1. Vấn đề 2: Mục tiêu, động lực, bước đi của CNXH ở nước ta
Văn kiện Đại hội IX của Đảng ta chỉ rõ: “Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc những vấn đề cơ bản của CM VN, là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo CN Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liên với
CNXH, ...”. Nếu nói rằng, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nội dung cốt lõi của tư tưởng
HCM, thì tư tưởng về CM XHCN là một trong những bộ phận cốt yếu của nội dung ấy. Đây là
vấn đề được Chủ tịch HCM xác định ngay từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.
* Cơ sở lý luận và thực tiễn để Hồ Chí Minh lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam (Tr.57 ĐC):
- Đây là sự lựa chọn phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử. Quy luật đó đã được các
nhà sáng lập CN Mác-Lênin phát hiện và thực tế lịch sử đã và đang chứng minh sự đúng đắn của
nó. Nghĩa là CNXH, CNCS tất yếu sẽ thay thế CNTB, cũng như CNTB đã từng thay thế các CN
phong kiến - nô lệ. Bởi lẽ hình thái KT-XH và chế độ chính trị ra đời sau bao giờ cũng tiến bộ và
hoàn thiện hơn hình thái KT-XH và chế độ chính trị trước đó, do đó, nó sẽ phủ định đối với các
xã hội trước nó.
- Đây còn là sự lựa chọn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, mà nội dung, tính
chất chủ yếu của nó là sự quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thê giới, mở đầu từ cuộc
CM Tháng 10 Nga (1917). Cho dù vừa qua, CNXH ở Liên xô và các nước Đông Âu bị phá hoại
và sụp đổ, song điều đó không thể làm đảo ngược xu thế và tính chất, nội dung căn bản của thời
đại.
- Chọn lựa con đường lên CNXH không qua chế độ TBCN là sụ lựa chọn có cơ sở hiện
thực đầy sức thuyết phục, bắt đầu từ Liên bang Cộng hòa XHCN Xôviết rồi đến các nước XHCN
khác lần lượt xuất hiện và tồn tại từ năm 1917 trở đi. Đó cũng là sự lựa chọn phù hợp với nguyện
vọng cơ bản và lâu dài của nhân dân ta, một đất nước đã từng chịu hàng ngàn năm dưới chế độ
phong kiến lạc hậu và cả trăm năm dưới các chế độ đế quốc phátxít, thực dân cũ và mới.
Một thực tế khác nữa, đó là kết quả của cuộc khảo sát công phu qua mấy chục năm trời,
đến mấy chục nước khác nhau, nhất là nghiên cứu kỹ các cuộc CM điển hình trên thế giới (CM tư
sản Anh, Mỹ, Pháp, CM Tháng 10 Nga ... ). Và kết luận quan trọng Người rút ra là chỉ có cuộc
CM tháng 10 Nga do Đảng cộng sản, đứng đầu là Lênin vĩ đại lãnh đạo là thành công đến nơi.
Còn các cuộc CM khác cho dù vĩ đại như CM tư sản Pháp, đều thành công “không đến nơi”.
Từ những căn cứ khách quan và chủ quan, lý luận và thực tiễn, tinh thần và vật chất trên
đây, có thể nói việc lựa chọn con đường CM VN đi từ đấu tranh giành độc lập dân tộc rồi tiến lên
CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, là sự lựa chọn nhất quán, kiên định và có cơ sở khoa học vững chắc
của HCM.
* Các mục tiêu (Tr. 101 GT):
- Về chính trị: Xây dựng chế độ chính trị dân chủ và nhà nước của dân, do dân và vì dân;
tiếp tục sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người và tạo điều kiện cho con người phát
triển toàn diện. HCM chỉ rõ: “Nước ta là là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu
quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân…”,
2. - Về kinh tế: Phấn đấu xây dựng nền kinh tế XHCN có nền nông nghiệp, công nghiệp
hiện đại có khoa học kĩ thuật tiên tiến. Nhằm thoả mãn những nhu cầu đời sống về vật chất và
tinh thần ngày một phong phú của nhân dân lao động. HCM nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bực, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành".
- Về văn hóa : CNXH gắn liền với văn hóa và là giai đoạn phát triển cao hơn CNTB về
mặt giải phóng con người, trước hết khỏi mọi áp bức bóc lột. Nền văn hóa mà Đảng ta và Hồ Chí
Minh chủ trương xây dựng là một nền văn hóa “lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ
sở”. Nói cách khác, “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Tóm lại, “để phục vụ sự nghiệp CM
XHCN về nội dung và dân tộc về hình thức”, kết hợp với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
của nhân loại.
