SlideShare a Scribd company logo
1 of 89
Bài 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
GẮN LIẾN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI*
I. VỊ TRÍ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRONG HỆ THỐNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - Con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời
đại mới
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, độc lập dân tộc bị xâm phạm, trong tình hình đó,
triều đình nhà Nguyễn trong thì sợ nhân dân, ngoài thì bạc nhược trước kẻ thù, lúc đầu có chống cự yếu ớt, sau
đã từng bước nhân nhượng cầu hoà, cuối cùng là cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của
hoàng tộc. Năm 1883 và 1884, triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký các hàng ước với thực dân Pháp, nước ta bị đặt
dưới ách thống trị của chúng. Mặc dầu bị đặt vào tình thế phải chống “cả triều lẫn Tây" nhưng nhân dân ta với
tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí căm thù giặc sôi sục đã dấy lên phong trào vũ trang kháng chiến chống
Pháp rầm rộ và lan rộng trong cả nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực… ở miền Nam; Trần Tấn, Đặng
Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám,
Nguyễn Quang Bích… ở miền Bắc. Nhưng các cuộc khởi nghĩa này đều bị thất bại vì chưa có một đường lối
kháng chiến đúng đắn; lãnh đạo khởi nghĩa là các sĩ phu văn thân với ý thức hệ phong kiến mang nặng tư tưởng
tôn quân.
Sang đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta chuyển sang xu hướng dân chủ
tư sản. Tiêu biểu cho xu hướng này có các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, Việt Nam
Quang phục hội... Các phong trào này chưa lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, tư tưởng dân chủ tư sản chưa
có cơ sở xã hội vững chắc. Do vậy phong trào chỉ rộ lên được một thời gian ngắn rồi lần lượt bị đàn áp và thất
bại.
Khi phong trào chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung, trong đó có Hồ Chí Minh tham gia bị đàn áp
(1908) cũng là lúc các phong trào yêu nước chống Pháp ở thời điểm cực kỳ khó khăn, bế tắc. Đứng trước cuộc
khủng hoảng con đường cứu nước, Hồ Chí Minh xác định: “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các
nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”(1)
.
Đầu tháng 6-1911, Hồ Chí Minh xuống làm phụ bếp trên chiếc tàu Pháp mang tên Amiran Latusơ Tơrêvin của
hãng Năm Sao đang cập bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn). Ngày 5-6-1911, con tàu rời Sài Gòn đi Pháp, Hồ Chí
Minh bắt đầu một cuộc hành trình lịch sử - đi tìm con đường cứu nước, con đường giải phóng.
Xuất phát từ lòng yêu nước ra đi tìm đường cứu nước, trải qua gần 10 năm đầy gian truân và thử thách, Hồ Chí
Minh đã đi khắp các châu lục khảo sát nhiều nước thuộc địa và các nước tư bản phát triển Mỹ, Anh, Pháp...
Người nhận rõ: chủ nghĩa đế quốc là một hệ thống thế giới, chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào
hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ yếu trong hệ thống thuộc địa của chúng. Mỗi thuộc địa là một mắt khâu
của chủ nghĩa đế quốc, do vậy cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi nước chỉ tiến hành riêng rẽ thì không
thể giành thắng lợi.
Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh về Pari, thủ đô nước Pháp, một trung tâm văn hoá khoa học và cách mạng
của châu Âu. Hồ Chí Minh hoạt động trong phong trào công nhân Pari, đến với phái tả của cách mạng Pháp, gia
nhập Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng bênh vực các thuộc địa.
Năm 1919, nhân danh những người yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh gửi tới Hội nghị hoà bình Vécxây
bản Yêu sách của nhân dân An Nam đối các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho Việt Nam. Yêu sách đó không
được chấp nhận. Người đã rút ra bài học “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân
mình”.
Hồ Chí Minh nghiên cứu những cuộc cách mạng xã hội lớn trên thế giới. Với cách mạng giải phóng dân tộc năm
1776 của Mỹ và cách mạng nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789, Người rút ra kết luận: cách mạng Pháp và
cách mạng Mỹ là cách mạng tư sản, cách mạng không đến nơi, không giải phóng những người lao động mà lại đi
áp bức các dân tộc khác. Cách mạng Việt Nam không thể đi theo con đường đó.
Đầu tháng Mười năm 1917, cách mạng vô sản Nga thành công. Tháng 3 năm 1919, Lênin sáng lập Quốc tế
Cộng sản. Rồi nhà nước Xôviết chiến thắng cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc. Từ năm 1920 tiếng
vang và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười lan rộng ra châu Âu và toàn thế giới. Nghiên cứu Cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917, Hồ Chí Minh nhận rõ: chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga mới thành công đến
nơi, mang lại tự do bình đẳng thật cho tất cả nhân dân lao động và giúp đỡ giải phóng các dân tộc thuộc địa. Hồ
Chí Minh đi đến kết luận: Cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga - con
đường cách mạng vô sản.
Tháng 7-1920, Người đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin đăng trên báoL’Humanité. Luận cương của Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tìm ra “cái cẩm nang thần kỳ cho
sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc” - con đường giải phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vô sản. Con
đường đó được Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng trong những văn kiện thông qua tại Hội nghị hợp nhất ngày 3-
2-1930 “làm tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh để đi tới xã hội cộng sản”. Sự xác định trên đây
của Hồ Chí Minh là một sáng tạo lớn về con đường cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó là con
đường giải phóng dân tộc một cách triệt để, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là kết
quả tất yếu quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng, phù hợp với đòi
hỏi và nguyện vọng của dân tộc, nhân dân Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, mở ra từ
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí
Minh
Độc lập dân lộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn
của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người cộng sản cho đến khi trở thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan
tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách
mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ các bài viết của Người chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc,
chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách tập trung những luận điểm sáng tạo lớn về lý
luận của Hồ Chí Minh. Những luận điểm đó có giá trị lâu dài chỉ đạo đường lối cách mạng Việt Nam và đóng
góp quan trọng vào việc phát triển lý luận về cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong
khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ
nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”(2)
.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự phản ánh chính xác mục đích, lý tưởng, khát vọng và ham
muốn tột bậc của danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh: nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư
tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách
mạng.
II- NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN
LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội
1.1. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải
phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ
giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước
mắt, cấp bách. Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu thuẫn
khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến.
Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến. Với dân tộc Việt Nam,
đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt
Nam.
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự,
độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập
dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách
mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục
tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu,
quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra
đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ được thể hiện:
- Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời
sống nhân dân.
- Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối quần chúng công - nông - trí
thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ, đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những
nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được hình thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh.
Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã
hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt
về chất với con đường cứu nước những năm đầu thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới.
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai trò lãnh đạo cách mạng tất yếu
thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc là toàn dân Việt Nam yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức.
Những nhân tố này lại quy định tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội của cách
mạng giải phóng dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc cách mạng đó.
1.2. Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn
toàn triệt để
Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu
cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình cách mạng. Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực
hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối
cùng thì mục tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn cách mạng
không có bức tường ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân
dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập
dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã
hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành được trong
cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc.
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để: độc lập tự do, ấm no, hạnh
phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung,
xác lập các điều kiện để hiện thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa
mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột; công bằng hợp lý
- làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi;
một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong đó người
với người là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người được phát triển hết khả năng của mình; hòa bình hữu nghị, làm
bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực phát triển của dân tộc trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Với các thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội
có khả năng vận động liên tục, tự bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân. Trên phạm vi quốc
tế, chủ nghĩa xã hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm phát triển đi theo
con đường chủ nghĩa xã hội; mặt khác chủ nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế và ngăn chặn
các cuộc chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân tộc này đi áp bức dân tộc khác.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm
lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường
khả năng phòng thủ. Không có một chế độ xã hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa
xã hội. Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo
vệ.
Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt
về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân
chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy
trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình phát
triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận mệnh của dân tộc, tạo ra sức
đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ một hành động nào đe dọa độc lập, tự do
của dân tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng
dân tộc mới thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để.
2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng
Việt Nam
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nhưng để hiện thực hóa tính tất yếu
này, theo Hồ Chí Minh cần phải có những điều kiện cơ bản sau đây:
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản là
điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì
cách mạng Việt Nam không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi
theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng sản đánh mất vai trò lãnh đạo thì chế
độ xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị phản bội và hoàn toàn chệch hướng. Thực tiễn ở Liên Xô và các
nước Đông Âu, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng tỏ điều đó.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, với tư cách là điều kiện cơ bản bảo đảm để độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã
hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
- Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của dân tộc phát triển đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa.
- Lãnh đạo xã hội, trước hết là lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội bằng cách thông qua tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình.
- Thông qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh đạo công tác kiểm tra trong các tổ chức
của hệ thống chính trị để lãnh đạo toàn dân giành độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính khách quan. Để hoàn
thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng
Đảng về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử.
Hai là, xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng
khối đại đoàn kết dân tộc.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình thực hiện cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết sức sáng tạo. Người xác định: công - nông là gốc, là chủ lực của
cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội Người đòi hỏi công nông trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống
nhất.
Hồ Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa đều cần đến và
không thể thiếu được Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt
nhân cốt lõi là liên minh công - nông và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là
mối quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên nào.
Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới
liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn có những chủ
trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình
dân chủ trên thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam Tháng Tám 1945, trong những năm chống Pháp,
chống Mỹ, trong thời kỳ hoà bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế.
Ba nhân tố nêu trên gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào
lòng và phát huy thêm mãi”(3)
.
Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện
thực hoá khi gắn liền với những điều kiện bảo đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển ở thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Tư tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu
những năm 20 và đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì con
đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và
toàn thể dân tộc Việt Nam liên tục giành những thắng lợi lịch sử suốt hơn 70 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tế, có thể chia ra làm ba thời kỳ.
3.1. Thời kỳ 1930-1945: ở thời kỳ này tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện qua
những hoạt động lý luận và thực tế chủ yếu sau đây của Hồ Chí Minh:
- Xác định tính chất cách mạng Việt Nam: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp, nhân dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai
của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Con đường cách mạng Việt Nam được Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
- Xác định đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là đế quốc xâm lược, phong kiến tay sai, tầng lớp tư sản
và địa chủ chống lại độc lập dân tộc.
- Xác định rõ lực lượng cách mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, tầng lớp tiểu
tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các cá nhân yêu nước, trong đó nòng cốt là liên minh công - nông. Lực
lượng cách mạng hùng hậu này được tập hợp dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc do đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo.
- Xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, có
mối quan hệ khăng khít với cách mạng vô sản “chính quốc”, cách mạng giải phóng dân tộc có tính chủ động, có
thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản “chính quốc", tác động tích cực tới cách mạng “chính quốc".
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã giành thắng lợi. Đó là thắng lợi
lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách
mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
3.2. Thời kỳ 1945-1954: thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội,
thực hiện “kháng chiến và kiến quốc”.
Ở thời kỳ này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con đường cách mạng Việt
Nam. Nội hàm khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chế độ dân chủ mới đã được Hồ Chí Minh làm
rõ bằng cách xác định mục tiêu, động lực, các điều kiện bảo đảm thắng lợi của từng giai đoạn cách mạng, trong
mỗi giai đoạn đều kết hợp giải quyết các nhiệm vụ dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tạo tiền đề đẩy cách
mạng phát triển lên giai đoạn cao hơn nhưng cũng khó khăn phức tạp hơn. Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ
Chí Minh kiên trì quan điểm phát huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra sức tranh thủ
sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế.
Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ở thời kỳ này là Người đã
đề ra và thực thi nhất quán đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”. Đường lối đó phù hợp với quy luật phát
triển lịch sử dân tộc: dựng nước đi đôi với giữ nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ
mới.
Trong hoàn cảnh hiểm nghèo, Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo phương pháp “dĩ bất biến,
ứng vạn biến”, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc, phân hoá, cô lập kẻ thù, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn
dân, tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc tế. Tài thao lược, bản lĩnh kiên cường, khả năng quyết đoán của
Hồ Chí Minh dựa trên sự hiểu biết thấu đáo thực tiễn đất nước, quy luật và xu thế phát triển của dân tộc, thời đại,
vững vàng lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi huy hoàng.
3.3. Thời kỳ 1954-1975: thời kỳ Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tư tưởng về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở thời kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện
tập trung trong việc xây dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm, tư tưởng nêu trên được thể hiện ở các nội dung chính sau đây:
- Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn thành công mối quan hệ giữa
cách mạng hai miền. Trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh xác định rất rõ vị trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng
từng miền và tác động lẫn nhau của chúng. Về thực chất, đây là sự cụ thể hoá nội dung con đường cách mạng vô
sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã đề
xuất và kiên trì bảo vệ.
- Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc, xác định rõ kẻ thù số
một mà dân tộc ta cần tập trung mọi lực lượng để đánh đổ là đế quốc Mỹ. Hồ Chí Minh nêu tư tưởng “không có
gì quý hơn độc lập tự do” thể hiện ý chí, quyết tâm lớn lao của cả dân tộc trong việc bảo vệ giá trị thiêng liêng,
bất khả xâm phạm. Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh có những quan niệm và cách làm sáng tạo, trên cơ sở
đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng. Hồ Chí Minh đã xây dựng
cho cách mạng Việt Nam cái nền sức mạnh của “ba tầng mặt trận”: Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam chống
Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống Mỹ; Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt
Nam chống Mỹ. Sức mạnh của “ba tầng mặt trận" đã tạo cho cách mạng Việt Nam trở thành vô địch.
- Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí
Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối hoàn chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ thống, có nhiều nội dung
phát triển sáng tạo, nhưng vẫn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã làm rõ đặc điểm lớn nhất
của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn
khoa học về những cách thức, phương thức, biện pháp, bước đi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Biến đau thương thành hành động cách mạng, toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta quán triệt sâu sắc quan điểm của Người tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải
phóng miền Nam thống nhất tổ quốc. Thông qua chiến dịch mang tên Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng đó đã
giành thắng lợi trọn vẹn vào ngày 30-4-1975.
III- VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
1. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định:
"Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến
lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là
đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn
Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau”.
Hiện nay, cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn đang tiếp diễn. Đảng ta khẳng
định: "Trong giai đoạn đổi mới, phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”(4)
. Trong bất kỳ tình
huống nào cũng phải thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong quan hệ quốc tế phức tạp, chằng chéo như hiện nay, để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng nước ta, đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc các yếu tố tác động đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
Chiến tranh lạnh trên thế giới kết thúc, hoà bình, hợp tác phát triển là xu thế chung, nhưng cuộc đấu tranh dân
tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt. Nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ vẫn chưa bị loại
