng tình yêu đã chiến thắng, Dao tiên tâm sự với hai cô hầu: Mảnh tiên từng thấy thơ nào, Ruộng tình dễ thấm nên hao bể lòng (527 – 528) Tiếng nói tình yêu đã thôi thúc nàng khiến Dao Tiên xúc động mãnh liệt: Đàn đâu réo rắt bên tai, Lửa đâu chất chứa nhường khơi trận hằng (607 – 608) Tâm trạng day dứt của Dao Tiên còn được bộc lộ ở những trang truyện về sau, khi tình duyên dang dở Dao Tiên vô cùng đau xót: Phận đàn bà ngỡ là chơi Một ngày tăm tiếng muôn đời mắt tai (981 – 982) Sau này khi đã được vua tứ hôn lấy Phương Châu, Dao tiên vẫn mang nhưng nét đáng quý và tấm lòng ân tình. Nàng nói đến 18 câu thơ ca tụng phẩm giá của Ngọc Khanh, tự nhận Ngọc Khanh chịu thiệt thòi là do mình gây ra nên khi vua tứ hôn cho Phương Châu lấy cả Ngọc Khanh, Dao Tiên không ích kỉ mà còn khuyên Phương Châu cưới nàng, cho rằng việc Ngọc Khanh còn sống gặp lại Phương Châu là trời thấm được nỗi oan của nàng: Bây giờ lầm cát mặc ai Vinh hoa riêng lấy một đời hay sao? 47