- Về xã hội : XH mà chúng ta đang xây dựng là một xã hội công bằng, dân chủ, có quan
hệ tốt đẹp giữa người với người; các chính sách xã hội được quan tâm thực hiện; đạo đức, lối
sống xã hội phát triển lành mạnh. Vì thế, Người nói: “Muốn tiến lên CNXH thì phải cải tạo XH
cũ thành một XH mới, một XH không chế độ người bóc lột người, một XH bình đẳng, nghĩa là ai
cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không
làm không hưởng”.
* Động lực (Tr. 107 GT) (là những nhân tố góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội thông qua
hoạt động của con người) :
Ta đã nhận thấy mục tiêu bao trùm của CNXH là xây dựng một xã hội tốt đẹp vì hạnh
phúc con người và con người cũng chính là động lực để xây dựng thành công CNXH, trong đó
bao gồm cộng đồng người và cá nhân con người. Do đó, nhân tố trung tâm của CM XHCN chính
là vai trò của con người. HCM đã nhiều lần nói: “Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có những
con người XHCN”. Nếu không có con người thiết tha với lý tưởng CNXH thì không có CNXH.
Vì vậy HCM đặt lên hàng đầu mục tiêu xây dựng con người. Đó là những con người có lòng yêu
nước nồng nàn gắn với yêu CNXH sâu sắc; có phẩm chất đạo đức, nhân cách đúng đắn; cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; có trình độ năng lực, dám nghĩ, dám làm; có tinh thần dân tộc
và tinh thần quốc tế trong sáng; có sức khoẻ tốt và có óc thẩm mỹ, biết yêu chuộng và bảo tồn
những cái hay, cái đẹp. Đó là nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng thành công CNXH. Con
người trên cả hai bình diện : cá nhân và cộng đồng :
- Phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc – động lực chủ yếu phát triển đất
nước
- Phát huy sức mạnh của con người với tư cách cá nhân người lao động : Tác động vào
nhu cầu và lợi ích của con người, tác động vào các động lực chính trị-tinh thần (phát huy quyền
làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng XH, sử dụng vai trò điều
chỉnh của các yếu tố tinh thần khác : chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật)
Bên cạnh đó cần phải nhận thấy được các trở lực :
- Phải đấu tranh chống CN cá nhân – “căn bệnh mẹ” đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm.
Người nhấn mạnh: CN cá nhân là kẻ địch hung ác của CNXH. Người CM phải tiêu diệt nó.
3. - Phải đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu, "bạn đồng minh của thực dân phong
kiến”, vì "Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức
CM của ta là cần, kiệm, liêm, chính”.
- Phải chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật, vì những hành động ấy "làm giảm
sút uy tín và ngăn trở sự nghiệp của Đảng, ngăn trở bước tiến của CM”
- Phải chống chủ quan bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái mới,... Đó
cũng là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
* Bước đi của CNXH ở nước ta (Tr. 120 GT)
- Trước hết là đấu tranh giành độc lập dân tộc giành cho được chính quyền cho được về
tay nhân dân dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam bằng sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, bằng
bạo lực cách mạng. Sau khi giành được chính quyền thì quá độ trực tiếp đi lên CNXH. Do nước
ta có những đặc điểm riêng là đi lên CNXH không thông qua chế độ TBCN.
- Về bước đi của thời kỳ quá độ HCM chưa đưa ra được nội dung cụ thể từng chặng
đường nhưng người đã nói: “Ta xây dựng CNXH từ hai bán tay trắng đi lên thì khó khăn còn
nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”, “không thể một sớm một chiều”, ai nói dễ là chủ quan và
sẽ thất bại. Tư tưởng chỉ đạo của HCM là phải qua nhiều bước “Bước ngắn, bước dài tùy theo
hòan cảnh”, “chớ ham làm mau, ham rầm rộ…Đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần”.
- Thực tế nước ta xây dựng XHCN ở miền Bắc từ khi giành được chính quyền (1945) đạt
được những thành tựu bước đầu. Từ 1954-1975 vừa xây dựng XHCN ở miền bắc và đấu tranh
giải phóng miền nam đã thành công đáng kể trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Tập
hợp được sức người, sức của “vừa kháng chiến vừa kiến quốc” từng bước cải tạo nông nghiệp,
phát triển công nghiệp.