trừ; mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ nổ ra ở nhiều nơi và gây mất ổn định nhiều khu
vực. Chủ nghĩa đế quốc đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và kỹ thuật, nhân danh chống khủng bố, để thực hiện
chiến lược “diễn biến hoà bình” can thiệp vào công việc nội bộ các nước, buộc các nước xã hội chủ nghĩa, các
nước đang phát triển đi vào quỹ đạo của chúng. Hiện nay giao lưu kinh tế, giao lưu văn hoá giữa các dân tộc
tăng lên. Trong khi giao lưu văn hoá phát triển mạnh mẽ, thì các nước đang phát triển cũng đứng trước sự “xâm
lăng văn hoá” từ phía các nước đế quốc. Trong bối cảnh hiện nay, quan niệm về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội phải được chú ý toàn diện từ độc lập về lãnh thổ, về chủ quyền an ninh quốc gia đến độc lập, tự do về kinh
tế, chính trị, văn hóa, lối sống và đạo đức xã hội. Không thể có và không thể chấp nhận quan niệm nhân quyền
cao hơn chủ quyền quốc gia. Việc rêu rao nhân quyền của các nước tư bản, trước hết là Mỹ, thực chất là một
hình thức mỵ dân, lấy cớ nhân quyền đề can thiệp vào công việc nội bộ nước khác. Không thể có độc lập tự do
về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Không thể giữ vững độc lập tự chủ nếu lối sống, đạo đức xã hội bị suy
thoái, văn hoá dân tộc bị coi rẻ hoặc bị biến dạng. Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay cần chú ý
một số nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:
- Xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trước hết phải bằng nguồn nội
lực của đất nước, không lệ thuộc vào bên ngoài, nhưng phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để gia
tăng nguồn lực phát triển quốc gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh
để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược.
- Trên cơ sở nhận thức toàn cầu hoá, khu vực hoá và kinh tế là một tất yếu khách quan, từ đó xác định rõ các
bước đi và chủ động hội nhập phù hợp với năng lực của đất nước. Hội nhập phải làm tăng sức mạnh đất nước và
làm giàu bản sắc dân tộc.
- Độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội phải được thể hiện trong suốt quá trình cách mạng trên
mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới
Ngày nay, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể có được nếu Đảng và nhân dân ta giải quyết thành công
hàng loạt vấn đề trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, đối nội và đối ngoại theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, trung thành với con đường Hồ Chí Minh đã vạch ra. Đảng ta khẳng định trong bất kỳ tình
huống nào, cũng phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đề phòng và chống nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, đang xuất hiện nhiều vấn đề lý luận nằm trong tổng thể quan niệm chung về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Nhu cầu phát triển đất nước đang đặt ra, đòi lại phải nhận diện và hiểu biết về chủ nghĩa xã hội vừa mang
tính tổng thể, vừa trong những chi tiết, đường nét cụ thể. Do vậy, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, trước hết cần làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:
- Cả trong lý luận và thực tiễn cần khẳng định vấn đề định hướng đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội là duy
nhất đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của dân tộc và xu thế thời đại.
- Làm rõ và cụ thể hoá mục tiêu của đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội, trước hết là ở mục tiêu mang đậm bản chất
nhân văn này.
- Xác định rõ bản chất đặc trưng và mô hình cấu trúc của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Làm rõ các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, trong đó động lực con người với nhu cầu và lợi ích của họ
giữ vị trí trung tâm. Mặt khác việc phát hiện động lực, có chính sách phát huy và kết hợp các động lực phát triển
sẽ làm cho chủ nghĩa xã hội sinh động, năng động và mang tính thực tiễn.
- Xác định rõ bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đang bị
chi phối, tác động mạnh mẽ của rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan; thách thức rất lớn, nhưng cũng rất
nhiều thời cơ, vận hội. Trên cơ sở quan niệm đúng đắn của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
lại có kinh nghiệm thực tiễn hơn 70 năm qua, đặc biệt là thực tiễn của gần 20 năm đổi mới, cho phép chúng ta
hiểu được thực chất con đường độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay. Độc lập dân
tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội là nhu cầu sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Việt Nam.
Bài 3
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN ĐẢNG CẦM QUYỀN*
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nạm bao gồm nhiều nội dung rất phong phú. Trong khuôn khổ
của chương trình lý luận cao cấp, chúng tôi đi sâu vào chuyên đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản
Việt Nam trong điều kiện Đảng cầm quyền".
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - ĐẢNG DUY NHẤT LÃNH ĐẠO XÃ HỘI
1. Vấn đề Đảng cầm quyền ở Việt Nam
Trong đời sống chính trị thế giới hiện đại, chế độ chính trị ở đa số các nước liên quan đến hoạt động của các
đảng chính trị, nhất là đảng cầm quyền. Khái niệm “đảng cầm quyền” ở trên thế giới dùng để chỉ đảng nào giành
được đa số ghế trong nghị viện. Một số nước còn quy định nếu đảng nào chiếm được 2/3 số ghế trong Nghị viện,
thì đảng đó có quyền sửa đối hiến pháp. Đảng cầm quyền có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hệ thống quyền
lực của nhà nước. Sau khi đã chiếm được đa số ghế trong nghị viện, đảng cầm quyền có quyền đứng ra lập chính
phủ và mọi hoạt động của chính phủ đều phải tuân thủ ý chí và nguyện vọng của đảng cầm quyền. Trong trường
hợp không có một đảng nào chiếm được đa số ghế trong nghị viện thì sẽ lập nên chính phủ liên minh nhiều đảng.
Những đảng không cầm quyền trở thành đảng đối lập trong nghị viện.
Như vậy, khái niệm "đảng cầm quyền” ở trên thế giới gắn với thể chế hoạt động của các đảng nghị viện, liên
quan trực tiếp đến việc nắm cơ quan hành pháp.
Ở nước ta, vấn đề đảng cầm quyền không như vậy. Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là đảng nghị viện.
Nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng ta là đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc, Người khẳng định một lần
nữa: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân"(1)
.
"Đảng cầm quyền” ở nước ta không những chỉ là đảng lãnh đạo chính quyền mà còn là đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị và lãnh đạo toàn xã hội. Điều này, đã được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992. Điều đó còn được thể chế hoá và được thể hiện bằng các văn bản khác của Nhà nước ta, đặc biệt
là đã được thể hiện trong thực tế. Nhân dân ta, trên thực tế, đã thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng việc xác định đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng lãnh đạo
toàn xã hội bằng việc tổ chức, triển khai thực hiện đường lối, chủ trương đưa đất nước phát triển kết hợp độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng hệ thống tổ chức của mình trong hệ thống chính trị
và bằng hành động thực tế tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua công
tác kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương đó.
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đầu năm 1930, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) do thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945. Từ đó cho đến nay, có lúc xã hội Việt Nam tồn tại nhiều đảng nhưng Đảng Cộng
sản Việt Nam vẫn luôn luôn là đảng có vai trò lãnh đạo xã hội. Từ năm 1988 trở đi, khi hai đảng: Đảng Xã hội
và Đảng Dân chủ đã tự giải thể thì xã hội Việt Nam chỉ còn một đảng duy nhất và tiếp tục đóng vai trò lãnh đạo,
đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là sự tiếp tục vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một Đảng Cộng sản cầm quyền.
2. Đảng lãnh đạo chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội
Trong vai trò của đảng cầm quyền, vấn đề Đảng lãnh đạo chính quyền được Hồ Chí Minh coi là một nguyên tắc
để bảo đảm nhà nước là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, nhà nước mang bản chất
giai cấp công nhân. Những quan điểm chủ yếu sau đây của Hồ Chí Minh thể hiện nguyên tắc đó:
Một là, bảo đảm cho nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân.
Trong xây dựng nhà nước, Hồ Chí Minh coi tính chất giai cấp của nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Lời
nói đầu của Hiến pháp năm 1959 ghi rõ: “Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên
minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”(2)
.Quan điểm của Hồ Chí Minh là nhân dân lao động làm chủ
nhà nước do giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hai là, Đảng lãnh đạo chính quyền cần phải chú ý bảo đảm cho bộ máy chính quyền cũng như cán bộ, công
chức trong sạch, vững mạnh.
Hồ Chí Minh chú trọng việc Đảng cầm quyền phải xây dựng chính quyền thật sự trong sạch vững mạnh. Người
nhấn mạnh những yêu cầu về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong bức thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ,
tỉnh, huyện và làng, tháng 10-1945, Người viết: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ từ toàn
quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu
dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”(3)
.
Hồ Chí Minh đặc biệt nhắc nhở các cấp chính quyền khắc phục những căn bệnh, nhất là quan liêu, lãng phí,
tham ô và những tiêu cực khác mà Người gọi đó là “giặc nội xâm”.
Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Đảng đã cử nhiều đảng viên sang hoạt động trong các cơ quan nhà nước,
trong đó nhiều người giữ những trọng trách. Hồ Chí Minh phê bình một số cán bộ, đảng viên cậy thế mình là
người của tổ chức đảng để phớt lờ cả kỷ luật trong các cơ quan nhà nước. Người cho rằng, đảng viên không
những phải chấp hành Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng mà còn thải phục tùng Hiến pháp và pháp luật của
Nhà nước.
Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp.
Đòi hỏi đầu tiên đối với Đảng cầm quyền là phải đề ra được đường lối, chủ trương đúng đắn. Đường lối đó phải
được thể chế hoá bằng Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Khi đề cập vấn đề nhà nước thì điều quan trọng là quyền lực thuộc về ai. Nhà nước kiểu mới theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, là bộ máy thể hiện quyền lực của nhân dân lao động. Nhà nước phát huy dân chủ để động viên tất cả
lực lượng của nhân dân vào tham gia sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức Đảng trong bộ
máy Nhà nước bằng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức đó. Về mặt chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước có
khác nhau. Do đó, cần phải phân biệt vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Nhưng một đặc
điểm của nước ta từ năm 1945 cho đến năm 1975 là hệ thống chính trị chủ yếu dồn sức cho kháng chiến chống
thực dân Pháp và kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Trong điều kiện ấy, vai trò quản lý toàn diện của Nhà nước
chưa được thể hiện rõ nét. Vì vậy, có thể nói trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có một phương thức bất biến về
sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền. Trong điều kiện hiện nay chúng ta cần vận dụng sáng tạo quan điểm
Hồ Chí Minh tìm ra phương thức lãnh đạo thích hợp với từng thời kỳ. Văn kiện Đại hội IX chỉ rõ đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội là một nội dung trọng yếu nhằm qua cách mạng nước ta
phát triển, trong đó: nhấn mạnh lãnh đạo thông qua việc "đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn định
hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp
luật của Nhà nước”(4)
. “Kiện toàn hệ thống tổ chức đảng gắn với cải cách đổi mới tổ chức, bộ máy của các cơ
quan nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội"(5)
.
Một chức năng rất quan trọng của Đảng cầm quyền là lãnh đạo mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Sự
nghiệp cách mạng không phải là sự nghiệp của vài người, của vài cá nhân anh hùng nào mà là sự nghiệp của
toàn dân, có tổ chức được tập hợp trong mặt trận. Tổ chức mặt trận là tổ chức liên minh chính trị, là tổ chức tự
nguyện của các đoàn thể, các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo.
Năm 1939, Hồ Chí Minh cho rằng, “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà
phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác
hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới
giành được địa vị lãnh đạo"(6)
.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì với tư cách là tổ chức chính trị cầm
quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra đường lối, chủ trương và vận dụng thuyết phục các tổ chức đoàn thể
chính trị - xã hội tham gia các phong trào cách mạng biến chủ trương, đường lối thành hiện thực.
3. Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân trong điều kiện Đảng cầm quyền
Quyền lực của Đảng không tự nhiên mà có. Quyền lực ấy là của nhân dân; nhân dân ủy thác cho Đảng đứng ra
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Cơ sở xã hội của Đảng không chỉ là giai cấp công nhân mà còn là toàn thể nhân
dân lao động. Trong giai đoạn cầm quyền, các tổ chức đảng đóng vai trò lãnh đạo một cách toàn diện; cán bộ,
đảng viên thường giữ chức vụ trong Đảng hoặc trong các tổ chức khác của hệ thống chính trị. Hồ Chí
Minh thường nhắc nhở các tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên chớ xa dân, chớ “vác mặt quan cách mạng” để làm
hại dân.
Trong quan hệ với dân ở giai đoạn cầm quyền, theo Hồ Chí Minh, Đảng ta phải chú ý những vấn đề sau đây:
- Phải luôn luôn lắng nghe ý kiến nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
để xây dựng chế độ mới. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò, sức mạnh của nhân dân nói chung và trong thời
kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng. Đảng cầm quyền phải thường xuyên lấy nguồn gốc sức mạnh từ nhân
dân.
- Thường xuyên vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Đây là đòi hỏi sống còn của công tác xây dựng
Đảng trong điều kiện xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh lưu ý việc vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng
bằng nhiều hình thức: đóng góp ý kiến cho Đảng, nhất là trong việc xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng;
tích cực thực hiện đường lối chủ trương đó trong cuộc sống; kiểm tra cán bộ đảng viên; giới thiệu những người
ưu tú để Đảng kết nạp vào hàng ngũ của mình,...
- Nâng cao dân trí. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Đảng không thể gọi là Đảng của trí tuệ khi nền dân trí
thấp. Theo Hồ Chí Minh, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, dốt là một thứ giặc nguy hiểm cần phải chống. Vì
vậy, việc nâng cao dân trí là trách nhiệm của Đảng.
- Đảng không được theo đuôi quần chúng. Đảng phải thường xuyên tuyên truyền giác ngộ quần chúng, làm cho
dân dân giác ngộ cách mạng sẵn sàng đem sức mình thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng.
- Đảng phải xác định rõ trách nhiệm của mình: vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân.
II- TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH
1. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân ta phấn đấu để đạt tới là
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trên con đường để đạt mục tiêu đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng phải dựa
vào lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng Cộng sản cầm
quyền là lãnh tạo toàn thể nhân dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa
xã hội khoa học chính là sự định hướng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh việc Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Ở Hồ Chí Minh, việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và trong giai đoạn xây dựng chủ
nghĩa xã hội nói riêng, rất sáng tạo. Đó cũng là điều mà Hồ Chí Minh thường xuyên đòi hỏi Đảng ta trong quá
trình lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh tuân
thủ sự chỉ dẫn của các vị sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học, rằng học thuyết của các ông không phải là
giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động. Lênin khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như
một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn
khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở
thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng, những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự
mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp
dụng những nguyên lý ấy thì xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở
Đứckhông giống ở Nga"(7)
.
Hồ Chí Minh lưu ý công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin phải phù hợp với đối tượng, với hoàn
cảnh, vận dụng tránh giáo điều đồng thời tránh việc tuyệt đối hoá đặc điểm của từng dân tộc để xa rời các
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành viên của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, cho nên việc cần thiết là học tập những kinh nghiệm tốt, những bài học hay, của các
đảng cộng sản anh em, tránh những sai lầm, khuyết điểm mà các đảng đã mắc phải. Hồ Chí Minh cũng rất coi
trọng việc Đảng ta phải thường xuyên tổng kết kinh nghiệm hoạt động của mình để bổ sung, làm phong phú
thêm kho tàng lý luận Mác - Lênin, đấu tranh dưới nhiều hình thức để bảo vệ, làm trong sáng chủ nghĩa Mác -
Lênin, chống giáo điều, cơ hội, xét lại và mọi biểu hiện xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thực tế trong thời gian qua đã chứng minh rằng, cả hai loại sai lầm: giáo điều và xa rời những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin đều dẫn tới sự tan rã của nhiều đảng cầm quyền, ngay cả đối với Đảng Cộng sản Liên Xô -
một đảng do Lênin sáng lập, có nhiều kinh nghiệm trong hơn 70 năm cầm quyền.
Không phải cứ nói nhiều, học thuộc, coi lý luận Mác - Lênin như là những công thức, như những “kinh thánh”
thì mới là trung thành với học thuyết của các ông. Không phải cứ nói khác C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin là sáng
tạo. Cũng không thể cứ "lắp ghép" nguyên lý của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học với cái mới
hiện nay là có ngay sự kế thừa sáng tạo và nâng lý luận của các ông lên một tầm cao mới.
Sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo tư tưởng Hồ Chí
Minh đòi hỏi đảng ta phải kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa ấy vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Mọi biểu hiện từ bỏ học thuyết cách mạng và khoa học này đều chỉ dẫn đến sự thất bại đối với sự
nghiệp cách mạng nước ta và làm cho Đảng biến chất, không còn là Đảng Cộng sản nữa.
2. Thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ cao nhất của giai cấp công nhân. Vì vậy, Đảng phải tuân thủ
những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt nhất định mà nếu vi phạm thì Đảng sẽ bị suy yếu và tan rã. Trong công
tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền nói riêng, Hồ Chí Minh đề cập
nhiều nguyên tắc. Những nguyên tắc đó đều xuất phát từ học thuyết Mác - Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản. Trong phạm vi của chương trình lý luận cao cấp, xin đề cập ba nguyên tắc.
Một là, tập trung dân chủ.
Trong học thuyết của Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong
những nguyên tắc cơ bản. Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc này và chỉ rõ tập trung và dân chủ gắn
bó chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ đó được Hồ Chí Minh diễn đạt bằng các vế sau đây:
- “Tập trung trên nền tảng dân chủ”(8)
.
- “Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”(9)
.
Như vậy, chúng ta không được tách rời và càng không được đối lập hai vế của một nguyên tắc, không thể coi
“tập trung” và “dân chủ” như lửa với nước như một số phần tử chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta rêu rao.
Hồ Chí Minh xác định dân chủ là tạo mọi điều kiện cho tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến để đóng góp cho Đảng.
Người nhấn mạnh: “Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả nhân viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom góp
ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt”(10)
.
Tập trung trong Đảng phải trên cơ sở của bảo đảm dân chủ, nghĩa là dân chủ càng tốt thì tập trung sẽ đúng hơn.
Hồ Chí Minh quan niệm tập trung trong tổ chức và sinh hoạt Đảng theo đúng nguyên lý xây dựng Đảng của
Lênin: thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương,... Người nhấn
mạnh: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”(11)
. Tập trung trong Đảng cũng có
nghĩa là tất cả mọi Đảng viên phải tuyệt đối phục tùng nghị quyết của Đảng.
Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Có lúc nguyên tắc này được Hồ Chí Minh gọi là “chế độ”. Theo Hồ Chí Minh “tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá
nhân phụ trách là tập trung.Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ cách tức là dân chủ tập trung”(12)
.
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phủ gắn chặt với nhau. Nguyên tắc này
vừa chống lại bệnh độc đoán chuyên quyền, vừa chống lại sự dựa dẫm tập thể, không dám quyết đoán, không
dám chịu trách nhiệm. Độc đoán chuyên quyền là vi phạm dân chủ trong Đảng, dẫn đến những hậu quả khôn
lường, phá hoại Đảng, đồng thời không dám chịu trách nhiệm sẽ làm tổ chức Đảng bị tê liệt, không còn sức
chiến đấu, làm cho đường lối, chủ trương, nghị quyết của tổ chức Đảng chỉ nằm trên giấy, không biến thành hiện
thực trong cuộc sống.
Hồ Chí Minh giải thích tập thể lãnh đạo như sau:
“Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo?
Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được
một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.
Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông
thấy rõ mặt khác của vấn đề đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp
mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm.
Ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất giản đơn, chân lý của nó rất rõ rệt. Tục ngữ có câu: “Khôn bầy hơn khôn độc" là
nghĩa đó(13)
.
Hồ Chí Minh giải thích về cá nhân phụ trách như sau:
"Vì sao cần phải cá nhân phụ trách?
Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người
hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới
chạy.
Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, quả là
không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong. Tục ngữ có câu: “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa" là
như thế(14)
.
Theo Hồ Chí Minh, trong công tác xây dựng Đảng, không được phép vin vào “cá nhân phụ trách” để lấn át tập
thể hoặc không phải việc gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người một lần có thể giải quyết được cũng đưa ra bàn.
Nguyên tắc này, càng có ý nghĩa trong thời kỳ hiện nay, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, hình thành cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khi công tác xây dựng Đảng được coi là then chốt, xây dựng kinh tế
là trung tâm, khi trách nhiệm của cá nhân và của tập thể tổ chức Đảng được phát huy tác dụng rõ rệt hơn bao giờ
hết.
Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Hồ Chí Minh có nhiều cách gọi về tự phê bình và phê bình. Có lúc Người đặt phê bình lên trước tự phê bình,
nhưng nhiều hơn cả là tự phê bình đặt trước phê bình. Có lúc Người gọi tự phê bình và phê bình là “luật” hoặc
“quy luật phát triển” của Đảng, là “vũ khí sắc bén” trong công tác xây dựng Đảng. Xét về nội dung, chúng ta có
thể coi vấn đề này có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng nói chung và trong giai đoạn Đảng cầm
quyền nói riêng.
Tại sao trong Đảng lại phải thường xuyên tự phê bình và phê bình? Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng ta bao gồm đủ
các tầng lớp xã hội, có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại, song trong Đảng ta cũng không
tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài lây ngấm vào Đảng. Đảng ta
gồm những người có đức, có tài. Phần đông những người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên
quyết dũng cảm nhất đều ở trong Đảng ta. Tuy vậy, không phải là người người đều tốt, việc việc đều hay. Hồ
Chí Minh còn cho rằng, người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm; mỗi con người đều
có cái thiện với cái ác ở trong lòng. Do vậy, mục đích tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi
con người nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu bị mất dần đi, thang thuốc hay nhất là thiết thực tự phê bình và
phê bình. Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình như người ta rửa mặt hàng ngày.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến thái độ tự phê bình và phê bình. Người đòi hỏi, tự phê bình và phê bình phải
thẳng thắn, chân thành, nghĩa là không nể nang, không thêm bớt, “không giấu bệnh sợ thuốc". Đồng thời, phải
“có tính đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Tự phê bình và phê bình trên tình đồng chí, cốt để giúp nhau sửa chữa
khuyết điểm chứ không phải để xoi mói, nói xấu nhau, “không phải đập cho tơi bời". Với thái độ tự phê bình và
phê bình như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng mới luôn luôn trong sạch vững mạnh hơn.
3. Xây dựng và rèn luyện đội ngũ đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền
Đội ngũ đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền có mặt ở tất cả các tổ chức của hệ thống chính trị và thường
là có chức, có quyền. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng và rèn luyện đội ngũ đảng viên trong sự nghiệp
xây dựng xã hội mới trên những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, thường xuyên lựa chọn người ưu tú để kết nạp vào đội ngũ của Đảng. bảo đảm đội ngũ đảng viên trong
sạch, vững mạnh. Trong việc kết nạp đảng viên, coi trọng chất lượng hơn số lượng, khắc phục tình trạng chủ
nghĩa thành phần.
Hai là, đội ngũ đảng viên phải luôn luôn giác ngộ cách mạng, tiền phong, gương mẫu, đi đầu trong mọi công tác.
Hồ Chí Minh nhiều lần cho rằng: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu
thiên hạ chi lạc nhi lạ”. Phải luôn luôn có “đảng tính”, tức là đảng viên hoạt động trong các tổ chức của chính
quyền Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội phải thật sự gương mẫu để thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Ba là, đội ngũ đảng viên là những người suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp của Đảng và Tổ quốc, đặt
quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và trước hết. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiệm vụ chủ yếu
của Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới: xã hội xã hội chủ nghĩa, vấn đề hy sinh tính mạng không đặt
ra thường xuyên nhưng lợi ích kinh tế đặt ra không kém phần gay gắt, vẫn đòi hỏi đảng viên phải hy sinh lợi ích
riêng cho lợi ích của Đảng.
Bốn là, đảng viên phải có đời tư trong sáng, tức là đề cập đến đạo đức, lối sống, điều mà Hồ Chí Minh thường
xuyên nhắc nhở.
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ
“Cán bộ” ở đây được quan niệm là cán bộ cách mạng trong điều kiện Đảng cầm quyền, mà thường số đông cán
bộ là đảng viên. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, cho rằng: cán bộ là cái gốc của
mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém.
Những yêu cầu đối với cán bộ cách mạng được Hồ Chi Minh chỉ ra một cách cụ thể, tập trung trên những vấn đề
chính sau đây:
- Cán bộ phải là người tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng, không phải làm cán bộ để
“thăng quan phát tài”, để làm “quan cách mạng”, mà để là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân.
- Người cán bộ trước hết phải có "đức". Phải vừa có đức vừa có tài nhưng đức là gốc. “Đức” ở đây là sự tổng
hợp của rất nhiều yếu tố, nhưng Hồ Chí Minh nhấn mạnh người cán bộ phải là người không vi phạm khuyết
điểm tham ô, lãng phí, quan liêu mà Người gọi những khuyết điểm đó là “giặc nội xâm”, loại giặc này còn nguy
hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người cán bộ, theo Hồ Chí Minh, phải là những người “phú quý bất năng dâm, bần
tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.
- Cán bộ là người có năng lực tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh coi người cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Đường lối, chủ trương, nghị
quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như của các đoàn thể chính trị - xã hội sẽ không biến thành hiện
thực, sẽ chỉ nằm trên giấy khi không có những cán bộ có năng lực tổ chức triển khai thực hiên nó.
- Cán bộ trong giai đoạn Đảng cầm quyền càng phải liên hệ mật thiết với nhân dân. Hồ Chí Minh phê phán nhiều
cán bộ “vác mặt quan cách mệnh" để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”, “dán trên trán hai chữ cộng sản" để loè dân.
- Cán bộ phải là người luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt: về lý luận Mác - Lênin, về nhận thức
đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ. Việc học tập được Hồ Chí
Minh nhấn mạnh là công việc thường xuyên, học mọi lúc mọi nơi, cả trên ghế nhà trường, tự học, học trong thực
tế.
- Cán bộ phải có phong cách công tác tốt, chống bệnh liêu, đại khái, phô trương hình thức cho oai, kiểu cách làm
việc bàn giấy, “chỉ tay năm ngón”. Người cán bộ, theo Hồ Chí Minh, phải là người mắt trông, tai nghe, chân đi,
miệng nói, tay làm, sâu sát, tỷ mỷ, kế hoạch thiết thực, kế hoạch chớ để cho oai, kế hoạch 10 phần biện pháp
phải 20 phần, quyết tâm phải 30 phần. Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải năng động, sáng tạo chớ “đập đi,
họ đứng", đừng để "đầy túi quần thông báo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc không tiến triển được.
Để có được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của một Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc tới công
tác cán bộ. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, phải "hiểu và đánh giá đúng cán bộ". Đây là yêu cầu đầu tiên cần phải có đế tiến hành các công tác khác.
Làm tốt yêu cầu này đòi hỏi phải công tâm, khách quan, có tiêu chí đánh giá phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể của từng thời kỳ, từng cấp, từng ngành, từng địa phương.
Hai là, phải "khéo dùng cán bộ", tức là bố trí cán bộ cho phù hợp để người cán bộ phát huy hết khả năng của
mình. Hồ Chí Minh cho rằng: người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở, ta phải dùng chỗ hay và giúp họ sửa chữa
chỗ dở. Dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được. Hồ Chí
Minh phê bình: “Thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc
thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tùy tài mà dùng người thì hai người đều
thành công”(15)
.
Khéo dùng cán bộ còn phải biết kết hợp cán bộ già, cán bộ trẻ, cán bộ tại chỗ với cán bộ do cấp trên điều về. Hồ
Chí Minh đã phân tích rất rõ ưu điểm và nhược điểm của các loại cán bộ đó để sử dụng tốt.
Khéo dùng cán bộ, theo Hồ Chí Minh, còn phải chú ý đề bạt, sử dụng người tốt, chớ dùng người hay nịnh hót
mình mà bỏ những người chính trực.
Ba là, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải chống chủ nghĩa địa phương cục bộ trong công tác cán bộ, tránh đầu óc bè
phái, cánh hẩu, họ hàng. Vấn đề này càng cần phải chú ý trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Bốn là, phải chú ý phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện và đề bạt cán bộ. Các công việc này là những khâu
liên hoàn nhưng khi đã đề bạt rồi thì phải kiểm tra, giám sát để giúp cán bộ phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết
điểm chứ không khoán trắng công việc cho họ.
5. Tăng cường công tác kiểm tra trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
Hồ Chí Minh coi trọng công tác kiểm tra trong xây dựng Đảng. Người cho rằng: khi đã có chính sách đúng, thì
sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm
tra, nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích.
Có tăng cường kiểm tra thì mới giữ nghiêm kỷ luật Đảng, mới bảo đảm cho đường lối, chủ trương, nghị quyết
của Đảng được thực hiện một cách đầy đủ và đúng đắn, mới bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Có
kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to lớn của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết
điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ họ kịp thời. Hồ Chí Minh phê bình nhiều cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai
hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị nhưng họ không biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hành
đến đâu, có những khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không bởi vì họ quên mất kiểm tra.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: nếu tổ chức việc kiểm tra chu đáo thì cũng như chúng ta đã có ngọn đèn pha, bao
nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm, khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ; có thể nói rằng chín
phần mười khuyết điểm trong công việc chúng ta là thiếu sự kiểm tra. Hồ Chí Minh cho rằng, nếu tổ chức kiểm
tra được tiến hành chu đáo thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười, gấp trăm.
Trong công tác kiểm tra, Hồ Chí Minh lưu ý những vấn đề sau đây:
- Công tác kiểm tra phải toàn diện: kiểm tra việc và kiểm tra người trong việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
- Kiểm tra phải kịp thời, khi đã có nghị quyết, thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị quyết ấy, phải biết rõ
sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân dân địa phương ấy. Có như thế mới kịp thời thấy rõ khuyết
điểm và những khó khăn để sửa đổi các khuyết điểm và tìm cách vượt qua mọi khó khăn.
- Kiểm tra phải chính xác, công minh, khách quan. Hồ Chí Minh cho rằng, kiểm tra không nên chỉ bằng việc căn
cứ vào các tờ báo cáo mà phải đi đến tận nơi. Ở đây, cần phải nêu cao trách nhiệm của cán bộ làm công tác kiểm
tra. Cán bộ kiểm tra phải là những người hiểu rõ đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; có năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ; có đạo đức cách mạng; có ý thức tổ chức và kỷ luật; thật thà tự phê bình và phê bình,
gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, phải chí công vô tư, không
thành kiến, thiên vị.
- Công tác kiểm tra đi liền với kỷ luật Đảng. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật tự giác, kỷ luật sắt, rất nghiêm, tất cả
mọi đảng viên đều phải tuân theo. Tính chất kỷ luật bắt nguồn từ tính chất của Đảng, bởi vì Đảng ta bao gồm
những người hăng hái, trung thành, ưu tú trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động tự nguyện tự giác đứng
vào hàng ngũ của Đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh khuyên mọi người, nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ
được cách mạng, sợ kỷ luật sắt của Đảng thì đừng vào Đảng hoặc khoan hãy vào Đảng.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG VÀO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG, CHỈNH
ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
Đại hội IX của Đảng năm 2001 tiếp tục khẳng định: nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng và nhiệm
vụ trung tâm là phát triển kinh tế. Đại hội cũng chỉ ra những ưu điểm và những yếu kém, khuyết điểm của công
tác xây dựng Đảng trong những năm qua, đồng thời quyết định những nhiệm vụ mới, trong đó nêu rõ: "Toàn
Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi cấp ủy mỗi chi bộ có kế hoạch
định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng chống
chủnghĩa cá nhân. Chống tư tưởng cơ hội, thực dụng”(16)
.
Trong những điều kiện mới, nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Đại hội IX cũng như thực
hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII càng cấp thiết hơn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp cách mạng
nước ta. Những quan điểm của Người vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp đổi mới nói chung, với việc xây
dựng chỉnh đốn Đảng nói riêng.
Trước hết, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh phải thể hiện ở việc xây dựng Đảng về chính trị mà biểu hiện rõ
nhất là Đảng phải đề ra được đường lối đúng đắn, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị. Đường lối của
Đảng phải dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời còn
dài trên cơ sở thực tiễn của đất nước trong từng thời kỳ và đường lối đó phải có khả năng thực thi. Hơn bao giờ
hết trong sự nghiệp đổi mới, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh càng phải được nhận thức một
cách sâu sắc để vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay. Tình hình thực tế thật vô cùng
phong phú, nhất là trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng phải luôn luôn tổng kết để
hoạch định đường lối một cách đúng đắn. Sai lầm về đường lối là một sai lần nguy hiểm nhất đối với một Đảng
cộng sản cầm quyền.
Thứ hai, sức mạnh của một đảng chính trị và của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền còn ở lĩnh vực tư tưởng.
Vì thế, xây dựng Đảng ta về tư tưởng vẫn luôn luôn là vấn đề cấp thiết đặt ra. Đảng ta phải là một khối thống
nhất về tư tưởng và hành động. Toàn Đảng, từ Trung ương đến cơ sở, mọi cán bộ, đảng viên phải kiên định lập
trường, không hoang mang, dao động, phải kiên trì mục tiêu và lý tưởng của mình. Là người cộng sản, là lãnh tụ
của Đảng ta, trải qua nhiều cam go, thử thách nghiệt ngã, Hồ Chí Minh đã dày công giáo dục, rèn luyện cho mỗi
đảng viên và toàn Đảng thấm nhuần lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Hiện nay, đứng trước thời cơ và thách thức
mới, Đảng cần tiếp tục nên định lập trường nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm lãnh đạo đất nước thực hiện
thành công xây dựng chủ nghĩa xã hội đáp ứng lòng mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ ba, Đảng mạnh là do tổ chức mạnh. Xây dựng Đảng ta vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đại diện trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc đòi hỏi
phải tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng,
chỉnh đốn đảng hiện nay còn yêu cầu Đảng phải lãnh đạo cuộc đấu tranh đề phòng và khắc phục những nguy cơ
của Đảng cầm quyền: quan liêu, tham nhũng…; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo của mình đối
với Nhà nước và các đoàn thể để vừa bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị,
vừa phát huy được vai trò quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn phải, bằng hành động thực tế, thể
hiện vai trò cực kỳ quan trọng của Đảng trong đời sống xã hội như chính bản thân Hồ Chí Minh đã xác định một
cách nhất quán trong cả cuộc đời hoạt động của mình. Càng trong cơ chế thị trường, càng cần tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, bởi vì sự lãnh đạo đúng đắn cua Đảng là nhân tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Cần gắn bó chặt chẽ hơn nữa công tác xây dựng đảng với việc phát triển kinh tế theo quan điểm phát triển
kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, là người sáng lập Đảng Cộng
sản Việt Nam đầu năm 1930, là lãnh tụ của Đảng và của dân tộc. Tư tưởng của Người về xây dựng Đảng vẫn là
ngọn đèn dẫn dắt Đảng ta trong sự nghiệp đấu tranh cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Bài 4
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT*
I. TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Đại đoàn kết - một tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam
Do những điều kiện về địa lý tự nhiên, do nằm ở vị trí chiến lược nên lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam là lịch sử của quá trình chống thiên tai, địch hoạ. Chính những cuộc đấu tranh đó đòi
hỏi cộng đồng dân tộc phải sát cánh, đoàn kết, chụm lại với nhau.
Tính tất yếu khách quan đòi hỏi dân tộc Việt Nam phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối còn xuất phát từ chủ
trương, chính sách nhất quán của các thế lực xâm lược. Việt Nam là một nước đất không rộng, người không
đông nhưng luôn phải đương đầu với các thế lực xâm lược hùng mạnh, các đế quốc to. Những thế lực này dù từ
đâu đến, đến vào thời kỳ nào đều thực thi chủ trương, thủ đoạn “chia để trị”. Trong Bản án chế độ thực dân
Pháp, Hồ Chí Minh vạch rõ: “Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngôn “chia để trị” của nó.
Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một phong tục,
chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói đã bị chia năm sẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo
trá sự chia cắt ấy, người ta hy vọng phá vỡ tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra
những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau. Sau khi đẩy họ chống lại nhau người ta lại ghép một cách
giả tạo các thành phần ấy lại, lập nên một “Liên bang” gọi là “Liên bang Đông Dương”. Trong điều kiện đó, để
tồn tại và phát triển, người Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác đều nhắc nhở, đòi hỏi lẫn nhau:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Quá trình dựng nước và giữ nước đã hình thành nên truyền thống đoàn kết Việt Nam. Truyền thống đó trở thành
nguồn gốc làm nên sức mạnh của cộng đồng người Việt và trỗi dậy mạnh mẽ đặc biệt mỗi khi đất nước bị hoạ
xâm lăng. Lịch sử chỉ ra rằng, khi nào dân tộc bị chia rẽ, bè phái thì đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, suy yếu và
bị thôn tính.
Trong thời đại ngày nay, khi mà chủ nghĩa đế quốc đã liên kết với nhau trên phạm vi thế giới, khi mà mỗi vấn đề
dù lớn hay nhỏ của một quốc gia đều có ảnh hưởng, tác động đến các quốc gia khác, thì tư tưởng đại đoàn kết lại
càng phải được phát huy để tạo ra nguồn lực đủ sức chống sự tha hoá từ bên ngoài tràn vào, giữ vững và phát
huy bản sắc dân tộc mà vẫn tiếp thu được trí tuệ tinh hoa văn hóa nhân loại.
Mặt khác, thế giới đang có những biến chuyển lớn theo hướng đa phương và song phương, hội nhập và phát
triển. Đó là những yếu tố khách quan mang tính thời đại, bởi vậy sự liên kết giữa các quốc gia trong khu vực
cũng như trên thế giới là một tất yếu lịch sử. Cách mạng Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Vấn đề là
chúng phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa tiềm năng sức mạnh dân tộc với sự vận động của quốc tế để không
bỏ lỡ, không đánh mất thời cơ hội nhập phát triển, nhưng cũng không bị hoà tan, không lệ thuộc vào bên ngoài.
Đối với Việt Nam, ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đã nói: Việt Nam mong
muốn được làm bạn với tất cả các nước dân chủ trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Tư
tưởng chiến lược mang tính thời đại đó đã quy tụ được sức mạnh của nhân loại giúp chúng ta giành thắng lợi
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Ngày nay, tư tưởng đó đang được Đảng Cộng sản Việt Nam
quán triệt và vận dụng phù hợp với tình hình, điều kiện mới ở trong nước và quốc tế.
2. Đại đoàn kết - một nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng và lực lượng đó phải đủ mạnh để chiến thắng
kẻ thù, xây dựng thành công xã hội mới. Trong thời đại mới, kẻ thù của cách mạng mang tính quốc tế, cách
mạng mỗi nước là một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới. Trong điều kiện đó, cách mạng muốn thành công
phải có lực lượng mạnh mẽ ở trong nước, đồng thời phải có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của cộng đồng quốc tế.
Cũng theo Hồ Chí Minh, muốn có lực lượng phải thực hành đoàn kết vì “đoàn kết là lực lượng”. Bởi vậy trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa sống còn lâu dài, quyết định thành bại của cách
mạng. Hồ Chí Minh chỉ rõ, đoàn kết trong đảng, đoàn kết dân tộc kết hợp chặt chẽ với đoàn kết quốc tế, tạo ra
sức mạnh to lớn, vượt trội là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Để thực hiện đại đoàn kết điều căn bản là phân biệt rõ bạn và thù. Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở những người
cách mạng: chủ nghĩa Mác - Lênin dạy chúng ta rằng, muốn làm cách mạng thắng lợi phải phân biệt rõ ai là bạn,
ai là thù, phải biết thêm bầu bạn, bớt kẻ thù. Nhận thức này có từ rất sớm ở Hồ Chí Minh. Đầu thế kỷ XX, trong
khi nhiều người Việt Nam căm thù thực dân Pháp cho rằng, những người Pháp, người da trắng là kẻ thù, hoặc
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM

More Related Content

What's hot

Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩn
Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩnBài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩn
Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩnkuki29292
 
Đề cương môn chính trị đợt 2.2017docx
Đề cương môn chính trị đợt 2.2017docxĐề cương môn chính trị đợt 2.2017docx
Đề cương môn chính trị đợt 2.2017docxtiểu minh
 
Bài tiểu luận tư tưởng hồ chí minh
Bài tiểu luận tư tưởng hồ chí minhBài tiểu luận tư tưởng hồ chí minh
Bài tiểu luận tư tưởng hồ chí minhHuynh Loc
 
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCMTư tưởng HCM
Tư tưởng HCMLinh Thuc
 
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạngTiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạngDzaigia1988
 
Giá trị tư tương Hồ Chí Minh & áp dụng tư tưởng HCM
Giá trị tư tương Hồ Chí Minh & áp dụng tư tưởng HCMGiá trị tư tương Hồ Chí Minh & áp dụng tư tưởng HCM
Giá trị tư tương Hồ Chí Minh & áp dụng tư tưởng HCMJenny Hương
 
Bài thảo luận nhóm chương 4.5.6.7 Môn tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài thảo luận nhóm chương 4.5.6.7 Môn tư tưởng Hồ Chí MinhBài thảo luận nhóm chương 4.5.6.7 Môn tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài thảo luận nhóm chương 4.5.6.7 Môn tư tưởng Hồ Chí Minhsjuxinh
 
Tư tưởng
Tư tưởngTư tưởng
Tư tưởngKatsu
 
Tư tưởng hcm về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng hcm về đại đoàn kết dân tộcTư tưởng hcm về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng hcm về đại đoàn kết dân tộcCloud2127
 
Tư tưởng hồ chí minh
Tư tưởng hồ chí minhTư tưởng hồ chí minh
Tư tưởng hồ chí minhhangngoc14
 
Bai tieu luan tu tuong hcm
Bai tieu luan tu tuong hcmBai tieu luan tu tuong hcm
Bai tieu luan tu tuong hcmHao Phan
 
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘITƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘIBee Bee
 
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCMTư tưởng HCM
Tư tưởng HCMLinh Thuc
 
8 câu-hỏi-tự-luận-thi-cuối-kì tư tưởng hcm
8 câu-hỏi-tự-luận-thi-cuối-kì tư tưởng hcm8 câu-hỏi-tự-luận-thi-cuối-kì tư tưởng hcm
8 câu-hỏi-tự-luận-thi-cuối-kì tư tưởng hcmNguynKimNgn31
 
TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH - CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐOÀN KẾT TRONG ĐỘI NGŨ ...
TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH - CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐOÀN KẾT TRONG ĐỘI NGŨ ...TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH - CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐOÀN KẾT TRONG ĐỘI NGŨ ...
TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH - CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐOÀN KẾT TRONG ĐỘI NGŨ ...Phan Minh Trí
 
PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC GẮN VỚI VIỆC XÂY DỰNG ...
PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC GẮN VỚI VIỆC XÂY DỰNG ...PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC GẮN VỚI VIỆC XÂY DỰNG ...
PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC GẮN VỚI VIỆC XÂY DỰNG ...Thảo Nguyễn
 
Chương 1, tư tưởng hchinh
Chương 1, tư tưởng hchinhChương 1, tư tưởng hchinh
Chương 1, tư tưởng hchinhmai_mai_yb
 
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi MinhCau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi MinhBinh Boong
 
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.Mark Pham
 

What's hot (20)

Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩn
Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩnBài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩn
Bài tiểu luận môn tư tưởng hồ chí minh chuẩn
 
Đề cương môn chính trị đợt 2.2017docx
Đề cương môn chính trị đợt 2.2017docxĐề cương môn chính trị đợt 2.2017docx
Đề cương môn chính trị đợt 2.2017docx
 