Phải nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, sang tạo, chống giáo điều rập khuôn kinh nghiệm,
phải có cách làm phù hợp trong từng giai đọan và với thực tiễn xã hội Việt Nam. Phải xác định
được hai nhiệm vụ chiến lược đó là “xây dựng Miền Bắc, chiếu cố miền nam”. Phải kết hợp cải
tạo xây dựng trên tất cả các lĩnh vực, mà xây dựnglà chủ yếu và lâu dài, đây là quan điểm tòan
diện trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; vì
vậy cách làm là “đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”. Đặt biệt HCM còn nhấn
mạnh đến vai trò quyết định của các biện pháp và tổ chức thực hiện.
* Liên hệ quá trình XDCN xã hội hôm nay (Tr. 123 GT)
+ Nêu khái quát trước đổi mới.
+ Thành tựu 25 năm đổi mới, xem nội dung văn kiện Đại hội XI
- Liên hệ với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay
và kết luận (tr 129, 130, 131 GT)
- Vận dụng, liên hệ thực tiễn: Trong quá trình vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh về quá độ đi
lên CNXH ở nước ta, Đảng ta đã có những sai lầm, khuyết điểm; có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm
trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan; từ đó dẫn đến đất nước lâm vào
khủng hoảng nghiêm trọng. Đảng ta nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới để tiếp tục
đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Ngày nay, cục diện thế giới đang trải qua những biến đổi nhanh chóng và sâu sắc. Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự
phát triển của nhiều nước.
4. Đất nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới, những nhắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước và
bảo vệ vững chắc độc lập tổ quốc, đã làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Tuy nhiên, bốn
nguy cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ: tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ
quan liêu, “DBHB” do các thế lực thù địch gây ra, đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác
động lẫn nhau. Các thế lực thù địch không ngừng chống phá ta bằng những thủ đoạn cực kỳ nham hiểm,
đặc biệt ở các vấn đề nhạy cảm như dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc. Về kinh tế, hiện nay nước ta
vẫn là một trong những nước nghèo, lao động và sức cạnh tranh thấp, trình độ công nghệ còn lạc hậu so
với các nước phát triển. Trong lúc các nước tiên tiến trên thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức, thì
nước ta mới bước vào thời kỳ CNH.
Trước cục diện thế giới và trong nước như vậy, đất nước ta đứng trước những vận hội lớn, đồng
thời cũng phải đương đầu với những khó khăn, thách thức mới rất quyết liệt. Để đảm bảo sự nghiệp đổi
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng phát triển vững chắc, đúng hướng, trên cơ sở nắm vững lập
trường và phương pháp của CN M-L, quán triệt sâu sắc tư tưởng HCM và vận dụng một cách sáng tạo vào
sự nghiệp đổi mới, CNH - HĐH đất nước. Đặc biệt phải giải quyết tốt các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, nắm vững
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc trên nền tảng CN Mác- Lênin và tư tưởng HCM.
Thứ hai, Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do đó cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nguồn lực nội sinh, để thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Thứ ba, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Thứ tư, Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, thực hiện cần kiệm xây dựng CN xã hội.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CM XHCN, trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), đảng ta đã xác định: Từ nay đến giữa thế kỷ
thứ XXI, toàn đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hiện
đại theo định hướng XHCN. Để thực hiện mục tiêu trên chúng ta phải thực hiện tốt các phương hướng cơ
bản sau:
Một là, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi
trường; Hai là, phát triển kinh tế TT định hướng XHCN; Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; Năm là, thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; Sáu là, xây dựng nền dân chủ xhcn, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở
rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân; Tám là, xây dựng đảng trong sạch vững mạnh.
Tóm lại, tư tưởng về con đường đi lên CNXH và quá trình xây dựng XHCN ở Việt Nam là một
trong những bộ phận cốt lõi của hệ thống tư tưởng HCM. Bởi lẽ đây là sự nghiệp vĩ đại nhưng cũng đầy
gian khổ khó khăn, như Người chỉ rõ: “Chúng ta đã đánh thắng chế độ thực dân và phong kiến. Nhiệm vụ
chủ yếu của chúng ta ngày nay là đánh thắng lạc hậu và nghèo nàn, xây dựng CNXH làm cho nhân dân ta
có một đời sống thật sung sướng. Công cuộc ấy rất vĩ đại và cũng rất khó khăn. Nhưng tòan đảng, toàn
dân ta quyết tâm làm thì nhất định làm được”.