Bài tiểu luận tư tưởng hồ chí minh
Bài tiểu luận tư tưởng hồ chí minhBài tiểu luận tư tưởng hồ chí minh
Bài tiểu luận tư tưởng hồ chí minh
 
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCMTư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
 
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạngTiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
Tiểu luận tư tưởng hồ chí minh về đạo đức cách mạng
 
Giá trị tư tương Hồ Chí Minh & áp dụng tư tưởng HCM
Giá trị tư tương Hồ Chí Minh & áp dụng tư tưởng HCMGiá trị tư tương Hồ Chí Minh & áp dụng tư tưởng HCM
Giá trị tư tương Hồ Chí Minh & áp dụng tư tưởng HCM
 
Bài thảo luận nhóm chương 4.5.6.7 Môn tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài thảo luận nhóm chương 4.5.6.7 Môn tư tưởng Hồ Chí MinhBài thảo luận nhóm chương 4.5.6.7 Môn tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài thảo luận nhóm chương 4.5.6.7 Môn tư tưởng Hồ Chí Minh
 
Tư tưởng
Tư tưởngTư tưởng
Tư tưởng
 
Tư tưởng hcm về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng hcm về đại đoàn kết dân tộcTư tưởng hcm về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng hcm về đại đoàn kết dân tộc
 
Tư tưởng hồ chí minh
Tư tưởng hồ chí minhTư tưởng hồ chí minh
Tư tưởng hồ chí minh
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấpTư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp
 
Bai tieu luan tu tuong hcm
Bai tieu luan tu tuong hcmBai tieu luan tu tuong hcm
Bai tieu luan tu tuong hcm
 
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘITƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
 
Tư tưởng HCM
Tư tưởng HCMTư tưởng HCM
Tư tưởng HCM
 
8 câu-hỏi-tự-luận-thi-cuối-kì tư tưởng hcm
8 câu-hỏi-tự-luận-thi-cuối-kì tư tưởng hcm8 câu-hỏi-tự-luận-thi-cuối-kì tư tưởng hcm
8 câu-hỏi-tự-luận-thi-cuối-kì tư tưởng hcm
 
TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH - CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐOÀN KẾT TRONG ĐỘI NGŨ ...
TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH - CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐOÀN KẾT TRONG ĐỘI NGŨ ...TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH - CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐOÀN KẾT TRONG ĐỘI NGŨ ...
TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH - CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐOÀN KẾT TRONG ĐỘI NGŨ ...
 
PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC GẮN VỚI VIỆC XÂY DỰNG ...
PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC GẮN VỚI VIỆC XÂY DỰNG ...PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC GẮN VỚI VIỆC XÂY DỰNG ...
PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC GẮN VỚI VIỆC XÂY DỰNG ...
 
Chương 1, tư tưởng hchinh
Chương 1, tư tưởng hchinhChương 1, tư tưởng hchinh
Chương 1, tư tưởng hchinh
 
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi MinhCau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
Cau hoi on tap Tu tuong Ho Chi Minh
 
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
(PPT) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
 

Similar to Tư tưởng HCM

đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minhđề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minhcongatrong82
 
Nguồn gốc tu tuong ho chi minh
Nguồn gốc tu tuong ho chi minhNguồn gốc tu tuong ho chi minh
Nguồn gốc tu tuong ho chi minhVũ Thanh
 
Dc on tap_tu_tuong_hcm
Dc on tap_tu_tuong_hcmDc on tap_tu_tuong_hcm
Dc on tap_tu_tuong_hcmPhan Binh Minh
 
Dc on tap_tu_tuong_hcm
Dc on tap_tu_tuong_hcmDc on tap_tu_tuong_hcm
Dc on tap_tu_tuong_hcmPhan Binh Minh
 
Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930
Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930
Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930wormblack
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộcQuan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộcFørgët Løvë
 
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt namhanghpu
 
Chuong2.ttuong
Chuong2.ttuongChuong2.ttuong
Chuong2.ttuongmai_mai_yb
 
[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming
[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming
[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookboomingbookbooming
 
20 cau tu luan d.a
20 cau tu luan d.a20 cau tu luan d.a
20 cau tu luan d.aPhi Phi
 
Tu tuong hcm
Tu tuong hcmTu tuong hcm
Tu tuong hcmNhan Tan
 
Giáo trình tử tưởng hcm bộ giáo dục và đào tạo, lần 1
Giáo trình tử tưởng hcm  bộ giáo dục và đào tạo, lần 1Giáo trình tử tưởng hcm  bộ giáo dục và đào tạo, lần 1
Giáo trình tử tưởng hcm bộ giáo dục và đào tạo, lần 1Nam Cengroup
 

Similar to Tư tưởng HCM (20)

TIỂU LUẬN Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởn...
TIỂU LUẬN  Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởn...TIỂU LUẬN  Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởn...
TIỂU LUẬN Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởn...
 
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minhđề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
đề Cương và đáp án tham khảo môn tư tưởng hồ chí minh
 
Nguồn gốc tu tuong ho chi minh
Nguồn gốc tu tuong ho chi minhNguồn gốc tu tuong ho chi minh
Nguồn gốc tu tuong ho chi minh
 
Dc on tap_tu_tuong_hcm
Dc on tap_tu_tuong_hcmDc on tap_tu_tuong_hcm
Dc on tap_tu_tuong_hcm
 
Dc on tap_tu_tuong_hcm
Dc on tap_tu_tuong_hcmDc on tap_tu_tuong_hcm
Dc on tap_tu_tuong_hcm
 
Tu tuong
Tu tuongTu tuong
Tu tuong
 
Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930
Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930
Tu tuonghcm tu tuong hcm 1921 1930
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc - TẢI ...
 
Quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộcQuan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc
 
Thi
ThiThi
Thi
 
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
 
Chuong2.ttuong
Chuong2.ttuongChuong2.ttuong
Chuong2.ttuong
 
[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming
[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming
[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming
 
Chương 3.pptx
Chương 3.pptxChương 3.pptx
Chương 3.pptx
 
Bài 1
Bài 1Bài 1
Bài 1
 
20 cau tu luan d.a
20 cau tu luan d.a20 cau tu luan d.a
20 cau tu luan d.a
 
Tu tuong hcm
Tu tuong hcmTu tuong hcm
Tu tuong hcm
 
Tu tuong hcm
Tu tuong hcmTu tuong hcm
Tu tuong hcm
 
Tu tuong-hcm
Tu tuong-hcmTu tuong-hcm
Tu tuong-hcm
 
Giáo trình tử tưởng hcm bộ giáo dục và đào tạo, lần 1
Giáo trình tử tưởng hcm  bộ giáo dục và đào tạo, lần 1Giáo trình tử tưởng hcm  bộ giáo dục và đào tạo, lần 1
Giáo trình tử tưởng hcm bộ giáo dục và đào tạo, lần 1
 

Tư tưởng HCM

  • 1. Bài 2 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIẾN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI* I. VỊ TRÍ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - Con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, độc lập dân tộc bị xâm phạm, trong tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn trong thì sợ nhân dân, ngoài thì bạc nhược trước kẻ thù, lúc đầu có chống cự yếu ớt, sau đã từng bước nhân nhượng cầu hoà, cuối cùng là cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc. Năm 1883 và 1884, triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký các hàng ước với thực dân Pháp, nước ta bị đặt dưới ách thống trị của chúng. Mặc dầu bị đặt vào tình thế phải chống “cả triều lẫn Tây" nhưng nhân dân ta với tinh thần yêu nước nhiệt thành và chí căm thù giặc sôi sục đã dấy lên phong trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ và lan rộng trong cả nước: từ Trương Định, Nguyễn Trung Trực… ở miền Nam; Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng... ở miền Trung đến Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Quang Bích… ở miền Bắc. Nhưng các cuộc khởi nghĩa này đều bị thất bại vì chưa có một đường lối kháng chiến đúng đắn; lãnh đạo khởi nghĩa là các sĩ phu văn thân với ý thức hệ phong kiến mang nặng tư tưởng tôn quân. Sang đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta chuyển sang xu hướng dân chủ tư sản. Tiêu biểu cho xu hướng này có các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục hội... Các phong trào này chưa lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, tư tưởng dân chủ tư sản chưa có cơ sở xã hội vững chắc. Do vậy phong trào chỉ rộ lên được một thời gian ngắn rồi lần lượt bị đàn áp và thất bại. Khi phong trào chống sưu thuế ở Huế và các tỉnh miền Trung, trong đó có Hồ Chí Minh tham gia bị đàn áp (1908) cũng là lúc các phong trào yêu nước chống Pháp ở thời điểm cực kỳ khó khăn, bế tắc. Đứng trước cuộc khủng hoảng con đường cứu nước, Hồ Chí Minh xác định: “Tôi muốn đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”(1) . Đầu tháng 6-1911, Hồ Chí Minh xuống làm phụ bếp trên chiếc tàu Pháp mang tên Amiran Latusơ Tơrêvin của hãng Năm Sao đang cập bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn). Ngày 5-6-1911, con tàu rời Sài Gòn đi Pháp, Hồ Chí Minh bắt đầu một cuộc hành trình lịch sử - đi tìm con đường cứu nước, con đường giải phóng. Xuất phát từ lòng yêu nước ra đi tìm đường cứu nước, trải qua gần 10 năm đầy gian truân và thử thách, Hồ Chí Minh đã đi khắp các châu lục khảo sát nhiều nước thuộc địa và các nước tư bản phát triển Mỹ, Anh, Pháp... Người nhận rõ: chủ nghĩa đế quốc là một hệ thống thế giới, chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa vào hùa với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ yếu trong hệ thống thuộc địa của chúng. Mỗi thuộc địa là một mắt khâu của chủ nghĩa đế quốc, do vậy cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi nước chỉ tiến hành riêng rẽ thì không thể giành thắng lợi.
  • 2. Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh về Pari, thủ đô nước Pháp, một trung tâm văn hoá khoa học và cách mạng của châu Âu. Hồ Chí Minh hoạt động trong phong trào công nhân Pari, đến với phái tả của cách mạng Pháp, gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng bênh vực các thuộc địa. Năm 1919, nhân danh những người yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh gửi tới Hội nghị hoà bình Vécxây bản Yêu sách của nhân dân An Nam đối các quyền tự do, dân chủ tối thiểu cho Việt Nam. Yêu sách đó không được chấp nhận. Người đã rút ra bài học “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình”. Hồ Chí Minh nghiên cứu những cuộc cách mạng xã hội lớn trên thế giới. Với cách mạng giải phóng dân tộc năm 1776 của Mỹ và cách mạng nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789, Người rút ra kết luận: cách mạng Pháp và cách mạng Mỹ là cách mạng tư sản, cách mạng không đến nơi, không giải phóng những người lao động mà lại đi áp bức các dân tộc khác. Cách mạng Việt Nam không thể đi theo con đường đó. Đầu tháng Mười năm 1917, cách mạng vô sản Nga thành công. Tháng 3 năm 1919, Lênin sáng lập Quốc tế Cộng sản. Rồi nhà nước Xôviết chiến thắng cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc. Từ năm 1920 tiếng vang và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười lan rộng ra châu Âu và toàn thế giới. Nghiên cứu Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, Hồ Chí Minh nhận rõ: chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga mới thành công đến nơi, mang lại tự do bình đẳng thật cho tất cả nhân dân lao động và giúp đỡ giải phóng các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh đi đến kết luận: Cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga - con đường cách mạng vô sản. Tháng 7-1920, Người đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báoL’Humanité. Luận cương của Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tìm ra “cái cẩm nang thần kỳ cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc” - con đường giải phóng dân tộc theo quỹ đạo cách mạng vô sản. Con đường đó được Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng trong những văn kiện thông qua tại Hội nghị hợp nhất ngày 3- 2-1930 “làm tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh để đi tới xã hội cộng sản”. Sự xác định trên đây của Hồ Chí Minh là một sáng tạo lớn về con đường cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó là con đường giải phóng dân tộc một cách triệt để, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là kết quả tất yếu quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Đây là sự lựa chọn duy nhất đúng, phù hợp với đòi hỏi và nguyện vọng của dân tộc, nhân dân Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. 2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - nội dung cốt lõi xuyên suốt toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh Độc lập dân lộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người cộng sản cho đến khi trở thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ các bài viết của Người chỉ có một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách tập trung những luận điểm sáng tạo lớn về lý luận của Hồ Chí Minh. Những luận điểm đó có giá trị lâu dài chỉ đạo đường lối cách mạng Việt Nam và đóng
  • 3. góp quan trọng vào việc phát triển lý luận về cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”(2) . Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự phản ánh chính xác mục đích, lý tưởng, khát vọng và ham muốn tột bậc của danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh: nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội phản ánh tính triệt để cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người ở mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng. II- NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với tiến lên chủ nghĩa xã hội 1.1. Độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách. Kết luận này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu thuẫn khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến. Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến. Với dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động. Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ được thể hiện: - Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp công nhân lãnh đạo.
  • 4. - Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. - Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối quần chúng công - nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ, đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được hình thành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất với con đường cứu nước những năm đầu thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới. Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai trò lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là toàn dân Việt Nam yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức. Những nhân tố này lại quy định tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc cách mạng đó. 1.2. Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình cách mạng. Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn cách mạng không có bức tường ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc. Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt để: độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều kiện để hiện thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.
  • 5. Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột; công bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi; một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong đó người với người là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người được phát triển hết khả năng của mình; hòa bình hữu nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực phát triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Với các thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận động liên tục, tự bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân. Trên phạm vi quốc tế, chủ nghĩa xã hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm phát triển đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; mặt khác chủ nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế và ngăn chặn các cuộc chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân tộc này đi áp bức dân tộc khác. Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng có điều kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng phòng thủ. Không có một chế độ xã hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo vệ. Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để. 2. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong quá trình cách mạng Việt Nam Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Nhưng để hiện thực hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Minh cần phải có những điều kiện cơ bản sau đây: Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng sản đánh mất vai trò lãnh đạo thì chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị phản bội và hoàn toàn chệch hướng. Thực tiễn ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng tỏ điều đó. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, với tư cách là điều kiện cơ bản bảo đảm để độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
  • 6. - Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của dân tộc phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. - Lãnh đạo xã hội, trước hết là lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi cương lĩnh độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng cách thông qua tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình. - Thông qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh đạo công tác kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo toàn dân giành độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch, vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện xây dựng Đảng về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ bao giờ cũng là vấn đề cốt tử. Hai là, xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc. Quan niệm của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá trình thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết sức sáng tạo. Người xác định: công - nông là gốc, là chủ lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội Người đòi hỏi công nông trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa đều cần đến và không thể thiếu được Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh công - nông và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân là mối quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn có những chủ trương, đường lối và biện pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà bình dân chủ trên thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam Tháng Tám 1945, trong những năm chống Pháp, chống Mỹ, trong thời kỳ hoà bình, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế. Ba nhân tố nêu trên gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”(3) . Như vậy, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó chỉ được hiện thực hoá khi gắn liền với những điều kiện bảo đảm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. 3. Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển ở thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Tư tưởng đó hình thành ở Hồ Chí Minh từ đầu
  • 7. những năm 20 và đến mùa xuân năm 1930 với sự kiện Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã thành ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam liên tục giành những thắng lợi lịch sử suốt hơn 70 năm qua. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trên thực tế, có thể chia ra làm ba thời kỳ. 3.1. Thời kỳ 1930-1945: ở thời kỳ này tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện qua những hoạt động lý luận và thực tế chủ yếu sau đây của Hồ Chí Minh: - Xác định tính chất cách mạng Việt Nam: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, nhân dân lao động, với toàn thể dân tộc bị nô lệ dưới ách đế quốc Pháp và tay sai của chúng; xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng Việt Nam “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Con đường cách mạng Việt Nam được Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. - Xác định đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là đế quốc xâm lược, phong kiến tay sai, tầng lớp tư sản và địa chủ chống lại độc lập dân tộc. - Xác định rõ lực lượng cách mạng Việt Nam là toàn thể nhân dân, bao gồm công nhân, nông dân, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ, các cá nhân yêu nước, trong đó nòng cốt là liên minh công - nông. Lực lượng cách mạng hùng hậu này được tập hợp dưới ngọn cờ giải phóng dân tộc do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. - Xác định đúng đắn cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, có mối quan hệ khăng khít với cách mạng vô sản “chính quốc”, cách mạng giải phóng dân tộc có tính chủ động, có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản “chính quốc", tác động tích cực tới cách mạng “chính quốc". Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã giành thắng lợi. Đó là thắng lợi lịch sử đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. 3.2. Thời kỳ 1945-1954: thời kỳ bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, thực hiện “kháng chiến và kiến quốc”. Ở thời kỳ này Hồ Chí Minh tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm lý luận về con đường cách mạng Việt Nam. Nội hàm khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chế độ dân chủ mới đã được Hồ Chí Minh làm rõ bằng cách xác định mục tiêu, động lực, các điều kiện bảo đảm thắng lợi của từng giai đoạn cách mạng, trong mỗi giai đoạn đều kết hợp giải quyết các nhiệm vụ dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tạo tiền đề đẩy cách mạng phát triển lên giai đoạn cao hơn nhưng cũng khó khăn phức tạp hơn. Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh kiên trì quan điểm phát huy cao độ ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đi đôi với ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế. Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam ở thời kỳ này là Người đã đề ra và thực thi nhất quán đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”. Đường lối đó phù hợp với quy luật phát triển lịch sử dân tộc: dựng nước đi đôi với giữ nước, bảo vệ độc lập của Tổ quốc và xây dựng từng bước chế độ mới.
  • 8. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo, Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo phương pháp “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc, phân hoá, cô lập kẻ thù, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ của quốc tế. Tài thao lược, bản lĩnh kiên cường, khả năng quyết đoán của Hồ Chí Minh dựa trên sự hiểu biết thấu đáo thực tiễn đất nước, quy luật và xu thế phát triển của dân tộc, thời đại, vững vàng lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi huy hoàng. 3.3. Thời kỳ 1954-1975: thời kỳ Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở thời kỳ này sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh thể hiện tập trung trong việc xây dựng và chỉ đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm, tư tưởng nêu trên được thể hiện ở các nội dung chính sau đây: - Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn thành công mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Trong mối quan hệ này, Hồ Chí Minh xác định rất rõ vị trí, vai trò nhiệm vụ cách mạng từng miền và tác động lẫn nhau của chúng. Về thực chất, đây là sự cụ thể hoá nội dung con đường cách mạng vô sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Hồ Chí Minh đã đề xuất và kiên trì bảo vệ. - Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn chỉnh và phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc, xác định rõ kẻ thù số một mà dân tộc ta cần tập trung mọi lực lượng để đánh đổ là đế quốc Mỹ. Hồ Chí Minh nêu tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập tự do” thể hiện ý chí, quyết tâm lớn lao của cả dân tộc trong việc bảo vệ giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Về tập hợp lực lượng, Hồ Chí Minh có những quan niệm và cách làm sáng tạo, trên cơ sở đánh giá đúng vị trí, vai trò của chiến lược đại đoàn kết trong chiến tranh cách mạng. Hồ Chí Minh đã xây dựng cho cách mạng Việt Nam cái nền sức mạnh của “ba tầng mặt trận”: Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam chống Mỹ, cứu nước; Mặt trận ba nước Đông Dương cùng chống Mỹ; Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ. Sức mạnh của “ba tầng mặt trận" đã tạo cho cách mạng Việt Nam trở thành vô địch. - Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xây dựng một quan niệm tương đối hoàn chỉnh, thống nhất về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan niệm của Hồ Chí Minh chủ nghĩa xã hội mang tính hệ thống, có nhiều nội dung phát triển sáng tạo, nhưng vẫn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã làm rõ đặc điểm lớn nhất của Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi một nước. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn khoa học về những cách thức, phương thức, biện pháp, bước đi thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Biến đau thương thành hành động cách mạng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quán triệt sâu sắc quan điểm của Người tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc. Thông qua chiến dịch mang tên Hồ Chí Minh, sự nghiệp cách mạng đó đã giành thắng lợi trọn vẹn vào ngày 30-4-1975. III- VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
  • 9. 1. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV - đại hội thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định: "Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua đã khẳng định trong thời kỳ đổi mới: "Toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau”. Hiện nay, cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn đang tiếp diễn. Đảng ta khẳng định: "Trong giai đoạn đổi mới, phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”(4) . Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong quan hệ quốc tế phức tạp, chằng chéo như hiện nay, để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta, đòi hỏi phải có nhận thức sâu sắc các yếu tố tác động đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh lạnh trên thế giới kết thúc, hoà bình, hợp tác phát triển là xu thế chung, nhưng cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp, gay gắt. Nguy cơ xung đột vũ trang và chiến tranh cục bộ vẫn chưa bị loại trừ; mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ nổ ra ở nhiều nơi và gây mất ổn định nhiều khu vực. Chủ nghĩa đế quốc đang lợi dụng ưu thế về kinh tế và kỹ thuật, nhân danh chống khủng bố, để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” can thiệp vào công việc nội bộ các nước, buộc các nước xã hội chủ nghĩa, các nước đang phát triển đi vào quỹ đạo của chúng. Hiện nay giao lưu kinh tế, giao lưu văn hoá giữa các dân tộc tăng lên. Trong khi giao lưu văn hoá phát triển mạnh mẽ, thì các nước đang phát triển cũng đứng trước sự “xâm lăng văn hoá” từ phía các nước đế quốc. Trong bối cảnh hiện nay, quan niệm về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải được chú ý toàn diện từ độc lập về lãnh thổ, về chủ quyền an ninh quốc gia đến độc lập, tự do về kinh tế, chính trị, văn hóa, lối sống và đạo đức xã hội. Không thể có và không thể chấp nhận quan niệm nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia. Việc rêu rao nhân quyền của các nước tư bản, trước hết là Mỹ, thực chất là một hình thức mỵ dân, lấy cớ nhân quyền đề can thiệp vào công việc nội bộ nước khác. Không thể có độc lập tự do về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Không thể giữ vững độc lập tự chủ nếu lối sống, đạo đức xã hội bị suy thoái, văn hoá dân tộc bị coi rẻ hoặc bị biến dạng. Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược hiện nay cần chú ý một số nguyên tắc có tính chất phương pháp luận: - Xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trước hết phải bằng nguồn nội lực của đất nước, không lệ thuộc vào bên ngoài, nhưng phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi để gia tăng nguồn lực phát triển quốc gia. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược. - Trên cơ sở nhận thức toàn cầu hoá, khu vực hoá và kinh tế là một tất yếu khách quan, từ đó xác định rõ các bước đi và chủ động hội nhập phù hợp với năng lực của đất nước. Hội nhập phải làm tăng sức mạnh đất nước và làm giàu bản sắc dân tộc.
  • 10. - Độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội phải được thể hiện trong suốt quá trình cách mạng trên mọi lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong tiến trình đổi mới Ngày nay, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có thể có được nếu Đảng và nhân dân ta giải quyết thành công hàng loạt vấn đề trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, đối nội và đối ngoại theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trung thành với con đường Hồ Chí Minh đã vạch ra. Đảng ta khẳng định trong bất kỳ tình huống nào, cũng phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đề phòng và chống nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, đang xuất hiện nhiều vấn đề lý luận nằm trong tổng thể quan niệm chung về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhu cầu phát triển đất nước đang đặt ra, đòi lại phải nhận diện và hiểu biết về chủ nghĩa xã hội vừa mang tính tổng thể, vừa trong những chi tiết, đường nét cụ thể. Do vậy, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết cần làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau: - Cả trong lý luận và thực tiễn cần khẳng định vấn đề định hướng đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội là duy nhất đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của dân tộc và xu thế thời đại. - Làm rõ và cụ thể hoá mục tiêu của đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội, trước hết là ở mục tiêu mang đậm bản chất nhân văn này. - Xác định rõ bản chất đặc trưng và mô hình cấu trúc của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. - Làm rõ các động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, trong đó động lực con người với nhu cầu và lợi ích của họ giữ vị trí trung tâm. Mặt khác việc phát hiện động lực, có chính sách phát huy và kết hợp các động lực phát triển sẽ làm cho chủ nghĩa xã hội sinh động, năng động và mang tính thực tiễn. - Xác định rõ bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới hiện nay con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đang bị chi phối, tác động mạnh mẽ của rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan; thách thức rất lớn, nhưng cũng rất nhiều thời cơ, vận hội. Trên cơ sở quan niệm đúng đắn của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lại có kinh nghiệm thực tiễn hơn 70 năm qua, đặc biệt là thực tiễn của gần 20 năm đổi mới, cho phép chúng ta hiểu được thực chất con đường độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay. Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội là nhu cầu sống còn, là sự lựa chọn duy nhất đúng của Việt Nam. Bài 3 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN ĐẢNG CẦM QUYỀN*
  • 11. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nạm bao gồm nhiều nội dung rất phong phú. Trong khuôn khổ của chương trình lý luận cao cấp, chúng tôi đi sâu vào chuyên đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện Đảng cầm quyền". I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - ĐẢNG DUY NHẤT LÃNH ĐẠO XÃ HỘI 1. Vấn đề Đảng cầm quyền ở Việt Nam Trong đời sống chính trị thế giới hiện đại, chế độ chính trị ở đa số các nước liên quan đến hoạt động của các đảng chính trị, nhất là đảng cầm quyền. Khái niệm “đảng cầm quyền” ở trên thế giới dùng để chỉ đảng nào giành được đa số ghế trong nghị viện. Một số nước còn quy định nếu đảng nào chiếm được 2/3 số ghế trong Nghị viện, thì đảng đó có quyền sửa đối hiến pháp. Đảng cầm quyền có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hệ thống quyền lực của nhà nước. Sau khi đã chiếm được đa số ghế trong nghị viện, đảng cầm quyền có quyền đứng ra lập chính phủ và mọi hoạt động của chính phủ đều phải tuân thủ ý chí và nguyện vọng của đảng cầm quyền. Trong trường hợp không có một đảng nào chiếm được đa số ghế trong nghị viện thì sẽ lập nên chính phủ liên minh nhiều đảng. Những đảng không cầm quyền trở thành đảng đối lập trong nghị viện. Như vậy, khái niệm "đảng cầm quyền” ở trên thế giới gắn với thể chế hoạt động của các đảng nghị viện, liên quan trực tiếp đến việc nắm cơ quan hành pháp. Ở nước ta, vấn đề đảng cầm quyền không như vậy. Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là đảng nghị viện. Nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng ta là đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc, Người khẳng định một lần nữa: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân"(1) . "Đảng cầm quyền” ở nước ta không những chỉ là đảng lãnh đạo chính quyền mà còn là đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và lãnh đạo toàn xã hội. Điều này, đã được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Điều đó còn được thể chế hoá và được thể hiện bằng các văn bản khác của Nhà nước ta, đặc biệt là đã được thể hiện trong thực tế. Nhân dân ta, trên thực tế, đã thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng việc xác định đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng việc tổ chức, triển khai thực hiện đường lối, chủ trương đưa đất nước phát triển kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng hệ thống tổ chức của mình trong hệ thống chính trị và bằng hành động thực tế tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua công tác kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương đó. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đầu năm 1930, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) do thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Từ đó cho đến nay, có lúc xã hội Việt Nam tồn tại nhiều đảng nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn luôn là đảng có vai trò lãnh đạo xã hội. Từ năm 1988 trở đi, khi hai đảng: Đảng Xã hội và Đảng Dân chủ đã tự giải thể thì xã hội Việt Nam chỉ còn một đảng duy nhất và tiếp tục đóng vai trò lãnh đạo, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là sự tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một Đảng Cộng sản cầm quyền. 2. Đảng lãnh đạo chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội
  • 12. Trong vai trò của đảng cầm quyền, vấn đề Đảng lãnh đạo chính quyền được Hồ Chí Minh coi là một nguyên tắc để bảo đảm nhà nước là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Những quan điểm chủ yếu sau đây của Hồ Chí Minh thể hiện nguyên tắc đó: Một là, bảo đảm cho nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Trong xây dựng nhà nước, Hồ Chí Minh coi tính chất giai cấp của nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1959 ghi rõ: “Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”(2) .Quan điểm của Hồ Chí Minh là nhân dân lao động làm chủ nhà nước do giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hai là, Đảng lãnh đạo chính quyền cần phải chú ý bảo đảm cho bộ máy chính quyền cũng như cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh chú trọng việc Đảng cầm quyền phải xây dựng chính quyền thật sự trong sạch vững mạnh. Người nhấn mạnh những yêu cầu về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Trong bức thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, tháng 10-1945, Người viết: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”(3) . Hồ Chí Minh đặc biệt nhắc nhở các cấp chính quyền khắc phục những căn bệnh, nhất là quan liêu, lãng phí, tham ô và những tiêu cực khác mà Người gọi đó là “giặc nội xâm”. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Đảng đã cử nhiều đảng viên sang hoạt động trong các cơ quan nhà nước, trong đó nhiều người giữ những trọng trách. Hồ Chí Minh phê bình một số cán bộ, đảng viên cậy thế mình là người của tổ chức đảng để phớt lờ cả kỷ luật trong các cơ quan nhà nước. Người cho rằng, đảng viên không những phải chấp hành Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng mà còn thải phục tùng Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Đòi hỏi đầu tiên đối với Đảng cầm quyền là phải đề ra được đường lối, chủ trương đúng đắn. Đường lối đó phải được thể chế hoá bằng Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước. Khi đề cập vấn đề nhà nước thì điều quan trọng là quyền lực thuộc về ai. Nhà nước kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là bộ máy thể hiện quyền lực của nhân dân lao động. Nhà nước phát huy dân chủ để động viên tất cả lực lượng của nhân dân vào tham gia sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức Đảng trong bộ máy Nhà nước bằng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức đó. Về mặt chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước có khác nhau. Do đó, cần phải phân biệt vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Nhưng một đặc điểm của nước ta từ năm 1945 cho đến năm 1975 là hệ thống chính trị chủ yếu dồn sức cho kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Trong điều kiện ấy, vai trò quản lý toàn diện của Nhà nước chưa được thể hiện rõ nét. Vì vậy, có thể nói trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có một phương thức bất biến về
  • 13. sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền. Trong điều kiện hiện nay chúng ta cần vận dụng sáng tạo quan điểm Hồ Chí Minh tìm ra phương thức lãnh đạo thích hợp với từng thời kỳ. Văn kiện Đại hội IX chỉ rõ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội là một nội dung trọng yếu nhằm qua cách mạng nước ta phát triển, trong đó: nhấn mạnh lãnh đạo thông qua việc "đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn định hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước”(4) . “Kiện toàn hệ thống tổ chức đảng gắn với cải cách đổi mới tổ chức, bộ máy của các cơ quan nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội"(5) . Một chức năng rất quan trọng của Đảng cầm quyền là lãnh đạo mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội. Sự nghiệp cách mạng không phải là sự nghiệp của vài người, của vài cá nhân anh hùng nào mà là sự nghiệp của toàn dân, có tổ chức được tập hợp trong mặt trận. Tổ chức mặt trận là tổ chức liên minh chính trị, là tổ chức tự nguyện của các đoàn thể, các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo. Năm 1939, Hồ Chí Minh cho rằng, “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo"(6) . Trong điều kiện Đảng cầm quyền, theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì với tư cách là tổ chức chính trị cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra đường lối, chủ trương và vận dụng thuyết phục các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tham gia các phong trào cách mạng biến chủ trương, đường lối thành hiện thực. 3. Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân trong điều kiện Đảng cầm quyền Quyền lực của Đảng không tự nhiên mà có. Quyền lực ấy là của nhân dân; nhân dân ủy thác cho Đảng đứng ra lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cơ sở xã hội của Đảng không chỉ là giai cấp công nhân mà còn là toàn thể nhân dân lao động. Trong giai đoạn cầm quyền, các tổ chức đảng đóng vai trò lãnh đạo một cách toàn diện; cán bộ, đảng viên thường giữ chức vụ trong Đảng hoặc trong các tổ chức khác của hệ thống chính trị. Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên chớ xa dân, chớ “vác mặt quan cách mạng” để làm hại dân. Trong quan hệ với dân ở giai đoạn cầm quyền, theo Hồ Chí Minh, Đảng ta phải chú ý những vấn đề sau đây: - Phải luôn luôn lắng nghe ý kiến nhân dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân để xây dựng chế độ mới. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò, sức mạnh của nhân dân nói chung và trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng. Đảng cầm quyền phải thường xuyên lấy nguồn gốc sức mạnh từ nhân dân. - Thường xuyên vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Đây là đòi hỏi sống còn của công tác xây dựng Đảng trong điều kiện xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh lưu ý việc vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng bằng nhiều hình thức: đóng góp ý kiến cho Đảng, nhất là trong việc xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng; tích cực thực hiện đường lối chủ trương đó trong cuộc sống; kiểm tra cán bộ đảng viên; giới thiệu những người ưu tú để Đảng kết nạp vào hàng ngũ của mình,...
  • 14. - Nâng cao dân trí. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Đảng không thể gọi là Đảng của trí tuệ khi nền dân trí thấp. Theo Hồ Chí Minh, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, dốt là một thứ giặc nguy hiểm cần phải chống. Vì vậy, việc nâng cao dân trí là trách nhiệm của Đảng. - Đảng không được theo đuôi quần chúng. Đảng phải thường xuyên tuyên truyền giác ngộ quần chúng, làm cho dân dân giác ngộ cách mạng sẵn sàng đem sức mình thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. - Đảng phải xác định rõ trách nhiệm của mình: vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. II- TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH 1. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động Mục tiêu của cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân ta phấn đấu để đạt tới là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trên con đường để đạt mục tiêu đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng Cộng sản cầm quyền là lãnh tạo toàn thể nhân dân xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học chính là sự định hướng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh việc Đảng Cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Ở Hồ Chí Minh, việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội nói riêng, rất sáng tạo. Đó cũng là điều mà Hồ Chí Minh thường xuyên đòi hỏi Đảng ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh tuân thủ sự chỉ dẫn của các vị sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học, rằng học thuyết của các ông không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động. Lênin khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng, những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đứckhông giống ở Nga"(7) . Hồ Chí Minh lưu ý công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin phải phù hợp với đối tượng, với hoàn cảnh, vận dụng tránh giáo điều đồng thời tránh việc tuyệt đối hoá đặc điểm của từng dân tộc để xa rời các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành viên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cho nên việc cần thiết là học tập những kinh nghiệm tốt, những bài học hay, của các đảng cộng sản anh em, tránh những sai lầm, khuyết điểm mà các đảng đã mắc phải. Hồ Chí Minh cũng rất coi trọng việc Đảng ta phải thường xuyên tổng kết kinh nghiệm hoạt động của mình để bổ sung, làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác - Lênin, đấu tranh dưới nhiều hình thức để bảo vệ, làm trong sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, chống giáo điều, cơ hội, xét lại và mọi biểu hiện xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin.
  • 15. Thực tế trong thời gian qua đã chứng minh rằng, cả hai loại sai lầm: giáo điều và xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin đều dẫn tới sự tan rã của nhiều đảng cầm quyền, ngay cả đối với Đảng Cộng sản Liên Xô - một đảng do Lênin sáng lập, có nhiều kinh nghiệm trong hơn 70 năm cầm quyền. Không phải cứ nói nhiều, học thuộc, coi lý luận Mác - Lênin như là những công thức, như những “kinh thánh” thì mới là trung thành với học thuyết của các ông. Không phải cứ nói khác C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin là sáng tạo. Cũng không thể cứ "lắp ghép" nguyên lý của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học với cái mới hiện nay là có ngay sự kế thừa sáng tạo và nâng lý luận của các ông lên một tầm cao mới. Sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi đảng ta phải kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa ấy vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Mọi biểu hiện từ bỏ học thuyết cách mạng và khoa học này đều chỉ dẫn đến sự thất bại đối với sự nghiệp cách mạng nước ta và làm cho Đảng biến chất, không còn là Đảng Cộng sản nữa. 2. Thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ cao nhất của giai cấp công nhân. Vì vậy, Đảng phải tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt nhất định mà nếu vi phạm thì Đảng sẽ bị suy yếu và tan rã. Trong công tác xây dựng Đảng nói chung, xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền nói riêng, Hồ Chí Minh đề cập nhiều nguyên tắc. Những nguyên tắc đó đều xuất phát từ học thuyết Mác - Lênin về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Trong phạm vi của chương trình lý luận cao cấp, xin đề cập ba nguyên tắc. Một là, tập trung dân chủ. Trong học thuyết của Lênin về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản. Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc này và chỉ rõ tập trung và dân chủ gắn bó chặt chẽ với nhau. Mối quan hệ đó được Hồ Chí Minh diễn đạt bằng các vế sau đây: - “Tập trung trên nền tảng dân chủ”(8) . - “Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”(9) . Như vậy, chúng ta không được tách rời và càng không được đối lập hai vế của một nguyên tắc, không thể coi “tập trung” và “dân chủ” như lửa với nước như một số phần tử chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta rêu rao. Hồ Chí Minh xác định dân chủ là tạo mọi điều kiện cho tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến để đóng góp cho Đảng. Người nhấn mạnh: “Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả nhân viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải gom góp ý kiến của đảng viên để giúp đỡ Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt”(10) . Tập trung trong Đảng phải trên cơ sở của bảo đảm dân chủ, nghĩa là dân chủ càng tốt thì tập trung sẽ đúng hơn. Hồ Chí Minh quan niệm tập trung trong tổ chức và sinh hoạt Đảng theo đúng nguyên lý xây dựng Đảng của Lênin: thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương,... Người nhấn mạnh: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”(11) . Tập trung trong Đảng cũng có nghĩa là tất cả mọi Đảng viên phải tuyệt đối phục tùng nghị quyết của Đảng. Hai là, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Có lúc nguyên tắc này được Hồ Chí Minh gọi là “chế độ”. Theo Hồ Chí Minh “tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung.Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ cách tức là dân chủ tập trung”(12) .
  • 16. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phủ gắn chặt với nhau. Nguyên tắc này vừa chống lại bệnh độc đoán chuyên quyền, vừa chống lại sự dựa dẫm tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm. Độc đoán chuyên quyền là vi phạm dân chủ trong Đảng, dẫn đến những hậu quả khôn lường, phá hoại Đảng, đồng thời không dám chịu trách nhiệm sẽ làm tổ chức Đảng bị tê liệt, không còn sức chiến đấu, làm cho đường lối, chủ trương, nghị quyết của tổ chức Đảng chỉ nằm trên giấy, không biến thành hiện thực trong cuộc sống. Hồ Chí Minh giải thích tập thể lãnh đạo như sau: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm. Ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất giản đơn, chân lý của nó rất rõ rệt. Tục ngữ có câu: “Khôn bầy hơn khôn độc" là nghĩa đó(13) . Hồ Chí Minh giải thích về cá nhân phụ trách như sau: "Vì sao cần phải cá nhân phụ trách? Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách, thì sẽ sinh cái tệ người này ủy cho người kia, người kia ủy cho người nọ, quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong. Tục ngữ có câu: “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa" là như thế(14) . Theo Hồ Chí Minh, trong công tác xây dựng Đảng, không được phép vin vào “cá nhân phụ trách” để lấn át tập thể hoặc không phải việc gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người một lần có thể giải quyết được cũng đưa ra bàn. Nguyên tắc này, càng có ý nghĩa trong thời kỳ hiện nay, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, hình thành cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khi công tác xây dựng Đảng được coi là then chốt, xây dựng kinh tế là trung tâm, khi trách nhiệm của cá nhân và của tập thể tổ chức Đảng được phát huy tác dụng rõ rệt hơn bao giờ hết. Ba là, nguyên tắc tự phê bình và phê bình Hồ Chí Minh có nhiều cách gọi về tự phê bình và phê bình. Có lúc Người đặt phê bình lên trước tự phê bình, nhưng nhiều hơn cả là tự phê bình đặt trước phê bình. Có lúc Người gọi tự phê bình và phê bình là “luật” hoặc “quy luật phát triển” của Đảng, là “vũ khí sắc bén” trong công tác xây dựng Đảng. Xét về nội dung, chúng ta có
  • 17. thể coi vấn đề này có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng nói chung và trong giai đoạn Đảng cầm quyền nói riêng. Tại sao trong Đảng lại phải thường xuyên tự phê bình và phê bình? Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng ta bao gồm đủ các tầng lớp xã hội, có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại, song trong Đảng ta cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài lây ngấm vào Đảng. Đảng ta gồm những người có đức, có tài. Phần đông những người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết dũng cảm nhất đều ở trong Đảng ta. Tuy vậy, không phải là người người đều tốt, việc việc đều hay. Hồ Chí Minh còn cho rằng, người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm; mỗi con người đều có cái thiện với cái ác ở trong lòng. Do vậy, mục đích tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu bị mất dần đi, thang thuốc hay nhất là thiết thực tự phê bình và phê bình. Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình như người ta rửa mặt hàng ngày. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến thái độ tự phê bình và phê bình. Người đòi hỏi, tự phê bình và phê bình phải thẳng thắn, chân thành, nghĩa là không nể nang, không thêm bớt, “không giấu bệnh sợ thuốc". Đồng thời, phải “có tính đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Tự phê bình và phê bình trên tình đồng chí, cốt để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm chứ không phải để xoi mói, nói xấu nhau, “không phải đập cho tơi bời". Với thái độ tự phê bình và phê bình như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng mới luôn luôn trong sạch vững mạnh hơn. 3. Xây dựng và rèn luyện đội ngũ đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền Đội ngũ đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền có mặt ở tất cả các tổ chức của hệ thống chính trị và thường là có chức, có quyền. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng và rèn luyện đội ngũ đảng viên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới trên những vấn đề cơ bản sau đây: Một là, thường xuyên lựa chọn người ưu tú để kết nạp vào đội ngũ của Đảng. bảo đảm đội ngũ đảng viên trong sạch, vững mạnh. Trong việc kết nạp đảng viên, coi trọng chất lượng hơn số lượng, khắc phục tình trạng chủ nghĩa thành phần. Hai là, đội ngũ đảng viên phải luôn luôn giác ngộ cách mạng, tiền phong, gương mẫu, đi đầu trong mọi công tác. Hồ Chí Minh nhiều lần cho rằng: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, “tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạ”. Phải luôn luôn có “đảng tính”, tức là đảng viên hoạt động trong các tổ chức của chính quyền Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội phải thật sự gương mẫu để thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Ba là, đội ngũ đảng viên là những người suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp của Đảng và Tổ quốc, đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và trước hết. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới: xã hội xã hội chủ nghĩa, vấn đề hy sinh tính mạng không đặt ra thường xuyên nhưng lợi ích kinh tế đặt ra không kém phần gay gắt, vẫn đòi hỏi đảng viên phải hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích của Đảng. Bốn là, đảng viên phải có đời tư trong sáng, tức là đề cập đến đạo đức, lối sống, điều mà Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở. 4. Xây dựng đội ngũ cán bộ
  • 18. “Cán bộ” ở đây được quan niệm là cán bộ cách mạng trong điều kiện Đảng cầm quyền, mà thường số đông cán bộ là đảng viên. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, cho rằng: cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Những yêu cầu đối với cán bộ cách mạng được Hồ Chi Minh chỉ ra một cách cụ thể, tập trung trên những vấn đề chính sau đây: - Cán bộ phải là người tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng, không phải làm cán bộ để “thăng quan phát tài”, để làm “quan cách mạng”, mà để là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. - Người cán bộ trước hết phải có "đức". Phải vừa có đức vừa có tài nhưng đức là gốc. “Đức” ở đây là sự tổng hợp của rất nhiều yếu tố, nhưng Hồ Chí Minh nhấn mạnh người cán bộ phải là người không vi phạm khuyết điểm tham ô, lãng phí, quan liêu mà Người gọi những khuyết điểm đó là “giặc nội xâm”, loại giặc này còn nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người cán bộ, theo Hồ Chí Minh, phải là những người “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. - Cán bộ là người có năng lực tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí Minh coi người cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Đường lối, chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như của các đoàn thể chính trị - xã hội sẽ không biến thành hiện thực, sẽ chỉ nằm trên giấy khi không có những cán bộ có năng lực tổ chức triển khai thực hiên nó. - Cán bộ trong giai đoạn Đảng cầm quyền càng phải liên hệ mật thiết với nhân dân. Hồ Chí Minh phê phán nhiều cán bộ “vác mặt quan cách mệnh" để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”, “dán trên trán hai chữ cộng sản" để loè dân. - Cán bộ phải là người luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt: về lý luận Mác - Lênin, về nhận thức đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ. Việc học tập được Hồ Chí Minh nhấn mạnh là công việc thường xuyên, học mọi lúc mọi nơi, cả trên ghế nhà trường, tự học, học trong thực tế. - Cán bộ phải có phong cách công tác tốt, chống bệnh liêu, đại khái, phô trương hình thức cho oai, kiểu cách làm việc bàn giấy, “chỉ tay năm ngón”. Người cán bộ, theo Hồ Chí Minh, phải là người mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm, sâu sát, tỷ mỷ, kế hoạch thiết thực, kế hoạch chớ để cho oai, kế hoạch 10 phần biện pháp phải 20 phần, quyết tâm phải 30 phần. Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải năng động, sáng tạo chớ “đập đi, họ đứng", đừng để "đầy túi quần thông báo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc không tiến triển được. Để có được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của một Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc tới công tác cán bộ. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau đây: Một là, phải "hiểu và đánh giá đúng cán bộ". Đây là yêu cầu đầu tiên cần phải có đế tiến hành các công tác khác. Làm tốt yêu cầu này đòi hỏi phải công tâm, khách quan, có tiêu chí đánh giá phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng thời kỳ, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Hai là, phải "khéo dùng cán bộ", tức là bố trí cán bộ cho phù hợp để người cán bộ phát huy hết khả năng của mình. Hồ Chí Minh cho rằng: người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở, ta phải dùng chỗ hay và giúp họ sửa chữa chỗ dở. Dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được. Hồ Chí
  • 19. Minh phê bình: “Thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tùy tài mà dùng người thì hai người đều thành công”(15) . Khéo dùng cán bộ còn phải biết kết hợp cán bộ già, cán bộ trẻ, cán bộ tại chỗ với cán bộ do cấp trên điều về. Hồ Chí Minh đã phân tích rất rõ ưu điểm và nhược điểm của các loại cán bộ đó để sử dụng tốt. Khéo dùng cán bộ, theo Hồ Chí Minh, còn phải chú ý đề bạt, sử dụng người tốt, chớ dùng người hay nịnh hót mình mà bỏ những người chính trực. Ba là, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải chống chủ nghĩa địa phương cục bộ trong công tác cán bộ, tránh đầu óc bè phái, cánh hẩu, họ hàng. Vấn đề này càng cần phải chú ý trong điều kiện Đảng cầm quyền. Bốn là, phải chú ý phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện và đề bạt cán bộ. Các công việc này là những khâu liên hoàn nhưng khi đã đề bạt rồi thì phải kiểm tra, giám sát để giúp cán bộ phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm chứ không khoán trắng công việc cho họ. 5. Tăng cường công tác kiểm tra trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh coi trọng công tác kiểm tra trong xây dựng Đảng. Người cho rằng: khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra, nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích. Có tăng cường kiểm tra thì mới giữ nghiêm kỷ luật Đảng, mới bảo đảm cho đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng được thực hiện một cách đầy đủ và đúng đắn, mới bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực lượng to lớn của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ họ kịp thời. Hồ Chí Minh phê bình nhiều cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị nhưng họ không biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không bởi vì họ quên mất kiểm tra. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: nếu tổ chức việc kiểm tra chu đáo thì cũng như chúng ta đã có ngọn đèn pha, bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm, khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ; có thể nói rằng chín phần mười khuyết điểm trong công việc chúng ta là thiếu sự kiểm tra. Hồ Chí Minh cho rằng, nếu tổ chức kiểm tra được tiến hành chu đáo thì công việc của chúng ta nhất định tiến bộ gấp mười, gấp trăm. Trong công tác kiểm tra, Hồ Chí Minh lưu ý những vấn đề sau đây: - Công tác kiểm tra phải toàn diện: kiểm tra việc và kiểm tra người trong việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. - Kiểm tra phải kịp thời, khi đã có nghị quyết, thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị quyết ấy, phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân dân địa phương ấy. Có như thế mới kịp thời thấy rõ khuyết điểm và những khó khăn để sửa đổi các khuyết điểm và tìm cách vượt qua mọi khó khăn. - Kiểm tra phải chính xác, công minh, khách quan. Hồ Chí Minh cho rằng, kiểm tra không nên chỉ bằng việc căn cứ vào các tờ báo cáo mà phải đi đến tận nơi. Ở đây, cần phải nêu cao trách nhiệm của cán bộ làm công tác kiểm tra. Cán bộ kiểm tra phải là những người hiểu rõ đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng; có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; có đạo đức cách mạng; có ý thức tổ chức và kỷ luật; thật thà tự phê bình và phê bình,
  • 20. gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, phải chí công vô tư, không thành kiến, thiên vị. - Công tác kiểm tra đi liền với kỷ luật Đảng. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật tự giác, kỷ luật sắt, rất nghiêm, tất cả mọi đảng viên đều phải tuân theo. Tính chất kỷ luật bắt nguồn từ tính chất của Đảng, bởi vì Đảng ta bao gồm những người hăng hái, trung thành, ưu tú trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động tự nguyện tự giác đứng vào hàng ngũ của Đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh khuyên mọi người, nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng, sợ kỷ luật sắt của Đảng thì đừng vào Đảng hoặc khoan hãy vào Đảng. III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG VÀO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY Đại hội IX của Đảng năm 2001 tiếp tục khẳng định: nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn Đảng và nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế. Đại hội cũng chỉ ra những ưu điểm và những yếu kém, khuyết điểm của công tác xây dựng Đảng trong những năm qua, đồng thời quyết định những nhiệm vụ mới, trong đó nêu rõ: "Toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi cấp ủy mỗi chi bộ có kế hoạch định kỳ kiểm điểm việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng chống chủnghĩa cá nhân. Chống tư tưởng cơ hội, thực dụng”(16) . Trong những điều kiện mới, nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Đại hội IX cũng như thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII càng cấp thiết hơn. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Những quan điểm của Người vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp đổi mới nói chung, với việc xây dựng chỉnh đốn Đảng nói riêng. Trước hết, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh phải thể hiện ở việc xây dựng Đảng về chính trị mà biểu hiện rõ nhất là Đảng phải đề ra được đường lối đúng đắn, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị. Đường lối của Đảng phải dựa trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời còn dài trên cơ sở thực tiễn của đất nước trong từng thời kỳ và đường lối đó phải có khả năng thực thi. Hơn bao giờ hết trong sự nghiệp đổi mới, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh càng phải được nhận thức một cách sâu sắc để vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay. Tình hình thực tế thật vô cùng phong phú, nhất là trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi Đảng phải luôn luôn tổng kết để hoạch định đường lối một cách đúng đắn. Sai lầm về đường lối là một sai lần nguy hiểm nhất đối với một Đảng cộng sản cầm quyền. Thứ hai, sức mạnh của một đảng chính trị và của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền còn ở lĩnh vực tư tưởng. Vì thế, xây dựng Đảng ta về tư tưởng vẫn luôn luôn là vấn đề cấp thiết đặt ra. Đảng ta phải là một khối thống nhất về tư tưởng và hành động. Toàn Đảng, từ Trung ương đến cơ sở, mọi cán bộ, đảng viên phải kiên định lập trường, không hoang mang, dao động, phải kiên trì mục tiêu và lý tưởng của mình. Là người cộng sản, là lãnh tụ của Đảng ta, trải qua nhiều cam go, thử thách nghiệt ngã, Hồ Chí Minh đã dày công giáo dục, rèn luyện cho mỗi đảng viên và toàn Đảng thấm nhuần lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Hiện nay, đứng trước thời cơ và thách thức mới, Đảng cần tiếp tục nên định lập trường nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm lãnh đạo đất nước thực hiện thành công xây dựng chủ nghĩa xã hội đáp ứng lòng mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
  • 21. Thứ ba, Đảng mạnh là do tổ chức mạnh. Xây dựng Đảng ta vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại diện trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc đòi hỏi phải tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, chỉnh đốn đảng hiện nay còn yêu cầu Đảng phải lãnh đạo cuộc đấu tranh đề phòng và khắc phục những nguy cơ của Đảng cầm quyền: quan liêu, tham nhũng…; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo của mình đối với Nhà nước và các đoàn thể để vừa bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị, vừa phát huy được vai trò quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn phải, bằng hành động thực tế, thể hiện vai trò cực kỳ quan trọng của Đảng trong đời sống xã hội như chính bản thân Hồ Chí Minh đã xác định một cách nhất quán trong cả cuộc đời hoạt động của mình. Càng trong cơ chế thị trường, càng cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, bởi vì sự lãnh đạo đúng đắn cua Đảng là nhân tố quyết định cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cần gắn bó chặt chẽ hơn nữa công tác xây dựng đảng với việc phát triển kinh tế theo quan điểm phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930, là lãnh tụ của Đảng và của dân tộc. Tư tưởng của Người về xây dựng Đảng vẫn là ngọn đèn dẫn dắt Đảng ta trong sự nghiệp đấu tranh cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Bài 4 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT* I. TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1. Đại đoàn kết - một tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam Do những điều kiện về địa lý tự nhiên, do nằm ở vị trí chiến lược nên lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là lịch sử của quá trình chống thiên tai, địch hoạ. Chính những cuộc đấu tranh đó đòi hỏi cộng đồng dân tộc phải sát cánh, đoàn kết, chụm lại với nhau. Tính tất yếu khách quan đòi hỏi dân tộc Việt Nam phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối còn xuất phát từ chủ trương, chính sách nhất quán của các thế lực xâm lược. Việt Nam là một nước đất không rộng, người không đông nhưng luôn phải đương đầu với các thế lực xâm lược hùng mạnh, các đế quốc to. Những thế lực này dù từ đâu đến, đến vào thời kỳ nào đều thực thi chủ trương, thủ đoạn “chia để trị”. Trong Bản án chế độ thực dân Pháp, Hồ Chí Minh vạch rõ: “Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngôn “chia để trị” của nó. Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói đã bị chia năm sẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt ấy, người ta hy vọng phá vỡ tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau. Sau khi đẩy họ chống lại nhau người ta lại ghép một cách
  • 22. giả tạo các thành phần ấy lại, lập nên một “Liên bang” gọi là “Liên bang Đông Dương”. Trong điều kiện đó, để tồn tại và phát triển, người Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác đều nhắc nhở, đòi hỏi lẫn nhau: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Quá trình dựng nước và giữ nước đã hình thành nên truyền thống đoàn kết Việt Nam. Truyền thống đó trở thành nguồn gốc làm nên sức mạnh của cộng đồng người Việt và trỗi dậy mạnh mẽ đặc biệt mỗi khi đất nước bị hoạ xâm lăng. Lịch sử chỉ ra rằng, khi nào dân tộc bị chia rẽ, bè phái thì đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, suy yếu và bị thôn tính. Trong thời đại ngày nay, khi mà chủ nghĩa đế quốc đã liên kết với nhau trên phạm vi thế giới, khi mà mỗi vấn đề dù lớn hay nhỏ của một quốc gia đều có ảnh hưởng, tác động đến các quốc gia khác, thì tư tưởng đại đoàn kết lại càng phải được phát huy để tạo ra nguồn lực đủ sức chống sự tha hoá từ bên ngoài tràn vào, giữ vững và phát huy bản sắc dân tộc mà vẫn tiếp thu được trí tuệ tinh hoa văn hóa nhân loại. Mặt khác, thế giới đang có những biến chuyển lớn theo hướng đa phương và song phương, hội nhập và phát triển. Đó là những yếu tố khách quan mang tính thời đại, bởi vậy sự liên kết giữa các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới là một tất yếu lịch sử. Cách mạng Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Vấn đề là chúng phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa tiềm năng sức mạnh dân tộc với sự vận động của quốc tế để không bỏ lỡ, không đánh mất thời cơ hội nhập phát triển, nhưng cũng không bị hoà tan, không lệ thuộc vào bên ngoài. Đối với Việt Nam, ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đã nói: Việt Nam mong muốn được làm bạn với tất cả các nước dân chủ trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Tư tưởng chiến lược mang tính thời đại đó đã quy tụ được sức mạnh của nhân loại giúp chúng ta giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Ngày nay, tư tưởng đó đang được Đảng Cộng sản Việt Nam quán triệt và vận dụng phù hợp với tình hình, điều kiện mới ở trong nước và quốc tế. 2. Đại đoàn kết - một nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng và lực lượng đó phải đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù, xây dựng thành công xã hội mới. Trong thời đại mới, kẻ thù của cách mạng mang tính quốc tế, cách mạng mỗi nước là một bộ phận hữu cơ của cách mạng thế giới. Trong điều kiện đó, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng mạnh mẽ ở trong nước, đồng thời phải có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của cộng đồng quốc tế. Cũng theo Hồ Chí Minh, muốn có lực lượng phải thực hành đoàn kết vì “đoàn kết là lực lượng”. Bởi vậy trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết là vấn đề chiến lược, có ý nghĩa sống còn lâu dài, quyết định thành bại của cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ rõ, đoàn kết trong đảng, đoàn kết dân tộc kết hợp chặt chẽ với đoàn kết quốc tế, tạo ra sức mạnh to lớn, vượt trội là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để thực hiện đại đoàn kết điều căn bản là phân biệt rõ bạn và thù. Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở những người cách mạng: chủ nghĩa Mác - Lênin dạy chúng ta rằng, muốn làm cách mạng thắng lợi phải phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, phải biết thêm bầu bạn, bớt kẻ thù. Nhận thức này có từ rất sớm ở Hồ Chí Minh. Đầu thế kỷ XX, trong khi nhiều người Việt Nam căm thù thực dân Pháp cho rằng, những người Pháp, người da trắng là kẻ thù, hoặc